Thế giới trong mắt ai

Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là vietnamtoquoctoi.jpg

THẾ GIỚI TRONG MẮT AI

“Đi đâu cũng không bằng Tổ quốc mình. Nói gì, làm gì cũng không bằng dạy, học và làm cho đồng bào đất nước mình. Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương. Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc. Dạy và học thực tiễn trên chính Tổ quốc mình”. Đêm trắng và bình minh Hoàng Kim lời tâm đắc. Thế giới trong mắt ai, chúng ta trầm tĩnh theo dõi thế giới chuyển biến. Thông tin nhanh về Việt Nam quan hệ quốc tế và một số bài học thêm có liên quan .https://hoangkimlong.wordpress.com/category/the-gioi-trong-mat-ai/

Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Đường lối cách mạng của nước Việt Nam ngày nay thích hợp bền vững trong tình hình mới, thời đại mới, đã được Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đúc kết tinh hoa tại bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” xác định rõ đường lối, quan điểm, tầm nhìn chiến lược, cương lĩnh và kế hoạch hành động:“Đoàn kết ‘xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh’ như di nguyện của Bác Hồ kính yêu”; “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; Ph át triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế (in đậm để nhấn mạnh HK); Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện“.

VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH

Bác Hồ nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành“.

Việt Nam con đường xanh cốt lõi là an dân với năm yếu tố: An sinh xã hội; An tâm; An lạc; An toàn; An ninh.

Định hướng chiến lược quốc gia, phương hướng nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế xã hội 2021-2030 (* Đảng Cộng Sản Việt Nam 2020, Văn kiện đại hội Đảng XIII đã xác định 10 giải pháp cơ bản):

1) Tập trung hoàn thiện nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước và thị trường.

2) Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế;

3) Phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế;

4) Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm thực chất, hiệu quả; phát triển nền kinh tế số; thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô;

5) Phát triển kết cấu hạ tầng, kinh tế vùng, kinh tế biển, lấy các đô thi làm động lực phát triển vùng và đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới;

6) Phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân;

7) Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai;

8) Củng cố, tăng cường quốc phóng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia;

9) Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập và vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế;

10) Tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động; đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tạo đột phá trong cải cách hành chính.

Việt Nam con đường xanh lĩnh vực nông lâm thủy hải sản trọng tâm là 13 sản phẩm nông nghiệp chủ lực quốc gia đã được xác định bởi Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tại Thông tư số 37 /2018/TT /BNNPTNT ngày 25/12/2018 gồm Gạo, Cà phê, Cao su, Điều, Hồ tiêu, Chè, Rau Quả, Sắn và sản phẩm từ sắn, Thịt lợn, Thịt và trứng gia cầm, Cá tra, Tôm, Gỗ và sản phẩm từ gỗ.

Phương hướng nhiệm vụ và giải pháp chính của giai đoạn 2021- 2030 để đảm bảo khối sản phẩm chủ lực này phát huy hiệu quả giá trị nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân lao động Việt Nam là cần tổ chức điều hành thật tốt 5 nhóm hệ thống giải pháp chính đã được xác định:

1) Nông sản Việt 13 ngành hàng chủ lực kết nối mạnh mẽ với thị trường thế giới, xác định lợi thế so sánh và hệ thống giải pháp bảo tồn phát triển bền vững, hiệu quả khoa học công nghệ, kinh tế an sinh xã hội môi trường và vị thế quan trọng của từng ngành hàng. Nâng cao hiệu quả, hiệu lực hợp tác đầu tư nước ngoài có trọng tâm, trọng điểm, có chọn lọc, ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, quản trị hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, kết nối Nông sản Việt đạt lợi thế cạnh tranh cao trong chuỗi cung ứng toàn cầu, có tác động lan tỏa, kết nối chặt chẽ hữu cơ với khu vực kinh tế trong nước. Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, hiệu quả, đẩy mạnh hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, kết nối với hệ thống tiêu thụ toàn cầu. Phát triển mạnh doanh nghiệp nông nghiệp, hổ trợ, khuyến khích phát triển kinh tế trang trại, hợp tác xã nông nghiệp và các tổ hợp tác. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp.

2) Phát triển mạnh nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, sạch, nông nghiệp hữu cơ, đạt tiêu chuẩn phổ biến về an toàn thực phẩm. Đổi mới chính sách quản lý và sử dụng đất trồng lúa, hàng năm sản xuất khoảng 35 triệu tấn lúa làm nòng cốt bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với lợi thế và nhu cầu thị trường, tăng khả năng chống chịu, thích ứng của nông dân với biến đổi khí hậu từng vùng, miền, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, ổn định. Tổ chức kết nối nông nghiệp với công nghiệp chế biến, thị trường xuất khẩu, chuỗi giá trị toàn cầu.

3) Phát triển chăn nuôi công nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khuyến khích phát triển chăn nuôi trang trại, gia trại hiệu quả cao, thân thiện với môi trường. Phát triển nuôi trồng thủy sản cá trên biển và mặt nước nội địa theo hướng công nghiệp, quảng canh cải tiến , sinh thái, nâng cao hiệu quả khai thác xa bờ , phát triển đánh bắt hải dương. Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ và phát triển nguồn lợi hải sản;

4) Quản lý chặt chẽ, bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng rừng trồng, nhất là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đầu, rừng phòng hộ ven biển. Chú trọng phát triển trồng rừng gỗ lớn, nâng cao hiệu quả rừng trồng, lâm đặc sản, đáp ứng cơ bản nhu cầu lâm sản trong nước làm nguyên liệu chế biến xuất khẩu. Tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào các chuỗi giá trị lâm nghiệp.

5) Đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới và quản lý sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai. Đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia thượng nguồn và các tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên nước ở lưu vực các dòng sông xuyên biên giới, nhất là sông Mê Công và sông Hồng. Nâng cao tính chống chịu và thích ứng biến đổi khí hậu của hệ thống kết cấu hạ tầng và của nền kinh tế Việt Nam, thực hiện các giải pháp thông minh để thích ứng trong nông nghiệp, thủy sản và phát triển rừng. Giảm thiểu những rũi ro do biến đổi khí hậu gây ra, đặc biệt là xâm nhập mặn, sạt lở tại Đồng Bằng Sông Cửu Long, an toàn lụt và môi sinh tại Hà Nội và vùng Đồng Bằng Sông Hồng khô hạn tại Tây Nguyên, Nam Trung Bộ,Bắc Trung Bộ Bảo vệ an ninh nguồn nước, tăng cường quản lý và khai thác, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm nguồn nước theo lưu vực sông, ngăn chặn suy giảm tài nguyên nước, tích nước điều tiết nguồn nước hợp lý phục vụ phát triển kinh tế xã hội. Quản lý chặt chẽ và nâng cao hiệu lực quản lý, hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài nguyên, nhất là đất, nước khoáng sản, theo nguyên tắc thị trường. Phát triển thị trường, đẩy mạnh thương mại hóa quyền sử dụng đất, tăng cường đăng ký quyền sử dụng đất và áp dụng định giá đất theo thị trường, bảo đảm công khai, minh bạch. Phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, mạng lướí các dự án hạ tầng trọng điểm quốc gia kết nối đồng bộ với các khu vực nông phẩm hàng hóa chính và khu đô thị, khu công nghiệp, cảng biển; Kết nối xây dựng nông thôn mới với kinh tế vùng, kinh tế biển, đào tạo nguồn lực nông nghiệp, cải tiến nâng cấp hệ thống hóa dữ liệu thông tin nông nghiệp nông dân nông thôn đáp ứng phù hợp với thời đại mới. Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới theo hướng gắn với đô thị hóa, thực chất và đi vào chiều sâu hiệu quả bền vững, lấy cư dân nông thôn làm chủ thể, tạo sự chuyển biến tích cực rõ rệt về nếp sống mới ở nông thôn; xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới cấp thôn bản. Thu hút mạnh mẽ các doanh nghiệp đầu tư vào khu vực nông thôn để tổ chức và nâng cao chuỗi gía trị “mỗi xã một sản phẩm” gắn với thương hiệu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. Chú trọng xây dựng cảnh quan sinh thái môi trường làng xã Việt xanh sạch đẹp tiến bộ an lành

Ba trụ cột cốt lõi của một quốc gia là cân đối hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội.theo kết luận của Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về Phát triển bền vững tại Johannesburg (Cộng hòa Nam Phi) năm 2002.

Bảo vệ an toàn môi trường sống và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân lao động Việt Nam là một trong ba trụ cột cốt lõi của chính sách quốc gia. Bảo vệ an toàn thức ăn, đất, nước, không khí và môi sinh là luật sống. Nguyên tắc cơ bản là: Ai gây ô nhiễm môi trường phải trả chi phí để xử lý khắc phục hậu quả, cải tạo và phục hồi. Thực thi chế tài và xử phạt nghiêm về vi phạm môi trường là quốc sách.

Tăng cường giám sát, công khai đầy đủ, kịp thời thông tin và nâng cao chất lượng môi trường, sự an toàn về thức ăn, đất nước, không khí và môi sinh ở các đô thị và vùng dân cư. Xử lý dứt điểm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Cải thiện rõ rệt tình trạng ô nhiễm môi trường, ở các cụm công nghiệp, làng nghề, lưu vực sông, khu vực nông thôn. Kiểm soát chặt chẽ các dự án khai thác tài nguyên, chủ động phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm gây ô nhiễm môi trường. Ngăn chặn suy thoái môi trường. Tối ưu hóa các mục đích sử dụng đất nông nghiệp. Đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia thượng nguồn và các tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên nước ở lưu vực các dòng sông xuyên biên giới, nhất là sông Mê Công và sông Hồng.

Việt Nam con đường xanh, thông tin đúc kết này là chọn lọc trích dẫn phù hợp với tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Định hướng và tầm nhìn này nhấn mạnh

1) Phải phát triển hài hòa ba trụ cột “Không đánh đổi môi trường với tăng trưởng kinh tế”; “Không thể vì nghèo mà hy sinh môi trường và sức khỏe người dân”

2) Vai trò kiến tạo của Nhà nước là quyết định;

3) Vai trò của người dân lao động và cộng đồng xã hội là không thể thiếu.

Việt Nam ngày nay nhấn mạnh sự diệt trừ tham nhũng và đề cao vai trò kiến tạo của Nhà nước là quyết định. Việt Nam là nước văn hiến có truyền thống “bầu ơi thương lấy bí cùng” và kinh nghiệm làm chủ tập thể, cũng đã vận dụng hiệu quả chính sách đầu tư trong điểm.

Tin Nóng Việt Nam Và Thế Giới Nổi Bật

Tổng thống Putin đến Việt Nam ngay sau chuyến thăm Trung Quốc? | CafeLand https://youtu.be/er8CHt5MW8I?si=FvzK7YvcCAwerqc1 ; Đại tướng Lương Cường được phân công làm Thường trực Ban Bí thư | Tin tức https://youtu.be/er8CHt5MW8I?si=FvzK7YvcCAwerqc1

Toàn cảnh thế giới 16/5: Ông Putin thăm Trung Quốc quyết tâm “hướng đông” trong kế hoạch đặc biệt https://youtu.be/E30YDpCKk5A?si=7e4jPP1ixuryjyUA; Những nội dung quan trọng trong cuộc hội đàm của ông Tập Cận Bình và Tổng thống Nga Vladimir Putin https://youtu.be/ZLACYOiU7kM?si=KXBI6U5VzgSowhkO; Nga thông tin nóng về nhiệm vụ của Đại tướng Shoigu trên cương vị mới https://youtu.be/3LTm6n0my5o?si=zlVaRl7x8xhPReNO; Toàn cảnh thế giới 16/5: Ukraine đi nước cờ táo bạo với Mỹ, hòng “đè bẹp” các kho quân sự của Nga? https://youtu.be/H7mLyLKJ9S4?si=LEp8zoUKyfbZ-ptV; Cực nóng: Tổng thống Putin tuyên bố sẵn sàng đàm phán kết thúc xung đột Ukraine https://youtu.be/IqyNCjSzM-s?si=9JJRQxDCK7hOolgQ ; Ukraine giận dữ “trảm” Tướng giữa lúc Kharkov “ngàn cân treo sợi tóc” | Nghệ An TV https://youtu.be/QTx1UQmor0c?si=HQwvpv-jT1OSdvvd ; Chiến sự Nga – Ukraine 15/5: Đại tá Mỹ cảnh báo hậu quả tàn khốc nếu Mỹ triển khai quân sự ở Ukraine https://youtu.be/aCGN7jpg9Es?si=f25QyXFBx5VfQTHT; Điểm nóng thế giới 15/5: 70.000 quân tinh nhuệ nhất của Nga đã có mặt, bom ném suốt đêm ở Kharkov https://youtu.be/C-II4xflaZg?si=X811WeneJlGMGvlK; Binh sĩ Ukraine ồ ạt rút quân khỏi Kharkiv, cảnh báo nguy cơ Nga tấn công các tỉnh lân cận l VTs https://youtu.be/0FvWWuzD1Pc?si=FYEO_imHgfpbji2M; Thời sự Quốc tế chiều 15/5. Nga vào Kharkov không gặp quả mìn nào, Ukraine ‘trảm’ tướng cấp cao https://youtu.be/A0pU1prcGPM?si=DqEwAZGbR-OJs9Pi; Điểm nóng thế giới 15/5: Nga nổi nóng TT Pháp tiếp tục hiếu chiến, quá sự nhẫn nhịn của Moscow https://youtu.be/0npfLlLfmR8?si=RDwEmLVwZ6zIXutD

“Thay tướng” lớn nhất sau gần 1,5 thập kỷ, Tổng thống Putin tính toán gì? https://youtu.be/oVMeP8uLLrQ?si=Nwrx4kArShfhdXOh

Tân Bộ trưởng Quốc phòng Nga lần đầu tuyên bố về Ukraine sau khi thay Đại tướng Shoigu https://youtu.be/vSLLYlIkgJ0?si=KppIQKKvy-ypMNuX

Trung tướng thuộc bộ quốc phòng Nga bị bắt, hé lộ sự thật ông Shougu thôi chức bộ trưởng https://youtu.be/VhNXdtGMdR8?si=mIMJVj3usbd6QVF7; Tin thế giới 14/5: Mỹ tung đòn cực hiểm hòng ‘chia rẽ’ Nga-Trung, Bắc Kinh âm thầm ‘chống trả’ https://youtu.be/kcdTvQXQQjQ?si=6Hl43JGqu5yO9LOr; Nga chính thức đổ bộ Kharkov bùng nổ trận chiến ác liệt nhất 2 năm chiến sự https://youtu.be/Woeh826h3Q0?si=_zv-SLaTqYoQL9_r ; Toàn cảnh thế giới 9/5: Nga đột ngột thông báo chấn động, Kiev đã thất thủ giờ G bắt đầu điểm https://youtu.be/3WbRygpSfJw?si=mBnjjaGkAu9IakyU; Thời sự Quốc tế trưa 9/5. Nga nã 55 tên lửa, phá huỷ sân bay nhận F-16; Israel không kích dữ dội Liban https://youtu.be/iBhGsIJS4xo?si=GhJnn7mDPukCkKJM; 2 mũi đột phá chí mạng, 2 pháo đài lâm nguy! U: Nga đang dàn đội hình, chuẩn bị tấn công Summy! https://youtu.be/0jwsxGGVxao?si=-dAbhsjJErDMe6Rg; Nước NATO hốt hoảng tột độ trước sức mạnh khủng khiếp của tên lửa Nga https://youtu.be/bzEuH4-UryY?si=CdIZQiRQu2Ax4CU2; Thời sự quốc tế 9/5: Nga tuyên bố chấn động khủng khiếp “nuốt chửng” toàn bộ lính Pháp tại Ukraine https://youtu.be/X1KBYRghtRE?si=V3JuxMPGev7PZPgu; Pháp “quay xe” xin Nga ngừng bắn ! – Nâng Tầm Kiến Thức https://youtu.be/ITZ_E5rf_JA?si=KwvS1Se4WmqIihLj ; Nga bất ngờ công bố điều kiện nóng khép lại xung đột Ukraine trong 2 tuần tới https://youtu.be/a03fUd4C7j8?si=kkVGkwlryLVJm7K_

Những vi phạm khiến Ủy ban Kiểm tra TW đề nghị kỷ luật nguyên Bí thư Thành ủy TPHCM Lê Thanh Hải https://youtu.be/oc5jKQKNRdk?si=mB96kn4jnR8PYhKG; Bộ Chính trị thí điểm cho người đứng đầu được BỔ NHIỆM, MIỄN NHIỆM cấp phó, cấp dưới | CafeLand; Ông Trần Thanh Mẫn được phân công điều hành hoạt động của Quốc hội | BHT https://youtu.be/VnrU9du2z10?si=SGu33dpB5gXWn71; Vận dụng kinh nghiệm từ Chiến dịch Điện Biên Phủ vào huấn luyện ở Quân đoàn 12 Hiền d52 Cre: Báo QĐND
CÁN BỘ CAO CẤP BỘ CHÍNH TRỊ, CÁN BỘ CÁC TỈNH LIÊN QUAN ĐẾN THUẬN AN – TRONG TRẠI GIAM GIỜ RA SAO? https://youtu.be/uR8vi5cwqU0?si=GKJboBxdjx_HD8Qf

Thời sự quốc tế 9/5: Mỹ dẫn đầu 5000 quân hành động sát biên giới Nga, Moscow chỉ nói 1 câu ớn lạnh https://youtu.be/pMHu4FJm-NY?si=nbfD8snsuWw5zPJ1; Tổng thống Zelensky bất ngờ “thú nhận” sự thật tình hình tiền tuyến Ukraine https://youtu.be/gR8nWqKoa40?si=5Z0gO4aZq74zUzlz; Nga ào ạt trút bão tên lửa kinh hoàng cùng lúc “san phẳng” 6 tỉnh Ukraine | Nghệ An TV https://youtu.be/t3miXlh9K-A?si=b0FTOThTo5rcfqCg; Tin thế giới: Hé lộ nội dung cuộc họp quan trọng đầu tiên của Tổng thống Putin trong nhiệm kỳ mới https://www.youtube.com/live/N43riPtGs_g?si=jm9NkKZgraV1GJeF; Vì sao Nga tập trận hạt nhân chiến thuật giữa lúc “nước sôi lửa bỏng”? | VTs https://youtu.be/akfDtZVgvFQ?si=N8ITgZNmMlekU3oM; Cập nhật chiến sự Ukraine 7/5: Kiev hứng “cú sốc” kinh hoàng, chính thức chấp nhận sự thật với Nga? https://youtu.be/X5IGvP5KQyw?si=5GG0mPtyMXbVx86;

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (phải) và Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken. (Ảnh: CCTV)
 Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (phải) và Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken. (Ảnh: CCTV)

Theo ông Tập, thế giới đang trải qua những thay đổi sâu sắc trong thế kỷ này và tình hình quốc tế lại càng phức tạp hơn. Việc Trung Quốc và Mỹ tăng cường đối thoại, giải quyết khác biệt và thúc đẩy hợp tác không chỉ là nguyện vọng chung của nhân dân hai nước mà còn là kỳ vọng chung của cộng đồng quốc tế.

Ông Tập nhắc lại rằng thế giới đủ lớn để Trung Quốc và Mỹ cùng nhau phát triển và thịnh vượng độc lập. Trung Quốc muốn thấy một nước Mỹ “tự tin, cởi mở, thịnh vượng và phát triển”.

Ông Tập hy vọng Mỹ cũng có thể có cái nhìn tích cực về sự phát triển của Trung Quốc. Chỉ khi vấn đề cơ bản này được giải quyết và “nút đầu tiên” được bấm nút thì quan hệ Trung – Mỹ mới thực sự ổn định, tốt đẹp hơn và tiến lên phía trước.

Theo New York Times, cuộc gặp giữa Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình diễn ra trong bối cảnh quan hệ hai nước đang có những tranh chấp về kinh tế, an ninh quốc gia và xung đột địa chính trị ở Đông Á, Trung Đông và Ukraine.

Cả Trung Quốc và Mỹ đều cho biết họ hy vọng đạt được tiến bộ trên một số mặt trận nhỏ hơn, thực dụng hơn, bao gồm cải thiện liên lạc giữa quân đội và tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại giữa các nước. Tuy nhiên, hai bên vẫn bế tắc về các vấn đề chiến lược cơ bản, bao gồm chính sách thương mại và xung đột ở Biển Đông và đảo Đài Loan.

Cả hai bên đều thừa nhận mối quan hệ “nguy cơ rơi vào xung đột sâu hơn”.

Chính quyền Tổng thống Mỹ Joe Biden quan ngại sâu sắc rằng hàng xuất khẩu giá rẻ của Trung Quốc đang đe dọa việc làm của người Mỹ và bày tỏ lo ngại về việc Trung Quốc hỗ trợ Nga trong cuộc chiến Ukraine. Trong khi đó, Bắc Kinh cáo buộc Washington đang tìm cách bao vây lợi ích của Trung Quốc ở Thái Bình Dương.

Trước đó cùng ngày, ông Blinken đã dành hơn 5 giờ đồng hồ với Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị trong các cuộc họp và bữa trưa tại Nhà khách Quốc gia Điếu Ngư Đài ở Bắc Kinh.

Trong bài phát biểu mở đầu buổi làm việc, ông Vương đã có giọng điệu hòa giải hơn so với trước đây, nói với ông Blinken rằng “mối quan hệ Trung – Mỹ đang bắt đầu ổn định” và tương lai của mối quan hệ này sẽ phụ thuộc vào quyết định của cả hai nước.

Tuy nhiên, ông Vương cũng cảnh báo rằng các yếu tố tiêu cực trong mối quan hệ đang “ngày càng gia tăng và hình thành”.

Ông Vương tái khẳng định sự nhất quán của Trung Quốc trong thái độ, lập trường và yêu cầu đối với sự phát triển của quan hệ Trung – Mỹ, đồng thời kêu gọi Washington không can thiệp vào công việc nội bộ, chèn ép sự phát triển và “chà đạp lên lằn ranh đỏ của Trung Quốc liên quan đến chủ quyền, an ninh và lợi ích phát triển”.

Ông Blinken trả lời rằng hai bên cần duy trì “ngoại giao tích cực” để thúc đẩy chương trình nghị sự do Tổng thống Mỹ Joe Biden và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đặt ra khi hai nhà lãnh đạo gặp nhau ở San Francisco vào tháng 11 năm ngoái.

Ngoại trưởng Mỹ hy vọng rằng Mỹ và Trung Quốc có thể đạt được một số tiến bộ về các vấn đề mà các nhà lãnh đạo hai nước đã đồng ý nên hợp tác, nhưng “cũng làm rõ những khác biệt, ý định và nói rõ với nhau quan điểm” của hai bên.

Hoa Vũ (Nguồn: Tân Hoa Xã, New York Times)

Sự thật bất ngờ mối quan hệ hiện tại giữa Nga với 14 quốc gia thuộc Liên Xô cũ | Nghệ An TV https://youtu.be/M6CIqmy1hVs?si=KisUrLpUQDpJ_bWM;

Tổng thống Putin lần đầu trả lời truyền thông Mỹ từ khi chiến sự Ukraine bùng phát | THVN
https://youtu.be/DdG67xrBExk?si=C-X2Z0iL2H3OXu0U
Trump sẽ giải quyết bất ổn trên thế giới? Ông có phải người yêu hoà bình?

Bản lĩnh Putin – Từ KGB tới tổng thống Nga #putin
Tập trận lớn nhất kể từ chiến tranh lạnh, Nato chuẩn bị đối đầu trực diện với Nga?
Cuộc Tập Trận lớn nhất của NATO 35 năm. Cờ giả và nguy cơ thế chiến?
Texas li khai, nội chiến Mỹ – Chuyện thật phía sau là gì?
Mỹ Chi Hàng Tỷ USD Cho Các Cuộc Chiến Ngoại Quốc, Nhưng Ai Mới Là Kẻ Hưởng Lợi? Belarus tham chiến ! – Nâng Tầm Kiến Thức
Ít người hơn, nhiều Oxy hơn. Sự thật việc Ph.Tây muốn giảm dân số loài người.
Henry Kissinger Một nhà ngoại giao định hình trật tự thế giới hiện đại | Thế giới
EU Bơm cho Ukraine 50 tỷ, điều thú vị nằm ở các chi tiết

Tổng Hợp Tiên Tri Kinh Dịch
Tiên Tri Thôi Bối Đồ Tiết Lộ Họ Tên Của Đấng Cứu Thế Xuất Hiện Vào Năm 2024
(Bản full) Tổng Hợp Tiên Tri Kim Cổ Đến Hiện Đại Về Hoả Vận Năm 2024

Tiên Tri Thôi Bối Đồ : Hoả Vận 2024 Là May Mắn Hay Đại Khủng Hoảng
Tiên Tri Tổng Hợp 2024, Kinh Hoàng Những Dự Ngôn Tâm Linh (Phần 2)

Tiên Tri Từ Cổ Chí Kim Đều Coi Hai Năm Này Là Quan Trọng Và Hung Hiểm Nhất?

Tiên tri xung đột Israel Hamas rùng mình dự ngôn từ 2000 năm trước

Cà phê bàn thế sự:
PHẦN 1: Dân Chủ Kiểu Mỹ và Khắc Tinh Putin | KẾ HOẠCH CỦA PUTIN
PHẦN 2: Tự Do Hoá Dẫn Đến Tệ Nạn Toàn Cầu,… KẾ HOẠCH CỦA PUTIN

SWIFT Từ đe doạ Nga, tới bị Nga đe doạ
Việt Nam và Tây nửa mùa – Tại sao Video mình nói nhiều về mặt trái của Tây?
FULL 1: KHỞI NGUỒN | UKRAINE ĐƯỜNG TỚI CHIẾN TRANH
FULL 2: CUỘC CHIẾN BẮT ĐẦU | UKRAINE ĐƯỜNG TỚI CHIẾN TRANH
FULL 3: TẤT CẢ VỀ QUÂN ĐỘI NGA | UKRAINE ĐƯỜNG TỚI CHIẾN TRANH
FULL 4: BÀN CỜ CỦA PUTIN | UKRAINE ĐƯỜNG TỚI CHIẾN TRANH
FULL 5: SỰ TRỞ LẠI CỦA NƯỚC NGA | UKRAINE ĐƯỜNG TỚI CHIẾN TRANH
FULL 6: PUTIN LÀ NGƯỜI ĐƯỢC CHỌN| UKRAINE ĐƯỜNG TỚI CHIẾN TRANH
PHẦN 4: Phương Tây chỉ muốn 1 mình họ Phát Triển ? | KẾ HOẠCH CỦA PUTIN
PHẦN 6: Tự do báo chí – ngôn luận, Đâu mới là thực tế | KẾ HOẠCH CỦA PUTIN
PHẦN 7: Đầu sỏ chính trị và quỹ từ thiện, ở đâu mới chuẩn về định nghĩa
PHẦN 10: Truyền Thông Phương Tây và đầu so chính trị thực thi quyền lực
PHẦN 12: NGO và Chính phủ – Sự phối hợp nhuần nhuyễn| KẾ HOẠCH CỦA PUTIN

PHẦN 13: Tổ chức phí chính phủ và sự dây mơ rễ má | KẾ HOẠCH CỦA PUTIN
PHẦN 14: Dân chủ Phương Tây đã lòi đuôi đầ
u sỏ chính trị | KẾ HOẠCH CỦA PUTIN
PHẦN 16: Tổ chức minh bạch & ân xá quốc tế, phục vụ cho ai | KẾ HOẠCH CỦA PUTIN
PHẦN 17: OSCE – Cách chống Nga khi Nga là thành viên của nó | KẾ HOẠCH CỦA PUTIN PHẦN 18: Luật Quốc Tế gián tiếp biến thành Luật Phương Tây | KẾ HOẠCH CỦA PUTIN
PHẦN 19: Hiệp Định Quốc Tế hoạt động vì Phương Tây | KẾ HOẠCH CỦA PUTIN
PHẦN 20: Trật tự Thế Giới dựa trên LUẬT LỆ, Nó là cái gì vậy? | KẾ HOẠCH CỦA PUTIN
PHẦN 21: Người dân Nga có muốn Nền dân chủ Phương Tây? | KẾ HOẠCH CỦA PUTIN
PHẦN 22: Đầu sỏ Phương Tây che giấu tài sản và lũng đoạn. Trật tự TG của Nga ra sao
PHẦN 23: Điều Nga thực sự mong muốn ở Trật Tự Thế Giới Mới| KẾ HOẠCH CỦA PUTIN

P1: Chiến lược mới của Ukraine, cục diện chiến trường trong mùa đông
Cách Phương Tây ăn miếng bánh Tái thiết khi Ukraine xây dựng nhà máy điện hạt nhân mới.
Nga đòi lại Alaska từ tay Mỹ? Nếu là thật thì Nga có mục đích gì?
Thà tận thế cũng không được thua Nga, đó có phải là điều Mỹ đang nghĩ?
Luật mới tịch thu tài sàn công dân ở Nga, sự đàn áp khủng khiếp? Bản chất và đánh giá?

Tri Thức Mới
Nếu Không Đánh Đài Loan Lúc Này, Trung Quốc Sẽ Không Bao Giờ Còn Cơ Hội Nữa

MƯỜI THÀNH PHỐ LỚN NHẤT TRUNG QUỐC

“SỐC” VỚI NHỮNG SỰ THẬT THÚ VỊ VỀ NƯỚC NGA (FULL) | Nữ Nhi Quốc ngoài đời thực – Phim người lớn

Kim Notes lắng ghi chú
THỜI BIẾN NHỚ NGƯỜI XƯA

Ta về trời đất Hồng Lam
Thời biến nhớ người xưa

Nguyễn Du trăng huyền thoại
Mai Hạc vầng trăng soi


Hoàng Kim

về bến Giang Đình xưa nơi Nguyễn Du viết Kiều và Nguyễn Công Trứ cùng Nguyễn Du đàm đạo. Non xanh còn đó, nước biếc còn đây, rác còn nhiều nhưng thế nước đang lên và Việt Nam tâm thế mới đang thu hút nha7n tâm của cộng đồng thế giới. https://youtu.be/KyAZ_fx6Qx0?si=bcs0Z8jImRTnbtm2

Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ giống nhau ở Ưu thời và tương đồng sâu sắc tuy cách xử thế nhìn bề ngoài có vẻ khác nhau về thời biến. Đó là những kỳ tài khác nhau trong xử thể tùy thuộc phẩm hạnh mỗi người và thời biến. Nguyễn Du là biểu tượng dòng văn chương ưu thời thứ nhất. Nguyễn Công Trứ là biểu tượng dòng văn chương ưu thời thứ hai.Nguyễn Du không chịu theo Nguyễn Huệ như Ngô Thì Nhậm. Ông cũng không sớm theo Nguyễn Ánh như Đặng Trần Thường mà chỉ chấp nhận ra làm quan với triều Gia Long sau mười lăm năm lưu lạc khi thế nước đã phân định rõ ràng. Cuộc đời Nguyễn Du sau mười lăm năm lưu lạc là làm hiền triết giữa đời thường và chốn quan trường. Nguyễn Du ra làm quan Tri huyện Sơn Nam, Cai bạ Quảng Bình, Hàn Lâm Đại học sĩ, Chánh sứ của triều Nguyễn sang sứ nhà Thanh, (tương đương các chức vụ Chủ tịch huyện, Tỉnh trưởng, Bộ trưởng Giáo dục, Bộ trưởng Ngoại giao thời nay). Nguyễn Du viết sách Bắc Hành tạp lục là kiệt tác sử thi, chính kiến ngoại giao đánh giá bao quát mọi thời của Trung Quốc và kiệt tác Truyện Kiều là bài ca muôn thuở về tình yêu cuộc sống dân tộc Việt. Nguyễn Du mất mà không để lại lời dặn dò gì.

Thúy Kiều với nguyên mẫu là Hồ Xuân Hương (Hồ Phi Mai) có nhiều kiệt tác thơ dân gian đời thường và thơ Hán Nôm, tiêu biểu nhất là Lưu Hương Ký. Trang thơ Hồ Xuân Hương 154 bài trên Thi Viện có nhiều bài rất hay: “Độ Hoa Phong” là Hạ Long tuyệt bút yêu thiên nhiên, Bài thơ “Miếu Sầm thái thú” cao vọi tầm tư tưởng nhân hậu và khí phách đảm lược của một kỳ tài, thơ tôn vinh phụ nữ và giải phóng con người, “Cảm cựu kiêm trình Cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu” tri âm tri kỹ nghĩa tình bền vững, “thơ Nôm truyền tụng” thanh tục đời thường, như có như không. “Thuật ý kiêm trình hữu nhân Mai Sơn Phủ” là kiệt tác thơ tình yêu của Hồ Xuân Hương thuộc dạng thơ hát nói.

Truyện Thúy Kiều của Nguyễn Du “Gương trong chẳng chút bụi trần. Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm. Bấy lâu đáy biển mò kim. Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa? Ai ngờ lại hợp một nhà. Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm! Nghe lời sửa áo cài trâm. Khấu đầu lạy trước cao thâm nghìn trùng. Thân tàn gạn đục khơi trong. Là nhờ quân tử khác lòng người ta.Mấy lời tâm phúc ruột rà. Tương tri dường ấy mới là tương tri”. Kim Vân Kiều tái hợp. Lưu Hương Ký Truyện Thúy Kiều là ẩn ngữ tình yêu cuộc sống;xem tiếp: https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thoi-bien-nho-nguoi-xua

NGUYỄN DU NGUYỄN CÔNG TRỨ

Nguyễn Công Trứ đã viết “Vịnh Thúy Kiều”: “Từ Mã Giám Sinh cho tới chàng Từ Hải. Cánh hoa tàn đem bán lại chốn thanh lâu. Bây giời Kiều còn hiếu vào đâu. Mà bướm chán ong chường cho đến thế. Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa. Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm. Bán mình trong bấy nhiêu năm. Đố đem chữ hiếu mà lầm được ai”. Bài thơ ‘Vịnh Thúy Kiều’ của Nguyễn Công Trứ cho dù có thực của ông hay không thì cũng thể hiện một sự thật về sự đánh giá và chính sách của triều đình nhà Nguyễn đối với Nguyễn Du với đám con cháu ‘trung liệt’ cựu thần nhà Lê. Nhà Nguyễn vừa luôn cảnh giác đề phòng vừa tiếc tài mà trọng dụng.

Nguyễn Du viết về Kiều:“Bất tri tam bách dư niên hậu. Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?” (Ba trăm năm nữa chốc mòng. Biết ai thiên hạ khóc cùng Tố Như?). Sự thật lịch sử Nguyễn Du làm Ngư Tiều là câu trả lời Nguyễn Du trước phán xét của triều Nguyễn và lịch sử., Truyện Kiều “Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn. Để lời thệ hải minh sơn. Làm con trước phải đền ơn sinh thành”, và tập thơ Bắc Hành chữ Hán (gồm “Bắc hành tạp lục” 132 bài, “Nam trung tạp ngâm” 16 bài “Thanh Hiên thi tập” 78 bài) thể hiện rất rõ nhận thức luận của ông.

Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ là bài học lớn về phép xử thế của hai bậc cao sĩ giữa đời thường. Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ cho đến nay vẫn là chuyện lịch sử ẩn ngữ đời người “trơ gan cùng tuế nguyệt”. Nguyễn Du đã vượt lên vinh nhục bản thân giữa thời nhiễu loạn, vàng lầm trong cát để trao ngọc cho đời. Nguyễn Du ra làm quan triều Nguyễn giữ các chức vụ từ tri huyên, cai bạ, cần chánh điện đại học sĩ, chánh sứ đến hữu tham tri bộ lễ. Ông là nhà quản lý giỏi, yêu nước thương dân, Nguyễn Du để lại kiệt tác Truyện Kiều di sản muôn đời và Bắc Hành tạp lục kiệt tác sử thi tuyên ngôn ngoại giao nhân nghĩa rạng danh nước Việt.  Nguyễn Du được vua Càn Long kính trọng, được vua Gia Long phong làm làm Hữu Tham tri Bộ Lễ và tước Du Đức hầu sau khi ông làm Chánh sứ ngoại giao nhà Thanh năm 1813 trở về. Cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Du là một bài học lịch sử thật đáng suy ngẫm.

Nguyễn Du làm Ngư Tiều mười năm 1796-1802 với biệt hiệu Nam Hải Điếu Đồ (Người đi câu ở biển Nam) và Hồng Sơn Liệp Hộ (Người đi săn ở núi Hồng), đó là ẩn ngữ đời người. Ông trầm tĩnh quan sát với nhãn quan thấu suốt, tầm nhìn minh triết, thông tuệ lạ thường để đánh giá và ứng xử đúng sự chuyển dời vận nước ở những thời khắc quyết định. Nguyễn Du là danh sĩ tinh hoa, hiền tài lỗi lạc, một nhân cách lớn.Nguyễn Du trăng huyền thoại soi tỏ cuộc đời, thời thế, tâm hồn Nguyễn Du https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-trang-huyen-thoai/

Nguyễn Du trăng huyền thoại 1 Nguyễn Du thơ chữ Hán Kiếm bút thấu tim Người Đấng danh sĩ tinh hoa Nguyễn Du khinh Thành Tổ Bậc thánh viếng đức Hòa 2 Nguyễn Du tư liệu quý Linh Nhạc thương người hiền Trung Liệt đền thờ cổ “Bang giao tập” Việt Trung
Nguyễn Du niên biểu luận 3 Nguyễn Du Hồ Xuân Hương “Đối tửu” thơ bi tráng “Tỏ ý” lệ vương đầy Ba trăm năm thoáng chốc Mại hạc vầng trăng soi. 4 Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ Uy Viễn “Vịnh Thúy Kiều” Tố Như “Đọc Tiểu Thanh” Bến Giang Đình ẩn ngữ Thời biến nhớ người xưa. 5 Nguyễn Du thời Tây Sơn Mười lăm năm tuổi thơ Mười lăm năm lưu lạc
Thời Hồng Sơn Liệp Hộ Tình hiếu thật phân minh 6 Nguyễn Du làm Ngư Tiều Câu cá và đi săn Ẩn ngữ giữa đời thường Nguyễn Du ức gia huynh Hành Lạc Từ bi tráng 7 Nguyễn Du thời nhà Nguyễn Mười tám năm làm quan (1802-1820) Chính sử và Bài tựa Gia phả với luận bàn Bắc hành và Truyện Kiều 8 Nguyễn Du tiếng tri âm Đối tửu cụ Nguyễn Du Đi thuyền trên Trường Giang Nguyễn Du khóc Tố Như Nguyễn Du Kinh Kim Cương 9 Nguyễn Du niên biểu luận Tâm tình và Hồn Việt Tấm gương soi thời đại Ba trăm năm thoáng chốc Mai Hạc vầng trăng soi ; xem tiếp Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ Uy Viễn “Vịnh Thúy Kiều” Tố Như “Đọc Tiểu Thanh” Bến Giang Đình ẩn ngữ; Thời biến nhớ người xưa https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-nguyen-cong-tru/

CÓ BA DÒNG VĂN CHƯƠNG

Tôi về thăm lại bến Giang Đình xưa, nơi Nguyễn Du viết Kiều và nơi Nguyễn Du cùng Nguyễn Công Trứ đàm đạo. Non xanh còn đó, nước biếc còn đây, rác còn nhiều nhưng nước non vẫn vậy; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/co-ba-dong-van-chuong/

Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ văn chương giống và khác nhau thế nào? Thầy Nguyễn Khoa Tịnh và thầy Hoàng Ngọc Dộ trước đây, có nói với tôi: “Những người như Trần Quốc Tuấn, Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư thời Trần đều là những danh tướng lừng lẫy một thời, ra tướng võ, vào tướng văn, nhưng ba người trước đều là nhân tướng, xử thế chuẩn mực, tiết độ. Trần Khánh Dư là một bậc danh tướng, hoặc như Nguyễn Công Trứ sau này cũng đều là trí tướng, nhung họ có khác ba người kia một chút, và họ đều ưu thời. Loại người sau cũng là kỳ tài nhưng phải có minh quân,kỳ tướng mới dùng được. Nhà thơ Hải Như Ngọc Tỉnh (là thân phụ và thân mẫu của anh Hanh Vu ) cũng đã nhận xét vậy nhưng Cụ gộp hai dòng ưu thời này vào làm một và cụ nhấn mạnh sự phân biệt dòng văn chương ưu thời và dòng văn chương xu thời. Dòng văn chương Xu thời quá phổ biến trong mọi xã hội. Dòng văn chương Ưu thời có hai dạng loại của Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ, như Khang Hi và Vi Tiểu Bảo. “Có tác phẩm văn chương đạt giá trị nhân văn đặc biệt tinh khiết sâu xa như món ăn trong thờ cúng, thức ăn khác dẫu rất ngon nhưng khi có một con ruồi nhỡ rơi vào và tuy đã được vớt đi nhưng cảm giác lúc ăn sẽ không bằng thức ăn hoàn toàn tinh khiết. Dòng văn chương ưu thời thứ nhất tinh khiết như vậy”.. Nguyễn Du là biểu tượng dòng văn chương ưu thời thứ nhất. Nguyễn Công Trứ là biểu tượng dòng văn chương ưu thời thứ hai. Còn dòng văn chương xu thời thì quá phổ biến trong mọi xã hội, đó là dòng văn chương thứ ba.

Tôi yêu Kiều Nguyễn Du.

Phan Lan Hoa ngày 11 tháng 10 năm 2012 có bài viết “Em xin làm lẽ Nguyễn Công Trứ” Tôi thảng thốt giật mình vì bài luận, nên vui đùa cầu thân kết bạn: ” Vô nhà đã thấy THƯƠNG, Vì Dặm ân TÌNH, thuyền quyên ứ hự VUI làm thiếp. Ra ngõ rồi thêm NHỚ, Linh Giang ơn NGHĨA, anh hùng khấp khởi SƯỚNG gặp em.” Nhà văn thầy giáo Nguyễn Thế Quang, tác giả hai cuốn tiểu thuyết lịch sử “Nguyễn Du” và “Thông reo ngàn Hống” đã khuyến khích tôi viết chuyên khảo “Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ”. Chín năm qua, tôi viết Kim Notes lắng ghi chú để tìm sự thật Nguyễn Du niên biểu luận trong hệ thống thông tin chọn lọc “Nguyễn Du trăng huyền thoại” (*) trong đó có bài 4 “Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ” nay xin được hiến tặng bạn đọc.https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-nguyen-cong-tru/

UY VIỄN VỊNH THÚY KIỀU

Nguyễn Công Trứ (1778-1858) là Uy Viễn tướng công, phúc tướng của vua Minh Mệnh, Đánh giá của ông về Nguyễn Du và dòng họ Nguyễn Tiên Điền cũng tương đồng với sự phán xét của triều Nguyễn định luận về Nguyễn Du và họ Nguyễn Tiên Điền. Nguyễn Công Trứ con người ấy, sự nghiệp ấy thật không tầm thường, khẩn điền mở cõi giúp dân, ra tướng võ vào tướng văn, phong lưu rất mực: “Ngồi buồn mà trách ông xanh/ Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười/ Kiếp sau xin chớ làm người/ Làm cây thông đứng giữa trời mà reo/ Giữa trời vách đá cheo leo/ Ai mà chịu rét thì trèo với thông.” Nguyễn Công Trứ kém Nguyễn Du 13 tuổi và cùng đồng hương Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Ông là vị tướng văn võ song toàn, phong lưu đa tình, gian thần đời loạn năng thần đời trị, có công với triều Nguyễn trong cai trị, dẹp loạn. Ông cùng chủ kiến với vua Gia Long và vua Minh Mệnh với kế sách ra tay trước (tiên phát chế nhân) để chặn bước các thế lực tiềm tàng, những người xuất chúng ngấp nghé ngai vàng, trong đó có Nguyễn Du. Nguyễn Công Trứ luận về Thúy Kiều nhưng thực chất là luận về Nguyễn Du: “Bán mình trong bấy nhiêu năm, Dễ đem chữ hiếu mà lầm được ai.” Nguyễn Công Trứ thân mật hay chống đối Nguyễn Du, đó là điều hậu thế cần lý giải cho đúng? hiểu đúng, biết đúng, mới bình giảng đúng Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ. Đó là một câu hỏi thật không dễ trả lời

TA VỀ TRỜI ĐẤT HỒNG LAM

Ta về trời đất Hồng Lam
Bâng khuâng bước dưới trăng vàng lộng soi
Ngực trần chạm tới thảnh thơi
Nghe lưng thấu đến bồi hồi đất quen.

Linh miêu chốn Tổ Rồng Tiên
Quấn quanh trao gửi nổi niềm Thái Sơn
Hỡi ai là kẻ phi thường
Đỉnh chung dâng nén tâm hương nhớ Người.

Biên dịch: Nguyễn Hải Hoành

Kính thưa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và bà Ngô Thị Mẫn,

Thưa các đồng chí và các bạn thanh niên hai nước Trung Quốc, Việt Nam,

Xin gửi mọi người lời chào buổi chiều tốt lành!

Rất vui được gặp các bạn. Sau sáu năm, tôi lại đến thăm đất nước Việt Nam tươi đẹp, thấy các bạn tràn trề nhiệt tình tôi vô cùng vui mừng. Hôm nay ở đây có không ít bạn cũ từng nhiều năm dốc sức phấn đấu vì tình hữu nghị Trung Quốc-Việt Nam, cũng có rất nhiều bạn trẻ mới. Thay mặt Đảng và Chính phủ Trung Quốc, tôi xin gửi tới các bạn lời thăm hỏi thân thiết!

Hôm qua, tôi và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã cùng nhau tuyên bố xây dựng cộng đồng chia sẻ tương lai Trung Quốc-Việt Nam có ý nghĩa chiến lược, mở ra một giai đoạn mới trong sự phát triển mối quan hệ giữa hai đảng và hai nước Trung Quốc, Việt Nam. Đây là quyết sách chiến lược trọng đại mà chúng ta đưa ra xuất phát từ sự chấn hưng chủ nghĩa xã hội thế giới và thực hiện hòa bình, ổn định lâu dài cho hai nước Trung – Việt, bắt nguồn sâu sắc từ tình hữu hảo truyền thống Trung – Việt, phù hợp với lợi ích chung. và nguyện vọng chung của nhân dân hai nước.

Nhìn lại quá khứ, chúng ta cùng chung chí hướng và giúp đỡ lẫn nhau. Từ thời cận đại đến nay, hai đảng, nhân dân hai nước Trung Quốc – Việt Nam luôn giữ vững lý tưởng, niềm tin chung, trong tiến trình sự nghiệp đấu tranh giành độc lập nhà nước, giải phóng dân tộc, chúng ta luôn cùng hội cùng thuyền, ủng hộ lẫn nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng hoạt động cách mạng ở Trung Quốc lâu tới 12 năm, lần lượt thành lập Hội Đồng chí Thanh niên Cách mạng Việt Nam tại Quảng Châu và Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hồng Kông. Ông còn ở Vân Nam, Quảng Tây và các nơi khác trong một thời gian dài, từ đó tiến hành chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Nông Kỳ Trấn (Nong Qizhen), một dân làng ở huyện Long Châu, Quảng Tây, từng liều mạng bảo vệ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tại Quảng Tây, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết “Thư gửi đồng bào Việt Nam” nổi tiếng và năm 1945 từ đó trở về Việt Nam lãnh đạo “Cách mạng tháng Tám” đi đến thắng lợi, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong cuộc đấu tranh chống Pháp, chống Mỹ cứu nước của Việt Nam, hơn 1.400 tướng sĩ Trung Quốc đã hy sinh anh dũng và yên nghỉ trên đất nước Việt Nam bao la. Bệnh viện Nam Khê Sơn (Nanxishan) ở Quế Lâm, Quảng Tây đã cứu trợ hơn 5.000 chiến sĩ Việt Nam bị thương. Trường Dục Tài (Yucai) [tức Khu Học xá Trung ương Nam Ninh] đã đào tạo cho Việt Nam hơn 10.000 học sinh. Việt Nam cũng tích cực ủng hộ cách mạng Trung Quốc, Tướng quân Hồng Thuỷ (Hong Shui) [tức tướng Nguyễn Sơn] tham gia khởi nghĩa Quảng Châu, tham gia cuộc Trường chinh của Hồng quân Trung Quốc, là “Lưỡng quốc Tướng quân” tiếng tăm hiển hách. Câu thơ nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Việt -Trung tình hữu nghị sâu sắc, vừa là đồng chí, vừa là anh em” đã trở thành ký ức lịch sử không thể phai mờ của nhân dân hai nước về những năm tháng phi thường ấy.

Căn cứ vào tình hình hiện tại, chúng ta trước sau như một kiên định hợp tác cùng có lợi. Trong 15 năm thiết lập mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, hai Đảng Trung Quốc và Việt Nam đã kiên trì lấy nhân dân làm trung tâm, ra sức thúc đẩy hợp tác cùng có lợi, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước. Kể từ thời đại mới đến nay, các Tổng bí thư hai đảng Trung Quốc và Việt Nam đã hai lần thăm lẫn nhau, dẫn dắt hiệu quả sự phát triển lành mạnh và ổn định mối quan hệ Trung Quốc-Việt Nam. Cách đây không lâu, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có chuyến đi trồng “Cây hữu nghị” tại cửa khẩu Hữu nghị ở biên giới hai nước, thể hiện sự coi trọng đặc biệt mối quan hệ Trung Quốc – Việt Nam. Hai bên đã phát huy vai trò điều phối của Ban Chỉ đạo hợp tác song phương và thúc đẩy hơn 30 cơ chế hợp tác như hội thảo lý luận hai Đảng, giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới, các hội nghị hợp tác Bộ Công an hai nước đấu tranh chống tội phạm, thúc đẩy hiệu quả trao đổi kinh nghiệm quản trị Đảng và quản trị nước, tạo động lực mạnh mẽ cho công cuộc xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa của mỗi nước.

Trung Quốc từ lâu đã là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong ASEAN và là đối tác thương mại lớn thứ 4 trên thế giới. Với việc triển khai các chuyến tàu quốc tế Trung Quốc-Việt Nam và khởi công xây dựng cửa khẩu thông minh, tăng tốc kết nối các cửa khẩu biên giới trên đất liền, các nông sản chất lượng cao của Việt Nam như vải thiều, sầu riêng, thanh long đã được bán sang Trung Quốc với số lượng lớn. Nguyên liệu thô và máy móc, thiết bị do Trung Quốc xuất khẩu cũng đã hỗ trợ mạnh mẽ cho sự phát triển ngành chế tạo của Việt Nam, thúc đẩy việc nâng cao năng lực xuất khẩu của Việt Nam. Tuyến đường sắt nhẹ Hà Nội số 2 do doanh nghiệp Trung Quốc xây dựng đã vận chuyển gần 20 triệu lượt người, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại của người dân Hà Nội. Các công ty Trung Quốc đã xây dựng cụm công nghiệp quang điện ở nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam, đầu tư và xây dựng nhiều dự án phát điện từ rác thải ở Hà Nội và những nơi khác, giúp đảm bảo an ninh năng lượng cho việc công nghiệp hóa và hiện đại hóa của Việt Nam.

Khu hợp tác du lịch xuyên biên giới Thác Đức Thiên (Detian, Bản Giốc) Trung Quốc-Việt Nam đã vận hành thử nghiệm thành công. Các hoạt động như giao lưu hữu nghị giữa Ủy ban toàn quốc Hội nghị hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tỉnh biên giới, liên hoan nhân dân biên giới Trung Quốc – Việt Nam được triển khai vô cùng sinh động. Các tác phẩm kinh điển truyền thống của Trung Quốc rất nổi tiếng ở Việt Nam, các tác phẩm điện ảnh, truyền hình đương đại của Trung Quốc cũng được người dân Việt Nam vô cùng yêu thích. Các ca khúc nhạc pop Việt lan truyền trên mạng xã hội Trung Quốc, ca sĩ Việt cũng thu hút được lượng lớn “fan” Trung Quốc trên các chương trình văn nghệ của Trung Quốc. Trao đổi và hợp tác hiệu quả đã tăng cường sự thông cảm giữa nhân dân hai nước.

Nhìn về tương lai, chúng ta có chung tương lai và vận mệnh. Trước một thế giới đan xen hỗn loạn, tôi đề xuất ý tưởng xây dựng Cộng đồng cùng chia sẻ tương lai cho nhân loại, Sáng kiến Phát triển Toàn cầu, Sáng kiến An ninh Toàn cầu, và Sáng kiến Văn minh Toàn cầu, nhằm thúc đẩy các nước trên thế giới cùng chung tay ứng đối những thách thức toàn cầu. Hiện nay, Trung Quốc đang thúc đẩy toàn diện sự nghiệp vĩ đại xây dựng nước mạnh, phục hưng dân tộc theo mô hình hiện đại hóa kiểu Trung Quốc. Điều chúng tôi theo đuổi không phải là hiện đại hóa theo cách chỉ lo cho mình mà sẽ kiên quyết không đổi đi theo con đường phát triển hòa bình, kiên trì phương châm ngoại giao thân thiện và kết bạn với các nước láng giềng, kiên trì tư tưởng ngoại giao chân thành bao dung với các nước xung quanh, sao cho công cuộc hiện đại hóa kiểu Trung Quốc sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn cho các nước xung quanh. Việt Nam đang ra sức đẩy mạnh xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hướng tới hai mục tiêu phấn đấu đặt ra nhân kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng và đất nước.

Thưa các đồng chí và các bạn thanh niên!

Nền tảng của tình hữu nghị Trung Quốc-Việt Nam là ở nhân dân và tương lai là ở lớp thanh niên. Tôi muốn nêu ra ba niềm hy vọng.

Hy vọng rằng các bạn sẽ là người kế thừa tình hữu nghị Trung Quốc-Việt Nam và góp sức xây dựng một cộng đồng chia sẻ tương lai Trung Quốc-Việt Nam có ý nghĩa chiến lược. Ngày nay, Trung Quốc và Việt Nam đã dùng những thành tựu nổi bật về phát triển kinh tế – xã hội để chứng minh một cách hùng hồn với thế giới rằng con đường phát triển mà chúng ta đã chọn là hoàn toàn đúng đắn. Hai nước chúng ta tăng cường đoàn kết hợp tác sẽ có lợi cho sự phát triển sự nghiệp xã hội chủ nghĩa của mỗi nước. Hy vọng rằng các nhân sĩ hữu hảo thuộc mọi tầng lớp xã hội ở hai nước, đặc biệt là thế hệ trẻ, sẽ trở thành những người đi đầu trong hành trình hữu nghị Trung Quốc-Việt Nam và góp sức thực hiện hành trình trăm năm của mỗi nước cũng như xây dựng cộng đồng Trung Quốc-Việt Nam chia sẻ tương lai có ý nghĩa chiến lược.

Hy vọng rằng các bạn sẽ cố gắng trở thành người tham gia vào quá trình chấn hưng khu vực châu Á-Thái Bình Dương và đóng góp cho hòa bình và ổn định lâu dài của khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc và công cuộc đổi mới của Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, điều đó vừa là kết quả của sự tự thân phấn đấu mà cũng được hưởng lợi từ khu vực châu Á – Thái Bình Dương hòa bình, cởi mở và bao dung. Châu Á – Thái Bình Dương là nơi chúng ta yên thân lập phận, là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế toàn cầu, cởi mở, bao dung và hợp tác cùng có lợi mới là con đường đúng đắn của loài người. Chúng ta phải giương cao ngọn cờ của cộng đồng châu Á – Thái Bình Dương, hội tụ thêm năng lượng tích cực đoàn kết và tiến lên phía trước, cùng nhau đóng góp nhiều hơn nữa vào việc xây dựng một khu vực châu Á – Thái Bình Dương hài hòa và phồn vinh.

Hy vọng rằng các bạn sẽ dám trở thành những người đi tiên phong phấn đấu không ngừng cho sự xây dựng một cộng đồng chia sẻ tương lai nhân loại. Hai đảng Trung Quốc và Việt Nam đều là những chính đảng Mác-xít hướng tới thế giới, hai nước Trung Quốc và Việt Nam đều là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, hai nước phải trở thành lực lượng trung kiên thúc đẩy sự nghiệp tiến bộ của nhân loại. Mục tiêu hùng vĩ xây dựng một cộng đồng nhân loại cùng chia sẻ tương lai đòi hỏi nhiều thế hệ con người chạy tiếp sức thì mới thực hiện được. Chúng ta phải gánh vác trách nhiệm của thời đại với tấm lòng rộng mở hơn và tầm nhìn bao quát hơn, lên tiếng bảo vệ sự công bằng và chính nghĩa quốc tế, đồng thời góp phần thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ toàn cầu.

Thưa các đồng chí và các bạn thanh niên!

Tục ngữ Việt Nam có câu: “Mọi vật trên thế giới không ngừng thay đổi, chỉ có trái tim này là vững chắc”. Không quên con đường dẫn mình đến thì mới biết mình sẽ đi đâu. Hành trình gian truân và những thành tựu vẻ vang của sự phát triển lớn mạnh trong sự nghiệp xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc và Việt Nam thể hiện đầy đủ rằng việc Trung Quốc và Việt Nam tăng cường đoàn kết, hợp tác là kinh nghiệm lịch sử quan trọng để chúng ta chiến thắng mọi rủi ro, thách thức trên con đường tiến lên, không ngừng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nhìn về tương lai, chúng ta phải luôn không quên nguyện vọng ban đầu, ghi nhớ sứ mệnh của mình và cùng nhau tay nắm tay đi theo con đường xã hội chủ nghĩa của mỗi nước, sao cho kết quả xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa mang lại nhiều lợi ích cho nhân dân hai nước, và cùng nhau đóng góp lớn hơn cho sự nghiệp tiến bộ của nhân loại.

Xin cảm ơn mọi người.

Nguyễn Hải Hoành biên dịch từ nguồn tiếng Trung của Tân Hoa Xã, ngày 13/12/2023 习近平会见中越两国青年和友好人士代表时的讲话(全文)来源:新华网新华社河内1213日电

Theo Nghiên cứu Quốc Tế

Toàn cảnh Thời sự Nổi bật Việt Nam và Quốc tế
(Việt Nam tự củng cố và trầm tĩnh theo dõi cẩn trọng mỗi ngày)

Thế giới trong mắt ai

Nước Nga và Châu Âu

Trung Nga với Trung Á
Gia Cát Mã Tiền Khóa
Thế sự bàn cờ vây

Việt Nam con đường xanh,

Minh triết Hồ Chí Minh
Bài học lớn muôn đời
Xuân sớm Ngọc Phương Nam


Ông Putin nêu quan điểm của Nga về khả năng ‘đóng cửa với châu Âu’ Tổng thống Nga Vladimir Putin cho biết, nước này hiện không có kế hoạch ‘đóng cửa với châu Âu’, dù đôi khi cũng tính đến việc đó.

Phát biểu tại Diễn đàn Văn hóa cởi mở ở St. Petersburg hôm 17/11, ông Putin nhấn mạnh: “Khi có gió lùa, ai cũng nghĩ có lẽ đóng cửa sổ một chút để không bị lạnh là hợp lý. Nhưng bạn thấy đấy, thời tiết của chúng tôi rất tốt: Hôm qua, Thủ tướng Mikhail Mishustin tự hào báo cáo tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tháng trước của đất nước là 5,5%. Chỉ số cả năm chắc chắn sẽ trên 3%”.

Tổng thống Nga Vladimir Putin. Ảnh: Tass

Tổng thống Nga Vladimir Putin. Ảnh: Tass

Hãng thông tấn Tass dẫn lời lãnh đạo Điện Kremlin khẳng định, Nga không muốn cắt đứt quan hệ với bất kỳ ai và nước này hiện cũng chưa làm điều đó.

“Chúng tôi không có xung đột với xã hội châu Âu. Chúng tôi chỉ đang gặp khó khăn với giới tinh hoa châu Âu”, ông Putin nói thêm. Tổng thống Nga đồng thời lưu ý, “nếu ai đó quyết định tự tạo rào cản, đó là việc của họ và họ chỉ tự tước đoạt lợi ích của mình”.

Biến đổi khí hậu: Đại dịch COVID-19- Hệ quả của biến đổi khí hậu nhưng không phải là đại dịch cuối cùng của nhân loại

Trong suốt chiều dài lịch sử, rất nhiều lần con người đã phải đối mặt với sự càn quét của bệnh tật. Cách đây khoảng 5000 năm, Trung Quốc đã gặp một trận dịch, toàn bộ người dân ở một ngôi làng bị tử vong. Từ năm 1346 đến 1353, châu Á và châu Âu phải đối mặt với trận dịch được mệnh danh là “cái chết đen” với không ít phải bị tử vong.  Một loạt các đại dịch khác diễn ra liên tiếp trong nhiều năm, ở nhiều vùng khác nhau trên thế giới:

  • 1817: Đại dịch tả đầu tiên
  • 1855: Đại dịch hạch thứ ba
  • 1875: Đại dịch Sởi Fiji
  • 1889: Cúm Nga
  • 1918: Cúm Tây Ban Nha
  • 1957: Cúm châu Á
  • 1981: HIV / AIDS
  • 2003: SARS
  • 2019: COVID-19

Mỗi trận đại dịch đều để lại kết quả bi thương và COVID-19 không nằm ngoài số đó nhưng đây là một trong những đại dịch lan rộng nhất, lây nhiễm cho các quần thể trên tất cả các quốc gia.

COVID-19 là một trong những đại dịch lớn nhất trong lịch sử loài người

Đại dịch virus corona sẽ qua đi nhưng nó để lại một xã hội “bình thường mới”, yêu cầu mỗi cá nhân phải tự làm mới chính mình để thích nghi với cuộc sống mới, với những mối nguy hiểm mới.

Khí hậu thay đổi là nguyên nhân dẫn đến bệnh dịch

Chúng ta đều hy vọng “bình thường mới” của thế giới sẽ giải quyết các vấn đề đang gây ra biến đổi khí hậu và sự nóng lên toàn cầu. Con người đã thấy thay đổi đáng kể về lượng khí thải khi việc giãn cách xã hội diễn ra, ít xe cộ đi lại trên đường, không có các chuyến bay quốc tế, nội địa đồng nghĩa với việc phát thải suy giảm. Nhưng chúng ta còn một chặng đường dài phía trước để tạo ra tác động đủ để xoay chuyển tương lai. Tất cả chúng ta cần đến với nhau và làm việc đồng lòng để chuẩn bị cho những gì sắp tới.

Tại sao? Bởi vì đại dịch có thể thay đổi tiến trình lịch sử. Biến đổi khí hậu có khả năng kết thúc lịch sử.

Biến đổi là nguyên nhân hàng đầu gây ra các trận đại dịch

Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến con người

Dịch bệnh tiếp tục phát triển

Nhiệt độ tăng cao tạo điều kiện thuận lợi cho sâu bệnh phát triển, dịch bệnh và vật trung gian truyền bệnh. Khí hậu thay đổi cũng làm cho các loài gây hại di cư đến các khu vực mới để tồn tại, khiến các quần thể mới chịu tác động của chúng.

Các quần thể dịch hại đang gia tăng  và bệnh tật từng chỉ có ở những khu vực nhiệt đới hạn chế nay đang trở thành đặc hữu ở những khu vực rộng lớn hơn. Ví dụ, ở Đông Nam Á, nơi bệnh sốt rét đã giảm nguy cơ, chỉ xuất hiện vào mùa mưa thì lại xâm nhập vào Nam Mỹ và gây ra nhiều hệ quả. Tương tự như vậy, bệnh sốt xuất huyết, trước đây phần lớn chỉ xuất hiện ở các khu vực nhiệt đới, nay đã di chuyển vào miền nam và tây nam Hoa Kỳ. Virus Zika phát triển ở lưu vực sông Amazon, hiện đã cư trú ở Florida và vùng vịnh Louisiana.

Nhiệt độ tăng cũng làm tăng tốc độ sinh sản của vi khuẩn và côn trùng, đẩy nhanh tốc độ phát triển khả năng kháng các biện pháp kiểm soát và thuốc (một vấn đề đã xảy ra với bệnh sốt rét ở Đông Nam Á).

Sự di cư của con người

Biến đổi khí hậu sẽ gây ra di cư như thế nào?

  • Nước biển dâng “nuốt chửng” các thành phố ven biển buộc người dân phải sơ tán
  • Hạn hán, hỏa hoạn, lũ lụt
  • Bão
  • Nhiệt độ tăng

Tất cả những điều kiện này đều dẫn đến tình trạng thu hẹp đất đai sinh sống, trồng trọt khiến tình trạng mất an ninh lương thực ngày càng gia tăng.

Ngay từ năm 1990, Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) đã lưu ý rằng tác động đơn lẻ lớn nhất của biến đổi khí hậu có thể là sự di cư của con người – với hàng triệu người phải di dời quê hương do xói mòn bờ biển, lũ lụt ven biển và gián đoạn nông nghiệp? Suy thoái môi trường, và đặc biệt là biến đổi khí hậu đã trở thành một động lực chính dẫn đến sự dịch chuyển dân số – một cuộc khủng hoảng đang diễn ra.

Vào giữa những năm 1990, một báo cáo cho rằng có tới 25 triệu người đã buộc phải rời bỏ nhà cửa và đất đai của họ do một loạt các áp lực môi trường nghiêm trọng bao gồm ô nhiễm, suy thoái đất, hạn hán và thiên tai.

Điều này đã được dự đoán trong 30 năm qua, nhưng không có kế hoạch vững chắc nào được đưa ra để xử lý vấn đề.

Thực tế, con người cần lập kế hoạch cho việc di chuyển trong tương lai. Làm thế nào tất cả chúng ta có thể cùng nhau để cứu hành tinh này và cung cấp cho mọi người một nơi ở an toàn?

Nạn đói: Giảm an ninh lương thực

Một trong những tác động nổi bật nhất khi nhiệt độ tăng lên đó là sự suy giảm lương thực. Các loại cây trồng khác nhau phù hợp với đặc điểm về đất và khí hậu ở các vùng khác nhau nhưng sự thay đổi của nhiệt độ đã khiến việc sinh trường và phát triển của chúng gặp nhiều khó khăn. Ví dụ ở Bắc Mỹ, nhiệt độ tăng có thể làm giảm năng suất ngô và lúa mì ở vùng trung tây Hoa Kỳ, nhưng lại mở rộng sản xuất và năng suất ở phía bắc biên giới Canada. Gạo- lương thực chính của hơn một phần ba dân số thế giới có năng suất giảm 10% khi nhiệt độ tăng thêm 1 °C.

Những ảnh hưởng do khí hậu gây ra trong quá khứ đã được bù đắp bằng những tiến bộ công nghệ trong thời hiện đại và việc ứng dụng phân bón ngày càng cao; tuy nhiên, nhiệt độ tăng trong tương lai có thể làm giảm 25% sản lượng lương thực vào năm 2050.

Bên cạnh đó, các mô hình dân số toàn cầu cho thấy thế giới sẽ có thêm 3 tỷ người vào năm 2050 và các nhà sản xuất lương thực phải tăng gấp đôi sản lượng lương thực để duy trì mức tiêu thụ lương thực hiện tạ

Biến đổi khí hậu là mối đe dọa lớn nhất hiện nay đối với thế giới của chúng ta. Các chính phủ và các doanh nghiệp lớn đang cố gắng tìm ra phương án giải quyết những nhu cầu trước mắt cũng như phương pháp lâu dài.

Nếu chúng ta thành công trong việc đảo ngược sự nóng lên toàn cầu và khôi phục một môi trường trong lành thì đó sẽ là nhờ sự giúp đỡ của những con người có trái tim ấm áp, những người luôn cống hiến và biến thế giới trở thành một nơi tốt đẹp hơn cho tất cả chúng ta.

THAM KHẢO KIẾN THỨC VUI:
Thế giới hiện có khoảng 7,8 tỷ người. Đây là một con số rất lớn. Tuy nhiên, nếu ta quy đổi 7,8 tỷ thành 100% , thì tỷ lệ này trở nên dễ hình dung hơn.
Trong số 100% dân số thế giới:
11% ở Châu Âu
5% ở Bắc Mỹ
9% ở Nam Mỹ
15% ở Châu Phi
60% ở Châu Á
49% sống ở nông thôn
51% ở thành phố
12% nói tiếng Trung
5% nói Tây Ban Nha
5% nói tiếng Anh
3% nói tiếng Ả Rập
3% nói tiếng Hindi
3% nói tiếng Bengali
3% nói tiếng Bồ Đào Nha
2% nói tiếng Nga
2% nói tiếng Nhật
62% nói bằng ngôn ngữ của họ.
77% có nhà ở
23% không có nơi nào để sống.
21% ăn quá nhiều
63% có thể ăn bao nhiêu tùy thích
15% suy dinh dưỡng
48% dân số có chi phí sinh hoạt hằng ngày dưới 2 đô-la Mỹ.
87% dân số có nước sạch
13% hoặc không có nước sạch để uống hoặc tiếp cận với nguồn nước bị ô nhiễm.
75% có điện thoại di động
25% không có.
30% được truy cập Internet
70% không được truy cập Internet
7% có bằng đại học
93% không học đại học hoặc cao đẳng.
83% biết đọc
17% mù chữ
33% theo đạo Cơ đốc
22% theo đạo Hồi
14% người da đỏ
7% theo đạo Phật
12% theo các tôn giáo khác
12% không có tín ngưỡng tôn giáo.
26% sống dưới 14 tuổi
66% chết trong độ tuổi từ 15 đến 64.
8% sống trên 65 tuổi.
Nếu bạn có nhà ở, ăn uống lành mạnh và uống nước sạch, có điện thoại di động, có thể lướt Internet và tốt nghiệp cao đẳng hoặc đại học, bạn đang ở trong một nhóm đặc quyền nhỏ (dưới 7%).

  • Trong 100% dân số trên thế giới, chỉ có 8% có thể sống đến 65 tuổi.
  • Nếu bạn trên 65 tuổi, hãy bằng lòng và biết ơn số phận. Hãy bảo vệ cuộc sống của bạn và trân trọng từng khoảnh khắc còn lại!
    (Theo mạng xã hội Nga).

Tần Thủy Hoàng: Đệ Nhất Bạo Chúa hay Vĩ Nhân Vượt Thời? | Hải Stark | Thế giới

Thời sự quốc tế 11/11: Thực tế) Myanamar đã chia đôi !- Nâng Tầm Kiến Thức https://youtu.be/pDkoW1BK6WM?si=8lBNymuj_3gLTqzb; Sức công phá khủng khiếp của Đập Tam Hiệp nếu bị vỡ sẽ để lại hậu quả vô cùng thảm khốc https://youtu.be/wIe4Oa8rIaU?si=50kRoDFxeiDm5eXN; Nga có tên lửa mới gấp đôi sự sợ hãi, tự khóa mục tiêu và lao tới để phá hủy kinh hoàng https://youtu.be/T0Le-hQvVXo?si=2EjYm5tvlga-LSBf; Israel đã lập thành công tấm bản đồ đặc biệt để xóa sổ mê cung của Hamas | Cuộc sống 24h https://youtu.be/w9rBSkDNfA4?si=gLqfM5soQBYewZAc;

Tâm Linh Phật Giáo Tiên Tri Về Israel Đã Ứng Nghiệm Thần Kỳ Dân Tộc Nào Sẽ Diệt Vong ? https://youtu.be/dPCgkFjTZgc?si=kGU8CXwdaV7c7cXx

Xung đột kéo dài sẽ dẫn tới sự sụp đổ của Ukraine? https://www.youtube.com/watch?v=4Ah94H2sMew

Dân Mỹ Xô Đổ Nhà Trắng, Isarel Thua Trắng Truyền Thông | Kiến Thức Chuyên Sâu 5 11 2023 https://www.facebook.com/100063456130093/videos/283356424685642/

BÀI PHÁT BIỂU “CÓ TẦM NHÌN XA TRÔNG RỘNG” CỦA CHỦ TỊCH KHỐI NGHỊ SĨ ĐẢNG CÁNH TẢ CHÂU ÂU GREGOR GYSI NÓI VỀ QUAN HỆ CỦA EU VỚI NGA.

Thưa quý vị. Nato càng thiếu lòng tin với Nga, càng thể hiện sự thù địch với Nga, càng đẩy Nga xa rời EU thì giá nhiên liệu, khoáng sản, lương thực, phân bón, hóa chất … của Nga càng xa tầm tay của quý vị, vũ khí của người Nga càng bay xa hơn, cao hơn, nhanh hơn, chính xác hơn, sức hủy diệt khủng khiếp hơn. Điều đó đã được minh chứng cụ thể như những gì quý vị đang chứng kiến.

Đã từ lâu Mỹ + EU luôn thường trực 4.000 lệnh cấm vận với Nga, hiện nay đã có vào khoảng 7.000 lệnh cấm vận. Kết quả của những thứ cấm vận tùy tiện của quý vị bây giờ ra sao quý vị có biết? Nên nhớ rằng, nước Nga, lịch sử Nga đã chứng minh: họ không bao giờ bị đánh bại trong những cuộc chiến quân sự – tôi không hề nói quá, không hề tâng bốc người Nga.

Tôi thử hỏi: Nếu nước khác ở vào hoàn cảnh của Nga mà trong tay có những thứ vũ khí khủng khiếp như Nga liệu có giữ được một cái đầu lạnh với những hành xử chuẩn mực được như Nga?

Tôi đã nhiều lần lên tiếng với quý vị – Châu Âu không thể có được hòa bình thực sự nếu thiếu Nga. Câu trả lời đã có trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai – nó vẫn còn đang mới, rất thời sự tại Ukraina hôm nay.

Vậy cuối cùng EU và Nga xung đột với nhau vì cái gì? Ai là người được hưởng lợi? Quý vị có mua dầu khí của người Mỹ rẻ hơn của Nga không? Quý vị có mua khí đốt của Mỹ rẻ hơn của Nga không? Quý vị có mua khoáng sản, hóa chất, lúa mì của Mỹ rẻ hơn của Nga và chắc chắn không đi kèm với điều kiện gì như Nga không?

Nếu không may xảy ra xung đột với Nga – liệu người Mỹ có giữ đúng lời hứa vận dụng điều 5 của Nato ra để bảo vệ đất nước quý vị không? Chắc chắn là không. Bởi vì xin thưa với quý vị – một khi xung đột xảy ra – người Mỹ lúc đó muốn giữ được mạng sống của mình còn không thể thì lấy đâu ra mà cứu quý vị?

Xin quý vị hãy tỉnh táo rồi đọc thật kỹ thông điệp của ông Putin khi nói đến lằn ranh đỏ ám chỉ đến ai? Quý vị nghĩ rằng ông ta nói chuyện đùa để dọa nạt thôi sao? Tôi giả sử: Quý vị cậy đông để tấn công họ từ nhiều phía thì quý vị phải xác định rằng mảnh đất các vị đang đứng ở đây, kể cả nước Mỹ sẽ trở thành sa mạc trước khi quý vị kết thúc bài cầu nguyện…”

St. ĐỖ ĐỨC LẠC.
Trên Zalo 19-8-2023.

Siêu kênh đào 10,3 tỉ USD đổ vào Vịnh Bắc Bộ kéo Trung Quốc lại gần ASEAN | Chuyển động Kinh tế https://youtu.be/TUCjD3Tsi1s https://www.facebook.com/watch/?v=1013472356358921

NhoMeCha

MỘT GIA ĐÌNH YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim


xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/mot-gia-dinh-yeu-thuong/

BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN
Hoàng Kim


Bảo tồn và phát triển
Một gia đình yêu thương
Có một ngày như thế
Cuộc đời thành trang văn

HOÀNG LONG CÂY LƯƠNG THỰC
Cây Lương thực Việt Nam
E-Learning VNUHCM https://elearning-vnuhcm.vn/course/view.php?id=63;
E_Learning NLU Trường tôi nôi yêu thương https://youtu.be/bsZo5e779EA
https://el.hcmuaf.edu.vn/mod/page/view.php?id=4250&forceview=1https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-long-cay-luong-thuc/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cay-luong-thuc-viet-nam/

CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM
Hoàng Kim, Hoàng Long (chủ biên) và đồng sự
http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong

Cách mạng sắn Việt Nam
Chọn giống sắn Việt Nam
Chọn giống sắn kháng CMD
Giống sắn KM419 và KM440
Mười kỹ thuật thâm canh sắn
Sắn Việt bảo tồn phát triển
Sắn Việt Lúa Siêu Xanh
Sắn Việt Nam bài học quý
Sắn Việt Nam sách chọn
Sắn Việt Nam và Howeler
Sắn Việt Nam và Kawano
Sắn Việt và Sắn Thái
Bảo tồn và phát triển sắn
Quản lý bền vững sắn châu Á
Cassava and Vietnam: Now and Then

Lúa siêu xanh Việt Nam
Giống lúa siêu xanh GSR65
Giống lúa siêu xanh GSR90
Gạo Việt và thương hiệu
Hồ Quang Cua gạo ST
Cơm Niêu Vàng Gạo Đông A
Con đường lúa gạo Việt
Chuyện cô Trâm lúa lai
Chuyện thầy Hoan lúa lai
Lúa C4 và lúa cao cây
Lúa sắn Cămpuchia và Lào
Lúa sắn Việt Châu Phi
Lúa Việt tới Châu Mỹ

Giống ngô lai VN 25-99
Giống lạc HL25 Việt Ấn


Giống khoai lang Việt Nam
Giống khoai lang HL518
Giống khoai lang HL491
Giống khoai Hoàng Long
Giống khoai lang HL4
Giống khoai Bí Đà Lạt

Việt Nam con đường xanh
Việt Nam tổ quốc tôi
Vườn Quốc gia Việt Nam
Nông nghiệp công nghệ cao
Nông nghiệp sinh thái Việt
Nông nghiệp Việt trăm năm
IAS đường tới trăm năm
Viện Lúa Sao Thần Nông
Hoàng Thành đến Trúc Lâm
Ngày Hạnh Phúc của em
Có một ngày như thế

Thầy bạn là lộc xuân
Thầy bạn trong đời tôi
Sóc Trăng Lương Định Của
Thầy Quyền thâm canh lúa
Borlaug và Hemingway
Thầy Luật lúa OMCS OM
Thầy Tuấn kinh tế hộ
Thầy Tuấn trong lòng tôi
Thầy Vũ trong lòng tôi
Thầy lúa xuân Việt Nam
Thầy Ngoạn Hồ Núi Cốc
Thầy bạn Vĩ Dạ xưa
Thầy Dương Thanh Liêm
Thầy Hiếu Đêm Giáng Sinh
Phạm Trung Nghĩa Viện Lúa
Phạm Quang Khánh Hoa Đất
Phạm Văn Bên Cỏ May

24 tiết khí nông lịch
Nông lịch tiết Lập Xuân
Nông lịch tiết Vũ Thủy
Nông lịch tiết Kinh Trập
Nông lịch tiết Xuân Phân
Nông lịch tiết Thanh Minh
Nông lịch tiết Cốc vũ
Nông lịch tiết Lập Hạ
Nông lịch tiết Tiểu Mãn
Nông lịch tiết Mang Chủng
Nông lịch tiết Hạ Chí
Nông lịch tiết Tiểu Thử
Nông lịch tiết Đại Thử
Nông lịch tiết Lập Thu
Nông lịch Tiết Xử Thử
Nông lịch tiết Bạch Lộ
Nông lịch tiết Thu Phân
Nông lịch tiết Hàn Lộ
Nông lịch tiết Sương Giáng
Nông lịch tiết Lập Đông
Nông lịch tiết Tiểu tuyết
Nông lịch tiết Đại tuyết
Nông lịch tiết giữa Đông
Nông lịch Tiết Tiểu Hàn
Nông lịch tiết Đại Hàn

Food Crops Ngọc Phương Nam
Nhà sách Hoàng Gia

Video Cây Lương thực chọn lọc :

Cây Lương thực Việt Nam Chuyển đổi số nông nghiệp, Học không bao giờ muộn Cách mạng sắn Việt Nam https://youtu.be/81aJ5-cGp28; Mười kỹ thuật thâm canh sắn : Cassava in Vietnam Save and Grow 1Daklak; Cassava in Vietnam: Save and Grow 2Daklak; Cassava in Vietnam: Save and Grow 3Daklak; Giống sắn KM410 và KM440 ở Phú Yên https://youtu.be/XDM6i8vLHcI; Giống sắn KM419, KM440 ở Đăk Lăk https://youtu.be/EVz0lIJv2N4; Giống sắn KM419, KM440 ở Tây Ninh https://youtu.be/XMHEa-KewEk; https://youtu.be/kjWwyW0hkbU; https://youtu.be/9mZHm08MskE;

VĂN CHƯƠNG NGỌC CHO ĐỜI
Bạch Ngọc Hoàng Kim

Ban mai đứng trước biển
Đảo Yến trong mắt ai
Thăm thẳm một tầm nhìn
Vị tướng của lòng dân


Lời dặn của Thánh Trần
Quốc Công đạo làm tướng
Tiết Chế đức dụng nhân
Văn chương Ngọc cho đời


Biết mình và biết người
Dám đánh và quyết thắng

Ban mai đứng trước biển https://youtu.be/JrvP2Z_K-Rs; Tỉnh thức cùng tháng năm https://youtu.be/kV0lgL3aJ8E ; https://youtu.be/kV0lgL3aJ8E Văn chương Ngọc cho đời https://hoangkimlong.wordpress.com/category/van-chuong-ngoc-cho-doi ; tích hợp https://youtu.be/-vOrp_Ui2NA ; https://youtu.be/ChYxJ8nXxqw ; https://youtu.be/92ysJPiwBJY ; phim hay Tôn Vũ đại truyện tập tám; tập chín ; tập mười. Cuộc đời cao hơn trang văn. Bảo tồn và phát triển tinh hoa di sản là niềm vui SOI SÁNG LẠI CHÍNH MÌNH, lời dặn của Thánh Trần; #cnm365 gồm những trãi nghiệm sâu sắc nhất về #vietnamhoc đất nước con người của chính mình, gia đình, người thân và thầy bạn.; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tiet-che-duc-dung-nhân

CẦU TRỜI NỐI MẸ CHA XƯA
Hoàng Kim

Cầu trời nối mẹ cha xưa
Mưa dày thấm đất, nắng thưa thấu trời
Lời thương giao cảm lòng người
Ngày của Mẹ suốt trọn đời trong con.

RẰM ĐẢN SINH NHỚ MẸ
Hoàng Kim

Đêm Vu Lan nhớ bài thơ đi học
Thấm nhọc nhằn củ sắn, củ khoai
Nhớ tay Chị gối đầu khi Mẹ mất
Thương lời Cha căn dặn học làm Người…

Chùm thơ Rằm Đản Sinh Nhớ Mẹ 8 -15 tháng 5 bảo tồn và phát triển tại Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tho-tu-tuyet-hoang-kim và Ngày mới Ngọc cho đời https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ngay-moi-ngoc-cho-doi/

HOÀNG NGỌC DỘ KHÁT VỌNG
Hoàng Ngọc Dộ và Hoàng Kim


Hoàng Ngọc Dộ (1937-1994) là nhà giáo. Ông quê ở xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch (nay là thị xã Ba Đồn), tỉnh Quảng Bình. Mẹ mất sớm. Nhà nghèo. Cha bị bom Mỹ giết hại. Ông đã nổ lực nuôi dạy các em vượt qua gian khổ, nghèo đói và chiến tranh để vươn lên trở thành những gia đình thành đạt và hạnh phúc. Gương nghị lực vượt khó hiếm thấy, ăn ngày một bữa suốt năm năm, nuôi hai em vào đại học với sự cưu mang của thầy bạn và xã hội đã một thời lay động sâu xa tình cảm thầy trò Trường Cấp Ba Bắc Quảng trạch (Quảng Bình). Ông mất sớm, hiện còn lưu lại gần 100 bài thơ. Lời thơ trong sáng, xúc động, ám ảnh, có giá trị khích lệ những em học sinh nhà nghèo, hiếu học. Anh Hai Hoàng Ngọc Dộ cũng là người Thầy dạy học đầu tiên cho Hoàng Kim: “Dặn con cháu khiêm nhu cần kiệm”; “Cảnh mãi đeo người được đâu em Hết khổ, hết cay, hết vận hèn Nghiệp sáng đèn giời đà chỉ rõ Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen”;”Không vì danh lợi đua chen. Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân”; “Soi mặt mình trong gương không bằng soi mặt mình trong lòng người”; “Có những di sản tỉnh thức cùng lương tâm, không thể để mất vì không thể tìm lại Hoàng Ngọc Dộ Khát vọng;

KHÁT VỌNG
Hoàng Ngọc Dộ

Cảnh mãi theo người được đâu em
Hết khổ hết cay hết vận hèn
Nghiệp sáng đèn giời đà chỉ rõ
Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen.

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-ngoc-do-khat-vong

ÁNH SAO
Hoàng Ngọc Dộ

Bóng đêm trùm kín cả không trung
Lấp lánh phương Đông sáng một vừng
Mây bủa, mây giăng còn chẳng ngại
Hướng nhìn trần thế bạn văn chương.

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ram-dan-sinh-nho-me/

Ngày của Mẹ trong con

MẸ ĐI THANH THẢN,
CHÚNG CON NHỚ NGƯỜI

Hoàng Trung Trực

Mẹ đi về chốn vĩnh hằng
Quên đi bao nỗi nhọc nhằn Mẹ ơi
Thế là Mẹ đã xa rồi
Vành khăn tang thấm nghĩa đời chúng con

Tháng ngày lời Mẹ chẳng còn
Mẹ đi thanh thản, chúng con nhớ người
Gần trăm năm sống với đời
Biết bao gian khổ cuộc đời Mẹ lo

Có ngày cơm chẳng đủ no
Vầng trăng trí tuệ Mẹ lo chu toàn
Cho con khôn lớn bình an
Vượt lên số mệnh, hiên ngang với đời

Kiến thức khoa học sáng ngời
Hiền tài giúp nước, giúp đời Mẹ ơi!

NhoMeCha

CẦU TRỜI NỐI MẸ CHA XƯA
Hoàng Kim

Cầu trời nối mẹ cha xưa
Mưa dày thấm đất, nắng thưa thấu trời
Lời thương giao cảm lòng người
Ngày của Mẹ suốt trọn đời trong con.

A NA TÌM ĐƯỢC NGỌC
Hoàng Tố Nguyên #ana #htn #hoanggia

#ana 31 https://youtu.be/MXynLyuFMDk
#ana 30 https://youtu.be/7hbMT-9BiT0
#ana 29 https://youtu.be/xKCZjmpX2yE
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ana
https://hoangkimvn.wordpress.com/category/ana

HOÀNG TỐ NGUYÊN TIẾNG TRUNG
黄素源 (越南) Hoàng Tố Nguyên Việt Nam
#htn #htn365 #vietnamxahoihoc #cnm365 https://hoangkimvn.wordpress.com/tag/htn

XÃ HỘI VIỆT NAM 越南社会
Hoàng Tố Nguyên
#htn #vietnamxahoihoc #vietnamhoc #cnm365 https://hoangkimvn.wordpress.com

“Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Lời Chủ tịch Hồ Chí Minh trích trong “Thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa , ngày 15.9. 1945. #cnm365

Việt Nam xã hội học (越南社会学; Vietnamese Sociology) Ngữ văn Việt Trung Anh đối chiếu là môn học gồm bảy bài: Xã hội Việt Nam ngày nay; Nông nghiệp sinh thái Việt; Ngành nghề ở Việt Nam; Vùng sinh thái Việt Nam; Du lịch sinh thái Việt; Nước Việt Nam ngày nay; Việt Nam con đường xanh, với 36 tiểu mục.

Bài 1 Xã hội Việt Nam ngày nay gồm có 5 tiểu mục 1.1 Việt Nam một khái quát; 1.2 Việt Nam con đường xanh; 1.3 Việt Nam tâm thế mới; 1.4 Việt Nam sáng tạo KHCN; 1.5 Việt Nam dư địa chí

Bài 2 Nông nghiệp sinh thái Việt gồm có 5 tiểu mục: 2.1 Phát triển nông thôn mới; 2.2 Chương mục tiêu quốc gia; 2.3 Nông nghiệp công nghệ cao; 2.4 Nông nghiệp Việt trăm năm; 2.5 Chuyển đổi số nông nghiệp.

Bài 3 Ngành nghề ở Việt Nam gồm có 5 tiểu mục: 3.1 Minh triết Hồ Chí Minh 3.2 Ngành nghề Việt Nam ngày nay; 3.3 Chuyển đổi số Quốc Gia;3.4 Việt Nam tâm thế mới; 3.5 Việt Nam học tinh hoa

Bài 4 Vùng sinh thái Việt Nam gồm có 5 tiểu mục 4.1 Vùng kinh tế Việt Nam; 4.2 Vùng kinh tế động lực; 4.3 Làng Việt xưa và nay; 4.4 Ngôn ngữ văn hóa Việt; 4.5 Tiếng Việt lung linh sáng

Bài 5 Du lịch sinh thái Việt gồm có 5 tiểu mục: 5.1 Hà Nội mãi trong tim; 5.2 Quê Mẹ vùng di sản, 5.3 Ân tình đất phương Nam; 5.4 Bản Giốc và Ka Long; 5.5 Giếng Ngọc vườn Tao Đàn

Bài 6 Nước Việt Nam ngày nay gồm có 5 tiểu mục: 6.1 Phát triển nông thôn mới; 6.2 Bảo tồn và phát triển; 6.3 Chuyển đối số Quốc gia; 6.4 Vườn Quốc Gia Việt Nam; 6.5 Di sản Thế giới tại Việt Nam

Bài 7 Việt Nam con đường xanh gồm có 5 tiểu mục: 7.1 Minh triết Hồ Chí Minh; 7.2 Đường xuân theo chân Bác; 7.3 Chung sức trên đường xuân; 7.4 Ca dao Việt ‘Cày đồng’; 7.5 Dạo chơi non nước Việt

  1. THÔNG TIN MÔN HỌC

Tên môn học: Xã hội Việt Nam 越南社

Khoa /Bộ môn, giảng viện phụ trách giảng dạy

Khoa Ngữ Văn Trung Quốc

Giảng viên phụ trách giảng dạy: TS. Hoàng Tố Nguyên

Email tonguyenhoang@hcmussh.edu.vn

2.TÓM TẮT NỘI DUNG MÔN HỌC  

Bài 1 Xã hội Việt Nam ngày nay

1.1 Việt Nam một khái quát

1.2 Việt Nam con đường xanh

1.3 Việt Nam tâm thế mới

1.4 Việt Nam sáng tạo KHCN

1.5 Việt Nam dư địa chí

Bài 2 Nông nghiệp sinh thái Việt

2.1 Phát triển nông thôn mới

2.2 Chương mục tiêu quốc gia

2.3 Nông nghiệp công nghệ cao

2.4 Nông nghiệp Việt trăm năm

2.5 Chuyển đổi số nông nghiệp

Bài 3 Ngành nghề ở Việt Nam

3.1 Minh triết Hồ Chí Minh

3.2 Ngành nghề Việt Nam ngày nay

3.3 Chuyển đổi số Quốc Gia

3.4 Việt Nam tâm thế mới

3.5 Việt Nam học tinh hoa

Bài 4 Vùng sinh thái Việt Nam

4.1 Vùng kinh tế Việt Nam

4.2 Vùng kinh tế động lực

4.3 Làng Việt xưa và nay

4.4 Ngôn ngữ văn hóa Việt

4.5 Tiếng Việt lung linh sáng

Bài 5 Du lịch sinh thái Việt

5.1 Hà Nội mãi trong tim

5.2 Quê Mẹ vùng di sản

5.3 Ân tình đất phương Nam

5.4 Bản Giốc và Ka Long

5.5 Giếng Ngọc vườn Tao Đàn

Bài 6 Nước Việt Nam ngày nay

6.1 Phát triển nông thôn mới

6.2 Bảo tồn và phát triển

6.3 Chuyển đối số Quốc gia

6.4 Vườn Quốc Gia Việt Nam

hoặc chủ đề Chuyển đổi số nông nghiệp

6.5 Di sản Thế giới tại Việt Nam

hoặc chủ đề Gia đình văn hóa mới

Bài 7 Việt Nam con đường xanh

7.1 Minh triết Hồ Chí Minh

7.2 Đường xuân theo chân Bác

7.3 Chung sức trên đường xuân

7.4 Ca dao Việt ‘Cày đồng’

hoặc chủ đề Tiếng Việt lung linh sáng

7.5 Dạo chơi non nước Việt

(Việt Nam Tổ Quốc tôi 我生命中的越南 Vietnam in my life)

3.TÀI LIỆU HỌC TẬP

Tài liệu học tập chính

Bảy bài giảng Xã hội Việt Nam. Tài liệu này đang dần bổ sung hoàn thiện. https://hoangkimvn.wordpress.com https://cnm365.wordpress.com

Tài liệu tham khảo

1. Luật sư Bùi Thị Nhung Sự phát triển của xã hội học trên Thế giới và Việt Nam. https://luatminhkhue.vn/su-phat-trien-cua-xa-hoi-hoc-tren-the-gioi-va-viet-nam.aspx 

2. PGS. TS Nguyễn Tuấn Anh Ngành Xã hội học: Nhận diện bản chất sự kiện, hiện tượng, vấn đề… https://ussh.vnu.edu.vn/vi/dao-tao/tuyen-sinh-gioi-thieu-nganh-hoc/nganh-xa-hoi-hoc-nhan-dien-ban-chat-su-kien-hien-tuong-van-de-20001.html

3. TS Hoàng Tố Nguyên  #htn #cnm365 https://cnm365.wordpress.com

4. TS. Trần Minh Chiến 2008. Sự phát triển của xã hội học tại Việt Nam Luận án Tiến sĩ Thư viện Quóc gia Việt Nam   luanan.nlv.gov.vn/luanan?a=d&d=TTcFfqzMbnDC2011.1.5#

5. TS. Võ Văn Việt Xã hội học đại cương https://www2.hcmuaf.edu.vn/data/vvviet/Bai%20giang%20sixth%20edition.pdf

6. Việt Nam Wikipedia Tiếng Việt

7.Việt Nam xã hội học Hội xã hội học Việt Nam, Xã hội học, Tài liệu, trao đổi học thuật, tài liệu học thuật, lý thuyết xã hội học, giáo trình xã hội học, luận văn xã hội học https://vsa.net.vn . Lưu ý những tài liệu tham khảo chỉ số trích dẫn cao

Bộ Nội Vụ & Quỷ Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam 1015. Báo cáo Quốc Gia về Thanh Niên Việt Nam, Hà Nội tháng 6 năm 2015. Lời giới thiệu của Thứ trưởng Bộ Nội Vụ Nguyễn Duy Thăng và Quyền Trưởng Đại Diện Quỷ Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam Ritsu Nacken. Tài liệu gồm 3 phần, 7 chương, 43 biểu đồ, 12 bảng, 1 tóm tắt , 88 trang.

Nguyễn Hữu Minh (Chủ biên) 2020. Kết hôn và trãi nghiệm hôn nhân tại Việt Nam, Viện Hàn Lâm Khoa Học Việt Nam, Viện Nghiên Cứu Gia Đình và Giới (Sách chuyên khảo) Hà Nội 2020, Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội GSTS Nguyễn Hữu Minh, PGS TS Phan Thị Mai Hương, TS Đỗ Thị Lệ Hằng, TS Trần Thị Hồng, TS Lê Ngọc Lân, TS Vũ Thị Thanh, TS Bùi Thị Hương Trầm, ThS. Hà Thị Minh Khương, ThS Trần Quý Long, ThS Phạm Phương Thảo, ThS Đặng Thị Thu Trang, 256 trang.

Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư Tổng Cục Thống Kê Tổng Điều Tra Dân Số Và Nhà Ở Việt Nam 2009. Di Cư và Đô Thị Hóa Ở Việt Nam: Thực Trạng, Xu Hướng Và Những Khác Biệt, 73 trang

Nhóm công tác của Ngân Hàng Thế Giới (6 thành viên) và ADB, DFID, CIDA 2006. Đánh Giá Tình Hình Giới Ở Việt Nam, tháng 12, 2006, 94 trang

Sách in trong nước (tiếng Việt và tiếng Anh):

  1. Di cư nội địa và đô thị hóa ở Việt Nam (Internal Migration and Urbanization in Vietnam). (Đồng tác giả: Đặng Nguyên Anh, Trịnh Duy Luân, và Nguyễn Hữu Minh). Chuyên khảo phân tích số liệu Tổng điều tra dân số Việt Nam 1999. Xuất bản bằng hai thứ tiếng Anh-Việt.
  2. Đình Quang, Lương Hồng Quang, Tô Duy Hợp, Nguyễn Hữu Minh, Nguyễn Tuấn Anh, Nguyễn Thị Minh Phương, Bùi Hoài Sơn, Nguyễn Thị Hiền, Phạm Nam Thanh Đời sống văn hóa đô thị và khu công nghiệp Việt Nam. Nhà xuất bản văn hóa-thông tin. Hà Nội. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Thống kê, UNICEF, Viện Gia đình và Giới 2008. Kết quả Điều tra Gia đình Việt Nam năm 2006. Nguyễn Hữu Minh chịu trách nhiệm nội dung báo cáo tổng hợp.
  3. Trần Thị Vân Anh, Nguyễn Hữu Minh (chủ biên), Bình đẳng giới ở Việt Nam: Phân tích số liệu điều tra,Nxb Khoa học xã hội, H.2008.
  4. Nguyễn Hữu Minh và Trần Thị Vân Anh (chủ biên, cùng một số tác giả) 2009 Nghiên cứu Gia đình và Giới ở Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Hà Nội.
  5. Nguyễn Hữu Minh (chủ biên), Đặng Nguyên Anh, Vũ Mạnh Lợi 2009. Dân số Việt Nam qua các nghiên cứu xã hội học (tuyển tập một số công trình nghiên cứu gần đây). NXB Khoa học xã hội. (hai tập).
  6. Tổng cục Dân số-KHHGĐ, Tổng cục Thống kê và Ngân hàng phát triển châu Á
  7. Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam lần thứ 2 (Survey Assessment on Vietnamese Youth-Round 2 -SAVY 2). Hai tác giả Vũ Mạnh Lợi và Nguyễn Hữu Minh chịu trách nhiệm nội dung. Xuất bản bằng hai thứ tiếng Việt- Anh.Vu Manh Loi and Nguyen Huu Minh 2010. Survey Assessment on Vietnamese Youth-Round 2 (SAVY 2) (Dieu tra quoc gia ve vi thanh nien va thanh nien Viet Nam lan thu 2). Tong cuc Dan so-KHHGD, Tong cuc Thong ke va Ngan hang phat trien chau A xuat ban.
  8. Nguyen Thanh Liem and Nguyen Huu Minh 2011. Migration and Urbanization in Viet Nam: Patterns, trends and differentials. Monograph in English and Vietnamese.130 pages for each language. Published by UNFPA and GSO. Tổng cục Thống kê và UNFPA 2011. Di cư và Đô thị hóa : Thực trạng, xu hướng và những khác biệt.(Chuyên khảo Tổng Điều tra Dân số 2009). Hai tác giả Nguyễn Thanh Liêm và Nguyễn Hữu Minh chịu trách nhiệm nội dung. Xuất bản bằng hai thứ tiếng Việt- Anh.
  9. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Viện Gia đình và Giới, UNICEF 2011. Các mối quan hệ trong gia đình Việt Nam (Một số kết quả phân tích sâu Điều tra Gia đình Việt Nam 2006). Tác giả Nguyễn Hữu Minh chịu trách nhiệm nội dung. Nhà xuất bản KHXH. Xuất bản bằng hai thứ tiếng Việt-Anh.
  10. Việc làm bền vững đối với lao động giúp việc gia đình ở Việt Nam: Báo cáo nghiên cứu. Nguyễn Hữu Minh là chủ biên về nội dung. NXB Lao động xã hội. Research on Decent Work for Domestic Workers (DWDW) in Vietnam.
  11. Nata Duvvry, Nguyễn Hữu Minh và Patricia Carney 2013. Ứơc tính thiệt hại kinh tế do bạo lực đối với phụ nữ tại Việt Nam (tiếng Việt và tiếng Anh). UN tại Việt Nam xuất bản. Estimating the costs of domestic violence against women in Vietnam.
  12. Trần Tuyết Ánh, Nguyễn Hữu Minh, Hoa Hữu Vân (đồng chủ biên và viết các chương) 2013-In xong và phát hành 2014. Bạo lực gia đình ở Việt Nam và giải pháp phòng, chống (Phân tích số liệu điều tra năm 2012). NXB Lao động, Hà Nội. Nguyễn Hữu Minh (Chủ biên và viết một số chương) 2014. Đời sống văn hóa cư dân Hà Nội. Nhà XB KHXH, Hà Nội. ISBN: 9786049-024689
  13. Nguyễn Hữu Minh (Chủ biên và viết 1 bài) 2014. Gia đình Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội. 2014. ISBN: 9786049-024672.
  14. Nguyễn Hữu Minh 2016. Hôn nhân trong xã hội Việt Nam đương đại. NXB KHXH.ISBN: 9786049-446276
  15. Võ Khánh Vinh và Nguyễn Hữu Minh (chủ biên) 2017. Các chiều cạnh giới của sự tách biệt xã hội hướng tới chính sách toàn diện hơn đối với phụ nữ. Đồng thời là tác giả của bài “Các chiều cạnh giới của sự tách biệt xã hội: Hướng tới những chính sách toàn diện hơn đối với phụ nữ” trong cuốn sách. NXB KHXH. ISBN: 9786049-447655
  16. Nguyễn Thị Bích Thúy, Nguyễn Hữu Minh, Vũ Phương Ly, Hoàng Hiệp. 2017. Số liệu về phụ nữ và nam giới các dân tộc ở Việt Nam năm 2015 qua kết quả điều tra thực trạng kinh tế-xã hội 53 dân tộc thiểu số ở Việt Nam năm 2015. Tiếng Việt và tiếng Anh. Sách do Ủy ban Dân tộc, UNWomen và Irish Aid xuất bản.
  17. Nguyễn Hữu Minh và Đặng Thị Hoa (Đồng chủ biên): Bình đẳng giới ở vùng Dân tộc thiểu số ở Việt Nam. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2020. ISBN: 978-604-956-971-5. 343 trang.
  18. Nguyen Huu Minh and Le Thuy Hang, 2021. The Role of Social Organizations in Implementing Social Welfare Policies toward the Elderly in Vietnam (Vai trò của tổ chức xã hội trong thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với người cao tuổi ở Việt Nam). In the Country Report Vietnam: Vietnam as an Aging Society (No 1, 2020).Edited by Detlef Briesen and Pham Quang Minh. (Pp. 69-82, Eng and 197-212 Vietnamese). Thanh Nien Publishing House.
  19. Nguyễn Hữu Minh (Chủ biên).2021. Kết hôn và trải nghiệm hôn nhân ở Việt Nam. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. ISBN: 978-604-308-327-9.
  20. Đồng Chủ biên sách Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế. “RC06-VSA International Conference The Family in Modern and Global Societies: Persistence and Change – Lens from Vietnam”.NXB Tri thức, Hà Nội, 2022. ISBN: 978-604-340-033-5
Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là vietnamtoquoctoi.jpg

Bài 1
XÃ HỘI VIỆT NAM NGÀY NAY
当今越南社会 Vietnamese society today

Việt Nam một khái quát; Việt Nam con đường xanh; Việt Nam tâm thế mới; Việt Nam sáng tạo KHCN; Việt Nam dư địa chí là năm chủ đề được nghiên cứu và giảng dạy trong Bài 1 Xã hội Việt Nam ngày nay của Việt Nam học; Việt Nam xã hội học (越南社会学; Vietnamese Sociology) Ngữ văn Việt Trung Anh đối chiếu 学越中文 Tổng quan về Xã hội Kinh tế Văn hóa Việt Nam 越南社会经济和文化概述, Cây Lương thực Việt Nam; CNM365; Tình yêu cuộc sống https://hoangkimvn.wordpress.com/category/viet-nam-xa-hoi-hoc

VIỆT NAM MỘT KHÁI QUÁT

Việt Nam quốc hiệu Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, diện tích 331.690 km², nằm ở phía đông bán đảo Đông Dương, thuộc khu vực Đông Nam Á. Việt Nam có đường biên giới trên đất liền dài 4.639 km, chung với ba quốc gia, phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây giáp Lào và Campuchia, phía đông là biển Đông. Việt Nam có đường bờ biển dài 3.260 km, chung đường biên giới trên biển với Thái Lan qua vịnh Thái Lan và với Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Brunei, Malaysia qua Biển Đông. ‎Nhân khẩu Việt Nam dân số năm 2023 là 99.906.790 người vào 30 Tháng Bảy, được cập nhật hằng ngày, đứng thứ 13 thế giới.

Hà Nội là thủ đô, thành phố trực thuộc trung ương và là một trong hai đô thị loại đặc biệt, trung tâm văn hóa và giáo dục của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, có diện tích 3.360 km², và dân số 8,4 triệu người năm 2023.

Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố lớn nhất Việt Nam, thành phố trực thuộc trung ương, đô thị đặc biệt, trung tâm kinh tế, giải trí, văn hóa và giáo dục tại Việt Nam, có diện tích 2.095 km2 và dân số 9,3 triệu người năm 2023

Việt Nam phân cấp hành chính có năm thành phố trực thuộc Trung ương gồm Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ.và 58 tỉnh trong bảy vùng sinh thái kinh tế nông nghiệp du lịch Việt Nam : xem tiếp https://hoangkimvn.wordpress.com/category/viet-nam-mot-khai-quat

1) Vùng Trung du và vùng núi phía Bắc có 14 tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình cùng 21 huyện, một thị xã phía Tây của hai tỉnh Thanh HóaNghệ An; 2) Vùng Đồng bằng sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc có 2 thành phố trực thuộc trung ương Hà Nội, Hải Phòng,và 9 tỉnh Bắc Ninh, Hà Nam, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh. 3) Vùng Bắc Trung Bộ có 6 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế ; 4) Vùng Nam Trung Bộ có 1 thành phố trực thuộc trung ương Đà Nẵng và 6 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Khánh Hòa, Ninh Thuận; 5) Vùng Tây Nguyên có 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk NôngLâm Đồng. 6) Vùng Đông Nam Bộ có 1 thành phố trực thuộc trung ương Thành phố Hồ Chí Minh và 5 tỉnh: Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Đồng NaiTây Ninh.7) Vùng Đồng Bàng Sông Cửu Long có 1 thành phố trực thuộc trung ương là Cần Thơ và 12 tỉnh: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Bạc LiêuCà Mau

Dân tộc, Văn hóa, Ngôn ngữ Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó người Kinh là chủ yếu chiếm 85,32%, 53 dân tộc thiểu số. Việt Nam là nước có nền văn hóa đa dạng. Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức của Việt Nam, ngôn ngữ mẹ đẻ của trên 90 triệu người, cũng được các kiều dân sử dụng tại nhiều quốc gia khác như Hoa Kỳ, Pháp, Úc, Campuchia.

Tôn giáo chính 86,32% Tín ngưỡng hoặc Không tôn giáo; 7,1% Kitô giáo; 4,79% Phật giáo; 1,02% Hòa Hảo giáo; 0,58% Đạo Cao Đài ; 0,19% tôn giáo khác [2]

Bản đồ địa hình Việt Nam. Được tạo với GMT từ dữ liệu GLOBE được phát hành công khai Topographic map of Vietnam. Created with GMT from publicly released GLOBE data

Địa lý Việt Nam Đất nước Việt Nam (tọa độ địa lý: Kinh tuyến: 102°8′ – 109°27′ Đông; Vĩ tuyến: 8°27′ – 23°23′ Bắc) nằm ở cực Đông Nam bán đảo Đông Dương chiếm diện tích khoảng 329.314 km2. Biên giới Việt Nam giáp với vịnh Thái Lan ở phía nam, vịnh Bắc Bộ và Biển Đông ở phía đông, Trung Quốc ở phía bắc, Lào, và Campuchia phía tây. Đất nước có hình chữ S và khoảng cách từ bắc tới nam là khoảng 1.650km, vị trí hẹp nhất theo chiều đông sang tây là 50km. Với đường bờ biển dài 3.260 km không kể các đảo, Việt Nam tuyên bố 12 hải lý ranh giới lãnh hải, thêm 12 hải lý tiếp giáp nữa theo thông lệ và vùng an ninh, và 200 hải lý làm vùng đặc quyền kinh tế. Xem tiếp…

Lịch sử Việt Nam được bắt đầu cách đây khoảng 3000 đến 4000 năm.( từ 1000 đến 2000 năm trước Công Nguyên) Hùng Vương trị vì nước Văn Lang của người Lạc Việt từ khoảng thế kỷ 7 TCN tại khu vực miền Bắc Việt Nam ngày nay. Đến thế kỷ thứ 3 TCN, Thục Phán lập nên nước Âu Lạc, sau đó Triệu Đà đánh chiếm Âu Lạc, Quế Lâm tạo ra nước Nam Việt. 111 TCN, quân của Hán Vũ Đế xâm lược nước Nam Việt. Sau 1000 năm Bắc thuộc, người Việt giành độc lập, Đinh Tiên Hoàng đặt tên nước là Đại Cồ Việt năm 968. Năm 1054 Đại Cồ Việt được đổi thành Đại Việt..Trải qua nhiều thế kỷ với các triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn, từ giữa thế kỷ 19, Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp. Sau Cách mạng tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được khai sinh. Trận Điện Biên Phủ năm 1954 đánh dấu sự chấm dứt của người Pháp trên lãnh thổ, nhưng Việt Nam bị chia thành hai quốc gia: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, nước Việt Nam thống nhất và từ ngày 2 tháng 7 năm 1976, chính thức mang tên Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Việt Nam ngày nay thể chế chính trị quốc gia là chế độ xã hội chủ nghĩa với đảng chính trị duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam. Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới từ ngày 11 tháng 1 năm 2007, Việt Nam chính thức được bầu làm thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2008-2009.vào ngày 16 tháng 10 năm 2007,tại phiên họp Đại hội đồng Liên Hợp Quốc ở New York, Xem tiếp…

Chính trị Việt Nam. Hệ thống chính trị Việt Nam theo chế độ xã hội chủ nghĩa, thực hiện theo cơ chế chỉ có duy nhất một đảng chính trị (là Đảng Cộng sản Việt Nam) lãnh đạo, với tôn chỉ là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ thông qua cơ quan quyền lực là Quốc hội Việt Nam. Người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam là một Tổng bí thư. Tổng bí thư hiện nay là ông Nguyễn Phú Trọng. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Đứng đầu Quốc hội là Chủ tịch Quốc hội. Chủ tịch Quốc hội hiện nay là ông Vương Đình Huệ. Chủ tịch nước là là người đứng đầu Nhà nước Việt Nam, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh Việt Nam. Chủ tịch nước là một trong số các đại biểu Quốc hội Việt Nam do toàn thể Quốc hội bầu ra. Chủ tịch nước hiện nay là ông Võ Văn Thưởng. Thủ tướng là người đứng đầu Chính phủ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội] theo đề cử của Chủ tịch nước. Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt động của Chính phủ và những nhiệm vụ được giao; báo cáo công tác của Chính phủ và của mình trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước Thủ tướng chính phủ hiện nay là ông Phạm Minh Chính. Chính phủ Việt Nam hiện nay có 18 Bộ, 4 cơ quan ngang Bộ và 8 đơn vị trực thuộc[7][8]. Xem tiếp…

Hình 3: Bản đồ Hành chính Việt Nam

Nguồn: https://hoangkimvn.wordpress.com/category/viet-nam-mot-khai-quat Tham khảo https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-thong-tin-khai-quathttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-to-quoc-toi/

VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH

Bác Hồ nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành“. Việt Nam con đường xanh, chính ngữ “Việt Nam Dân Chủ Công Hòa Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc” đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh, trịnh trọng xác định trên tất cả các văn bản hành chính Nhà nước, kể từ ngày khai sinh nước Việt Nam mới, 2 tháng 9 năm 1945. Đó là Minh triết Hồ Chí Minh.

Nước Việt Nam ngày nay xác định chiến lược “Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Định hướng chiến lược quốc gia, phương hướng nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế xã hội 2021-2030 của Đảng và Nhà Nước Việt Nam đã xác định 10 giải pháp cơ bản:

1) Tập trung hoàn thiện nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước và thị trường.

2) Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế;

3) Phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế;

4) Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm thực chất, hiệu quả; phát triển nền kinh tế số; thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô;

5) Phát triển kết cấu hạ tầng, kinh tế vùng, kinh tế biển, lấy các đô thi làm động lực phát triển vùng và đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới;

6) Phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân;

7) Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai;

8) Củng cố, tăng cường quốc phóng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia;

9) Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập và vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế;

10) Tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động; đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tạo đột phá trong cải cách hành chính.

Tham khảo https://hoangkimvn.wordpress.com/category/viet-nam-con-duong-xanh

VIỆT NAM TÂM THẾ MỚI

Bác Hồ có các bài thơ “Chợt gặp mai đầu suối” “Chơi chữ” “Song thập nhất”,”Thướng sơn” “Rằm tháng Giêng”, “Tầm hữu vị ngộ” hay và lạ. Đó là những câu thơ lưu lạc ẩn ngữ giữa đời thường. Hồ Chí Minh là người chuộng kinh Dịch và rất tinh tế. Bác thường có những ứng xử ngẫu nhiên phù hợp với quy luật tất nhiên. Hồ Chí Minh trọn đời minh triết viết và nói thường có ẩn ý. Thơ Bác viết vào những ngày đầu khởi lập nước Việt Nam mới, là kỳ thư kinh Dịch độc đáo, một luận giải sứ mệnh và tự đánh giá của Bác:Cụ Nguyễn Phú Trọng ngày nay cũng là một hiền nhân có những kiến giải tinh tế xác lập lối ứng xử ‘hợp tình hợp lý” Việt Nam tâm thế mới được nhân dân Việt Nam và bầu bạn quốc tế thật sự tôn quý Nghiên cứu “Minh triết Hồ Chí Minh” và bài viết của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, giúp thấu hiểu sự hình thành và phát triển Việt Nam tâm thế mới của xã hội Việt Nam ngày nay;

Tham khảo https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-tam-the-moi

VIỆT NAM SÁNG TẠO KHCN

Việt Nam đổi mới công nghệ là chủ đề được quan tâm trong xã hội Việt Nam ngày nay Hình video là giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan Hiệu Trưởng Học viện Nông nghiệp Việt Nam, VNUA, HVNN, trường đại học hàng đầu đào tạo và nghiên cứu, chuyển giao lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế, phát triển nông thôn, phát biểu trên VTV1 đề xuất ba vấn đề Việt Nam con đường xanh, nóng hổi tính thời sự: 1) Cần quan tâm đặc biệt lĩnh vực nông nghiệp, là trụ đỡ của nền kinh tế Việt Nam, trong và sau dịch Covid19, chú trọng giống, logistic; chuỗi cung ứng sản xuất, chế biến, tiêu thụ; và lĩnh vực quản lý tài chính; 2) Cần có chương trình hành động và giải pháp đột phá theo tinh thần Nghị quyết 52 của Bộ Chính Trị và .Nghị quyết 50 của Chính Phủ; 3) Thể chế hóa Mô hình doanh nghiệp khởi nguồn công nghệ Việt Nam là một khâu đột phá để Việt Nam đổi mới kỹ thuật, khoa học, công nghệ, đưa nhanh giống mới và quy trình kỹ thuật canh tác tiến bộ vào thực tiễn sản xuất

Tham khảo https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-sang-tao-khcn

VIỆT NAM DƯ ĐỊA CHÍ

Việt Nam ta có hai tiếng đất nước.Có đất có nước thì mới thành Tổ quốc. Nhiều nước quá thì lũ lụt, “ít nước quá thì hạn hán. Nhiệm vụ của chúng ta là phải điều hòa giữa đất và nước để nâng cao đời sống nhân dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội” (Lời Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị Thủy lợi toàn miền Bắc).

Tổng tập Dư địa chí Việt Nam, sách bốn tập. Biên mục trên xuất bản phẩm của Thư Viện Quốc gia Việt Nam:

Tổng tập Dư địa chí Việt Nam / Lê Tắc, Nguyễn Trãi, Phan Huy Chú…Bùi Văn Vượng chủ biên, Cao Giang hiệu đính, Nhà Xuất Bản Thanh Niên 2011. Tập 1 Dư địa chí toàn quốc (Quốc chí) 1248 trang,

Tổng tập Dư địa chí Việt Nam / Phan Huy Chú.Lương Văn Can, Trúc Khê Ngô Văn Triện , Đào Duy Anh…Bùi Văn Vượng chủ biên, Cao Giang hiệu đính, Nhà Xuất Bản Thanh Niên 2011 Tập 2 Dư địa chí toàn quốc (Quốc chí) 1568 trang ;

Tổng tập Dư địa chí Việt Nam / Dương Văn An, Trịnh Hoài Đức, Lê Quý Đôn…..Bùi Văn Vượng chủ biên, Cao Giang hiệu đính, Nhà Xuất Bản Thanh Niên 2011 Tập 3 Dư địa chí địa phương (Phương chí) 1344 trang,

Tổng tập Dư địa chí Việt Nam / Trương Vĩnh Ký, M.E Levadoux, Đỗ Đình Nghiêm,…..Bùi Văn Vượng chủ biên, Chu Văn Mười hiệu đính, Nhà Xuất Bản Thanh Niên 2011 Tập 4 Dư địa chí địa phương (Phương chí) 1196 trang.

Việt Nam dư địa chí là sách Việt Nam đất nước học do các triều đại Việt Nam qua các thời tổ chức biên soạn, hay do những nhà văn hóa trí thức uyên bác của các thời tự biên soạn, ấn hành và phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Kiến thức trong loại sách này là những tri thức bách khoa toàn thư đa ngành và liên ngành, là di sản văn hóa dân tộc đúc kết thành văn, phản ảnh tại thời ấy về đất nước, con người, quê hương, xứ sở. Đây là loại sách công cụ quý hiếm bách khoa thư giúp khảo cứu, so sánh, đối chiếu xưa và nay, để giải đáp các vấn đề cấp thiết của đời sống kinh tế văn hóa xã hội hiện tại. Sách rất cần cho giảng day và nghiên cứu.Mục lục Tổng tập dư địa chí Việt Nam, bốn quyển

TẬP 1
Lời nói đầu, trang 11
Lời người biên soạn, trang 13
Tổng luận Dư địa chí Việt Nam, trang 19

An Nam chí lược (Lê Tắc) trang 61
Dư địa chí (Nguyễn Trãi) trang 537
Hồng Đức bản đồ (Triều Lê) trang 681
Hoàng Việt dư địa chí (Phan Huy Chú) trang 891
Phương Đình dư địa chí (Nguyễn Văn Siêu) trang 1029

TẬP 2
Đề dẫn Tập 2 (trang 7)
Dư địa chí, Nhân vật chí, Quan chức chí (Phan Huy Chú) trang 9
Đại Nam nhất thống chí (Trích) Quốc sử quán triều Nguyễn [biên soạn] trang 601
Đại Việt địa dư (Lương Văn Can) trang 1201
Lịch sử Nam Tiến của dân tộc Việt Nam (Trúc Khê Lê Văn Triện) trang 1247
Đất nước Việt Nam qua các đời (Đào Duy Anh) trang 1277
Sách địa dư (trích) trang 1541

TẬP 3
Đề dẫn Tập 3 (trang 7)
Ô châu cận lục (Dương Văn An) trang 9
Gia Định thành thông chí (Trịnh Hoài Đức) trang 99
Phủ Biên tạp lục (Lê Quý Đôn) trang 303
Phong thổ Hà Bắc đời Lê (Khuyết danh) trang 577
Nghệ An ký (Bùi Dương Lịch )trang 643
Phú Thọ tỉnh địa chí (Phạm Xuân Độ) trang 911
Địa chí tỉnh Vĩnh Yên (khuyết danh) trang 957
Thanh Hóa quan phong (Vương Duy Trinh) trang 1009
Bắc Thành địa dư chí (Lê Công Chất) trang 1099
Bắc Kỳ hà đê sự tích (khuyết danh) trang 1287

TẬP 4
Đề dẫn Tập 4 (trang 5)
Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi 1876 (Trương Vĩnh Ký) trang 9
Tiểu giáo trình địa lý Nam Kỳ (Trương Vĩnh Ký) trang 57
Ký ức lịch sử về Sài Gòn và vùng phụ cận (Trương Vĩnh Ký) trang 97
Gia Định phong cảnh vịnh (Trương Vĩnh Ký) trang 129
Địa chí tỉnh Bình Thuận (M.E Levadoux) trang 177
Địa chí các tỉnh Bắc Kỳ (Đỗ Đình Nghiêm, Ngô Vi Liễn, Phạm Văn thư) trang 207
Địa dư huyện Cẩm Giàng (Ngô Vi Liễn) trang 357
Địa dư huyện Quỳnh Côi (Ngô Vi Liễn) trang 459
Địa dư huyện Bình Lục (Ngô Vi Liễn) trang 555
Tỉnh Gia Định đia phương chí (trích) trang 727
Tân An ngày xưa (Đào Xuân Hội) trang 783
Cà Mau xưa và An Xuyên nay (Vương Khả Lân) trang 867
Chiêm Thành lược khảo (Vương Khả Lân) trang 985
Trà Lũ xã chí (Lê Văn Nhưng) trang 1023
Niên biểu Việt Nam, trang 1063
Tổng Mục lục, trang 1191

Việt Nam bách gia thi (2005) – 越南百家詩 Việt Nam bách gia thi là tập thơ gồm 100 bài thơ chữ Hán của 100 tác giả Việt Nam tương đối tiêu biểu từ thế kỷ X đến thế kỷ XX, do nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh tuyển chọn, dịch thơ. Các bài thơ được sắp xếp theo thứ tự năm sinh của tác giả. Sách in 1000 cuốn, do NXB Văn hoá Sài Gòn xuất bản, 5-2005.

Tham khảo: https://hoangkimvn.wordpress.com/category/viet-nam-du-dia-chi

DI SẢN THẾ GIỚI TẠI VIỆT NAM

Việt Nam hiện tại có 8 di sản thế giới được UNESCO công nhận. 5 trong số đó là di sản văn hoá, 2 là di sản tự nhiên và 1 di sản hỗn hợp. Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng, Vịnh Hạ Long là những di sản thiên nhiên. Quần thể di tích Cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng LongThành nhà Hồ là những di sản văn hoá. Quần thể danh thắng Tràng An là Di sản hỗn hợp duy nhất tại Việt Nam và Đông Nam Á,  trong số ít 35 di sản hỗn hợp được UNESCO công nhận.

Khu Trung tâm hoàng thành Thăng Long tại thủ đô Hà Nội là di sản văn hóa thế giới nổi bật nhất bởi ba đặc điểm: chiều dài lịch sử văn hóa suốt 13 thế kỷ; tính liên tục của di sản với tư cách là một trung tâm quyền lực là thủ đô Việt Nam hiện tại, và các tầng di tích di vật đa dạng, phong phú.

Xem tiếp Di sản Thế giới tại Việt Nam

VƯỜN QUỐC GIA Ở VIỆT NAM

Vườn Quốc gia ở Việt Nam là một danh hiệu được Chính phủ Việt Nam công nhận chính thức thông qua nghị định. Việt Nam hiện có 33 Vườn Quốc Gia (VQG) Ở vùng núi và trung du phía Bắc có 1) Tam Đảo, 2) Hoàng Liên, 3) Ba Bể, 4) Cao nguyên đá Đồng Văn, 5) Phia Oắc – Phia Đén, 6) Bái Tử Long, 7) Xuân Sơn, 8) Quần thể di tích danh thắng Yên Tử; Ở vùng đồng bằng sông Hồng có 9) Ba Vì, 10) Cúc Phương, 11) Cát Bà, 12) Xuân Thủy; Ở vùng ven biển bắc Trung Bộ có 13) Phong Nha – Kẻ Bàng, 14) Bến En, 15) Pù Mát, 16) Vũ Quang ; Ở vùng ven biển nam Trung Bộ có 17) Bạch Mã, 18) Núi Chúa, 19) Phước Bình ; Ở vùng Tây Nguyên có 20) Chư Yang Sin, 21) Bidoup Núi Bà, 22) Chư Mom Ray, 23) Kon Ka Kinh, 24) Yok Đôn; Ở vùng Đông Nam Bộ có 25) Cát Tiên, 26) Lò Gò-Xa Mát, 27) Bù Gia Mập,  28) Côn Đảo; Ở vùng Tây Nam Bộ có 29) Mũi Cà Mau, 30) Phú Quốc, 31) Tràm Chim, 32) U Minh Hạ,  33) U Minh Thượng. Riêng Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử là khu di tích lịch sử văn hóa thiên nhiên đặc biệt gắn liền với sự ra đời, hình thành và phát triển của thiền phái Trúc Lâm Việt Nam được kỳ vọng là di sản thế giới liên tỉnh Bắc Giang, Hải Dương và Quảng Ninh đầu tiên ở Việt Nam đã lập hồ sơ trình UNESCO công nhận nhưng tạm thời dừng lại vì những lý do đặc biệt liên quan đến sự bảo đảm an ninh và phát triển bền vững quốc gia. 32 Vườn Quốc Gia Việt Nam (chưa tính Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử) có tổng diện tích khoảng 10.455,74 km² (trong đó có 620,10 km² là mặt biển), chiếm khoảng 3% tổng diện tích lãnh thổ đất Việt Nam.

Xem tiếp: Vườn Quốc Gia ở Việt Nam

Bài 2
NÔNG NGHIỆP SINH THÁI VIỆT

Phát triển nông thôn mới;Chương mục tiêu quốc gia; Nông nghiệp công nghệ cao; Nông nghiệp Việt trăm năm; Chuyển đổi số nông nghiệp là năm chủ đề được nghiên cứu và giảng dạy trong Bài 2 Nông nghiệp sinh thái Việt của Việt Nam học; Việt Nam xã hội học (越南社会学; Vietnamese Sociology) https://hoangkimvn.wordpress.com/category/nong-nghiep-sinh-thai-viet

PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN MỚI

Cục Nông nghiệp Thái Lan tổng kết chặng đường 10 năm phát triển sản xuất lúa của 4 nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Trong đó họ nhấn mạnh 10 điểm ngành hàng lúa gạo Thái Lan thua Việt Nam, cần phải cải tiến hơn. #htn #vietnamxahoihoc dẫn nguồn TS Lê Quý Kha, CTV-VAECA (VN-Châu Phi 7 8 2023)


Bảo tồn và phát triển sắn; Chọn giống sắn kháng CMD; Nông nghiệp công nghệ cao; Nông nghiệp sinh thái Việt; Khoai Sắn Lúa Siêu Xanh; Cây Lương thực Việt Nam; Chuyển đổi số nông nghiệp … là các chủ đề thời sự cần tích hợp mạnh mẽ trong phát triển nông thôn mới

Xem tiếp:  https://hoangkimvn.wordpress.com/category/phat-trien-nong-thon-moi/

CHƯƠNG MỤC TIÊU QUỐC GIA

Theo Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam “Chương mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030” Ngày 14/10/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1719/ QĐ-TTg về phê duyệt Chương mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I: từ năm 2021-2025. Khai thác tiềm năng, lợi thế của các địa phương trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Thực hiện Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội về phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030, ngày 14/10/2021 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1719/QĐ-TTg phê duyệt Chương mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030. Mục tiêu tổng quát của Nghị quyết nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế của các địa phương trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội; giảm nghèo nhanh, bền vững, thu hẹp dần khoảng cách về mức sống, thu nhập bình quân của vùng so với bình quân chung của cả nước; giảm dần số xã, thôn đặc biệt khó khăn; quy hoạch, sắp xếp, bố trí ổn định dân cư, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội đồng bộ, liên vùng, kết nối với các vùng phát triển; phát triển toàn diện giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa; cải thiện rõ rệt đời sống của Nhân dân; nâng cao số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động là người dân tộc thiểu số; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc thiểu số đi đôi với xóa bỏ phong tục tập quán lạc hậu; thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo an ninh biên giới quốc gia; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc, nâng cao niềm tin của đồng bào các dân tộc đối với Đảng và Nhà nước. Phạm vi của Chương trình: Trên địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; trong đó, ưu tiên nguồn lực của Chương trình đầu tư cho các địa bàn đặc biệt khó khăn (xã đặc biệt khó khăn, thôn đặc biệt khó khăn), xã an toàn khu (ATK) thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Đối tượng của Chương trình bao gồm: Xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; Hộ gia đình, cá nhân người dân tộc thiểu số; Hộ gia đình, cá nhân người dân tộc Kinh thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo sinh sống ở xã, thôn đặc biệt khó khăn; Doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã (HTX), các tổ chức kinh tế hoạt động ở địa bàn các xã, thôn đặc biệt khó khăn. Các dự án thành phần của Chương trình(ảnh báo ĐCSVN) Nghị quyết cũng nêu rõ từng Dự án Chương trình thực hiện theo Nghị Quyết Dự án 1: Giải quyết tình trạng thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt Dự án 2: Quy hoạch, sắp xếp, bố trí, ổn định dân cư ở những nơi cần thiết. Dự án 3: Phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, phát huy tiềm năng, thế mạnh của các vùng miền để sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị. Dự án 4: Đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, phục vụ sản xuất, đời sống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi và các đơn vị sự nghiệp công của lĩnh vực dân tộc. Dự án 5: Phát triển giáo dục đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Dự án 6: Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch. Dự án 7: Chăm sóc sức khỏe nhân dân, nâng cao thể trạng, tầm vóc người dân tộc thiểu số; phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em. Dự án 8: Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em Dự án 9: Đầu tư phát triển nhóm dân tộc rất ít người, nhóm dân tộc còn nhiều khó khăn Dự án 10: Truyền thông, tuyên truyền, vận động trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Kiểm tra, giám sát đánh giá việc tổ chức thực hiện chương trình. Dự kiến tổng mức vốn để thực hiện Chương trình giai đoạn 2021 – 2025 là 137.664,959 tỷ đồng. Cụ thể từng huy động từ các nguồn vốn: Vốn ngân sách trung ương: 104.954,011 tỷ đồng; bao gồm: Vốn đầu tư: 50.000 tỷ đồng (đã được bố trí theo Nghị quyết số 29/2021/QH15 ngày 28 tháng 7 năm 2021 của Quốc hội về Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 – 2025); Vốn sự nghiệp: 54.324,848 tỷ đồng. Đối với số vốn còn lại (629,163 tỷ đồng): Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Ủy ban Dân tộc, Bộ Tài chính báo cáo cấp có thẩm quyền cân đối, bố trí trong quá trình thực hiện Chương trình. Vốn ngân sách địa phương: 10.016,721 tỷ đồng.  Vốn vay tín dụng chính sách: 19.727,020 tỷ đồng. Vốn huy động hợp pháp khác: 2.967,207 tỷ đồng. Thủ tướng Chính phủ cũng nêu rõ trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân tỉnh trong việc thực hiện Nghị quyết, gồm: – Phê duyệt kế hoạch thực hiện Chương trình trong giai đoạn 5 năm và hằng năm bao gồm các nội dung: Kế hoạch về nguồn vốn, mục tiêu, nhiệm vụ gửi Cơ quan chủ trì Dự án, Tiểu dự án, nội dung thành phần của Chương trình, Ủy ban Dân tộc và các cơ quan liên quan theo quy định;– Tổ chức triển khai; giám sát, đánh giá và báo cáo kết quả thực hiện Chương trình trên địa bàn tỉnh theo định kỳ, đột xuất; – Chỉ đạo, phân công trách nhiệm của từng cấp và các sở, ban, ngành trong việc tổ chức thực hiện Chương trình theo nguyên tắc đẩy mạnh phân cấp và đề cao tinh thần trách nhiệm cho cơ sở; – Ban hành cơ chế, chính sách, hướng dẫn tổ chức triển khai Chương trình trên địa bàn tỉnh theo thẩm quyền, nhiệm vụ được giao; Chỉ đạo kiện toàn hoặc thành lập mới Ban Chỉ đạo chung cho các Chương trình mục tiêu quốc gia các cấp và bộ máy tham mưu, giúp việc cho Ban Chỉ đạo các cấp theo quy định của Nghị quyết số 24/2021/QH15 ngày 28 tháng 7 năm 2021 và Nghị quyết số 25/2021/QH15 ngày 28 tháng 7 năm 2021 của Quốc hội.

Xem tiếp: https://hoangkimvn.wordpress.com/category/chuong-muc-tieu-quoc-gia/

NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO

Nông nghiệp công nghệ cao là nền nông nghiệp được ứng dụng kết hợp những công nghệ mới, tiên tiến để sản xuất, còn gọi là công nghệ cao nhằm nâng cao hiệu quả, tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng nông sản, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của xã hội và đảm bảo sự phát triển nông nghiệp bền vững.

Nền nông nghiệp công nghệ cao trên thế giới có những điển hình nổi bật Mỹ là chuỗi cung ứng ngô đậu tương nông sản hàng đầu Thế giới; Nông nghiệp công nghệ cao Hà Lan tập trung vào hoa, nhất là tuy-líp, rau quả, cà ớt màu, cà chua, khoai tây, Nông nghiệp công nghệ cao Nhật Bản Trồng rau củ quả, trồng cây nông nghiệp trong nhà kính, trồng theo tầng chứ không chỉ trồng trên mặt đất. Điều này khắc phục được hạn chế về diện tích đất trồng; Sử dụng công nghệ, thiết bị hiện đại trong việc chăm sóc, phòng ngừa sâu bệnh. Áp dụng các phương pháp bảo quản chất lượng tốt trong thời gian dài, vẫn tươi mới, đủ dinh dưỡng như mới thu hoạch Trong chăn nuôi cũng sử dụng các thiết bị hiện đại từ khâu ăn uống đến theo dõi, chăm sóc sức khỏe, phối giống, xử lý chất thải, bảo vệ môi trường. Phát triển sản xuất có chọn lọc; Nông nghiệp công nghệ cao Israel nôi phát minh hệ thống tưới nhỏ giọt; hệ thống kiến thức nông nghiệp trực tuyến; kho dữ liệu kiến thức nông nghiệp thông minh, đội ngũ chuyên gia và nông dân chuyên nghiệp giỏi xử lý các tình huống trọng yếu cấp bách nông nghiệp; hệ thống Seambiotic Israel đem CO2 được phát thải từ khí nhà kính thành thức ăn cho tảo là nguồn thực phẩm; Túi tồn trữ lương thực an toàn hiệu quả giảm tổn thất sau thu họach; Công nghệ TraitUP tạo hạt giống chất lượng cao bằng cách cải tiến nâng cấp vật liệu di truyền; HiFarm nông trại thông minh, giải pháp nông nghiệp công nghệ cao smart farming được các nước tiên tiến áp dụng; Trung Quốc ứng dụng công nghệ tối tân nhất vào nông nghiệp; Nông nghiệp công nghê cao phát triển tại Trung Quốc khá mạnh mẽ trong thời gian gần đây; Thái Lan tự sản xuất thiết bị nông nghiệp thông minh phát triển các hệ thống cảm biến, điều khiển và kết nối với điện thoại, để có thể kiểm tra nhiệt độ, độ ẩm, bức xạ mặt trời, kích hoạt hệ thống tưới nhỏ giọt và bón phân từ xa mà không cần phải thường xuyên có mặt tại nông trại.

Nông nghiệp thông minh trên thế giới và ở Việt Nam là chủ đề đang được nhiều quan tâm trong xã hội Việt Nam ngày nay. Thực trạng phát triển nông nghiệp cao ở Việt Nam; Nhà nước tạo lập tiền đề phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam; Kinh nghiệm quản lý, phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở một số nước và giá trị tham khảo là các thông tin đúc kết quan trọng.

Xem tiếp:  https://hoangkimvn.wordpress.com/category/nong-nghiep-cong-nghe-cao/

NÔNG NGHIỆP VIỆT TRĂM NĂM

Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam IAS đang hướng tới kỷ niệm 100 năm ngày thành lập (1925-2025); Lịch sử 100 năm nông nghiệp Việt Nam giới thiệu hai địa chỉ xanh Trường Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh (NLU, nôi trung tâm vùng Nam Bộ đào tạo nguồn lực khoa học kỹ thuật nông lâm sinh thủy cơ khí nông nghiệp) Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam (nôi trung tâm nghiên cứu chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật nông học, chăn nuôi và hệ thống nông nghiệp miền Nam) với mười chuyên khảo, góc nhìn, bài cảm nhân Ban mai kênh Thị Nghè; Trường tôi nôi yêu thương; Kỷ yếu khoa Nông học kỷ niệm 65 năm thành lập Khoa; Về Trường để nhớ thương; Một niềm tin thắp lửa; Thầy bạn là lộc xuân; Thầy bạn trong đời tôi; Dạy và học ngày mới  

Xem tiếp: https://hoangkimvn.wordpress.com/category/nong-nghiep-viet-tram-nam/

CHUYỂN ĐỔI SỐ NÔNG NGHIỆP

Làm thế nào để đưa được tiến bộ khoa học kỹ thuật nông nghiệp vào vùng sâu vùng xa, trong khi cơ sở hạ tầng nông thôn với điều kiện ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, khoa học, công nghệ Việt Nam còn nhiều khó khăn ? Giải pháp trọng điểm của nông nghiệp Việt Nam ngày nay là Xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu, nông thôn mới thông minh; Chuyển đổi số nông nghiệp kết nối với thị trường. Ứng dụng công nghệ nâng cao chuỗi giá trị nông nghiệp (Technological application enhances agriculture value chain).

Sự đặc biệt quan tâm: 1) Ứng dụng giống cây trồng, vật nuôi, thủy hải sản tốt nhất, có thương hiệu và giá trị thương mại uy tín, chất lượng tốt; 2) Sự gắn kết giống tốt bội thu với hoàn thiện quy trình mô hình canh tác, nuôi trồng thích hợp hiệu quả; 3) Xây dựng vùng nguyên liệu và chuỗi cung ứng sản xuất chế biến tiêu thu hiệu quả kết nối truyền thông và thị trường.

Bài này trích dẫn năm trường hợp nghiên cứu (Key study): a) Xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu , nông thôn mới thông minh theo ba vùng; b) Ngữ văn Việt Trung Anh tự học trực tuyến; c) Chọn tạo và khảo nghiệm giống sắn KM568 tại tỉnh Phú Yên, (Hình đầu trang: Giống sắn KM440 và KM419 được trồng phổ biến nhất trong sản xuất ngày nay, hiện đã tuyển chọn được giống sắn KM568 có năng suất tinh bột cao và kháng bệnh virus khảm lá CMD. kháng bệnh chồi rồng CWBD. Giống sắn KM568 là kết quả chọn tạo KM440 x (KM419 x KM539) và khảo nghiệm, mở rộng sản xuất. d) Giống bắp nếp Bác Ái e) Chuyển đổi số nông nghiệp nên bắt đầu từ đâu? .

Xem tiếp: https://hoangkimvn.wordpress.com/category/chuyen-doi-so-nong-nghiep/

Bác Hồ với học sinh trường trung học Trưng Vương (Hà Nội) nǎm1956

Bài 3
NGÀNH NGHỀ Ở VIỆT NAM

Ngành nghề ở Việt Nam lao động và việc làm, tác động rất sâu sắc đến đời sống văn hóa và xã hội. Minh triết Hồ Chí Minh trích dẫn lời dạy thấm thía của Bác: “Ngủ thì ai cũng như lương thiện, Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền; Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn, Phần nhiều do giáo dục mà nên” – (Nửa đêm – bản dịch của Nam Trân) (bài và ảnh trích dẫn Báo Thái Bình Từ triết lý giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh nghĩ về công cuộc đổi mới giáo dục hiện nay xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/minh-triet-ho-chi-minh

Minh triết Hồ Chí Minh; Ngành nghề Việt Nam ngày nay; Chuyển đổi số Quốc gia; Việt Nam tâm thế mới; Việt Nam học tinh hoa là năm chủ đề được nghiên cứu và giảng dạy trong Bài 3 Ngành nghề ở Việt Nam https://hoangkimvn.wordpress.com/category/nganh-nghe-o-viet-nam

MINH TRIẾT HỒ CHÍ MINH

Tôi viết minh triết Hồ Chí Minh theo chính kiến và nhận thức của riêng mình. Ngày 2 tháng 9 là ngày Quốc Khánh Việt Nam, ngày khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng là ngày mất của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 19 tháng 5 là ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là ngày thành lập Việt Minh, ngày khai sinh đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Chuỗi năm sự kiện lớn này trong lịch sử như ngôi sao vàng năm cánh, như năm ngón tay trên một bàn tay, đóng mốc son ngày 2 tháng 9 và ngày 19 tháng 5 vào lịch sử Việt Nam và Thế Giới đối với nền độc lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và thống nhất Tổ quốc Việt Nam. Hồ Chí Minh trọn đời minh triết. Việt Nam Hồ Chí Minh là biểu tượng Việt; Hồ Chí Minh nói đi đôi với làm mẫu mực đạo đức có lý có tình; Hồ Chí Minh rất ít trích dẫn, thực tiễn, quyền biến, năng động ; Hồ Chí Minh kiên quyết khôn khéo trong tổ chức tuyên truyền cách mạng, giỏi thu phục tập hợp hiền tài. Nước Việt Nam mới khi hình thành vì sao không có được giải pháp hợp tác giữa Hồ Chí Minh với Bảo Đại, Ngô Đình Diêm, Nguyễn Trường Tam, Phạm Quỳnh, Phan Văn Giáo … Vì sao chưa thuyết phục được Nguyễn Hải Thần, Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn,… ? Đó đều là các nhân vật lịch sử lớn chi phối sâu sắc thời cuộc. Bài học lịch sử Việt Nam là khối vàng ròng giá trị to lớn cần thấu hiểu và cắt nghĩa cho đúng. Sự thật lịch sử đang sáng tỏ dần.

Xem tiếp: https://hoangkimlong.wordpress.com/category/minh-triet-ho-chi-minh/

NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM NGÀY NAY

Ngành nghề ở Việt Nam lao động và việc làm, là mục tiêu, đường sống, theo thuật ngữ của Lev Tonstoy, là Việt Nam con đường xanh độc lập tự do hạnh phúc, theo thuật ngữ của chủ tịch Hồ Chí Minh, khi Bác đặt tên Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng HòaĐảng Lao Động Việt Nam. Ngành nghề ở Việt Nam lao động và việc làm, vừa là động lực, vừa chung nguồn gốc ‘người lao động’ kết nối khối đại đoàn kết dân tộc, lực lượng lao động xã hội, bảo tồn và phát triển nền văn hiến Việt Nam trong dòng chung nền văn hóa tương lai của nền văn minh nhân loại. Định hướng quan trọng hơn tốc độ. Ngành nghề ở Việt Nam lao động và việc làm ở Xã hội Việt Nam ngày nay đang thay đổi rất sâu sắc, vừa “Cuốn theo chiều gió”, ‘Làn sóng thứ tư’ của trào lưu ngành nghề thế giới về kinh tế xã hội văn hóa, vừa có sự điều tiết định hướng kiến tạo của hệ thống chính trị xã hội giáo dục Việt Nam.

Minh triết Hồ Chí Minh trích dẫn lời dạy thấm thía của Bác: “Ngủ thì ai cũng như lương thiện, Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền; Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn, Phần nhiều do giáo dục mà nên” – (Nửa đêm – bản dịch của Nam Trân) (bài và ảnh trích dẫn Báo Thái Bình Từ triết lý giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh nghĩ về công cuộc đổi mới giáo dục hiện nay xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/minh-triet-ho-chi-minh

Nếp nhà đẹp văn hóa Truyền thống văn hiến Việt Nam “Nhân hậu thói nhà in một nếp Chân chính bao nhiêu phúc bấy nhiêu” Nếp nhà là thói quen của một gia đình. Cụ Nguyễn Trãi có câu “Nên thợ, nên thầy nhờ có học/ No ăn, no mặc bởi hay làm”. Cụ Lê Quý Đôn tinh hoa viết “Dẫu có bạc vàng trăm vạn lượng. Không bằng kinh sử một vài pho”. Làm và Học là hoạt động sống cơ bản của con người để đáp ứng nhu cầu tối thiểu ăn mặc, yêu đương, nhà ở, đi lại, chăm sóc sức khỏe và chất lượng cuộc sống. Nếp nhà xét cho cùng là sự bảo tồn phát triển tự do của mỗi cá nhân gia đình và dòng họ. Soi thấu gia tộc là soi vào văn hóa lịch sử của sự kế thừa, phát triển và biến đổi.

Ngành nghề Việt Nam ngày nay lao động và việc làm. được chi phối mạnh mẽ bởi quy luật cung cầu sử dụng lao động và việc làm với sự đáp ứng thích hợp hiệu quả về số lượng chất lượng của các ngành nghề giáo dục đào tạo Việt Nam cho yêu cầu ấy. Hệ thống chính trị xã hội kinh tế Việt Nam ngày nay, hiện 13 ngành nghề có lợi thế so sánh, mà theo quyết định số 114 của Bộ Chính Trị cần ưu tiên giám sát quyền lực và phòng chống tham nhũng. Ngành nghề Việt Nam ngày nay lao động và việc làm, tác động rất sâu sắc đến đời sống văn hóa và xã hội.Tổng hợp tất cả các ngành nghề hiện nay, UBND tỉnh Bắc Giang, Sở Lao Động Thương Binh Xã Hội Bắc Giang đã xác định 10 nhóm ngành nghề ở Việt Nam phổ biến nhất. Top 10 ngành nghề có nhu cầu nhân lực nhiều nhất ở Việt Nam theo thông tin dạy và học nghề của Trường Cao Đẳng Công nghệ Thủ Đức. Danh sách 15 ngành nghề cần thiết hiện nay ở Việt Nam là dự báo của.Trung Tâm du học Sunny. Danh sách 500 ngành nghề đào tạo bậc đại học, cao đẳng là danh sách mã ngành được ReviewEdu https://reviewedu.net tổng hợp trên 500 ngành nghề ở Việt Nam đào tạo ngày nay. Các thông tin trên giúp cho bạn đọc thêm một góc nhìn tham chiếu và suy ngẫm.

Xem tiếp. https://hoangkimvn.wordpress.com/category/nganh-nghe-o-viet-nam

CHUYỂN ĐỔI SỐ QUỐC GIA

Chuyển đổi sốQuốc Gia; Chuyển đổi số nông nghiệp; Xây dựng nông thôn mới cần phát triển chiều sâu văn hóa là các mục từ cần được chú trọng và nhấn mạnh . Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Lê Minh Hoan trong một phát biểu mới đây cho rằng: “Cần thay đổi cách tiếp cận phương pháp luận về giáo dục nông nghiệp trong bối cảnh mới. Bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp, cách mạng số, của những tư duy đa giá trị, tư duy chuỗi ngành hàng”.

Thông tin mới cập nhật: Bộ trưởng Lê Minh Hoan nêu quan điểm mục tiêu tầm nhìn về đề án một triệu ha lúa chất lượng cao https://nongnghiep.vn/bo-truong-le-minh-hoan-neu-quan-diem-muc-tieu-tam-nhin-ve-de-an-1-trieu-ha-lua-chat-luong-cao-d350429.html; Thế giới trong mắt ai https://hoangkimlong.wordpress.com/category/the-gioi-trong-mat-ai/; Nông nghiệp Việt trăm năm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nong-nghiep-viet-tram-nam/

Xem tiếp: https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-doi-so-quoc-gia

VIỆT NAM TÂM THẾ MỚI

Bác Hồ có các bài thơ “Chợt gặp mai đầu suối” “Chơi chữ” “Song thập nhất”,”Thướng sơn” “Rằm tháng Giêng”, “Tầm hữu vị ngộ” hay và lạ. Đó là những câu thơ lưu lạc ẩn ngữ giữa đời thường. Hồ Chí Minh là người chuộng kinh Dịch và rất tinh tế. Bác thường có những ứng xử ngẫu nhiên phù hợp với quy luật tất nhiên. Hồ Chí Minh trọn đời minh triết viết và nói thường có ẩn ý. Thơ Bác viết vào những ngày đầu khởi lập nước Việt Nam mới, là kỳ thư kinh Dịch độc đáo, một luận giải sứ mệnh và tự đánh giá của Bác. Cụ Nguyễn Phú Trọng ngày nay cũng là một hiền nhân có những kiến giải tinh tế, xác lập lối ứng xử ‘hợp tình hợp lý” Việt Nam tâm thế mới được nhân dân Việt Nam và bầu bạn quốc tế thật sự tôn quý. Nghiên cứu “Minh triết Hồ Chí Minh” và bài viết của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, giúp thấu hiểu sự hình thành và phát triển Việt Nam tâm thế mới của xã hội Việt Nam ngày nay;

Xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-tam-the-moi

VIỆT NAM HỌC TINH HOA

Đền Kim Liên Hà Nội ngày 20 tháng 4 năm 2022 Chủ tịch UBND TP Hà Nội đã trao Bằng xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt tiêu biểu. “Thăng Long tứ trấn” trấn giữ bốn phương Đông,Tây, Nam, Bắc của kinh thành Thăng Long, là các đền: Bạch Mã, Voi Phục, Kim Liên và Trấn Vũ, theo truyền hình An Viên; Xem tiếp: https://hoangkimvn.wordpress.com/category/viet-nam-hoc-tinh-hoa/

Bảy vùng sinh thái kinh tế nông nghiệp Việt Nam

Bài 4
VÙNG SINH THÁI VIỆT NAM

#htn #vietnamxahoihoc Vùng kinh tế Việt Nam; Vùng kinh tế động lực; Làng Việt xưa và nay; Ngôn ngữ văn hóa Việt; Tiếng Việt lung linh sáng là năm chủ đề nghiên cứu và giảng dạy trong Bài 4 Vùng sinh thái Việt Nam của Việt Nam xã hội học (越南社会学; Vietnamese Sociology); xem tiếp https://hoangkimvn.wordpress.com/category/vung-sinh-thai-viet-nam

VÙNG KINH TẾ VIỆT NAM

Việt Nam có bảy vùng sinh thái kinh tế nông nghiệp. Vùng Kinh tế Việt Nam ngày nay đã phân vùng và hiệu chỉnh phù hợp với yếu tố sinh thái ‘Việt Nam dư địa chí ’, Thuật ngữ ‘dư địa” “bảo tồn và phát triển bền vững” ngày càng được chú trọng sâu sắc và tinh tế hơn.

1) Vùng Trung du và vùng núi phía Bắc có 14 tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình cùng 21 huyện, một thị xã phía Tây của hai tỉnh Thanh HóaNghệ An;

2) Vùng Đồng bằng sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc có 2 thành phố trực thuộc trung ương Hà Nội, Hải Phòng,và 9 tỉnh Bắc Ninh, Hà Nam, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh.

3) Vùng Bắc Trung Bộ có 6 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế ;

4) Vùng Nam Trung Bộ có 1 thành phố trực thuộc trung ương Đà Nẵng và 6 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Khánh Hòa, Ninh Thuận;

5) Vùng Tây Nguyên có 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk NôngLâm Đồng.

6) Vùng Đông Nam Bộ có 1 thành phố trực thuộc trung ương Thành phố Hồ Chí Minh và 5 tỉnh: Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Đồng NaiTây Ninh.

7) Vùng Đồng Bàng Sông Cửu Long có 1 thành phố trực thuộc trung ương là Cần Thơ và 12 tỉnh: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Bạc LiêuCà Mau

“Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” ngày 22/1/2013 xác định rõ Việt Nam có 7 vùng du lịch với 24 trung tâm du lịch như sau:[5][6]

Vùng trung du vùng núi phía bắc bao gồm 14 tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái, Phú Thọ, Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn và Bắc Giang. Vùng này có 5 trọng điểm du lịch là:

  1. Sơn LaĐiện Biên: gắn với Mộc Châu, hồ Sơn La, cửa khẩu quốc tế Tây Trang, di tích lịch sử Điện Biên Phủ và Mường Phăng.
  2. Lào Cai gắn với cửa khẩu quốc tế Lào Cai, khu nghỉ mát Sa Pa, Phan Xi Phăng và vườn quốc gia Hoàng Liên.
  3. Phú Thọ gắn với lễ hội Đền Hùng và hệ thống di tích thời đại Hùng Vương, du lịch hồ Thác Bà.
  4. Thái NguyênLạng Sơn gắn với hồ Núi Cốc, di tích ATK Định Hóa, Tân Trào, khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng, khu nghỉ mát Mẫu Sơn.
  5. Hà Giang gắn với công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn, cảnh quan Mèo Vạc, Mã Pí Lèng, Na Hang…

Vùng đồng bằng sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc gồm Thủ đô Hà Nội và các tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Hải PhòngQuảng Ninh, gồm 3 trọng điểm du lịch là:

  1. Thủ đô Hà Nội gắn với hệ thống di tích lịch sử văn hóa nội thành và các cảnh quan tự nhiên vùng phụ cận.
  2. Quảng NinhHải Phòng gắn với cảnh quan biển đảo Đông Bắc đặc biệt là Hạ Long – Cát Bà, Vân Đồn, Đồ Sơn.
  3. Ninh Bình gắn với Tam Cốc – Bích Động, Hoa Lư, Tràng An, Vân Long, Cúc Phương, Tam Chúc – Ba Sao và quần thể di tích, cảnh quan vùng phụ cận.

Vùng Bắc Trung Bộ gồm các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế. Vùng này có 3 địa bàn trọng điểm du lịch là:

  1. Thanh Hóa và phụ cận gắn với điểm du lịch quốc gia Thành Nhà Hồ, Lam Kinh, Bến En và đô thị du lịch Sầm Sơn.
  2. Nam Nghệ AnBắc Hà Tĩnh gắn với Cửa Lò, Kim Liên, Đồng Lộc, cửa khẩu Cầu Treo, núi Hồng – sông Lam, Xuân Thành…
  3. Quảng BìnhQuảng Trị gắn với Phong Nha – Kẻ Bàng, biển Cửa Tùng – Cửa Việt, đảo Cồn Cỏ, cửa khẩu Lao Bảo và hệ thống di tích chiến tranh chống Mỹ.
  4. Thừa Thiên Huế

Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ gồm các tỉnh Quảng Nam, TP. Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. Vùng này có 3 địa bàn trọng điểm du lịch là:

  1. Đà NẵngQuảng Nam gắn với Sơn Trà, Hải Vân, Hội An, Mỹ Sơn…
  2. Bình ĐịnhPhú YênKhánh Hòa gắn với các bãi biển Phương Mai, Đầm Ô Loan, vịnh Nha Trang, Cam Ranh…
  3. Bình Thuận gắn với biển Mũi Né, đảo Phú Quý…

Vùng Tây Nguyên gồm các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng. Vùng này có 3 trọng điểm du lịch là:

  1. Thành phố Đà Lạt gắn với hồ Tuyền Lâm, Đan Kia – Suối Vàng.
  2. Đắk Lắk gắn với vườn quốc gia Yokđôn và không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.
  3. Gia Lai – Kon Tum gắn với cửa khẩu quốc tế Bờ Y, Măng Đen, Yaly.

Vùng Đông Nam Bộ gồm TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Phước, Tây Ninh. Vùng này có 3 trọng điểm du lịch:

  1. Thành phố Hồ Chí Minh gắn với khu rừng sác Cần Giờ và hệ thống di tích lịch sử văn hóa nội thành.
  2. Tây Ninh gắn với cửa khẩu quốc tế Mộc Bài, núi bà Đen, hồ Dầu Tiếng.
  3. Thành phố Vũng Tàu gắn với Long Hải, Phước Hải, Côn Đảo.

Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long gồm các tỉnh Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Tiền Giang, Hậu Giang và TP. Cần Thơ. Vùng này có 4 trọng điểm du lịch:

  1. Tiền GiangBến Tre gắn với du lịch miệt vườn Thới Sơn.
  2. Cần ThơKiên Giang gắn với biển đảo Phú Quốc, Hà Tiên.
  3. Đồng ThápAn Giang gắn với Tứ giác Long Xuyên, vườn quốc gia Tràm Chim.
  4. Cà Mau gắn với U Minh – Năm Căn – mũi Cà Mau

TIẾNG VIỆT LUNG LINH SÁNG
越南语闪闪发光 Vietnammese language shimmering

Văn chương Ngọc cho đời
TIẾT THU ĐƯỢC TUẦN LỘC

Thương tháng Bảy mưa Ngâu
Nhớ đường xuân lối chính
Đồng thu trời đất cảm
Xuân hạ dần sang đông

Nhật nhật tân hựu nhật tân
Liên tục hoàn thiện mỗi ngày
https://hoangkimvn.wordpress.com

Tiết thu được tuần lộc, HK nhận 50 năm tuổi Đảng, Trung Thu Tết Đoàn Viên, #htn hoàn thành tốt #vietnamxahoihoc; MLĐK giống sắn mới KM568, KM539, KM537 tốt trên đồng.

Ca dao Việt cày đồng

Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thảnh thót như mưa ruộng cày

Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.

Ngẫm thơ ngoài ngàn năm; Ca dao Việt “Cày đồng”Mãn Giác thơ “Hoa Mai” đều là những viên ngọc quý, tuyệt hay, xếp hàng đầu Thơ Việt ngoài ngàn năm. Các bài thơ nổi tiêng đã trên bảy trăm tuổi có nhiều lời bình chọn là những kiệt tác thơ hay như Trần Khánh Dư “Bán than”, Phạm Ngũ Lão “Thuật Hoài“, Nguyễn Trãi “Dục Thúy Sơn“, Đặng Dung thơ “Cảm hoài” sánh với các kiệt tác Đỗ Phủ thơ ‘mưa lành‘; Lý Bạch thơ ‘trăng sáng‘, Mạnh Hạo Nhiên ‘xuân hiểu‘; Trần Tử Ngang thơ Người;

Ca dao Việt “Cày đồng” cụ Nguyễn Quốc Toàn viết DỊCH HAY PHÓNG TÁC ? nguyên văn như sau: 1) Trong số ca dao Việt Nam nói về nghề nông và giá trị hạt gạo thì bài: “Cày đồng đang buổi ban trưa. Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày. Ai ơi! bưng bát cơm đầy. Dẻo thơm một hột, đắng cay muôn phần” có mặt trong nhiều tuyển tập, như:Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan (1); Tục ngữ ca dao Việt Nam của Hồng Khánh, Kỳ Anh sưu tầm biên soạn (2); Ca dao Việt Nam do Bích Hằng tuyển chọn (3). Các tác giả của ba tập sách trên tuyệt nhiên không có chú thích gì về bài ca dao đó, làm người đọc đinh ninh là ca dao Việt Nam. Nhà phê bình danh tiếng Hoài Thanh cũng yên trí “đó là một trong những bài ca dao hay nhất của xứ ta từ trước” (4); 2) Bài ca dao “Cày đồng đang buổi ban trưa…” có thực là của Tàu, chưa rõ ai là tác giả. Một số bảo của Lí Thân, (李紳,772 – 846) người Vô Tích tỉnh Giang Tô, số khác cho là của Nhiếp Di Trung (聶夷中, 837 – 884) người Hà Đông. Có điều lạ, trong “Toàn Đường thi” (全唐詩) (5) bốn câu trên được xếp vào ngũ ngôn tứ tuyệt vừa để ở mục Nhiếp Di Trung vừa để ở mục Lí Thân. 3) Cụ Nguyễn Quốc Toàn tìm thấy bản chữ Hán bài ca dao trên trong bộ “Đường thi tuyển dịch” của ông Lê Nguyễn Lưu gồm hai tập, kê cứu 1409 bài thơ của 173 nhà thơ Tàu. Lí Thân ở trang 1097, với hai bài thơ Cổ phong kỳ1 và Cổ phong kỳ 2. Dưới đây là bài Cổ phong kỳ 1 tui đang bàn tới 古風其一鋤禾日當午汗滴禾下土誰知 盤中餐粒粒 皆辛苦* Phiên âm Thơ Cổ phong Bài 1 Sừ hòa nhật đương ngọ Hãn trích hòa hạ thổ Thùy tri bàn trung xan Lạp lạp giai tân khổ *** Ông Lê Nguyễn Lưu dịch xuôi:Cày xới lúa đang lúc giữa trưa Mồ hôi giọt xuống đất dưới cây lúa Ai nghỉ đến bữa cơm dọn trong mâm Mỗi hột đều chứa nỗi đắng cay gian khổ Và ông Lưu dịch thơ:Cấy lúa giữa ban trưa Mồ hôi ngoài ruộng đổ Ai hay một bát cơm Hạt hạt đầy tân khổ*** Để thấy dịch giả Lê Nguyễn Lưu vừa lúng túng vừa tiền hậu bất nhất trong cách dịch của mình, tui phân tích hai chữ sừ (鋤) và hòa (禾) trong câu thứ nhất “sừ hòa nhật đương ngọ”.- Sừ (鋤) có hai trạng thái diễn đạt. Khi là danh từ, sừ (鋤) chỉ cái cuốc. Ví dụ Nguyễn Trãi nói với bạn là Hữu Nhân: 他年淽溪約, 短笠荷春鋤 : “Tha niên Nhị Khê ước, Đoản lạp hạ xuân sừ”, nghĩa là: Năm nào hẹn về Nhị Khê đội nón lá, vác cuốc đi làm vụ xuân”. Khi là động từ, sừ (鋤) chỉ sự cuốc, như cuốc đất cuốc cỏ.- Hòa (禾) là lúa chưa tuốt ra khỏi bông, chưa cắt ra khỏi rơm rạ. Kinh thi có câu: Thập nguyệt nạp hòa giá 十月納禾稼 Tháng mười thu vào thóc lúa. Nếu căn cứ vào tự dạng chữ Hán thì sừ hòa (鋤禾) phải dịch là cuốc lúa, nhưng cuốc lúa là sự vô lý nên ông Lưu thay cuốc bằng “cày” và thêm vào chữ “xới” thành ra “cày xới lúa đang lúc giữa trưa”. Ý dịch giả là người nông dân cày xới cỏ giữa những hàng lúa. Điều đó dẫn đến sự thậm vô lý khác. Là lúa (禾=hòa) đã chắc hạt, đợi tuốt ra khỏi bông cớ sao còn phải cày cỏ. Khi dịch ra thơ, học giả Lê Nguyên Lưu tùy tiện bỏ cuốc lúa,cày lúa, mà gọi là “cấy lúa giữa ban trưa” .Một nông dân Việt (hoặc một nhà thông thái Việt) nào đó thấy “sừ hòa nhật đương ngọ” có cái gì đó không ổn, nên dựa vào ý thơ để sáng tác thành một tác phẩm khác theo thể thơ lục bát truyền thống Việt, ai đọc vào cũng hiểu và thuộc nằm lòng ngay. Tiếc là cho đến nay chưa thấy một học giả nào tìm ra thân thế người phóng tác thiên tài đó. Chỉ biết là bốn câu ca dao trên đã thuộc về tài sản dân ca Việt Nam trong các tuyển tập. xem tiếp Ca dao Việt “Cày đồng” https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ca-dao-viet-cay-dong/

TIẾNG VIỆT LUNG LINH SÁNG

Ai ngồi
Thiền với cỏ cây
Ta lơi bớt việc
trọn đời nắng mưa

Ai ngồi
Thiền với bốn mùa
Ta ngơi giờ nghĩ, giấc trưa nhẹ lòng

#Thungdung gió mát trời trong
#Annhiên hôm sớm thong dong đường trần

Ai ngồi
Thiền giữa thanh xuân
Ta đi mãi miết, bước chân miệt mài

Ai ngồi
Thiền giữa trần ai
Lời thương lắng đọng, nhắc hoài tháng năm …


Tiếng Việt lung linh sáng thơ Hoàng Kim 17/8/2023
đồng hành ‘Thiền với mùa Thu‘, thơ Nguyễn Quế (*)

(*) THIỀN VỚI MÙA THU

Ta ngồi
Thiền với cỏ cây
Thắp trăng làm nến
Rải mây làm bùa

Ta ngồi
Thiền với bốn mùa
Câu kinh tụng giữa nắng mưa đất trời

Mõ khua tiếng gió chơi vơi
Bật lên từ đất những chồi non xanh

Ta ngồi
Thiền giữa trong lành
Vẳng nghe những tiếng mong manh suối ngàn

Ta ngồi
Thiền giữa nhân gian
Hóa thân vào chốn bạt ngàn sắc Thu !…

14/8/23
Nguyễn Quế

“Vietnamese Sociology to choose and shape Vietnam New’s future timeline”, my old teacher father said. We are see more Ashes to ashes, dust to dust : Good riddance Quantum AI https://hoangkimvn.wordpress.com/category/viet-nam-xa-hoi-hoc

TIẾNG TRUNG BÌNH MINH AN
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim

#htn365 https://youtu.be/nSvekmBYxOw 6 5 4 3 2 1

BÌNH MINH AN NGÀY MỚI
Hoàng Tố Nguyên #ana, #htn,
#htn365, #cnm365, #hoanggia
#dayvahoc, #vietnamxahoihoc, #vietnamhoc#cltvn

A NA TÌM ĐƯỢC NGỌC
Hoàng Tố Nguyên #ana #htn #hoanggia

#ana https://youtu.be/nOMNHxXj6SM 39 38 37 36 35 34

Chủ tích Hồ Chí Minh, ngày tưởng nhớ 21 tháng 7 lịch phương Đông

TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim
#htn, #htn365, #ana, #dayvahoc, #vietnamxahoihoc, #vietnamhoc, #cnm365#cltvn

Việt Nam con đường xanh (hình); Việt Nam xã hội học

MỘT GIA ĐÌNH YÊU THƯƠNG
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/mot-gia-dinh-yeu-thuong/

#CLTVN CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM
Hoàng Long, Hoàng Kim (chủ biên) và đồng sự
http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong

Bài viết mới (đọc thêm, ngoài giáo trình, bài giảng)

Bảo tồn và phát triển sắn
Cách mạng sắn Việt Nam
Chọn giống sắn Việt Nam
Chọn giống sắn kháng CMD
Chọn giống sắn kháng CWBD
Bạch Mai sắn Tây Nguyên
Giống sắn KM419 và KM440
Mười kỹ thuật thâm canh sắn
Sắn Việt bảo tồn phát triển
Sắn Việt Lúa Siêu Xanh
Sắn Việt Nam bài học quý
Sắn Việt Nam sách chọn
Sắn Việt Nam và Howeler
Sắn Việt Nam và Kawano
Sắn Việt và Sắn Thái
Quản lý bền vững sắn châu Á
Cassava and Vietnam: Now and Then

Lúa siêu xanh Việt Nam
Giống lúa siêu xanh GSR65
Giống lúa siêu xanh GSR90
Gạo Việt và thương hiệu
Hồ Quang Cua gạo ST
Cơm Niêu Vàng Gạo Đông A
Con đường lúa gạo Việt
Chuyện cô Trâm lúa lai
Chuyện thầy Hoan lúa lai
Lúa C4 và lúa cao cây
Lúa sắn Cămpuchia và Lào
Lúa sắn Việt Châu Phi
Lúa Việt tới Châu Mỹ

Giống ngô lai VN 25-99
Giống lạc HL25 Việt Ấn


Giống khoai lang Việt Nam
Giống khoai lang HL518
Giống khoai lang HL491
Giống khoai Hoàng Long
Giống khoai lang HL4
Giống khoai Bí Đà Lạt

Việt Nam con đường xanh
Việt Nam tổ quốc tôi
Vườn Quốc gia Việt Nam
Nông nghiệp công nghệ cao
Nông nghiệp sinh thái Việt
Nông nghiệp Việt trăm năm
IAS đường tới trăm năm
Viện Lúa Sao Thần Nông
Hoàng Thành đến Trúc Lâm
Ngày Hạnh Phúc của em
Có một ngày như thế

Thầy bạn là lộc xuân
Thầy bạn trong đời tôi
Trường tôi nôi yêu thương
IAS đường tới trăm năm
Sóc Trăng Lương Định Của
Thầy lúa Bùi Bá Bổng
Thầy Quyền thâm canh lúa
Thầy nghề nông chiến sĩ
Thầy Norman Borlaug
Thầy Luật lúa OMCS OM
Thầy Tuấn kinh tế hộ
Thầy Tuấn trong lòng tôi
Thầy Vũ trong lòng tôi
Thầy lúa xuân Việt Nam
Thầy Ngoạn Hồ Núi Cốc
Thầy bạn Vĩ Dạ xưa
Thầy là nắng tháng Ba
Thầy Dương Thanh Liêm
Thầy Hiếu Đêm Giáng Sinh
Thầy Nguyễn Hoàng Phương
Thầy Nguyễn Lân Dũng
Thầy nhạc Trần Văn Khê
Thầy ơi
Thắp đèn lên đi em
Thầy Tuệ Trung Thượng Sĩ
Ngày xuân đọc Trạng Trình
Nguyễn Du trăng huyền thoại
Lê Quý Đôn tinh hoa
Trần Công Khanh ngày mới
Phạm Trung Nghĩa Viện Lúa
Phạm Quang Khánh Hoa Đất
Phạm Văn Bên Cỏ May

24 tiết khí nông lịch
Nông lịch tiết Lập Xuân
Nông lịch tiết Vũ Thủy
Nông lịch tiết Kinh Trập
Nông lịch tiết Xuân Phân
Nông lịch tiết Thanh Minh
Nông lịch tiết Cốc vũ
Nông lịch tiết Lập Hạ
Nông lịch tiết Tiểu Mãn
Nông lịch tiết Mang Chủng
Nông lịch tiết Hạ Chí
Nông lịch tiết Tiểu Thử
Nông lịch tiết Đại Thử
Nông lịch tiết Lập Thu
Nông lịch Tiết Xử Thử
Nông lịch tiết Bạch Lộ
Nông lịch tiết Thu Phân
Nông lịch tiết Hàn Lộ
Nông lịch Tiết Sương Giáng
Nông lịch tiết Lập Đông
Nông lịch tiết Tiểu tuyết
Nông lịch tiết Đại tuyết
Nông lịch tiết giữa Đông
Nông lịch Tiết Tiểu Hàn
Nông lịch tiết Đại Hàn

Nhà sách Hoàng Gia

Video tài liệu tham khảo chọn lọc :

Cây Lương thực Việt Nam Chuyển đổi số nông nghiệp, Học không bao giờ muộn Cách mạng sắn Việt Nam https://youtu.be/81aJ5-cGp28; Mười kỹ thuật thâm canh sắn : Cassava in Vietnam Save and Grow 1Daklak; Cassava in Vietnam: Save and Grow 2Daklak; Cassava in Vietnam: Save and Grow 3Daklak; Giống sắn KM410 và KM440 ở Phú Yên https://youtu.be/XDM6i8vLHcI; Giống sắn KM419, KM440 ở Đăk Lăk https://youtu.be/EVz0lIJv2N4; Giống sắn KM419, KM440 ở Tây Ninh https://youtu.be/XMHEa-KewEk; https://youtu.be/kjWwyW0hkbU; https://youtu.be/9mZHm08MskE; Trồng sắn KM419, KM98-5, KM98-1 ở Căm pu chia https://youtu.be/TpTIxv9LaFQ; Ngăn chặn lây lan CWBD bệnh chổi rồng ở Căm pu chia https://youtu.be/0gNY0KZ2nyY; Trồng khoai lang ở Hàn Quốc https://youtu.be/J_6xW3j47Sw; Trồng lúa đặc sản ở Trung Quốc https://youtu.be/rJSZfrJFluw; Trồng khoai lang tím ở Trung Quốc https://youtu.be/0CHOG3r64xs;Trồng và chế biến khoai tây ở Trung Quốc https://youtu.be/0gNY0KZ2nyYv; Làm măng ngọt giá cao ở Trung Quốc https://youtu.be/i1oFFqFMlvI; Nghệ thuật làm vườn yêu thích, dễ làm, hiệu quả https://youtu.be/kPIzBRPezY4https://youtu.be/_jUJrIWp2I4; Trồng ngô ở vùng cao Trung Quốc https://youtu.be/bZsfEwr9i6I

#Thungdung #CNM365 #hoangkimlong
NGÀY MỚI LỜI YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim

Khoác thêm tấm áo trời se lạnh
Đông tàn xuân đến đó rồi em
Phúc hậu mỗi ngày chăm việc thiện
Yêu thương xa cách hóa gần thêm

New day words of love

Wearing sweater when it’s rather cold.
Winter comes to an end ,and early Spring is coming.
Everyday, we care good deeds kindly.
Distant love turn out to be close together.

HK

LỜI KHUYÊN THÓI QUEN TỐT
Bài học vàng cho con
Hoàng Kim

Học không bao giờ muộn
Dạy con phải kịp thời
Thương cháu cần dạy sớm
Thói quen tốt con ơi.

Giấc ngủ cần trước nhất
Sức khỏe nhờ ngủ ngon
Thiếu ngủ thường mệt mỏi
Ngủ giúp não phục hồi.

Vận động nhiều một chút
Đi bộ và dạo chơi
Cần đứng lên ngồi xuống
Sau mỗi giờ làm bài

Ăn đủ chất dinh dưỡng
Thức ăn nóng sạch tươi
Thích ăn cá rau quả
Không thích thứ nguội thiu

Ngủ vận động và ăn
Là thói quen lành mạnh
Sống nơi không gian xanh
Công việc chọn an lành.

Thói quen tốt luyện tập
Buông bỏ điều hư vinh.

Good habit advice
Hoàng Kim

Learn never late
Teaching children must be timely
I love teaching early
Good habits, baby.

Sleep needs first
Health thanks to good sleep
Lack of sleep often tired
Sleep helps the brain recover.

Move a little bit
Walking and walking
Need to stand up and sit down
After every hour of doing the lesson

Eat enough nutrients
Hot and fresh food
Love to eat vegetables and fish
Do not like cool things

Sleep movement and eating
Healthy habits
Living in green space
Work choose peace.

Practice good habits
Let go of the bad thing.

songdongnai

CUỐI DÒNG SÔNG LÀ BIỂN
Hoàng Kim

Minh triết là yêu thương
Cuối dòng sông là biển
Đức tin phục sinh thánh thiện
Yêu thương mở cửa thiên đường.

Lời dặn của Thánh Trần
Yên Tử Trần Nhân Tông
Lev Tonstoy năm kiệt tác 
Ngày xuân đọc Trạng Trình.

Ngắm dấu chân thời gian

Đọc lại và suy ngẫm. Hôm nay tôi nhận được thư của một bạn sinh viên đã ra Trường. Bạn ấy đọc Facebook và thích các bài viết CNM365 Tình yêu cuộc sống của tôi. Bạn ấy hiểu Dạy và học ngày nay không chỉ trao truyền tri thúc mà còn thắp lên ngọn lửa. Bạn ấy thấu hiểu lời bài giảng mà chúng tôi luôn nhắc đi nhắc lại: “Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu hiểu bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc” “Cái gốc của sự học là học làm người”. Cuối dòng sông là biển. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cuoi-dong-song-la-bien/

Bạn ấy hỏi như sau: “Thưa thầy! Con là Vương, lớp Nông học 14 Ninh Thuận. Con may mắn được biết thầy qua những bài giảng hay của Bộ môn Cây Lương thực Rau Hoa Quả. Con xin lỗi vì những kiến thức thầy truyền dạy con đã quên đi ít nhiều. Nhưng cái con vẫn còn nhớ và vẫn còn cảm nhận được mỗi khi con suy nghĩ và bắt gặp hình ảnh của thầy trên Facebook đó là thầy cho con cảm giác an lành, gần gũi và ấm áp nữa. Con đã đi làm nhưng vẫn băn khoăn về định hướng tương lai của mình. Con không rõ sứ mệnh cuộc đời con là gì? Con không biết là mình phải tự suy nghĩ về cái sứ mệnh đó hay phải trải qua các sự kiện trong đời rồi mình mới nhận ra sứ mệnh đó. Con cũng muốn được biết Con người sinh ra trên đời này để làm gì? Có phải họ sinh ra để rồi chết đi hay còn ý nghĩa nào khác nữa. Con biết thầy rất bận nhưng rất mong được thầy giải đáp. Nếu thầy chưa có thời gian thì con sẽ chờ để được thầy giải đáp ạ! Con mong thầy có nhiều sức khoẻ!” . Tôi đã trả lời “Tuyệt vời Dép Chính Chủ (là nick name của bạn ấy) Thầy sẽ sớm trả lời câu bạn hỏi. Ý nghĩa cuộc sống, bạn đọc thêm Minh triết sống phúc hậu, CNM365 Tình yêu cuộc sốngCuối dòng sông là biển đó là câu chuyện ẩn ngữ riêng chung, là câu chuyện dài cho những ai thích nhìn lại ý nghĩa cuộc đời, những giá trị di sản lắng đọng, nhìn lại sự được mất thành bại trong đời mình, tìm về giá trị đích thực của năm tháng đi qua chỉ tình yêu còn lại, tìm về cội nguồn lịch sử văn hóa dân tộc. Chúng ta đã đến lúc công tâm nhìn lại những giá trị lịch sử văn hóa di sản: 1. Phục sinh giữa tối sáng; 2. Dạo chơi non nước Việt; 3. Đi như một dòng sông; 4. Nam tiến của Người Việt. 5. Đoàn tụ đất phường Nam. ‘ Minh triết đời yêu thương; Cuối dòng sông là biển Đức tin phục sinh thánh thiện Yêu thương mở cửa thiên đường’.Tôi đã đọc ‘Phục sinh’ và ‘Đường sống’ của Lev Tonstoy giữa hai vùng tối sáng, khi cuộc đời được trãi nghiệm qua các thời khắc sinh tử hiểm nghèo, đi trong vùng tối và lần tìm ra lối sáng minh triết. Ta chợt chứng ngộ thấu hiểu giá trị của các lời khuyên khôn ngoan tại nhiều cuộc đời danh nhân và và nhiều tác phẩm lớn. ‘Phục sinh’ ,‘Đường sống’ của Lev Tonstoy là sách đúc kết kiểu đó, khó đọc nhưng thật tuyệt vời. Đó là giá trị lắng đọng. Cuối dòng sông là biển.

*

Sông Đồng Nai Biên Hòa gần Văn Miếu Trấn Biên là nơi sông về gần tới biển, nôi phục sinh của người Việt trên hành trình Nam tiến. Chúng tôi lớp sinh viên Trồng trọt khóa 2, Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, đã về Văn Miếu Trấn Biên dâng hương ghi ơn những người mở đường sống cho dân tộc Việt tạo dựng nên nơi này; ghi nhớ tình thầy bạn vui học bên nhau một thời. Ghi chép và chùm ảnh quý thỉnh thoảng xem lại và suy ngẫm

Đời tôi xuôi phương Nam, sống thuận theo tự nhiên, đời lắng đọng ân tình của năm lớp bạn hữu: Trồng trọt 4 Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc; Trồng trọt 10 Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc (là Đại học Nông Lâm Huế và Đại học Nông Lâm Bắc Giang ngày nay), Trồng trọt 2A, Trồng trọt 2B, Trồng trọt 2C Đại học Nông nghiệp 4 (là Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh hiện tại. Tôi thoáng chốc nhìn lại, với ba lần ra đi và ba lần trở về trường đại học, lắng đọng một cảm xúc Trường tôi nôi yêu thương không thể nào quên.

Tôi may mắn đã Đi như một dòng sông; theo đường sống của dân tộc đang đi Nam tiến của người Việt. Sự trãi nghiệm hạnh phúc cá nhân nằm trong số phận đường sống của dân tộc. Cuối dòng sông là biển. Bài ký này, tôi lưu lại ba ghi chép nhỏ các giá trị lắng đọng: 1)Phục sinh giữa tối sáng; 2) Nam tiến của người Việt; 3) Cuối dòng sông là biển

1

PHỤC SINH GIỮA TỐI SÁNG

Phục sinh là tiểu thuyết sau cùng của Lev Tonstoy, xuất bản năm 1899, thể hiện cô đọng và đầy đủ hệ thống nhất về ước vọng, lòng nhiệt tâm, triết lý đạo đức của Tonstoy. Lâu nay chúng ta thường nghĩ về Lev Tonstoy là một đại văn hào với các tiểu thuyết lừng danh Chiến tranh và Hòa bình, Anna Karenina và bộ ba tiểu thuyết tự truyện gồm “Thời thơ ấu”, “Thời niên thiếu”, và “Thời tuổi trẻ”mà rất ít biến đến một Lev Tonstoy “Thánh sư” nhà tư tưởng mà Sa Hoàng đặc biệt ngưỡng mộ. Lev Tonstoy Suy niệm mỗi ngày, Đường sống, cổ tích cho người lớn, ngụ ngôn cho trẻ em mới là sông lớn về tới biển , trí tuệ văn sử lắng đọng sau cùng lcủa ông . Đó là tinh hoa trí tuệ minh triết vĩ đại của một bậc Thầy. Tôi lắng nghe tiếng nói sâu thăm thẳm từ nhận thức của đạo Bụt: “Ngươi theo tay ta chỉ để thấy kia là mặt trăng, nhưng luôn nên nhớ ngón tay ta không phải là mặt trăng”. Bao nhiêu người trên đời cho đến lúc cuối đời vẫn không phân biệt nỗi trí tuệ và vô mình, luẩn quẫn trong sự cố chấp ấy. Phục sinh giữa tối sáng là chuyện của Tolstoy một vị quý tộc tìm cách chuộc lại lỗi lầm phạm phải của mình từ nhiều năm trước và gửi gắm những ước muốn, quan điểm sống mới, tình yêu cuộc sống. Maksim Gorky từng kể rằng Tolstoy đã bật khóc ngay trước mặt Gorky và Chekhov khi đọc phần kết của tác phẩm này. Tonstoy sau tác phẩm lớn Phục sinh đã chuyển hẳn nguồn năng lượng dồi dào cuối đời mình cho mảng truyện cổ tích cho người lớn và truyện ngụ ngôn cho trẻ em. Một số truyện ngụ ngôn của ông phỏng theo ngụ ngôn Ê dốp và từ truyện Hindu. Một tiểu thuyết ngắn khác, Hadji Murat, được xuất bản đồng thời vào năm 1912. Ông khoảng 20 năm cuối đã dành sức cho 365 Suy niệm mỗi ngày.

Bá tước Lev Tolstoy.có tầm ảnh hưởng sâu rộng toàn cầu về văn chương và chính luận là điều không ai có thể nghi ngờ. “Chiến tranh và hòa bình” tác phẩm đỉnh cao của ông là đỉnh cao của trí tuệ con người, tiểu thuyết sử thi vĩ đại đưa Lev Tolstoy vào trái tim của nhân loại và  được yêu mến ở khắp mọi nơi trên thế giới. Tác phẩm “Chiến tranh và hòa bình được bình chọn là kiệt tác trong sách “Một trăm kiệt tác“ của hai nhà văn Nga nổi tiếng I.A.A-Bra- mốp và V.N. Đê-min do Nhà xuất bản Vê tre Liên bang Nga phát hành năm 1999, Nhà xuất bản Thế Giới Việt Nam phát hành sách này năm 2001 với tựa đề “Những kiệt tác của nhân loại“, dịch giả là Tôn Quang Tính, Tống Thị Việt Bắc và Trần Minh Tâm. “Chiến tranh và hòa bình” cũng được xây dựng thành bộ phim cùng tên do đạo diễn là Sergey Fedorovich Bondarchuk, công chiếu lần đầu năm 1965 và được phát hành ngày 28 tháng 4 năm 1968 tại Hoa Kỳ. Phim đoại giải thưởng Oscar phim nói tiếng nước ngoài xuất sắc nhất năm 1968 và danh tiếng mọi thời đại.

Lev Tolstoy sinh ngày 9 tháng 9 năm 1828, mất ngày  20 tháng 11 năm 1910, với kiệt tác “Chiến tranh và hoà bình” và “Anna Karenina” là đỉnh cao của sử thi và tiểu thuyết hiện thực cuộc sống Nga, được mệnh danh là tiểu thuyết gia vĩ đại nhất trong tất cả các nhà viết tiểu thuyết, con sư tử chúa tể sơn lâm trên đại ngàn văn chương Nga. Lev Tonstoy không chỉ là nhà văn kiệt xuất mà còn là một minh sư, một nhà tư tưởng vĩ đại và một bậc hiền minh, nhà đạo đức có tiếng với tư tưởng chống lại cái ác thể hiện xuyên suốt trong tác phẩm “Vương quốc Chúa Trời trong bạn” (tiếng Anh: The Kingdom of God Is Within You), đã ảnh hưởng tới những hình tượng của thế kỷ 20 như Mahatma Gandhi và Martin Luther King. Lev Tonstoy là người theo chủ nghĩa hoà bình, nhà cải cách giáo dục, người ăn chay, người theo chủ nghĩa vô chính phủ tín đồ Cơ Đốc, nhà tư tưởng đạo đức, và là một thành viên có ảnh hưởng của gia đình Tolstoy.

Lev Tonstoy ngay trang đầu Phục sinh chép lời Luca, VI, 40. “Học trò không hơn được Thầy; nhưng học trò nào tu hành trọn đạo thì tất sẽ được như Thầy”. Kia là mặt trăng. Đức Nhân Tông viết “Hãy quay về với tự thân chứ không tìm ở đâu khác“. Phục sinh. Lên Yên tử

Tôi bừng tỉnh ngộ.

Bài viết mới trên CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
CNM365 bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Vuonxuan

Mùa xuân đầu tiên (Văn Cao) -Thanh Thúy
Chopin – Spring Waltz 
KimYouTube

Sáng tạo và Công nghệ

BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN SẮN
Sán Việt Nam ngày nay. Giống sắn Việt Nam phát triển qua 50 năm. Vietnamese cassava today Vietnamese cassava varieties progression across 50 years;
see more https://vietnamscience.vjst.vn/index.php/vjste/article/view/1186 & https://vietnamscience.vjst.vn/index.php/vjste/article/view/1186/441 & https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-19-thang-3/

  • Long Hoang*
  • Mai T.T. Nguyen
  • Doan. N.Q. Nguyen
  • Kim Hoang
  • Clair Hershey
  • Reinhardt Howeler

Abstract

Vietnamese cassava varieties constitute the fundamental and pivotal element in the sustainable development programme for cassava. This article aims to encapsulate the advancements made over nearly five decades in breeding and enhancing Vietnamese cassava varieties. It delineates the suitable cassava variety structures for each period and ecological region. The selection of cassava varieties exhibiting high starch yield and disease resistance, coupled with the establishment of a suitable and efficient cassava cultivation model, exemplified by 10T for Vietnamese cassava varieties KM568, KM539, KM537, KM569, and KM94, stands as a cornerstone for sustaining cassava development over the years. Presently, we advocate for farmers to cultivate promising cassava varieties such as KM568 or KM539 (an enhanced version of the International Center for Tropical Agriculture (CIAT) cassava variety C39, refined through multiple breeding cycles from 2004 onwards), KM537, KM569, or HN1 (originally known as TMEB419), alongside popular cassava varieties: KM440, KM419, KM94, KM7, STB1, KM414, KM98-7, KM140, KM98-5, KM98-1. We have conducted Distinctness, Uniformity, and Stability (DUS) and Value for Cultivation and Use (VCU) tests, showcasing outstanding cassava varieties in large-scale farming, thereby providing compelling evidence for the prudent conservation and sustainable development of cassava. Vietnamese cassava progression (1975 to date) has traversed six stages, with five waves of restructuring cassava varieties, aligning with target orientations, farming conditions, and market demands, culminating in 16 popular cassava varieties and four promising cassava varieties KM568, KM539, KM537, and KM569.

Keywords:

Cassava varieties, Distinctness, Uniformity, and Stability (DUS) and Value for Cultivation and Use (VCU), progression, Vietnam

DOI:

https://doi.org/10.31276/VJSTE.66(1).59-76

Classification number

3.1

Author Biographies

Long Hoang

Faculty of Agronomy, Nong Lam University – Ho Chi Minh City, Quarter 6, Linh Trung Ward, Thu Duc City, Ho Chi Minh City, Vietnam

Mai T.T. Nguyen

Department of Agriculture and Rural Development of Phu Yen Province, 64 Le Duan Street, Tuy Hoa City, Phu Yen Province, Vietnam

Doan. N.Q. Nguyen

Faculty of Economics, Phu Yen University, 18 Tran Phu Street, Ward 7, Tuy Hoa City, Phu Yen Province, Vietnam

Kim Hoang

Faculty of Agronomy, Nong Lam University – Ho Chi Minh City, Quarter 6, Linh Trung Ward, Thu Duc City, Ho Chi Minh City, Vietnam

Vietnam National Cassava Program (VNCP), 121 Nguyen Binh Khiem Street, Dakao Ward, District 1, Ho Chi Minh City, Vietnam

Clair Hershey

International Center for Tropical Agriculture (CIAT), Kilometro 17, Straight Cali – Palmira, Apartado Aéreo 6713, Cali, Colombia

Reinhardt Howeler

International Center for Tropical Agriculture (CIAT), Kilometro 17, Straight Cali – Palmira, Apartado Aéreo 6713, Cali, Colombia

Downloads

Published

2024-03-15

Received 22 October 2023; revised 20 November 2023; accepted 15 February 2024

How to Cite

Long Hoang, Mai T.T. Nguyen, Doan. N.Q. Nguyen, Kim Hoang, Clair Hershey, & Reinhardt Howeler. (2024). Vietnamese cassava varieties progression across 50 years. Vietnam Journal of Science, Technology and Engineering, 66(1), 59-76. https://doi.org/10.31276/VJSTE.66(1).59-76

Issue

Vol. 66 No. 1 (2024)

Section

Life Sciences

Li

Vietnamese cassava varieties progression across 50 years
Giống sắn Việt Nam phát triển qua 50 năm
SẮN VIỆT NAM BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Vietnamese cassava varieties progression across 50 years
. Greeting from Hoang Kim Vietnam to Reinhardt Howeler and my teachers and friends. Best wish to you and your family on New Days; Good friends are hard to find, harder to leave, and impossible to forget, see moresee more https://vietnamscience.vjst.vn/index.php/vjste/article/view/1186 & https://vietnamscience.vjst.vn/index.php/vjste/article/view/1186/441 and https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietnamese-cassava-today — with Hoang Long, Nguyen Thi Truc Mai, Nguyen Nu Quynh Doan, Clair Hershey, and Reinhardt Howeler.

Welcome to read ….

Article Sidebar

Ngày xuất bản: 26-02-2024

DOI: 10.52997/jad.1.01.2024

Trích dẫn

Nguyễn, M. T. T., Hoàng, L., Nguyễn, Đoan N. Q., & Hoàng, K. (2024). Kết quả chọn tạo và khảo nghiệm các giống sắn triển vọng KM568, KM539, KM537 tại tỉnh Phú Yên. Tạp Chí Nông nghiệp Và Phát triển 23 (1), 1-13.

Số tạp chí

Tập 23 – Số 1 (2024)

Chuyên mục

Nông học, Lâm Nghiệp

Main Article Content

Tóm tắt

Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh chính, phù hợp với điều kiện sản xuất của tỉnh Phú Yên là quan trọng và cấp bách. Mục tiêu nhằm chọn tạo được giống sắn có năng suất tinh bột cao (vượt hơn đối chứng KM419 và KM94 tối thiểu 10%), kháng được sâu bệnh chính, điểm bệnh cấp 1 – 2 đối với bệnh khảm lá (CMD) và bệnh chồi rồng (CWBD). Phương pháp nghiên cứu thực hiện theo chuẩn của Chương trình sắn Việt Nam và Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới quốc tế (CIAT) về quy trình công nghệ chọn tạo và nhân giống sắn lai. Kết quả đã tuyển chọn được ba giống sắn triển vọng KM568, KM539 và KM537. Giống sắn KM568 con lai của KM440 x (KM419 x KM539), có năng suất củ tươi 54 tấn/ha với hàm lượng tinh bột 28,4% lúc 10 tháng sau trồng. Giống sắn KM539 là C39* chọn lọc của C39 nhập nội từ CIAT và có năng suất củ tươi 45,9 tấn/ha với hàm lượng tinh bột 27,9%. Giống sắn KM537 là con lai của (KM419 x KM539) x KM440, có năng suất củ tươi 51,3 tấn/ha với hàm lượng tinh bột 28,5%. Cả 3 giống này đều kháng bệnh CMD cấp 1,5 và kháng bệnh CWBD cấp 1. KM568, KM539 và KM537 lần lượt có 8 – 14 củ/bụi, 7 – 12 củ/bụi và 7 – 12 củ/bụi. Tất cả các giống này đều đạt kiểu hình cây lý tưởng, thịt củ trắng, cây thẳng, tán gọn, lóng ngắn và ít phân cành. Ngoài ra, chiều cao cây của KM568, KM539 và KM537 lần lượt là 2,3 – 2,7 m, 2,7 – 3,0 m và 2,5 – 2,9 m.

Từ khóa: DUS và VCU, Giống sắn, KM568, KM539, KM537

Article Details

Tài liệu tham khảo

FAO (Food and Agriculture Organization of the United Nations). (2022). FAOSTAT. Rome, Italy: FAO.

Hoang, K. (2003). Technology of cassava breeding. In Ngo, D. T., & Le, Q. H. (Eds.). Varietal technology of plant, animal and forestry (Vol. 2, 95-108). Ha Noi, Vietnam: Agricultural Publishing House.

Hoang, K., Nguyen, B. V., Hoang, L., Nguyen, H. T., Ceballos, H., & Howeler, R. H. (2010). Current situation of cassava in Vietnam. In Howeler, R. H. (Ed.), Proceedings of The 8th Regional Workshop on A New Future for Cassava in Asia: Its Use as Food, Feed, and Fuel to Benefit The Poor (100-112). Vientiane, Lao PDR: International Center for Tropical Agriculture (CIAT) and the National Agriculture and Forestry Research Institute (NAFRI). Retrieved February 15, 2022, from http://ciat-library.ciat.cgiar.org/Articulos_Ciat/biblioteca/A_new_future_for_Cassava_in_Asia_Its_use_a_food_freed_and_fuel_to_benefit_the_poor-compressed.pdf.

Hoang, K., Nguyen, M. T. T., Nguyen, M. B., & Howeler, R. H. (2011). Cassava conservation and sustainable development in Vietnam. In Howeler, R. H. (Ed.), Proceedings of The 9th Regional Workshop on Sustainable Cassava Production in Asia for Multiple Uses and for Multiple Markets (35-56). Guangxi, China: International Center for Tropical Agriculture (CIAT) and the Chinese Cassava Agrotechnology Research System (CCARS). Retrieved April 20, 2022, from http://ciatlibrary.ciat.cgiar.org/Articulos_Ciat/biblioteca/Sustainable_cassava_production_in_Asia_for_multiple_uses_and_for_multiple_markets.pdf

Hoang, L., Nguyen, M. T. T., Nguyen, M. B., Hoang, K., Ishitani, M., & Howeler, R. H. (2014). Cassava in Vietnam: production and research; an overview. In Howeler, R. H. (Ed.), Proceedings of Asia Cassava Research Workshop (15). Ha Noi, Vietnam: ILCMB- CIAT-VAAS/AGI.

Howeler, R. H. (2011). Proceedings of the 9th regional workshop on sustainable cassava production in Asia for multiple uses and for multiple markets. Retrieved April 20, 2022, from http://ciatlibrary.ciat.cgiar.org/Articulos_Ciat/biblioteca/Sustainable_cassava_production_in_Asia_for_multiple_uses_and_for_multiple_markets.pdf

Howeler, R. H., & Aye, T. M. (2014). Sustainable management of cassava in Asia – From research to practice. Ha Noi, Vietnam: News Publishing House.

MARD (Ministry of Agriculture and Rural Development). (2022). Report on production situation and directing the prevention of harmful organisms on cassava. Gia Lai, Vietnam: MARD and People’s Committee of Gia Lai Province.

Nguyen, M. B. (2018). Research on cultural techniques to scatter harvest season for cassava in Dak Lak province (Unpublished doctoral dissertation). Tay Nguyen University, Dak Lak, Vietnam.

Nguyen, M. T. T. (2017). Study on the selection of high yielding cassava varieties and intensive cultivation techniques in Phu Yen province (Unpublished doctoral dissertation). University of Agriculture and Forestry, Hue University, Hue, Vietnam.

Nguyen, M. T. T., Hoang, L., Nguyen, D. N. Q., & Hoang, K. (2021). Phu Yen cassava solutions for sustainable development. Phu Yen, Vietnam: Phu Yen Provincial People’s Committee.

Nguyen, V. A., Le, T. N., Nguyen, H., Do, T. T., Nguyen, H. T., Pham, H. T. T., Nguyen, H. T., Seki, M., & Le, H. H. (2021). Characterization of some popular cassava varieties in Vietnam. Journal of Vietnam Agricultural Science and Technology 3(124), 1-17.

Tran, Q. N., Hoang, K., Vo, T. V., & Kawano, K. (1995). Selection results of the new cassava varieties KM60, KM94, KM95 and SM937-26. In Proceedings of Vietnam Agricultural Research Workshop. Lam Dong, Vietnam: Ministry of Agriculture and Rural Development.

VNA (Vietnam National Assembly). (2018). Law No. 31/2018/QH14 dated on November 19, 2018. Law on crop production. Retrieved May 24, 2022, from https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Luat-Trong-trot-2018-336355.aspx.

VNFU (Central Vietnam Farmer’s Union). (2021). New rural magazine – Farmer’s scientist links take off together. Ho Chi Minh City, Vietnam: Youth Publishing House.

CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM
#cltvn #Vietcassava tích hợp thông tin Phú Yên Online I Kết quả bước đầu trong chọn tạo giống sắn kháng bệnh xem tiếp tin và ảnh tại https://baophuyen.vn/79/310545/ket-qua-buoc-dau-trong-chon-tao-giong-san-moi-khang-benh.html

Đề tài khoa hc, công ngh cp tnh Nghiên cu chn to ging sn năng sut tinh bt cao, kháng được sâu bnh hi chính, phù hp vi điu kin sn xut ti tnh Phú Yên đang nhn được s quan tâm ca ngành Nông nghip, h dân trng sn và m ra nhiu trin vng cho cây sn Phú Yên.

Đài Truyền Hình Phú Yên Khoa học và Cuộc sống tháng 11/2023 “Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên” https://youtu.be/gZZk9OL_4fg

#Vietcassava Phu Yen 18 11 2023

KM568 năng suất tinh bột cao kháng cao CMD CWBD cây và củ kiểu hình lý tưởng

KM569 ăn ngon ruột vàng kháng khá CMD CWBD với KM568 năng suất tinh bột cao kháng cao CMD CWBD củ và cây chuẩn được lão Nông chấp nhận tuyển chọn

KM539 năng suất bột cao kháng cao CMD CWBD tuyển chọn dạng cây thấp ít phân nhánh

Cụ Bình với KM539-10 Đồng Xuân

Giống sắn HN1 năng suất tinh bột cao, kháng cao CMD CWBD nhưng nhược điểm cao cây dễ đổ ngã

Older information

Tay Ninh Cassava Workshop 04-06 October 2023 Establishing Sustainable Solution to Cassava Disease in Mainland Southeast Asia. Project Review and Research Symposium, see more Vietnamese cassava today https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietnamese-cassava-today/

SÁNG TẠO VÀ CÔNG NGHỆ

Dạy và học mỗi ngày
Cây Lương thực Việt Nam
Việt Nam con đường xanh
CNM365 Tình yêu cuộc sống

Chuyển đổi số Quốc gia
Chuyển đổi số nông nghiệp
Ai ? làm gì? Ở đâu?
Sự thật hơn lời nói


Quốc Công đạo làm tướng
Biết mình và biết người
Sáng tạo và Công nghệ
Thật giả phải tường minh


Đồng bộ hóa dữ liệu
Có lợi cho người dân
Minh bạch rõ thông tin
Ban mai lặng lẽ sáng.


Hoang Long & Hoàng Kim
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/sang-tao-va-cong-nghe

PHÚ YÊN NÔI LÚA SẮN
Hoàng Kim


Thông tin Sở Khoa học và Công nghệ Phú Yên, Hội nghị tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ Phú Yên giai đoạn 2016-2020; Định hướng phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2025. Sáng ngày 31/12/2021, tại TP Tuy Hòa, UBND tỉnh Phú Yên đã phối hợp với Sở KH&CN tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ Phú Yên giai đoạn 2016-2020; Định hướng phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2025. Hội nghị được tổ chức trực tiếp tại TP Tuy Hòa và kết nối trực tuyến đến các thị xã, huyện trong địa phương cùng đại diện Bộ KH&CN. Chủ trì Hội nghị là đồng chí Đào Mỹ, Phó Chủ Tịch UBND tỉnh Phú Yên và đồng chí Dương Bình Phú, Giám đốc Sở KH&CN, tham dự Hội nghị còn có ông Thân Ngọc Hoàng, Phó Vụ trưởng Vụ Phát triển Khoa học và Công nghệ địa phương và đại diện lãnh đạo các Sở, Ban, Ngành, đơn vị, doanh nghiệp trong tỉnh; xem tiếp https://khcnpy.gov.vn/hoi-nghi-tong-ket-hoat-dong-khoa-hoc-va-cong-nghe-phu-yen-giai-doan-2016-2020-dinh-huong-phat-trien-ung-dung-khoa-hoc-cong-nghe-va-doi-moi-sang-tao-giai-doan-2021-2025/

Phú Yên nôi lúa sắn https://youtu.be/CKdEr4aS2NA là lời biết ơn chân thành bởi Hoàng Kim và đs. 2021. Hoàng Kim tham dự hội nghị theo giấy mời của UBND Tỉnh Phú Yên. Chúng tôi lưu trích đoạn lúa sắn thuộc lĩnh vực kỹ thuật công nghệ trong phim của Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Yên với Sở Khoa học và Công nghệ phối hợp thực hiện tháng 12 năm 2021. Phim chiếu tại Hội nghị tổng kết hoạt động khoa học công nghệ giai đoạn 2016-2020, định hướng phát triển ứng dụng KHCN & ĐMST giai đoạn 2021-2025 https://youtu.be/CKdEr4aS2NA

Bảo tồn và phát triển sắn
SẮN PHÚ YÊN GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
TS. Nguyễn Thị Trúc Mai, TS. Hoàng Kim, TS. Hoàng Long


Báo cáo Phú Yên 28 12 2021 Hội nghị “Giới thiệu về các công nghệ trong sản xuất Nông Lâm Thủy sản”, tài liệu hội nghị và bài tham luận tại Phú Yên 31 12 2021 “Hội nghị Tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ giai đoạn 2016- 2020, định hướng phát triển ứng dụng KHCN & ĐMST giai đoạn 2021-2025” UBND Tỉnh Phú Yên,

Tóm tắt: Báo cáo này đề cập ba nội dung: 1) Những vấn đề cần chú ý trong sản xuất sắn hiện nay để nâng cao giá trị và sức cạnh tranh cây sắn; 2) Thành tựu và bài học sắn Việt Nam (2016-2021) trước và trong dịch bệnh sắn CMD và CWBD ; 3) Phú Yên bảo tồn và phát triển sắn bền vững

GIỐNG SẮN KM419 VÀ KM440
Nguyễn Thị Trúc Mai,
Hoàng Kim, Hoàng Long và cộng sự.

Thông tin tiến bộ mới Bảo tồn và phát triển sắn; Sự thật tốt hơn ngàn lời nói Chọn giống sắn kháng CMD; Chọn giống sắn Việt Nam Giống sắn KM419 và KM440 xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category

MINH TRIẾT SỐNG PHÚC HẬU
Hoàng Kim

Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, thanh thản, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm; Minh triết sống phúc hậu xem tiếp: https://hoangkimlong.wordpress.com/category/minh-triet-song-phuc-hau/

Đức Phật dạy chúng ta: “Đạo của ta không có pháp cầu xin mà chỉ cần thấu hiểu nghiệp báo và tin sâu Luật nhân quả, rồi hành sống theo thiện pháp thì cuộc sống sẽ được an lạc hạnh phúc hiện tiền” “Nhân quả là một quy luật công bằng trên cuộc đời mà theo duyên có thể đến sớm hay đến muộn. Dù bạn là ai, thuộc tôn giáo nào hay không tin vào một tôn giáo nào thì cũng không có ngoại lệ nào dành riêng cho bạn. Không có ông thần, bà thánh nào có thể ban phước giáng họa cho bạn, ngay cả Đức Phật cũng không làm được điều đó. Mọi hành động thiện ác đều do chúng ta làm ra và tự thọ nhận lấy theo nhân quả của nó“. Minh triết của đức Phật https://hoangkimlong.wordpress.com/category/minh-triet-cua-duc-phat/ và Hoa Mai với Thiền sư https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoa-mai-voi-thien-su/

CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM
Hoàng Long, Hoàng Kim (chủ biên) và đồng sự
http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong

Cnm365 TÌNH YÊU CUỘC Sống

VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH
Hoàng Kim


Việt Nam con đường xanh
Sáng tạo và công nghệ
Chuyển đổi số Quốc gia
Chuyển đổi số nông nghiệp
Việt Nam tổ quốc tôi

Nông nghiệp công nghệ cao

Việt Nam con đường xanh; Nông nghiệp sinh thái Việt; Nông nghiệp Việt trăm năm; Viện Lúa Sao Thần Nông; IAS đường tới trăm năm; Trường tôi nôi yêu thương; Chọn giống sắn kháng CMD; Giống sắn KM419 và KM440; Cách mạng sắn Việt Nam; Chọn giống sắn Việt Nam; Mười kỹ thuật thâm canh sắn; Quản lý bền vững sắn châu Á; Cassava and Vietnam: Now and Then; Lúa siêu xanh Việt Nam; Gạo Việt và thương hiệu; Lúa C4 và lúa cao cây; Lúa sắn Cămpuchia và Lào; Lúa sắn Việt Châu Phi; Lúa Việt tới Châu Mỹ; Giống khoai lang Việt Nam; Giống ngô lai VN 25-99; Giống lạc HL25 Việt Ấn; Nhà sách Hoàng Gia;

Trung Quốc phương tiện bay

Trung Quốc phát triển phương tiện bay trên không và lặn dưới nước Bạn đã bao giờ nhìn thấy phương tiện bay trên không rồi lại lặn xuống nước chưa? Hãy xem NEZHA III, một phương tiện bay không người lái hỗn hợp do các nhà nghiên cứu Trung Quốc phát triển. Phương tiện NEZHA III do các nhà nghiên cứu từ Học viện Hải dương học thuộc Đại học Giao thông Thượng Hải Phương tiện này có trọng tải bay 5 kg và lặn sâu tới 50 m. NEZHA III dự kiến sẽ được ứng dụng trong cứu hộ hàng hải, khoa học và công trình hàng hải. Nó sẽ được sử dụng cho các nhiệm vụ thăm dò đồng thời trên không, trên mặt nước và dưới nước tại các khu vực biển cụ thể. Nó sẽ nâng cao năng lực giám sát biển của Trung Quốc.

Bài viết mới trên DẠY VÀ HỌC
https://hoangkimvn.wordpress.com bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter 

Video yêu thích

Video yêu thích
Mùa xuân đầu tiên (Văn Cao) -Thanh Thúy

Conquering yourself is the greatest feat [Plato (Plátōn), the Greek philosopher]
Tự chinh phục mình là chiến công vĩ đại nhất.


Tím một trời yêu thương

TÍM MỘT TRỜI YÊU THƯƠNG

Hạnh phúc thật giản đơn…
Khi sớm mai thức dậy
Thong thả vào trang mới
Cùng người thân chuyện trò

Thương năm tháng đường xa
Gừng cay và muối mặn
Nhớ giọt nước mắt trong
Sự an nhiên thầm lặng …

Chợt thấy lòng bâng khuậng
Thanh thản ngày vui tới
Thung dung chào ngày mới
Tím một trời yêu thương.


Nguyễn Thị Thủy & Hoàng Kim

HOÀNG KIM CHUYỆN ĐỜI TÔI
liên vận thơ Hoàng Đại Nhân

‘Mùa khoai lang tím tuyệt vời
Nhuộm ta tím cả một trời yêu thương’ 1 
Gừng cay muối mặn dặm đường
Tím khoai, tím sắn, trầm hương cuộc đời 2 .

Noi tinh yeu bat dau
Nơi tình yêu bắt đầu, ảnh Phan Chí Quyết

MƯỜI LĂM ĐÊM TRĂNG RẰM
Hoàng Kim

Trăng sáng lung linh trăng sáng quá
Đất trời lồng lộng một màu trăng
Dẫu đêm khuya vắng người quên ngắm
Trăng vẫn là trăng, trăng vẫn rằm

1) Truyện thơ
CƯỚI VỢ MÙA KHOAI LANG TÍM

Hoàng Đại Nhân ·

Chuyển thể từ truyện ngắn “Cưới vợ giữa mùa khoai lang lim tím” của nhà văn Phạm Minh Giang- Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thái Bình. (Đăng trên Facebook ngày 24/5/2021).

Nhớ hoài tháng chạp bảy mươi (12/1970)
Hoàn thành nhiệm vụ, niềm vui vô cùng
Khí tài giao lại đã xong
Trên cho về phép thỏa lòng bấy nay

Hai tuần được nghỉ tuyệt hay
Được về cưới vợ kịp ngày đón xuân.
Nhờ xe đơn vị qua gần
Tới ngang Nam Định dừng chân, tôi về

Qua phà Tân Đệ, đã khuya
Một mình nhẹ bước đường quê, vội vàng
Kìa như phía trước có làng
Ánh đèn le lói, lẹ làng ghé vô:

“Bác ơi! Cho cháu nghỉ nhờ”
Hai lần tôi gọi, những lo… phiền hà
Bất ngờ cô gái bước ra
Hỏi rằng đêm tối, ai mà ghé đây?

“Tôi về nghỉ phép hôm nay
Vì đêm khuya quá, vào đây nghỉ nhờ
Thực lòng không dám phiền cô
Sáng mai đi sớm, khỏi lo, cô à”.

Mời anh bộ đội vô nhà
Rồi cô gọi bố đi ra trước đèn
Ông sai con gái tên Hiền
Nấu cơm, tráng trứng xong liền mang lên

Vô cùng mến phục cô em
Mời tôi ăn bữa cơm đêm, tuyệt vời
Sáng hôm sau hửng mặt trời
Tôi xin từ giã, nói lời chia tay

Hẹn em, tôi sẽ lại đây
(Hứa thầm sẽ sớm có ngày thăm em
Tưởng rằng chỉ nói làm quen
Ai hay lời hứa làm nên chuyện đời).

Gần trưa về đến nhà tôi
Cả nhà vui vẻ, nói cười hân hoan
Rồi mang bao chuyện luận bàn
Nhắc cô bạn gái tôi mang nặng tình…

Bỗng nghe sét đánh bên mình
Cô vừa đám cưới linh đình gần đây
Theo chồng sang sống bên Tây
Trách cô sao được, lỗi này tại tôi

Dù tình yêu đã chín muồi
Ngày chia tay, tôi chẳng lời hứa chi
Nghĩ rằng cuộc chiến trường kỳ
Chỉ thầm yêu, hứa làm gì…, tội nhau

Năm năm chờ đợi cũng lâu
Thì đành cam phận…, trách nhau nỗi gì.
Mấy ngày buồn nản sầu bi
Dẹp nhanh chuyện cũ, tôi đi thăm Hiền

Xã Thanh Phúc cũng gần bên
Tới nơi chỉ thấy nhà Hiền vắng tanh
Gặp cô hàng xóm lanh chanh:
“Em xin tình nguyện dẫn anh ra đồng”

Ngoài đồng, người quả là đông
Cùng nhau thu hoạch từng vồng khoai lang
Mọi người không khỏi ngỡ ngàng
Thấy tôi xuống, bới khoai lang giúp Hiền

Rồi cùng em, gánh về liền
Lòng vui quên mệt, cùng Hiền bước nhanh
Buổi trưa, việc đã hoàn thành
Bố Hiền mở tiệc đãi anh lính liền

Được lòng “thừa thắng xông lên”
Tôi xin phép, chiều mời Hiền sang chơi
Về nhà, gặp bố mẹ tôi
Vui sao, bố mẹ hết lời ngợi khen.

Hiền ơi, anh cám ơn em
Tình duyên như đã dậy men thắm màu
Thế là chỉ một ngày sau
Tôi làm lễ cưới dưới bầu trời quê

Chè xanh làng Mét ngon ghê
Mấy cây thuốc lá Hòn Mê thơm lừng
Chương trình văn nghệ chào mừng:
“Bài ca năm tấn” tưng bừng hội hôn

– “Bước chân trên dãy Trường Sơn”…
Lời ca cuốn hút dễ thương vô ngần
Hội hôn – nét đẹp đầu xuân
Duyên tình đôi lứa, muôn phần tươi vui.

Mùa khoai lang tím tuyệt vời
Nhuộm ta tím cả một trời yêu thương.

SGP, 16/5/2022
Ảnh minh họa mượn nhà mạng.

2) xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-kim-chuyen-doi-toi/ và chín đường dẫn tự truyện Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim; Giấc mơ lai khoai lang; Giống khoai lang Việt Nam; Giống khoai lang tím HL491; Giống sắn chủ lực KM419; Chọn giống sắn kháng CMD; Chuyện ngậm ngãi tìm trầm; Báu vật nơi đất Việt; Pho tượng Ngọc Quan Âm

GIỐNG KHOAI LANG HL491
Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997

Nguồn gốc giống: Giống khoai lang HL491 (Nhật tím) do Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc chọn tạo và giới thiệu từ tổ hợp lai Murasa Kimasari polycross nguồn gốc Nhật Bản = CN76-2 CIP/AVRDC (Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997). Giống đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận giống năm 1997, hiện phổ biến trong sản xuất phía Nam và bán nhiều ở các siêu thị..

Đặc tính giống Thời gian sinh trưởng: 95 -110 ngày. Năng suất củ tươi: 15-27 tấn/ha, tỷ lệ chất khô 27- 31%. chất lượng củ luộc khá, vỏ củ màu tía, thịt củ màu tím đậm, dạng củ đều đẹp, dây xanh tím, nhiễm nhẹ sùng, hà và sâu đục dây.

IAS90

Hai giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ) và HL491 (Nhật tím) đã được trồng khá phổ biến và mang lại sự thay đổi căn bản về năng suất cao và chất lượng ngon cho sự canh tác khoai lang tại nhiều tỉnh của Việt Nam. Những tỉnh trồng hai giống khoai lang này nhiều là  Vĩnh Long, Kiên Giang, Đà Lạt,  Đăk Nông, Gia Lai, Đồng Nai và Sóc Trăng, … Tại Vĩnh Long, việc thay thế giống khoai lang địa phương Dương Ngọc, Tàu Nghẹn, Bí Đế bằng hai giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ) và HL491 (Nhật tím) và ứng dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh thích hợp đã đưa sản lượng khoai lang Vĩnh Long năm 2000 từ  diện tích khoai lang 2,5 ngàn ha, năng suất bình quân 18,4 tấn/ ha, sản lượng 46,2 ngàn tấn, lên diện tích khoai lang 8,5 ngàn ha, năng suất bình quân 29,2 tấn/ ha , sản lượng 248,7 ngàn tấn, (Tổng cục Thống kê 2014).

KhoaiSan

Việc ứng dụng giống khoai lang tốt có năng suất chất lượng cao và các biện pháp kỹ thuật thâm canh đã mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho nông dân.  Tuy vậy, năng suất, sản lượng, hàm lượng các chất trong củ khoai lang (% chất khô, tinh bột, vitamin, … ) là có sự sai khác rất rõ giữa các địa phương, vùng miền, tùy thuộc chủ yếu vào các yếu tố:  đặc điểm sinh thái khí hậu đất đai và mức độ thích hợp với các giống khoai lang khác nhau; trình độ kỹ thuật thâm canh của dân địa phương và điều kiện kinh tế xã hội liên quan đến sản xuất và tiêu thụ khoai lang; mô hình tổ chức sản xuất tiêu thụ khép kín theo VIETGAP và lợi thế so sánh của khoai lang tại nơi thực hiện. Khó khăn chính trong sản xuất khoai lang hiện tại là: Giống khoai lang lẫn tạp và thoái hóa; Kỹ thuật canh tác khoai lang chưa thật phù hợp (từ thời vụ trồng, chọn đất, chọn hom giống tốt, kỹ thuật làm đất, bón phân NPK và hữu cơ vi sinh, kỹ thuật trồng, mật độ trồng, phòng trừ sùng khoai lang, sâu đục dây và bệnh hại, đến các biện pháp làm cỏ, nhấc dây, tổ chức sản xuất kinh doanh và tiêu thụ khép kín…); Chưa kiểm soát tốt sùng hà gây hại; Ít đầu tư thâm canh; Chưa tổ chức sản xuất kinh doanh và tiêu thụ khép kín. Chúng tôi sẵn sàng hợp tác nghiên cứu phát triển giống khoai lang và các biện pháp kỹ thuật thâm canh để lựa chọn giống xác định địa bàn phù hợp đạt chất lượng năng suất khoai lang cao và hiệu quả kinh tế.

Giống khoai lang Việt Nam ngon nhất hiện nay là HL518 (Nhật đỏ),và HL491 (Nhật tím) (Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997)

Bài viết liên quan trên Hoàng Kim CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

QUA ĐÈO CHỢT GẶP MAI ĐẦU SUỐI
Hoàng Kim

“Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh/ Đường về vó ngựa dẫm mây xanh/ Qua đèo chợt gặp mai đầu suối/ Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành“. Tôi biết bài thơ kỳ lạ này của Bác Hồ đăng trên báo khoảng năm 1970 do một chuyện ngẫu nhiên tình cờ nên nhớ mãi. Bài thơ kỳ lạ vì ẩn chứa nhiều triết lý sâu sắc không dễ thấy, vì nó là thơ của Bác Hồ mà ít thấy sách báo nào nhắc đến gần nửa thế kỷ qua.Thuở ấy, tôi mười bảy tuổi, đã cùng người anh trai Hoàng Ngọc Dộ ra thăm đèo Ngang. Chúng tôi vừa đi xe đạp vừa đi bộ từ chân núi lên đến đỉnh đèo. Gần cột mốc địa giới hai tỉnh trên đỉnh đường xuyên sơn, cạnh khe suối ven đỉnh dốc sườn đèo có cây mai rừng rất đẹp. Chúng tôi đang thưởng ngoạn thì chợt gặp xe của Bộ trưởng Xuân Thủy và bí thư tỉnh ủy Quảng Bình Nguyễn Tư Thoan vừa tới. Họ đã xuống xe ngắm nhìn trời, biển, hoa, núi và bộ trưởng Xuân Thuỷ đã bình bài thơ trên. Nửa thế kỷ sau, Mai ảnh Phan Chi Thắng.gợi tôi viết bài này.

Bộ trưởng Xuân Thủy là nhà ngoại giao có kiến thức rộng, bạn thơ của Hồ Chí Minh, giỏi dịch thơ chữ Hán. Ông cũng là người đã dịch bài thơ “Nguyên tiêu” nổi tiếng, nên khi tôi tình cờ được nghe lời bình phẩm trực tiếp của ông về bài thơ trên thì tôi đã nhớ rất lâu. Tôi cũng hiểu nghĩa rõ ràng cụm từ “Trung Nam Hải” từ dịp ấy.

Ba mươi năm sau, khi anh Gia Dũng sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu bài thơ “Tìm bạn không gặp” trong tập thơ “Ngàn năm thương nhớ” tuyển thơ một nghìn năm Thăng Long, Hà Nội. Bài thơ “Tầm hữu vị ngộ” của Bác do nhà Hán học nổi tiếng Phan Văn Các diễn nghĩa và dịch thơ. Nội dung tuy vẫn thế nhưng bản dịch mới lời dịch sát nghĩa chữ Hán hơn so với bản tự dịch thoáng ý của chính Bác và có khác MỘT chữ so với bài mà tôi được nghe bình trước đây. Đó là từ “nghìn dặm” được thay bằng từ “trăm dặm” (“bách lý tầm quân vị ngộ quân” thay vì “thiên lý tầm quân vị ngộ quân”). Bản dịch mới có lời ghi chú, nghe nói là của Bác. Bài thơ viết năm 1950 nhưng cảm xúc thực sự của Người khi thăng hoa bài thơ nổi tiếng này thì nay vẫn còn để ngỏ.

Hồ Chí Minh tầm hữu vị ngộ

Thiên lý tầm quân vị ngộ quân,
Mã đề đạp toái lĩnh đầu vân.
Quy lại ngẫu quá sơn mai thụ,
Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân.
尋友未遇

千里尋君未遇君,
馬蹄踏碎嶺頭雲。
歸來偶過山梅樹,
每朵黃花一點春。

“Nghìn Trăm dặm tìm anh chẳng gặp anh,
Đường về vó ngựa dẫm mây xanh.
Qua đèo chợt gặp mai đầu suối
Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành.”
(Bản tự dịch của Hồ Chí Minh, theo Xuân Thủy)

“Trăm dặm tìm không gặp cố nhân
Mây đèo dẫm vỡ ngựa dồn chân
Đường về chợt gặp cây mai núi
Mỗi đoá hoa vàng một nét xuân”
(Bản dịch thơ của Phan Văn Các)

Bác ra nước ngoài từ đầu năm 1950 đến đầu tháng Tư mới về nước theo hồi ức “Chiến đấu trong vòng vây” của đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bác lúc đó đã sáu mươi tuổi, bí mật đi đến Bắc Kinh gặp chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông rồi đi luôn sang Matxcơva gặp đồng chí Stalin. Bác cũng đi tìm gặp đại tướng Trần Canh khi chuẩn bị chiến dịch Biên giới. Trong cơn lốc của các sự kiện, Bác khẳng định: “ Tổng phản công của ta sẽ là một giai đoạn lâu dài. Rồi đây, có sự chi viện của Liên Xô và Trung Quốc về vật chất, vũ khí, trang bị, ta sẽ đỡ khó khăn hơn, nhưng giành được thắng lợi là phải do sức nỗ lực của chính bản thân ta quyết định”.

“Nghìn dặm” hay “trăm dặm”? “gặp bạn” hay “không gặp” hoặc “gặp nhưng không gặp về cách làm”? Ngữ nghĩa của câu thơ “Bách lý tầm quân vị ngộ quân” khác hẳn với “thiên lý tầm quân vị ngộ quân” và không đơn giản dịch là “Tìm bạn không gặp”. Dường như Bác đang đề cập một vấn đề rất lớn của định hướng chiến lược đối ngoại. Nhiều sự kiện lịch sử hiện tại đã được giải mã nhưng còn nhiều ẩn ý sâu sắc trong thơ Bác cần được tiếp tục tìm hiểu, khám phá thêm. Những năm tháng khó khăn của cách mạng Việt Nam “chiến đấu trong vòng vây”; Những tổn thất và sai lầm trong cải cách ruộng đất do sự thúc ép từ phía Liên Xô và sự vận dụng không phù hợp kinh nghiệm của Trung Quốc; Quan hệ của nước nhỏ đối với các nước lớn. Nhiều điều tinh tế ẩn chứa trong thơ Bác.

Ý tứ trong bài thơ của Bác rất gần với với một bài thơ cổ của Trung Quốc thời nhà Tống: “Tận nhật tầm xuân bất kiến xuân/ Mang hài đạp phá lãnh đầu vân/ Quy lai khước phá mai hoa hạ/ Xuân tại chi đầu vị thập phân”. Bài thơ tả một ni cô mang hài trèo đèo vượt núi cực khổ tìm xuân suốt ngày mà vẫn chẳng gặp xuân. Đến khi trở về mới thấy xuân đang hiện trên những cành mai trong vườn nhà.

Bác Hồ cũng vượt vòng vây phong tỏa, chịu nhiều gian khổ suốt bốn tháng ròng để tìm sự ủng hộ quốc tế cho cách mạng Việt Nam đang “chiến đấu trong vòng vây”. Trên đường về, qua đèo, Bác chợt gặp cây mai đầu suối và Bác đã ngộ ra được những vấn đề sâu sắc của phương pháp cách mạng. Đối diện với mặt trời đỏ “đông phương hồng, mặt trời lên” là mặt TRĂNG hiền hoà (rằm xuân lồng lộng trăng soi) và gốc MAI vàng cổ thụ bên SUỐI nguồn tươi mát (bên suối một nhành mai). Trăng, suối, hoa mai là những cụm từ quan trọng trong thơ Bác. Nó là triết lý ứng xử tuyệt vời của một nước nhỏ đối với các nước lớn trong quan hệ quốc tế phức tạp. Trời càng sáng, trăng càng trong, nước càng mát, mai càng nở rộ.

Hồ Chí Minh Thướng Sơn

“Thướng sơn”; là bài thơ Ngôn chí đặc sắc của Hồ Chí Minh viết ở Lũng Dẻ năm 1942, in tại: Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, 1990, trang 14. Bài thơ ẩn ngữ lấy ý chủ đạo “nhành mai” đối “mặt trời hồng“. “bên suối một nhành mai.”
Thướng sơn

Lục nguyệt nhị thập tứ,
Thướng đáo thử sơn lai.
Cử đầu hồng nhật cận,
Đối ngạn nhất chi mai.

上山
六月二十四
上到此山來
舉頭紅日近
對岸一枝梅

Dịch nghĩa

Ngày hai mươi bốn tháng sáu,
Lên đến núi này.
Ngẩng đầu thấy mặt trời đỏ gần lại,
Bờ bên kia có một nhành mai.
Dịch thơ

Hai mươi tư tháng sáu,
Lên ngọn núi này chơi.
Ngẩng đầu: mặt trời đỏ,
Bên suối một nhành mai.
(Bản dịch của Tố Hữu)

Hăm tư tháng sáu hôm nay
Trèo lên trên đỉnh núi này dạo chơi
Ngẩng lên đỏ chói mặt trời
Bên kia khe một nhành mai xanh rờn
(Bản dịch của Xuân Thủy)

Ngày 24 tháng 6 là ngày gì trong lịch sử? Ngày 24 tháng 6 năm 1812 là ngày đại quân của Hoàng đế Pháp Napoléon Bonaparte vượt sông Neman, khởi đầu xâm chiếm Đế quốc Nga. Ngày 24 tháng 6 năm 1942 là ngày khởi đầu của chiến dịch Voronezh đại quân Đức Quốc Xã Adolf Hitler tấn công Voronezh, thành phố có tầm quan trọng chiến lược đặc biệt quan trọng bên bờ sông Đông, (là nguyên quán của Nikolai Fyodorovich Vatutin tư lệnh Phương diện quân Tây Nam, lực lượng phòng thủ chính của Liên Xô trong Chiến dịch phòng thủ Valuiki – Rossosh năm 1942). Về sau Adolf Hitler cho rằng hai ngày chậm trễ trong chiến dịch này đã làm Tập đoàn quân thiết giáp số 4 không kịp đến, làm giảm sức công phá và để cho Liên Xô kịp phòng thủ cứu nguy Stalingrad, thay đổi cục diện chiến tranh. Ngày 24 tháng 6 năm 1942 tại Lũng Dẻ, Hồ Chí Minh lên núi.

“Thướng sơn” và “Tầm hữu vị ngộ” là ẩn ngữ, câu thơ lưu lạc giữa đời thường. Hồ Chí Minh là người chuộng kinh Dịch và rất tinh tế, thường có những ứng xử ngẫu nhiên phù hợp với quy luật tất nhiên. Hồ Chí Minh trọn đời minh triết viết và nói thường có ẩn ý. Như 19 tháng 5 là ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là ngày thành lập Việt Minh, cũng là ngày khai sinh đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Chuỗi ba sự kiện lớn này đóng mốc son ngày 19 tháng 5 vào lịch sử Việt Nam và thế giới đối với nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sự nghiệp thống nhất Tổ quốc Việt Nam.

“Thướng sơn” (lên núi) là lên non thiêng ‘chống gậy lên non xem trận địa”, để xác định đúng tình thế, thời cơ và phương pháp cách mạng “tùy cơ, tùy vận, tùy thiên mệnh, tùy thời, tùy thế lại tùy nghi” là minh triết Hồ Chí Minh.”Đi đường mới biết gian lao. Núi cao rồi lại núi cao chập chùng . Núi cao lên đến tận cùng. thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” (Đi đường, Hồ Chí Minh) Lên núi là để xem thế trận biến ảo khôn lường dự báo kêết quả thắng thua của Chiến tranh thế giới thứ hai. Tôn Trung Sơn thời Trung Hoa Dân Quốc, đưa ra đại kế “Liên Nga, thân Cộng, ủng hộ Công Nông, Tam Dân chủ thuyết” Uông Tinh Vệ nối nghiệp Tôn Trung Sơn cùng Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch.là “tam hùng”. Uông Tinh Vệ trước tả sau hữu, kết giao người Nhật và trở thành Hán gian vì Uông Tinh Vệ cho rằng Đức Nhật Ý sẽ thắng Nga Mỹ Anh Trung Hoa Dân Quốc.

Hồ Chí Minh nguyên tiêu

Nhân nói thêm dịch bài thơ “Nguyên tiêu” Hồ Chí Minh, kiệt tác trong “100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ 20” thì bản dịch thơ của Xuân Thủy được nhiều người yêu thích hơn cả. Tuy vậy nghe nói là Cụ Hồ đã hỏi vui Bộ trưởng Xuân Thủy rằng câu thơ “Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên” (sông xuân, nước xuân tiếp trời xuân) khi dịch là “Sông xuân nước lẫn bầu trời thêm xuân” thì ba chữ xuân sao chỉ còn lại hai chữ xuân? Đó cũng là sự tinh tế (như Bộ trưởng Xuân Thủy làm Bộ trưởng không Bộ vậy).

Rằm Tháng Giêng
Hồ Chí Minh

Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

(Bản dịch thơ của Xuân Thuỷ)

Nguyên tác
元宵

今夜元宵月正圓,
春江春水接春天。
煙波深處談軍事,
夜半歸來月滿船。
Nguyên tiêu

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên.
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
Dịch nghĩa

Đêm nay, rằm tháng giêng, trăng vừa tròn,
Nước sông xuân tiếp liền với màu trời xuân.
Giữa nơi khói sóng thăm thẳm, bàn bạc việc quân,
Nửa đêm trở về, thuyền chở đầy ánh trăng.

Tháng 2 năm 1948.

Nguồn:
1. Hồ Chí Minh – Thơ, NXB Văn học, Hà Nội, 1975
2. Hồ Chí Minh toàn tập (tập 5), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000

Nhành mai trong thơ Bác

Bài thơ “Tầm hữu vị ngộ” Hồ Chí Minh câu thơ nguyên tác cuối bài là “Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân” . Giáo sư tiến sĩ Hán học Phan Văn Các, nguyên Viện trưởng Viện Hán Nôm đã dịch là “Mỗi đoá hoa vàng một nét xuân”. So câu chữ là rất chuẩn và rất sát nghĩa. Thế nhưng, tôi lại nghe cố bộ trưởng nhà thơ Xuân Thủy, người đã dịch kiệt tác bài thơ “Nguyên tiêu” ra tiếng Việt, nói năm 1970 thì “Ông Cụ” đã tự mình dịch câu thơ trên là “đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành”.

Câu thơ “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” của Thiền sư Mãn Giác (Lý Trường,1051-1096) theo Minh Đức Triều Tâm Ảnh được dẫn lại và phân tích sâu thêm của Nguyễn Khôi, thì đáng chú ý nhất và khó dịch nhất là “nhất chi mai”.

Nhiều người dịch “nhất chi mai” là “một nhành mai, một nhánh mai, một cành mai”, thật ra phải hiểu “nhất chi mai” còn có nghĩa là “một đóa mai” mới thấu hiểu hết nghĩa thâm thúy. Một đóa là đủ cho cái tối thiểu, là đủ đại biểu cho mùa xuân, như một câu thơ có trước đó của Thiền sư Tề Kỷ (864-937) bạn của Thi sĩ Trịnh Cốc (849-911) đời nhà Đường đã sáng tác bài:

TẢO MAI

Vạn mộc đống dục chiết
Cô căn noãn độc hồi
Tiền thôn thâm tuyết lý
Tạc dạ nhất chi khai.
Phong đệ u hương khứ
Cầm khuy tố diễm lai
Minh niên như ưng luật
Tiên phát ánh xuân đài.

MAI NỞ SỚM

Vạn cây băng giá chết
Một cội ấm mọc ra
Đầu xóm trong tuyết đặc
Một cành đêm nở hoa.
Gió xa đem hương ẩn
Chim ngắm hoa trắng ngà
Năm tới như đúng tiết
Mừng Xuân sáng ánh tà.

Chuyện kể rằng: Khi thiền sư Sư Tề Kỷ, sau khi viết xong, vốn tính khiêm tốn đã đem sang nhờ Thi sĩ Trịnh Cốc “góp ý kiến”, Trịnh Cốc đọc nhanh, rồi nói “sổ chi” phi “tảo” dã, vị nhược “nhất chi” giai (“mấy cành” chưa phải là sớm, chưa hay bằng “một cành”). Thiền sư Sư Tề Kỷ bèn sửa thành “Tạc dạ nhất chi khai”(một cành đêm nở hoa) bất hủ.

Bài thơ của Mãn Giác so với Tề Kỷ thì tương tự, nhưng có phần thâm viễn hơn. Với ý muốn nhắn gửi với đời về lẽ chuyển dịch vô thường không dao động đến tâm an nhiên của ta (theo Trần Tuấn Kiệt); Còn theo Ngộ Không thì nên hiểu: ở đây “xuân tàn” là trầm luân, “hoa lạc tận” là hư vô, giữa mê và Ngộ, phân ra hữu và vô, có và không. “nhất chi mai” chính là giác ngộ với trong sinh có diệt, trong diệt có sinh.”

“Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân” là “nhành mai” điểm nhấn tinh tế trong thơ Bác. Tại đây, Hồ Chí Minh chỉ rõ là “đóa” cụ thể là “một đóa mai” (nhất chi mai) nhưng Hồ Chí Minh tài tình chỉ rõ là “hoàng hoa” “đóa mai vàng” rất phù hợp và thông dụng ở Việt Nam, khác với mơ, mận, mai trắng, có nhiều ở xứ lạnh nhưng ít thông dụng ở xứ ấm như Việt Nam. Hồ Chí Minh lại viết ba chữ “nhất điểm xuân” đồng nghĩa nhưng khác sự diễn đạt với “nhất chi mai”, lời dịch nghĩa lại thoáng nghĩa “đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành” thuần Việt hoàn toàn và khẳng định chân lý “toàn thể mới làm nên mùa xuân đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công thành công đại thành công.

“Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh/ Đường về vó ngựa dẫm mây xanh/ Qua đèo chợt gặp mai đầu suối/ Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành“ là kiệt tác thơ chủ tịch Hồ Chí Minh.

Hoàng Kim

GIẤC MƠ LÀNH YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim

nhắm mắt lại đi em
để thấy rõ giấc mơ hạnh phúc
trời thanh thản xanh
đêm nồng nàn thở
ta có nhau trong cuộc đời này
nghe hương tinh khôi đọng mật
quyến rũ em và khát khao anh
mùi ngây ngất đằm sâu nỗi nhớ
một tiếng chuông ngân
thon thả đầu ghềnh

nhắm mắt lại đi em
hạnh phúc đâu chỉ là đích đến
hạnh phúc là con đường trãi nghiệm
vỗ về, chờ đợi, nhớ thương

nhắm mắt lại đi em
trong giấc mơ của anh
có em và rừng thiêng cổ tích
có suối nước trong veo như ngọc
có vườn trúc và ngôi nhà tranh
có một đàn trẻ thơ tung tăng
heo gà chó mèo ngựa trâu
nhởn nhơ trên đồng cỏ
tươi xanh

nhắm mắt lại đi em,
tận hưởng thú an lành.

Nhắm mắt lại đi em
Giấc ngủ ngoan
giấc mơ hạnh phúc
Em mãi bên anh,
Đồng hành với anh
Bài ca yêu thương
Bài ca hạnh phúc
Giấc mơ lành yêu thương

I have a dream

Nhắm mắt lại đi em
Giấc mơ cuộc đời
giấc mơ hạnh phúc
ngôi nhà tâm thức
Giấc mơ lành yêu thương
Có cánh cửa khép hờ
Có bãi cỏ xanh non.
Đất nước cây và hoa
Một khu vườn tĩnh lặng.
Chim sóc chó mèo gà
luôn quấn quýt sớm hôm.
Ban mai ửng
nghe chim trời gọi cửa.
Hoàng hôn buông
trăng gió nhẹ lay màn.
Ta về với ruộng đồng
Vui giấc mơ hạnh phúc
Vui một giấc mơ con
Hoa Lúa Hoa Người Hoa Đất 
Giấc mơ lành yêu thương.

GIẤC MƠ LÀNH YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim

Hoàng Thành đến Trúc Lâm
Lời thương cùng tháng năm
Tỉnh thức đêm Song Ngư
Hoa và Ong Hoa Người

Giấc mơ lành yêu thương
Tỉnh lặng với chính mình
Đi bộ trong đêm thiêng
Vui đi dưới mặt trời

Hoa Lúa giữa Đồng Xuân
Hoa Đất thương lời hiền
Hoa Mai và Mùa Xuân
Chỉ tình yêu ở lại

A Na bà chúa Ngọc
Nhà tôi chim làm tổ
Thầy là nắng tháng Ba
Ngôi sao mai chân trời

xem 16 đường dẫn chọn lọc tại Giấc mơ lành yêu thương https://hoangkimlong.wordpress.com/category/giac-mo-lanh-yeu-thuong/

NGÔI SAO MAY MẮN CHÂN TRỜI
Hoàng Kim

Em đọc lại Nhà Giả Kim em nhé
Bài ca thời gian câu chuyện cuộc đời
Một giấc mơ Người đi tìm kho báu
Theo ước mơ mình tới chốn xa xôi …

Bậc tiên tri biết nhìn sâu khát vọng
Khuyến khích em theo mơ ước tuổi hoa
Đi tới cuối con đường hạnh phúc
Hãy là chính mình, ta chính là ta.

Em thấu hiểu có ngôi sao may mắn
Luôn bên em lấp lánh phía chân trời
Nơi bảng lãng thơ tình Hồ núi Cốc
Giấc mơ đưa ta về cổ tích xa xôi  …

Lên đường đi em
Bình minh đã rạng
Vui bước tới thảnh thơi
Vui đi dưới mặt trời!

Ta hãy chăm như con ong làm mật
Cuộc đời này là hương hoa.
Ngày mới yêu thương vẫy gọi,
Ngọc cho đời vui khỏe cho ta.

xem tiếp Ngôi sao mai chân trời https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ngoi-sao-mai-chan-troi/

THẦY LÀ NẮNG THÁNG BA
Hoàng Kim

Thầy em là nắng tháng ba
Trời xanh biển rộng đậm đà sắc xuân
Nơi hoa vàng trên cỏ xanh
Biển xanh màu ngọc nắng lam da trời

Thầy là nắng tháng Ba.
Thầy Quyền thâm canh lúa.
Cảm ơn Thầy yêu quý của em
Cảm ơn Đội ngũ Facebook.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là NLU.jpg

Bài viết mới trên CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
CNM365 bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích

Hoàng Thành Thăng Long Hà Nội còn lại di tích gì sau 1000 năm #hnp

KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter

Hoàng Đại Nhân bạn tôi

HOÀNG ĐẠI NHÂN BẠN TÔI

Thơ Chuyện Hay ‘Nút Chặn’ *
Lời Thầy Dặn Thung Dung **
Chuyện Tình Hoa Muống Biển
Giấc Mơ Lai Khoai Lang

Tím một trời yêu thương
Chỉ mất ba giây để nói lời yêu
nhưng phải mất cả đời
để chứng minh điều đó


Tỉnh thức cùng tháng năm
Ban mai chào ngày mới
Nhà tôi chim làm tổ
Giấc mơ lành yêu thương

Hoàng Kim

TÍM MỘT TRỜI YÊU THƯƠNG

Hạnh phúc thật giản đơn…
Khi sớm mai thức dậy
Thong thả vào trang mới
Cùng người thân chuyện trò

Thương năm tháng đường xa
Gừng cay và muối mặn
Nhớ giọt nước mắt trong
Sự an nhiên thầm lặng …

Chợt thấy lòng bâng khuậng
Thanh thản ngày vui tới
Thung dung chào ngày mới
Tím một trời yêu thương.


Nguyễn Thị Thủy & Hoàng Kim

HOÀNG KIM CHUYỆN ĐỜI TÔI
liên vận thơ Hoàng Đại Nhân

‘Mùa khoai lang tím tuyệt vời
Nhuộm ta tím cả một trời yêu thương’ 1 
Gừng cay muối mặn dặm đường
Tím khoai, tím sắn, trầm hương cuộc đời 2 .

Noi tinh yeu bat dau
Nơi tình yêu bắt đầu, ảnh Phan Chí Quyết

MƯỜI LĂM ĐÊM TRĂNG RẰM
Hoàng Kim

Trăng sáng lung linh trăng sáng quá
Đất trời lồng lộng một màu trăng
Dẫu đêm khuya vắng người quên ngắm
Trăng vẫn là trăng, trăng vẫn rằm

1) Truyện thơ
CƯỚI VỢ MÙA KHOAI LANG TÍM

Hoàng Đại Nhân ·

Chuyển thể từ truyện ngắn “Cưới vợ giữa mùa khoai lang lim tím” của nhà văn Phạm Minh Giang- Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thái Bình. (Đăng trên Facebook ngày 24/5/2021).

Nhớ hoài tháng chạp bảy mươi (12/1970)
Hoàn thành nhiệm vụ, niềm vui vô cùng
Khí tài giao lại đã xong
Trên cho về phép thỏa lòng bấy nay

Hai tuần được nghỉ tuyệt hay
Được về cưới vợ kịp ngày đón xuân.
Nhờ xe đơn vị qua gần
Tới ngang Nam Định dừng chân, tôi về

Qua phà Tân Đệ, đã khuya
Một mình nhẹ bước đường quê, vội vàng
Kìa như phía trước có làng
Ánh đèn le lói, lẹ làng ghé vô:

“Bác ơi! Cho cháu nghỉ nhờ”
Hai lần tôi gọi, những lo… phiền hà
Bất ngờ cô gái bước ra
Hỏi rằng đêm tối, ai mà ghé đây?

“Tôi về nghỉ phép hôm nay
Vì đêm khuya quá, vào đây nghỉ nhờ
Thực lòng không dám phiền cô
Sáng mai đi sớm, khỏi lo, cô à”.

Mời anh bộ đội vô nhà
Rồi cô gọi bố đi ra trước đèn
Ông sai con gái tên Hiền
Nấu cơm, tráng trứng xong liền mang lên

Vô cùng mến phục cô em
Mời tôi ăn bữa cơm đêm, tuyệt vời
Sáng hôm sau hửng mặt trời
Tôi xin từ giã, nói lời chia tay

Hẹn em, tôi sẽ lại đây
(Hứa thầm sẽ sớm có ngày thăm em
Tưởng rằng chỉ nói làm quen
Ai hay lời hứa làm nên chuyện đời).

Gần trưa về đến nhà tôi
Cả nhà vui vẻ, nói cười hân hoan
Rồi mang bao chuyện luận bàn
Nhắc cô bạn gái tôi mang nặng tình…

Bỗng nghe sét đánh bên mình
Cô vừa đám cưới linh đình gần đây
Theo chồng sang sống bên Tây
Trách cô sao được, lỗi này tại tôi

Dù tình yêu đã chín muồi
Ngày chia tay, tôi chẳng lời hứa chi
Nghĩ rằng cuộc chiến trường kỳ
Chỉ thầm yêu, hứa làm gì…, tội nhau

Năm năm chờ đợi cũng lâu
Thì đành cam phận…, trách nhau nỗi gì.
Mấy ngày buồn nản sầu bi
Dẹp nhanh chuyện cũ, tôi đi thăm Hiền

Xã Thanh Phúc cũng gần bên
Tới nơi chỉ thấy nhà Hiền vắng tanh
Gặp cô hàng xóm lanh chanh:
“Em xin tình nguyện dẫn anh ra đồng”

Ngoài đồng, người quả là đông
Cùng nhau thu hoạch từng vồng khoai lang
Mọi người không khỏi ngỡ ngàng
Thấy tôi xuống, bới khoai lang giúp Hiền

Rồi cùng em, gánh về liền
Lòng vui quên mệt, cùng Hiền bước nhanh
Buổi trưa, việc đã hoàn thành
Bố Hiền mở tiệc đãi anh lính liền

Được lòng “thừa thắng xông lên”
Tôi xin phép, chiều mời Hiền sang chơi
Về nhà, gặp bố mẹ tôi
Vui sao, bố mẹ hết lời ngợi khen.

Hiền ơi, anh cám ơn em
Tình duyên như đã dậy men thắm màu
Thế là chỉ một ngày sau
Tôi làm lễ cưới dưới bầu trời quê

Chè xanh làng Mét ngon ghê
Mấy cây thuốc lá Hòn Mê thơm lừng
Chương trình văn nghệ chào mừng:
“Bài ca năm tấn” tưng bừng hội hôn

– “Bước chân trên dãy Trường Sơn”…
Lời ca cuốn hút dễ thương vô ngần
Hội hôn – nét đẹp đầu xuân
Duyên tình đôi lứa, muôn phần tươi vui.

Mùa khoai lang tím tuyệt vời
Nhuộm ta tím cả một trời yêu thương.

SGP, 16/5/2022
Ảnh minh họa mượn nhà mạng.

2) xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-kim-chuyen-doi-toi/ và chín đường dẫn tự truyện Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim; Giấc mơ lai khoai lang; Giống khoai lang Việt Nam; Giống khoai lang tím HL491; Giống sắn chủ lực KM419; Chọn giống sắn kháng CMD; Chuyện ngậm ngãi tìm trầm; Báu vật nơi đất Việt; Pho tượng Ngọc Quan Âm

GIỐNG KHOAI LANG HL491
Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997

Nguồn gốc giống: Giống khoai lang HL491 (Nhật tím) do Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc chọn tạo và giới thiệu từ tổ hợp lai Murasa Kimasari polycross nguồn gốc Nhật Bản = CN76-2 CIP/AVRDC (Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997). Giống đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận giống năm 1997, hiện phổ biến trong sản xuất phía Nam và bán nhiều ở các siêu thị..

Đặc tính giống Thời gian sinh trưởng: 95 -110 ngày. Năng suất củ tươi: 15-27 tấn/ha, tỷ lệ chất khô 27- 31%. chất lượng củ luộc khá, vỏ củ màu tía, thịt củ màu tím đậm, dạng củ đều đẹp, dây xanh tím, nhiễm nhẹ sùng, hà và sâu đục dây.

IAS90

Hai giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ) và HL491 (Nhật tím) đã được trồng khá phổ biến và mang lại sự thay đổi căn bản về năng suất cao và chất lượng ngon cho sự canh tác khoai lang tại nhiều tỉnh của Việt Nam. Những tỉnh trồng hai giống khoai lang này nhiều là  Vĩnh Long, Kiên Giang, Đà Lạt,  Đăk Nông, Gia Lai, Đồng Nai và Sóc Trăng, … Tại Vĩnh Long, việc thay thế giống khoai lang địa phương Dương Ngọc, Tàu Nghẹn, Bí Đế bằng hai giống khoai lang HL518 (Nhật đỏ) và HL491 (Nhật tím) và ứng dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh thích hợp đã đưa sản lượng khoai lang Vĩnh Long năm 2000 từ  diện tích khoai lang 2,5 ngàn ha, năng suất bình quân 18,4 tấn/ ha, sản lượng 46,2 ngàn tấn, lên diện tích khoai lang 8,5 ngàn ha, năng suất bình quân 29,2 tấn/ ha , sản lượng 248,7 ngàn tấn, (Tổng cục Thống kê 2014).

KhoaiSan

Việc ứng dụng giống khoai lang tốt có năng suất chất lượng cao và các biện pháp kỹ thuật thâm canh đã mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho nông dân.  Tuy vậy, năng suất, sản lượng, hàm lượng các chất trong củ khoai lang (% chất khô, tinh bột, vitamin, … ) là có sự sai khác rất rõ giữa các địa phương, vùng miền, tùy thuộc chủ yếu vào các yếu tố:  đặc điểm sinh thái khí hậu đất đai và mức độ thích hợp với các giống khoai lang khác nhau; trình độ kỹ thuật thâm canh của dân địa phương và điều kiện kinh tế xã hội liên quan đến sản xuất và tiêu thụ khoai lang; mô hình tổ chức sản xuất tiêu thụ khép kín theo VIETGAP và lợi thế so sánh của khoai lang tại nơi thực hiện. Khó khăn chính trong sản xuất khoai lang hiện tại là: Giống khoai lang lẫn tạp và thoái hóa; Kỹ thuật canh tác khoai lang chưa thật phù hợp (từ thời vụ trồng, chọn đất, chọn hom giống tốt, kỹ thuật làm đất, bón phân NPK và hữu cơ vi sinh, kỹ thuật trồng, mật độ trồng, phòng trừ sùng khoai lang, sâu đục dây và bệnh hại, đến các biện pháp làm cỏ, nhấc dây, tổ chức sản xuất kinh doanh và tiêu thụ khép kín…); Chưa kiểm soát tốt sùng hà gây hại; Ít đầu tư thâm canh; Chưa tổ chức sản xuất kinh doanh và tiêu thụ khép kín. Chúng tôi sẵn sàng hợp tác nghiên cứu phát triển giống khoai lang và các biện pháp kỹ thuật thâm canh để lựa chọn giống xác định địa bàn phù hợp đạt chất lượng năng suất khoai lang cao và hiệu quả kinh tế.

Giống khoai lang Việt Nam ngon nhất hiện nay là HL518 (Nhật đỏ),và HL491 (Nhật tím) (Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997)

Bài viết liên quan trên Hoàng Kim CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

QUA ĐÈO CHỢT GẶP MAI ĐẦU SUỐI
Hoàng Kim

“Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh/ Đường về vó ngựa dẫm mây xanh/ Qua đèo chợt gặp mai đầu suối/ Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành“. Tôi biết bài thơ kỳ lạ này của Bác Hồ đăng trên báo khoảng năm 1970 do một chuyện ngẫu nhiên tình cờ nên nhớ mãi. Bài thơ kỳ lạ vì ẩn chứa nhiều triết lý sâu sắc không dễ thấy, vì nó là thơ của Bác Hồ mà ít thấy sách báo nào nhắc đến gần nửa thế kỷ qua.Thuở ấy, tôi mười bảy tuổi, đã cùng người anh trai Hoàng Ngọc Dộ ra thăm đèo Ngang. Chúng tôi vừa đi xe đạp vừa đi bộ từ chân núi lên đến đỉnh đèo. Gần cột mốc địa giới hai tỉnh trên đỉnh đường xuyên sơn, cạnh khe suối ven đỉnh dốc sườn đèo có cây mai rừng rất đẹp. Chúng tôi đang thưởng ngoạn thì chợt gặp xe của Bộ trưởng Xuân Thủy và bí thư tỉnh ủy Quảng Bình Nguyễn Tư Thoan vừa tới. Họ đã xuống xe ngắm nhìn trời, biển, hoa, núi và bộ trưởng Xuân Thuỷ đã bình bài thơ trên. Nửa thế kỷ sau, Mai ảnh Phan Chi Thắng.gợi tôi viết bài này.

Bộ trưởng Xuân Thủy là nhà ngoại giao có kiến thức rộng, bạn thơ của Hồ Chí Minh, giỏi dịch thơ chữ Hán. Ông cũng là người đã dịch bài thơ “Nguyên tiêu” nổi tiếng, nên khi tôi tình cờ được nghe lời bình phẩm trực tiếp của ông về bài thơ trên thì tôi đã nhớ rất lâu. Tôi cũng hiểu nghĩa rõ ràng cụm từ “Trung Nam Hải” từ dịp ấy.

Ba mươi năm sau, khi anh Gia Dũng sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu bài thơ “Tìm bạn không gặp” trong tập thơ “Ngàn năm thương nhớ” tuyển thơ một nghìn năm Thăng Long, Hà Nội. Bài thơ “Tầm hữu vị ngộ” của Bác do nhà Hán học nổi tiếng Phan Văn Các diễn nghĩa và dịch thơ. Nội dung tuy vẫn thế nhưng bản dịch mới lời dịch sát nghĩa chữ Hán hơn so với bản tự dịch thoáng ý của chính Bác và có khác MỘT chữ so với bài mà tôi được nghe bình trước đây. Đó là từ “nghìn dặm” được thay bằng từ “trăm dặm” (“bách lý tầm quân vị ngộ quân” thay vì “thiên lý tầm quân vị ngộ quân”). Bản dịch mới có lời ghi chú, nghe nói là của Bác. Bài thơ viết năm 1950 nhưng cảm xúc thực sự của Người khi thăng hoa bài thơ nổi tiếng này thì nay vẫn còn để ngỏ.

Hồ Chí Minh tầm hữu vị ngộ

Thiên lý tầm quân vị ngộ quân,
Mã đề đạp toái lĩnh đầu vân.
Quy lại ngẫu quá sơn mai thụ,
Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân.
尋友未遇

千里尋君未遇君,
馬蹄踏碎嶺頭雲。
歸來偶過山梅樹,
每朵黃花一點春。

“Nghìn Trăm dặm tìm anh chẳng gặp anh,
Đường về vó ngựa dẫm mây xanh.
Qua đèo chợt gặp mai đầu suối
Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành.”
(Bản tự dịch của Hồ Chí Minh, theo Xuân Thủy)

“Trăm dặm tìm không gặp cố nhân
Mây đèo dẫm vỡ ngựa dồn chân
Đường về chợt gặp cây mai núi
Mỗi đoá hoa vàng một nét xuân”
(Bản dịch thơ của Phan Văn Các)

Bác ra nước ngoài từ đầu năm 1950 đến đầu tháng Tư mới về nước theo hồi ức “Chiến đấu trong vòng vây” của đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bác lúc đó đã sáu mươi tuổi, bí mật đi đến Bắc Kinh gặp chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông rồi đi luôn sang Matxcơva gặp đồng chí Stalin. Bác cũng đi tìm gặp đại tướng Trần Canh khi chuẩn bị chiến dịch Biên giới. Trong cơn lốc của các sự kiện, Bác khẳng định: “ Tổng phản công của ta sẽ là một giai đoạn lâu dài. Rồi đây, có sự chi viện của Liên Xô và Trung Quốc về vật chất, vũ khí, trang bị, ta sẽ đỡ khó khăn hơn, nhưng giành được thắng lợi là phải do sức nỗ lực của chính bản thân ta quyết định”.

“Nghìn dặm” hay “trăm dặm”? “gặp bạn” hay “không gặp” hoặc “gặp nhưng không gặp về cách làm”? Ngữ nghĩa của câu thơ “Bách lý tầm quân vị ngộ quân” khác hẳn với “thiên lý tầm quân vị ngộ quân” và không đơn giản dịch là “Tìm bạn không gặp”. Dường như Bác đang đề cập một vấn đề rất lớn của định hướng chiến lược đối ngoại. Nhiều sự kiện lịch sử hiện tại đã được giải mã nhưng còn nhiều ẩn ý sâu sắc trong thơ Bác cần được tiếp tục tìm hiểu, khám phá thêm. Những năm tháng khó khăn của cách mạng Việt Nam “chiến đấu trong vòng vây”; Những tổn thất và sai lầm trong cải cách ruộng đất do sự thúc ép từ phía Liên Xô và sự vận dụng không phù hợp kinh nghiệm của Trung Quốc; Quan hệ của nước nhỏ đối với các nước lớn. Nhiều điều tinh tế ẩn chứa trong thơ Bác.

Ý tứ trong bài thơ của Bác rất gần với với một bài thơ cổ của Trung Quốc thời nhà Tống: “Tận nhật tầm xuân bất kiến xuân/ Mang hài đạp phá lãnh đầu vân/ Quy lai khước phá mai hoa hạ/ Xuân tại chi đầu vị thập phân”. Bài thơ tả một ni cô mang hài trèo đèo vượt núi cực khổ tìm xuân suốt ngày mà vẫn chẳng gặp xuân. Đến khi trở về mới thấy xuân đang hiện trên những cành mai trong vườn nhà.

Bác Hồ cũng vượt vòng vây phong tỏa, chịu nhiều gian khổ suốt bốn tháng ròng để tìm sự ủng hộ quốc tế cho cách mạng Việt Nam đang “chiến đấu trong vòng vây”. Trên đường về, qua đèo, Bác chợt gặp cây mai đầu suối và Bác đã ngộ ra được những vấn đề sâu sắc của phương pháp cách mạng. Đối diện với mặt trời đỏ “đông phương hồng, mặt trời lên” là mặt TRĂNG hiền hoà (rằm xuân lồng lộng trăng soi) và gốc MAI vàng cổ thụ bên SUỐI nguồn tươi mát (bên suối một nhành mai). Trăng, suối, hoa mai là những cụm từ quan trọng trong thơ Bác. Nó là triết lý ứng xử tuyệt vời của một nước nhỏ đối với các nước lớn trong quan hệ quốc tế phức tạp. Trời càng sáng, trăng càng trong, nước càng mát, mai càng nở rộ.

Hồ Chí Minh Thướng Sơn

“Thướng sơn”; là bài thơ Ngôn chí đặc sắc của Hồ Chí Minh viết ở Lũng Dẻ năm 1942, in tại: Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, 1990, trang 14. Bài thơ ẩn ngữ lấy ý chủ đạo “nhành mai” đối “mặt trời hồng“. “bên suối một nhành mai.”
Thướng sơn

Lục nguyệt nhị thập tứ,
Thướng đáo thử sơn lai.
Cử đầu hồng nhật cận,
Đối ngạn nhất chi mai.

上山
六月二十四
上到此山來
舉頭紅日近
對岸一枝梅

Dịch nghĩa

Ngày hai mươi bốn tháng sáu,
Lên đến núi này.
Ngẩng đầu thấy mặt trời đỏ gần lại,
Bờ bên kia có một nhành mai.
Dịch thơ

Hai mươi tư tháng sáu,
Lên ngọn núi này chơi.
Ngẩng đầu: mặt trời đỏ,
Bên suối một nhành mai.
(Bản dịch của Tố Hữu)

Hăm tư tháng sáu hôm nay
Trèo lên trên đỉnh núi này dạo chơi
Ngẩng lên đỏ chói mặt trời
Bên kia khe một nhành mai xanh rờn
(Bản dịch của Xuân Thủy)

Ngày 24 tháng 6 là ngày gì trong lịch sử? Ngày 24 tháng 6 năm 1812 là ngày đại quân của Hoàng đế Pháp Napoléon Bonaparte vượt sông Neman, khởi đầu xâm chiếm Đế quốc Nga. Ngày 24 tháng 6 năm 1942 là ngày khởi đầu của chiến dịch Voronezh đại quân Đức Quốc Xã Adolf Hitler tấn công Voronezh, thành phố có tầm quan trọng chiến lược đặc biệt quan trọng bên bờ sông Đông, (là nguyên quán của Nikolai Fyodorovich Vatutin tư lệnh Phương diện quân Tây Nam, lực lượng phòng thủ chính của Liên Xô trong Chiến dịch phòng thủ Valuiki – Rossosh năm 1942). Về sau Adolf Hitler cho rằng hai ngày chậm trễ trong chiến dịch này đã làm Tập đoàn quân thiết giáp số 4 không kịp đến, làm giảm sức công phá và để cho Liên Xô kịp phòng thủ cứu nguy Stalingrad, thay đổi cục diện chiến tranh. Ngày 24 tháng 6 năm 1942 tại Lũng Dẻ, Hồ Chí Minh lên núi.

“Thướng sơn” và “Tầm hữu vị ngộ” là ẩn ngữ, câu thơ lưu lạc giữa đời thường. Hồ Chí Minh là người chuộng kinh Dịch và rất tinh tế, thường có những ứng xử ngẫu nhiên phù hợp với quy luật tất nhiên. Hồ Chí Minh trọn đời minh triết viết và nói thường có ẩn ý. Như 19 tháng 5 là ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là ngày thành lập Việt Minh, cũng là ngày khai sinh đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Chuỗi ba sự kiện lớn này đóng mốc son ngày 19 tháng 5 vào lịch sử Việt Nam và thế giới đối với nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sự nghiệp thống nhất Tổ quốc Việt Nam.

“Thướng sơn” (lên núi) là lên non thiêng ‘chống gậy lên non xem trận địa”, để xác định đúng tình thế, thời cơ và phương pháp cách mạng “tùy cơ, tùy vận, tùy thiên mệnh, tùy thời, tùy thế lại tùy nghi” là minh triết Hồ Chí Minh.”Đi đường mới biết gian lao. Núi cao rồi lại núi cao chập chùng . Núi cao lên đến tận cùng. thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” (Đi đường, Hồ Chí Minh) Lên núi là để xem thế trận biến ảo khôn lường dự báo kêết quả thắng thua của Chiến tranh thế giới thứ hai. Tôn Trung Sơn thời Trung Hoa Dân Quốc, đưa ra đại kế “Liên Nga, thân Cộng, ủng hộ Công Nông, Tam Dân chủ thuyết” Uông Tinh Vệ nối nghiệp Tôn Trung Sơn cùng Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch.là “tam hùng”. Uông Tinh Vệ trước tả sau hữu, kết giao người Nhật và trở thành Hán gian vì Uông Tinh Vệ cho rằng Đức Nhật Ý sẽ thắng Nga Mỹ Anh Trung Hoa Dân Quốc.

Hồ Chí Minh nguyên tiêu

Nhân nói thêm dịch bài thơ “Nguyên tiêu” Hồ Chí Minh, kiệt tác trong “100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ 20” thì bản dịch thơ của Xuân Thủy được nhiều người yêu thích hơn cả. Tuy vậy nghe nói là Cụ Hồ đã hỏi vui Bộ trưởng Xuân Thủy rằng câu thơ “Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên” (sông xuân, nước xuân tiếp trời xuân) khi dịch là “Sông xuân nước lẫn bầu trời thêm xuân” thì ba chữ xuân sao chỉ còn lại hai chữ xuân? Đó cũng là sự tinh tế (như Bộ trưởng Xuân Thủy làm Bộ trưởng không Bộ vậy).

Rằm Tháng Giêng
Hồ Chí Minh

Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

(Bản dịch thơ của Xuân Thuỷ)

Nguyên tác
元宵

今夜元宵月正圓,
春江春水接春天。
煙波深處談軍事,
夜半歸來月滿船。
Nguyên tiêu

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên.
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
Dịch nghĩa

Đêm nay, rằm tháng giêng, trăng vừa tròn,
Nước sông xuân tiếp liền với màu trời xuân.
Giữa nơi khói sóng thăm thẳm, bàn bạc việc quân,
Nửa đêm trở về, thuyền chở đầy ánh trăng.

Tháng 2 năm 1948.

Nguồn:
1. Hồ Chí Minh – Thơ, NXB Văn học, Hà Nội, 1975
2. Hồ Chí Minh toàn tập (tập 5), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000

Nhành mai trong thơ Bác

Bài thơ “Tầm hữu vị ngộ” Hồ Chí Minh câu thơ nguyên tác cuối bài là “Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân” . Giáo sư tiến sĩ Hán học Phan Văn Các, nguyên Viện trưởng Viện Hán Nôm đã dịch là “Mỗi đoá hoa vàng một nét xuân”. So câu chữ là rất chuẩn và rất sát nghĩa. Thế nhưng, tôi lại nghe cố bộ trưởng nhà thơ Xuân Thủy, người đã dịch kiệt tác bài thơ “Nguyên tiêu” ra tiếng Việt, nói năm 1970 thì “Ông Cụ” đã tự mình dịch câu thơ trên là “đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành”.

Câu thơ “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” của Thiền sư Mãn Giác (Lý Trường,1051-1096) theo Minh Đức Triều Tâm Ảnh được dẫn lại và phân tích sâu thêm của Nguyễn Khôi, thì đáng chú ý nhất và khó dịch nhất là “nhất chi mai”.

Nhiều người dịch “nhất chi mai” là “một nhành mai, một nhánh mai, một cành mai”, thật ra phải hiểu “nhất chi mai” còn có nghĩa là “một đóa mai” mới thấu hiểu hết nghĩa thâm thúy. Một đóa là đủ cho cái tối thiểu, là đủ đại biểu cho mùa xuân, như một câu thơ có trước đó của Thiền sư Tề Kỷ (864-937) bạn của Thi sĩ Trịnh Cốc (849-911) đời nhà Đường đã sáng tác bài:

TẢO MAI

Vạn mộc đống dục chiết
Cô căn noãn độc hồi
Tiền thôn thâm tuyết lý
Tạc dạ nhất chi khai.
Phong đệ u hương khứ
Cầm khuy tố diễm lai
Minh niên như ưng luật
Tiên phát ánh xuân đài.

MAI NỞ SỚM

Vạn cây băng giá chết
Một cội ấm mọc ra
Đầu xóm trong tuyết đặc
Một cành đêm nở hoa.
Gió xa đem hương ẩn
Chim ngắm hoa trắng ngà
Năm tới như đúng tiết
Mừng Xuân sáng ánh tà.

Chuyện kể rằng: Khi thiền sư Sư Tề Kỷ, sau khi viết xong, vốn tính khiêm tốn đã đem sang nhờ Thi sĩ Trịnh Cốc “góp ý kiến”, Trịnh Cốc đọc nhanh, rồi nói “sổ chi” phi “tảo” dã, vị nhược “nhất chi” giai (“mấy cành” chưa phải là sớm, chưa hay bằng “một cành”). Thiền sư Sư Tề Kỷ bèn sửa thành “Tạc dạ nhất chi khai”(một cành đêm nở hoa) bất hủ.

Bài thơ của Mãn Giác so với Tề Kỷ thì tương tự, nhưng có phần thâm viễn hơn. Với ý muốn nhắn gửi với đời về lẽ chuyển dịch vô thường không dao động đến tâm an nhiên của ta (theo Trần Tuấn Kiệt); Còn theo Ngộ Không thì nên hiểu: ở đây “xuân tàn” là trầm luân, “hoa lạc tận” là hư vô, giữa mê và Ngộ, phân ra hữu và vô, có và không. “nhất chi mai” chính là giác ngộ với trong sinh có diệt, trong diệt có sinh.”

“Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân” là “nhành mai” điểm nhấn tinh tế trong thơ Bác. Tại đây, Hồ Chí Minh chỉ rõ là “đóa” cụ thể là “một đóa mai” (nhất chi mai) nhưng Hồ Chí Minh tài tình chỉ rõ là “hoàng hoa” “đóa mai vàng” rất phù hợp và thông dụng ở Việt Nam, khác với mơ, mận, mai trắng, có nhiều ở xứ lạnh nhưng ít thông dụng ở xứ ấm như Việt Nam. Hồ Chí Minh lại viết ba chữ “nhất điểm xuân” đồng nghĩa nhưng khác sự diễn đạt với “nhất chi mai”, lời dịch nghĩa lại thoáng nghĩa “đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành” thuần Việt hoàn toàn và khẳng định chân lý “toàn thể mới làm nên mùa xuân đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công thành công đại thành công.

“Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh/ Đường về vó ngựa dẫm mây xanh/ Qua đèo chợt gặp mai đầu suối/ Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành“ là kiệt tác thơ chủ tịch Hồ Chí Minh.

Hoàng Kim

GIẤC MƠ LÀNH YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim

nhắm mắt lại đi em
để thấy rõ giấc mơ hạnh phúc
trời thanh thản xanh
đêm nồng nàn thở
ta có nhau trong cuộc đời này
nghe hương tinh khôi đọng mật
quyến rũ em và khát khao anh
mùi ngây ngất đằm sâu nỗi nhớ
một tiếng chuông ngân
thon thả đầu ghềnh

nhắm mắt lại đi em
hạnh phúc đâu chỉ là đích đến
hạnh phúc là con đường trãi nghiệm
vỗ về, chờ đợi, nhớ thương

nhắm mắt lại đi em
trong giấc mơ của anh
có em và rừng thiêng cổ tích
có suối nước trong veo như ngọc
có vườn trúc và ngôi nhà tranh
có một đàn trẻ thơ tung tăng
heo gà chó mèo ngựa trâu
nhởn nhơ trên đồng cỏ
tươi xanh

nhắm mắt lại đi em,
tận hưởng thú an lành.

Nhắm mắt lại đi em
Giấc ngủ ngoan
giấc mơ hạnh phúc
Em mãi bên anh,
Đồng hành với anh
Bài ca yêu thương
Bài ca hạnh phúc
Giấc mơ lành yêu thương

I have a dream

Nhắm mắt lại đi em
Giấc mơ cuộc đời
giấc mơ hạnh phúc
ngôi nhà tâm thức
Giấc mơ lành yêu thương
Có cánh cửa khép hờ
Có bãi cỏ xanh non.
Đất nước cây và hoa
Một khu vườn tĩnh lặng.
Chim sóc chó mèo gà
luôn quấn quýt sớm hôm.
Ban mai ửng
nghe chim trời gọi cửa.
Hoàng hôn buông
trăng gió nhẹ lay màn.
Ta về với ruộng đồng
Vui giấc mơ hạnh phúc
Vui một giấc mơ con
Hoa Lúa Hoa Người Hoa Đất 
Giấc mơ lành yêu thương.

GIẤC MƠ LÀNH YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim

Hoàng Thành đến Trúc Lâm
Lời thương cùng tháng năm
Tỉnh thức đêm Song Ngư
Hoa và Ong Hoa Người

Giấc mơ lành yêu thương
Tỉnh lặng với chính mình
Đi bộ trong đêm thiêng
Vui đi dưới mặt trời

Hoa Lúa giữa Đồng Xuân
Hoa Đất thương lời hiền
Hoa Mai và Mùa Xuân
Chỉ tình yêu ở lại

A Na bà chúa Ngọc
Nhà tôi chim làm tổ
Thầy là nắng tháng Ba
Ngôi sao mai chân trời

xem 16 đường dẫn chọn lọc tại Giấc mơ lành yêu thương https://hoangkimlong.wordpress.com/category/giac-mo-lanh-yeu-thuong/

NGÔI SAO MAY MẮN CHÂN TRỜI
Hoàng Kim

Em đọc lại Nhà Giả Kim em nhé
Bài ca thời gian câu chuyện cuộc đời
Một giấc mơ Người đi tìm kho báu
Theo ước mơ mình tới chốn xa xôi …

Bậc tiên tri biết nhìn sâu khát vọng
Khuyến khích em theo mơ ước tuổi hoa
Đi tới cuối con đường hạnh phúc
Hãy là chính mình, ta chính là ta.

Em thấu hiểu có ngôi sao may mắn
Luôn bên em lấp lánh phía chân trời
Nơi bảng lãng thơ tình Hồ núi Cốc
Giấc mơ đưa ta về cổ tích xa xôi  …

Lên đường đi em
Bình minh đã rạng
Vui bước tới thảnh thơi
Vui đi dưới mặt trời!

Ta hãy chăm như con ong làm mật
Cuộc đời này là hương hoa.
Ngày mới yêu thương vẫy gọi,
Ngọc cho đời vui khỏe cho ta.

xem tiếp Ngôi sao mai chân trời https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ngoi-sao-mai-chan-troi/

THẦY LÀ NẮNG THÁNG BA
Hoàng Kim

Thầy em là nắng tháng ba
Trời xanh biển rộng đậm đà sắc xuân
Nơi hoa vàng trên cỏ xanh
Biển xanh màu ngọc nắng lam da trời

Thầy là nắng tháng Ba.
Thầy Quyền thâm canh lúa.
Cảm ơn Thầy yêu quý của em
Cảm ơn Đội ngũ Facebook.

NÚT CHẶN
Hoàng Đại Nhân

Chị gặp anh từ trang phây búc
Qua những bài anh viết rất hay
Tính nhân văn, câu từ mộc mạc
Rất thân quen cuộc sống hằng ngày

Chị tưởng tượng, anh- người lịch lãm
Chắc cũng hơn sáu chục tuổi rồi
Thơ anh viết nhiều người đón nhận
Chị thấy lòng xao xuyến… chơi vơi

Những bài thơ nồng nàn, anh viết
Lời chân tình, cảm xúc nhân văn
Đã từ lâu, chị là độc giả
Yêu thơ anh… thiện cảm tăng dần

Rồi từ đó, chị thường chát chít
Cùng sẻ chia, từ ngữ, lời thơ…
Những ý tưởng qua từng bài viết
Càng hiểu nhau, xúc động vô bờ.

Chị xinh đẹp nhưng đời bất hạnh
Mang tang chồng khi tuổi còn xuân
Hai con chị: đứa xa lập nghiệp
Đứa theo chồng nên chẳng ở gần

Chị lên phây, giao lưu bè bạn
Mong lấp đi khoảng trống lạnh lòng
Qua vần thơ, hiểu tình người viết
Gặp được anh cũng thỏa niềm mong

Anh tình cảm và sành tâm lý
Luôn động viên nên chị yên lòng
Chị luôn giấu nỗi buồn thầm kín
Phút tâm tư… chị lại thầm mong

Những lúc rảnh, chị nhìn phây búc
Thấy nơi anh vẫn sáng ánh đèn
Chị càng thấy nhớ anh da diết
Họ cùng nhau chát chít từng đêm

Anh từng gọi video cho chị
Nhưng chị không cho thấy mặt mình
Rồi hàng tuần gọi nhau, thăm hỏi
Vắng mấy ngày, chị lại nhớ anh

Họ xa nhau hai ngàn cây số
Muốn gặp nhau, có dễ dàng đâu
Một dịp may, anh về quê mẹ
Họ hẹn hò sẽ gặp mặt nhau

Quán cà phê sân vườn yên tĩnh
Anh đã ngồi từ trước đợi chờ
Ly cà phê vơi đi quá nửa
Chị nhìn anh, chẳng chút bất ngờ

Chiếc áo trắng sơ mi, chị thích
Anh chìa tay, thay một lời chào
Nét giản dị đúng như chị tưởng
Ánh mắt nhìn ấm áp, gửi trao


Gương mặt anh rạng ngời, nam tính
Rất ân cần hỏi chị từng câu
Không vồn vã, không săn đón chị
Mà thân thương, dẫu gặp lần đầu

Ngồi bên nhau, nghe anh tâm sự:
“Đã mấy năm vợ bị tiểu đường
Bệnh biến chứng, hai chân đã đoạn
Anh một lòng chăm sóc bởi… thương

Anh yêu con, càng lo chăm vợ
Để các con còn mẹ trong đời
Dù vẫn biết chỉ là… ngày… tháng
Là người chồng phải trọn, em ơi”.

Chị nghe xong, nhói lòng, xúc động
Vội nuốt nhanh nước mắt vào trong
Rất cảm phục con người nhân đức
Chị nhìn anh ấn tượng vô cùng.


Chị bật khóc, đôi vai rung nhẹ

Chợt đứng lên, can đảm rời anh
Biết rằng anh- tâm hồn thánh thiện
Mặc anh ôm lần cuối… cũng đành.


Chị ra về mà lòng ám ảnh
Chuyện của anh xúc động vô ngần
Hình ảnh anh khắc sâu… thương nhớ
Nhưng sao đành có thể kết thân

Chị đọc lại những dòng anh nhắn
Rồi khen anh: “Thật quá tuyệt vời
Một người chồng- người cha mẫu mực
Nhưng mãi là bạn tốt nhất thôi”.

Tay chị run… bấm vào nút CHẶN
Hình ảnh anh vụt biến mất ngay
Rồi buông mình xuống giường nằm khóc
Ôi tình đời sao quá chua cay.

Sài Gòn, 09/5/2024. ‘Nút chặn’ là chuyện thơ do Hoàng Đại Nhân chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên đăng trên mâng ngày 8/5/2024, nhưng chưa rõ tác giả. HĐN tặng các bạn đã từng có phút xao xuyến rồi ‘cảm nắng’ trên phây.

* Hoàng Mạo (Bút danh Hoàng Đại Nhân), là hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Trường Sơn; sinh năm 1951; quê quán xã Chí Hòa, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; học hết THPT năm 1969; nhập ngũ đầu năm 1970, vô chiến trường đầu năm 1971; cuối năm 1976, chuyển ngành ra học Trường Đại học Nông nghiệp IV (Khoa CNTY); tốt nghiệp 1981; ra làm việc tại TP. Hồ Chí Minh; nghỉ hưu và cư trú tại TP. Thủ Đức, TP.HCM

** Kim Hoàng (Bạch Ngọc Hoàng Kim) bảo tồn và phát triển thông tin tại Những trang văn đọc lại; Lời Thầy Dặn Thung Dung Hoàng Đại Nhân bạn tôi

hoamuongbien

CHUYỆN TÌNH HOA MUỐNG BIỂN
Hoàng Đại Nhân


Khi mặt trăng vừa từ biển mọc lên
Tỏa ánh sáng dịu dàng bờ cát trắng
Biển đêm nay êm đềm, con sóng lặng
Từng cặp đôi đang sải bước ven bờ


Cô gái hiền lành, trong sáng ngây thơ
Bên chàng trai khi tình vừa chớm nở
Họ cùng nhau thì thầm trao lời hứa
Hai con tim cùng nhịp đập rộn ràng


Chàng trai nghèo bao hy vọng chứa chan
Cùng người đẹp sẽ nên duyên chồng vợ
Cái ngày ấy chẳng còn bao xa nữa
Khi người yêu đã thề nguyện chung tình.


Cha cô gái hay tin nổi nóng, bất bình
Biết chàng nghèo, chẳng “môn đăng hộ đối”
Ông thẳng thắn: “Đừng nên mơ ước vội
Hãy kiếm đi, đủ lễ vật…, ta chờ”


Chàng trai nghèo sau những phút sững sờ
Hiểu phận mình, đâu trách gì cô gái
Càng yêu thương, chàng càng thêm hăng hái
Quyết ra khơi mong có dịp đổi đời


Biển quê hương như cũng hiểu lòng người
Giúp chàng trai nặng thêm từng mẻ lưới
Chàng thầm nghĩ chỉ thêm vài ngày tới
Số tiền ta sắm lễ vật đủ rồi


Lần cuối cùng chàng lướt sóng ra khơi
Lòng khấp khởi tràn trề bao hy vọng
Căng sức trẻ, đâu sợ gì con sóng
Khi con tim mang hình bóng của nàng


Cô gái đợi chờ, hy vọng chứa chan
Hoàng hôn xuống, đón thuyền chàng cập bến
Nhưng… bất hạnh bỗng từ đâu ập đến
Nàng đâu hay, bão biển đã cướp chàng


Nỗi niềm đau, con tim trẻ nát tan
Nàng quên ăn, cứ ngày ngày hướng biển
Nàng cầu mong con thuyền chàng xuất hiện
Nhưng biển xa chỉ tung sóng cuộn trào


Qua nhiều ngày cô tiều tụy mòn hao
Rồi gục chết khi biển chiều tàn nắng
Ơi cô gái ! Một con tim trong trắng
Phút cuối đời vẫn hướng phía biển xa


Trời thương cô, cho hóa kiếp thành hoa
Loài muống biển vươn dài trên bờ cát
Hướng về biển, nghe dập dìu biển hát
Lời yêu thương cháy bỏng những hẹn hò


Chàng trai hóa thành những ngọn sóng xô
Cứ ào ạt cản ngăn loài muống biển
Hãy quay lại, em ơi, xin đừng tiến
Để an lành tươi thắm một loài hoa.


Biển hôm nay mãi hát khúc tình ca
Bản tình ca thắm màu hoa muống biển
Mãi tươi hồng đón chào con sóng đến
Lời thủy chung son sắt đến trọn đời.

GIẤC MƠ LAI KHOAI LANG
Hoàng Kim


Giống khoai lang Hoàng Long; Giống khoai lang HL518 ; Giống khoai lang HL491 là ba giống khoai lang phổ biến và ngon nhất Việt Nam ngày nay. Giấc mơ lai khoai lang, thành tựu và bài học, với con đường phía trước. Khoai lang liệu có thể lai muống biển để gia tăng tính kháng? chuyện bây giờ mới kể.

*
Giống khoai lang Việt Nam ngon nhất hiện nay là HL518 Nhật đỏ, HL491 Nhật tím (Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997) và khoai lang Hoàng Long (Hoàng Kim, Nguyễn Thị Thủy 1981). Ba giống khoai lang ngon này mức kháng sùng chỉ đạt trung bình. Giáo sư Vũ Đình Hòa (Học Viện Nông nghiệp Việt Nam) trong luận án tiến sĩ năm 1991 có thực hiện việc lai giống khoai lang loài khoai lang Ipomoea batatas L với loài khoai lang dại Ipomoea Trifida để tìm giải pháp giống khoai lang kháng sùng. Vậy, khoai lang liệu có thể lai với muống biển để gia tăng tính kháng? Có thể hay không thể. To be or not to be

KHOAI LANG LAI MUỐNG BIỂN?

Trước đây khi còn trẻ thơ, tôi đã tự hỏi “Muống biển liệu có thể lai khoai lang để gia tăng tính kháng?” Gần đây, bài thơ ‘Chuyện Tình Hoa Muống Biển” của anh Hoàng Đại Nhân gợi tôi trở về câu chuyện cũ. Bài thơ trong sáng giản dị và hay, cốt truyện tình yêu đẹp, giá trị nhân văn cao, hình ảnh tuyệt vời. Tôi trở lại câu hỏi khoa học cây trồng: Muống biển liệu có thể lai khoai lang để gia tăng tính kháng?

Hoa muống biển và hoa khoai lang hình thái thật giống nhau. Muống biển và khoai lang là hai loài thực vật có quan hệ gần gũi. Muống biển (Ipomoea pes-caprae (L.) R.Br.) là loài thực vật thuộc họ Bìm bìm (Convolvulaceae) mọc phổ biến trên của các bãi biển và chịu được không khí mặn. Carl von Linné (23 tháng 5 năm 1707 – 10 tháng 1 năm 1778), nhà thực vật học, bác sĩ kiêm động vật học người Thụy Điển, người tiên phong của ngành sinh thái học “Hoàng tử của giới thực vật học“, cha đẻ của hệ thống phân loại theo danh pháp hiện đại, là người đầu tiên mô tả loài thực vật này; năm 1818, Robert Brown là người phân loại nó vào chi hiện tại.

Muống biển được tìm thấy trên bờ cát vùng nhiệt đới ven biển Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, phía bắc của bang New South Wales, và dọc bờ biển bang Queensland thuộc nước Úc. Muống biển ở Việt Nam mọc hoang khắp các bãi cát ven biển từ Hà Tiên, Rạch Giá (Kiên Giang), đến Vũng Tàu (Bà Rịa Vũng Tàu), Nha Trang (Khánh Hòa), Quảng Trị, Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hóa, Hải Phòng…

Muống biển có công dụng làm thuốc nhưng hiện chưa có các nghiên cứu sâu về cây này. Theo Nông nghiệp Việt Nam muống biển công dụng trong y học cổ truyền được dùng toàn cây để chữa trị các chỗ viêm do dị ứng với sứa biển, phong độc, bệnh ngoài da; hạt để chữa trị mệt mỏi; lá được dùng để giã nát đắp lên chỗ ngứa do sứa biển.

Khoai lang (Ipomoea batatas L) là cây hai lá mầm thuộc họ Bìm bìm Convolvulaceae, chi Ipomoea, Chi phụ: Quamoclit; Phân chi: Batatas Loài: Ipomoea batatas. Họ Bìm bìm có 55 chi và khoảng 1650 loài, trong đó chi Ipomoea là chi lớn nhất với khoảng 600 loài (Austin, 1997). Ở Việt Nam có 13 chi và 76 loài (Lương Ngọc Toàn và csv, 1978). Cây khoai lang được phân loại trong chi Batatas. Hiện nay trong nội tộc phân chi Batatas có 13 loài hoang dại quan hệ với khoai lang. Khoai lang có số nhiễm sắc thể 15, là dạng lục bội thể (6x) duy nhất có khả năng tạo củ để làm lương thực. Trần Văn Minh 2008 đã trích dẫn tài liệu của Iting và Kehr 1953 nghiên cứu sự phân chia giảm nhiễm ở các giống khoai lang của Mỹ và giả thuyết là khoai lang có nguồn gốc đa bội khác nguồn. Nó hình thành từ tổ hợp lai giữa một tứ bội thể với nhị bội, sau đó xẩy ra quá trình phân đôi nhiễm sắc thể ở con lai bất dục. Nishiyama 1982 và Shiotani 1988 thì lại cho rằng khoai lang là một tứ bội cùng nguồn, hình thành do sự đa bội hoá của loài lưỡng bội.

Carl von Linné nhà thực vật học Thụy Điển, nhà bác học hàng đầu của nhân loại ngành sinh thái học “Hoàng tử của giới thực vật học“, cha đẻ của hệ thống phân loại theo danh pháp hiện đại. Ông là người đầu tiên mô tả loài muống biển. Ông cũng là nhà thơ, nhà ngôn ngữ lừng danh mà August Strindberg tác giả người Thụy Điển viết: “Linné kỳ thực là một nhà thơ sinh ra để trở thành nhà tự nhiên học”. Linné được Goethe nhà bác học thiên tài người Đức ca ngợi: “Trừ Shakespeare và Spinoza, tôi không biết ai giữa những người không còn sống mà ảnh hưởng tới tôi lớn hơn thế”.

THAO THỨC MỘT ƯỚC VỌNG

Hình ảnh cậu bé tiến về biển lúc bình minh gợi chúng ta nhớ về câu chuyện muống biển, khoai lang quan hệ với “Hai vạn dặm dưới đáy biển” một tiểu thuyết khoa học viễn tưởng của Jules Verne nhà văn Pháp nay đã chuyển thể thành phim. Hai Vạn Dặm Dưới Đáy Biển …

Câu chuyện “20,000 Leagues Under the Sea” 1954 kể rằng: Trong năm 1868, tin đồn về một con quái vật biển tấn công tàu ở Thái Bình Dương đã tạo ra lo âu và khiếp sợ trong thủy thủ Hoa Kỳ, làm gián đoạn đường vận chuyển hàng hải . Chính phủ Hoa Kỳ mời Giáo sư Pierre Aronnax và Conseil phụ tá của ông lên một tàu chiến thám hiểm để chứng minh hay bác bỏ sự tồn tại của con quái vật. Kết quả “Hai vạn dặm dưới đáy biển”

Giáo sư Pierre Aronnax nhà bác học biển và cộng sự đã thấu hiểu đại dương, thế giới biển, nguồn thức ăn khác biệt và vô tận dưới biển sâu, và năng lực của tàu ngầm, phát minh khoa học làm mở rộng tầm mắt và thay đổi nhận thức về thế giới biển. Xem phim tại Hai vạn dặm dưới đáy biểnhttp://hdonline.vn/phim-hai-van-dam-duoi-day-bien-10140…

HIỆN THỰC VÀ GIẤC MƠ

Giống khoai lang Việt Nam phổ biến trong sản xuất HL491, HL518, Hoàng Long, HL4, Bí Đà Lạt, Chiêm Dâu chất lượng ngon, năng suất cao mà chúng tôi đã chọn tạo được là thành tựu nổi bật về giống khoai lang Việt Nam trong bốn mươi năm qua (1981-2021). Dẫu vậy, mức kháng sùng chỉ đạt trung bình Hướng nghiên cứu chọn tạo giống khoai lang năng suất cao chất lượng ngon,là bám sát nhu cầu thực tiễn một thời và thực dụng khả thi thích hợp điều kiện sản xuất kinh tế xã hội Việt Nam, cần ngay những giống tốt thiết thực Giải pháp giống khoai lang kháng sùng của giáo sư Vũ Đình Hòa tại luận án tiến sĩ năm 1991 lai giống loài khoai lang trồng Ipomoea batatas L với loài khoai lang hoang dại Ipomoea Trifida là rất hay nhưng tiếc rằng thiếu những giấc mơ nghiên cứu tiếp nối.

Ban mai trên biển Quê hương, nơi có sóng, có gió và loài hoa muống biển. Tôi yêu quê tôi, yêu vùng gió cát “Chang chang cồn cát nắng trưa Quảng Bình”. Nhớ đến thắt lòng con “dèm” nhỏ, con cua nhỏ bên dòng Gianh và những vạt muống biển xanh bất tận bên bờ Nhật Lệ. Và bài thơ Sóng yêu thương vỗ mãi đến vô cùng đã ra đời từ đó.

SÓNG YÊU THƯƠNG VỖ MÃI

Anh yêu biển tự khi nào chẳng rõ
Bởi lớn lên đã có biển quanh rồi
Gió biển thổi nồng nàn hương biển gọi
Để xa rồi thương nhớ chẳng hề nguôi

Nơi quê mẹ mặt trời lên từ biển
Mỗi sớm mai gió biển nhẹ lay màn
Ráng biển đỏ hồng lên như chuỗi ngọc
Nghiêng bóng dừa soi biếc những dòng sông

Qua đất lạ ngóng xa vời Tổ Quốc
Lại dịu hiền gặp biển ở kề bên
Khi mỗi tối điện bừng bờ biển sáng
Bỗng nhớ nhà những lúc mặt trăng lên

Theo ngọn sóng trông mù xa tít tắp
Nơi mặt trời sà xuống biển mênh mông
Ở nơi đó là bến bờ Tổ Quốc
Sóng yêu thương vỗ mãi đến vô cùng …

Nhưng đất cát nghèo Quê Choa ven sông ven biển không chỉ nắng, có gió, có phi lao và có muống biển mà còn có khoai lang. Đèo Ngang “đang nghèo” Linh Giang dòng sông quê hương cũng là vùng quê nghèo ‘khoai khoai toàn khoai’ của tuổi thơ tôi. Củ khoai lang ‘sâm người nghèo’ lặn vào trong ký ức. Tôi lớn lên bên khoai lang và muống biển và tuổi thơ bên gió cát dòng Gianh. Thuở nhỏ, tôi thường tần ngần cầm hai bông hoa nhỏ khoai lang và muống biển mơ đến một ngày … lai khoai lang. Mời bạn ngắm ảnh Biển Nhật Lệ Quảng Bình và cùng chia sẻ chuyện tình khoai lang hoa muống biển

khoailang4
Washington_Crossing_the_Delaware_by_Emanuel
Norman Borlaug nha khoa hoc xanh 5

Bài thơ Viên đá Thời gian

Bài thơ Viên đá Thời gian
CHUYỆN ĐỜI PHAN CHÍ THẮNG
Cụ là Người cẩn trọng sâu sắc minh thận cần (*)

Thủy vốn mạch sông nước có nguồn.
Chính Trung tiền hậu đổi nhau luôn.
Nụ cười Nghê Việt luôn đầy đặn.
Mai với Bồ Đề ẩn sau lưng.
Tóc nhuốm bạch kim phơi nắng hửng
Da pha hồng ngọc trãi mưa nhuần.
Hoa Người Hoa Đất vui thầy bạn.
Phước Đức mừng ai thắng tuổi trăm.


Hoàng Kim


Tôi xin phép anh Phan Chí Thắng chép ảnh và bài thơ “Màu thời gian”; lưu ảnh hai cụ thân sinh của anh và bài thơ của Cụ Ông viết cho Cụ Bà thuở xưa. Ngắm ảnh hai Cụ, linh cảm tôi nhớ lời Bác Hồ lưu tại đầu sách “Bông sen vàng” mà nhà văn Sơn Tùng đã chọn làm đề dẫn :”Từng giọt nước nhỏ thấm vào lòng đất chảy về một hướng mới thành suối thành sông. Biết bao nhiêu giọt nước nhỏ hợp lại mới thành biển cả. Một pho tượng hay một lâu đài cũng phải có cái nền đất vững chắc mới đứng vững được. Nhưng người ta dễ nhìn thấy pho tượng và lâu đài mà không chú ý đến cái nền. Như thế là chỉ thấy cái ngọn mà quên mất cái gốc”. (Hồ Chí Minh tuyển tập, tập 2, trang 480). Tôi cũng xin phép anh chép thêm bài ĐỪNG MONG NHỮNG GÌ KHÔNG THỂ CÓ Ở NGƯỜI KHÁC trên FB của anh tôi chọn lưu vào tại cuối bài này, coi như đó là ‘hồn cốt văn chương của anh’. Ở đó, ẩn chứa những lời biết ơn thẳm sâu của chính lòng mình: “Giúp người qua khốn khó Ai ngờ giúp chính mình. Gieo nhân lành quả tốt Đạo lý thật phân minh”. (Thiền sư VIÊN MINH Những vần kệ tỉnh thức đã viết những lời tỉnh thức ấy). Anh Phan Chí Thắng có văn chương nhiều bài tôi yêu thích, tài tình, hợp tâm trạng, hoàn cảnh của tôi lúc đọc, có sự chứng ngô suy niệm riêng tôi lúc ấy của mỗi ghi chép.. Anh Phan Chí Thắng ba lần từ Hà Nội về thăm chúng tôi tại Trảng Bom Đồng Nai nơi vùng quê. Trong đó, có một lần hai anh em chúng tôi đã đi xe đò tìm về thăm những người bạn ở góc khuất Đức Linh. Tôi chép lại dưới đây “Bài thơ viên đá thời gian” và nối vần thơ anh Phan Chí Thắng: Hình như gặp lại mới hương / Ngựa già máng cỏ nhớ đường cỏ hoa / Ta tìm gặp bạn đường xa/ Tưởng là thăm bạn hóa ra thăm mình/ Đêm dài xòe một bình minh / Hoa Người Hoa Đất Ân tình Sớm Thu. Văn chương Ngọc cho đời. Tôi tin anh Thắng lưu lại được những điều tâm đắc. Dưới đây là đôi điều lắng đọng https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bai-tho-vien-da-thoi-gian/

1

MÀU THỜI GIAN
Phan Chí Thắng

Em thấy không, màu thời gian
Phủ cũ kỹ lên những gì xưa cũ
Tường bong tróc và tóc anh loang lổ
Thanh xuân lùi xa rất xa

Em có nghe trong bao la
Hàng thông reo tiếng cười con trẻ
Và trong gió, nhè nhẹ thôi, nhè nhẹ
Có mùi sim đang chín nồng nàn

Màu sim tím là màu thời gian
Sông Hương chở ngàn năm ra biển
Nửa thế kỷ anh với em bầu bạn
Ta cùng ngọt đắng chia đôi

Màu thời gian là màu của trời
Màu của nhân gian là màu của đá
Màu của chúng mình là màu ruộng mạ
Xanh như không có thời gian *

* Xanh như không có thời gian
XE ÔM ƯU TÚ

Lão Hâm chở đồng chí Hâm phu nhân đến nhà hàng nơi các bạn cơ quan cũ của bà ấy hẹn nhau nhân dịp gì đó. Chú bảo vệ của nhà hàng lịch sự hướng dẫn bác để xe sang bên kia đường. Lão Hâm cười cảm ơn, nói tôi chỉ là xe ôm. Chú bảo vệ nhận ra ông bà già:

– A, bác chở bác gái đến mấy lần rồi. Bác quả là ông xe ôm ưu tú!

Lão Hâm vui lòng nhận danh hiệu cao quý đó, không hề hổ thẹn.

Đồng chí bà xã không biết đi xe máy. Không biết là vì lão Hâm không cho đi, lấy cớ bà thục nữ mảnh mai, đi xe máy phân khối lớn ra đường nguy hiểm lắm. Đi làm gần nhà thì bà đi xe đạp hoặc đi bộ. Đi đâu xa, bất kỳ đâu, và đi làm ca đêm là lão đưa đón nghiêm chỉnh. Mấy ông bảo vệ của VTV quen mặt, gặp hôm mưa to còn mời lão vào phòng thường trực trú mưa, cho uống trà.

Về hưu mấy chục năm rồi mà đi đâu một bước bà cũng chỉ đi xe ôm do lão Hâm điều khiển.

Chả dám nhận danh hiệu xe ôm nhân dân vì ông xe ôm nào mà chả chở nhân dân. Lão xin nhận là xe ôm ưu tú thôi.

Nói nhỏ: Bà ấy không chơi Facebook nên không đọc được tút này. Nếu biết mai bà ấy không cho chở nữa thì gay, không làm xe ôm là lão phải trả danh hiệu xe ôm ưu tú?

2

VĨNH BIỆT NHỮNG BÀI THƠ CỦA CHA
Phan Chí Thắng

Cha tôi hơn mẹ tôi 7 tuổi. Khi mẹ tôi là cô gái 17 tuổi khuê các thì cha tôi đã hết học đi làm. Mẹ đẹp và đoan trang, cha thương trộm nhớ thầm mà không có cách nào tiệm cận.

Ông thuê trọ gần trường mẹ học với hy vọng có được cơ hội làm quen người trong mộng. Thật tiếc là ông vừa dọn đến thì bà ngoại tôi không cho mẹ tôi đi học tiếp nữa, nói con gái học thế đủ rồi.

Đó là câu chuyện 80 năm trước. Cha tôi làm nhiều bài thơ tình đăng báo hoặc nhờ người chuyển tới mẹ tôi. Giọng thơ của những năm đầu thập niên 40 thế kỷ trước.

Ông không bao giờ nhắc đến những bài thơ “tiểu tư sản lãng mạn” đó của mình, hơn thế còn không muốn tôi theo nghiệp thi ca. Không biết điều gì làm ông thất vọng về thơ đến vậy. Một lần tôi nghe ông tâm sự với nhà thơ Thanh Tịnh: “Tui không “tài” được như Tố Hữu, không “tình” bằng Xuân Diệu…”

Vì thế con cháu không biết các bài thơ tình của ông.

Bất ngờ là mẹ tôi thì không quên bài nào, bà không ghi lại mà thuộc nằm lòng từng chữ.

Cách đây vài tháng, nghĩa là vài tháng trước khi mẹ mất, sức khỏe mẹ giảm dần tuy đầu óc vẫn minh mẫn, bà đọc cho cháu nội nghe bài thơ ông viết tặng bà 80 năm trước:

“Ta dọn đồ đi lòng để lại,
Cô đơn đâu nữa cũng cô đơn,
Bơ vơ ta dọn qua đời khác,
Sách xếp vào rương với tủi hờn,

Ta kẻ thất tình đi kiếm trọ,
Sầu ơi hãy đến có đôi ta,
Đến đây vừa gặp hoàng hôn xuống,
Chạnh nhớ sầu tư nhớ bóng tà,

Em đến cho ta hết một mình,
Có nhau chốn trọ hết mông mênh
Ra đi không tiễn về không đón,
Đời nặng tư lường kiếp thủy tinh.”

Cha tôi không muốn con cháu biết những bài thơ tình ông viết giai đoạn chưa theo cách mạng, mẹ tôi thì muốn giữ riêng cho mình những bài thơ đó.

Nay mẹ tôi đã ở nơi chín suối, mang theo những bài thơ của cha.

Ảnh chụp năm 1995. Năm đó cha 79 tuổi:

Anh Phan Chí Thắng báo tin buồn Mẹ mất :

TIN BUỒN
Kính thưa bà con bạn bè trong nước và hải ngoại!


Cụ bà Tôn Nữ Lệ Minh – cụ, bà, mẹ chúng tôi đã tạ thế sáng nay 18/7/2022 tức 20 tháng Sáu năm Nhân Dần, hưởng thọ 99 tuổi. Tang lễ cử hành từ 7 giờ đến 8 giờ ngày 21/7/2022 tức 23 tháng Sáu Nhâm Dần tại nhà tang lễ 125 Phùng Hưng Hà Nội.

Trưởng nam Phan Chí Thắng xin kính báo!…

KÍNH THƯA HƯƠNG LINH MẸ!

Thế là Mẹ đã trút hơi thở cuối cùng. Nỗi đau thương con cháu chắt của Mẹ luôn mong lùi xa thật xa rồi cũng đã đến.

Mẹ từ giã thế giới này trở về nơi từ đó Mẹ đến, sinh ra chúng con, nuôi dạy chúng con nên người. Qua gần một trăm năm vất vả gian lao, gần một thế kỷ chiến tranh và nghèo đói liên miên, một giai đoạn dài đau thương mỗi gia đình của cả dân tộc ta đều bất hạnh theo những cách khác nhau, Mẹ đã vượt qua tất cả, can đảm trong từng phút giây đời thường.

Bỏ lại tà áo dài trắng bên dòng Hương thơ mộng, cô nữ sinh Tôn Nữ ngày nào theo chồng đi kháng chiến chống Pháp, vững tin đất nước sẽ giành được độc lập. Vì thế Mẹ đặt tên con là Thắng vào đúng lúc mặt trận Thừa Thiên Huế vỡ, quân ta phải rút lên chiến khu.

Hoà bình lập lại, nạn đói, cải cách ruộng đất, nhà ta vô vàn khó khăn. Mẹ sinh em con, đặt tên là Quyết, thể hiện ý chí vượt qua gian khổ, son sắt một niềm tin vào ngày mai tươi sáng.

Cả đời Mẹ là thương yêu. Nghề Y chọn Mẹ vì biết Mẹ là từ mẫu. Mẹ chữa bệnh cho bà con gần xa, xóm giềng, không nề hà khuya sớm.

Mấy ai như Mẹ đã chăm sóc thuốc thang cho em dâu con hơn 20 năm bạo bệnh. Mẹ nói kiếp này Mẹ được Phật thử thách giao cho một việc bất thường là mẹ chồng chăm lo con dâu đau ốm.

Mẹ không có tiền của vàng bạc nhưng Mẹ giàu sang. Mẹ giàu hai con mắt – cặp mắt luôn tinh anh sáng suốt. Mẹ sang hai bàn tay – hai bàn tay từng dệt vải nhuộm nâu kiếm sống, hai bàn tay châm cứu bệnh nhân, hai bàn tay Mẹ dẫn dắt chúng con đi suốt cuộc đời.

Mẹ hạnh phúc, thứ hạnh phúc được dâng hiến trao cho. Mẹ hạnh phúc vì được mọi người quý mến, con cháu kính yêu. Mẹ hạnh phúc vì Mẹ an nhiên, thanh thản và nhân hậu.

Chúng con sẽ không khóc để hương linh Mẹ mau siêu thoát. Ông bà ngoại con, cha con, dì cậu con cùng các vị tiên linh đang dang tay đón Mẹ đến bên toà sen của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát.

Nếu có kiếp sau Mẹ quay lại thế giới này, xin Mẹ cho chúng con theo. Chúng con lại được làm con cháu chắt của Mẹ một lần nữa. Lần này chúng con sẽ khôn hơn, biết cách làm Mẹ vui lòng và an lạc hơn.

– Nam Mô A Di Đà Phật!
– Nam Mô A Di Đà Phật!
– Nam Mô A Di Đà Phật!

— với Ba BaloxanhQuyết Chí Phan

Tâm hương bông hồng trắng
Bạch Ngọc kính viếng Người


“Buông bỏ là tu cho cái tâm mình mỗi ngày một sáng hơn“. “Càng về già bà càng quên chuyện những người từng đối xử không tốt với bà nhưng rất hay nhắc đến những ai từng giúp đỡ, dang tay bao bọc bà vào lúc khó khăn.” “Ta buông bỏ những gì không có lợi cho ta và cho xã hội, ta bỏ những suy nghĩ tiêu cực xấu xa nhỏ nhen thấp hèn NHƯNG tiếp tục nhiều hơn nữa những suy nghĩ và tình cảm tốt đẹp“.(Phan Chí Thắng nhớ việc Mẹ làm) https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bai-tho-vien-da-thoi-gian/

3

Anh Phan Chi Thắng ngày 4 tháng 8 năm 2020 viết· TÔN NỮ MẸ TÔI Nếu họ tên người nam có hai chữ Tôn Thất, người nữ có Tôn Nữ thì những người này có quan hệ huyết thống với các chúa Nguyễn, họ gốc là Nguyễn Phúc mà người ta kỵ huý nên gọi chệch đi là Nguyễn Phước tộc. Quan hệ như thế nào, gần xa cấp độ mấy thì còn phải xét nhưng chắc chắn trong huyết quản họ có dòng máu chúa Nguyễn.Tôn Thất (chữ Hán: 尊室) (chữ 尊 vốn đọc là Tông, nhưng do kỵ tên huý vua Thiệu Trị nên đổi là Tôn) là họ được vua Minh Mạng đặt cho con cháu của các chúa Nguyễn từ ngài Nguyễn Hoàng đến ngài Nguyễn Phúc Thuần, mỗi chúa là hệ tổ của một hệ. Hệ bao gồm chúa và các anh em trai của chúa, hậu duệ của các hệ là hậu duệ của các anh em trai của chúa. Có tất cả 9 hệ nhưng có hai hệ là hệ 4 và hệ 6 không con nên không lưu truyền được. Họ Tôn Thất bà con xa với dòng Đế hệ, dòng làm Hoàng đế của Đại Nam, tính ra kể từ vua Gia Long. Không phải tất cả Tôn Thất, Tôn Nữ đều nổi tiếng hoặc làm to, đời trước nổi tiếng có các cụ Tôn Thất Thuyết, Tôn Thất Thiệp, đời nay có Nguyễn Minh Vĩ (Tôn Thất Vĩ), phó Chủ tịch Quốc hội, Tôn Thất Tùng giáo sư bác sĩ, Tôn Nữ Thị Ninh nhà ngoại giao, Phó giáo sư Tương Lai (Nguyễn Phước Tương hay Tôn Thất Tương) nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, Tôn Thất Lập nhạc sĩ. Chế độ VNCH có một số trí thức, tướng lãnh là Tôn Thất.Tôi biết nhiều tôn thất tôn nữ sống và lao động như mọi người dân bình thường. Nét đặc biệt ngoại hình của họ là khuôn mặt dài, thông minh và nghiêm cẩn. Một cái gì đó quý tộc cho dù có rơi vào hoàn cảnh chân lấm tay bùn.Tôi biết hai người phụ nữ tên là Tôn Nữ Lệ Minh. Người thứ nhất là vợ nhà thơ Lưu Trọng Lư tôi chỉ biết sơ. Người thứ hai tôi biết rất kỹ vì người đó là mẹ tôi.Ông ngoại tôi Tôn Thất nên mẹ tôi Tôn Nữ. Mẹ sớm mồ côi cha, lớn lên trong vòng tay của đại gia đình bên ngoại (cụ ngoại tôi làm quan nhà Nguyễn), được hưởng sự giáo dục nề nếp gia giáo.Lớn lên lấy chồng, theo chồng ra Bắc, chịu mọi gian khổ thiếu thốn, Mẹ đã vượt qua tất cả cho chúng tôi có ngày hôm nay. Chúng tôi thừa hưởng ở Mẹ cái nhìn thẳng và tinh thần quý tộc theo nghĩa đẹp nhất của nó là luôn cố gắng làm người tử tế.Viết thêm:Họ “Công Tằng Tôn Nữ” được dùng cho các cháu gái bên nhà họ nội của các đời vua Nguyễn xuất phát từ thời Minh Mạng. Vua Minh Mạng (Tên húy: Nguyễn Phúc Đảm) đã định ra một chính hệ từ đời vua Gia Long trở về sau theo nguyên tắc sau: con cháu các chúa Nguyễn thì được xếp vào hệ Tôn Thất cho nam và Tôn Nữ dành cho nữ.Còn sự khác nhau giữa Tôn Nữ và Công Tằng Tôn Nữ là ở chỗ cách đặt tên theo thế hệ các con gái, cháu gái :Công Chúa : chị em vua Minh Mạng.Công Nữ : con của vua.Công Tôn Nữ : cháu của vua.Công Tằng Tôn Nữ : chắt của vua.Công Huyền Tôn Nữ : chít của vua.Huyền Tôn Nữ : dùng chung cho thế hệ này trở về sau .Nhưng cũng theo một số tài liệu thì Tôn Nữ được sử dụng chung cho thế hệ thứ 2 trở đi với ý nghĩa là chỉ cháu gái.Tôn Nữ Mẹ Tôi và tôi, Huế năm 1948:

Họ “Công Tằng Tôn Nữ” được dùng cho các cháu gái bên nhà họ nội của các đời vua Nguyễn xuất phát từ thời Minh Mạng. Vua Minh Mạng (Tên húy: Nguyễn Phúc Đảm) đã định ra một chính hệ từ đời vua Gia Long trở về sau theo nguyên tắc sau: con cháu các chúa Nguyễn thì được xếp vào hệ Tôn Thất cho nam và Tôn Nữ dành cho nữ.Còn sự khác nhau giữa Tôn Nữ và Công Tằng Tôn Nữ là ở chỗ cách đặt tên theo thế hệ các con gái, cháu gái :Công Chúa : chị em vua Minh Mạng.Công Nữ : con của vua.Công Tôn Nữ : cháu của vua.Công Tằng Tôn Nữ : chắt của vua.Công Huyền Tôn Nữ : chít của vua.Huyền Tôn Nữ : dùng chung cho thế hệ này trở về sau .Nhưng cũng theo một số tài liệu thì Tôn Nữ được sử dụng chung cho thế hệ thứ 2 trở đi với ý nghĩa là chỉ cháu gái.”

Anh Phan Chí Thắng có “Chuyện dài chưa đặt tên” kể về người Cô ruột :

” Cô mất bốn năm rồi, yên nghỉ trong phần mộ anh em Tuân đã chuẩn bị từ trước, xây lăng trên đồi, cạnh lăng ông bà nội và lăng cha Tuân.

Con cháu, họ hàng đều ở xa, không ai tiếp quản căn nhà cổ và khu vườn rộng, Tuân bàn với những người có quyền thừa kế theo pháp luật hiến căn nhà và khu vườn đó cho chùa.

Không phải Tuân không tiếc ngôi nhà tuổi thơ của mình, tính ra cũng là một tài sản lớn. Nhưng hãy để nơi ấy thành một ngôi chùa bởi chắc chắn giờ này cô đã ở bên Phật”. (1)

Anh Phan Chí Thắng kể với chúng tôi:

“Trong số hơn mười đứa cháu, đứa gọi bằng o (cô), đứa gọi bằng dì, có lẽ cô thương Tuân nhất. Không hẳn vì Tuân là đích tôn, không hẳn vì mấy đứa gọi cô bằng dì ở thành phố khác, ít gặp cô.

Cô thương Tuân vì cô thương cha anh nhất, thương người anh trai bỏ nhà đi kháng chiến chống Pháp rồi mang đứa con mới 5-6 tuổi ra Bắc, nơi ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, “bảy tên Việt Cộng đu không gãy một cành đu đủ”.

Hôm Tuân cùng mẹ lên chiến khu rồi theo đường dây vượt rừng ra Bắc, cô ngồi nắm cơm cho vào mo nang. Không biết cô lỡ tay cho nhiều muối mè (muối vừng) hay nước mắt cô thầm nhỏ vào cơm mà Tuân ăn thấy mặn.

Cô tiễn cháu đi để rồi đêm đêm bí mật áp cái đài transito vào tai nghe đài Hà Nội với hy vọng may ra có chút tin tức gì về anh chị và cháu.

Năm 66 Tuân được đi Liên xô học đại học. Không biết đường dây nào đã báo tin cho cô, cô làm thịt con gà thắp hương cúng các cụ rồi mời hai ông bà dùng bữa. Ông hỏi có chuyện gì, cô nói thằng Tuân vừa đi Liên xô học 6 năm rồi.

Ông nhắm mắt, chắp tay niệm A Di Đà Phật, bà nội và cô ôm nhau khóc. Mâm cơm vẫn còn nguyên.

Hai mươi hai năm sau kể từ lúc lon ton chạy theo mẹ trốn lên chiến khu, đầu tháng 5 năm 75, Tuân tìm về làng thăm bà nội và cô. Ông nội mất đã lâu, hai bà con dựa vào nhau mà sống.

Các bà cô Tuân ai cũng đẹp và lấy chồng xa. Riêng cô không lấy chồng, ở lại phụng dưỡng cha mẹ.

Năm 75 cô còn khỏe, còn hái trái cây trong vườn mang ra chợ bán lấy tiền mua gạo, mắm muối.

Năm 85 là đỉnh điểm của nghèo khổ khó khăn. Cô mua ớt về đăm (giã) làm ớt bột gửi ra Hà Nội cho cháu. Ớt đựng trong lọ nhựa đen nguyên dùng đựng xà phòng kem. Cô già mắt kém súc lọ không kỹ, ớt toàn mùi xà phòng. Tuân đành đổ nguyên cân ớt bột xuống cống, xót xa công sức người cô già.

Một năm đôi ba lần Tuân về quê thăm bà và cô, từ khi bà nội mất cô sống một mình trong căn nhà cổ. Một mình trong khuôn vườn khá rộng kể cả tính theo tiêu chuẩn ở Huế.

Trẻ con hái trộm trái cây, bắt trộm chó. Cô không còn sức chăm bón mấy cây thanh trà (bưởi), khế, ổi, mãn cầu từng nuôi sống bà và cô. Vườn xác xơ như chính cô vậy.

Mỗi lần về quê Tuân đều dành dụm ít nhiều tiền đưa cô mua gạo.

Vậy mà cô chẳng tiêu đồng nào. Lần sửa mái ngói bị dột, thợ phát hiện có gói nilon bọc mấy chục triệu giấu dưới mái, Tuân vừa giận vừa thương cô. Không chịu ăn uống tẩm bổ, tiền để lại cho ai?

Người đàn bà không chồng không con về già khổ đủ đường. Không ai chăm sóc, không có ai để nhờ cậy đã đành, cơ thể chưa một lần “thay máu” nhiều bệnh hơn người thường.

Có lần Tuân về thấy tóc cô bù xù, móng tay dài cong queo, anh gọi thợ làm đầu vào gội đầu cắt móng tay cho cô.

Chấy nhiều quá, đen kịt cả mặt nước chậu thau đồng. Tuân cố không khóc.

Vậy mà cô cũng sống tới 95 tuổi. Cô sống được lâu thế chắc là nhờ muốn sống để trông coi ngôi nhà các cụ để lại và thay mặt tất cả con cháu ở xa và rất xa chăm lo việc hương khói các ngày giỗ chạp. Đã nhiều lần Tuân muốn đón cô ra Hà nội sống với gia đình Tuân để tiện chăm sóc cô nhưng cô không chịu. Cô không thể rời nơi cô đã gắn bó cả cuộc đời.

Khi cảm thấy mình quá yếu, không còn sống được bao lâu, cô dắt Tuân vào buồng, tay run run mở mấy lần khoá cái tủ gỗ xộc xệch có khi còn nhiều tuổi hơn cô:

– Đây là số tiền cô dành dụm cả đời, bây giờ cho cháu.

Nhìn đám giấy bạc cũ kỹ buộc chun làm thành nhiều gói bọc kỹ trong tờ giấy bao xi măng, Tuân không thể cầm lòng. Những tờ tiền Bảo Đại, tiền Việt Nam Cộng hoà, rồi tiền Giải phóng và các đợt tiền cụ Hồ, anh không biết nói sao. Tất cả đã không còn bao nhiêu giá trị.

Đặc biệt là xâu tiền đồng có lỗ vuông ở giữa. Chẳng để làm gì.

Người đàn bà không có công ăn việc làm, không có lương hưu, bao nhiêu năm tằn tiện để cho cháu số tiền khá lớn nay chỉ có thể coi là kỷ niệm.

Cô mất bốn năm rồi, yên nghỉ trong phần mộ anh em Tuân đã chuẩn bị từ trước, xây lăng trên đồi, cạnh lăng ông bà nội và lăng cha Tuân.

Con cháu, họ hàng đều ở xa, không ai tiếp quản căn nhà cổ và khu vườn rộng, Tuân bàn với những người có quyền thừa kế theo pháp luật hiến căn nhà và khu vườn đó cho chùa.

Không phải Tuân không tiếc ngôi nhà tuổi thơ của mình, tính ra cũng là một tài sản lớn. Nhưng hãy để nơi ấy thành một ngôi chùa bởi chắc chắn giờ này cô đã ở bên Phật.

(Viết trong ngày giỗ cô)

NGƯỜI EM CON CÔ RUỘT
Phan Chí Thắng
(Viết 30/4/2018)

Xét quan hệ bà con, An với Tuân rất gần. Mẹ hắn là em ruột cha anh. Nhưng khi anh sinh ra ở Huế thì hắn, con đầu của cô, đã năm sáu tuổi và sống bên nội của hắn ở thành phố khác, lớn lên anh em không biết mặt nhau, chỉ nghe cha mẹ nói rằng cô có mấy đứa con, trong đó có hắn.

Rồi anh theo cha mẹ ra Bắc. Đất nước chia làm hai miền, anh em hoàn toàn không biết gì về nhau.

Tháng 5 năm 1975, là một cán bộ nghiên cứu sau nhiều năm đằng đẵng học ở Liên xô, Tuân vào Nam công tác, ghé Nha Trang Thành thăm bà cô và mấy người em con cô – tất cả anh chưa hề gặp mặt. Cô nhận ra anh ngay, “cháu giống cha quá!”.

Mấy ngày đó anh không gặp An, vì hắn ở Sài gòn, có thể còn trốn hoặc đã ra trình diện. Cô và mấy em không nhắc đến hắn, mà anh cũng không hỏi.

Mãi sau này mới biết, hắn với cặp lon thiếu tá nhảy dù mũ đỏ phải đi cải tạo 7 năm, sau đó định cư ở Mỹ diện HO.
Hai anh em càng không có điều kiện gặp nhau. Thư từ cũng không.

Năm 2009 Tuân sang Mỹ chơi. Cô anh cùng các con, dâu rể và cháu đều đã định cư ở Cali. Tuân hẹn trước ngày đến thăm. Cô nói sẽ gọi các em tập trung đông đủ chào anh.

Với những người em khác Tuân đều đã gặp ở Việt Nam nên nói chuyện khá thoải mái. Riêng với An anh hơi rụt rè một chút. Hắn nhiều tuổi hơn nhưng lại là vai em. Thoạt nhìn thấy hắn anh đoán đây là người con đầu của cô. Anh tiến lại, chủ động bắt tay và nói bằng tiếng Anh “Rất vui gặp You!”

Tiếng Anh chỉ có You và Me, rất tiện trong trường hợp này.

Nghĩ cũng lạ, anh em cô cậu ruột mà già rồi mới gặp nhau. Hai anh em hai chiến tuyến, nay ngồi với nhau trên đất Mỹ.

Hắn tỏ ra kính cẩn với ông anh, một phần do lễ giáo, phần khác là kiểu dân võ biền thường tự ti trước những người có mác trí thức.

Hai anh em nói chuyện như cần phải nói. Nghĩa là không nói một cái gì cụ thể. Vì thế câu chuyện tự nhiên, không gò bó, tuy An có vẻ hơi kiệm lời.

Ăn cơm xong, cả nhà chụp hình kỷ niệm. Hắn tiến đến gần Tuân xin phép ra sân bay. Hắn phải bay 7 tiếng về bờ Đông để mai sớm có mặt ở sở làm việc.
Vậy là hắn đã mất từng ấy tiếng bay sang Cali chỉ để gặp ông anh.

Tuân nhìn thẳng vào hắn. Anh nhận ra cặp mắt và vầng trán hắn giống anh. Một nốt ruồi phía dưới đuôi mắt cũng giống như của anh. Hình như hắn cũng nhận ra những nét giống nhau giữa hai người.

Tuân nắm chặt tay hắn:
– Mừng nhất là chúng ta đã không gặp nhau trên chiến trường. Chúc chú khoẻ và hy vọng lần sau gặp lại sẽ có nhiều thời gian trò chuyện hơn.
– Cảm ơn anh. Chúc anh đi chơi vui!

Hắn rời đi, dáng người đàn ông an phận sau nhiều giông tố cuộc đời, không ai có thể đoán đó từng là viên thiếu tá chỉ huy nhảy dù.

Đêm đã khuya, chỉ còn hai cô cháu ngồi với nhau. Tuân ngắm cô. Vẫn cái trán ấy, đôi mắt ấy. Cô đã tám mấy rồi, linh cảm mách bảo đây là lần cuối cùng anh gặp cô. Xa xôi quá, khi cô nằm xuống anh không thể bay sang kịp.

Hình như cô cũng có cảm nghĩ như thế.

– Thằng An giống cháu hơn mấy đứa kia.
– Cháu cũng thấy vậy.
– Cả nhà mỗi mình nó giống bên ngoại.

Cô muốn kể cháu nghe một chuyện. Chuyện này thằng An chỉ kể cho cô nghe, từ năm 1971, tụi em nó cũng không được biết.

Năm đó nó chỉ huy đơn vị nhảy dù vào căn cứ nơi cơ quan lãnh đạo Việt Cộng tỉnh đóng. Nhiệm vụ của nó là bắt các cán bộ chủ chốt rồi phá hủy căn cứ. Nó đứng một chỗ, luôn miệng hò hét xua cấp dưới toả ra xăm tìm hầm bí mật.

– Chiến tranh mà cô, chuyện đó cũng bình thường. Tuân bình luận.
– Không bình thường đâu cháu, hãy nghe cô kể nốt.

Đơn vị nó hoàn thành nhiệm vụ. Đêm hôm đó nó về qua nhà và kể với cô là cả ngày con đứng trên miệng hầm của cậu để lính không đụng đến chỗ đó.

Là hầm của ba cháu đó. Tài liệu thám báo chỉ đích xác căn hầm của ba cháu. Thằng An biết và đã bảo vệ cậu.

Tuân lặng người, ngồi một lúc lâu mới hỏi:
– Thế ba cháu có biết em An cứu ổng không?
– Không, làm sao ông biết được?
– Thời gian đi học tập cải tạo nó có khai chi tiết này không?
– Không. Khai ra ai tin?

Tuân lại ngồi yên lặng. Phía xa, ngoài xa lộ, những chiếc xe hơi lao vút trong đêm.

Giờ này An bay đến đâu rồi, trên bầu trời nước Mỹ?

Số phận không cho hai anh em được gần nhau, được hiểu nhau hơn. Nhưng giờ Tuân đã hiểu. Số phận mỗi gia đình, mỗi dòng tộc nằm chung trong số phận éo le của đất nước. Anh em trong một nhà thành kẻ thù của nhau.

Song mối liên hệ thiêng liêng máu mủ không bao giờ gián đoạn. Chúng ta còn đến ngày nay, sau hơn ngàn năm chinh chiến, là nhờ chúng ta biết thương nhau hơn là giỏi chém giết?

Cha anh mất đã lâu rồi, An ạ. Ông không thể cảm ơn đứa cháu đã cứu mạng mình. Anh cũng sẽ không nói lời cảm ơn. Hiểu là một cách cảm ơn chân thành nhất!

ĐỪNG MONG NHỮNG GÌ KHÔNG THỂ CÓ Ở NGƯỜI KHÁC
Phan Chí Thắng
Thứ Hai, 6 tháng 5, 2024 lúc 15:58

Lần đó tôi bay từ Huế đi Tp. HCM. Máy bay bị delay khá lâu, thời đó chưa có điện thoại hay iPad để vào mạng giết thời gian, tôi ngồi quan sát đám hành khách trong phòng đợi. Mỗi người một vẻ, đa số là nóng ruột hơi chút cáu kỉnh. Không gì chán hơn cảnh chờ đợi, lâu lâu lại nghe trên loa: “Hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam xin lỗi quý khách…”

Tôi mở tập tài liệu được phát trước cho cuộc hội thảo ngày hôm sau ở Tp. HCM ra đọc thì nghe một giọng Huế nam trung ấm nhẹ:

⁃ Thưa, đây có ai ngồi chưa ạ?

Trước mặt tôi là một ông thầy chùa, nhìn trang phục biết ngay là người tu hành, chỉ không biết là sư cấp bậc nào. Tôi đứng dậy, lễ phép mời thầy ngồi vào chỗ trống bên cạnh. Vị sư cảm ơn, nụ cười nhẹ nhõm của người Huế.

Tôi tiếp tục đọc mớ tài liệu. Ông thầy chùa khoan thai lấy từ trong túi vải ra cuốn sách, ngồi đọc chăm chú. Tôi vô cùng ngạc nhiên thấy bìa sách ghi “principes fondamentaux de la mécanique quantique”. Tôi không rành tiếng Pháp nhưng có học hai học kỳ môn Cơ học lượng tử nên hiểu cuốn sách của ông thầy viết về Cơ học lượng tử. Vô cùng ngạc nhiên, tôi thốt lên thưa thầy thầy đọc cả loại sách này ạ. Ông cười hơi bẽn lẽn:

⁃ Tìm hiểu thế giới vi mô và thế giới vĩ mô đều rất thú vị.

Vì phép lịch sự, tôi không tỏ ra có đôi chút kiến thức về vật lý hiện đại, tiếp tục đọc tài liệu và để cho ông ta tiếp tục với cuốn sách của mình.

Chúng tôi không trò chuyện gì cho đến khi loa thông báo chuyến bay của chúng tôi sẽ cất cánh sau 30 phút nữa. Mọi người đổ xô về phía cửa ra máy bay theo thói quen cố hữu của người Việt Nam. Tôi với nhà sư chậm rãi ra đứng cuối hàng, lúc đó tôi mới phát hiện ông ta đi cà nhắc.

Sân bay Phú Bài là sân bay nhỏ, hành khách đi bộ ra máy bay. Tôi định giúp dìu ông đi nhưng ông xua tay cảm ơn, nói tôi tự đi được.

Người ta nói có duyên thì gặp, chàng trai ngồi cạnh nhà sư xin đổi chỗ cho tôi để được ngồi cạnh bạn gái. Thế là tôi được ngồi cạnh nhà sư, trò chuyện hơn một giờ bay.

Không cắt nghĩa được vì sao tôi lại dùng giọng Huế nói chuyện với ông, có thể vì giọng ông ấm áp, nhỏ nhẹ nhưng nội lực như mọi người Huế trí thức. Ông không xưng thầy và tôi cũng không xưng con với ông, bởi chúng tôi không gặp nhau ở chùa mà chỉ là những người đồng hành một chuyến bay.

Ông gầy, chắc thua tôi dăm tuổi. Mùa hè mà ông vẫn đi giày. Đoán được thắc mắc của tôi, ông cười nói chân trái là chân giả.

Rồi ông kể về cuộc đời, về cái chân giả của ông. Có lẽ ông tìm thấy ở tôi một người biết nghe chuyện.

⁃ Năm 1973 tôi mười tám tuổi, bị bắt lính. Anh biết rồi đó, đang đi ngoài đường bị bắt đưa lên xe chở thẳng lên trại huấn luyện thế là thành lính thôi. Năm đó anh ở đâu?

⁃ Năm đó tôi ở Hà Nội, học xong ra đi làm rồi.

⁃ Tôi tưởng anh người Huế?

⁃ Dạ tôi người Huế, theo cha mẹ ra Bắc, cha mẹ tôi theo Cụ Hồ mà.

⁃ Sau khoá luyện binh tôi bị điều về một đơn vị ở phía Tây Thừa Thiên. Nhà ai có tiền chạy thì không phải ra vùng chiến sự, nhà tôi nghèo đành chịu. Năm 1973 ký Hiệp định hoà bình Pari, không còn những trận đánh lớn nhưng xung đột lẻ tẻ thì vẫn còn. Năm 1974 tiểu đội tôi đang đi trong rừng thì đụng phải nhóm quân Bắc Việt. Nghe tiếng AK tôi bắn lung tung rồi trúng đạn ngất đi.

Không biết tôi ngất bao lâu, khi tỉnh lại thấy mình nằm trên đám lá, một bàn chân không còn nữa. Anh bộ đội Bắc Việt đang ngồi cạnh tôi, mở bi đông nước cho tôi uống từng ngụm một:

⁃ Tao đã buộc chặt chân mày để cầm máu, đã băng bó sơ rồi. Tao bị thương ở vai nên không cõng mày được, mày chịu khó để tao dìu đi tìm chỗ nào có người để nhờ họ giúp.

Tôi không nhớ chúng tôi đi bao lâu, hai người đi ba chân cùng với khúc cây anh chặt làm nạng cho tôi. Trời Phật phù hộ, chúng tôi cùng ngất lịm trước cổng ngôi chùa nhỏ, đúng hơn là cái am với duy nhất một vị sư già.

Vị sư già lần lượt đưa chúng tôi vào am, nấu nước lá cây rừng rửa vết thương, thay băng cho chúng tôi. Nhờ sư ông cứu chữa, một tuần sau anh Quang – anh bộ đội Bắc Việt xin phép chia tay tìm về đơn vị. Còn tôi ở lại với một chân không có bàn chân. Sư phụ đã cứu sống tôi và người đã nhận tôi về với Phật.

⁃ Thế là thầy ở lại chùa tu luôn.

⁃ Đó là cái duyên. Tôi không bị thương thì không gặp được sư phụ. Ngài là bậc trí thức, vì bất hợp tác với Ngô Đình Diệm mà bỏ lên núi tu. Ngài thương tôi lắm. Năm 1977 ngài xin cho tôi qua Ấn Độ học, sau tám năm tôi nhận bằng tiến sĩ Phật học. Về nước có nhiều nơi cho tôi đến nhưng tôi về ngôi chùa cũ, phụng dưỡng sư phụ cho đến khi Ngài viên tịch.

⁃ Và thầy vẫn ở đó cho đến nay?

⁃ Dạ đúng, đó là nơi lý tưởng cho việc tu hành.

Theo thói quen của người hay đi họp tôi hỏi lần này thầy vô Sài Gòn là có việc của Giáo hội? Thầy cười:

⁃ Thỉnh thoảng tôi cũng có đi việc của Giáo hội nhưng lần này thì không. Lần này tôi đi đám cưới con của người anh.

⁃ Thầy còn người anh ngoài đời.

⁃ Hơn cả anh ruột nữa. Đó là anh Quang, người dìu tôi đi trong rừng năm 1974 đó. Anh Quang là sinh viên khoa Lý trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, năm 1973 nhập ngũ vô Nam chiến đấu. Sau năm 1975 anh về học tiếp Đại học rồi đi Liên Xô nghiên cứu sinh, sau sang Pháp làm luận án tiến sĩ. Các sách vật lý tôi có là nhờ anh Quang tặng.

⁃ Vậy là hai anh em đã tìm được nhau sau chiến tranh.

⁃ Anh Quang tìm chứ tôi biết đâu mà tìm. Khoảng năm 1990 anh Quang ở Pháp về, mò tìm lại ngôi chùa năm xưa đã cưu mang anh. Anh biếu sư phụ bao gạo ngon, cả thùng sữa và mấy hộp sâm Triều Tiên. Sư phụ mừng lắm, ôm hai anh em chúng tôi khóc: “Đời ta đi tu thế là thành công, ta có hai đứa con đều là tiến sĩ”.

Tôi hiểu ý của sư phụ là tu ở chùa hay tu trong đời sống cũng đều là tu, miễn sao anh có tu dưỡng.

Anh Quang hiện là cán bộ giảng dạy ở Tp. HCM. Hè vừa rồi anh cho thằng con trai, cái thằng ngày mai làm đám cưới đó, về ở với tôi một tháng, nói nhờ chú dạy nó làm người giúp anh. Coi như nó đi tu một tháng. Tức cười là ba nó nhờ ông thầy chùa dạy con cách làm chồng, làm người.

Tôi cười theo ông sư, tranh thủ nhận một bài học luôn:

⁃ Thưa, thầy có thể cho tôi biết bài học đó không?

⁃ Nói thì dài lắm mà tóm gọn lại là để có hạnh phúc ta ĐỪNG ĐÒI HỎI NHỮNG GÌ KHÔNG THỂ CÓ Ở NGƯỜI KHÁC.

Đã mấy chục năm trôi qua, tôi thấy lời vị thầy chùa quá đúng. Càng ngẫm nghĩ càng thấy đúng. Sẽ viết riêng điều đó ở một bài khác.

Hôm nay chỉ nói chuyện đạo và đời. Thực ra, tuy hai mà vẫn là một.

ĐỌC PHAN CHÍ THẮNG NHỚ NGUYỄN KHẢI
Hoàng Kim


Đọc “Ông chánh Sở” của anh Phan Chi Thắng lại Thương nhớ Nguyễn Khải với cái Tùy bút cuối cùng “Đi tìm cái tôi đã mất”. Xin chép lại và so sánh vài trích đoạn.:Văn chương ngọc cho đời Bóng hạc chốn xa xôi Sự thật tốt hơn ngàn lời nói Sự chậm rãi minh triết Văn thông tất chính luận Chậm rãi học cô đọng Giản dị văn là người Lời ngắn mà gợi nhiều Nói ít nhưng ngân vang https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-doi-phan-chi-thang/

Nguyễn Khải (đoạn 1): “Tôi về một xã, xã cho tôi ở nhà một anh bưu tá, lúc rảnh rỗi hỏi chuyện gì anh cũng bảo không biết. Ở xã ba ngày, đảng uỷ, uỷ ban không ai tiếp cả. Có một buổi tối có một anh chàng to béo đến chơi với gia đình, cả vợ lẫn chồng nhà chủ ăn nói thưa gửi, bộ điệu khúm núm. Anh ta ngồi ưỡn người trên ghế tựa, hai chân xoạc rộng, hai bàn tay đặt lên bụng, nói hỏi trống không, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn tôi nhưng không hỏi gì, chào cũng không, mắt nhìn cứ lừ lừ, mà hắn chỉ đáng tuổi con tuổi cháu. Tôi cứ nghĩ tay này hẳn là dân buôn bán ở tỉnh có họ hàng gì với anh chủ nhà, tạt qua chốc lát rồi đi. Nhưng anh bưu tá lại bảo đó là ông chủ tịch xã.

Lại một ngạc nhiên nữa ! Mấy ngày sau lại về một xã thuộc phía Bắc tỉnh. Cách đây đã ba chục năm tôi đã đi đi về về xã đó khoảng một năm để viết về một anh chủ tịch xã chưa tới ba mươi tuổi trong cái thời có cao trào lập hợp tác xã nông nghiệp. Ngồi chơi ở phố huyện kề liền xã bất ngờ lại gặp người quen cũ của mấy chục năm trước. Hiện giờ ông ấy đã ngoài sáu chục tuổi, có cửa hiệu chụp ảnh ở ngay phố, to béo, rềnh ràng, chuyện gì cũng biết, lại biết cách thuật lại về mọi cái biết của mình một cách sống động, tươi rói, nghe chuyện mà tưởng như chính mình cũng được chứng kiến. Nhà văn mà gặp được một người như thế là có thể nghĩ ngay một cuốn sách sẽ viết, viết cũng nhanh thôi, vì mọi vật liệu đã sẵn sàng. Bao nhiêu chuyện xui xẻo, buồn bã của chuyến đi bất thần được đền bù quá hậu hĩ nhân một lần gặp lại người quen cũ. Đang mừng khấp khởi liền bị mấy ông xã nhảy vô phá đám, đi một bước có trưởng công an xã theo một bước, vừa là người hướng dẫn vừa là người bảo vệ. Chỉ được trò chuyện với người đã được xã giới thiệu và ăn ngủ tại nhà ông bí thư xã.

Nhưng tôi đâu có chịu thua hoàn toàn. Xuống cái xã bị ghẻ lạnh thì tôi chơi với dân, viết về một ông nông dân bị giời hành, được bạn bè khen là rất khá. Về cái xã được chiều chuộng quá mức tôi viết được cái bút ký “Mất toi một cuốn sách”.

Sang tuổi 70, mọi hoạt động của con người đều chậm, đều kém, riêng cái chuyện viết lách của tôi vẫn giữ được phong độ gần như xưa, vẫn viết rất nhanh, riêng cái nhìn thì trào lộng nhiều hơn, ngậm ngùi nhiều hơn. Nó là thứ hương vị thơm ngát chắt ra từ hơn bảy mươi năm được làm người“.

Xin bạn đọc so sánh với bài của anh Phan Chí Thắng (nguyên văn “Ông chánh Sở” ).

ÔNG CHÁNH SỞ
Phan Chí Thắng
13 tháng 6, 2013 lúc 10:07

Hai cậu cháu lão Hâm ở hai thành phố khác nhau nên họ ít khi gặp mặt. Năm thì mười họa họ gọi điện hỏi thăm nhau hoặc nhờ cậy việc gì đó. Còn chủ yếu là gặp vào các dịp tết nhất hoặc hiếu hỉ.

Nó xinh. Bốn mươi lăm tuổi rồi mà người vẫn thon thả, da mịn màng như da con gái. Nhìn nó ăn mặc lụa là ngon nghẻ ai cũng khen, pha một chút ghen tỵ:

– Bà bác sỹ vợ Giám đốc Sở có khác!

Mỗi lần lão Hâm về quê có việc, nó hay đón cậu về nhà nó ngủ, để cậu đỡ tốn tiền khách sạn. Vì nhà nó rộng, luôn có phòng để không. Nhà Giám đốc Sở cơ mà!

Ông cháu rể người tầm thước, lộ rõ nguồn gốc nông dân. Da sạm và bì bì do nhiều bia rượu và các món ăn bổ dưỡng. Cái nhìn xeo xéo vừa ra vẻ cấp trên vừa như là lo ngại ai lấy mất của mình cái gì.

Thường lão Hâm ít giáp mặt cháu rể vì cháu rể toàn đi nhậu đến khuya mới về. Công việc của Giám đốc Sở là vậy. Nhậu quá bến luôn, không thèm tới bến.

Mà nếu có gặp nhau thì cũng chỉ ngúc ngắc dăm câu xã giao vì thâm tâm lão Hâm chê thằng ấy quê, còn thằng ấy thì nghĩ là ông cậu vợ hâm.

Lão Hâm chả thèm hỏi thằng cha ấy làm Giám đốc sở nào. Sở nào thì cũng vậy thôi, ngon hơn ngon kém một ít, đằng nào thì cũng là ngon.

Vợ chồng cháu có hai căn nhà ba lầu, một để ở, một cho thuê. Cộng một miếng đất dăm trăm mét vuông ở ngoại thành để trồng cây chơi. Đó là phần nổi. Phần chìm thì  thánh mới biết.

Thôi thế cũng được, lão Hâm nghĩ. Thằng chồng vơ vét ở đâu mình không biết. Khuất mắt là coi như không thấy. Miễn là nó yêu thương vợ con, lo cho vợ con đầy đủ là tốt rồi. Cháu mình sướng, mình bớt phải lo. Mặt khác, thấy cô cháu phởn phơ, tươi tỉnh, lão Hâm cảm thấy yên tâm về cuộc sống gia đình cháu.

Hôm rồi có việc hiếu, lão Hâm bay về quê. Mọi người trong nội ngoại tộc ai nấy đều buồn thiu, mặt mày ủ rũ, tất bật việc này việc nọ nên lão Hâm không để ý thấy dưới đôi mắt xinh đẹp của cô cháu gái có quầng thâm. Mãi đến tối, về nhà cháu nghỉ ngơi lão mới nhận thấy.

Cô cháu ngồi cuối cái đi văng, cố tình để sấp bóng cái đèn cây. Cái chao đèn to đùng che bớt nửa khuôn mặt.

– Cháu sao vậy, mấy hôm nay mất ngủ à?

– Sao cậu biết?

– Thì tao thấy mày bơ phờ, hai mắt trũng sâu.

Cô cháu không nói gì, tay mân mê cái khăn trải bàn làm từ lụa tơ tằm. Rồi hai giọt nước mắt từ từ lăn trên má.

– Cháu cực lắm cậu ơi. Nhiều khi hết muốn sống.

– Mày sướng thế mà còn kêu khổ thì ai trên đời này mới được gọi là sướng? Chồng làm to, con ngoan học giỏi, bản thân mình có nghề nghiệp và công việc vững vàng, nhà cao cửa rộng, xe sang, quần áo dăm chục bộ. Nói chi lạ rứa!

– Cháu sẵn sàng đánh đổi hết nhà cao cửa rộng để lấy một cuộc sống vợ chồng bình thường cậu ạ.

– Nó đánh mày à?

– Còn hơn cả đánh. Cái đó gọi là bạo hành thời @.

– Là sao?

 Cô cháu từ từ kể lại câu chuyện đau đớn của mình, xen với những lần dùng tay quệt nước mắt.

*

*   *

Cô bác sỹ trẻ với cái lý lịch dính líu ngụy quân ngụy quyền bị phân công về bệnh xá một huyện miền núi.

Cô ở đó 5 năm, vất vả, gian khổ. Cũng có thể sẽ là nhiều hơn 5 năm hoặc vĩnh viễn ở đó, nếu cô không gặp người sau này là chồng cô, ông Giám đốc Sở tương lai.

Anh gầy gò, đen đúa. Mà thực ra, cả đoàn càn bộ của huyện lên thăm xã miền núi ai cũng đen đúa gầy gò cả. Dáng dấp quê mùa của anh một thời được nghi nhận là thật thà hiền lành.

Qua dịp đó, hai người làm quen nhau, thư từ qua lại. Một năm sau anh xin cưới cô.

Anh gia đình thành phần cơ bản, nói cho vuông là nông dân, bố tham gia du kích bị địch bắn chết. Anh là con liệt sỹ. Con liệt sỹ thì được cộng điểm ưu tiên vào đại học, ưu tiên khi phân công tác. Mấy chú trên tỉnh tốt lắm, nâng đỡ con bạn như một cách tri ân với người đã khuất.

Anh cứ tuần tự mà thăng quan tiến chức. Đến một cái chức nào đó thì người ta hoàn toàn có khả năng xin cho vợ chuyển về bệnh viện tỉnh. Việc đó hoàn toàn hợp lý vì chị đã cống hiến nhiều năm cho vùng sâu vùng xa rồi. Tuy nhiên chắc gì đã là hợp lý đối với những người không có nhất thân nhì thế.

Tính anh hay ki cóp. Chị rất hiểu và thương. Nhiều năm sống trong thiếu thốn, chính chị cũng muốn dành dụm để cất một cái nhà mà ở. Tiền anh kiếm thêm, tiền chị làm thêm đều gom lại để anh gửi tiết kiệm. Người ta nói của chồng công vợ. Người ta còn nói giàu nhờ bạn sang nhờ vợ. Chị là người có học, chị quá biết. Chị không theo rõi các sổ tiết kiệm xem trong sổ có bao nhiêu tiền. Việc này để anh lo.

Anh cũng không đưa tiền cho chị đi chợ. Nội trợ là việc của đàn bà. Anh còn hơn khối thằng đàn ông vợ phải chu cấp tiền bia rượu thuốc nước.

Lâu lâu anh lại rỉ tai vợ:

– Anh gom được gần 90 triệu rồi. Em xem có tiền bù thêm cho đủ 100 để anh gửi ngân hàng.

Có thì chị đưa, không có thì chị vay mượn cho đủ. Mấy tháng sau đó chị ráng trực thêm giờ, ráng xoay xở tiền trả nợ.

Cứ thế chị chăm chút cho ngôi nhà hạnh phúc của mình.

Xong ngôi nhà thứ nhất, họ lo tiếp ngôi nhà thứ 2. Có hai cái nhà thì hạnh phúc biến mất, như chưa bao giờ có. Nhất là từ khi anh lên Chánh Sở thì hạnh phúc gia đình đã trở thành một ước mơ xa vời.

Anh ăn nhậu triền miên với ai đó, đi khuya bất thùng chi thình với ai đó. Chị kệ. Anh không quan tâm đến chị, đến sức khỏe chị, đến việc chị vui hay buồn. Chị khóc. Hình như anh cần một người để sinh con và trông nhà nấu cơm cho anh ta.

Chị buồn lắm. Đêm đêm nằm khóc một mình. Người gầy rộc. Đi khám chuyên khoa, cô bạn bác sĩ nói chị bị suy nhược thần kinh. Tối đó chị nói với chồng là em bị ung thư buồng trứng. Những tưởng anh sẽ sửng sốt, đau đớn, cuống quít lo tìm phương cứu chữa, tìm thầy tìm thuốc cho vợ. Không. Anh lặng lẽ về buồng, thức khuya viết một tờ di chúc của hai vợ chồng, trong đó ghi là để lại cho mỗi đứa con một ngôi nhà. Sáng sớm hôm sau, khi vợ vừa lo xong bữa sáng, anh đưa cho chị tờ giấy, bảo xem đi rồi ký.

Chị òa khóc:

– Anh không lo gì cho sinh mạng của em mà chỉ lo chuyện tài sản là sao?

– Anh lo chứ, nhưng lo chuyện hậu sự cũng là lo?

Từ đó chị hết hy vọng níu kéo hạnh phúc. Chị chỉ là cái máy đẻ, cái máy kiếm tiền nuôi cả nhà và phụ thêm cho anh tích lũy.

Cũng dịp ấy bệnh viện nơi chị công tác triển khai quy chế cấm bác sỹ nhận tiền của bệnh nhân, nói chung là chống tiêu cực, đề cao khẩu hiệu “Lương y như từ mẫu”

Thu nhập của chị giảm hẳn đi. Thiếu tiền đi chợ, chị nói với anh. Anh cáu:

– Bệnh viện em vẽ chuyện, quy chế cái con khỉ! Thiếu tiền thì từ nay em bớt mua sắm quần áo đi. Người dân đang sống thiếu thốn mà em trưng diện quá cũng không hay, vừa lãng phí vừa vô lương tâm.

Rồi anh cũng đưa tiền chợ cho chị, nhưng lấy ngay quyển sổ ra ghi chép đầy đủ trước mặt chị. Để theo rõi xem chị có ăn bớt tiền chợ hay không.

Ngày Tết, ngày lễ nhà anh rất nhiều khách. Cấp dưới trực tiếp, cấp dưới có liên quan, các cơ quan hữu quan v.v. đến tấp nập. Anh không bao giờ nhận phong bì. Đạo đức tư cách người lãnh đạo không cho phép làm việc đó. Đó là việc của phu nhân lãnh đạo. Song anh có biệt tài là nhớ hết những ai đến đưa quà, tổng cộng là bao nhiêu phong bì, đề phòng chị ăn bớt.

Dịp 30 tháng Tư vừa rồi cũng vậy, rất nhiều khách đến thăm. Chị nhận hết các phong bì rồi chuyển lại cho anh đầy đủ khi khách đã ra về.

Gần 11 giờ đêm, anh gõ cửa phòng chị, mặt hầm hầm:

– Thằng X công ty Y năm ngoái đi hai triệu sao năm nay chỉ có một?

Chị như bị một cái tát vào mặt. Anh nghĩ chị lấy bớt đi một triệu chăng?

– Anh đi mà hỏi nó. Nó đưa bao nhiêu em đưa lại anh nguyên phong bao chưa bóc.

Anh không tin thì mai đứng ra mà tự nhận phong bì.

Chuyện này thì không thể. Anh đành nhân nhuợng:

– Anh hỏi cho biết cái bụng của thằng X thôi. Chả hiểu sao năm nay nó đi ít thế?

Khuôn mặt anh bần thần đến thảm hại. Ngày hôm sau anh bưng về một cái hòm phiếu, cái mà người ta hay dùng để bỏ phiếu trong các kỳ đại hội. Nó được làm bằng kính nhựa trong, khung nhôm, mặt trên có xẻ rãnh để người đi bầu nhét phiếu vào đó. Có cả cái khóa đồng treo lủng lẳng. Trông rất công khai minh mạch.

Anh để cái hòm phiếu bên buồng chị, ở cái chỗ mà từ phòng anh, từ chỗ anh ngồi tiếp khách hé cửa nhìn sang là thấy rõ nó.

Khách đến, ngồi chơi nói chuyện với ông bà Giám đốc Sở. Họ kín đáo đưa phong bì cho bà mệnh phụ phu nhân. Tiễn khách xong là bà chạy về phòng mình bỏ ngay lá phiếu vào hòm phiếu.

Đêm hôm đó, khi đã thiêm thiếp ngủ, chị giật mình thấy có bóng người vào phòng mình. Đó là anh. Nhiều năm rồi anh không vào phòng chị vào ban đêm. Chị hồi hộp, nín thở hy vọng.

Anh đi nhẹ nhàng rón rén. Cũng rất nhẹ nhàng, anh lần lượt khám xét túi xách của chị, cái tủ đầu giường, tủ treo quần áo. Gần một tiếng đồng hồ anh như cán bộ điều tra hiện trường xem xét tỉ mỉ xem chị có tiền riêng cất dấu ở đâu không.

Chị nằm im, cố không nhúc nhích. Sau khi anh rời phòng chị, chị cũng đơ người như vậy đến sáng. Nhục nhã cho mình và hổ thẹn cho anh.

Tóm lại, đối với anh tiền là tối thượng, là lẽ sống còn. Không tình, không nghĩa, không trách nhiệm gì cả.

Chị đã từng muốn li dị. Nhưng phần vì anh van vỉ khóc lóc xin xỏ, phần vì chị thương hai đứa con nên thôi. Chán nản, chị lao đầu vào công việc, lấy công việc làm niềm vui.

Cách đây mấy ngày có đoàn học sinh đi nghỉ mát bị lật xe, ba cháu chết, hơn hai chục cháu bị thương. Chị lo cấp cứu các cháu từ sáng đến tối mịt. Trưa chị không về nhà, gọi điện bảo anh ăn cơm đi, cơm trong nồi, thức ăn đậy lồng bàn, em còn lo mấy ca cấp cứu. Anh cáu trong điện thoại; “Tôi không biết hâm cơm!” rồi dập máy.

Tối đó chị về muộn, người mệt rũ nhưng lòng rất vui vì cứu được ba cháu bị thương nặng. Khác với mọi ngày đi nhậu xong là chui vô phòng bật điều hòa nằm, anh ngồi chờ chị ở phòng khách:

Mai bà còn đi riết nữa không. Nếu còn đi thì tôi khỏi về nhà ăn trưa.

Chị cố nói thật nhẹ nhàng:

Đó là công việc, là trách nhiệm và cũng là lương tâm của em. Em không thể bỏ các cháu đau đớn quằn qoại được anh ạ.

Anh chửi đổng:

– Mẹ, làm như không có cô thì thiên hạ này chết hết!

Ông cán bộ lãnh đạo luôn mồm “vì dân” mà nói thế đấy!

Chị không phản ứng, ra mở vòi nước rửa tay chuẩn bị ăn cơm. Cả ngày chị chưa có hột cơm nào vào bụng. Nhìn tay chị, chỗ cái nhẫn vàng hai chỉ là một cái vết trăng trắng, anh hoảng hốt:

– Cái nhẫn của cô đâu?

Chị chậm rãi trả lời:

– Em không có tiền mà cần tiền quá nên em bán đi rồi.

– Cần tiền làm gì, lại mua áo váy?

– Anh không để ý chứ đã ba năm nay em toàn xài quần áo cũ. Em không có nhu cầu mua sắm thêm.

– Vậy cần tiền làm gì?

– Có một vài loại thuốc rất cần cho các cháu mà kho dược bệnh viện vừa hết, em phải mua ngoài.

Anh há hốc mồm ngạc nhiên, đờ người vì cái tin kỳ lạ. Khuôn mặt méo xệch, anh đấm mạnh tay xuống bàn, tấm kính lót bàn vỡ tan:

– Ngu! Thời này mà còn có loại người ngu như cô!

 *

*   *

Cháu buồn lắm cậu ạ. Cháu chả dám kể với ai, sợ mất thanh danh anh ấy. Chỉ kể với cậu thôi.

Lão Hâm nhìn đăm đăm vào cái chao đèn, cái chao đèn đang che khuất một nửa khuôn mặt cô cháu gái. Hồi lâu lão mới thốt lên:

– Thôi đi ngủ đi con, mai con còn phải đến bệnh viện làm việc rồi lại phải tranh thủ về chỗ đám tang.

Cô cháu ngoan ngoãn đứng lên đi về buồng. Cái lưng còng xuống.

Lão Hâm bật chai nước khoáng mặn ngồi uống một mình. Ước gì có một chai rượu. Chai rượu của riêng lão chứ trong tủ rượu của ông cháu rể thì đầy ắp các thứ rượu Tây hảo hạng.

Đã qua 12 giờ đêm, ông Chánh Sở đi nhậu vẫn chưa về”.

Qua lăng kính của một chủ tịch xã dưới ngòi bút tả chân trào lộng của Nguyễn Khải , một gia đình trí thức và một nhà văn dưới ngòi bút tả thực của Lão Hâm ta thấy được thực trạng xã hội về những vấn đề văn hóa.

Tự dưng, tôi tìm đọc lại ‘Nguyên Ngọc những trang văn ám ảnh’

4


LỜI THƯƠNG CÙNG THÁNG NĂM
Hoàng Kim

Sự chậm rãi minh triết
Bài thơ Viên đá Thời gian.
Chẳng hiểu sao
Ông Út lại chảy nước mắt?
Tỉnh thức cùng tháng năm

Đọc ’50 năm nhớ lại’
Ngắm ‘Ngõ nhà Lão Hâm
Chuyện đời Phan Chí Thắng
Ai tỏ Ngọc Quan Âm.

Sự thật tốt hơn ngàn lời nói
Bài đồng dao huyền thoại
Chuyện cổ tích người lớn
Đi bộ trong đêm thiêng

Văn chương ngọc cho đời
Minh triết Hồ Chí Minh

‘Chỉ là con hẻm nhỏ’ là đoản văn ngắn trong bản thảo “Chuyện dài chưa đặt tên” của anh Phan Chí Thắng, tôi thỉnh thoảng lôi ra đọc lại. Bạn muốn thấu hiểu ai đó, thì sự thật nhân cách, việc làm và chính văn của chính họ là quan trọng nhất. Lời thương cùng tháng năm Chẳng hiểu sao Ông Út lại chảy nước mắt? là khoảng lặng của tâm hồn,tôi vấn vít sự suy ngẫm về thân phân, vận mệnh con người. ‘Chỉ là con hẻm nhỏ’ ‘tùy cơ, tùy vận. tùy thiên mệnh, tùy thời, tùy thế, lại tùy nghi, xem tiếp 14 đường dẫn hình ảnh và tư liệu tại đây.

CHỈ LÀ CON NGÕ NHỎ
Phan Chi
Thứ Năm, 14 tháng 4, 2022 lúc 22:04


Chỉ là con ngõ nhỏ như hàng ngàn con ngõ khác ở Hà Nội mà sao nó thân thương gần gũi đến thế. Đi đâu xa một ngày là ông lại nhớ ngõ nhà mình. Ông nhớ từng khe cống, từng mảng xi măng tróc lở và những vết ố trên tường.

Vì đây là nơi ông từng đẩy xe nôi đưa con ra ngoài thở không khí để đôi mắt con trong veo nhìn lên những khoảng trời xanh sót lại bên mái những ngôi nhà tầng.

Cũng ở đây con lon ton chạy chơi làm ông phải đuổi theo sợ con va vào xe máy.

Và bây giờ ngày hai buổi con đến trường và từ trường về nhà. Bước chân con ngàn lần dọc theo ngõ nhỏ.

Cuộc đời là những bước đi. Rồi con sẽ bước những bước dài hơn, mạnh mẽ hơn trên đường đời phía trước. Con sẽ trưởng thành, chàng trai của ông.

Con ngõ sẽ cũ kỹ, già nua giống ông. Nó cũng sẽ như ông, nhớ từng bước chân con trên đó.

Đã yêu yêu cả đường đi lối về. Giờ ông mới thực sự hiểu câu người xưa từng nói.

Kim Notes lắng ghi chú
KỶ NIỆM 50 NĂM
Phan Chí Thắng

Năm nay là tròn 50 năm tôi bước chân vào trường chuyên tu ngoại ngữ Thanh Xuân (nay là đại học Ngoại ngữ) để học tiếng Nga (sau này người ta gọi là khóa dự bị đại học) chuẩn bị sang Liên Xô học đại học.

Chuyện không có gì đặc sắc và gay cấn, chắc chắn là cũng tương tự nhiều bạn khác từng học ở Liên Xô. Nhưng cũng nên chép lại kẻo quên. Ở tuổi tôi , đó là một cách níu kéo cái trí nhớ cứ thích lãng lặng bỏ đi chơi, nhiều khi gọi mãi không về.

Đây là thể loại hồi ký song không phải là hồi ký của người nổi tiếng hoặc có cương vị xã hội. Tôi chỉ chép lại những gì xảy ra với chúng tôi, không thêm bớt, sự thật như thế nào viết lại thế. Với tâm thế thanh thản suy ngẫm lúc tuổi già. Không có ý định tập hợp các số liệu thống kê, thu thập những tình tiết, những câu chuyện xảy ra trước hoặc sau chúng tôi hoặc ở các trường khác hay thành phố khác của Liên Xô.

Thời chúng tôi học phổ thông 10 năm. từ lớp 1 đến hết lớp 3 tôi học ở Thịnh sơn, Anh Sơn , Nghệ An. Cả ba năm đó tôi học duy nhất một ông thầy ở nhiều địa điểm khác nhau. trường không ra trường, lớp không ra lớp. ai cho mượn nhà một thời gian thì học ở đó. Nhưng dạy và học thì rất tốt. Năm lớp 4 tôi ra Hà Nội học ở trường Hoàng Văn Thụ ở Hoàng Mai, thời đó coi là ngoại thành Hà Nội.Tôi luôn được xếp nhất lớp. Chứng tỏ thầy Miêng ở Nghệ An dạy rất giỏi. Tuy vậy tôi phải học lại lớp 4 vì không đủ tuổi để thi lên lớp 5. Lớp 5 tôi học ở trường Phổ thông 2 phố Lý Thường Kiệt. Hết năm, người ta xóa sổ trường này, tôi về trường Vân Hồ học năm lớp 6, Bạn bè thời kỳ này, nay chẳng còn biết ai, ngoài diễn viên điện ảnh Tố Uyên (phim Con chim vành khuyên, vợ đầu của Lưu Quang Vũ).

Lớp 7 do gia đình chuyển nhà nên tôi lại học ở trường Thanh Quan B. Chủ nhiệm là thầy Vũ Hoàng Tuấn (con nhà văn Vũ Bằng). Thầy Tuấn dạy Văn và rất thích tôi đi theo đường văn nghiệp. Cấp 3 tôi học ở Chu Văn An, trường nổi tiếng nhất ở Hà Nội. Trường có hội trường, sân bóng đá, bể bơi (thực chất là quây một góc Hồ Tây), xưởng dạy nghề. Tôi học giỏi có lẽ là nhờ 3 năm cấp 1 thầy Miêng ở Nghệ An đã gieo vào tôi lòng đam mê kiến thức. Năm thì thi học sinh giỏi Văn, năm thì Toán, có năm lại thi Lý. Giỏi đều nhưng chả môn nào xuất sắc. Có lẽ vì tôi còn chơi cho đội tuyển bóng đá và tham gia ban văn nghệ của trường. Học ở Chu Văn An có thêm cái lợi là hay được các nhà văn .nổi tiếng đến nói chuyện . Chúng tôi được nghe Xuân Diệu và Trần Việt Phương nói chuyện nhiều lần.

Rồi cả Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng quan tâm . Có lần ông dự giờ Địa lý ở lớp tôi. Câu chuyện nổi tiếng “Đảo Hải Nam ở phía nam Việt Nam” đi đâu Thủ tướng cũng kể là xảy ra trong tiết học này. Thủ tướng kiểm tra kiến thức của học sinh , hỏi đảo Hải Nam ở phía nào của Trung Quốc rồi chỉ định bạn Ngọc trả lời. Ngọc nhút nhát đứng im như thóc. Một vài giọng nhắc phía nam phía nam, Thủ tướng chuyển câu hỏi : Thế đảo Hải Nam ở phía nào của Việt Nam?”. Bạn Ngọc cuống lên, vội nói như lời nhắc: “Phía nam ạ”. Thủ tướng cười ha hả.

Hết phổ thông, mỗi người chúng tôi phải làm 3 bộ hồ sơ tuyển sinh đại học chứ không phải thi. Học sinh miền nam làm 3 bộ riêng. Vậy là tôi làm 6 bộ. Kết quả là tôi có giấy gọi của 6 trường tôi liệt kê sau đây theo trình tự thời gian nhận giấy gọi: Trường TDTT Từ Sơn (chắc vì tôi hay đá bóng), Đại học Y Hà Nội (chắc vì trong lý lịch tôi khai mẹ là lương y), Tổng hợp Văn (chắc là do tôi đã có thơ đăng báo), Đại học Bách Khoa Hà Nội (chắc là do tôi tham gia văn nghệ hát hò kịch cọt, hồi đó Bách Khoa thích lấy người có thành tích văn thể), Đại học Giao thông Vận tải (chưa rõ lý do) và Trường Chuyên tu Ngoại ngữ Thanh Xuân.

Tôi nhập trường Thanh Xuân, ở nội trú.

Kim Notes lắng ghi chú
NGƯỜI ĐÀN BÀ XA LẠ
Phan Chí Thắng

Đó là tên bức tranh nổi tiếng của họa sĩ Kramskoi, trên đó có hình người đàn bà trẻ ở Leningrad với cặp mắt to huyền bí dường như nhìn xuyên qua kẻ ngắm tranh, đến một nơi xa xăm nào đó.

Một tối mùa đông cuối thập kỷ 80 thế kỷ trước , tôi lặng lẽ rời khách sạn , đi dạo dọc bờ sông Neva, con sông đang ngầm chảy dưới làn băng tuyết trắng. Khoan khoái hít sâu cái không khí trong lành và dễ chịu của mùa đông nước Nga, tôi muốn tìm một chút thư giản sau mấy ngày làm việc căng thẳng, đồng thời tranh thủ ngắm thành phố xinh đẹp do Pie Đại đế xây dựng lên với nhiều cung điện và tượng đài nổi tiếng mà tôi đã một lần ghé qua mười mấy năm trước đó.

Trên con đường vắng, tôi chỉ còn nghe thấy tiếng bước chân mình lạo xạo trên tuyết. Tiếng lạo xạo đó đã trở thành kỷ niệm của những năm du học, trở thành một phần tuổi trẻ của tôi. Thỉnh thoảng một chiếc taxi lao vội, phá tan trong chốc lát sự yên tĩnh của con đường ven sông, xẹt lên vỉa hè những vệt tuyết bẩn. (Người ta phải rãi cát ra đường để chống trơn vào mùa băng giá).

Trong cái tĩnh lặng ấy, tôi dễ dàng nhận ra một người phụ nữ đã luống tuổi, vai hơi nghiêng vì phải xách một túi đồ khá nặng, lầm lũi bước những bước chân đều đặn cùng một hướng đi với tôi. Tôi rão bước đến gần bà, đề nghị:
– Cho phép tôi được xách giúp bà một đoạn.?
– Cám ơn ông , tôi tự lo được. Bà già ngước cặp mắt nhìn tôi , thoáng một chút nghi ngại.

Tôi hiểu được sự ái ngại của bà. Thời gian gần đây tình hình trật tự an ninh của Liên Xô xấu đi, người dân phải cảnh giác hơn với người lạ, đặc biệt là những người vùng Trung Á, nơi trình độ dân trí thấp hơn phần châu Âu của Liên Xô.

– Thưa bà, tôi là người Việt Nam. Hơn nữa tôi đoán túi đồ của bà không đáng để kẻ cướp quan tâm.
– Vậy xin phiền ông, ông tốt quá. Bà già bật cười trước cách diễn đạt của tôi, trao cho tôi túi đồ khá nặng, chắc là toàn những lọ mứt trái cây, dưa chuột muối và táo. Người đàn bà Nga nào chả hay xách những thứ đó?
– Ông mới ở Việt Nam sang hay làm việc ở đây?
– Tôi mới đến Leningrad được ba ngày, tôi là phiên dịch,
– Đúng rồi, ông nói tiếng Nga hay lắm.
– Cảm ơn bà có lời khen, tôi chỉ cố gắng làm tốt công việc của mình.
– Thế ông lưu lại khách sạn nào?
– Khách sạn Tháng Mười, thưa bà.
– Ồ, thế thì đoàn các ông là đoàn cấp cao rồi (Tôi không tìm thấy một chút mỉa mai nào trong giọng nói của bà).

Chỗ này tôi phải nói thêm với bạn đọc là ở Liên Xô cũ thành phố nào, tỉnh nào cũng có khách sạn Tháng Mười , đó chính là nhà khách của Đảng CSLX, nơi người khách nhiều khi chỉ phải ký ‘bông’ chứ không phải trả tiền cho mọi dịch vụ hảo hạng,
– Vâng, theo một nghĩa nào đó. Tên tôi là Thắng, bà có thể gọi là Victo cho dễ phát âm.
– Tôi là L. , tôi là giáo sư trường Múa Leningrad đã về hưu. Ở Việt Nam ông có biết hai học trò của tôi là Thủy và Cường không?
– Thật là một bất ngờ thú vị: tôi cùng học dự bị với hai người này , hiện họ là cán bộ chủ chốt của Trường Múa Việt Nam.
– Họ chẳng hề thư từ gì cho tôi cả, giọng bà lộ ra một chút xíu trách móc, mà có lẽ bà đã cố giấu đi.
– Mong bà thứ lỗi và thông cảm. Đất nước chúng tôi trãi qua hết cuộc chiến tranh này đến cuộc chiến tranh khác, việc liên hệ với người nước ngoài đôi khi mang lại ít nhiều bất lợi.
– Tôi cũng đoán thế, chứ không bao giờ chúng nó có thể quên tôi. Giọng bà ấm trở lại. Thôi chết, ông có đi cùng đường với tôi không, có thể tôi đã làm phiền ông nhiều quá?.
– Không sao, tôi chỉ đi dạo, đường nào cũng là đi dạo. vả lại rất vui được nói chuyện với bà, bà làm tôi nhớ đến bà giáo tiếng Nga kính mến của tôi.

Cứ thế, chúng tôi một già một trẻ vừa đi vừa trò chuyện. Tôi lấy làm tiếc vì mình ít hiểu biết về lĩnh vực Ba lê, ít biết những tên tuổi nổi tiếng trên sàn múa nước Nga và sẽ đưa đất nước Nga đi về đâu, Tôi kín đáo quan sát khuôn mặt nhẹ nhõm, dáng di khoan thai và thanh thoát của người vũ công về già. Tôi không dám hỏi bà đi đâu một mình và trở về khuya khoắt trong cô đơn. Đó là phép lịch sự. Bà hỏi thăm tôi về gia đình, về các con tôi, không hẳn là vì phép lịch sự.

Không hiểu do đâu tôi bổng nhắc đến bức tranh Người đàn bà xa lạ, nhắc đến những tiểu thuyết có nhiều diễn biến gắn với Xanh Peterburg, rồi chúng tôi nói về danh hài Raikin của Leningrad. Bà tỏ ra là một người trò chuyện thú vị.

Bà bất ngờ dừng lại trước cửa một nhà chung cư:
– Tôi đã về đến nhà rồi, cảm ơn ông đã giúp đỡ. Chân thành chúc ông luôn hạnh phúc!
Tôi hiểu lời chúc của bà, chỉ những người ở tuổi bà mới ngộ rằng hạnh phúc là cái quan trọng nhường nào cho một đời người.
– Thay mặt tất cả những học trò Việt Nam của bà và tự đáy lòng xin chúc bà mạnh khỏe và mọi điều tốt đẹp nhất.

Bà chìa tay cho tôi bắt, bàn tay mảnh mai nhưng rắn chắc.

Dọc theo con đường ven sông tôi lững thững quay về khách sạn, Thỉnh thoảng một đôi tình nhân đi chơi về muộn, nàng ngã hẳn vào chàng như lấy thêm hơi ấm …

Dừng lại trước cửa khách sạn, tôi châm thuốc hút. Tính tôi là vậy, bao giờ cũng hút một điếu thuốc để ghi nhận một sự kiện sau này sẽ trở thành kỷ niệm khó quên.

Đúng là thế thật, mỗi khi tôi nhớ Liên Xô, nhớ nước Nga, nhớ Ucraina thì trong bao nhiêu hỗn độn của ký ức , bao giờ cũng hiện về hình ảnh người đàn bà xa lạ bên dòng sông Neva, người phụ nữ Nga mà số phận đã cho tôi được gặp, cho tâm hồn tôi một lần được trú ngụ trong cái hiền hòa và nhân hậu của người Nga.

Câu chuyện giống như trên có thể xảy ra không ít lần với mỗi người trong chúng ta, nó cũng chẳng có gì đặc biệt đáng viết ra cho người khác đọc. Song cuộc đời chúng ta lại đặc biệt ở chỗ nó được ghép lại bởi những sự kiện thoạt nhìn rất đổi bình thường.

(Trích Phan Chí Thắng 2016. 50 năm nhớ lại Nhà xuất bản Lao Động 2016; trang 193-197. Hoàng Kim chép lại và suy ngẫm ngày 16 4 2022, ngày khùng hoảng Nga Ucraina cuộc chiến tàn khốc tuần đỉnh điểm)

LƯU DẤU CHÂN THỜI GIAN
Hoàng Kim

“Mọi lý thuyết đều xám
Chỉ cây đời tươi xanh
” (*)

Hậu duệ của mặt trời
Lưu dấu chân thời gian
Dấu đời thành seo biển
Đi như một dòng sông

Linh Giang sông quê hương
Lời thề trên sông Hóa
Đèo Ngang thăm thẳm nhớ
Nguồn Son nối Phong Nha

Trúc Lâm Trần Nhân Tông
Nguyễn Du trăng huyền thoại
Sóc Trăng Lương Định Của
#Thungdung cụ Trạng Trình

Một gia đình yêu thương
Bảo tồn và phát triển
Ngày mới Ngọc cho đời
Bài đồng dao huyền thoại

(*) Goethe, trích dẫn tại Giấc mơ thiêng cùng Goethe ; Lưu dấu chân thời gian (ảnh RUCHUNG)

ảnh trang bìa và trang 2 sách Ông cháu kể chuyện Phan Chí Thắng. Hoàng Kim lời bình Bảo tồn và phát triển/ Hậu duệ của mặt trời/ Bài thơ Viên đá Thời gian/ Chuyện đời Phan Chí Thắng Mỗi dòng là mỗi đường dẫn, kết nối tại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/di-nhu-mot-dong-song

5

Văn chương ngọc cho đời
BÀI THƠ VIÊN ĐÁ THỜI GIAN
Hoàng Kim


Anh Phan Chí Thắng viết ‘Đôi điều suy ngẫm” gần cuối sách “50 năm nhớ lại” (trang 191- 192) : “Liên Xô giúp ta đào tạo hàng vạn cán bộ đại học và trên đại học, chưa kể số trung cấp và công nhân kỹ thuật, và cũng chưa kể số cán bộ sĩ quan quân đội và công an. Trong đó có một số đã phát huy được năng lực. Nhiều người giữ cương vị cao trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước, Quốc hội, trong hệ thống quản lý nhà nước và hệ thống sản xuất kinh doanh, ở các trường đại học, viện nghiên cứu, các đoàn ca múa nhạc, thể thao, v.v… Nhưng số đông còn lại là chìm nghỉm trong cuộc mưu sinh, trong môi trường chưa hội đủ các yếu tố cần thiết cho công việc mà họ được đào tạo”.

Kim Notes lắng ghi chú tôi trầm ngâm suy ngẫm: Anh Thắng đi học Nga là dịp năm 1966 –1972, trong khi Hoàng Kim lớp nhỏ hơn và những năm 1971 lại xếp bút nghiên ra trận, nên sau này nhọc nhằn học ‘đúp 5 lớp” qua chuyện kể Thầy bạn là lộc xuân. Hoàng Kim cũng có duyên may sang học tập ở châu Âu khi đã luống tuổi, và cũng có dịp Đến Neva nhớ Pie Đại Đế; Từ Mê Kông nhớ Nê Va; Đêm trắng và bình minh; Nước Nga và châu Âu; Thế giới trong mắt ai ““Đi đâu cũng không bằng Tổ quốc mình. Nói gì, làm gì cũng không bằng dạy, học và làm cho đồng bào đất nước mình. Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương. Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc. Dạy và học thực tiễn trên chính Tổ quốc mình”. Đêm trắng và bình minh Hoàng Kim lời tâm đắc, qua sự trãi nghiệm của riêng mình trong Giấc mơ thiêng cùng Goethe.

GIẤC MƠ THIÊNG CÙNG GOETHE
Hoàng Kim

Hiểu tình yêu cuộc sống
Hiền tài dày sử thi
Mọi lý thuyết đều là màu xám,
chỉ có cây đời mãi mãi tươi xanh

Tôi giấc mơ gặp Goethe
Kalovi Vary, Czechoslovakia
trong rừng thiêng cổ tích.
Người kể chuyện sử thi

Tiệp Khắc kỷ niệm một thời
Praha Goethe và lâu đài cổ
Những khát khao của Faust,
Nỗi đau của chàng Werther

Người nhắc tôi đừng quên
kể chuyện sử thi dân mình
Cho dù học gì làm gì
Cũng đừng quên chuyện đó !

Người hỏi tôi trong mơ
Con có dám học Faust?
Chọn minh triết làm Thầy
Suốt đời theo Trí Tuệ ?

Tôi trả lời.trong mơ
Có con xin theo Người !
Con xin theo học Goethe
Người kể chuyện sử thi

Ta bàng hoàng gặp Goethe
Trên cầu đi bộ Charles
Trong 30 tượng thánh trầm tư
Tôi ngắm hình tượng Faust

Quảng trường Old Town Square
Đế Quốc La Mã Thần Thánh
Goethe lắng đọng tại Praha
Trong huyền thoại muôn đời

Tôi nhớ Người ở Frankfurt,
Di sản Người Leipzig, Strasbourg
Ông già hiền triết châu Âu
Tại bao nhiêu điểm đến …

Tôi học Goethe qua thơ Xuân Diệu
Mọi lý thuyết đều là màu xám,
chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi
Thơ Người đi cùng tôi bao tháng năm.

Tôi gặp Goethe ở châu Âu
Trong hình bóng người hiền
Cũng gặp Người tại Oregon
Nơi Miền Tây Nước Mỹ.

Tôi gặp Goethe ở châu Mỹ
Tại Ciudad Obregon
Hồ lớn ba tỷ khối nước
Cây xanh đất nước giao hòa

Tôi đã gặp Người ở CIMMYT Mexico
Bóng hạc chốn xa xôi cuối trời Tây
GoetheNorman Borlaug
Dạy tôi minh triết an nhiên
Đi để hiểu quê hương

Người hóa thân
trong thanh thản
bóng cây xanh
Người đàm đạo
với Norman Borlaug
và cậu học trò nghèo
Về ý tưởng xanh
Con đường xanh
Hành trình xanh
Sự nghiệp xanh
Nhà khoa học xanh
giấc mơ hạnh phúc

Goethe là vòm cây xanh
Goethe cũng là lão nông
ngồi cùng chúng ta
chuyện trò
trên cánh đồng xanh
hạnh phúc.

Goethe Norman Borlaug
là những trí tuệ bậc Thầy.
Họ không màng hư vình
mà hướng tới đỉnh cao hòa bình
sự an lành tiến bộ.

Anh và em cùng Goethe
Ở FAO, Rome, Italy
Người hóa thân
thành nữ thần Tình Yêu (*)

Trời xanh tuyệt vời !
Trời nhân loại mênh mông !

NHẮN BẠN Ở QUÊ NHÀ
Hoàng Kim

Bạn thanh nhàn chốn cũ
Mình #Thungdung dọn vườn
Nhớ lại và suy ngẫm
Kỷ niệm nhòa khóí sương.

Anh Phan Chí Thắng lúc 9g52 ngày 28 tháng 4 năm 2022, nhắn tin: Hôm nay sinh nhật giáo sư Vương / Anh em kỷ niệm ở trên đường/ Ghé quán Ninh Bình cà phê nóng / Thẳng hướng Ba Đồn tới cố hương ” Từ trái sang: Phan Chi, Vuong Tran Ngoc, Tien Duc Tran, Nguyen Pham Xuan. Tôi vui vẻ nhắn lại: Tuyệt vời quá anh Phan Chí. Chúc mừng sinh nhật giáo sư Vương. Kính chào quý Cụ về thăm quê Bọ. Quảng Bình đất Mẹ ơn Người Chung sức trên đường xuân.https://hoangkimlong.wordpress.com/2022/04/28/chung-suc-tren-duong-xuan/ Ngày 28 tháng 4 lúc 13:35 anh Phan Chi viết tiếp: “Dừng chân ăn trưa ở nhà hàng Việt Đức Tp Vinh. Có thêm tiến sĩ Biện Minh Điền đại diện địa phương đến chia vui.”

Thứ Sáu, 29 Tháng 4, 2022, lúc 16g 42 anh Thắng viết tiếp Du thuyền trên sông Son, Quảng Bình;

NGUYỄN QUANG LẬP QUÊ CHOA
Hoàng Kim


Sách ‘Ba Đồn mạn thuật’
Nguyễn Quang Lập quê choa
Nghiệp nhà văn biên kịch
Nghề vô tuyến bách khoa

‘Những mãng đời đen trắng’
‘Ký ức vụn’ ‘Bạn văn’
‘Đời cát’ ‘Thung lũng hoang vắng’
Học văn để làm Người

Nguyễn Quang Lập 21 tháng 3: 8 anh em nhà tui. Từ phải qua: Anh Cả: Chỉ đọc mỗi báo Nhân Dân; Chị Hai: Cả báo Nhân Dân cũng không đọc; Chị Ba: Chỉ ngâm thơ Tố Hữu và Trần Đăng Khoa. Anh Tư: Chỉ làm thơ ca ngợi Bác Hồ; Anh Năm: Thầy bói nổi tiếng Bình Phước; Anh Sáu: Suốt đời ngồi lo hai thằng em phản động; Cu Bảy: Toàn viết ba lăng nhăng. Cu Út: Viết và dựng nhiều đến nỗi không thể trả hết nợ.

“Ba Đồn mạn thuật”: Một Nguyễn Quang Lập… rất khác
Lê Phi Long (thực hiện), Báo Lao Động trực tuyến, Thứ năm, 28/04/2022 15:56 (GMT+7)
Đúng dịp 30.4 năm nay, nhà văn Nguyễn Quang Lập sẽ giới thiệu, ra mắt cuốn sách rất đặc biệt về quê hương ông: “Ba Đồn mạn thuật” (NXB Hội Nhà văn).

Sâu xa trong từng con chữ, từng sự kiện, từng phong tục, từng địa danh, từng món ăn, từng con người… là một tình yêu quê hương da diết. 451 ngày đêm một mình hoàn thành một tác phẩm để đời cho quê hương – tất cả đã nói lên điều đó.

Cầm cuốn sách trên tay, chúng ta sẽ càng biết thêm nhiều điều thú vị của nhà văn Nguyễn Quang Lập… rất khác. Vì không chỉ là nhà văn, ông còn là “nhà Ba Đồn học” trong con mắt người dân quê hương.

– Nhà văn có thể cho biết hoàn cảnh ra đời của cuốn sách?

Từ năm 60 tuổi tôi luôn mong muốn có một cuốn địa chí cho Ba Đồn quê tôi nhưng không bao giờ dám nghĩ tự mình có thể làm được. Địa chí là sách biên chép về địa lý, lịch sử, phong tục, nhân vật, sản vật… của một vùng đất trong suốt thời gian lịch sử, từ thuở khai thiên cho đến ngày nay. Do đó đòi hỏi người viết có kiến thức sử – địa – văn hoá tổng hợp sâu rộng. Thường phải có một nhóm tác giả, mỗi người một thế mạnh cố kết lại mới có thể làm được.

Năm 2018 một nhóm bạn học Ba Đồn do anh Nguyễn Xô Viết dẫn đầu từ Hà Nội, Quảng Bình, Huế bay vào Sài Gòn lên Củ Chi nhóm họp cùng tôi. Nhóm “Dư địa chí Ba Đồn” ra đời từ đó. Dự án “Địa chỉ Ba Đồn” dự trù cho 7 người biên soạn, 5 người biên tập kéo dài 2 năm với kinh phí 1,4 tỉ. Nhưng rồi không xin được tài trợ, dự án đành bỏ dở. Sốt ruột vì ngày về trời đã cận kề tôi liều mạng tự mình làm lấy, vì biết mình không làm sẽ chẳng có ai làm. Người làm được thì không muốn làm, người muốn làm lại không làm được, đó là bi kịch mọi làng quê muốn có cho riêng mình một cuốn địa chí. Trong đời tôi đây là quyết định liều lĩnh nhất, lần đầu tiên trong đời tôi làm một việc quá sức mình.

Cuốn sách “Ba Đồn mạn thuật” được ra mắt trong dịp 30.4.2022. Ảnh: LPL
Cuốn sách “Ba Đồn mạn thuật” được ra mắt trong dịp 30.4.2022. Ảnh: LPL

– 451 ngày đêm một mình hoàn thành một tác phẩm để đời cho dân làng Phan Long và thị trấn Ba Đồn quê hương ông, phải chăng đây là cuốn sách có thời gian viết dài nhất trong cuộc đời cầm bút của ông?

Đúng vậy. Tôi viết cuốn “Những mảnh đời đen trắng” có 20 ngày. Dài nhất là cuốn “Tình cát” cũng chỉ 8 tháng (là tính thời gian viết). Đây là cuốn sách tôi lao động nặng nhọc nhất, dài ngày nhất. Năm 2021 trong đại dịch COVID-19, Sài Gòn có quá nhiều người chết hằng đêm, tôi cứ sợ tôi chết khi công việc còn dở dang. May trời thương cho sống.

– Nội dung cuốn sách là nói về địa chí Ba Đồn, nhưng ông không ghi tên sách là “địa chí” như các cuốn sách tương tự mà là “Ba Đồn mạn thuật”, phải chăng ông muốn gửi gắm đều gì?

Địa chí là thể loại, còn tên sách tuỳ theo sự thể hiện mà người viết đặt tên. Như An Nam chí lược của Lê Tắc, Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch. “Ba Đồn mạn thuật” là do TS Trần Hải Yến, người bạn chí thiết của tôi đặt cho. “Thuật” đây là trước thuật, tức biên soạn, viết sách, ghi chép; “mạn” chỉ sự phóng túng, không bó buộc (trong “mạn đàm”). “Mạn thuật” là một cách viết tổng hợp giữa nhiều thể loại (kể chuyện, ghi chép, bình luận, khảo cứu…). Cách viết tự do, nhẹ nhàng, thoải mái, không trói buộc, câu nệ. Nói chung đây là bút pháp tạo điều kiện cho người ta có rộng đất để diễn, đưa vào nhiều thông tin… dễ tiếp cận bạn đọc hơn là cách viết hàn lâm. Cũng là sở trường của tôi.

– Cuốn sách nói về lịch sử vùng đất quê hương ông, vậy tôi có thể gọi thêm ông là nhà nghiên cứu lịch sử được không, thưa nhà văn Nguyễn Quang Lập?

Trong “Ba Đồn mạn thuật” chỉ có 1/5 là lịch sử thôi, đó là phần III:” Sử lược” – phần ngắn nhất. Còn lại là địa lí (địa sử và địa chính), phong tục, văn hoá, văn minh… chiếm hầu hết cuốn sách. Viết rồi mới biết, viết sử dễ hơn nhiều viết địa chí. Tôi chỉ là nhà văn, không dám nhận nhà gì cả. Nhưng bạn bè gọi tôi là “nhà Ba Đồn học” thì tôi rất sướng và tự hào.

– Đọc cuốn sách, tôi có cảm giác như đang đọc một tác phẩm văn chương chứ không hẳn là một cuốn sách nói về địa chí, lịch sử một vùng đất. Mà văn chương là có yếu tố hư cấu, vậy các nội dung trong cuốn sách có các tình tiết hư cấu không, thưa nhà văn?

Điều đầu tiên và trên hết của địa chí là không được phép sáng tác. Bịa đặt và thêm thắt là điều tối kị. Người viết địa chí có thể bớt nhưng không được thêm. Nếu sách này được gọi là văn chương thì nó là loại văn chương phi hư cấu.

– Tôi nghĩ thành công của cuốn sách, sức lan tỏa của cuốn sách là ở chỗ ông đã lồng yếu tố văn chương vào lịch sử, để mọi người cảm nhận được hơn tình yêu quê hương qua từng sự kiện, từng câu chữ. Ông nghĩ sao về nhận định này?

Vâng. Có thể hiểu như vậy. Điều mà tôi sướng nhất là lôi kéo được người làng cùng kể chuyện. Cùng với ca dao tục ngữ hò vè của người Ba Đồn, có hơn bốn chục người Ba Đồn đã tham gia trong cuốn sách này, giúp cho cuốn sách tự nhiên có tính văn, sinh động hẳn lên, hấp dẫn hẳn lên.

– Trong cuốn sách, ngoài những thông tin về lịch sử, địa lý… thì hình ảnh cháo canh Ba Đồn, Thịt chó Cu Loe hay đơn giản là Tục sợ ma được ông miêu tả rất rõ nét, vậy nên có lẽ không cần nói nhiều về tình yêu ông dành cho quê hương, ông có “đau đáu” gì với Ba Đồn trong tương lai?

Chỉ cần chục năm nữa Ba Đồn quê tôi sẽ là thành phố nhỏ xinh đẹp của miền Trung, dân quê tôi ngày mỗi khấm khá, tôi chẳng phải lo lắng gì. Chỉ mong sao mọi người yêu quê, nhớ quê. Dù đi đâu cũng không xao nhãng tình quê. Bởi vì, như nhà thơ Đỗ Trung Quân đã nói: “Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người”.

4 NGÀY, 6 SỰ KIỆN
Phan Chi Thắng
2 5 2022, lúc 8:27 

Thật hiếm khi trong một khoảng thời gian 4 ngày tôi lại có thể tham gia vào tận 6 sự kiện liên tục, sự kiện nào cũng đầy ắp ấn tượng, diễn ra suốt chuyến đi Quảng Bình vừa mới kết thúc tức thì.

1. Ngày 28/4/2022.

Bốn người chúng tôi gồm nhà báo Trần Tiến Đức, giáo sư Trần Ngọc Vương, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên và tôi – lão Hâm Phan Chi lên xe thẳng tiến Đồng Hới thủ phủ Quảng Bình.

Anh Trần Tiến Đức, một người tài hoa trong nhiều lĩnh vực báo chí, thông tin khoa học, văn hoá thể thao và âm nhạc – người anh thân quý của bà xã tôi từ năm 1958 khi bà gia nhập trường học sinh Việt Nam (Internat) ở Moskva Liên Xô, nơi các anh chị lớp lớn đã sang trước đó mấy năm.

Giáo sư Trần Ngọc Vương là nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học sử. Anh có nhiều học trò thành công trong lĩnh vực hoạt động của họ. Theo tôi, số lượng học trò thành công là chỉ số quan trọng nhất ta dùng để đánh giá về một nhà giáo.

Phạm Xuân Nguyên là người có bộ tóc râu bạc đẹp nhất Việt Nam, là người làm MC các cuộc hội thảo văn học hoặc giới thiệu tác phẩm vào hàng nổi tiếng nhất Việt Nam, nguyên Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội. Một vài người hỏi lão Hâm quen Phạm Xuân Nguyên sao không xin vào Hội, lão trả lời rành mạch:

⁃ Nếu Phạm Xuân Nguyên biết tôi chơi với Nguyên để vào hội thì đã không chơi với tôi!

Ngày 28/4 là sinh nhật GS Vương. Chưa bao giờ có cuộc mừng sinh Nhật kéo dài từ 6 giờ 30 sáng xe bắt đầu lăn bánh cho đến khi nhận phòng khách sạn nghỉ tối ở Đồng Hới. Ăn sáng Ninh Bình, ăn trưa ở Vinh, không thể nhớ đã bao lần nâng ly rượu, bia và cà phê.

Phan Văn Thắng nguyên Tổng Biên tập tờ Văn hoá Nghệ An đứng chờ ven đường Đức Thọ để chuyển hai can rượu ngon lên xe chúng tôi.

2. Ngày 29/4/2022

Chuyến du thuyền bắt đầu từ ngã ba nơi sông Son đổ vào sông Gianh. Buổi sáng xuôi dòng Gianh rồi quay lại ngã ba, neo thuyền ngồi ăn trưa món trứng vịt lộn với khoai lang luộc ngay trên thuyền sau đó ngược dòng sông Son lên đến gần Phong Nha mới quay về.

Phong cảnh sông nước bao giờ cũng hữu tình. Nước sông Son xanh màu lục trong vắt, có thể bầu nàng sông này làm hoa hậu các dòng sông Việt Nam.

Chuyến du thuyền trên sông càng thêm vui nhờ sự tham gia của vợ chồng đạo diễn Nguyễn Thanh Vân – Phạm Nhuệ Giang, nhà thơ Nguyễn Thành Phong, nhà biên kịch Phạm Ngọc Tiến và nhóm bạn của Lưu Trọng Văn.

Lưu Trọng Văn người gốc Quảng Bình, với tôi có một điểm chung rất thú vị. Đó là mẹ tôi và mẹ Văn là hai người khác nhau nhưng cùng một cái tên Tôn Nữ Lệ Minh.

Chuyến du thuyền trên sông là cuộc đi về với thiên nhiên an bình hiền hoà, về với tuổi thơ mỗi người và tuổi thơ đất Việt, nơi sông Gianh từng là biên giới phía Nam nước ta.

3. Tối 29/4/2022

Nhóm hẹp người thân Nguyễn Quang Lập tại Ba Đồn, nhóm du thuyền trên sông cộng thêm vợ chồng diễn viên Hồng Ánh – Thanh Sơn tập trung tại nhà hàng Linh Giang mừng sinh nhật Nguyễn Quang Lập vào ngày hôm sau. Buổi tiệc do Chi hội Văn nghệ Ba Đồn với Phạm Phú Thép đứng đầu chủ trì.

Bọ Lập rất vui, cười suốt.

4. Sáng 30/4/2022

Sự kiện quan trọng nhất của chuyến đi là lễ ra mắt sách Ba Đồn mạn thuật của nhà văn Nguyễn Quang Lập tại khách sạn Green. Đông đủ đại diện chính quyền sở tại, họ hàng bà con bạn bè Lập có mặt.

Cuốn sách dày nặng trĩu tay là công sức 500 ngày lao động của bọ Lập cùng sự hỗ trợ của một số nhà nghiên cứu lịch sử và văn học ở trung ương và Quảng Bình. Cuốn sách ra đời còn nhờ có sự động viên vật chất và tinh thần của một số bạn bè Ba Đồn.

Buổi lễ ra mắt sách diễn ra đầm ấm, cảm động. Ai cũng cảm thấy một cách rõ ràng tình yêu bọ Lập giành cho quê hương cát trắng của mình. Bọ dồn hết tâm lực và bút lực viết về quê hương, dâng tặng quê hương và dâng tặng vào đúng ngày sinh của mình ngay chính trên mảnh đất mình cất tiếng khóc chào đời.

Lá rụng về cội. Tất cả chúng ta đều sẽ lần lượt rụng về cội. Để cội mãi vững vàng.

5. Trưa 1/5/2022

Chúng tôi được mời dự đám giỗ thân mẫu GS Trần Ngọc Vương tổ chức tại nhà thờ do chính tay giáo sư xây dựng. Nhà ba gian truyền thống, cặp câu đối chữ Nho đầy ý nghĩa nhân văn.

Phan Văn Thắng chạy xe từ Đức Thọ vào thắp hương cho bà.

Bữa cơm gia đình vui vẻ. Thành thật công nhận là ngon hơn hẳn ăn ngoài nhà hàng.

Mấy khi có dịp chạy xe về Ba Đồn thắp hương cho thân mẫu của bạn. Chúng tôi có cùng suy nghĩ như vậy.

6. Chiều ngày 1/5/2022

Trên đây là 5 sự kiện theo đúng chương trình chuyến công tác đặc biệt của chúng tôi. Riêng lão Hâm trời cho thêm một sự kiện nữa cho thêm phần đậm đà kỷ niệm.

Ngay từ 28/4 tôi đăng ảnh ngồi uống cà phê ở Ninh Bình, ông anh họ Nguyễn Việt Tiến của tôi từ Sài Gòn gọi ra nhờ Phạm Xuân Nguyên thu xếp đưa tôi gặp hậu duệ anh chị em ruột của bà nội tôi tại Hà Tĩnh lâu nay tôi chưa biết mặt.

Số là thời chống Mỹ, nhà Phạm Xuân Nguyên sơ tán về ở nhà ông Thiều là em ruột bà nội tôi. Hiện nay em trai của Nguyên lại ở gần nhà o Mỹ con gái ông Thiều.

Trời mưa to, xe chạy đến Hà Tĩnh, Nguyên đưa tôi đến gặp o Mỹ. Anh em có cả Nguyễn Quang Lập cùng ra Hà Nội thì ngồi uống chè xanh bên nhà Bình em trai Nguyên.

O 70 tuổi, cháu 75 giờ mới gặp nhau. Cuộc đời kỳ vậy đó. Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ. Đành chịu vội vã, không ngồi lâu hơn được. Sẽ có chuyến đi khác về Hà Tĩnh lâu hơn.

Chợt nhớ những lần tôi về Huế thăm bà nội khi bà còn sống tôi hay nghêu ngao hát đi mô rồi cũng nhớ về Hà Tĩnh là bà nội tôi rớm nước mắt. Từ khi theo chồng về Huế cho đến lúc trăm tuổi (bà thọ 100 tuổi theo nghĩa đen) bà chưa hề về được Hà Tĩnh.

Tôi thật hạnh phúc, mấy ai trong bốn ngày được nén chặt sáu sự kiện đặc biệt ấn tượng như tôi. Với thiên nhiên đất nước, với bạn bè thân thiết rồi với cả người ruột thịt của mình.


xem tiếp Gặp bạn ở quê nhà

Về Quê Choa gặp bọ Nguyễn Quang Lập tôi hỏi: Gia đình đều khỏe chứ? Lập và Nguyễn Quang Vinh có viết gì mới? “Sài Gòn giải phóng tôi” có đăng ở đâu không?. Bạn nói : Gia đình khỏe. “Sân khấu ngoài trời của Nguyễn Quang Vinh” là bài mới nhất. “Sài Gòn giải phóng tôi” có đăng ở người Lao động nhưng chỉnh sửa tựa đề. Mình nay viết ít hơn. Tôi đùa: Bạn buông bỏ bớt. Chúc mừng bọ Lập bạn bây giờ chỉ lắng đọng những điều tâm đắc; xem tiếp Gặp bạn ở quê nhàBài thơ viên đá thời gian https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bai-tho-vien-da-thoi-gian/

GẶP BẠN Ở QUÊ NHÀ
Hoàng Kim

Gặp bạn ở quê nhà
Nông lịch tiết Thanh Minh
Lời thề trên sông Hóa
Lời thương cùng tháng năm


6


AN NHIÊN VUI THIỆN LÀNH

Bạch Ngọc Hoàng Kim

Cụ Tô Đông Pha lúc già ngẫm đời nói với Triêu Vân: “Sinh con ai chẳng muốn thông minh Đâu biết TINH HOA lại lụy mình Chỉ ước con ta vô tư mãi Thiện lành vui hưởng thú #annhiênhttps://hoangkimlong.wordpress.com/…/to-dong-pha-tay-ho/

TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim
#Thungdung#dayvahoc, #vietnamhoc#cnm365#cltvn; #đẹpvàhay;
Tô Đông Pha Tây Hồ (hình) https://hoangkimlong.wordpress.com/category/to-dong-pha-tay-ho ; Thượng Đức thương nhìn lại ; https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thuong-duc-thuong-nhin-lai ; Cây bồ đề nhà tôi https://khatkhaoxanh.wordpress.com/category/cay-bo-de-nha-toi ; #cnm365 #cltvn 25 tháng 3 https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-25-thang-3/ ; https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tinh-thuc-cung-thang-nam/https://hoangkimvn.wordpress.com/tag/tinh-thuc-cung-thang-nam/

Bài viết mới trên TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây   cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
Secret Garden – Poéme

Vuonxuan

Chopin – Spring Waltz 
Secret Garden – Bí mật vườn thiêng

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Biết mình và biết người

BIẾT MÌNH VÀ BIẾT NGƯỜI
Bạch Ngọc Hoàng Kim

Nhà Trần trong sử Việt
Thái Tông và Hưng Đạo
Lời dặn của Thánh Trần
Lời khuyên thói quen tốt

Lời Thầy dặn thung dung
Biết mình và biết người
Kế sách một chữ Đồng
Quốc Công đạo làm tướng

Tiết Chế đức dụng nhân
Trần Thánh Tông minh quân
Thầy Tuệ Trung Thượng Sĩ
Trúc Lâm Trần Nhân Tông

Nguyễn Du trăng huyền thoại
Đặng Dung thơ Cảm hoài
Đào Duy Từ còn mãi
Mai Hạc vầng trăng soi

Ăn cháo nói Càn Khôn
Trần Khánh Dư vẹn kiếp
Tự do ngời tâm đức
Văn chương ngọc cho đời

Dám đánh và quyết thắng
Vị tướng của lòng dân

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/biet-minh-va-biet-nguoi

DÁM ĐÁNH VÀ QUYẾT THẮNG
Bạch Ngọc Hoàng Kim

Ban mai đứng trước biển
Đảo Yến trong mắt ai
Thăm thẳm một tầm nhìn
Vị tướng của lòng dân


Lời dặn của Thánh Trần
Quốc Công đạo làm tướng
Tiết Chế đức dụng nhân
Văn chương Ngọc cho đời


Biết mình và biết người
Dám đánh và quyết thắng

Biết mình và biết người https://hoangkimlong.wordpress.com/category/biet-minh-va-biet-nguoi tích hợp phim hay Tôn Vũ đại truyện tập mười lăm https://youtu.be/BmEW7r2h9Y4 ; tập tám; tập chín ; tập mười https://youtu.be/-vOrp_Ui2NA ; https://youtu.be/ChYxJ8nXxqw ; https://youtu.be/92ysJPiwBJY; Tỉnh thức cùng tháng năm https://youtu.be/kV0lgL3aJ8E ; Văn chương Ngọc cho đời ; Cuộc đời cao hơn trang văn. Bảo tn và phát triển tinh hoa di sản là niềm vui SOI SÁNG LẠI CHÍNH MÌNH, lời dặn của Thánh Trần; #cnm365 gồm những trãi nghiệm sâu sắc nhất về #vietnamhoc đất nước con người của chính mình, gia đình, người thân và thầy bạn; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/quoc-cong-dao-lam-tuong

Tôn Tẫn binh phápTôn Tử binh pháp được phát hiện ngày 10 tháng 4 năm 1972 tại  ngôi mộ có chứa các thẻ tre, ghi lại những chương thất truyền của sách trên  xem tiếp… Tôn Tử Binh Pháp https://youtu.be/4LQ2wD2PZJs

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nha-trang-va-yersin-1.jpg

NHA TRANG VÀ A. YERSIN
Hoàng Kim


A Na bà chúa Ngọc
Nha Trang và A. Yersin
Ban mai đứng trước biển
Hoa Đất Ngọc phương Nam.

Nha Trang biển yến rừng trầm thiên đường nghỉ dưỡng du lịch biển đảo nổi tiếng Việt Nam , nơi ấy có di sản nổi tiếng A Na bà chúa Ngọc Nha Trang cũng là nơi an nghĩ và lưu dấu những cống hiến đặc biệt xuất sắc của nhà bác hoc thiên tài Yersin. Quần thể lăng mộ Yersin ở Suối Dầu và Viện Pasteur Thư viện Yersin công viên Yersin Nha Trang là trường hợp duy nhất Chính phủ Việt Nam cấp bằng chứng nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia cho một người nước ngoài. Dân làng Tân Xương Suối Dầu thờ Yersin làm Thành hoàng. Ngày mỗi ngày, công viên Yersin, Bảo tàng Yersin, mộ Yersin càng có nhiều lượt khách trong nước và quốc tế đến thăm để chiêm nghiệm bài học lớn tình yêu cuộc sống.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là Nha-Trang-va-Yersin-2.jpg

A. YERSIN Ở NHA TRANG

Alexandre Émile Jean Yersin là nhà bác học lỗi lạc người Pháp gốc Thụy Sĩ. Ông là bác sĩ y khoa, nhà vi khuẩn học, nhà thám hiểm, nhà nông học, nhà chăn nuôi, nhà điểu học, nhà dân tộc học, nhiếp ảnh gia, nhà nghiên cứu khí tượng, nhà văn, nhà dịch thuật, nhà nhân đạo và ân nhân được nhân dân Việt Nam tôn kính. Ông được trao tặng Bắc Đẩu Bội tinh, huân chương cao quý nhất của nước Pháp, Việt Nam long bội tinh, Viện sĩ Viện Hàn Lâm Khoa học, Viện Hàn lâm Y học, Viện Hàn lâm Khoa học các thuộc địa, Hội Bệnh học Hải ngoại, Hội Y học Nhiệt đới, Hội Thiên văn Pháp quốc. Yersin sinh ngày 22 tháng 9 năm 1863 tại làng Lavaux (hat Vaux) Aubonne, Thụy Sĩ, tổ tiên ông vốn là người Pháp di cư sang Thụy Sĩ, năm 1889 ông phục hồi quốc tịch Pháp. Alecxandre Yersin mất tại Nha Trang ngày 01 tháng 3 năm 1943.

Nha Trang gắn bó với Yersin như hình với bóng. Yersin sống chết với Nha Trang. Ông tới Việt Nam năm 1890, Ông thám hiểm tìm ra con đường bộ từ Nha Trang ven Biển Đông băng qua dãy Trường Sơn qua Stung Treng đi suốt dọc ha lưu sông Mekong đến Phnom Penh năm 1892 . Ông là người thám sát lần đầu Cao nguyên Lâm Viên năm 1893 giúp thiết lập nên thành phố nghỉ mát Đà Lạt. Yersin đã tìm ra trực khuẩn gây bệnh dịch hạch sau này được đặt theo tên ông Yersinia pestis năm 1894 và điều chế huyết thanh chữa trị. Yersin là người sáng lập Viện Pasteur Nha Trang năm 1895. Với tiền thưởng khoa học, Yersin mua một khu đất rộng 500 héc-ta ở Suối Dầu để làm nông nghiệp và chăn nuôi.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nha-trang-va-yersin-1.jpg

Nha Trang và Yersin có một mối nhân duyên thật kỳ lạ. Năm 1891, khi đặt chân đến Nha Trang, Yersin đã yêu mến vùng đất này, và quyết định lưu trú tại đây. Ông viết cho Émile Roux, “Hãy đến đây với tôi, ông sẽ biết ở đây thú vị như thế nào, thời tiết không nóng nhiều, cũng không lạnh lắm, một khung cảnh thanh bình tuyệt đối và nhiều công việc cần làm“. Tên gọi “Nha Trang” có hai giả thuyết, một giả thuyết cho rằng nó được hình thành do cách đọc của người Việt phỏng theo âm một địa danh Chăm vốn có trước là Ya Trang hay Ea Trang (có nghĩa là “sông Lau”, tiếng người Chăm, tức là gọi sông Cái chảy qua Nha Trang ngày nay, con sông này đổ ra biển đúng chỗ có nhiều cây lau). Từ tên sông, sau chỉ rộng ra vùng đất, từ năm 1653. Giả thiết khác cho rằng Nha Trang trước năm 1891 chưa có tên gọi trên bản đồ chỉ mới là một vịnh nước yên tĩnh đầy nắng nhưng khi Yersin đến ở và xây “nhà trắng” nổi bật trên những ngôi nhà làng chài lúp xúp trên dải cát trắng từ năm 1891, thì họ gọi là ”Nhà trắng” lâu dần phiên âm thành Nha trang. Giả thiết đầu tiên được các nhà nghiên cứu thống nhất hơn. Dẫu vậy giả thuyết thứ hai cũng được nhiều người ủng hộ.

Yersin lưu dấu nhiều ký ức sâu đậm tại Nha Trang. Di sản Yersin thật sự to lớn và bền vững với thời gian ở Việt Nam. Ông từ trần tại nhà riêng ở Nha Trang ngày 1 tháng 3 năm 1943, và để lại di chúc: “Tôi muốn được chôn ở Suối Dầu. Yêu cầu ông Bùi Quang Phương giữ tôi lại tại Nha Trang, đừng cho ai đem tôi đi nơi khác. Mọi tài sản còn lại xin tặng hết cho Viện Pasteur Nha Trang, và những người cộng sự lâu năm. Đám táng làm giản dị, không huy hoàng không điếu văn.” Noël Bernard, người đầu tiên viết tiểu sử Yersin đã nhận xét: “Chắc chắn rất hiếm có người ít tư lợi đến thế. Yersin tự xóa mờ mình đi để người khác được tự do sáng kiến, sự tự do mà chính bản thân ông hết sức gắn bó

Yersin cũng lưu dấu ở Đà Lạt, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Thủ Dầu Một. Tại Đà Lạt, thành phố tình yêu, nơi núi non tuyệt đẹp trên cao nguyên Lâm Viên, Yersin là người nước ngoài đầu tiên đã thám hiểm và khám phá ra Đà Lạt. Tên ông được lưu dấu tại Trường Lycée Yersin (Trường Cao đẳng Sư phạm), Trường Đại học Yersin và Công viên Yersin. Tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Thủ Dầu Một,  tên của Yersin được đặt  tên đường để vinh danh. Dẫu vậy, nơi chính của Người vẫn là ở Nha Trang.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nha-trang-va-yersin-3-1.jpg

Ông Yersin là người đầu tiên du nhập và phát triển cây cao su ở Việt Nam năm 1897. Ông tuyển chọn nhiều loại thực vật và động vật từ khắp nơi trên thế giới để nuôi trồng tại Suối Dầu, biến nó thành một cộng đồng nông nghiệp và khoa học với một trạm xá phục vụ cư dân trong vùng.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nha-trang-va-yersin-4-1.jpg

Ngoài việc du nhập và phát triển cây cao su, ông cũng cho trồng cây cà-phê Liberia, các loại cây thuốc, cây coca để sản xuất cô-ca-in sử dụng trong ngành dược. Ông làm vườn, trồng hoa, nuôi chim, nuôi ngựa bò, sản xuất huyết thanh chống dịch cho bò. Trung tâm thí nghiệm này về sau trở thành Viện Thú y đầu tiên ở Đông Dương. Ông là người thành lập và là hiệu trưởng đầu tiên của Trường Y Đông Dương (tiền thân của Đại học Y Hà Nội) năm 1902. Ông trồng thử nghiệm cây canh ki na để sản xuất thuốc ký ninh chữa bệnh sốt rét năm 1917. Ông Năm Yersin nghiên cứu khoa học, sống thung dung trọn đời với người dân và thiên nhiên trong lành ở Suối Dầu, Nha Trang, Khánh Hòa.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là Nha-Trang-va-Yersin-4.jpg

Mộ ông Năm Alexandre Yersin nằm trên một ngọn đồi nhỏ gần Trại chăn nuôi Suối Dầu thuộc xã Suối Cát, huyện Cam Lâm, cách Nha Trang 20 km về phía nam và cách Đà Lạt 191km. Vị trí ngôi mộ tính từ cột mốc cây số và bảng hiệu chỉ đường rất rõ trên đường Quốc lộ 1, vào khoảng 2 km nữa thì đến một ngọn đồi có mộ ông Năm. Ngọn đồi này nằm giữa khu đất 500 ha ở Suối Dầu mà ông Năm đã mua bằng tiền thưởng nghiên cứu khoa học của chính ông. Tôi thật sự kính phục và ngưỡng mộ ông Năm và biết ơn khu đất này vì giống sắn KM94 và một số giống sắn lai mới triển vọng được bảo tồn và phát triển từ đây (Tôi sẽ kể chi tiết ở phần dưới).

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nha-trang-va-yersin-2.jpg

A. YERSIN VỚI VIỆT NAM

Ông Năm Yersin là một người dân Việt sống chết với Việt Nam như chính sự thật cuộc đời ông mà không chỉ là một nhà bác học lỗi lạc người Pháp gốc Thụy Sĩ . Ông Năm hiền lành tốt bụng là người thầy, nhà nhân đạo và ân nhân được nhân dân Việt Nam tôn kính. Suối Giầu Nha Trang  nơi ông an nghĩ trở thành nôi nuôi dưỡng hun đúc những thành quả lao động khoa học không chỉ của ông mà còn của lớp người sau. (Suối Dầu hay Suối Giầu .còn đó một ẩn ngữ vì bác Năm Yersin cũng là một nhà ngôn ngữ học thông tuệ và tên gọi này có từ thời ông. Thơ thiền Trần Nhân Tông có câu: “Sách Nhàn đọc dấu Thơ thiền Nhân Tông như có như không”.”Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu. Sách Nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim” . Giấu hay là Dấu là một ẩn ngữ trên 700 năm Giầu hay là Dầu cũng là một ẩn ngữ trên 100 năm nay.

Ông Năm Yersin không chỉ là bác sĩ y khoa, nhà vi khuẩn học, nhà bệnh học hàng đầu thế giới, mà còn là người thành lập và là Hiệu trưởng đầu tiên Trường Y Đông Dương từ năm 1902 (tiền thân của Đại học Y Hà Nội) . Ông Năm là người đầu tiên tìm ra bệnh bạch hầu và cách chữa trị năm 1888, người đầu tiên tìm ra bệnh dịch hạch và điều chế huyết thanh chữa trị, người đầu tiên thử nghiệm cây canh ki na để sản xuất thuốc ký ninh chữa bệnh sốt rét năm 1917.

Ông Năm Yersin không những là nhà thám hiểm đặc biệt xuất sắc, người làm cho Nha Trang có tên ‘nhà trắng ông Hoàng’ ở ven biển Nha Trang thuở xưa, người thám sát lần đầu Cao nguyên Lâm Viên năm 1893 giúp thiết lập nên thành phố nghỉ mát Đà Lạt mà còn là nhà thám hiểm người nước ngoài đầu tiên đã tìm ra con đường bộ từ Nha Trang ở ven Biển Đông đi băng qua dãy Trường Sơn tới Stung Treng và đi suốt dọc hạ lưu sông Mekong đến Phnom Penh vào năm 1892.

Ông Năm Yersin không những là nhà chăn nuôi thành lập Trại Chăn nuôi Suối Dầu đầu tiên để làm Trung tâm thí nghiệm sản xuất huyết thanh chống dịch cho bò ngựa, và nơi này về sau trở thành Viện Thú y đầu tiên ở Đông Dương, nay lại trở thành Viện Paster Khánh Hòa mà ông Năm Yersin còn là nhà điểu học, nhà dân tộc học, nhiếp ảnh gia, nhà thiên văn, nhà phong thủy tài danh đặc biệt xuất sắc về khí tượng nông nghiệp. Ông vừa là nhà văn và là nhà dịch thuật;

Ông Năm Yersin không những là một nhà bác học đặc biệt thông tuệ mà còn là một nhà nông học phúc hậu hiền triết yêu thiên nhiên con người cây cỏ muông thú và vạn vật. Ông sống thung dung tự do tự tại giữa thiên nhiên an lành. Ông là người nước ngoài duy nhất được Chính phủ Việt Nam cấp bằng chứng nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vì ông là nhà nhân đạo và ân nhân được người Việt tôn kính vì ông làm điều thiện việc lành mà cuộc đời ông như gương trong. Ông Năm Yersin là người đầu tiên du nhập và phát triển cây cao su ở Việt Nam năm 1897. Ông nhờ khu đất rộng 500 héc-ta của chính ông tự mua ở Suối Dầu để làm nông nghiệp và chăn nuôi mà ông cũng là người đầu tiên du nhập và tuyển chọn nhiều loại thực vật và động vật từ khắp nơi trên thế giới để nuôi trồng tại Suối Dầu, biến nó thành một cộng đồng nông nghiệp và khoa học với một trạm xá phục vụ cư dân trong vùng.

Sắn Việt ở Suối Dầu chuyện nhỏ bài học lớn. Ông Năm Yersin mất lâu rồi mà đất lành ông Năm vẫn tiếp tục nở hoa đất việc tốt điều thiện. Sắn Việt KM94 cùng nhiều giống sắn lai mới được bảo tồn tuyển chọn, nhân giống phát triển ở tỉnh Khánh Hòa từ năm 1993, từ một phần tư thế kỷ trước, tại đất lành Suối Dầu của ông Năm Yersin là nôi chọn và nhân giống cho miền Trung và sau đó đã phát triển rộng rãi ra khắp Việt Nam. Chị Đinh Thị Dục, giám đốc Trung tâm Khuyến Nông và Khuyến Lâm Khánh Hòa đã công bố kết quả này tại sách sắn ”Chương trình sắn Việt Nam hướng đến năm 2000″ trang 239 – 243. Ông Năm Yersin sống và chết tại Việt Nam, sau nửa thế kỷ Hoa Người và Hoa Đất ấy tiếp tục nở hoa. Chúng ta có được nhiều nhà khoa học xanh đến đất lành Việt Nam cùng chung sức làm việc. Kazuo Kawano và Reinhardt Howeler là những người bạn tốt của nông dân trồng sắn châu Á và Việt Nam, mà tôi thực sự kính trọng yêu mến họ và tôi sẽ kể tiếp cho bạn nghe trong câu chuyện khác.

Di sản ông Năm Yersin ở Việt Nam thật kính trọng và ngưỡng mộ.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là sanvietnam19971.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là sanvietnam1997c.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là ve-suoi-dau-nha-trang-tham-yersin.jpg

ĐẤT SUỐI DẦU A. YERSIN

Trại Chăn nuôi  Suối Dầu ở Suối Cát xã Cam Lâm, cách Nha Trang 20 km về phía nam và cách Đà Lạt 191 km. Nơi cột mốc cây số ven đường Quốc lộ 1 vẫn là tấm bảng hiệu khiêm nhường chỉ đường vào đất lành suối Dầu ông Năm Yersin. (Suối Dầu hay suối Giầu, giống như Đại Ngãi hay Đại Nghĩa, quê hương người anh hùng lao động Lương Định Của con đường lúa gạo Việt Nam ở Sóc Trăng). Trại Chăn nuôi Suối Dầu Cam Lâm chính nơi đây năm 1993 đã là nôi khảo nghiệm nhân giống sắn KM94 ra Khánh Hòa và các tỉnh miền Trung Việt Nam sau hơn nữa thế kỷ từ năm 1943 mà bác Năm Yersin mất. Chị Đinh Thị Dục, giám đốc Trung tâm Khuyến Nông và Khuyến Lâm Khánh Hòa đã phối hợp cùng chúng tôi công bố kết quả này tại sách sắn ”Chương trình sắn Việt Nam hướng đến năm 2000″ trang 239 – 243. Tôi tìm về di sản đất lành Suối Dầu ông Năm Yersin với biết bao xúc động cảm khái. Tôi lắng nghe các cây cao su già trăm tuổi, mía, đồng cỏ …và các ruộng sắn rì rào trò chuyện với gió núi, gió đồng quê gió biển. Chính nơi đây một phần tư thế kỷ trước tôi đã đến đây nhiều lần và thấu hiểu và chiêm nghiêm trên cõi đời này có nhiều điều uẩn khúc. Mục tiêu sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật có lời giải đúng và làm được việc.

Đất lành Suối Dầu A. Yersin đến nay tuy được bảo tồn nhưng vẫn chưa được đánh thức đúng tiềm năng. Hội Liên hiệp Phụ Nữ Thành phố Nha Trang chào mừng Khánh Hòa 350 năm đã có đầu tư giếng khoan nhưng phải đậy nắp vì sợ sự bảo quản máy bơm không an toàn và dường như điều này chưa thật đúng như tâm nguyện ông Năm Yersin là muốn nước giếng thơi ai cũng múc được. Giáo sư bác sĩ Nguyễn Chấn Hùng đã kể chuyện về quẻ Thủy Phong Tỉnh dạy về tinh thần của giếng trong sách Chu Dịch của cụ Sào Nam “Nước giếng trong không đậy, ai cần thì cứ múc. Giếng không sợ cạn. Càng múc nước lên càng trong, đầy mà không tràn. Không được đậy lại, phải để mọi người dùng”. Cụ Phan Bội Châu bàn về hào thượng quẻ Tỉnh:“Nước đã lên miệng giếng rồi, thời nên để cho tất thảy người dùng, chớ nên che trùm lại. Hễ ai muốn múc thời tùy ý múc. Quân tử đem tài đức ra gánh vác việc đời. Hễ lợi ích cho thiên hạ thời cứ làm, mà chẳng bao giờ tiếc công”.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nha-trang-va-yersin-5.jpg

Tôi và tiến sĩ Phan Công Kiên được mời tham gia Hội đồng Khoa học và Công nghệ Khánh Hòa đánh giá nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu xác định đối tượng và cơ cấu cây trồng phù hợp trên đất thoái hóa tại xã Cam Thịnh Tây, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa”. Tiến sĩ Phan Công Kiên là Phó Viện Trưởng Viện nghiên cứu Bông và Phát triển Nông nghiệp Nha Hố. Kiên mới đến khu mộ bác Năm lần đầu còn tôi thì đã đến đây nhiều lần từ nhiều năm trước. Chúng tôi sau khi họp xong đã dành được thời gian lên thăm và thắp hương tưởng nhớ bác Năm, và cùng đứng bên khu mộ với giếng nước thơi để tưởng nhớ Người. Tôi thầm mong một ngày nào đó sẽ có cơ hội đưa gia đình và các bé con cháu tôi về nơi đây để thấu hiểu Nha Trang và Yersin một bài học lớn. Bài học giấc mơ hạnh phúc…

Tôi thắp hương tưởng nhớ bác Năm Yersin theo lối gọi yêu mến của người dân Việt và bâng khuâng nhớ Người. Tôi thầm tự hỏi: dưới vòm trời này, đất lành này, núi biếc biển xanh này, so sánh con người phúc hậu, hiền lành, khiêm nhường đang nằm dưới ngôi mộ yên bình kia và những vĩ nhân lỗi lạc nhất của các nước lớn đến và ra đi khỏi Việt Nam, rốt cụộc thì ai hơn ai ? Ai đọng lại trong lòng dân Việt sâu bền hơn?

Biết bao danh nhân nước ngoài đến Việt Nam nhưng mấy ai được dân Việt tôn kính và quý trọng đến vậy? Ông Năm khiêm nhường như thế nhưng công đức và công bằng lịch sử lắng đọng như một ân nhân dân Việt . Tôi về nhà muộn, không dừng được những suy nghĩ về bác Năm. Tôi chợt đọc được cảm nhận xúc động của em Nguyễn Quang Huy quê Phú Yên và tôi không nỡ không thức dậy thắp ngọn đèn khuya để đối thoại thầm lặng với đêm thiêng. Nguyễn Quang Huy viết:

Em đọc Yersin, người chữa trị dịch hạch và thổ tả, vào những buổi sáng ở cao nguyên Lâm Viên, lòng vô cùng ngưỡng mộ về vị bác sĩ danh tiếng này. Từ một chuyên gia trong lĩnh vực vi trùng, lại bỏ áo bluse để trở thành một thủy thủ vì sau một chuyến công tác đã “lần đầu tiên thấy biển”. Rồi khi trở thành thủy thủ lại một lần nữa từ bỏ những con sóng để khám phá ra cao nguyên Lâm Viên vì “nhìn thấy những đám mây trên rặng núi của Khánh Vĩnh chưa có ai khám phá”. Thế rồi sau những chuyến phiêu lưu lại trở thành một chuyên gia nông học, chủ đồn điền để lại cho người Việt biết bao lợi ích vì những công hiến của mình. Từ đồn điền rộng 500ha ông lại lui vè với mảnh đất mấy mét vuông với tấm bia mộ khiêm tốn ở Suối Dầu, để lại cho đời hình ảnh về một con người phi thường, một người không có cha nhưng đã đi xa hơn những giới hạn mà những người cha có thể đạt tới.

Theo mô tả của Patrick Deville thì Yersin suốt đời theo đuổi cái hiện đại nhất, em lại nhớ tới lời dạy của thầy Hoàng Kim rằng trong nghiên cứu khoa học phải mang về những thông tin số liệu mới nhất của thế giới, giống tốt nhất để phục vụ cho bà con. Em ngưỡng mộ cách thiết kế bài giảng của Thầy, thể hiện được sự tôn trọng khoa học và yêu nghề lớn lao.

Em chưa đến được viện Passteur cũng như đến Suối Dầu thăm mộ của bác sĩ Yersin, nhưng em có cảm giác một sự đồng điệu ghê gớm với con người của thế kỉ trước này. Em cũng đã ghé thăm trường Lycée Yersin (đã đổi tên thành Cao Đẳng Sư Phạm) hay Đại học Yersin nhưng chưa tìm thấy dấu ấn nào. Mong rằng có dịp sẽ đến được Suối Dầu Nha Trang để thắp một nén nhang và tưởng nhớ về một con người vĩ đại.

Cảm ơn Thầy ạ.”

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nha-trang-va-yersin.jpg

Ông Năm Yersin không phải là người Việt nhưng ông được mọi người Việt mọi thời yêu quý, tôn kính, ngưỡng mộ. Ông thật hạnh phúc.

Đất lành bác Năm Yersin như cuốn sách kỳ diệu “vừng ơi mở ra”.
Nha Trang và Yersin, đất lành chim đậu, người hiền đến ở.
Nơi đây an nhiên một CON NGƯỜI.

Hoàng Kim

Video yêu thích
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim  Ngọc Phương Nam  Thung dung  Dạy và học  CNM365 Tình yêu cuộc sống Cây Lương thực  Dạy và Học  Kim on LinkedIn KimYouTube Kim on Facebook Kim on Twitter


THĂM ÔNG NĂM YERSIN

Mộ Alexandre Yersin (1863-1943) tại Suối Dầu, Nha Trang, Việt Nam




Bài viết mới:








Conquering yourself is the greatest feat [Plato (Plátōn), the Greek philosopher]
Tự chinh phục mình là chiến công vĩ đại nhất.

BIẾT MÌNH VÀ BIẾT NGƯỜI Trần Việt Quân Nhân Tướng: Xem Mặt Biết Cuộc Đời/ Người Trí Tuệ Hình Tướng/ Bình An Trước Nghịch Cảnh/ Đất Xấu Thành Đất Hợp/ Phong Thủy Chớ Cưỡng Cầu/ Nghiệp Nhân Quả Tạo Phước/ Nghiệp Tâm Ý Duyên Lành/ Giới Định Tuệ Đặt Tên/ Nhân Tướng Học Biết Mình/ Nhân Tướng Học Hiểu Người/ Quý Tướng Dạy Và Học/ Tâm Tướng Ích Lợi Nhiều/ https://hoangkimlong.wordpress.com/category/biet-minh-va-biet-nguoihttps://khatkhaoxanh.wordpress.com/category/nhung-trang-van-doc-lai/

Sắn Việt và Sắn Thái

SẮN VIỆT VÀ SẮN THÁI
#Vietcassava and Thaicassava

Chuyện giống sắn năm 2024
II
Thao thức nhịp thời gian
Sắn Việt và Sắn Thái
Nông nghiệp Việt trăm năm
IAS đường tới trăm năm

I
Chuyện giống sắn năm 1995 (*)

Thao thức
Đêm nay đêm 12
Khoảnh khắc thời gian trầm lắng
Chút nữa là 13
Phút chuyển mình rất chậm.


Mọi người giờ này chắc đã ngủ say
Có ai đó còn thao thức?
Bản tin tiếng Anh cuối ngày
Điệu múa lân bang dìu dặt…
xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/san-viet-va-san-thai


Vietnamese cassava today; see more Vietnamese cassava varieties progression across 50 years Giống sắn Việt Nam phát triển qua 50 năm. Tiến bộ giống sắn Việt Nam https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tien-bo-giong-san-viet-nam ; Vietnammese Cassava Today https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietnamese-cassava-today

BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN SẮN
Sán Việt Nam ngày nay. Giống sắn Việt Nam phát triển qua 50 năm. Vietnamese cassava today Vietnamese cassava varieties progression across 50 years; see more

see more https://vietnamscience.vjst.vn/index.php/vjste/article/view/1186 & https://vietnamscience.vjst.vn/index.php/vjste/article/view/1186/441 & https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-19-thang-3/

  • Long Hoang*
  • Mai T.T. Nguyen
  • Doan. N.Q. Nguyen
  • Kim Hoang
  • Clair Hershey
  • Reinhardt Howeler

Abstract

Vietnamese cassava varieties constitute the fundamental and pivotal element in the sustainable development programme for cassava. This article aims to encapsulate the advancements made over nearly five decades in breeding and enhancing Vietnamese cassava varieties. It delineates the suitable cassava variety structures for each period and ecological region. The selection of cassava varieties exhibiting high starch yield and disease resistance, coupled with the establishment of a suitable and efficient cassava cultivation model, exemplified by 10T for Vietnamese cassava varieties KM568, KM539, KM537, KM569, and KM94, stands as a cornerstone for sustaining cassava development over the years. Presently, we advocate for farmers to cultivate promising cassava varieties such as KM568 or KM539 (an enhanced version of the International Center for Tropical Agriculture (CIAT) cassava variety C39, refined through multiple breeding cycles from 2004 onwards), KM537, KM569, or HN1 (originally known as TMEB419), alongside popular cassava varieties: KM440, KM419, KM94, KM7, STB1, KM414, KM98-7, KM140, KM98-5, KM98-1. We have conducted Distinctness, Uniformity, and Stability (DUS) and Value for Cultivation and Use (VCU) tests, showcasing outstanding cassava varieties in large-scale farming, thereby providing compelling evidence for the prudent conservation and sustainable development of cassava. Vietnamese cassava progression (1975 to date) has traversed six stages, with five waves of restructuring cassava varieties, aligning with target orientations, farming conditions, and market demands, culminating in 16 popular cassava varieties and four promising cassava varieties KM568, KM539, KM537, and KM569.

Keywords:

Cassava varieties, Distinctness, Uniformity, and Stability (DUS) and Value for Cultivation and Use (VCU), progression, Vietnam

DOI:

https://doi.org/10.31276/VJSTE.66(1).59-76

Classification number

3.1

Author Biographies

Long Hoang

Faculty of Agronomy, Nong Lam University – Ho Chi Minh City, Quarter 6, Linh Trung Ward, Thu Duc City, Ho Chi Minh City, Vietnam

Mai T.T. Nguyen

Department of Agriculture and Rural Development of Phu Yen Province, 64 Le Duan Street, Tuy Hoa City, Phu Yen Province, Vietnam

Doan. N.Q. Nguyen

Faculty of Economics, Phu Yen University, 18 Tran Phu Street, Ward 7, Tuy Hoa City, Phu Yen Province, Vietnam

Kim Hoang

Faculty of Agronomy, Nong Lam University – Ho Chi Minh City, Quarter 6, Linh Trung Ward, Thu Duc City, Ho Chi Minh City, Vietnam

Vietnam National Cassava Program (VNCP), 121 Nguyen Binh Khiem Street, Dakao Ward, District 1, Ho Chi Minh City, Vietnam

Clair Hershey

International Center for Tropical Agriculture (CIAT), Kilometro 17, Straight Cali – Palmira, Apartado Aéreo 6713, Cali, Colombia

Reinhardt Howeler

International Center for Tropical Agriculture (CIAT), Kilometro 17, Straight Cali – Palmira, Apartado Aéreo 6713, Cali, Colombia

Downloads

Published

2024-03-15

Received 22 October 2023; revised 20 November 2023; accepted 15 February 2024

How to Cite

Long Hoang, Mai T.T. Nguyen, Doan. N.Q. Nguyen, Kim Hoang, Clair Hershey, & Reinhardt Howeler. (2024). Vietnamese cassava varieties progression across 50 years. Vietnam Journal of Science, Technology and Engineering, 66(1), 59-76. https://doi.org/10.31276/VJSTE.66(1).59-76

Issue

Vol. 66 No. 1 (2024)

Sec

Vietnamese cassava varieties progression across 50 years
Giống sắn Việt Nam phát triển qua 50 năm
SẮN VIỆT NAM BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Vietnamese cassava varieties progression across 50 years
. Greeting from Hoang Kim Vietnam to Reinhardt Howeler and my teachers and friends. Best wish to you and your family on New Days; Good friends are hard to find, harder to leave, and impossible to forget, see moresee more https://vietnamscience.vjst.vn/index.php/vjste/article/view/1186 & https://vietnamscience.vjst.vn/index.php/vjste/article/view/1186/441 and https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietnamese-cassava-today — with Hoang Long, Nguyen Thi Truc Mai, Nguyen Nu Quynh Doan, Clair Hershey, and Reinhardt Howeler.

Welcome to read ….

Article Sidebar

Ngày xuất bản: 26-02-2024

DOI: 10.52997/jad.1.01.2024

Trích dẫn

Nguyễn, M. T. T., Hoàng, L., Nguyễn, Đoan N. Q., & Hoàng, K. (2024). Kết quả chọn tạo và khảo nghiệm các giống sắn triển vọng KM568, KM539, KM537 tại tỉnh Phú Yên. Tạp Chí Nông nghiệp Và Phát triển 23 (1), 1-13.

Số tạp chí

Tập 23 – Số 1 (2024)

Chuyên mục

Nông học, Lâm Nghiệp

Main Article Content

Tóm tắt

Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh chính, phù hợp với điều kiện sản xuất của tỉnh Phú Yên là quan trọng và cấp bách. Mục tiêu nhằm chọn tạo được giống sắn có năng suất tinh bột cao (vượt hơn đối chứng KM419 và KM94 tối thiểu 10%), kháng được sâu bệnh chính, điểm bệnh cấp 1 – 2 đối với bệnh khảm lá (CMD) và bệnh chồi rồng (CWBD). Phương pháp nghiên cứu thực hiện theo chuẩn của Chương trình sắn Việt Nam và Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới quốc tế (CIAT) về quy trình công nghệ chọn tạo và nhân giống sắn lai. Kết quả đã tuyển chọn được ba giống sắn triển vọng KM568, KM539 và KM537. Giống sắn KM568 con lai của KM440 x (KM419 x KM539), có năng suất củ tươi 54 tấn/ha với hàm lượng tinh bột 28,4% lúc 10 tháng sau trồng. Giống sắn KM539 là C39* chọn lọc của C39 nhập nội từ CIAT và có năng suất củ tươi 45,9 tấn/ha với hàm lượng tinh bột 27,9%. Giống sắn KM537 là con lai của (KM419 x KM539) x KM440, có năng suất củ tươi 51,3 tấn/ha với hàm lượng tinh bột 28,5%. Cả 3 giống này đều kháng bệnh CMD cấp 1,5 và kháng bệnh CWBD cấp 1. KM568, KM539 và KM537 lần lượt có 8 – 14 củ/bụi, 7 – 12 củ/bụi và 7 – 12 củ/bụi. Tất cả các giống này đều đạt kiểu hình cây lý tưởng, thịt củ trắng, cây thẳng, tán gọn, lóng ngắn và ít phân cành. Ngoài ra, chiều cao cây của KM568, KM539 và KM537 lần lượt là 2,3 – 2,7 m, 2,7 – 3,0 m và 2,5 – 2,9 m.

Từ khóa: DUS và VCU, Giống sắn, KM568, KM539, KM537

Article Details

Tài liệu tham khảo

FAO (Food and Agriculture Organization of the United Nations). (2022). FAOSTAT. Rome, Italy: FAO.

Hoang, K. (2003). Technology of cassava breeding. In Ngo, D. T., & Le, Q. H. (Eds.). Varietal technology of plant, animal and forestry (Vol. 2, 95-108). Ha Noi, Vietnam: Agricultural Publishing House.

Hoang, K., Nguyen, B. V., Hoang, L., Nguyen, H. T., Ceballos, H., & Howeler, R. H. (2010). Current situation of cassava in Vietnam. In Howeler, R. H. (Ed.), Proceedings of The 8th Regional Workshop on A New Future for Cassava in Asia: Its Use as Food, Feed, and Fuel to Benefit The Poor (100-112). Vientiane, Lao PDR: International Center for Tropical Agriculture (CIAT) and the National Agriculture and Forestry Research Institute (NAFRI). Retrieved February 15, 2022, from http://ciat-library.ciat.cgiar.org/Articulos_Ciat/biblioteca/A_new_future_for_Cassava_in_Asia_Its_use_a_food_freed_and_fuel_to_benefit_the_poor-compressed.pdf.

Hoang, K., Nguyen, M. T. T., Nguyen, M. B., & Howeler, R. H. (2011). Cassava conservation and sustainable development in Vietnam. In Howeler, R. H. (Ed.), Proceedings of The 9th Regional Workshop on Sustainable Cassava Production in Asia for Multiple Uses and for Multiple Markets (35-56). Guangxi, China: International Center for Tropical Agriculture (CIAT) and the Chinese Cassava Agrotechnology Research System (CCARS). Retrieved April 20, 2022, from http://ciatlibrary.ciat.cgiar.org/Articulos_Ciat/biblioteca/Sustainable_cassava_production_in_Asia_for_multiple_uses_and_for_multiple_markets.pdf

Hoang, L., Nguyen, M. T. T., Nguyen, M. B., Hoang, K., Ishitani, M., & Howeler, R. H. (2014). Cassava in Vietnam: production and research; an overview. In Howeler, R. H. (Ed.), Proceedings of Asia Cassava Research Workshop (15). Ha Noi, Vietnam: ILCMB- CIAT-VAAS/AGI.

Howeler, R. H. (2011). Proceedings of the 9th regional workshop on sustainable cassava production in Asia for multiple uses and for multiple markets. Retrieved April 20, 2022, from http://ciatlibrary.ciat.cgiar.org/Articulos_Ciat/biblioteca/Sustainable_cassava_production_in_Asia_for_multiple_uses_and_for_multiple_markets.pdf

Howeler, R. H., & Aye, T. M. (2014). Sustainable management of cassava in Asia – From research to practice. Ha Noi, Vietnam: News Publishing House.

MARD (Ministry of Agriculture and Rural Development). (2022). Report on production situation and directing the prevention of harmful organisms on cassava. Gia Lai, Vietnam: MARD and People’s Committee of Gia Lai Province.

Nguyen, M. B. (2018). Research on cultural techniques to scatter harvest season for cassava in Dak Lak province (Unpublished doctoral dissertation). Tay Nguyen University, Dak Lak, Vietnam.

Nguyen, M. T. T. (2017). Study on the selection of high yielding cassava varieties and intensive cultivation techniques in Phu Yen province (Unpublished doctoral dissertation). University of Agriculture and Forestry, Hue University, Hue, Vietnam.

Nguyen, M. T. T., Hoang, L., Nguyen, D. N. Q., & Hoang, K. (2021). Phu Yen cassava solutions for sustainable development. Phu Yen, Vietnam: Phu Yen Provincial People’s Committee.

Nguyen, V. A., Le, T. N., Nguyen, H., Do, T. T., Nguyen, H. T., Pham, H. T. T., Nguyen, H. T., Seki, M., & Le, H. H. (2021). Characterization of some popular cassava varieties in Vietnam. Journal of Vietnam Agricultural Science and Technology 3(124), 1-17.

Tran, Q. N., Hoang, K., Vo, T. V., & Kawano, K. (1995). Selection results of the new cassava varieties KM60, KM94, KM95 and SM937-26. In Proceedings of Vietnam Agricultural Research Workshop. Lam Dong, Vietnam: Ministry of Agriculture and Rural Development.

VNA (Vietnam National Assembly). (2018). Law No. 31/2018/QH14 dated on November 19, 2018. Law on crop production. Retrieved May 24, 2022, from https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Luat-Trong-trot-2018-336355.aspx.

VNFU (Central Vietnam Farmer’s Union). (2021). New rural magazine – Farmer’s scientist links take off together. Ho Chi Minh City, Vietnam: Youth Publishing House.

Bảo tồn và phát triển sắn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien/ & Hồ Long Vân Nhớ Người https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ho-long-van-nho-nguoi/ & Biển Hồ Chùa Bửu Minh, Nghĩa Hưng, Chư Păh, Gia Lai https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bien-ho-chua-buu-minh/. Thông tin tích hợp tại TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM #htn, #hoangkimlong, #Vietcassava #BanMai, #vietnamxahoihoc, #htn365, #ana, #dayvahoc, #vietnamhoc, #cnm365, #cltvn https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-3-thang-12/

CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM
#cltvn #Vietcassava tích hợp thông tin Phú Yên Online I Kết quả bước đầu trong chọn tạo giống sắn kháng bệnh xem tiếp tin và ảnh tại https://baophuyen.vn/79/310545/ket-qua-buoc-dau-trong-chon-tao-giong-san-moi-khang-benh.html

Đề tài khoa hc, công ngh cp tnh Nghiên cu chn to ging sn năng sut tinh bt cao, kháng được sâu bnh hi chính, phù hp vi điu kin sn xut ti tnh Phú Yên đang nhn được s quan tâm ca ngành Nông nghip, h dân trng sn và m ra nhiu trin vng cho cây sn Phú Yên.

Đài Truyền Hình Phú Yên Khoa học và Cuộc sống tháng 11/2023 “Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên” https://youtu.be/gZZk9OL_4fg

#Vietcassava Sắn Việt Nam ngày nay

Lời tri ân Viện Trường quý thầy cô người thân bà con nông dân và bạn hữu nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam: “Bao năm Trường Viện là nhà. Lúa ngô khoai sắn đều là thịt xương. Một đời người một rừng cây. Thầy ươm giống tốt để mai thành rừng”

#Vietcassava Phu Yen 18 11 2023

KM568 năng suất tinh bột cao kháng cao CMD CWBD cây và cũ kiểu hình lý tưởng

KM569 ăn ngon ruột vàng kháng khá CMD CWBD với KM568 năng suất tinh bột cao kháng cao CMD CWBD củ và cây chuẩn được lão Nông chấp nhận tuyển chọn

KM539 năng suất bột cao kháng cao CMD CWBD tuyển chọn dạng cây thấp ít phân nhánh

Giống sắn HN1 năng suất tinh bột cao, kháng cao CMD CWBD nhưng nhược điểm cao cây dễ đổ ngã

#vietcassava Phú Yên giống sắn mới Giống sắn vàng Phú Yên KM569

SẮN VIỆT NAM VÀ HOWELER
Hoàng Kim

Sắn Việt Nam và Reinhardt Howeler là bài học lớn. Nhà khoa học danh tiếng này là người bạn lớn của nông dân trồng sắn Thế giới, châu Á và Việt Nam. Ông đã dành trọn đời mình cho cây sắn, đúc kết trên 15 sách sắn chuyên khảo. Bạn tốt khó tìm, khó bỏ lại, và không thể quên lãng (Good friends are hard to find, harder to leave, and impossible to forget) see more xem tiếp. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/san-viet-nam-va-howeler/ — với Reinhardt Howeler.

Banyat Vankeaw Greate picture of Dr.Howeler from Dr.Kim. We never see picture like this form him, and most of his pictue only with cassava.

Nhiều vấn đề nông nghiệp Brazil đang được tỉnh táo nhìn lại sau 500 năm, gợi cho Việt Nam những góc nhìn tham chiếu về bảo tồn và phát triển nông nghiệp bền vững. Đó là “Kiệt tác của tâm hồn”.

Thật may mắn khi gặp được kiệt tác của tâm hồn khai mở hạnh phúc lòng ta tỉnh lặng và yêu thương hơn.

Con Đường Sắn Việt Nam
Sắn Việt Nam và Howeler

Reinhardt Howeler Thanks Khun Banyat. This picture was taken about two years ago when I went to visit Dr. Hershey at his house in Pensylvania. We went on a short boat ride. Great fun! Being retired since 2009, life is now very relaxing. Unfortunately, no cassava in California.

Kim Hoàng Respectfully greet Professor Reinhardt Howeler

Greetings from Hoang Kim Vietnam and Vietnamese friends. We are Vietnamese, our heads are in the Vietnamese sky, our feet are in the Vietnamese land, our souls are windy with success and Vietnamese culture. It is truly respectful and imitating the humanitarian hearts for the people like Him, like Dr. Kazuo Kawano, like A.Yersin, like Norman Borlaug. Those are great lessons. Lifelong lessons.

The Teacher’s words are very profound: “In life, a person must at least eat, followed by study, work, housing, clothing and health care. There are many unhappy lives around us. The danger of poverty still flares up at any time. Always remember that”; “Reach for the stars. Even if we can’t touch it, if we try our best, we can at least touch the dust particles of the star”; “The main things in human life are only a few. Concentrate and don’t worry about God’s problems. Blessed to spend a lifetime doing good deeds. The legacy will always shine forever.” https://hoangkimlong.wordpress.com/category/san-viet-dat-ong-hoang/ and https://hoangkimlong.wordpress.com/category/loi-thay-dan-thung-dung/

Cach Cach Nguyen So nice to see Dr. Howeler – great friends and cassava teacher of me and famers in the World

CHUYỂN MÙA

Đông tàn, xuân đến tiếp sau
Ngẫm xem thế sự, thấm đau nhân tình
Người lành ưa thích lặng thinh
Đồng xuân, đường sáng, giữ mình #annhiên

Thầy tôi đúng một người hiền
Du sơn ngoạn thủy, thiện lành #thungdung
Đời Người bia miệng anh linh
Trong lòng dân chúng, ân tình nước non.

Thời thầy em, ít doanh nhân
Dấn thân người lính, mình gần yêu thương
Ngày nay thương trường chiến trường
Vẫn là dân quý con đường ấm no

Best wish regards to Reinhardt Howeler. (Reinhardt is traveling through the mountains and water with his close friends). see more Đời Doanh Nhân Trần Tiến và https://hoangkimlong.wordpress.com/category/san-viet-nam-va-howeler/

Welcome to read ….

Tay Ninh Cassava Workshop 04-08 October 2023 Establishing Sustainable Solution to Cassava Disease in Mainland Southeast Asia. Project Review and Research Symposium, see more Vietnamese cassava today https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietnamese-cassava-today/

Dự án thiết lập các giải pháp bền vững xử lý sâu bệnh hại khoai mì khu vực Đông Nam Á:

Chọn tạo được 6 giống mì kháng bệnh khảm lá  Cập nhật ngày: 05/10/2023 – 08:38

BTNO – Sáng 4.10, UBND tỉnh Tây Ninh tổ chức hội nghị tổng kết Dự án thiết lập các giải pháp bền vững xử lý sâu bệnh hại khoai mì (sắn) khu vực Đông Nam Á.
(Nguồn: Báo Tây Ninh: https://baotayninh.vn/chon-tao-duoc-6-giong-mi-khang-benh-kham-la-a164224.html) tích hợp thông tin tại Vietnamese cassava today https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietnamese-cassava-today/

Ông Trần Văn Chiến – Phó Chủ tịch UBND tỉnh phát biểu tại hội nghị.

Dự hội nghị có ông Lê Văn Thiệt- Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật; ông Trịnh Xuân Hoạt- Phó Viện trưởng Viện Di truyền thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT); đại diện Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp quốc tế Úc (ACIAR), đơn vị tài trợ dự án; Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT), chuyên gia nông nghiệp các nước Campuchia, Lào, Indonesia, Philippines, và một quốc gia châu Phi.

Về phía Tây Ninh có ông Trần Văn Chiến- Phó Chủ tịch UBND tỉnh; ông Nguyễn Đình Xuân – Giám đốc Sở NN&PTNT và nông dân trồng mì trên địa bàn tỉnh.

Phát biểu tại hội nghị, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Trần Văn Chiến cho biết, dự án Thiết lập các giải pháp xử lý bệnh hại trên cây mì tại các nước khu vực Đông Nam Á do ACIAR tài trợ, thực hiện trong giai đoạn 2019 – 2023, có sự tham gia của Trung tâm Nghiên cứu thực nghiệm nông nghiệp Hưng Lộc, Viện Di truyền nông nghiệp, Viện Bảo vệ thực vật và Sở NN&PTNT Tây Ninh. Dự án nghiên cứu, khảo nghiệm và đánh giá một số giống mì tiềm năng có khả năng kháng bệnh phù hợp với điều kiện tự nhiên của khu vực Đông Nam bộ. Kết quả bước đầu của dự án chọn tạo được 6 giống mì kháng bệnh khảm lá, gồm: HN1, HN3, HN5, HN36, HN80, HN97.

Ông Trần Văn Chiến hy vọng trong thời gian tới, Trung tâm ACIAR và CIAT sẽ tiếp tục hỗ trợ nghiên cứu và phát triển lĩnh vực nông nghiệp nông thôn trên địa bàn tỉnh; đồng thời, phối hợp triển khai có hiệu quả trong lĩnh vực nghiên cứu, lai tạo, trồng khảo nghiệm và sản xuất các giống mì mới sạch bệnh cho năng suất, hàm lượng tinh bột cao, có khả năng thích ứng tốt với điều kiện canh tác tại Tây Ninh.

Ông Jonathan Newby – Giám đốc Chương trình sắn Quốc tế, Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT) trao đổi với ông Bùi Công Ngọc-(người được chuyển giao thí điểm nhân giống mì kháng khảm).

Ông Nguyễn Đình Xuân – Giám đốc Sở NN&PTNT Tây Ninh cho biết, diện tích trồng mì hàng năm của tỉnh khoảng 60.000 ha, tập trung tại các huyện Tân Châu, Tân Biên, Châu Thành và Dương Minh Châu. Năng suất trung bình từ 33 – 35 tấn/ha (cao gấp 1,7 lần năng suất trung bình của cả nước), chiếm 10% diện tích và 20% tổng sản lượng, đóng góp 50% vào tổng thu nhập quốc gia.

Theo ông Xuân, bệnh khảm lá đã ảnh hưởng đáng kể đến năng suất tinh bột mì, từ 30% -70%. Do đó, việc triển khai dự án thiết lập các giải pháp bền vững xử lý sâu bệnh hại mì khu vực Đông Nam Á giúp tìm ra được nhiều giống mới, kháng được bệnh, năng suất cao hơn đáng kể so với các giống được trồng phổ biến trước đây.

Ông Jonathan Newby- Giám đốc Chương trình sắn quốc tế, Trung tâm CIAT cho biết, kết quả dự án cho thấy việc trồng trọt bằng nguồn giống sạch sẽ cho năng suất củ tươi và hàm lượng tinh bột cao hơn đáng kể đối với tất cả các giống được thử nghiệm. “Chúng tôi đang trong giai đoạn đàm phán cuối cùng để thành lập Trung tâm Nghiên cứu sắn ở tỉnh Tây Ninh, có sự tham gia của nhà nước, doanh nghiệp và các nhà đầu tư nghiên cứu”- ông Jonathan Newby nói thêm.

Nông dân tham gia khảo sát bất ngờ về bộ củ của cây mì HN1.

Tại hội nghị, UBND tỉnh ký kết biên bản thoả thuận hợp tác với Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT) giai đoạn 2024 – 2028. Theo đó, hai bên thống nhất thành lập một ban điều hành bao gồm các thành viên của CIAT, UBND tỉnh Tây Ninh, đại diện của các doanh nghiệp nhằm hỗ trợ và điều phối các hoạt động nghiên cứu tại địa phương trong giai đoạn 2024-2028.

Minh Dương

GIỐNG SÁN TỐT PHÚ YÊN
Các giống sắn mới triển vọng KM568, KM539, KM537, KM569 kết quả chọn tạo khảo nghiệm tại tỉnh Phú Yên https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san

Fwd: FOOD CROPS: Current situation of cassava in Vietnam and the breeding of improved cultivars

Từ: hoangkim vietnam <hoangkim.vietnam@gmail.com>
Ngày: 20 thg 9, 2023 lúc 04:19
Chủ đề: Re: FOOD CROPS: Current situation of cassava in Vietnam and the breeding of improved cultivars
Tới: CLAIR HERSHEY <clair.hershey@gmail.com>
CC: <hoangkim@hcmuaf.edu.vn>, <hoangkim_vietnam@yahoo.com>Inbox

Dear Clair Hershey .This is interesting. Thank you very much for your information. We will sending to you soon. Best wish regard. Your sincerely. Hoang Kim 

Vào Thứ 4, 20 thg 9, 2023 lúc 00:33 CLAIR HERSHEY <clair.hershey@gmail.com> đã viết:

Dear Hoang Kim,

It has been quite a long time since we have been in contact. I hope you are doing very well. I see your occasional posts on Facebook and elsewhere, and continued work on cassava.

I retired from CIAT in 2016, but continue to collaborate with them on some projects. Currently I am writing a history of the CIAT cassava genebank since its first establishment in 1969. 

One of the topics included in the report is the cassava core collection. I am trying to gather information about all the evaluations done on the core collection.

In my searches, I came across the paper you and colleagues wrote, and re-published as a blog spot in 2010, which I have attached here. 

I note that in the paragraph just before Table 8, you refer to evaluating cassava varieties for ethanol production from the CIAT core collection that is held in Vietnam. It seems that the current CIAT staff in Asia does not have information about this. Can you please possibly provide me with a few details? Did you introduce the core collection from CIAT Colombia or from Thailand? Is the evaluation data available in any publication? 

Thank you very much in advance for any information about this. I will appreciate it very much.

With very best wishes,

http://foodcrops.blogspot.com/2010/05/current-situation-of-cassava-in-vietnam.html

see more: https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/ and https://cnm365-wordpress,com/category/cnm365-cltvn-20-thang-9

SanPhuYen1

SẮN VIỆT VÀ SẮN THÁI

Sắn Việt và sắn Thái
Sắn Việt Nam ngày nay

Thái Lan nhiều bạn quý
Tiến bộ giống sắn Việt Nam

Vietnamese cassava and Thai cassava;
Good friends are hard to find, hard to leave behind and impossible to forget. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/san-viet-va-san-thai/; Vietnamese cassava today https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietnamese-cassava-today/

พันธุ์พืชเราต้องสร้างเอง การผลิตต้นพันธุ์สะอาด ปลอดโรคใบด่างมันสำปะหลัง อย่างไร| มองโลกมองเกษตร ep12 (We have to create our own plants. clean seed production How to get rid of cassava leaf spot disease | Look at the world, look at agriculture ep12 Chúng ta phải tạo ra những cây trồng của riêng mình. sản xuất giống sắn sạch https://youtu.be/08sjalG1GNk)

Cassava and Vietnam: Now and Then (Sắn và Việt Nam: bây giờ và sau đó) giáo sư tiến sĩ Kazuo Kawano, người Nhật, chuyên gia chọn giống sắn hàng đầu Thế giới, và các thành viên Hãng phim NHK Nhật Bản đã kể lại hình ảnh đột phá “Cách mạng sắn ở Việt Nam”: Hai giống sắn chủ lực KM419 và KM94 tại hai tỉnh Đồng Nai và Tây Ninh năm 2009 đã đạt năng suất bình quân toàn tỉnh 27-30 tấn/ ha, gấp ba lần năng suất sắn trước năm 2000 https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cassava-and-vietnam-now-and-then

Sắn Việt Nam bảo tồn và phát triển bền vững (Cassava Conservation and Sustainable Development in Viet Nam) đã đạt những kết quả ngoạn mục trong các thử nghiệm được tổ chức tại Tây Ninh, Phú Yên, Đắk Lắk, Đồng Nai, nơi mà nông dân sử dụng các công nghệ và phương pháp cải tiến tăng năng suất sắn từ 8,5 tấn / ha (năm 2000) lên 36 tấn / ha (năm 2015) , một sự gia tăng năng suất hơn 400 phần trăm (Hoàng Kim, Reinhardt Howeler, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Bạch Mai 2015).Thông tin và hình ảnh tại đây

Sách vàng nghề sắn: Sản xuất sắn bền vững ở châu Á đối với nhiều mục đích sử dụng và cho nhiều thị trường Reihardt Howeler (biên tập) và nhiều tác giả. CIAT 2015. (tại đây)

THAO THỨC NHỊP THỜI GIAN
Hoàng Kim

I
Chuyện giống sắn năm 1995 (*)

Thao thức
Đêm nay đêm 12
Khoảnh khắc thời gian trầm lắng
Chút nữa là 13
Phút chuyển mình rất chậm.

Mọi người giờ này chắc đã ngủ say
Có ai đó còn thao thức?
Bản tin tiếng Anh cuối ngày
Điệu múa lân bang dìu dặt…

Ngày mai trở về Tổ Quốc
Đêm nay là đêm cuối cùng
Đi một ngày đàng học một sàng khôn
Buổi tối đi xa, ai nỡ ngủ.

Nghe thêm một bản tin thời sự
Lắng đọng thêm bài học nước ngoài
Tách trà đậm và say
Đêm nay khó ngủ.

Lặng nhìn qua của sổ
Ánh điện và ánh sao trời sáng lung linh
Đêm Thái Lan xáo động xô bồ và bình yên
Tội lỗi và thánh thiện.

Vẩn vơ nghĩ về số đếm
Mỉm cười con số 13
Là rủi , là may, là đến, hay đi
Thời gian không trở lại

Ai ơi đừng quên
Thời gian không trở lại.

Thời gian không trở lại bao giờ !
Phải sống hết lòng
và biết ước mơ
Cuộc sống là mỗi ngày cộng lại.

Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là cassavaviet-friends-and-me.jpg
Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là thai-lan-nhieu-ban-quy-10.jpg

Sakol Chaisri 30 6 2020

II
Chuyện giống sắn năm 2020 (**)
Hoàng Kim với Casava Kasetnakkak

Tôi muốn liên hệ để mua giống
Từ Thầy Hoàng Kim
Để phát triển loài
Mỗi mẫu giống là một loài như sau.
KM419
KM101
HLS10
HLS11
Sa21-12
Sa60
Hoặc có thể trao đổi với loài của tôi Làm ơn
Tôi chỉ là một nông dân bình thường, không biết mua ở đâu?.

Tháng hai
Tháng mơ mộng !
Một cái khác cũng ấm áp như vậy,
càng gần tới đích, càng nhiều mồ hôi và tiếng thở dốc
với sự khôn ngoan trước đám cháy.
Bạn đã đọc Tháng 2 của Jill Osier rồi chứ?

Tôi không hiểu.
Đây là hình ảnh các loái của Tiến sĩ Piya
mà tôi đã thực hiện sự thử nghiệm


Tôi biết bạn là ai
Tôi dám hỏi loài của bạn.
Tôi đã không học
Nhưng tôi có ý định tạo ra một loài
Tôi lớn lên với sắn.
Tôi muốn tự hỏi mình là một học sinh.
Achan Sean đã nói về bạn nhiều lần.
Anh ấy nói

Bạn là người chọn giống sắn thạo nhất Việt Nam.
Tôi có một chút hiểu biết. Xin hãy dạy tôi.
Tôi không phải là thương gia Y
Bất cứ khi nào tôi nhận được số phù hợp với đất của tôi,

tôi sẽ ngừng làm điều đó.
Tôi dựa vào các ô để thử nghiệm các loài cho nhiều trạm nghiên cứu.
Nếu muốn biết rõ về tôi, hãy hỏi Ajarn Sakol Chaisi.
Cô ấy đã dạy tôi


*

Bạn đã biết rõ tôi là ai
Tôi là Kim
Kim là KM, chữ KIM không có chữ I (không có chữ Tôi)
là nhóm ‘chọn giống sắn Việt Nam’
Chúng tôi đã chuyển đổi KU50 thành KM94,
đã lai tạo và phát triển KM98-1 có cùng chung
nguồn gốc cha mẹ với giống sắn Rayong 72
Chúng tôi đã bảo tồn và phát triển KM419, KM440
để trở thành những giống sắn phổ biến Việt Nam
Khi ấy nhóm ‘chọn giống sắn’ CIAT Thái Lan
và nhóm ‘chọn giống sắn Việt Nam’
cùng làm việc chung với nhau.

Ngày nay, giống sắn của bạn khác giống sắn của tôi
Chúng tôi cũng có ý định tạo ra một giống sắn mới
Chúng tôi cũng lớn lên với sắn
Chúng ta đã không cùng học

*
Nhưng bây giờ bạn bị ốm.
Tiếp theo là nhiệm vụ của tôi nhưng đến muộn.
Mặc dù chúng ta không học cùng nhau,
tôi sẽ kết hợp chúng bằng tay của mình.
Từ bàn tay của người dân làng này, tôi sẽ chỉ cho bạn
Không thành công, tôi không từ bỏ

*
Sắn Việt Nam thao thức
Cách mạng sắn Việt Nam
CassavaViet ACIAR CIAT và bản sắc
KM94 KM419 KM440 KM539 KM568
Việt Nam con đường xanh
Bảo tồn và phát triển

Casava Kasetnakkak , Danai Suparhan những bạn người Thái hãy giúp chuyển thể bài thơ “Sắn Việt Nam thao thức” thành tiếng Thái nhé:

คุณรู้แล้วว่าฉันเป็นใคร
ฉันคือคิม
คิมคือ KM, คิมคือ “ไม่” ฉัน
คือ ‘กลุ่มการเพาะพันธุ์มันสำปะหลัง’
ย้าย KU50 เป็น KM94
อนุรักษ์และพัฒนา KM419, KM440
เข้าถึงมันสำปะหลังมากกว่า 75% ของพื้นที่มันสำปะหลังของเวียดนาม
ในเวลานั้น CIAT ประเทศไทยและเวียดนาม ‘กลุ่มคัดเลือกมันสำปะหลัง’
ทำงานร่วมกัน

วันนี้สายพันธุ์ของคุณแตกต่างจากของฉัน
เราไม่ได้เรียนรู้ด้วยกัน
เราตั้งใจที่จะสร้างสายพันธุ์
เราเติบโตขึ้นมาพร้อมกับมันสำปะหลัง

*
แต่ตอนนี้ท่านไม่สบายต่อไปคือหน้าที่ผมจะต้องสายต่อ
ถึงเราจะไม่ได้เรียนรู้ด้วยกันแต่ผมจะผสานมันให้เข้ากันด้วยมือผม
จากมือชาวบ้านคนนี้ผมจะทำให้คุณดู
ไม่สำเร็จผมไม่เลิกลา

มันสำปะหลังเวียดนามตื่นตัว
การปฏิวัติมันสำปะหลังของเวียดนาม
CassavaViet ACIAR CIAT และตัวตน
KM94 KM419 KM440 KM535 KM568 KM537 KM569
เวียดนามเป็นสีเขียว
การอนุรักษ์และการพัฒนา

xem thêm https://www.facebook.com/messages/t/casava.kasetnakkak

CÁCH MẠNG SẮN VIỆT NAM

Cách mạng sắn Việt Nam (Cassava revolution in Vietnam), là thành tựu và bài học kinh nghiệm quý giá. Ở Việt Nam, sắn là cây lương thực quan trọng thứ ba sau lúa và ngô. Sắn Việt Nam ngày nay là một ngành xuất khẩu đầy triển vọng với diện tích hơn nửa triệu ha và giá trị xuất khẩu hơn một tỷ đô la Mỹ mỗi năm. Cách mạng sắn Việt Nam với sự tham gia của hàng triệu nông dân trồng sắn Việt Nam, đã thực sự đạt được sự chuyển đổi to lớn cây sắn và ngành sắn về năng suất, sản lượng, giá trị sử dụng, hiệu quả kinh tế, thu nhập thực tế, sinh kế, việc làm và bội thu giá trị lao động sống ngành sắn cho hàng triệu người dân trên toàn quốc.

Chương trình Sắn Việt Nam (Viet Nam Cassava Program VNCP) là một địa chỉ xanh và kinh nghiệm quý về sự liên kết chặt chẽ giữa các chuyên gia sắn Việt Nam thầy giáo, cán bộ nghiên cứu, sinh viên, với các chuyên gia quốc tế cùng làm việc chặt chẽ với nông dân xây dựng mô hình điểm trình diễn, để bảo tồn và phát triển sắn bền vững. Bạn tốt khó tìm, khó bỏ lại, và không thể quên lãng (Good friends are hard to find, harder to leave, and impossible to forget).

Bệnh virus khảm lá CMD từ ban đầu Tây Ninh (2017) lan rộng trên 15 tỉnh thành Việt Nam (2018) là thách thức của các nhà khoa học. “V/v sử dụng giống sắn KM419 trong sản xuất” đã được Bộ NNPTNT xác định tại công văn chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn, Cục Bảo vệ Thực vật số 1068/ BVTV ngày 3 tháng 5 năm 2019. Giống sắn KM419 có năng suất tinh bột cao nhất và diện tích trồng phổ biến nhất Việt Nam. Giống sắn KM419 chống chịu trung bình bệnh CMD và bệnh chổi rồng (CWBD), trong điều kiện áp lực 2 bệnh này ở Việt Nam hiện nay là rất cao. Sự cần thiết cấp bách lai tạo KM419 đưa thêm gen kháng bệnh của giống KM539, KM440 (KM94 đột biến); vào giống sắn ưu tú này .

Giống sắn KM419 bìa trái thấp cây, tán gọn, cọng đỏ, chống chịu trung bình với bệnh CMD và CWBD , và các dòng sắn lai ít bệnh CMD và CWBD, so với HLS 11 giữa, cao cây, cọng xanh, nhiễm nặng bệnh CMD

Giải pháp CHỌN TẠO GIỐNG SẮN VIỆT NAM đúc kết thông tin chọn tạo và khảo nghiệm giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng bệnh hại chính, thích hợp điều kiện sản xuất của các vùng trồng sắn chính

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là km98-1-cassava-breeding-in-viet-nam-1.jpg

VIETNAMESE CASSAVA TODAY
Sắn Việt Nam với Hernan Cebanlos
Hoàng Kim

Greeting from Hoang Kim Vietnam to Hernán Ceballos Lascano and my teachers and friends. Best wish to you and your family on New Days; Good friends are hard to find, harder to leave, and impossible to forget see more https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietnamese-cassava-today/ and https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cach-mang-san-viet-nam/ and https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/

SẮN VIỆT NAM BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Hoàng Kim và thầy bạn


Cassava in Vietnam: conservation and sustainable development. Greeting from Hoang Kim Vietnam to Reinhardt Howeler and my teachers and friends. Best wish to you and your family on New Days; Good friends are hard to find, harder to leave, and impossible to forget see more https://hoangkimlong.wordpress.com/category/san-viet-nam-va-howeler/ and https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cach-mang-san-0-viet-nam/ and https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/ — with Nguyen Thi Truc Mai, Hoang Long, Nguyen Bach Mai, Reinhardt Howeler, Mai Van Quyen, Trần Ngọc Ngoạn, Nguyen Minh Hieu, Nguyen Van Bo and Jonathan Newby..

SẮN VIỆT NAM VÀ HOWELER
Hoàng Kim


Sắn Việt Nam và Reinhardt Howeler là bài học lớn. Nhà khoa học danh tiếng này là người bạn lớn của nông dân trồng sắn Thế giới, châu Á và Việt Nam. Ông đã dành trọn đời mình cho cây sắn, đúc kết trên 15 sách sắn chuyên khảo. Bạn tốt khó tìm, khó bỏ lại, và không thể quên lãng (Good friends are hard to find, harder to leave, and impossible to forget) see more xem tiếp. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/san-viet-nam-va-howeler/ — với Reinhardt Howeler.

Sách sắn “Quản lý bền vững sắn châu Á từ nghiên cứu đến thực hành” (Nguyên tác tiếng Anh: Sustainable management of cassava in Asia – From research to practice; tác giả tiến sĩ Reinhardt Howeler và tiến sĩ Tin Maung Aye, CIAT, 2015, 148 trang, CIAT Publication No. 396, chỉ số xuất bản ISBN 978-958-694-136-5), Người chuyển ngữ tiếng Việt  Hoàng Kim, Hoang Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Bạch Mai; CIAT, VAAS, The Nippon Foundation, Nhà xuất bản thông tấn, 2015. Chỉ số xuất bản 9786049450471. PGS TS Trịnh Khắc Quang, Giám đốc VAAS và Tiến sĩ Clair Hershey, Trưởng Chương trình sắn CIAT đã viết lời giới thiệu và lời nói đầu sách này: (trích) ”Công việc tóm tắt trong tài liệu này thay cho những lời khuyên tốt nhất hiện có sau hơn 50 năm kinh nghiệm thực tiễn kết hợp nghiên cứu và làm việc với nông dân để hiểu những thách thức thực tế cuộc sống và cơ hội mà họ phải đối mặt.”.

Sách này có 13 chương. Chúng tôi trích giới thiệu chương 10 và chương 11 trong bài Sắn Việt Nam và Howeler, được sự đồng ý của tiến sĩ Reinhardt Howeler và tiến sĩ Tin Maung Aye, Nội dung Chương 10:”Kết hợp phân bón thương mại, phân chuồng, phân xanh để cải thiện độ phì nhiêu và tăng năng suất sắn” (trang 89-98).Nội dung Chương 11 Cách thức sinh học để tăng năng suất và cải thiện đất (trang 99 -110).

Chọn giống sắn kháng CMD; Chọn giống sắn Việt Nam; Mười kỹ thuật thâm canh sắn; Cách mạng sắn Việt Nam; Sắn Việt Nam và Kawano, Cassava and Vietnam: Now and Then; Sắn Việt Nam và Howeler; Quản lý bền vững sắn châu Á; Sắn Việt Nam sách chọn; CIAT Colombia thật ấn tượng; Sắn Việt Nam bài học quý, Sắn Việt và Sắn Thái; Lúa sắn Cămpuchia và Lào; Lúa sắn Việt Châu Phi; Martin Fregene xa mà gần; Người lính cây sắn tuổi thơ , Sắn Việt Lúa Siêu Xanh

QUẢN LÝ BỀN VỮNG SẮN CHÂU Á
Từ Nghiên cứu đến Thực hành

Tác giả: Reinhardt Howeler và Tin Maung Aye
Người dịch: Hoàng Kim, Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Bạch Mai

LỜI GIỚI THIỆU

Sắn Việt Nam trong vùng sắn châu Á đã tạo được sự đột phá có ý nghĩa toàn cầu. Sắn Việt Nam hiện được FAO (2013) ca ngợi là điển hình của sắn thế giới khi so sánh năm 2000 năng suất sắn Việt Nam đạt 8,35 tấn/ha, gần tương đương với năng suất sắn châu Phi (8,65 tấn/ha) nhưng đến năm 2011 sắn Việt Nam đã đạt năng suất  17,73 tấn/ha, vượt xa năng suất sắn bình quân châu Phi đạt 10,77 tấn/ha và cao hơn hẳn năng suất sắn bình quân châu Mỹ là 12,92 tấn/ha.  Tại Tây Ninh, nhiều hộ nông dân đã tăng năng suất sắn lên 400%, từ 8,35 tấn/ ha lên trên 36,0 tấn / ha. Sắn lát và tinh bột sắn Việt Nam đã trở thành một trong mười mặt hàng xuất khẩu chính. Sắn Việt Nam hiện đã thành nguồn sinh kế, cơ hội xóa đói giảm nghèo và làm giàu của nhiều hộ nông dân và hấp dẫn sự đầu tư của nhiều doanh nghiệp chế biến kinh doanh. Dẫu vậy, sắn Việt Nam cũng bộc lộ nhiều rủi ro, bất cập trong sản xuất, chế biến, kinh doanh và bảo vệ môi trường.

Thay mặt cho Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, tôi vinh dự được viết lời giới thiệu cho cuốn sách “Quản lý bền vững sắn châu Á: Từ nghiên cứu đến thực hành” của tác giả Reinhardt Howeler và Tin Maung Aye, chủ biên dịch Hoàng Kim với sự cộng tác của Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Bạch Mai. Cuốn sách này đúng như lời tác giả “thay cho những lời khuyên tốt nhất hiện có về kỹ thuật canh tác sắn sau hơn 50 năm kinh nghiệm thực tiễn kết hợp nghiên cứu và làm việc với nông dân để thấu hiểu những thách thức thực tế cuộc sống và cơ hội mà họ phải đối mặt”. Mặt khác, cuốn sách cũng là cẩm nang nghề nghiệp cho những người làm công tác nghiên cứu, chỉ đạo sản xuất và hoạch định chính sách về cây sắn, là cầu nối để trao đổi, thảo luận về các vấn đề cùng quan tâm trong quản lý đất và canh tác sắn bền vững ở châu Á.

Kính chúc bà con nông dân những mùa thu hoạch sắn bội thu.

Trịnh Khắc Quang
Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS)

LỜI NÓI ĐẦU

Sắn là một trong những loại cây trồng thích nghi vùng cao phổ biến nhất ở châu Á vì tính linh hoạt của nó trong hệ thống cây trồng, khả năng sản xuất thuận lợi trong điều kiện khó khăn và tính đa dụng cung cấp thực phẩm, thức ăn gia súc, nguồn thu nhập cho hộ nông dân. Mặc dù sắn có tiếng là cây dễ trồng, nó vẫn đòi hỏi phải quản lý tốt để có được năng suất cao qua các năm, đi đôi việc bảo vệ nguồn đất và nước.Thế giới nông nghiệp đang chuyển đổi một cách nhanh chóng và cây sắn cũng không tránh khỏi sự thay đổi này. Một mặt, thị trường sắn và sản phẩm sắn đang tăng trưởng ở một số nước châu Á với khả năng thu lợi nhiều hơn từ cây này. Nhiều giống sắn mới năng suất cao là có giá trị đối với hệ thống sản xuất và sự hiểu biết về quản lý đất và cây trồng tối ưu đã được tăng đều đặn. Đồng thời, vấn đề sâu bệnh cũng trở nên quan trọng và thường ảnh hưởng đến sản lượng cây trồng. Kiểm soát chúng đòi hỏi kiến thức tốt và quản lý cẩn thận. Có nhiều lựa chọn trong hoạt động quản lý cây trồng như chuẩn bị đất, mật độ trồng, quản lý cỏ dại và các công cụ thu hoạch. Việc sản xuất cây giống chất lượng cao (homhạt giống) có lợi thế tiềm năng mà thường không được đánh giá đầy đủ bởi người trồng sắn. Quản lý độ phì đất là thực hành cốt lõi mang lại thành công lâu dài cho nhiều nông dân trồng sắn. Hiểu biết thấu đáo các yếu tố đầu vào và thực hiện những điều đó góp phần tối ưu hóa năng suất, về lâu dài là nền tảng thành công của một người nông dân trồng sắn.

Nhưng kết hợp đúng thực tiễn cần được cụ thể cho mỗi trang trại. Những người nông dân trồng sắn thường không dễ tiếp cận thông tin chuẩn mực về thực hành quản lý tốt nhất. Ở hầu hết các nước, hệ thống khuyến nông cung cấp tư vấn kỹ thuật cho người nông dân trồng sắn không phát triển như đối với cây lúa hoặc cây ngô và thỉnh thoảng còn không có. Các chuyên gia tư vấn thường là cán bộ khuyến nông, các đại diện bán hàng của công ty cung cấp nguyên liệu đầu vào như phân bón hay thuốc trừ sâu, hay các chuyên viên kỹ thuật của các công ty chế biến. Họ thường làm việc với nhiều loại cây trồng và nhiều nông dân, hoặc có thể có các lợi ích thương mại với động cơ mua bán sản phẩm hoặc dịch vụ cụ thể. Hầu hết các công nghệ được phát triển cho sắn được thiết kế thân thiện môi trường, nghĩa là không phụ thuộc vào đầu vào cao của hóa chất hoặc các thực hành bất lợi. Điều quan trọng là công nghệ được phổ biến và phát huy tận dụng mối quan tâm đối với môi trường.

Cuốn sách này nhằm mục đích cung cấp thông tin có cơ sở tốt về quản lý cây sắn để nông hộ thu lợi tối đa và phát triển tốt hơn trong khi vẫn bảo tồn độ phì nhiêu của đất và phát triển bền vững lâu dài. Nó được dựa trên những kinh nghiệm và kết quả nghiên cứu từ nhiều thập kỷ qua, đặc biệt không chỉ ở châu Á mà còn ở châu Phi và châu Mỹ Latinh. Rất nhiều thông tin được phát triển bởi sự tham gia làm việc giữa Trung tâm Quốc tế Nông nghiệp Nhiệt đới (CIAT) – có trụ sở ở Cali, Colombia, và một văn phòng khu vực châu Á, trước đây đặt ở Bangkok, Thái Lan và hiện nay đang đặt ở Hà Nội, Việt Nam – với các tổ chức đối tác trong khu vực. Các đối tác này được đề cập trong tài liệu thông qua hướng dẫn thảo luận các thí nghiệm hoặc công nghệ liên quan. Nhiều nông dân tham gia phát triển ý tưởng và giải pháp trong chương trình nghiên cứu có sự tham gia của nông dân (FPR). Đây là một phần quan trọng trong việc đảm bảo sự phù hợp thực tế của các kết quả.

Cuốn sách được thiết kế cho những người cung cấp tư vấn trực tiếp đến nông dân, cũng như các giáo viên, nhà nông học, sinh viên, cán bộ khuyến nông, đại lý nông sản và công nghiệp chế biến cùng những ai quan tâm đến quản lý đất và cây trồng bền vững đối với sắn ở châu Á. Sách cũng được dùng để cung cấp thông tin tư vấn trực tiếp đến nông dân, những người hiểu biết kỹ thuật canh tác sắn để vận dụng phù hợp với điều kiện cụ thể của mình. Tuy sách chưa có hướng dẩn chi tiết tại trang trại cá nhân nhưng nó là cẩm nang hướng dẫn cho cán bộ khuyến nông và những người làm việc với cộng đồng nông dân để điều chỉnh thích hợp với nhu cầu cụ thể. Chúng tôi mời các đối tác quốc gia sử dụng hướng dẫn này một cách tự do để phát triển các tài liệu bổ sung cho mục đích đào tạo và khuyến nông địa phương.

Các tác giả cuốn sách này là tiến sĩ Reinhardt Howeler và Tin Maung Aye đã làm việc rộng khắp với một loạt các đối tác, các trạm thí nghiệm và trên đồng ruộng của nông dân. Công việc tóm tắt trong tài liệu này thay cho những lời khuyên tốt nhất hiện có sau hơn 50 năm kinh nghiệm thực tiễn kết hợp nghiên cứu và làm việc với nông dân để hiểu những thách thức thực tế cuộc sống và cơ hội mà họ phải đối mặt.

Sách hướng dẫn này sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự hỗ trợ của quỹ Nippon. Những gắn bó hơn hai thập kỷ hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động nghiên cứu, đào tạo và phát triển mạng lưới trên khắp Đông Nam Á. CIAT trân trọng cảm ơn vai trò quan trọng của Quỹ Nippon trong các sáng kiến nghiên cứu phát triển thông tin bao gồm hướng dẫn này, cũng như hỗ trợ biên dịch và sản xuất tài liệu hướng dẫn.

Chương trình sắn CIAT hân hạnh giới thiệu hướng dẫn này để sử dụng trong việc quản lý hệ thống sản xuất trồng sắn nhằm tối ưu hóa lợi ích ngắn và dài hạn cho nông dân cũng như để bảo vệ môi trường.

Clair Hershey

Trưởng Chương trình sắn CIAT

Giới thiệu về tác giả

Reinhardt Howeler

Reinhardt Howeler sinh tại Indonesia nhưng lớn lên ở Hà Lan. Sau khi tốt nghiệp ở Học viện Nông nghiệp Nhiệt đới, ông di cư sang Mỹ tiếp tục nghiên cứu của mình và lấy bằng tiến sĩ về hóa học đất tại Trường Đại học Cornell. Ông tham gia tổ chức CIAT ở Cali, Colombia năm 1970, khi chương trình sắn mới được thành lập năm 1972. Ông tiến hành các thí nghiệm trong nhà kính để xác định nhu cầu dinh dưỡng của cây sắn và làm thế nào để quản lý sắn không bị xói mòn nghiêm trọng. Năm 1986, ông chuyển đến văn phòng CIAT châu Á tại Bangkok, Thái Lan và ở lại đây suốt thời gian 23 năm. Ông đã làm việc chặt chẽ với các nhà nghiên cứu, cán bộ khuyến nông và nông dân trong điều kiện thực tế với tất cả các nước trồng sắn trong khu vực, phát triển các hoạt động quản lý đất và cây trồng tốt hơn, và tăng cường ứng dụng  chúng bằng cách sử dụng phương pháp nghiên cứu có sự tham gia của nông dân (FPR). Kết quả là sản lượng sắn ở châu Á tăng lên đáng kể, cho phép sự gia tăng nhanh chóng của công nghiệp chế biến và sử dụng sắn, tăng cung cầu sử dụng sắn, cải thiện thu nhập và đời sống của nhiều nông hộ trồng sắn. Reinhardt Howeler là chuyên gia sắn nổi tiếng, biên soạn nhiều sách và đã được vinh danh tại Việt Nam (ND).

Tin Maung Aye

Tin Maung Aye đã được sinh ra và lớn lên ở Myanmar, ở đó ông nhận bằng Cử nhân Nông nghiệp của Viện Nông nghiệp Yezin năm 1984. Sau khi làm việc như một trợ lý nghiên cứu trong ba năm ông chuyển đến Thái Lan, nơi ông hoàn thành bằng Thạc sĩ trong hệ thống nông nghiệp ở Viện Công nghệ Châu Á (AIT) tại Bangkok vào năm 1994. Sau khi làm việc ở các vị trí khác nhau tại AIT, ông tham gia nghiên cứu của tổ chức Landcare Ltd. tại New Zealand với tư cách là một nhà phân tích hóa học, và sau đó làm việc như một trợ lý nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Phân bón và Vôi tại Đại học Massey. Ông đã hoàn thành bằng tiến sĩ về khoa học đất từ Đại học Massey ở New Zealand vào năm 2001. Ông đã làm việc cho chương trình sắn CIAT  như một nhà khoa học đất và nông học sắn từ năm 2005, bốn năm đầu tiên ở Lào và sau đó chủ yếu tại Campuchia, Lào, Việt Nam và Myanmar. Ông hiện đang làm việc tại Văn phòng khu vực châu Á-CIAT tại Hà Nội. Trong suốt sự nghiệp của mình, ông đã hoạt động trong nông nghiệp cộng đồng và các tổ chức chuyên nghiệp với mục tiêu hỗ trợ xóa đói giảm nghèo và nâng cao tính bền vững nông nghiệp ở vùng cao ít được ưa chuộng của vùng nhiệt đới châu Á và Thái Bình Dương, đặc biệt ở Đông Nam Á.

SanTheGioivaVietnam

CÁCH MẠNG SẮN VIỆT NAM
Hoàng Kim

Cách mạng sắn Việt Nam https://youtu.be/81aJ5-cGp28 Chọn giống sắn Việt Nam thành tựu và bài học là kinh nghiệm quý giá cho công việc Chọn giống sắn kháng CMD cấp bách hiện nay. Giống sắn KM419 và KM94 với 42% và 37% diện tích sắn Việt Nam với khoảng 50% và 40% diện tích sắn Campuchia, đang được sử dụng để tích hợp các gen kháng vi-rút khảm lá sắn CMD. Giống sắn KM98-1 ( là giống sắn Việt MARD certificate No. 3493/QD-BNN–KHKT, Sep 9, 1999, có cùng nguồn gốc cha mẹ với giống sắn Rayong 72 của Thái Lan),hiện đang được xác định là giống sắn chủ lực ở Lào ngày nay. Ở Việt Nam, sắn là cây lương thực quan trọng thứ ba sau lúa và ngô. Sắn Việt Nam ngày nay là một ngành xuất khẩu đầy triển vọng với diện tích hơn nửa triệu ha và giá trị xuất khẩu hơn một tỷ đô la Mỹ mỗi năm. Cách mạng sắn Việt Nam, với sự tham gia của hàng triệu nông dân trồng sắn Việt Nam, đã thực sự đạt được sự chuyển đổi to lớn cây sắn và ngành sắn về năng suất, sản lượng, giá trị sử dụng, hiệu quả kinh tế, thu nhập thực tế, sinh kế, việc làm và bội thu giá trị lao động sống ngành sắn cho hàng triệu người dân trên toàn quốc.Sắn Việt Nam hôm qua và ngày nay đã và đang tiếp tục làm cuộc cách mạng xanh mới.

Niềm vui được mùa. Năm giống sắn mới ở Phú Yên https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nam-giong-san-moi-tai-phu-yen/

Chương trình Sắn Việt Nam (Viet Nam Cassava Program VNCP) là một địa chỉ xanh của gia đình sắn. Gia đình sắn Việt Nam là một kinh nghiệm quý về sự liên kết chặt chẽ giữa các ‘bạn nhà nông’ chuyên gia nông học, thầy giáo cán bộ nghiên cứu sinh viên, các chuyên gia quốc tế cùng làm việc chặt chẽ với nông dân xây dựng mô hình điểm trình diễn, đó là chìa khóa cho sự bảo tồn và phát triển sắn bền vững. Chúng tôi đã cùng nhau đánh giá giống sắn mới và kỹ thuật thâm canh sắn thích hợp trên ruộng nông dân. Sự hợp tác chặt chẽ đã xâu chuỗi sự thành công bền vững. xem tiếp Cách mạng sắn Việt Nam (The cassava revolution in Vietnam) https://youtu.be/81aJ5-cGp28

CASSAVA AND VIETNAM: NOW AND THEN
Kazuo Kawano

CNM365 Tình yêu cuộc sống Cây Lương thực Việt Nam Cách mạng sắn Việt Nam xin trân trọng giới thiệu phóng sự ảnh: Cassava and Vietnam: Now and Then (Sắn và Việt Nam: bây giờ và sau đó) của giáo sư tiến sĩ Kazuo Kawano, người Nhật, chuyên gia chọn giống sắn hàng đầu Thế giới. Cách mạng sắn Việt Nam là chuyện nhiều năm còn kể. Bạn tốt khó tìm, khó bỏ lại, và không thể quên lãng (Good friends are hard to find, harder to leave, and impossible to forget). https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cach-mang-san-viet-nam/

Cassava and Vietnam: Now and Then

(キャッサバとベトナム-今昔物語)

Kazuo Kawano

I visited Vietnam for a week this last December,  where a team of NHK video-taped for a documentary of the changes caused by the new cassava varieties I introduced 20 years ago in the lives of small framers, the enhanced activities of industrial and business communities and the development of research organizations. It was a most interesting, amusing and rewarding visit where I reunited with a multitude of former small farmers who are more than willing to show me how their living had been improved because of KM-60 and KM-94 (both CIAT-induced varieties) , many “entrepreneurs” who started from a village starch factory, and several former colleagues who became Professor, Vice Rector of Universities, Directors of research centers and so on. Vietnam can be regarded as a country who accomplished the most visible and visual progress most rapidly and efficiently utilizing CIAT-induced technology.

For my own record as well as for responding to the requests from my Vietnamese colleagues, I decided to record the changes and progress that had taken place in Vietnam in general and in cassava varietal development in particular in a series of picture stories. This is the first of long stories that would follow.

昨年の12月に、NHKの国際ドキュメンタリー番組の収録でベトナムを10年ぶりに再訪する機会があった。それは私が中心となって開発したキャッサバの多収性・高澱粉性の新品種群を20年 前に導入した事が引き起こした人々の生活向上の様子を、南から北へと訪ね歩く旅であった。今回の旅では、小農から出発して家を建て中農、富農となった多数 の人々、村の澱粉加工所の親父だったのが大工場のオーナーや実業家となっている幾人もの成功者、そして殆んど名前だけの研究員であったのが今や試験場長、 大学教授、副学長になっている昔の仲間達を訪ね歩いたが、その殆んどの人が私との再会を喜んでくれて、口々に新しいキャッサバ品種のおかげで自分達の生活 と境遇が革命的に良くなったと話してくれた。

私自身の記録のため、それにベトナムの昔の仲間からのリクエストに答える目的もあって、この20年間のベトナムの発展とキャッサバ生産の進展を絵物語風に書き留めることにした。これはその長い物語の始まりの章である。


The basis of Vietnamese agriculture is rice. Cassava is planted on the upper parts.

In flat, dry area, they plant cassava predominantly

Meeting old friends at Hung Loc Agricultural Research Center:Now, Hoang Kim is Senior Lecturer at Nong Lam University in Ho Chi Minh city and Nguyen Huu Hy is Director of Hung Loc Agricultural Research Center

Reunion with advanced farmer Mr. Ho Sau with Hoang Kim and students in Trang Bom, Dong Nai

Reunion with advanced farmer Mr. Tong Quoc Thanh with Hoang Kim in Tay Ninh

Meeting Former Director Truong Van Ho, old colleague Trinh Thi Phuong Loan (Retired as Deputy Director) and other friends at Root Crop Research Center, Vietnam Agricultural Science Institute in Hanoi

Meeting Tran Ngoc Ngoan (Now, Vice-Rector of Thai Nguyen University), Mrs. Loan and Mr. Ngo Trung Kien (an advanced farmer) in Mr. Kien’s house, Pho Yen, Bac Thai

Meeting Mrs. Sau and Mrs. Quyen, successful former cassava farmers, in Hatay, near Hanoi

Giving concluding remarks in the end of Vietnam Journey in Lake Hoan Kiem, Hanoi,
5 Dec 2009

A BRIEF HISTORY OF A SUCCESSFUL BREEDING PROGRAM

As is widely known, Vietnam has accomplished a rapid economic development in  recent 20 years. During the same period, , cassava, starting from a low status crop grown by small farmers and consumed as human food by poor people, has grown into a major crop providing raw materials for animal feeding, industrial starch processing and most recently bio-ethanol production (though I have some reservations for using cassava for this purpose), thus bringing precious cash income to millions of small farm families. When I first visited Vietnam in 1988, cassava’s acreage all over the country was 0.28 million ha with mean yield of 8.4 t/ha. It now occupies 0.56 million ha (official figure: the actual figure is said to be around 0.65 million ha; the emphasis of research is gradually shifting from varietal improvement to soil conservation) with 15.9t/ha mean yield. Vietnam has now advanced to World No. 2 exporter of cassava products next only to Thailand.

It is extremely gratifying to witness this progress toward the end of my career; then, what made this experience possible? The breeding work that has brought this result started when I joined CIAT as cassava breeder in 1973, where CIAT was inaugurating an integrated cassava research program with global mandate by recruiting a half dozen of young PhD from world reputable universities. As such, I initiated a comprehensive cassava breeding program using a population which contained a vast genetic variation coming from more than 2000 native varieties collected from the centers of origin and diversification of cassava all over Latin America.

Especially noteworthy in this process is the fact that those countries such as Colombia, Brazil and Mexico where abundant cassava germplasm existed donated  to or allowed CIAT to collect native cassava varieties on the condition that the newly established international research center CIAT uses all these germplasm for the welfare of people in the world without pursuing any monetary profit. It goes without saying that those rural small farmers who grew native cassava varieties inherited from their ancestors were very cooperative with the CIAT collection. The researchers as well the early CIAT administration clearly shared the immeasurable importance of basic germplasm in pursuing large scale breeding.

I accomplished much of the basic breeding during the first 10 years at CIAT/Colombia and moved to Thailand in 1983 by opening a CIAT/Asia office on the understanding that the effect of cassava varietal improvement would be more eminent in Asia. Thus, I started a more practical breeding in close collaboration with Thai workers. Here again, we were very thankful that the Colombian government allowed us to transfer cassava breeding materials to Asia without condition. As a result, I had transferred more than 1 million genotypes of cassava, mainly in the form of F1 hybrid seeds, from Latin America to Asia during the 15 years that followed.

This breeding work, based on the hybridizations between Latin American and Thai materials, resulted in a great success and produced many superior varieties. Now, some 97% of the total 1.15million ha of cassava in Thailand is planted with these new varieties we developed. I transferred many advanced breeding materials from Thailand to other Asian countries such as Indonesia, Philippines, China and Vietnam. In this process as well, the Thai government authorization of transferring our breeding materials to other Asian countries, which could well be potential (in fact, actual) competitors to Thailand, was to be highly appreciated.

In 1989, I brought planting stakes of Rayong 60 and Kasetsart 50 among others as a check-in baggage of the Bangkok-Ho Chi Minh flight (The import and plant quarantine permit had been very willingly arranged by the Vietnamese institution). Upon harvesting the first cycle evaluation /multiplication at Hung Loc Center in 1990, I carried the planting stakes of these varieties from HCM to Hanoi to be evaluated and multiplied by the research institutions in the North. In retrospect, my action was rather unorthodox power play. Nevertheless, considering that this was the beginning of a long story which would develop to generating an annual additional economic effect in the order of 200 million US dollars to be shared by the millions of small farmers, power play may be justified on certain critical occasions.

F1 selection at CIAT/Colombia in1976

One of the early selections, CIAT/Colombia circa 1980

F1 selection at Rayong Center, Thailand, circa 1987

Rayong 60 in Feb 1988 at Rayong Center, one of the major early successes at CIAT/Thai collaborative breeding program

A typical cassava field in North Vietnam in 1989

Cassava harvest being carried to market in Ho Chi Minh city in 1988

Processing cassava for noodle near Bien Hoa in 1988

Cassava starch processing as a cottage industry in Tay Ninh early 1990s

By 1996, farmers can harvest more cassava for feeding pigs by planting new varieties (Here is KM-60 or Rayong 60  in Hung Loc Agricultural Research Center, Dong Nai Province (1990)

and Ha Tay Province (1996)

Large scale cassava starch factories began to appear in Tay Ninh circa 1996

Cassava starch production became a big business following the step of Thailand (Tay Ninh 2009)

Now, the Bio-ethanol processing using cassava (A new Bio-Ethanol Plant is being built in Phu Tho)

Ho Chi Minh city (Saigon)
I began my first trip report to Vietnam 22 years ago with the following phrase “As the Air France flight 174 landed eventlessly at the airport of Ho Chi Minh City, only the vastness of the airport reminded me of its once familiar name of Tan Son Nhut, which was now more a symbol; of disrepair and abandonment.” Now, two decades later, Ho Chi Minh city is an entirely different place. See the town before and now.


The tallest building I could see in 1988. It had an eerie feeling of a ghost house.

Street filled with bicycles in 1988.

Now in 2009, many new buildings were constructed and being constructed.

Traffic is now like Bangkok 20 years ago.

Now, serious efforts are being paid to keep the town presentable.

As a result, the city looks very charming these days.

Hanoi

A similar transmutation took place in Hanoi, but the extent of metamorphosis is actually greater in Hanoi because Hanoi in the 1980s was somewhat dismal place.


A typical Hanoi building in 1989


A Hanoi street in 1989

Hanoi outlook in 2009, it is quite an attractive town.

Hanoi street is less noisy and probably more cultured than HCM (2009)

Relaxing at Hoan Kiem Lake in Hanoi (2009)

People (South)

Children and housing in Bien Hoa near Ho Chi Minh city in 1988

Moon cake factory in Ho Chi Minh city in 1988

Busy street in Ho Ch Minh city in 2009

Barbecue shop in Ho Chi Minh city in 2009

Children and mothers attending an art class in Ho Chi Minh city in 2009

People (North)

“Curiosos”; When we visited Hanoi in 1989, just the presence of Reinhardt Howeler caused quite a sensation.

Farm people near Hanoi in 1989

Children in cassava field near Hanoi in 1989

People in front of Mrs. Sau’s house in Hatay, near Hanoi in 2009; Successful lives change many things.

People relaxing on the bridge at Hoan Kiem Lake in Hanoi in 2009

Hanoi street shop in 2009; Westerners are no longer a curiosity

Shops in Ho Chi Minh city (more pictures including)

  • Ben Thanh Market in the center of Ho Chi Minh city in 1988
  • Inside the Market
  • Cassava sold in open market in Ho Chi Minh city in 1988
  • Market in 2009
  • Bread shop in HCM street in 2009; the cheapest one is \15 and the most expensive one is \50 (US$0.55)
  • A super market
  • Yet, outside HCM, this type of a small, traditional operation is still common; A movable shop near Bien Hoa in 2009
  • Shops in Hanoi
  • Hanoi market with children in 1989
  • Money changers in Hanoi street in 1989
  • Hanoi street shops in 2009
  • A toy shop in Hanoi in 2009
  • A department store in Hanoi in 2009

Book store in Ho Chi Minh city

  • As was expected, there was hardly any book store worthy of mention in my first visit in 1988. What I observed in this visit in 2009 follows:
  • The main section of a big book store
  • Children book section
  • Stationary section
  • I was most impressed with the good quality maps printed in Vietnam being sold at very reasonable prices

Noodle shops
When I first visited Vietnam in 1988, there was hardly any restaurant, in many places not even an eating place for pay, outside Saigon. All our itinerary was managed by the “Liaison officer” of the Government office in charge of foreign visitors and all the eating outside the big cities was officially arranged. The choice and the quality was predictably unimpressive at that time.

  • I was to witness a tremendous change in eating in this visit in 2009.
  • For shop in Hanoi
  • The renowned “Fo”
  • Market noodle shop in Ben Thanh Market in Ho Chi Minh city
  • A super deluxe version of cassava noodle “ラーメン” at \250(US$2.75)
  • Vietnam has caught up with Thailand in this type of ordinary eating; “Fo” is quite comparable with “Bamie Nam” of Thailand
  • Vietnam is the No.2 exporter of coffee next only to Brazil overtaking Colombia. As such, the Vietnamese coffee is good as ever, together with the Vietnamese bread,

Hotel
I described about the state of a government-run “hotel”  where we stayed in May 1989 as follows; “Yet, we had worst experiences when we traveled outside big cities. When we decided to stay in the city of Phan Rang about 350km to the northeast of Ho Chi Minh city, the new privately run hotel was all full so that we had to stay at the government run hotel. The government hotel occupied a large lot in which the sleeping quarters were 100m away from the eating place. Not a single soul was staying at this vast place on that night. I suspected no one had stayed for the past three months at least. The room was full of spider webs and dung of wall lizards and inevitably very dirty. There was no air conditioning or private toilet. A naked bulb was the only illumination and the door knob must have given out some 15 years ago and a huge pad lock had replaced it. The towel was provided but its original color was indiscernible. Many cockroaches were running in the communal bath room in which the toilet was full of rubbish and never flushed. An about 5cm rubber hose connected to the water faucet was the only shower facility (actually it worked very well; the only thing I liked of this ghost house. I was rather refreshed after suffering from all these pandemonium). The whole atmosphere suggested how a prison cell would look like. The whole setting was in good contrast with the private run hotel which was smaller but filled with guests and maintained a cheerful atmosphere. This was in the South. Things were worse in the North.

Yet, the most appalling part was the payment. The attendants, all elderly women, charged each of the Vietnamese colleagues an equivalent of US$1.75 in local currency, which was not particularly high for our understanding but paying an equivalent of 1.5 day wage for this accommodation was disputable. By regulation, they charged each of us US$27.50 in hard currency. In China, foreigners usually have to pay twice as much as native Chinese for air tickets, train tickets or hotel accommodation. For the domestic air tickets of Air Vietnam, foreigners have to pay four times as much in hard currency. Yet, this time it was 15 times as much. The attendants were showing the faces of incredulity. Anyone paying money for staying in this place was surprising enough. It must take foreign idiots to pay two month salary of local people for staying in this miserable place. Something is grossly wrong with the economic system. It is a tragedy that more than ten years was necessary to realize that.”Everything changed during the past 20 years, of course. Yet, it is in the hotel situation where the change can be seen most dramatically.

  • Hotel buildings in Ho Chi Minh city in 2009
  • Breakfast at Saigon Oscar Hotel where I stayed for three days in Dec 2009

Yet, the most impressive is the change in people’s attitude toward service and responsibility. I carelessly left a bag containing some memory cards and a recharger in my room at this Saigon Oscar Hotel. I realized this when I arrived in Hanoi but it was too late. Only half expectedly, I called the hotel from Yamatedai, Japan informing about what had happened. The hotel attendant answered that they were keeping the item in their Lost-and Found section. I immediately sent a Fax asking them to send the bag to my address in Japan. To my delight, the bag arrived in Yamatedai in good order a week later. I found it fair to inform this rather pleasant experience in some travelers’ Blog (口コミ旅行情報) as follows;

HUNG LOC AGRICULTURAL RESEARCH CENTER

In addition to the recognition, promotion and social success of my former colleagues such as Hoang Kim, Nguyen Huu Hy, Trinh Thi Phuong Loan and Tran Ngoc Ngoan, the upgrading of the institutions where we used to conduct the varietal improvement work together is another very pleasant side product of our collaboration.

We (Reinhardt Howeler and myself) started with this type of formal, if not stressful, negotiation on how we would conduct our collaboration at Hung Loc Center in 1988.

Even as late as in 1992, the meeting was not without some tenseness.

Hung Loc Center was a rather sleepy, smallish place typical of underdeveloped countries (1990)

Harvested cassava roots from the experimental plots were carried by this type of “Truck” to the nearby processing place, circa 1992.

To my delightful surprise, Hung Loc Center in 2009 is a quite different place.

New building at Hung Loc Center in 2009

Meeting old friends in front of the meeting hall at Hung Loc Center in Dec 2009.

AGRICULTURAL COLLEGE No. 3 TO THAI NGUYEN UNIVERSITY

When we first visited North Vietnam in 1989, Thai Nguyen was a rather uninspiring rural town where the only higher education institution was a small college called Agricultural College No.3. Several students hanging their laundry at their dormitory was about the only memory I got in my first visit to AC3.

AC3 campus in 1994. Children beside the cassava experiment field inside the AC3 campus in 1994

Thai Nguyen University campus in Dec 2009 (The former AC3 was upgraded to a university housing more than 10,000 students)


My dear friend Ngoan is now Vice Rector of Thai Nguyen University

Receiving a gift from the University in Dec 2009

VARIETAL IMPROVEMENT

Varietal Improvement in the South

This is, of course, the core of the story. Since much has been reported in formal papers, I am herein just showing some photos for remembrance.


The first bulk harvest of KM-60 (right) compared with the local variety, probably HL-23 (left) at Hung Loc Center in 1991.

KM-60 (left) and the local variety HL23 (right) with KK and Kim at Hung Loc Center circa 1993.

Director Hoang Kim standing contentedly with KM-94 (right) and the local variety HL23 (left) at Hung Loc Center circa 1993.

KK with colleagues at KM-60 field in Dong Nai in 1996

Harvest of new varieties from Thailand at Hung Loc Center in 1997.

Multiplication of a new variety from Thailand at Hung Loc Center in 1997.


New variety KM98-1 at Hung Loc Center in 2000.

Good planting of KM 98-5 in Tay Ninh in 2009.

KK and Kim in Tay Ninh at KM 419 field in Dec 2009.

Varietal Improvement in the North

Ngoan and KK in a varietal trial field in Bac Thai circa 1995.

KK and farmers near Pho Yen in 1997.

Local variety Vinh Phu (left) and KM-94 (right) with Ngoan and KK at AC3 experiment field in 1997.

Local variety (left) and KM-60 (right) in Hatay in 1996 with Loan at the center with a TV crew.

A new selection KM-95-1 (left) and the local variety Vinh Phu (right) in Hatay in 1997 with Director Ho on the left.

A group photo taken at the experiment field in Hatay in 1997. Faces of Ho, Loan, Mr. Tat, Mrs. Sau, Mrs Quyen among others.

Cassava field near Pho Yen in Dec 2009.

Ngoan (Professor and Vice Chancellor), Mr. Kien (a dedicated farmer), KK, and Loan (Retired Deputy director) at Mr. Kien’s cassava field near Pho Yen in Dec 2009.

READINESS FOR WORKING WITH FARMERS 

One thing outstanding in our collaboration with the Vietnamese colleagues is their acute readiness for working closely with farmers. This is in good contrast to my Latin American experience.

Cassava field near Hanoi, circa 1995. Loan, a farm wife, KK and Ho.

Hearing from farmers in Hatay in 1996. KK and Mr. Chien, Deputy Director of Root Crop Research Center, VASI.

Loan leading a town meeting in Hatay in 1996.

Ngoan presiding a village meeting in Pho Yen in 1996.

Harvest of a field trial in Bac Thai in 1996; a curious mixture of Ngoan (Professor to be), students, farmers, an old woman and a baby.

Reunion at Mr. Kien’s house in Pho Yen 13 years later.

Strangely absent from my photo collection is Hoang Kim. Kim is the undisputed champion of associating with fellow researchers from other institutions, farmers from many provinces. Kim initiated the invitation of advanced farmers to the selection field at Hung Loc Center so as to evaluate and select their own favorites; a harbinger to the later much celebrated “farmer participatory research.

Cassava and Vietnam Now and Then 81

Here in 2009 in Dong Nai and Tay Ninh cassava field, Kim is mixing with advanced farmers, students, extension staff and officials.

SUCCESSFUL FARMER 

I: Mrs. Tran Thi Quyen, Hatay

Here are the portraits of some successful farmers who had improved their lots remarkably utilizing the new cassava varieties.

Cassava and Vietnam Now and Then 82

Typical cassava farmers’ houses seen in our 1989 visit in North Vietnam.

Cassava and Vietnam Now and Then 83

Mrs. Tran Thi Quyen was one of those cassava/pig farmers in Hatay Province who had first adopted KM-60, With the better harvest of the new variety, she could increase the number of pigs she could sell to the market. This was the new house she was building using the money she earned and saved, which she was proudly showing me in my 1997 visit. The house was complete with a kitchen, toilet and bathroom under the single roof and cost some \80,000 (US$700) at that time.

Cassava and Vietnam Now and Then 84

Mrs. Quyen (left) with her grandchild in our reunion in Dec 2009.

Cassava and Vietnam Now and Then 85

Mrs. Quyen is still growing cassava and pigs. She is now building a new much bigger house.

II: Mr. Ngo Trung Kien, Pho Yen

Cassava was a small farmers’ crop used for family pig feeding or sold to small noodle factories.

Cassava and Vietnam Now and Then 86

Cassava chips drying on the road circa 1994.

Cassava and Vietnam Now and Then 87

Cassava and pig in North Vietnam before the introduction of new varieties.

Cassava and Vietnam Now and Then 88

Cassava noodle drying near Hanoi in 1989.

Cassava and Vietnam Now and Then 89

Mr. Ngo Trung Kien of Pho Yen, Bac Tay Province a dedicated farmer and one of the earliest adopters of KM-60. He has been successful in expanding his cassava/pig farming. Here in his plot in 2009, he was planting KM-98.

Cassava and Vietnam Now and Then 90

Mr. Kien is a innovative farmer as well. He introduced feeding chickens with cassava.

Cassava and Vietnam Now and Then 91

Pig feeding continues as ever. Mr. Kien told us he could now sell more than 50 mature pigs to the market annually.

Cassava and Vietnam Now and Then 92

Meeting village people at Mr. Kien’s house, Dec 2009. He has taught all his techniques to other farmers in the same village. Many farmers have built new houses and virtually all families own a motorcycle these days.

III: Mr. Tong Quoc Thanh, Tay Ninh

Mr. Tong Quoc Thanh of Tay Ninh Province was one of the earliest adopters of KM-60 promoted by the erstwhile Director Hoang Kim of Hung Loc Center. He was reputed to have made a lot of money by the multiplication and the sales of planting stakes of KM-60 and later KM-94. Either because he is a shay man by character or he is afraid of the Tax Office, Mr. Thanh does not elaborate too much about his success especially on the money making. Nevertheless, by any standard Mr. Thanh is a vastly successful man and the extensive cassava planting of his own cannot defy the reputation.

Cassava and Vietnam Now and Then 93

Mr. Thanh uses KM98-5, KM440 (tai xanh) and KM419 (tai do, cut lun) for intercropping with rubber tree, Tay Ninh in 2009.

Cassava and Vietnam Now and Then 94

KM-94 is still the best for mono-culture cassava in Tay Ninh, Mr. Thanh agrees. But he is planting KM98-5 (tai xanh) and KM419 (tai do) extensively in his field, probably because being a new variety, KM98-5 and KM419 still offers good opportunities for planting stake sale.

Cassava and Vietnam Now and Then 95

V: Mrs. Nguyen Thi Sau, Hatay
… When we visited Mrs. Sau in 1996, she showed us her new pig pen; KK, Mrs. Sau, Mrs. Quyen, children and Mr. Tat (Extension office at Root Crop Research Center, VASI).

In 1997, Mrs. Sau was very proud of posing in front of her new house and motor cycles. I heard the house cost some equivalent of 250,000 (US$2,000) at that time.

Cassava and Vietnam Now and Then 96

Loan, Chien, Mrs. Sau’s husband (working in the Municipal office), Mrs. Sau and Tat.

Cassava and Vietnam Now and Then 97


Mrs. Sau’s new mansion in 2009.

Cassava and Vietnam Now and Then 98
Cassava and Vietnam Now and Then 99

Front view of Mrs. Sau’s mansion.
Sala of Mrs. Sau’s mansion.

Cassava and Vietnam Now and Then 100

With the expansion of Hanoi city area, Mrs. Sau’s place is now much urbanized. Being a small but smart “entrepreneur”, Mrs. Sau is now President of a mineral water production and distribution company.

V: Mr. Ho Sau, Trang Bom

At the time of our first visit in 1988, Trang Bom, one of the fiercest battle fields of Vietnam War, was not much more than a sleepy little town.

Cassava and Vietnam Now and Then 101

Mr. Ho Sau, who lived next door to Hung Loc Center near Trang Bom and Bien Hoa, was the first farmer to be invited to Hung Loc Center to observe the harvest of a cassava varietal trial which included KM-60. He quickly decided to multiply the small sample stakes of KM-60 for his own planting and later for sales to other farmers. Mr. Sau, 2nd from left, was a celebrated participant to the Workshop held at Hung Loc Center in 1997.
Mr. Sau’s cassava Palace in 2009. Mr. Sau is now an enormously successful business man owning large cassava plantings, a couple of cassava processing plants and a trading company.

His garden is decorated with many wonderful objects. A sculpture carved from the root of a single tree.

Yet, the most imposing is the crocodile pool with a dozen or so crocodiles for display.

Cassava and Vietnam Now and Then 102

Mr. Sau is not a type to hide his success to the extent of being flamboyant. Yet, he is intent in giving opportunities to many kinds of people. He is building houses for less fortunate families in the same village. Here in this photo below, he provides land and facility for Prof. Kim and his students to conduct field experiments. As such, I was reminded of the Colombian Pablo Escobar. While Escobar was a bad guy drug king, Mr. Sau may be a good guy cassava king.

Cassava and Vietnam Now and Then 103

From right to left: Students of Nong Lam University, Prof. Kim. KK and Mr. Sau.

GRAHAM GEEENE [ THE QUIET AMERICAN ]

It was a delight to travel through Vietnam with 「The Quiet American」in hand. It was my third time to read this book. By the end of the journey, my paper back was nearly disintegrated. While I could not find this novel being sold in book stores in Ho Chi Minh and Hanoi, the street hawkers had a pirated version of the book. Honoring the hawkers’ smartness of finding the value of 「The Quiet American」as souvenir, I paid 80,000Don (some \400) to a hawker in Ho Chi Minh. In Hanoi, a hawker ran after me for some 50m offering the book for 50,000Dong.

Joy of reading 「The Quiet American」at The Continental Hotel.

Excerpts from 「The Quiet American」Graham Greene

P. 60, “I never knew a man who had better motives for all the trouble he caused.”

P. 74, “I was to see many times that look of pain and disappointment touch his eyes and mouth when reality didn’t match the romantic ideas he cherished, or when someone he loved or admired dropped below the impossible standard he had set.”

P. 94, “I laugh at anyone who spends so much time writing about what doesn’t exist – mental concepts.”

P. 103, “If somebody asked you what your deepest sexual experience had been, What would you say?” I knew the answer to that. “Lying in bed early one morning and watching a woman in a red dressing-gown brush her hair.” “Joe said it was being in bed with a Chink and a negress at the same time.”

P. 167, “He gets hold of an idea and then alters every situation to fit the idea.”

Plain as it is, this novel describes about the dark side of innocence. It is now profoundly touching that Greene had clearly manifested the impossibility of America winning a war against Vietnam as far back as in 1955.

In this vein, it is unsettling to find that this novel is regarded as a simple love story, if not a melodrama, in Japan, as can be seen in the following cut out from the major newspaper Asahi. It is somehow a part of our Japanese culture to reduce things to a minimum context, resigning to not seeing the whole.

DAVID HALBERSTAM [THE MAKING OF A QUAGMIRE]

David Halberstam is best known for his 「The Best and the Brightest」which was published in 1972 and became a world best-seller. His earlier book「The Making of a Quagmire], published in 1965, is less known but highly appreciated by some critics for much of the Halberstam’s perspectives on the Vietnam War originated from his experiences described in this book. I have been wanting to read this book ever after I read 「The Best and the Brightest」but the book was out of print for a long time. In one of many Internet notices from “Amazon” , of which I seldom pay serious attention, I found 「The Making of a Quagmire」was republished in 2008.

While 「The Best and the Brightest」is an in-depth analysis of Washington politics during the Johnson/ Nixon era, 「The Making of a Quagmire」is a ground level description of the local battles and politics in Vietnam during the Kennedy time. If 「The Quiet American」is a romantic narrative of innocence and complacency, 「The Making of a Quagmire」is a poignant account of ignorance and arrogance.

While「The Making of a Quagmire」contains all the reasons why America could not win the War in Vietnam, Chapter Six “Disaster: The Battle of Ap Bac” of this book describes, factor by factor, why the South Vietnamese/American forces could not win local battles in Vietnam. It is not that the Battle of Ap Bac was the turning point of the Vietnam War. It is remarkable because the Battle of Ap Bac contained all the elements why the Viet Cong/National Liberation Front could not be defeated.

If one reads 「The Making of a Quagmire」seriously, it should be transparent under the bright sun that this war could not be won by outside forces. Yet, Kennedy/Johnson Administration did not learn from the Pulitzer Prize (1964) of Halberstam in general and from the Battle of Ap Bac (Jan 1963) in particular. The North bombing by the US Air Force started in Feb 1965 and US Marines Corps were massively stationed at Da Nang in Mar 1965. History continues. As if nothing had not been learnt from Vietnam, and from 「The Best and the Brightest」in particular, the father/son Bush Administration went ahead with the Iraq and Afghan War on the same ignorance and arrogance. To human history, what is not learnt often outweighs what is learnt.

EPILOGUE
Throughout my many years of association with Vietnam, I have gotten to know many people, whom I seem to be able to categorize in retrospect. I got my first impression of the Vietnamese from the several Vietnamese trainees staying at the International Rice Research Institute, Los Baños, Philippines in 1963 and it was not particularly a favorable one. They appeared rather uncaring, cynical and apathetic, if not selfish, contemptuous, and corrupt. I may be too harsh and judgmental on them; nevertheless, Halberstam wrote about this type of people belonging to the upper strata of the South Vietnamese society during the same period so vividly and critically in 「The Making of a Quagmire」that my judgment might not have been too far away from the reality.

My ten years of close collaboration with my cassava breeding colleagues in the 1990s and the reunion with them in this trip completely changed my assessment of the Vietnamese. As evidenced by the series of my reporting here, they are industrious, insightful, considerate and indefatigable, as if to emulate General Vo Nguyen Giap. I might be a little too positively partial to those friends of mine. Nevertheless, I have a similar feeling toward some of my colleagues in Rayong, Thailand and Nanning, China to count a few. During the two decades of post-war Japan, we seem to have many Japanese of this category as well.

Then comes the mass of the population who just want tomorrow to be better than today. In this trip, I was deeply impressed and touched in meeting many people who seemed never to doubt tomorrow is better than today. This reminds me of the Japanese during the next two decades of post-war where the majority of the population was seeing a rosy future. Now in Japan, more than 30,000 people commit suicide annually and the main reason for this act is believed to be hopelessness to the present and future. Needless to say, Vietnam is not without problems such as the incompleteness of juridical system or rampant corruption to name some. Yet, the proportion of people feeling happy seems to be far higher in Vietnam than in Japan now. It is fascinating to imagine where these former colleagues of mine would further lead this society to.

People at a cassava open market near Hanoi in 1989.
People on a boat in Saigon river in 1988.
People on a ferry near Hanoi in 1989.
Boys on a Hanoi street in 1991.
Girls on a Hanoi street in 1991.
Two daughters at a village starch plant in Tay Ninh in1992.

People harvesting rice in Tay Ninh in 2009.
Hyper-energetic people in Ho Chi Minh city in 2009.
People relaxing at Hoan Kiem Lake, Hanoi in 2009.Chi tiết hình ảnh mời xem tại Source: https://foodcrops.blogspot.com/2012/09/cassava-and-vietnam-now-and-then.html

See more: https://www.youtube.com/embed/81aJ5-cGp28?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent

Cassava in Vietnam: a successful story  Thông tin tại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cach-mang-san-viet-nam/

Hoang Gia Bookstore
Nguồn tài liệu trực tuyến: Nhà sách Hoàng Gia

CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM
Hoàng Kim, Hoàng Long (chủ biên) và đồng sự
http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong

Bài viết mới (đọc thêm, ngoài giáo trình, bài giảng)

Cách mạng sắn Việt Nam
Chọn giống sắn Việt Nam
Chọn giống sắn kháng CMD
Giống sắn KM419 và KM440
Mười kỹ thuật thâm canh sắn
Sắn Việt bảo tồn phát triển
Sắn Việt Lúa Siêu Xanh
Sắn Việt Nam bài học quý
Sắn Việt Nam sách chọn
Sắn Việt Nam và Howeler
Sắn Việt Nam và Kawano
Sắn Việt và Sắn Thái
Quản lý bền vững sắn châu Á
Cassava and Vietnam: Now and Then

Lúa siêu xanh Việt Nam
Giống lúa siêu xanh GSR65
Giống lúa siêu xanh GSR90
Gạo Việt và thương hiệu
Hồ Quang Cua gạo ST
Cơm Niêu Vàng Gạo Đông A
Con đường lúa gạo Việt
Chuyện cô Trâm lúa lai
Chuyện thầy Hoan lúa lai
Lúa C4 và lúa cao cây
Lúa sắn Cămpuchia và Lào
Lúa sắn Việt Châu Phi
Lúa Việt tới Châu Mỹ

Giống ngô lai VN 25-99
Giống lạc HL25 Việt Ấn


Giống khoai lang Việt Nam
Giống khoai lang HL518
Giống khoai lang HL491
Giống khoai Hoàng Long
Giống khoai lang HL4
Giống khoai Bí Đà Lạt

Việt Nam con đường xanh
Việt Nam tổ quốc tôi
Vườn Quốc gia Việt Nam
Nông nghiệp công nghệ cao
Nông nghiệp sinh thái Việt
Nông nghiệp Việt trăm năm
IAS đường tới trăm năm
Viện Lúa Sao Thần Nông
Hoàng Thành đến Trúc Lâm
Ngày Hạnh Phúc của em
Có một ngày như thế

Thầy bạn là lộc xuân
Thầy bạn trong đời tôi
Sóc Trăng Lương Định Của
Thầy Quyền thâm canh lúa
Borlaug và Hemingway
Thầy Luật lúa OMCS OM
Thầy Tuấn kinh tế hộ
Thầy Tuấn trong lòng tôi
Thầy Vũ trong lòng tôi
Thầy lúa xuân Việt Nam
Thầy Ngoạn Hồ Núi Cốc
Thầy bạn Vĩ Dạ xưa
Thầy Dương Thanh Liêm
Thầy Hiếu Đêm Giáng Sinh
Phạm Trung Nghĩa Viện Lúa
Phạm Quang Khánh Hoa Đất
Phạm Văn Bên Cỏ May

24 tiết khí nông lịch
Nông lịch tiết Lập Xuân
Nông lịch tiết Vũ Thủy
Nông lịch tiết Kinh Trập
Nông lịch tiết Xuân Phân
Nông lịch tiết Thanh Minh
Nông lịch tiết Cốc vũ
Nông lịch tiết Lập Hạ
Nông lịch tiết Tiểu Mãn
Nông lịch tiết Mang Chủng
Nông lịch tiết Hạ Chí
Nông lịch tiết Tiểu Thử
Nông lịch tiết Đại Thử
Nông lịch tiết Lập Thu
Nông lịch Tiết Xử Thử
Nông lịch tiết Bạch Lộ
Nông lịch tiết Thu Phân
Nông lịch tiết Hàn Lộ
Nông lịch tiết Sương Giáng
Nông lịch tiết Lập Đông
Nông lịch tiết Tiểu tuyết
Nông lịch tiết Đại tuyết
Nông lịch tiết giữa Đông
Nông lịch Tiết Tiểu Hàn
Nông lịch tiết Đại Hàn

Nhà sách Hoàng Gia

Video Cây Lương thực chọn lọc :

Cây Lương thực Việt Nam Chuyển đổi số nông nghiệp, Học không bao giờ muộn Cách mạng sắn Việt Nam https://youtu.be/81aJ5-cGp28; Mười kỹ thuật thâm canh sắn : Cassava in Vietnam Save and Grow 1Daklak; Cassava in Vietnam: Save and Grow 2Daklak; Cassava in Vietnam: Save and Grow 3Daklak; Giống sắn KM410 và KM440 ở Phú Yên https://youtu.be/XDM6i8vLHcI; Giống sắn KM419, KM440 ở Đăk Lăk https://youtu.be/EVz0lIJv2N4; Giống sắn KM419, KM440 ở Tây Ninh https://youtu.be/XMHEa-KewEk; https://youtu.be/kjWwyW0hkbU; https://youtu.be/9mZHm08MskE; Trồng sắn KM419, KM98-5, KM98-1 ở Căm pu chia https://youtu.be/TpTIxv9LaFQ; Ngăn chặn lây lan CWBD bệnh chổi rồng ở Căm pu chia https://youtu.be/0gNY0KZ2nyY; Chúng ta phải tạo ra những cây trồng của riêng mình. sản xuất giống sắn sạch bệnh, cách làm Thái Lan https://youtu.be/08sjalG1GNk Trồng khoai lang ở Hàn Quốc https://youtu.be/J_6xW3j47Sw; Trồng lúa đặc sản ở Trung Quốc https://youtu.be/rJSZfrJFluw; Trồng khoai lang tím ở Trung Quốc https://youtu.be/0CHOG3r64xs;Trồng và chế biến khoai tây ở Trung Quốc https://youtu.be/0gNY0KZ2nyYv; Làm măng ngọt giá cao ở Trung Quốc https://youtu.be/i1oFFqFMlvI; Nghệ thuật làm vườn “The life of okra and bamboo fence” https://youtu.be/kPIzBRPezY4

Xem tiếp
Việt Nam con đường xanh

CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Sóc Trăng Lương Định Của


SÓC TRĂNG LƯƠNG ĐỊNH CỦA

Mai Hạc vầng trăng soi
Sóc Trăng Lương Định Của
Chuyện thầy Tôn Thất Trình
Thầy Quyền thâm canh lúa


Thầy lúa Bùi Bá Bổng
Lúa siêu xanh Hòa Bình
Lúa siêu xanh Việt Nam
Đêm Yên Tử Hoàng Kim.

Cánh cò bay trong mơ
Con đường lúa gạo Việt
Thầy nghề nông chiến sĩ
Hoa Đất thương lời hiền

Việt Nam con đường xanh
Gạo Việt và thương hiệu
Hồ Quang Cua gạo ST
Đáy đại dương là ngọc


Đêm lạnh nhớ Đào Công.
Thiền Sư Lão Nông Tăng
Ngày xuân đọc Trạng Trình
Chung sức trên đường xuân


Gốc Bồ Đề vườn xưa
Gốc mai vàng trước ngõ
Đường xuân đời quên tuổi
Tỉnh thức cùng tháng năm

#hoangkimlong #hoanggia
#Thungdung #dayvahoc
#cltvn #vietnamhoc  
CNM365 Tình yêu cuộc sống

Hoàng Kim

Kim Notes lắng ghi chú chép lại một số đường dẫn Việt Nam con đường xanh. Sóc Trăng Lương Định Của, chuyện ngậm ngãi tìm trầm ẩn chứa Ngọc cho đời; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/soc-trang-luong-dinh-cua-2

Thương nhớ Bác Nakamura Nobuco, Phu nhân cố GS. Bác sĩ nông học Lương Định Của

Sóc Trăng Lương Định Của
Lão sư Nakamura Nobuco
Con đường lúa gạo Việt
Hoa Đất thương lời hiền


LƯƠNG ĐỊNH CỦA CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP

Giáo sư Lương Định Của (Quốc – 梁定国) sinh ngày 16 tháng 8 năm 1920 tại xã Đại Ngãi, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng, Theo văn bia gia đình thì ông nội của giáo sư là Lương Đức Ngãi, bà nội là Trịnh Thị Xuân, cha là Lương An Hùng và mẹ là Huỳnh Thị Có. Ông Lương Định Của lên Sài Gòn học xong tú tài và đã du học ở Hương Cảng (y học) rồi Thượng Hải (kinh tế) trước khi được học bổng của chính phủ Nhật Bản, sang Nhật năm 1942, được nhập ngang vào học năm thứ ba tại Trung tâm Nghiên cứu Nông học Nhiệt đới thuộc Trường Đại học Quốc gia Kyushu. Năm 1945 ông cưới vợ là bà Nobuko Nakamura (中村信子) người Nhật. Năm 1946, ông chuyển sang Trường Đại học Quốc gia Kyoto và được cấp bằng tiến sỹ nông học ở Nhật Bản. Năm 1952, ông cùng gia đình về Sài Gòn. Sau đó năm 1954 tập kết ra Bắc, làm Phó Giám Đốc Học Viện Nông Lâm Hà Nội, giảng dạy di truyền giống ở Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội (nay là Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam) và làm Viện trưởng Viện Cây Lương thực và Cây thực phẩm.

Giáo sư Lương Định Của là người có công lớn trong giáo dục đào tạo, Thầy đã huấn luyện được nhiều thế hệ học trò trở thành cán bộ đầu đàn trong các lĩnh vực khoa học nông nghiệp với nhiều người xuất sắc. Giáo sư Lương Định Của đã chọn tạo được nhiều giống cây trồng nông nghiệp nổi tiếng một thời như Giống lúa Nông nghiệp I lai tạo từ giống Ba thắc (Sóc Trăng – Nam Bộ) với Kun Ko (Nhật Bản) là giống lúa sớm đi vào sản xuất trên đồng ruộng Việt Nam từ những năm 60 của thế kỷ trước. Sau đó là nhiều giống mới mang tên “giống bác sĩ Của” như lúa chiêm 314 (lai giữa dòng Đoàn Kết và Thắng Lợi), NN75-1 (lai giữa giống 813 với NN1), NN8-388 (chọn giống từ IR8), lúa mùa Saisubao, lúa xuân sớm NN75-5, giống dưa lê, cà chua, khoai lang, dưa hấu không hạt, chuối, rau, táo… cùng với những ứng dụng tiến bộ kĩ thuật tam bội thể, tứ bội thể, chất kích thích sinh trưởng. Giáo sư đề xướng mô hình canh tác “bờ vùng, bờ thửa” “cấy nông tay thẳng hàng” “đảm bảo mật độ” được hàng chục triệu nông dân áp dụng trên diện rộng, tạo ra cuộc cách mạng trong nông nghiệp.

Cuộc đời của giáo sư là tấm gương sáng của một trí thức lớn dấn thân vì đại nghĩa, sống thanh đạm, giản dị, say mê, tận tuỵ với sự nghiệp trồng người và nghiên cứu khoa học tạo giống cây trồng, cải tiến kỹ thuật canh tác để mang lại đời sống tốt hơn cho người dân.

Giáo sư Lương Định Của được bầu là đại biểu Quốc hội các khoá 2, 3, 4, 5, được phong danh hiệu Anh hùng Lao động và Huân chương Lao động Hạng Nhất năm 1967 và được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học công nghệ đợt 1 năm 1996.

Nhiều con đường, mái trường Việt Nam mang tên Thầy. Năm 2006, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã lập Giải thưởng Lương Định Của để hằng năm trao tặng cho những thanh niên có thành tích đặc biệt xuất sắc trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, công nghệ nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.

GS Lương Định Của mất ngày 28 tháng 12 năm 1975, mai táng tại Nghĩa Trang Thành phố Hồ Chí Minh. Vợ của giáo sư, bà Nobuko Nakamura, sống cùng gia đình con trai cả Lương Hồng Việt ở thành phố Hồ Chí Minh.

Cuộc đời và sự nghiệp của nhà bác học nông dân Lương Định Của còn mãi với thời gian, với con đường lúa gạo Việt Nam đang tỏa rộng nhiều vùng đất nước kết nối lớp lớp những dâng hiến lặng lẽ tôn vinh hạt ngọc Việt. Cây lúa Việt Nam nửa thế kỷ nhìn lại (1975-2014) tốc độ tăng năng suất vượt 1,73 lần so với thế giới (Năm 2013 năng suất lúa gạo Việt Nam đạt 5,57 tấn/ ha so với năm 1975 là 2,11 tấn/ ha, gia tăng 3,46 tấn/ ha. Năm 2013 năng suất lúa gạo thế giới đạt 4,48 tấn/ ha so năm 1975 là 2,49 tấn/ ha gia tăng 1,99 tấn/ ha). Thành tựu này có cống hiến hiệu quả của nhà bác học nông dân Lương Định Của ở chặng đường đầu của nước Việt Nam mới.

LƯƠNG ĐỊNH CỦA QUÊ HƯƠNG VÀ DÒNG HỌ

Chuẩn bị xong những việc sau cùng để ngày mai cấy các bộ giống lúa mới, chúng tôi lên đường về thăm quê hương thầy Lương Định Của khi trời đã xế chiều. Chúng tôi đến thăm cụ Sáu, em gái Thầy Lương Định Của và thắp hương tại khu mộ gia đình Thầy khi trăng rằm tháng giêng lồng lộng đang lên. Ruộng lúa Đại Ngãi, Trường Khánh xanh ngát dưới ánh trăng.

Ngôi nhà niên thiếu và phần mộ tổ tiên, cha mẹ song thân của giáo sư Lương Định Của tại ấp Ngãi Hoà, cách trụ sở Uỷ ban Nhân dân xã Đại Ngãi khoảng 3 km, và phải đi bằng xe ôm vì lối đi nhỏ bé, thuần phác, khiêm nhường giữa vùng quê Nam Bộ. Xe ôm chạy hun hút dưới vòm dừa nước y như trong vườn thiêng cổ tích. Cha và mẹ của thầy Lương Định Của là Lương An Hùng và Huỳnh Thị Có cùng ông bà nội là Lương Đức Ngãi và Trịnh Thị Xuân đều an táng tại làng quê Đại Ngãi. Chúng tôi bâng khuâng trước phần mộ tổ tiên, cha mẹ song thân của bậc anh hùng. Nơi đây mấy trăm năm trước hẳn rất hoang vu, bởi lẽ mãi cho đến tận nay, vẫn vùng quê hẻo lánh đến vậy. Tôi chợt thấm thía câu thơ Sơn Nam:”Trong khói sóng mênh mông/ Có bóng người vô danh/Từ bên này sông Tiền/ Qua bên kia sông Hậu/ Tay ôm đàn độc huyền/ Điệu thơ Lục Vân Tiên/ Với câu chữ/ Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả/ Từ Cà Mau Rạch Giá/ Dựng chòi đốt lửa giữa rừng thiêng/ Muỗi vắt nhiều hơn cỏ/ Chướng khí mờ như sương/Thân chưa là lính thú/Sao không về cố hương?”

Anh Lương Hồng Việt nói với tôi tổ tiên họ Lương của anh có nguồn gốc Phúc Kiến lánh nạn Mãn Thanh sang cư trú ở Đàng Trong hồi thế kỷ XVII. Nam Bộ là nôi nuôi dưỡng của đại gia đình các dân tộc người Việt, người Hoa, người Khơ Me. Nhiều người Hoa trong số họ đã chung sức cùng người Việt, người Khơ Me khẩn hoang, giữ gìn và sinh sống nhiều đời tại quê hương.

Từ Đại Ngãi, Sóc Trăng về Hà Tiên không xa. Đó là nơi khởi nghiệp của Mạc Cửu công thần đất Hà Tiên ”phên dậu Đại Việt đất phương Nam” và vùng danh thắng Hà Tiên thập vịnh Mạc Thiên Tích. Mạc Cửu là Tổng trấn Hà Tiên, thành hoàng lập trấn địa đầu của đất cực Nam Tổ quốc. Mạc Thiên Tích con của Mạc Cữu làm Tổng binh Đại đô đốc thời chúa Nguyễn Phúc Trú. Hai cha con Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích và dòng họ Mạc là những người có công lớn đối với non sông Việt trong sự khai khẩn và trấn giữ miền Tây Nam Bộ. “Chẳng đội trời Thanh Mãn/ Lần qua đất Việt bang/ Triều đình riêng một góc/ Trung hiếu vẹn đôi đường/ Trúc thành xây vũ lược/ Anh Các cao văn chương” (thơ Đông Hồ). Nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt đã nhận xét chí lý: “Nhờ có Mạc Cửu, người Việt mới bước qua bờ nam sông Tiền”.

Từ Đại Ngãi, Sóc Trăng đi lênSài Gòn – Gia Định – Đồng Nai – Biên Hòa là vùng đất khởi nghiệp lừng lẫy của Trịnh Hoài Đức công thần nhà Nguyễn, quan Thượng thư, hiệp Tổng trấn, Điền toán (chuyên coi về sự cày cấy khai khẩn đất đai Nam Bộ), nhà thơ, nhà văn, sử gia nổi tiếng với tác phẩm Gia Định thành thông chí một công trình được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao. Đó cũng là nơi có bậc danh nho Võ Trường Toản cùng với các học trò của ông cũng là những công thần lỗi lạc của nhà Nguyễn như Ngô Tùng Châu, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tĩnh, Phạm Ngọc Uẩn, Lê Bá Phẩm, những người Việt gốc Hoa noi theo gương thầy Chu Văn An đời Trần, thực lòng yêu thương cộng đồng đại dân tộc Việt Nam, cùng chung lưng đấu cật, góp xương máu, công sức xây đắp nên cơ nghiệp muôn đời. Và nay có người phụ nữ Nhật Nakamura Nobuko thuận theo giáo sư Lương Định Của “thuyền theo lái, gái theo chồng” tạo dựng nên công đức cùng chồng là vậy.

LƯƠNG ĐỊNH CỦA NHỮNG NĂM THÁNG TUỔI TRẺ

Ruộng lúa Trường Khánh Đại Ngãi Long Phú Sóc Trăng dưới ánh trăng rằm tháng Giêng chụp lúc 19g30 mà vẫn lồng lộng xanh mướt lạ thường. Tuổi xuân của Lương Định Của khởi đầu ở vùng quê Đại Ngãi, Long Phú, Sóc Trăng, nơi vùng lúa Trường Khánh. Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời bắt đầu bằng tuổi trẻ. Ông là con trưởng trong một gia đình cha mẹ là điền chủ, mất sớm. Ông có hai em gái và một em trai. Ông theo học tiểu học ở Sóc Trăng, trung học ở Sài Gòn, học tiếng Anh ở Hồng Công và Thượng Hải, sống nhờ hoa lợi của số ruộng đất cha mẹ ông để lại. Sau đó ông xin được học bổng Nhật Bản theo học Khoa Nông học Trường Đại học Tổng hợp Kyushu. Kế đó, ông lấy vợ Nhật và theo học tiếp Tiến sĩ Nông học, rồi làm giảng sư Đại học Tổng hợp thành phố Kyoto. Con đường tuổi thơ Ngãi Hòa, Đại Ngãi, Trường Khánh quê hương Lương Định Của lung linh huyền thoại.

Tuổi xuân và những năm tháng đại học

Nhà báo Phan Quang kể về tuổi xuân và những năm tháng đại học của giáo sư Lương Định Của trong bài “Kỷ niệm đời thường về nhà khoa học Lương Định Của”:“ Lương Định Của sinh ngày 16-7-1919 tại làng Đại Ngãi, huyện Long Phú tỉnh Sóc Trăng trong một gia đình điền chủ theo đạo Thiên chúa. Cha mẹ mất sớm, lúc ông mới mười hai tuổi. Hồi nhỏ học Trường tiểu học Taberd ở thị xã Sóc Trăng, rồi chuyển lên Sài Gòn theo bậc trung học cũng tại Trường Taberd. Đến năm thứ tư, Lương Định Của xin sang Hồng Công học tiếp tại trường La Salle College với ý định trau dồi tiếng Anh thật giỏi để sau này đi vào ngành thương mại. Sau khi trúng tuyển kỳ thi tuyển sinh vào đại học (tiếng Anh gọi là University Matriculation), ông rời Hồng Công lên Thượng Hải học. Ở Hồng Công thời ấy chỉ có mỗi một trường đại học, học phí rất cao, trong khi tại Thượng Hải, sinh hoạt rẻ hơn. Tại đây, ông theo học Trường đại học Saint John’s. Đang học dở chừng thì chiến tranh thế giới lan rộng và ngày càng ác liệt. Cuộc sống của lưu học sinh tại Trung Quốc trở nên bấp bênh. Lương Định Của hiểu, cần phải tìm nguồn sinh hoạt ổn định ở ngay nước ngoài, vì rất khó trông chờ vào món tiền mà ông bác ruột trích từ hoa lợi số ruộng đất cha mẹ ông để lại ở Sóc Trăng vẫn tháng tháng gửi sang cho như những năm trước. Thấy một người bạn học gửi thư xin học phí du học tại Nhật Bản và được chấp thuận dễ dàng, ông cũng nộp đơn và được chấp nhận cho sang Nhật. Bước chân lên đất nước Phù Tang xưa kia không mấy khác nước mình, nay nhờ công cuộc duy tân đã trở thành một quốc gia hùng mạnh, chàng thanh niên Lương Định Của vẫn ôm ấp mộng làm giàu bằng con đường thương mại. Nhờ tiếp xúc với một số nhà yêu nước Việt Nam sống lưu vong, theo lời khuyên của họ, sau một năm học tiếng Nhật, ông bỏ ngành thương mại chuyển sang học ngành nông nghiệp với hoài bão rõ rệt mang vốn kiến thức về quê hương thiết thực phục vụ đất nước. Ông theo học Khoa Nông học Trường Đại học Tổng hợp Kyushu. Năm 1945, Nhật Bản thua trận. Nhân dân Nhật trải qua một thời kỳ cực kỳ khó khăn dưới sự chiếm đóng và cai quản trực tiếp của quân đội Mỹ. Miếng ăn hằng ngày còn chưa đủ, không ít người Nhật đói rét. Chính phủ Nhật Bản làm gì còn có học bổng ưu ái cho du học sinh nước ngoài. Để có thể tiếp tục theo học, cũng như mọi sinh viên khác, Lương Định Của làm đủ nghề: gia sư, biên dịch tài liệu, phiên dịch tiếng Anh… Cái vốn Anh ngữ lúc này thật sự có ích vì hồi ấy không có nhiều người Nhật sử dụng thành thạo ngoại ngữ. Sự giúp đỡ của Việt kiều ở Nhật là niềm khích lệ lớn đối với ông. Đặc biệt những người Việt Nam vì chống Pháp phải sống xa quê đã bồi dưỡng và khuyến khích lòng yêu nước vốn có trong chàng thanh niên Nam Bộ.”

Bác sĩ Nông học, Giảng sư Đại học

Nhà báo Phan Quang trong bài Kỷ niệm đời thường về nhà khoa học Lương Định Của phần 1 viết tiếp: “Lương Đình Của miệt mài học tập, nghiên cứu. Một nhà khoa học nổi tiếng khác, cũng là lưu học sinh cùng thời với Lương Định Của là bác sĩ Đặng Văn Ngữ, trước khi về nước phục vụ đã khuyên ông nên ráng ở lại học tập cho thành đạt rồi về sau cũng không muộn. Lương Định Của mãi biết ơn lời khuyên của bạn. Năm 1947, tốt nghiệp cử nhân Trường Đại học Tổng hợp Kyushu, ngành nông nghiệp. Phần lớn lưu học sinh nước ngoài ở Nhật Bản hồi ấy giật được mảnh bằng đều đi kiếm việc làm hoặc về nước để sớm chấm dứt cảnh thiếu thốn nơi đất khách quê người. Lương Định Của phân vân. Ông cảm thấy vốn kiến thức của mình còn mong manh quá. Nếu muốn thật sự phục vụ đất nước thì còn phải học tập thêm nhiều. Ông quyết định xin vào làm phụ việc ở Trường Đại học Tổng hợp thành phố Kyoto, cố đô nước Nhật và cũng là quê hương bà Của, tình nguyện làm việc không hưởng lương. Đổi lại, ông được phép đọc sách ở thư viện và dùng một số giờ nghiên cứu, thực nghiệm tại phòng thí nghiệm của nhà trường. Một lần nữa, cái vốn ngoại ngữ lại có ích cho ông. Ngoài công việc chuyên môn hằng ngày, còn nhận biên dịch ra tiếng Anh và đánh máy các công trình, luận văn cho một số giáo sư trong trường. Sức làm việc của chàng thanh niên Việt Nam cần cù, ít nói, gây ấn tượng và dần dần giành được lòng yêu mến của các thầy. Trường Đại học Kyoto chính thức cấp cho ông học bổng nghiên cứu sinh. Một thời gian sau, trường bổ nhiệm ông làm một chân tập sự trợ lý (sub-assistant), trong khi chờ đợi hội đủ điều kiện thi lấy bằng tiến sĩ. Một số tạp chí khoa học Nhật Bản và ở nước ngoài bắt đầu đăng tải các công trình nghiên cứu của nghiên cứu sinh Lương Định Của. Bài báo đầu tiên ông được công bố trên một tạp chí khoa học tên tuổi ở nước ngoài phản ánh phần nào sức đọc của ông.Đó là Thư mục về các công trình nghiên cứu di truyền học xuất bản ở Nhật Bản, thời gian 1941- 1948 (tạp chí Heredity, London, số 4 năm 1950, trang 121-133). Trong khoảng thời gian trên dưới hai năm (1950-1952), các tạp chí khoa học lớn công bố mười hai công trình của nhà nghiên cứu trẻ. Ông là một người rất thành thục công việc trong phòng thí nghiệm. Với thiết bị của Trường Đại học Kyoto, Lương Định Của đã chụp được ba vạn tấm ảnh nhiễm sắc thể cây trồng. Sau này có dịp sang thăm Viện Nghiên cứu Lúa gạo Hoa Nam, gặp nhà khoa học Trung Hoa chuyên gia nổi tiếng thế giới về cây lúa là Giáo sư Đình Dĩnh, bác sĩ nông học Lương Định Của được Giáo sư mời thao tác phương pháp chụp ảnh nhiễm sắc thể đã nhuộm mầu sau khi cắt tế bào tại phòng thí nghiệm cho các nhà khoa học của Viện tham khảo. Mùa hè năm 1951, Lương Định Của trình luận văn về công trình nghiên cứu nhiều năm của mình với chủ đề: “Cách xử lý đa bội thể di truyền nhằm tạo nên giống lúa mới”. Hội đồng khoa học Trường Đại học Tổng hợp Kyoto nhận xét, với kết quả nghiên cứu khoa học của mình, Lương Định Của đã có cống hiến lớn cho nền nông học trong việc cải thiện giống lúa, và bỏ phiếu nhất trí cấp học vị Bác sĩ Nông học cho ông. Cùng với học vị bác sĩ, Lương Định Của còn nhận được bằng khen và tiền thưởng của Viện Nghiên cứu Sinh học Kinhara về công trình “Sự sinh sản của giống lúa lai tạo từ hai giống lúa Japonica và Indica”.

Báo cáo khoa học của Viện khẳng định, với công trình này Lương Định Của đã giải quyết tốt một vấn đề từ năm 1930 đến lúc bấy giờ chưa có ai xử lý được. Một số kỹ thuật do Lương Định Của phát minh, trong đó có phương pháp xử lý rễ trước khi cố định trong việc nghiên cứu hình thái nhiễm sắc thể công bố lần đầu trên tạp chí Botanical Gazette (Mỹ) được ứng dụng rộng rãi tại Nhật Bản. Kỹ sư Hồ Đắc Song, phó vịên trưởng Viện Cây Lương thực, Cây Thực phẩm, một người cộng tác nhiều năm với bác sĩ Lương Định Của, có lần cho biết: Phát minh của Lương đã được ứng dụng ngay từ hồi ấy trong việc lai tạo giống lúa tại Hoa Kỳ, gọi là phương pháp Lương Định Của.Theo báo chí Nhật Bản, kể từ những năm đầu công cuộc duy tân đất nước thời Minh Trị thiên hoàng cho đến lúc bấy giờ (1888-1951), trong hơn sáu mươi năm, nước Nhật mới cấp học vị bác sĩ nông học cho hai trăm năm mươi người. Lương Định Của là nghiên cứu sinh trẻ tuổi nhất khi nhận học vị, và cũng là người ngoại quốc duy nhất được cấp bằng bác sĩ nông học tại Nhật bản cho đến lúc bấy giờ”.

Nhà báo Phan Quang có dịp được xem những bài báo viết về sự kiện ấy, những mẩu báo cắt chữ in vẫn còn rõ nét tuy giấy đã ố vàng và cứ chực mủn ra vì được xếp lẫn quần áo trong chiếc va ly tàng tàng bất ly thân của gia đình sau mấy chục năm cùng hai ông bà Lương Định Của bôn ba chuyển dịch nhiều nơi.

Báo Mainichi Shimbun số ra ngày 26 tháng Năm năm Chiêu Hòa thứ 26 đăng chân dung lớn của nhà khoa học trẻ với vầng trán cao, chiếc cằm nhọn, khuôn mặt gầy thanh nhã. Tin đăng kèm cho biết nhà khoa học ba mươi mốt tuổi Lương Định Của là người Việt Nam đầu tiên được cấp bằng bác sĩ nông học của Nhật bản. Báo đưa khá chi tiết lý lịch của ông, nói rõ Lương được sự hướng dẫn của Giáo sư nổi tiếng Kinhara, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Sinh học mang tên ông.

Cũng báo Mainichi, một số trước đó đăng ảnh Lương chăm chú trước kính hiển vi, bên cạnh là tấm ảnh khác chụp cận cảnh những hạt lúa do ông lai tạo nên, to gấp đôi những hạt lúa so sánh.

Báo Kyoto Shimbun cũng in ảnh những bông lúa mới được lai tạo nên. Bài báo cho biết thêm, kết quả này đã được thông báo cho Tổ chức Lương Nông Quốc tế (FAO) đóng tại Rome, đồng thời cũng thông báo đến Thủ tướng Ấn Độ J.Nerhu là người đang hết sức quan tâm giải quyết vững chắc vấn đề lương thực cho năm trăm triệu dân nước Ấn Độ mới giành lại được độc lập.

Mấy tháng sau khi nhận học vị bác sĩ nông học, tháng Mười năm 1951, Lương Định Của được Bộ Giáo dục Nhật Bản bổ nhiệm làm giảng sư Trường đại học Kyoto. Ông là người ngoại quốc duy nhất thời ấy được bổ nhiệm làm giảng sư chính thức ở một trường đại học quốc lập Nhật Bản. Theo những người am hiểu, chức vị giảng sư ở Nhật tương đương với phó giáo sư (tiếng Nhật gọi là phó giáo thụ) tuy chưa phải chính ngạch, bởi Nhà nước khống chế số lượng giáo sư và phó giáo sư ở các trường đại học trong một khung biên chế nhất dịnh, chỉ khi nào có ghế khuyết thì nhà trường mới được bổ nhiệm người khác thay vào, còn lại đều gọi là chung là giảng sư.

Khi bắt đầu nhận việc với chức trách giảng sư một Trường đại học quốc lập Nhật Bản, Lương Định Của đã kết hôn với một phụ nữ địa phương dòng dõi quý tộc và đã có hai con. Cuộc sống gia đình ổn định. Tương lai xán lạn mở ra trước mắt nhà khoa học trẻ.“

Sự mô tả khá chi tiết trên đây của nhà báo bậc thầy Phan Quang đã cung cấp cho chúng ta các thông tin chân thực từ năm 1919 đến năm 1951.

Theo Thông tin về một người đàn anh (Đặng Lương Mô) thì Giáo sư Ogata Kazuo (緒方一夫) thuộc Trung tâm Nghiên cứu Nông học Nhiệt đới(熱帯農学研究 センタ ー), Đại học Quốc gia Kyushu đã viết về hai người tiến sỹ nông học xuất thân Đại học Quốc Gia Kyushu này. Đó là Lương Định Của (Quốc) và Võ Tòng Xuân. Năm 1945, ông tốt nghiệp Đại học Đế quốc Kyushu, coi như là đợt cuối cùng của chế độ đại học cũ (旧制大学)của Nhật Bản. Cũng năm 1945, sau khi Chiến tranh Thế giới II kết thúc, ông lấy bà Nakamura Nobuko(中村信子). Rồi ông chuyển sang ĐHQG Kyoto, ở đó ông được cấp bằng Tiến sỹ Nông học (農学博士).

Điều chưa rõ là ngày sinh 16.8.1920 hay 16.7.1919 cần được xác minh thêm. Cách gọi học vị “Bác sĩ Nông học” thay vì “Tiến sỹ Nông học” cũng là một chủ đề thú vị.

Lương Định Của, luồng gió từ Hà Nội

Đạt được học vị cao, có công ăn việc làm, Lương Định Của vẫn nghĩ tới việc về nước phục vụ, kịp trước khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi hoàn toàn nhưng “Đường về Việt Bắc xa xôi lắm!”. Luồng gió từ Hà Nội đã thôi thúc ông hướng về Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đang tạo lập. Ông từ chối các cơ hội đi làm nghiên cứu sinh ở Mỹ, làm việc cho Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế (IRRI) để tìm cách về nước tham gia kháng chiến. Sau nhiều nỗ lực móc nối, chờ đợi, xoay đường này cách khác, năm 1952 ông đã đưa cả gia đình về Sài Gòn, làm việc một thời gian ngắn ở Viện Khảo cứu Nông nghiệp Sài Gòn, Bộ Canh Nông (nay là Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam), sau đó quá cảnh bưng biền và đầu năm 1954 cả nhà cùng lên một chuyến tàu tập kết ra Bắc (Tượng nhà nông học Lương Định Của ở Viện Cây Lương thực và Cây Thực phẩm, bài và ảnh HDO trong bài Nhà nông học Lương Định Của với Hải Dương).

Nhà báo Phan Quang kể tiếp Kỷ niệm đời thường về nhà khoa học Lương Định Của:

“Hồi còn là sinh viên, ông đã cùng nhiều lưu học sinh Nhật và nước ngoài trong đó có Đặng Văn Ngữ, tham gia các cuộc biểu tình tuần hành phản đối thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Theo như ông còn nhớ, ít nhất có bốn cuộc lớn, ba lần ở Tokyo, và một lần ở Kyoto. Hoạt động chống chiến tranh Việt Nam có thuận lợi là Đảng Cộng sản Nhật Bản hết lòng ủng hộ cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Nhiều Việt kiều ở Nhật nhờ thông qua Đảng Cộng sản Nhật Bản hoặc các tổ chức nhân dân do Đảng lãnh đạo mà giữ được mối liên hệ liên tục với phong trào kháng chiến trong nước.

Qua sự giới thiệu của một người bạn, một mặt Lương Định Của tiếp xúc với các nghị sĩ tiến bộ trong Quốc hội Nhật, nhờ giúp đỡ tạo điều kiện cho ông sớm được trở về vùng tự do nước Việt Nam. Thượng Nghị sĩ Kazami được các bạn Nhật cử đứng ra lo liệu việc này. Mặt khác, Lương viết thư gửi Đại sứ quán ta ở Bắc Kinh bày tỏ mong muốn của mình, và chẳng bao lâu sau nhận được thư Đại sứ trả lời đã chuyển nguyện vọng của ông về nhà. Theo sự hướng dẫn của ông Kazami, mùa hè 1952 Lương Định Của xin thôi việc ở Kyoto, lên thủ đô Tokyo chờ ngày về nước.

Ông xin việc làm ở Sở Nghiên cứu Khoa học Nông nghiệp Trung ương của Nhật Bản để có thể thu nhập trong thời gian chờ đợi. Đầu những năm 50, sau chiến thắng biên giới, tình hình nước ta rất sôi động. Đảng Lao động Việt Nam đảm nhiệm công khai sứ mệnh lịch sử lãnh đạo toàn dân kháng chiến. Mặt trận Liên Việt thành lập, giương cao ngọn cờ đại đoàn kết. Các vùng tự do được giữ vững. Chiến tranh nhân dân phát triển mạnh ở vùng sau lưng địch.

Thực dân Pháp ý thức rõ, tiến hành phá hoại kinh tế, gây nạn đói kém, cắt nguồn hậu cần của Quân đội Nhân dân Việt Nam là một mặt trận có ý nghĩa chiến lược đối với thành bại của chúng trong chiến tranh.Thông tri của tướng De Linarès, tư lệnh chiến trường Bắc Bộ gửi các cấp dưới đề ngày 14-3-1951 hướng dẫn cụ thể như sau:

“… Về phá hoại, có hai cách thực tế có thể áp dụng: a) làm ướt thóc hoặc bắt dân phải để thóc lúa ngoài trời trong mùa mưa ẩm. Tuy nhiên, để chắc chắn hạt gạo sẽ thối hẳn, phải dấp nước cho ướt thóc trong thời gian bốn mươi tám giờ. Ngoài ra, để cho sự phá hoại bảo đảm hiệu quả chắc chắn của nó, trong thời gian ấy, phải canh giữ không để cho dân chúng đến lọc lấy phần thóc còn tốt mang đi cất giấu; b) những kho thóc quan trọng nào phát hiện được, cho tưới xăng hoặc dầu nặng vào…” .

Tháng Chín năm 1952, ông Kazami báo cho Lương Định Của biết, có một tàu buôn Nhật Bản sắp sang Hồng Công rồi từ đó đến thành phố Thiên Tân của Trung Quốc. Ông đề nghị Lương đáp chuyến tàu ấy. Vào được Trung Quốc rồi thì rất dễ dàng về Việt Bắc vì biên giới Việt Trung đã thông, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã kiến lập quan hệ ngoại giao; giữa hai nước có tình hữu nghị sâu sắc. Ông nói đã nhờ Hội Hoa kiều tại Nhật Bản làm các thủ tục cần thiết cho gia đình Lương nhập cảnh Trung Quốc, ông cũng đã có liên hệ để thông báo với Chính phủ Việt Nam về chuyện này.

Lương Định Của vào Hồng Công, đến biên giới Cửu Long trình giấy giới thiệu của Hội Hoa kiều tại Nhật Bản. Biên phòng Trung Quốc cho biết chưa nhận được chỉ thị. Các bạn khuyên Lương nên trở lại Hồng Công lấy visa nhập cảnh. Hành lý có thể cho chuyển trước sang biên giới, đưa về thành phố Quảng Châu. Vài hôm nữa gia đình Lương đến thì có thể vào Trung Quốc, đến thẳng Quảng Châu luôn.

Trở lại khách sạn, Lương tìm cách liên hệ với Đại sứ quán ta ở Bắc Kinh, vừa gọi điện thoại vừa gửi thư song chờ mãi không thấy hồi âm. Tiền túi cạn dần: phòng trọ khách sạn rất đắt. Hàng ngày bà Của xuống phố mua bánh mì cho cả nhà ăn. Lúc này mới thấy hết bản lĩnh của người phụ nữ ấy. Ông lo cuống lên, bà chỉ cười: “Không sao, để tính xem”. Về đến Việt Nam ông thú thật với bạn bè, nếu không có bà thì với hai đứa con nhỏ, ông chẳng biết đường nào xoay xở trong những ngày quá cảnh Hồng Công. Thái độ bình tĩnh và đầy thông cảm của bà có tác dụng trấn an ông.

Sau một tuần chờ đợi trong lo âu, xuất hiện một người lạ mặt ăn mặc sang trọng. Ông nói: nếu Lương có giấy giới thiệu của Ngân hàng Trung Hoa thì ông có thể giúp cho qua biên giới. Lương Định Của chẳng có giấy tờ gì khác ngoài thư giới thiệu của Hội Hoa kiều tại Nhật Bản. Người lạ mặt khuyên, nếu vậy thì nên theo ông về Macao, ở nhờ nhà con trai ông một thời gian, chờ xin phép nhập cảnh.

Hồng Công là điểm quá cảnh, khách không được phép ở lại lâu. Lương Định Của hết sức phân vân. Người này ông chưa từng quen biết. Trong túi ông lại không có tiền, trừ gói hạt giống dưa. Đến áo quần thay hằng ngày cũng không có đủ vì các valy đã gửi hết vào Trung Quốc rồi.

Ông quyết định hẵng trở về Sài Gòn, rồi tìm cách ra vùng tự do sau. Ông đánh điện cho một người bạn ở Sài Gòn, báo tin mình đang trên đường về nước, đến Hồng Công thì mất hết đồ đạc, nhờ bạn đặt mua vé máy bay cho hai người lớn hai trẻ con, và cho vay tạm hai nghìn USD.

Ngay chiều hôm ấy, nhận được ngân khoản người bạn gửi đến thông qua một ngân hàng lớn. Có tiền, có vé trong tay, ông còn nấn ná lại thành phố này ba tuần nữa, hy vọng có tin tức Đại sứ quán ta tại Bắc Kinh. Cuối cùng hết hạn quá cảnh mới đáp máy bay về Sài Gòn.

Chính quyền Sài Gòn nồng nhiệt đón bác sĩ nông học Lương Định Của du học từ Nhật Bản về. Bộ trưởng Nông Lâm mời ông đến cơ quan, mở rượu whisky chúc mừng, và ngỏ ý mời ông làm thứ trưởng. Lương tìm cách thoái thác khéo. Ông khiêm tốn nói mình xa đất nước đã lâu, xin cho làm việc hợp đồng một thời gian để quen thêm thung thổ và bạn bè, rồi mới dám chính thức nhận nhiệm vụ.”

Theo lời kể của anh Lương Hồng Việt. Bác sĩ nông học Lương Định Của sau đó đã nhận làm việc ở Viện Khảo cứu Nông nghiệp Bộ Canh nông (nay là Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam) .

Theo hồi ức của thầy Phan Gia Tân, giảng viên Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, thì sau ngày Việt Nam thống nhất 30.4.1975, giáo sư Lương Định Của đã đi tìm Giáo sư Tôn Thất Trình ở Trường Đại học Nông nghiệp Sài Gòn (nay là Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh). Thầy Của tiếc không gặp được thầy Trình vì thầy đã ra đi trước đó. Tấm lòng tri ngô của họ mãi là dấu ấn của các trí thức lớn…

Giáo sư Tôn Thất Trình là người đã hai lần làm Bộ trưởng Bộ Canh nông chính quyền Sài Gòn và Hiệu trưởng Trường Đại học Nông nghiệp Sài Gòn. Thầy trực tiếp giảng dạy môn cây lương thực, nông học đại cương và một số môn học khác. Trong cơn lốc của các sự biến, thầy Trình đã sang làm việc ở FAO với cương vị Chánh Chuyên viên và Tổng Thư ký Chương trình Lúa Gạo Quốc tế, tiếp tục giúp Việt Nam sau hậu chiến.

Vị trí Tổng Thư ký Chương trình Lúa Gạo Quốc tế ở FAO, sau ngày GS. Tôn Thất Trình nghỉ hưu được tiếp nối bởi TS. Trần Văn Đạt, TS. Nguyễn Văn Ngưu, và nay là PGS.TS. Bùi Bá Bổng nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Đó là những người Việt lỗi lạc ở FAO.

Câu chuyện về thầy Trình, tôi đã có kể trong bài Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời. Cái bàn và nơi ngồi làm việc của thầy Trình, sau ngày Việt Nam thống nhất là chỗ ngồi và nơi làm việc của PGS. TS. Lê Minh Triết giảng viên cao cấp và tôi được may mắn được kế nhiệm tiếp nối việc giảng dạy và nghiên cứu cây lương thực (lúa, ngô, sắn, khoai lang).

Trở lại câu chuyện giáo sư Lương Định Của. Theo lời kể của nhà báo Phan Quang:

“Gia đình ông sống cùng gia đình người em trong ngôi nhà ở Đa Cao. Em gái ông có chồng đi kháng chiến, thỉnh thoảng lại kiếm cớ vắng nhà. Ông biết chị ra bưng thăm chồng.

Một hôm, vào ngày chủ nhật, ông đang ngồi chơi trước cửa thì thấy một người ăn vận có vẻ như vừa từ nông thôn ra, đi thẳng vào nhà sau nói chuyện với cô em gái. Khách về, Lương hỏi ai vậy, cô em trả lời: “Người ta muốn mời anh ra vùng kháng chiến đấy”. – Vậy em trả lời họ thế nào? Cô em cười: “Em nói, anh vợ con tùm lum thế kia thì làm sao đi kháng chiến được”. Lương Định Của lặng im, vì dự định từ Nhật Bản về thẳng miền Bắc không thành, ông không hề hé răng cho ai biết.

Hiệp định Genève về Đông Dương (1954) được ký kết. Trong giới trí thức Sài Gòn lại một lần nữa xôn xao – tuy thầm lặng – về việc ra đi hay ở lại. Nơi cơ quan Lương làm việc có một chị tên là B., em gái một bác sĩ nha khoa vốn là bạn của ông sau này cũng tập kết ra Bắc và cùng gặp lại nhau tại Hà Nội, có lần hỏi giọng nửa đùa nửa thật: “Nè, Chính phủ Việt Minh kêu gọi trí thức ra Bắc đấy, anh có đi không?”.

Lương nghiêm trang trả lời ông muốn đi. Chị B. bắt liên lạc, bố trí kế hoạch cho ông rời Sài Gòn. Chờ đợi một thời gian khá lâu mới có hồi âm. Lương Định Của nói với các em, ông muốn cho gia đình đi nghỉ mát ở Ô Cấp (Cap Saint Jacques – Vũng Tàu ngày nay) mấy hôm. Nửa đường, theo mật hiệu “cứ theo người có chửa mà đi”, ông đổi xe, đổi hướng, theo người phụ nữ ấy về thành phố Mỹ Tho. Từ đấy lại đổi xe khác, có người khác đón ra bưng biền.

Lương Định Của được nhà lãnh đạo Phạm Hùng tiếp ngay khi vừa đến cứ. Anh Bảy trò chuyện thân tình, và cho ông một bộ quần áo bà ba.

Năm 1954, qua liên lạc biệt động, gia đình giáo sư gửi thư xin phép đi tập kết. Anh Hồng Việt kể lại: “Từ Sài Gòn, theo biệt động đưa về Cần Thơ, xuống căn cứ Cà Mau và đi tàu Ba Lan ra Sầm Sơn, Thanh Hoá.

Ấn tượng đầu tiên là hưởng luôn một trận gió mùa đông bắc. Nhưng ngày hôm sau là 1.1.1955, gia đình được chứng kiến ngày lễ tưng bừng”. Luồng gió từ Hà Nội là bước ngoặt của nhà nông học Lương Định Của.


LƯƠNG ĐỊNH CỦA NHÀ BÁC HỌC NÔNG DÂN

Nhà báo Phan Quang kể về “Gánh xiếc Đông Phương Hồng” và những công việc cụ thể thường ngày của Bác Của:

“Bước vào thập niên 60 thế kỷ trước, công cuộc hợp tác hóa nông nghiệp ở miền bắc vừa hoàn thành, khắp mọi nơi sôi nổi phong trào cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động nông nghiệp. Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh được phân công kiêm Trưởng ban Nông nghiệp Trung ương. Bác Hồ đích thân chỉ thị cho ông tìm cách khuấy động phong trào, tạo khí thế thi đua phát triển sản xuất, xây dựng nông thôn mới.

Đội ngũ các nhà khoa học nông nghiệp, bắt đầu từ các con chim đầu đàn được đào tạo trong nước hoặc học từ nước ngoài về: Bùi Huy Đáp, Nguyễn Đăng, Lê Duy Thước, Trần Văn Hà, Dương Hồng Hiên, Trần Thế Thông, Đào Thế Tuấn, Lã Xuân Đĩnh…, mỗi vị một nghề chuyên sâu, sẵn sàng xắn quần lội ruộng.

Lương Định Của là chuyên gia về giống, được phân công chỉ đạo huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa, lấy hợp tác xã Đông Phương Hồng làm thí điểm. Nhà nông học cùng mấy học trò kỹ sư có, trung cấp có lếch thếch gồng gánh đồ lề rời thủ đô về mảnh đất vốn nổi tiếng “địa linh nhân kiệt”, đã góp phần rất to lớn về hậu cần cho chiến thắng Điện Biên Phủ song nghèo thì vẫn nghèo, vì mùa màng bấp bênh, năng suất lúa bình quân thấp. Anh em trong ngành nông nghiệp và cán bộ địa phương gọi đùa đội chỉ đạo của thầy trò Ông Của là “Gánh xiếc Đông Phương Hồng”.

Từ bấy, trên cánh đồng ruộng Thọ Xuân hầu như ngày nào bà con nông dân cũng thấy một người trạc tuổi trung niên dong dỏng cao, đầu đội nón lá, mình mặc sơmi mầu cỏ úa, quần xắn ống thấp ống cao quẩn quanh từ sáng đến xế chiều. Nông dân đã quên đi hoặc chẳng buồn quan tâm đến học vị cao siêu cũng như các chức danh rối rắm khác của ông trưởng đoàn chỉ đạo do Trung ương phái về mà chỉ biết đấy là Bác Của – không phải “bác” trong cụm từ thông thái “bác sĩ nông học” mà là “bác” như nông dân vùng này vẫn thường gọi nhau: bác Đỏ, anh Cò…

Nông dân chấp nhận nhà bác học nói giọng Nam Bộ như một người thân thuộc bà con lối xóm của mình. Lương Định Của là một người thẳng tính. Mới về huyện Thọ Xuân, dạo quanh một vòng quan sát đồng ruộng nơi cạn nơi úng, ông nói với Bí thư Huyện ủy: “Cánh đồng của anh như cái nồi đất thủng, nấu cơm không chín đâu”.

Ông chủ trương bắt đầu từ việc xây dựng đồng ruộng, làm bờ vùng bờ thửa. Hợp tác xã được chọn làm điểm chỉ đạo. Đông Phương Hồng vốn là một đơn vị làm ăn căn cơ, nhiều lần được báo chí nêu gương. Chủ nhiệm am hiểu kỹ thuật, báo cáo hay, “nói như viết trên báo”. Năng suất lúa đạt ba tấn/ha mỗi vụ – một mức khá cao thời ấy. Song chỉ cần làm một việc cực kỳ giản đơn là lấy tổng sản lượng thóc chia cho diện tích cấy trồng thì năng suất bình quân không đúng như lời chủ nhiệm báo cáo.

Lương Định Của đập bàn: “Anh nói dối. Báo cáo không đúng sự thật. Thế này không chỉ đạo được. Anh làm ăn vậy thì tôi thà đi nơi khác còn hơn”. Tuy vậy chẳng mấy chốc đoàn chỉ đạo và cán bộ hợp tác xã thân thiết với nhau. Đông Phương Hồng nổi bật lên như một điểm sáng thật sự. Toàn huyện Thọ Xuân cũng đạt kết quả khá nhờ xây dựng đồng ruộng, làm thủy lợi, cải tiến đồng bộ kỹ thuật, tạo điều kiện đưa các giống mới vào cơ cấu cây trồng.

Năm sau, Bộ Nông nghiệp tăng cường cho đoàn mười lăm kỹ sư mới tốt nghiệp, để bác Của cấy về các huyện khác trong tỉnh Thanh Hóa, nhân phong trào lên. Một chủ nhiệm hợp tác xã của huyện Thọ Xuân, Trịnh Xuân Bái, được tôn vinh Anh hùng Lao động hình như trước cả Lương Định Của và nhiều Anh hùng Lao động lừng lẫy khác.”

“Lúc gánh xiếc Đông Phương Hồng mới về, lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa chưa tiếp xúc ngay. Bí thư Tỉnh ủy Ngô Thuyền lặng lẽ cử cán bộ quan sát cung cách làm ăn của đoàn chỉ đạo. Một tháng sau, ông cho mời bác sĩ Lương Định Của về cơ quan, tiếp đón trọng thể, và chỉ thị cho văn phòng, mỗi lần bác Của có việc ghé thị xã thì mời vào nghỉ tại nhà khách của Tỉnh ủy (hồi ấy gọi là Nhà giao tế), và được mua thêm thuốc lá Điện Biên ngoài tiêu chuẩn… Trong hoàn cảnh đầu những năm sáu mươi thế kỷ trước, như vậy đã là một sự ưu ái.

Lương Định Của thành công trong việc vận động cấy lúa có chăng dây cho thẳng hàng và cầm ngửa tay bó mạ. Đó là phương pháp ông học của Nhật Bản và đã từng được áp dụng rộng rãi ở Triều Tiên. Cấy theo cách này thì cây mạ cắm nông, chóng bén rễ, lại bảo đảm mật độ quy định để đạt năng suất mong muốn cho từng loại ruộng. Mặt khác, cấy chăng dây thẳng hàng buộc phải làm đất kỹ, và có thể dùng bừa cỏ cải tiến để làm cỏ sục bùn – cũng là những yếu tố đạt sản lượng cao.

Nhưng ông là một người – cũng như hầu hết các nhà nông học tên tuổi và cán bộ chỉ đạo nông nghiệp của ta thời ấy – cực lực phản đối việc “thâm canh” bằng cách cấy lúa dồn, ken cây lúa thật dày, dày tới mức trẻ con có thể đứng lên trên ngọn các bông khi lúa chín. Phương pháp “tăng năng suất” này khởi thủy từ phong trào đại nhảy vọt ở Trung Quốc, được một số người truyền bá vào và khuyến khích áp dụng tại nước ta. Có người quát: “Sáu trăm triệu nhân dân Trung Hoa làm được, tại sao ta không làm”. Lương Định Của bình tĩnh trả lời: “Thưa, tôi đã có làm thí nghiệm. Kết quả: không được”.

Lương Định Của trước sau là một nhà di truyền học, một người tạo giống. Ông đạt nhiều thành tựu trong lĩnh vực ấy. Vì được giao trách nhiệm chỉ đạo cơ sở, ông buộc phải đánh lấn sang các sân khác. Cùng với tác phong đi sát thực tế, phương pháp suy luận khoa học giúp ông nhiều.cũng vào dạo ấy, có một cuộc họp các nhà quản lý nông nghiệp và nhà khoa học đầu đàn tại nhà riêng Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, phố Lý Nam Đế. Nội dung: bàn và quyết định về chiếc cào cỏ cải tiến, để cho sản xuất hàng loạt. Đấy là chiếc cào răng sắt có trục quay đẩy hoặc kéo trên mặt ruộng mềm, vừa làm cỏ vừa sục bùn, bàn cào rộng vừa đủ để chạy giữa hai hàng lúa. Dùng công cụ này thì đỡ cho chị em nhà nông phải khom lưng cào cỏ sục bùn bằng tay, bán mặt cho đất bán lưng cho trời.

Thật ra công cụ này đã được dùng phổ biến ở nước ngoài. Có hai loại. Loại một bàn tra cán dài cho người đứng thẳng đẩy bằng tay. Loại gắn nhiều bàn thì cho bò kéo. Một nhà khoa học nổi tiếng chủ trương áp dụng loại cào bò kéo, năng suất lao động sẽ cao, đáp ứng đúng yêu cầu của đất nước chuẩn bị bước vào chiến tranh.

Lương Định Của đề nghị nên dùng cào đơn, người đẩy, cho gọn nhẹ. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh ngồi yên, đầu hơi cúi vừa chăm chú nghe vừa rít thuốc lá, thỉnh thoảng gật gù tán thưởng. Các nhà khoa học lần lượt trình bày xong, ông ngửng đầu dụi tắt điếu thuốc lá hút dở: “Tôi tán thành ý kiến của anh Của. Dùng loại bừa do bò kéo đúng là sẽ đạt năng suất lao động cao. Nhưng ta lấy đâu ra bò mà kéo?”.

LƯƠNG ĐỊNH CỦA CHÍNH KHÁCH GIỮA LÒNG DÂN

Giáo sư Lương Định Của rất ít ảnh để lại, hình ảnh của ông là ở trong lòng dân. Ông là chính khách giữa lòng dân thật giản dị và chân thực. Bức ảnh trên đây từ Giáo sư Bùi Trọng Liễu khi ông ở Pháp về năm 1970 đến thăm Viện Cây Lương thực và Cây Thực phẩm tại Tứ Lộc Hải Dương hai năm sau ngày Viện được thành lập. Ngắm ảnh Giáo sư Viện trưởng Lương Định Của gầy gò, mặt rạng ngời, áo sơ mi phong phanh, tay áo xắn cao, tiếp chuyên gia nổi tiếng từ nước ngoài về một cách vui vẻ, thoải mái trong căn nhà lá thấy rõ cửa sổ tre đang chống lên, chúng ta hiểu thêm một ít về Thầy.

Hồi ký của bà Nobuko Luồng gió từ Hà Nội có in hình giáo sư Lương Định Của và Thủ tướng Phạm Văn Đồng đang lội ruộng xem cây trồng vào lúc chiến tranh đang khốc liệt. Như tất cả các gia đình cán bộ lúc đó, nhà bà phải ly tán đi làm nhiệm vụ: giáo sư làm việc ở Gia Lộc, Hải Dương; các con lớn gửi vào trường học sinh miền Nam; bà cùng cơ quan sơ tán về gần chùa Thầy, Quốc Oai. Bà cũng là phát thanh viên tiếng Nhật của đài Tiếng nói Việt Nam và vinh dự là người đọc bản tin loan báo chiến thắng lịch sử 30.4.1975.

Nhà báo Phan Quang đã tái hiện chân thực cuộc sống đời thường của nhà bác học nông dân trong phần 2 của bài “Kỷ niệm đời thường về nhà khoa học Lương Định Của”:

“Tập kết ra Bắc, tiến sĩ nông học Lương Định Của được phân về nhận việc tại Học viện Nông Lâm, đóng ở Gia Lâm. Là một nhà di truyền học nổi tiếng, ông được phân công phụ trách nghiên cứu và ứng dụng lai tạo giống. Ít lâu sau, Học viện tách làm đôi: Trường Đại học Nông Lâm, vẫn đóng ở địa điểm cũ, và Viện Khoa học Nông nghiệp chuyển sang bên này sông Hồng, xây dựng hoàn toàn mới ở Văn Điển.

Năm 1960, ông được bầu làm Đại biểu Quốc hội tỉnh Hải Dương, khóa II, và được bầu lại liên tiếp ba khóa nữa, cho đến khi qua đời. Lương Định Của về Viện. Bà Của – tên con gái là Nakamura Nobuto, thuộc một gia đình quý tộc phá sản vì chiến tranh – giúp việc ông trong việc lai tạo giống, hưởng lương nhân viên bốn mươi đồng một tháng.

Ông mang từ Nhật Bản về hai con trai sinh bên ấy. Về nước lại đẻ thêm hai đứa nữa. Vào lúc đó có chủ trương giảm biên chế. Bà Của làm công tác khoa học mà chưa có bằng đại học chuyên ngành, theo chính sách chung, đưa ra ngoài biên chế.

Cả nhà sáu miệng ăn, trông vào lương ông Viện phó, cho dù đã được ưu ái xếp tận trần thì bậc lương cao nhất của Phó Viện trưởng cũng không thể vượt quá một trăm năm mươi lăm đồng. Cộng thêm năm đồng phụ cấp ưu đãi gì đó nữa, tổng cộng mỗi tháng lĩnh tròn một trăm sáu mươi đồng. Với sự chuẩn xác của nhà khoa học, bác sĩ Của ghi vào tờ khai thu nhập bình quân gia đình: Hai mươi sáu phẩy sáu đồng.

Một ngày chủ nhật, Thủ tướng Phạm Văn Đồng về thăm Viện, xem giống lúa, vườn cây, đồng rau, chuồng gia súc, thí nghiệm… Phó Viện trưởng Lương Định Của hướng dẫn Thủ tướng. Đang đi trong Viện thì xe thủng lốp. Người lái xe xin Thủ tướng mười phút thay lốp xơcua. Anh Tô (*) nói: “Ta vào thăm nhà anh Của đi”.

Lương Định Của vội chạy về trước. Gia đình ông được cơ quan phân cho một ngôi nhà cấp bốn ba gian, mái lợp tranh. Trên bếp lò còn chảo cơm rang buổi sáng ăn dở, ông vội vàng lấy chiếc lồng bàn úp lại. Rồi vơ cuộn vội đống chăn lũ trẻ ngủ dậy muộn chưa kịp gấp, vứt bừa bãi. Các chăn bông không còn vỏ bọc, vì chỉ đủ tiền mua những cái cốt dày chống rét miền Bắc thôi. Bà Của sửa sang áo tóc, đứng ra bên cửa cúi mình rất thấp rước Thủ tướng vào nhà.

Anh Tô liếc nhìn cuộn chăn bông không có vỏ và chiếc lồng bàn úp luôn trên bếp lò, cảm ơn song không bước qua cửa mà thoái thác “Tôi muốn xem mấy cây táo”. Quả là trong vườn gia đình có trồng ba cây táo tạo dáng đẹp và rất sai quả, táo ta mà quả nào quả nấy to gần bằng trứng gà. Bác sĩ Lương Định Của nổi tiếng về mấy cây ăn trái này. Bà con hàng xóm đồn ông Của có mang hóa chất đặc biệt từ Nhật về, cho nên cây nào ông trồng cũng sai quả và quả to đến thế. Đấy, xem như rau muống là thứ phổ thông nhất, ông cho hóa chất vào, cọng rau cứ to tày thân cây sậy; rau muống ông Của chẳng đang phủ kín đồng, dùng làm thức ăn cho lợn là gì.

Trả lời Thủ tướng hỏi giống táo gì đây, bác sĩ Lương Định Của đáp: “Thưa, táo Thiện Phiến, Hưng Yên đấy ạ”. Nhiều người cho là ông Của không nói thật. Ngay trên Bộ Nông nghiệp cũng có ý kiến xì xầm tay Của giỏi giấu nghề. Lương Định Của bực lắm. Ông nói: “Báo cáo Thủ tướng mà dám nói sai, tôi không sợ vào tù sao?”.

Quả thật, đấy đúng là giống táo Thiện Phiến. Ông Của nhờ bạn là Trưởng Ty Nông nghiệp Hưng Yên chiết cho ba cành, ông mang về trồng trong vườn cho lũ trẻ có thêm vitamin; gia đình làm gì đủ tiền mua trái cây như thời bên Nhật Bản hoặc ở thành phố Sài Gòn. Cái quan trọng, ông nói, là biết chăm sóc và tạo dáng. Tỉa cành. Vặt bớt những quả bé đi. Và dạy cho lũ trẻ con, phải chờ cho quả thật chín mới được hái, không được bứt phá khi quả còn xanh.

Thủ tướng đến thăm cữ giáp Tết, đúng vào mùa thu hoạch, cho nên ba cây táo trong vườn nhà ông mới đẹp đến vậy. Chia tay ra về, Thủ tướng Phạm Văn Đồng vỗ vai nhà nông học: “Anh Của à, anh làm nghiên cứu, thường xuyên đi với nông dân, tác phong giản dị là tốt. Nhưng nông dân ta không bẩn đâu nhé. Nhà anh bẩn lắm!”.

Và người đứng đầu Chính phủ kết thúc câu nói bằng một tràng cười sang sảng quen thuộc. Lương Định Của đưa tay gãi cái trán đã bắt đầu hói, khẽ “dạ”. Từ bấy trở đi, mỗi kỳ lễ tết, anh Tô lại gửi cho cái phong bì một trăm rưởi, hai trăm đồng. Phó Thủ tướng Phạm Hùng chỉ thị chuyển bà Nakabura Nobuto, mà từ lâu rồi mọi người chỉ biết gọi là bà Của về làm việc ở Ban tiếng Nhật Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, hưởng lương cán bộ.

Chưa bao giờ ai nghe Lương Định Của có một lời phàn nàn về cuộc sống. Ông chỉ buồn về những trục trặc nhỏ trong quan hệ bạn bè, đồng nghiệp. Nỗi day dứt của ông là không đủ tiền đặt mua tạp chí khoa học của nước ngoài. Đúng vào dịp này, ông viết sơ yếu lý lịch cá nhân, mục “GIA ĐÌNH – Vợ người Nhật Bản. Có bốn con. Đứa lớn học trường miền Nam số 25, lớp năm. Đứa kế học trường ở Văn Điển, lớp ba. Lương hàng tháng đủ sống, không rách rưới, thiếu thốn gì. Ở Sài Gòn còn ba em, hai gái, một trai. Đứa em gái lớn chưa có chồng, đứa em kế đó chồng đi tập kết có hai con, thằng em út thì làm sĩ quan trong quân đội Sài Gòn”.

Thời chống chiến tranh phá hoại, xã hội thiếu thốn nhiều thứ, Lương Định Của quan tâm vấn đề dinh dưỡng cho mình cũng như cho đồng sự bạn bè, nhưng ông là người sống điều độ. Ngay đến khi lớn tuổi, ông vẫn giữ được dáng người thanh thoát, chỉ có cái trán là mỗi ngày mỗi hói và bóng hơn. Thỉnh thoảng ông có nhấm nháp vài chén hạt mít rượu ngang cùng các Bí thư huyện hoặc cánh nhà báo song để vui là chính. Một vại bia hơi đủ làm mặt ông ửng đỏ.

Có lần ông mang rượu thuốc ra mời anh em: “Anh Nguyễn Tạo (Tổng cục trưởng Lâm nghiệp) vừa gửi cho cái lộc nhung. Tôi nhờ ông Phùng mua cho một vò Phú Lộc, các anh tha hồ uống”. Ít lâu sau gặp lại thấy bữa ăn suông, tôi hỏi vui: “Hết rượu lâm nghiệp rồi sao:”. Ông đáp: “Hết thế nào được. Tôi cho mang lên Hà Nội. Sợ để ở Viện đêm ngồi đọc sách một mình, buồn lại mang ra uống thì chết. Rượu bổ, uống nhiều có hại”.

Lần nhà tôi sinh cháu thứ hai, tôi đi công tác xa. Một hôm bà thấy có tiếng gõ cửa. Xuất hiện một người quen quen mang cho hai quả đu đủ chín và mấy chai cà chua nghiền: “Chị dùng quả đu đủ, nhiều sữa cho cháu. Còn thứ purée này làm từ cà chua, tự tay tôi chế biến. Chị cho cháu lớn phết với bánh mì ăn sáng trước khi đi học, người Nhật vẫn dùng món này lắm…”. – Xin lỗi, anh là… Ông gãi cái trán hói: “Tôi là Của, Lương Định Của…”.

Dạo ấy đồng bằng Bắc Bộ mở rộng việc trồng cà chua vào vụ đông. Được mùa, cà chua tươi không xuất khẩu được, dân bày ra bán từng đống đỏ rực hai bên đường 5, thật là trên trời dưới cà chua. Ông Của từng bày cho chúng tôi cách làm bột cà chua nghiền để dành ăn dần. Chừng này quả, ngần này đường kính, ngần này muối, ngần này tỏi, vô trùng dụng cụ thế này, cho vào lọ, phủ lớp dầu ăn mỏng lên trên để lâu không bị nấm mốc… Anh em nể ông, chăm chú nghe, có người còn ghi chép, song rắc rối quá chẳng ai thực hành.

Một chiều, tan giờ làm việc, anh Hoàng Tùng, Tổng biên tập báo Nhân Dân tự dưng nảy ý, bảo tôi: “Tối nay ta đến thăm ông Của đi”. Nhà ông ở khu tập thể Kim Liên. Con đường chạy qua trước nhà ông thời ấy nay mang tên phố Lương Định Của, nó băng qua đường Phạm Ngọc Thạch để nối liền phố Đặng Văn Ngữ.

Hồi mới được phân căn hộ ở đây, ông vui mừng khoe với bạn bè. “Mình ở tầng trên cùng. Thành ra tận dụng được cái trần, làm nơi tạm chứa sách”. Thời chiến tranh, điện đóm phập phù, đường trong khu tập thể tối mò, tối nhất là các cầu thang. Nhà ông không có điện thọai, không thể báo trước.

Anh Hoàng Tùng theo tôi mò mẫm lên tầng năm. Lương Định Của ra mở cửa, hơi lộ vẻ ngạc nhiên song niềm nở mời vào.

Nơi tiếp khách của ông chỉ có mỗi cái bàn và bốn ghế gỗ rẻ tiền cấp theo tiêu chuẩn. Chiếc đèn bão không đủ sáng. Trên bàn, ngổn ngang vỏ bưởi: nhà nông học đang bóc trái cây mời vợ. Các cháu đều theo trường học nơi sơ tán. Lương Định Của lúng túng gạt tất cả những thứ trên bàn xuống cái chậu, nói với anh Hoàng Tùng: “Ăn bưởi còn tốt hơn ăn cam”. Trong múi bưởi có nhiều chất sắt”.

Tôi nghe nói, chính vì nhà không có điện thoại riêng, một tối cuối tuần ông có triệu chứng nhồi máu cơ tim, không thể gọi xe cấp cứu, khi đưa ông vào bệnh viện Bạch Mai thì đã quá muộn, mặc dù nơi ông ở chỉ cách nhà thương có một quãng đường.”

Theo Dương Đình Tường, báo Nông nghiệp Việt Nam trong bài viết: “GS Lương Định Của đã chết vì hóc xương?” thì giáo sư Lương Đình Của mất là do nhồi máu cơ tim mà không phải đã chết vì hóc xương hoặc do máy bay rơi như một số lời đồn. Tư liệu ghi theo lời kể của ông Nguyễn Quốc Tuấn và ông Trần Quý Lộc, cán bộ Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm .

“Năm 1975, Thủ tướng cử chuyên gia đầu ngành về cây lúa là Lương Định Của sang giúp Cu Ba. Trở về sau chuyến đi, ông tham gia họp Quốc hội khóa thống nhất đầu tiên của đất nước. Những ngày khác ông Tôn Đức Thắng thường chiêu đãi mọi người cơm nhưng hôm đó lại chiêu đãi bánh kẹo. Ông Của chia gói bánh của mình làm đôi, nửa cho ông Nguyễn Hoài Bắc nửa mang về nhà….Tối đó, bà Của làm cơm, có rán nem để chồng nhắm rượu. Bữa rượu tại nhà đó uống xong ông chẳng may phải cảm, thấy khó thở nên dậy tập khí công. Ba người phụ nữ trong nhà là bà Của và hai cô con dâu đang bụng mang dạ chửa tính gọi xe cấp cứu nhưng ông can: “Rồi cuối cùng sẽ qua thôi”. Từ 8 giờ tối đến 11 giờ tối, tình hình mỗi lúc một trầm trọng. Chiếc com măng ca khi ấy của Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm đang để ở gara của Viện Thú y, lái xe thì chẳng biết ở đâu vì điện thoại không có. Khó thở quá nên ông Của nôn khan. Thức ăn từ thực quản trào vào khí quản. Gần như ông đã tắc thở từ ở nhà. Sau khi giải phẩu tử thi, mổ sọ ra không thấy có gì bất thường, mổ tim ra thấy có cục máu đông bằng hạt tấm ở động mạch.

Nhà nông học Lương Định Của ra đi khi mới 55 tuổi để lại dở dang ước mơ đưa nông dân Việt bắt nhịp cùng nông dân Nhật. … Sáng 28/12/1975, Đài Tiếng nói Việt Nam thông báo trước quốc dân, đồng bào tin nhà khoa học Lương Định Của đã ra đi…

Trước ngày ra đi đột ngột đó, ông đã rất thành công với giống lúa xuân sớm được đặt tên là Nông nghiệp 75-1 chịu được cái rét cắt da, cắt thịt ở miền Bắc và có năng suất cao. Năm 1978, sau đúng ba năm ngày mất của GS Lương Định Của, giống lúa này đã chính thức được công nhận, cấp bằng sáng chế.”

Lương Định Của, chính khách giữa lòng dân. Tôi nhớ lời Giáo sư Trần Văn Giàu nói với TS. Quách Thu Nguyệt trong bài “Những bài học nhỏ từ người thầy lớn” : ” Học sử là để biết và không quên cội nguồn. Người làm sử phải chép lại quá khứ bằng sự thật một cách khách quan, khoa học” . Có nhiều chính khách đi qua đời tôi. Lương Định Của lắng đọng trong tôi một nhân cách, một người thầy lớn.


THẦY BẠN VÀ HỌC TRÒ LƯƠNG ĐỊNH CỦA

Thầy bạn và học trò của nhà bác học nông dân Lương Định Của là những ai? Giáo sư Lương Định Của mất năm 1975 nên đó vẫn còn là một câu hỏi lớn.

Thầy hướng dẫn luận án tiến sĩ của Lương Định Của là Giáo sư Kinhara, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Sinh học Kinhara, Trường Đại học Kyoto. Báo Mainichi Shimbun số ra ngày 26 tháng 5 năm Chiêu Hòa thứ 26 năm 1951 đăng chân dung lớn của nhà khoa học trẻ ba mươi mốt tuổi Lương Định Của là người Việt Nam đầu tiên được cấp bằng bác sĩ nông học của Nhật.

Ai là người ảnh hưởng lớn đến nhà bác học tài năng dấn thân trọn đời mình cho đại nghĩa dân tộc? Trong cuốn hồi ký Luồng gió từ Hà Nội bằng tiếng Nhật của bà Nubuko có in hình giáo sư Lương Định Của và Thủ tướng Phạm Văn Đồng đang lội ruộng xem cây trồng vào lúc chiến tranh đang khốc liệt. và bà nói rằng ông về nước theo lời gọi của Bác Hồ cùng với các trí thức lớn như Trần Đại Nghĩa, Đặng Văn Ngữ, Trần Hữu Tước… Theo nhà báo Phan Quang: “Khá lâu về sau, khi được Nhà nước ta phong Anh hùng Lao động, Lương Định Của xúc động thì thầm với tôi: “Anh có biết vinh dự lớn nhất của đời tôi là gì không? Ấy là việc ngày tôi được cấp bằng bác sĩ nông học trùng với kỷ niệm ngày sinh Bác Hồ: 19-5-1951. Mười Chín tháng Năm. Một sự trùng hợp vô cùng lý thú, có đúng không?”.

Niềm tin và nghị lực dấn thân đi theo Bác Hồ chắc chắn đó là động lực lớn của vợ chồng nhà bác học tài năng Lương Định Của. Thủ tướng Phạm Văn Đồng, cố Chủ tịch Nước Phạm Hùng rõ ràng là những người bạn lớn của Lương Đình Của đã phát hiện, nâng đỡ, trọng dụng đúng tài năng và tâm huyết của ông.

Tại bài viết “Đu đủ và bưởi”, nhà báo Phan Quang kể chuyện: “Thời gian làm việc tại Viện Cây Lương thực và Cây Thực phẩm, Lương Định Của có hai người bạn thân. Bí thư Huyện ủy Gia Lộc Lê Văn Đởm và Bí thư Huyện ủy Cẩm Giàng Nguyễn Phùng – ông Phùng ít lâu sau được điều chuyển lên tỉnh nhận nhiệm vụ Trưởng Ty Nông nghiệp. Hai ông bí thư – cũng như Lương Định Của, nay đã thành người thiên cổ – đều trưởng thành từ cơ sở lên, đặc nông dân, tiếng mỗi người đứng đầu một huyệt mà nhà vẫn rất nghèo.

Một anh bạn nhà báo có lần nói với tôi: “Quái, ông Của là nhà đại trí thức, mà xem ra chơi thân thật sự với hai tay đặc nông dân. Mà ý chừng ông ấy tâm đắc với tay Phùng Sơn. Viện đóng ở Gia Lộc, tối nào rảnh rỗi, ông Của lại sang Cẩm Giàng uống rượu Phú Lộc cùng Nguyễn Phùng. Ngồi với Lê Văn Đởm chỉ thấy hai ông bàn công việc”. Riêng tôi có hiểu phần nào.

Ông Đởm người cao lớn, đường bệ, đi đứng hơi chậm chạp. Ông Phùng tầm vóc nhỏ hơn, rắn rỏi, da săn, nói năng cởi mở, ham kỹ thuật mới và có điểm khác với ông Đởm là không biết (hoặc biết mà không thích) đánh tổ tôm. Một lần ông Của nói vui: “Mình nghiệm phần lớn những anh nào người quá béo tốt đều lười biếng. Thân thể nặng nề thì làm sao hoạt bát? Xem ông Đởm đấy, xong việc là đánh tổ tôm, tôi đưa cho bao nhiêu sách tối có buồn đọc đâu, chỉ đạo toàn bằng vốn cổ kinh nghiệm. Ông Phùng có vẻ chịu khó mầy mò học hỏi hơn”.

Một lần ăn cơm tối với nhau, Nguyễn Phùng giả vờ cà khịa: “Ông có biết cầm ống tiêm đâu mà gọi là bác sĩ…”. Tôi phụ họa: “Cái ngành nông nghiệp các anh đến là rắc rối. Thời Tây, cùng là kỹ sư như nhau lại phân thành kỹ sư nông nghiệp và kỹ sư nông học. Nay ngành nào người ta cũng gọi thống nhất cử nhân, phó tiến sĩ, tiến sĩ, giáo sư. Riêng anh thì cứ khăng khăng bảo mình là bác sĩ…”.

Lương Định Của không giận. Ông hiểu vì sao chúng tôi đề cập chuyện ấy. Nhà bác học là người không giỏi khoa ngôn từ. Trong nhóm nhỏ thân mật, ông chuyện trò rất hay, những vấn đề kỹ thuật rắc rối nhất cũng được ông giảng giải tường tận, phù hợp với trình độ người đối thoại. Nhưng cũng vấn đề ấy, mời ông lên thuyết trình tại hội nghị, có khi đã chuẩn bị kỹ nhưng trình bày lại không hấp dẫn, không mấy thuyết phục người nghe. Chúng tôi nhiều lần mời ông viết bài cho báo. Ông nhận lời, thì phải chờ nhiều hôm sau mới có bài. Bài ông ngắn gọn, nhìn bản thảo thấy những hàng chữ đều đặn viết bằng bút mực xanh, chữ hơi nghiêng về phía trái, biết là ông đã tự tay chép lại. Bởi vậy, chớ nên dại dột động bút chữa bài ông Của.

Một lần, anh biên tập viên có sửa đổi vài từ, và tiện tay xóa từ bác trong bác sĩ đi, thay vào từ tiến – “gọi chung là tiến sĩ cho nó nhất quán trên mặt báo”, lý lẽ của anh giản đơn như vậy. Lương Định Của hết sức phật ý: “Các anh chẳng hiểu cái gì”. Đó là câu trách móc nặng nề của ông. Lần này ông từ tốn nói: “Bác sĩ là học vị cao nhất bên Nhật Bản. (Ông nhúng ngón tay vào cốc nước, viết hai từ bác sĩ bằng chữ Hán ra bàn ăn).

“Nhà nước người ta phong cho tôi như vậy thì suốt đời tôi giữ nguyên như vậy, không hơn không kém”.

Bà Nubuko kể chuyện tình bạn với nhiều người, trong đó có mẹ con nghệ sĩ Đặng Thái Sơn và rất nhiều người khác. Bà đi du lịch khắp Việt Nam, về quê chồng ở Long Phú, Sóc Trăng, họp đồng hương ở Sài Gòn, về tận nhà người nông dân nghèo ngày xưa bà ở trọ lúc sơ tán.

Tiến sĩ Lê Hưng Quốc, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thương mại Giống Cây trồng đã xúc động viết “Lớp sinh viên đại học của chúng tôi khi ấy mới ra trường được tắm mình trong thực tiễn sản xuất, học các thao tác kĩ thuật trực tiếp ở Viện Lúa Tứ Lộc, các HTX nông nghiệp… đó là những trường học của những kĩ sư, kĩ thuật viên nông nghiệp trẻ tuổi. Thế hệ ấy sau này nhiều người đã trưởng thành những nhà khoa học có đóng góp xứng đáng như lớp thế hệ của PGS.TS Anh hùng Lao động Nguyễn Thị Trâm… Nhiều lớp cán bộ nông nghiệp do Giáo sư đào tạo đã trở thành những cán bộ đầu đàn trong nhiều lĩnh vực khoa học nông nghiệp. Giáo sư có nhiều thế hệ hoc trò xuất sắc.”

GSTS. Anh hùng Lao động Nguyễn Văn Luật trong bài Thầy Lương Định Của và tính tình Người Nam Bộ đã ca ngợi : “Cách đây 3-4 thập kỷ, hồi ở miền Bắc, thầy Của ở miền Bắc lai tạo được nhiều giống lúa mới được nông dân ưa chuộng như Nông nghiệp 1, Chiêm trăng, Đoàn kết … Gần đây, tỉnh Sóc Trăng quê hương của thầy Của lại sản sinh những con người chọn tạo ra nhiều giống lúa rất ấn tượng, mặc dầu chưa bao giờ được gặp, được thọ giáo tiền bối Lương Định Của. Đấy là nhóm chọn tạo giống lúa do KS Hồ Quang Cua đứng đầu. Đến nay nhóm này đã chọn tạo tới 22 giống ST, trong đó có nhiều giống như ST3, ST5 .. khá phổ biến, những giống ST đỏ từ lai tạo giữa giống gạo đỏ địa phương với giống năng suất cao rồi chọn ra dòng gạo đỏ vừa năng suất cao, vừa có mùi thơm lá dứa. Chân thành và khẳng khái trong cuộc sống, sáng tạo trong lao động chân tay và trí óc, nhân ái trong giao tiếp, độ lượng trong ứng xử xã hội, dũng cảm trong chống ngoại xâm, hòa nhập với cộng đồng và thân thiện với cây cỏ sông nước là những phẩm chất rất quý của con người Nam Bộ cả xưa và nay.”


ÔNG BÀ CỦA CỔ TÍCH GIỮA ĐỜI THƯỜNG

Cách đây mấy hôm, anh Lương Hồng Việt vừa cùng với vợ chồng thầy Trần Như Nguyện và Trần Thị Nữ Thanh ghé lên thăm chúng tôi ở Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc ở Trảng Bom, Đồng Nai. Anh Việt ghé nhà anh chị Đào Đức Miên và anh chị Trần Quang Khuông những công nhân, kỹ sư “quân” bác Của thời Tứ Lộc, Hải Dương. Chúng tôi cùng ăn cháo gà và kể chuyện những ngày gian khổ. Câu chuyện rôm rã lại quay trở về chuyện ông bà Của, cổ tích giữa đời thường.

Ai cũng nói thời ấy cực mà vui. Vợ chồng ông bà Của chịu đựng khổ cực giỏi và thực sự gầy dựng được một lớp kỹ sư thực hành vừa tâm huyết vừa tài năng thực sự có ích cho xã hội.

Ví như kỹ sư Trần Minh Chánh học trò bác Của, nguyên Trưởng trại Giống lúa Ma Lâm Bình Thuận (Thuận Hải cũ), từ năm 1981 đến năm 2004, đã nghiên cứu lai tạo, tuyển chọn được trên 35 giống lúa như TH5, TH6, ML24, ML48, ML49… Trong đó có nhiều giống được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận giống quốc gia như TH6, TH28, ML4, ML202 hoặc công nhận giống sản xuất thử như: TH41, ML29, ML48, ML107, ML214, suốt miền Trung ai cũng ngợi khen.

Ví như kỹ sư Nguyễn Văn Loãn quân bác Của cán bộ Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long tác giả chính của các giống lúa chủ lực và triển vọng của Nam Bộ giai đoạn 2004-2010 như OMCS 2000, OM 3536 (OMCS 21), OM 2517.

Ví như kỹ sư Phan Hùng Diêu, anh hùng lao động, v.v… và biết bao gương khác. Ông bà Của sống phúc hậu gắn bó máu thịt với những lớp người đó, cùng chia sẽ khó khăn gian khổ và ông bà Của là tấm gương mẫu mực đời thường.

Nhà báo Phạm Vũ trong bài Người vợ Nhật của Lương Định Của đã viết: Bà Nobuko bảo câu ngạn ngữ Nhật Bản mà bà thích nhất là “Ngày mai sẽ thổi cơn gió riêng của nó”, tương ứng với câu “Sau cơn mưa trời lại sáng” của Việt Nam. Lạc quan vậy nên bà cứ cười hoài khi xua tay giải thích: “Mọi người bảo Nhật Bản là một nước phát triển, giàu có, còn Việt Nam thì nghèo, thời tôi đến lại còn có chiến tranh, sợ tôi vất vả. Nhưng mà không phải vậy đâu. Tôi có vất vả mấy cũng không bằng người nông dân Việt Nam, sáng sớm đã phải ra đồng, ngâm chân xuống bùn lạnh buốt, ăn uống thì cực khổ. Người Việt Nam lại luôn giúp đỡ tôi. Bên cạnh tôi còn có anh Của, có các con”.

Câu chuyện của bà tràn ngập hình ảnh về ông Lương Định Của, thật khác với những gì người ta thường hình dung về ông giáo sư, viện trưởng đạo mạo, tác giả của những giống lúa năng suất cao, cây ăn trái nổi tiếng. “Anh Của” của bà dí dỏm, dễ gần, luôn đắm trong tình yêu với khoa học và lý tưởng về một xã hội chỉ có những điều tốt đẹp. Người Nhật trọng lễ nghi, phép tắc, đôi khi quá lịch sự mà trở thành xã giao, vậy nhưng chàng thanh niên Lương Định Của lại đến gặp cô gái làm việc trong phòng thí nghiệm trường mình rồi đưa ra một gói giấy: “Xin nhờ chị Nobuko may giúp tôi một cái áo sơmi”. Lần đầu tiên được Nobuko đưa đến nhà mình để nhờ mua giúp lương thực đang rất khan hiếm trong thời điểm chiến tranh, “anh Của” đã ngọt ngào gọi “Cha ơi! Mẹ ơi!” trước sự ngỡ ngàng của cha mẹ Nobuko. Bà Nobuko hôm nay cười thật tươi: “Sau này đến Việt Nam, tôi mới biết người miền Nam có tập quán xưng hô thân mật như thế. Nghe anh gọi “mẹ”, mẹ tôi thích lắm, và vì thế mà sau đó ít lâu bà đồng ý gả con gái cho anh sinh viên ấy. Bà còn tự tay đi chợ, nấu ăn cho đám cưới”.

Những ngày mùa thu 1945, ngoài niềm vui vì hạnh phúc riêng tư, ông Lương Định Của còn một niềm vui khác khiến ông như muốn bay lên, đôi mắt sáng loáng lên khi nói với vợ: “Em Nobuko ơi, Việt Nam đã được độc lập rồi. Việt Nam không còn là thuộc địa nữa. Từ nay trở đi, anh là người của nước Việt Nam độc lập, em ạ”. Từ ngày ấy, cơn gió thổi từ Hà Nội đã len vào tổ ấm nhỏ của đôi vợ chồng trẻ, theo họ từ Fukuoka đến Kyoto, Tokyo, từ lúc Lương Định Của còn là sinh viên cho đến khi nhận được danh hiệu bác sĩ nông học danh giá, tạo ra được giống lúa mới hột to, từ khi Nobuko là một cô gái trẻ cho đến lúc cô đã là một bà mẹ với hai con trai nhỏ.

Ông Lương Định Của đã say sưa nói với vợ về tương lai mới của đất nước, về xã hội tốt đẹp, tất cả vì nhân dân mà Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đang tạo lập. Ông từ chối các cơ hội đi làm nghiên cứu sinh ở Mỹ, làm việc cho Viện Nghiên cứu lúa gạo thế giới (IRRI) để tìm cách về nước tham gia kháng chiến. Sau nhiều nỗ lực móc nối, chờ đợi, xoay đường này cách khác, năm 1952 ông đã đưa cả gia đình về Sài Gòn, và đến năm 1954 cả nhà lại cùng lên một chuyến tàu tập kết ra Bắc.

Từ đấy, bà Nobuko đã biết đến nỗi cực khổ của người nông dân Việt Nam khi cùng ông Lương Định Của ra khỏi phòng thí nghiệm bước xuống ruộng làm khoa học thực nghiệm, nuôi con gà, con lợn trong sân nhà; biết đến tem phiếu, xếp hàng, thiếu trước hụt sau khi phải chăm sóc đàn con; biết đến hầm trú ẩn, bom đạn rơi sát bên mình trong những năm tháng ở lại Hà Nội để dịch và đọc những bản tin tiếng Nhật tại Đài Tiếng nói Việt Nam. Bà đã thay mặt đài viết từng lá thư tay trả lời thính giả Nhật, cảm ơn những lời động viên trong cuộc chiến tranh tàn khốc, giới thiệu những món ăn, những điểm du lịch Việt Nam… Tình yêu nước của chồng, những “cơn gió thổi từ Hà Nội” đã thấm vào bà từ bao giờ. Bà Nobuko lặp lại: “Tôi sống ở Việt Nam rất dễ chịu. Thời tiết dễ chịu, thức ăn dễ chịu, con người cũng dễ chịu, và cả cách ăn mặc nữa. Tôi rất thích áo dài, vừa nhẹ nhàng, vừa đẹp, lịch lãm, lại vừa dễ mặc”.

Tấm ảnh bà mặc áo dài đứng cạnh chồng chụp mấy mươi năm trước, dịu dàng, nền nã không khác gì một phụ nữ Việt Nam. Cầm tấm ảnh, bà lặng đi: “Chỉ tiếc anh Của mất sớm quá, mới 55 tuổi”. Đất nước vừa thống nhất, ông Lương Định Của đã hai lần vào Nam khảo sát để chuẩn bị xây dựng Trung tâm Nông nghiệp miền Nam. Rồi ông bác sĩ nông học hăng say tính chuyện trở về quê hương sinh sống, háo hức vì sắp được phát huy khả năng của mình trên những đồng ruộng mênh mông, màu mỡ của đồng bằng sông Cửu Long. Tháng 12-1975, ông tham dự kỳ họp thứ hai của Quốc hội khóa V, dự định kết thúc thì chuyển vào miền Nam nhận công tác. Chỉ còn hai ngày nữa lên đường, bỗng một đêm ông lên cơn nhồi máu cơ tim.

Hôm ấy là ngày 28-12-1975.

Hồi ký của bà Nobuko viết: “Tôi luôn tin tưởng là tôi hiểu biết về anh Của nhiều nhất, nhưng chứng kiến cảnh tang lễ, niềm tin này bắt đầu lung lay. Nhiều đoàn cán bộ cao cấp, nhiều cơ quan đoàn thể, đại biểu địa phương, những đoàn dài học sinh, sinh viên, hàng trăm người nông dân đứng xếp hàng trước cổng Bộ Nông Lâm nghiệp… Tôi mới hiểu anh với tư cách một người chồng, người cha, chứ chưa hiểu hết những đánh giá về mặt xã hội”.

Trong năm người con của bà, có tới ba người theo cha vào ngành nông nghiệp. Trong đó, từng tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, phục vụ mười năm trong quân đội rồi lại tiếp tục theo nông nghiệp, người con trai cả Lương Hồng Việt bây giờ đã nghỉ hưu, luôn sát vai cùng mẹ Nobuko trên những nẻo đường: về quê cha ở Sóc Trăng lo phần mộ tổ tiên, về Hà Nội mỗi năm để trao Giải thưởng Lương Định Của cho những thanh niên nông thôn xuất sắc, về quê mẹ Nhật Bản để bà vơi nỗi nhớ hoa anh đào…

Nhắc về ông Lương Định Của, bà Nobuko bảo: “Ai cũng nói nếu chúng tôi vẫn cứ ở Nhật Bản thì sẽ giàu có lắm, sự nghiệp của anh cũng rực rỡ hơn về khoa học. Nhưng vật chất không làm nên hạnh phúc. Ở lại Nhật Bản thì anh Của sẽ không thể vui được đâu, vì những “cơn gió thổi từ Hà Nội”. Tôi đến đây, được làm vợ anh 30 năm, hợp nhau tới từng lời nói, như vậy là tôi được ở nấc thang trên cùng của hạnh phúc rồi”. Ông Việt cười tiếp lời: “Nhìn vào câu chuyện cuộc đời của ông bà, lớp con như chúng tôi thì thấy như huyền thoại, đám cháu thì bảo như cổ tích, không thể có được. Cả nhà bảo nhau phấn đấu theo ông bà thôi”. Ông bà Của là chuyện cổ tích sống động giữa đời thường.

Rằm xuân thăm thầy Lương Định Của, chúng tôi bồi hồi nghĩ về con đường lúa gạo Việt Nam từ vùng lúa Trường Khánh Đại Ngãi Sóc Trăng tỏa rộng nhiều vùng đất nước. Gạo thơm Sóc Trăng, gạo ngon OM Lúa Giống, gạo lúa siêu xanh Phú Yên, Đại học Cần Thơ, Lộc Trời An Giang, Bình Định Quảng Ngãi Quảng Nam, Gia Lai, Huế, Hà Nội, Thái Bình… gắn với tâm huyết của nhiều thế hệ khoa học xanh đang thầm lặng dâng hiến cho năng suất và chất lượng của hạt ngọc Việt Nam. Con đường lúa gạo Việt có công mở đường của nhà bác học nông dân Lương Định Cửa và tấm lòng nhân hậu của người vợ Nhật đối với quê hương chồng, tình nghĩa biết bao! Chúng ta đang đi trên con đường đó, lớp này tiếp lớp khác, theo con đường khai sáng của người Thầy biết dấn thân, biết hiến dâng đời mình cho đại nghĩa dân tộc, vì tương lai đất nước và xã hội tốt đẹp hơn.

Câu chuyện vinh danh hạt ngọc Việt, hạt gạo làng ta, hạt vàng Việt Nam có Lương Định Của con đường lúa gạo. Đó là câu chuyện dài về con đường lúa gạo Việt Nam. Dạy và học không chỉ trao truyền kiến thức mà thắp lên ngọn lửa! Chừng nào mỗi chúng ta chưa ứa nước mắt thấm hiểu sự nhọc nhằn của người nông dân một nắng hai sương làm ra hạt gạo. Chừng nào những giá trị lao động khoa học cao quý, liên tục, âm thầm chưa mang lại đủ niềm vui cho bữa ăn của người dân nghèo. Chừng đó chúng ta sẽ còn phải dạy và học cây lương thực. Cái gốc của sự học, sự nghiệp dạy và học, là học làm Người.

TS. Hoàng Kim
Nguyên giảng viên chính Cây Lương thực
Bộ môn Cây Lương thực Rau Hoa Quả, Khoa Nông học,
Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh
(ảnh: Châu Mỹ chuyện không quên)

Bài viết mới trên CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
CNM365 bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Vuonxuan

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Video yêu thích

 

Pho tượng Ngọc Quan Âm

PHO TƯỢNG NGỌC QUAN ÂM

Mẹ công đức trên đài sen tĩnh lặng
Con ơn Người trong cõi phúc #annhiên


Đêm Vu Lan lắng bài thơ đi học
Thấm nhọc nhằn củ sắn củ khoai
Nhớ tay Chị gối đầu khi Mẹ mất
Thương lời Cha căn dặn học làm Người


Pho tượng Ngọc Quan Âm
Bài đồng dao huyền thoại
Sáng mãi Ngọc lưu ly
Đường xuân đời quên tuổi


Chuyện ngậm ngãi tìm trầm
Ngày mới Ngọc cho đời
Cuối dòng sông là biển
Giấc mơ lành yêu thương

Bạch Ngọc Hoàng Kim

Nhớ Mẹ mùa Đản sinh, ngắm pho tượng Ngọc Quan Âm, tôi tâm đắc với bài thơ của chính mình với các đường dẫn truyện trên đây, và thấm thía lời trao đổi của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

1. Khi còn trẻ, ta thường nghĩ rằng: Biết níu giữ là khôn ngoan. Nhưng khi đã già, ta mới nhận ra rằng: Biết buông bỏ mới là trí tuệ!

2. Khi còn trẻ, ta thường nghĩ rằng: Người giàu có là người lấy về rất nhiều. Nhưng khi đã già, ta mới biết rằng: Người giàu có là người cho đi rất lớn!

3. Khi còn trẻ, ta thường nghĩ rằng: Mạnh mẽ là vượt qua người khác. Nhưng khi đã già, ta mới biết rằng: Mạnh mẽ là vượt qua chính mình!

4. Khi còn trẻ, ta thường nghĩ rằng: Kẻ nói nhiều là kẻ thông minh. Nhưng khi đã già, ta mới biết rằng: Người biết lắng nghe mới là người thông thái!

5. Khi còn trẻ, ta thường nghĩ rằng: Nếu ta thắng phải hơn người thua. Nhưng khi đã già, ta mới biết rằng: Đến nơi là mọi người cùng thắng!

6. Khi còn trẻ, ta thường muốn sống thật lâu. Nhưng khi đã già, ta muốn sống sao cho có ý nghĩa với cuộc đời!

7. Khi còn trẻ, ta thường muốn người khác chấp nhận mình. Nhưng khi đã già, ta nhận ra rằng: Chỉ cần mình chấp nhận mình là đủ!

8. Khi còn trẻ, ta mong muốn thay đổi cả thế giới. Nhưng khi đã già, ta mong muốn thay đổi chỉ bản thân mình mà thôi!

9. Khi còn trẻ, ta thường nghĩ rằng: Khi trưởng thành, ta sẽ không còn bị tổn thương. Nhưng khi đã già, ta mới biết rằng: Trưởng thành là biết điều chỉnh tiếng khóc về chế độ im lặng!

10. Và khi còn trẻ, ta thường nghĩ rằng: Có tiền sẽ có tình yêu, có vật chất, người ta sẽ yêu quý… Nhưng khi đã già, ta mới biết rằng: Lương thiện bạn sẽ có mọi trái tim

Vợ chồng tôi dặn con: Nhà mình có năm gia bảo quý: An Viên Ngọc Phương Nam, An Viên Ngọc Quan Âm, Pho tượng Ngọc Quan Âm, Nhà 161A Võ Văn Tần, Bàn ăn học và giường ngủ. Đó là năm chuyện đời người. Pho tượng Ngọc Quan Âm ở nơi cao nhất, tôn kính nhất, tĩnh lặng nhất nhà mình;

PHO TƯỢNG NGỌC QUAN ÂM

Bạch Ngọc Hoàng Kim
Pho tượng Ngọc Quan Âm là báu vật tâm hương.

Nguyen Long


Ước muốn cuộc đời cha
Có con đi nối con đường sự nghiệp
Con đứng trên vai cha
Vươn tới những chân trời mơ ước

THƠ CHO CON
Nguyễn Thị Thủy & Hoàng Kim

Nguyen Long 1

Thương yêu tặng hai con
Tố Nguyên Hoàng Long

Con!
Thân thương một tiếng gọi
Hạnh phúc bật nên lời
Lòng Cha bồi hồi
Sung sướng gọi:
Con!

Cha đi công tác xa
Mong đợi Con, từng ngày chờ thư Mẹ
Thư đến!
Con ra đời!
Cha run lên vì mừng
Thao thức suốt đêm
Không ngủ

Bạn bè vây quanh Cha
Trân trọng niềm vui thiêng liêng
Nâng cốc chúc Cha
Hạnh phúc!

Tiếng Con ngọt ngào môi Cha
Dào dạt lòng Cha vỗ mãi
Có Con
Nối cuộc đời Cha
Gấp đôi
Có Con
Đan giữa cuộc đời
Hạnh phúc

Con là sợi dây máu thịt
Yêu thương gắn Mẹ và Cha
Có Con
Cha thấy cuộc đời ý nghĩa hơn
Cuộc sống – Tình yêu – Sự nghiệp
Hai Con là hai con mắt
Cửa sổ tâm hồn Cha
Dẫu đời Cha nhiều chông gai
Trái chín cuộc đời vẫn ngọt
Con là giấc mơ trong trẻo
Là ban mai tươi vui
Là viên ngọc trao đời
Là hương hoa hạnh phúc

Ước vọng cuộc đời Cha
Có Con đi nối con đường sự nghiệp
Con đứng trên vai Cha
Vươn tới những chân trời mơ ước

Hai Con
Hai viên ngọc
Chị con và Con
Mẹ con dịu hiền hơn
Mẹ con đảm đang hơn
Cha bớt vụng về mỗi việc làm nho nhỏ
Con trở thành ngọn lửa
Sưởi ấm lòng Mẹ Cha
Khi mỗi ngày khó khăn
Trong trẻo tiếng Con
Mẹ Cha hết mệt
Con là niềm vui lớn nhất
“Con hơn Cha nhà có phúc”
Cha mong dồn cho Con.

Lớn lên
Con sẽ hỏi Cha
Sao Cha đặt tên Con là Hoàng Long?
Con ơi!
Tên Con là khúc hát yêu thương
Của lòng Cha Mẹ
Cha Mẹ thương nhau
Vì qúy trọng những điều ân nghĩa
Sự nghiệp và tình yêu
Những ngày gian khổ
Cùng nghiên cứu củ sắn, củ khoai
Con là giống khoai Hoàng Long
Tỏa rộng nhiều vùng đất nước
Dẫu không là trái thơm qủa ngọt
Nhưng là niềm vui người nghèo
Để Cha nhớ về quê hương
Khoai sắn bốn mùa vất vã
Để Cha nhớ những ngày gian khổ
Năm năm
Cơm ngày một bữa
Khoai sắn không phụ lòng
Để Cha nhớ về
Lon khoai nghĩa tình
Nắm khoai bè bạn
Gom góp giúp Cha ăn học
Khi vào đời
Cha gặp Mẹ con
Cho nên:
Cha muốn Con
Trước khi làm những điều lớn lao
Hãy biết làm củ khoai, củ sắn
Hãy hướng tới những người lao động
Nhớ quê nghèo cắt rốn, chôn rau

Lớn lên
Con sẽ hỏi cha
Sao Cha đặt tên con Hoàng Long?
Long là rồng
Con là đậu rồng
Là công trình thứ hai Mẹ Cha nghiên cứu
Mẹ con chọn hạt
Cha gieo nên con
Vất vả gian nan
Hứa hẹn một mùa gặt hái
Con là tháng ngày mong đợi
Là niềm vui đóng góp cho đời
Từ hạt đậu củ khoai
Cha Mẹ trao Con sự nghiệp
Cha nhớ câu đối trăm năm
Về một gia đình hạnh phúc
“Sáng khoai, trưa khoai, tối khoai
ngày khoai ba bữa
Cha đỗ, mẹ đỗ, con đỗ
đều đỗ cả nhà”
Chị con và Con
Là mong ước
Của Mẹ và Cha

Lớn lên
Con sẽ hỏi Cha
Sao Cha đặt tên con Hoàng Long?
Long là rồng
Nghĩa mẹ tạo nền
Công cha xây móng
Trước mắt con là sông dài, biển rộng
Ước mong con bay lên
Con hãy đi đến cùng
Mục đích của con
Làm được những điều cao cả
Hãy cố gắng không ngừng
Kiên gan
Bền chí
Ước mơ và hiện thực
Hôm nay và mai sau
Nghị lực là thước đo cuộc đời
Hai chữ đầu tiên Con học làm người
Phải học hai điều NHÂN NGHĨA

Cha mong Con lớn lên
Ít nếm trãi khó khăn, vất vả
Nhưng đừng bao giờ quên
Những ngày đói khổ
Thời thơ ấu của Cha
Mồng Ba tháng Giêng ngày mất của Bà
Hai mươi tháng Mười ngày ông Mỹ giết
Ngày mà cửa nhà tan nát
Đói nghèo Bác dắt dìu Cha
Tuổi thơ thì bắt ốc, mò cua
Lớn một chút trồng khoai, dạy học
Qua danh lợi hiểu vinh, hiểu nhục
Trãi đói nghèo biết nghĩa, biết ân
Phan Thiết là nơi Mẹ đã sinh Con
Ông Bà ngoại nuôi cho Con khôn lớn
Tuổi thơ của Con lớn trong yên ấm
Tao nôi êm ả, thanh bình
Ru cho Con “uống nước nhớ nguồn”
Khi con lớn đừng quên điều HIẾU THẢO

Cha say viết về Con
Kể về Con
Thơ cho Con
Cô bác vây quanh Cha
Gật gù
Thông cảm

Thơ chắp mối
Từng vần,
Từng mảng
Câu thơ chưa chỉnh lời
Nhưng tứ thơ
Dồn dập
Bối hồi
Hạnh phúc lớn
Trong lòng Cha
Ngân mãi

Praha, 17.2.1986

ToNguyen

CON LÀ NGUỒN HẠNH PHÚC ĐẦU TIÊN

Nguyễn Thị Thủy & Hoàng Kim
Tặng con Tố Nguyên

Mẹ đi về quê ngoại để sinh con
Trời tháng Sáu xanh một màu thương nhớ
Ba mong con mấy đêm liền không ngủ
Ngày hai mươi con khóc chào đời.

Con mang về Ba Mẹ một nguồn vui
Hạnh phúc trăm năm, niềm ao ước lớn
Mong mỏi chứa chan, tình yêu trọn vẹn
Bao yêu thương âu yếm rộn trong lòng.

Ba vui mừng chọn đặt tên con
Cặp tên đẹp giữa muôn ngàn từ ngữ
Cái tên vì con mà thành rực rỡ
Con hãy làm tên đẹp hóa bài ca.

Con Tố Nguyên của Mẹ và Ba
Hoàng Tố Nguyên ngân nga niềm hạnh phúc
Mẹ cùng con
Thủy Nguyên thành chữ kép
Con là nguồn hạnh phúc đầu tiên

20.6.1983
HK

MỪNG DUYÊN CON NHỚ VỀ THẦY

Nguyen Loc 1a
Nguyen Loc 9

Thầy ơi em nặng lòng với Huế
Mừng duyên lành con em xe về miền Trung
Nơi có Lộc Khê Hầu nguyên vẹn công lênh mở cõi
Với dòng sông Hương soi bóng núi Ngự Bình

ĐỖ PHỦ THƯƠNG ĐỌC LẠI

Dụng kiếm dưới trăng thanh
Hùng tâm thiên cổ lụy
Bậc danh sĩ tinh hoa
Bút thần soi kiếm ý

‘Lều tranh nát gió thu’
‘Bát trận đồ’ ‘Xuân vọng’
Đỗ Phủ thương đọc lại
Sao Kim soi tỏ lòng.


Văn chương lưu muôn đời
Bậc thầy gương vạn thuở
Thi thánh và thi sử
Đỗ Phủ Đặng Dung ơi


Hoàng Kim

Đỗ Phủ thương đọc lại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/do-phu-thuong-doc-lai/ và Đỗ Phủ thơ mưa lành https://hoangkimlong.wordpress.com/category/do-phu-tho-mua-lanh/

Đỗ Phủ là Thi thánh Thi sử Trung Quốc do đức độ cao thượng, tài thơ văn tuyệt vời. Đỗ Phủ cùng Lý Bạch là hai nhà thơ vĩ đại nhất thời nhà Đường. Thơ Đỗ Phủ nổi tiếng vì phong cách đơn giản và thanh lịch đặc sắc bậc nhất trong thơ cổ điển Trung Quốc. Tầm vóc Đỗ Phủ sánh với Victor Hugo và Shakespeare. Thơ Đỗ Phủ ảnh hưởng sâu sắc tới văn hóa cổ điển Trung Quốc và văn học hiện đại Nhật Bản. Cụ Nguyễn Du đã từng thán phục Đỗ Phủ “Thiên cổ văn chương thiên cổ sư Bình sinh bội phục vị thường ly” (Văn chương lưu muôn đời, bậc thầy muôn đời Bình sinh bái phục không lúc nào ngớt). Cụ Hồ Chí Minh trong Di chúc đã có trích thơ Đỗ Phủ. Cuộc đời Đỗ Phủ là tấm gương phản chiếu đất nước Trung Hoa thời loạn khi đời sống nhân dân tột cùng điêu đứng vì thường xuyên biến động. Đỗ Phủ bộ sưu tập thơ được bảo tồn khoảng 1500 bài thơ đều là tuyệt phẩm. Thi Viện hiện có Đỗ Phủ trực tuyến 1450 bài. Dưới đây là Đỗ Phủ những bài thơ bi tráng phổ biến nhiều người đọc.

ĐỌC ĐỖ PHỦ NHỚ ĐẶNG DUNG

Dụng kiếm dưới trăng thanh
Hùng tâm thiên cổ lụy
Bậc danh sĩ tinh hoa
Bút thần soi kiếm ý


Hoàng Kim

Ngày 8 tháng 12 năm 757, Đỗ Phủ về kinh thành Trường An làm quan trong triều vua Đường Huyền Tông sau loạn An Sử. Bài thơ nổi tiếng của Đỗ Phủ ‘Xem người đẹp múa kiếm’ gợi cho người Việt Nam nhớ bài thơ bi tráng ‘Thuật hoài’ đêm thanh mài kiếm của Đặng Dung. Bài này đã được giới thiệu tại “Đọc Đỗ Phủ nhớ Đặng Dung” .

Xem người đẹp múa kiếm
Đỗ Phủ
(Bản dịch của Nguyễn Minh)

Người đẹp họ Công Tôn thủa trước
Múa kiếm lên cả nước rung rinh
Vững lòng như núi cũng kinh
Đất trời cũng phải vị tình ngả nghiêng.

Sáng như Nghệ bắn văng vầng nhật
Uyển chuyển như tiên đáp lưng rồng
Tới như sấm sét bão bùng
Ngưng như biển lặng sông trong hiền hòa.

Tài hoa mãi cũng ra mai một
Học trò cưng sau rốt truyền nghề
Nữ nhi Lâm Dĩnh quán quê
Tới thành Bạch Đế diễn phô kiếm tài.

Câu hỏi đáp cùng người trao đổi
Nhìn người nay thương tới người xưa
Tám ngàn cung nữ của vua
Công Tôn múa kiếm mới vừa long nhan.

Năm mươi năm như bàn tay lật
Gió bụi nay phủ khắp cung rồi
Lê Viên phường hát tàn phai
Dư âm nữ nhạc còn nơi chiều vàng.

Gò Kim Túc cây hàng cung kính
Cỏ xác xơ thành đá Cù Đường
Tiệc hoa đàn sáo chợt ngưng
Sau vui buồn đến, mặt trăng ló rồi.

Thân già về chẳng có nơi
Chân chai núi vắng rã rời bước đi.

Nguyên tác Đỗ Phủ

七言古詩

杜甫

觀公孫大娘弟子舞劍器行并序

大歷二年十月十九日夔府別駕元持宅見臨潁李十二 娘舞劍器,壯其蔚跂。問其所師,曰︰余公孫大娘 弟子也。開元三載,余尚童稚,記於郾城觀公孫氏 舞劍器渾脫。瀏灕頓挫,獨出冠時。自高頭宜春梨 園二伎坊內人,洎外供奉,曉是舞者,聖文神武皇 帝初,公孫一人而已。玉貌錦衣,況余白首!今茲 弟子亦匪盛顏。既辨其由來,知波瀾莫二。撫事慷 慨,聊為劍器行。昔者吳人張旭善草書書帖,數嘗 於鄴縣見公孫大娘舞西河劍器,自此草書長進,豪 蕩感激。即公孫可知矣!

昔有佳人公孫氏, 一舞劍器動四方。
觀者如山色沮喪, 天地為之久低昂。
霍如羿射九日落, 矯如群帝驂龍翔,
來如雷霆收震怒, 罷如江海凝清光。
絳唇珠袖兩寂寞, 晚有弟子傳芬芳。
臨潁美人在白帝, 妙舞此曲神揚揚。
與余問答既有以, 感時撫事增惋傷。
先帝侍女八千人, 公孫劍器初第一。
五十年間似反掌, 風塵澒洞昏王室。
梨園子弟散如煙, 女樂餘姿映寒日。
金粟堆前木已拱, 瞿塘石城草蕭瑟。
玳筵急管曲復終, 樂極哀來月東出。
老夫不知其所往? 足繭荒山轉愁疾。

Quan Công Tôn đại nương đệ tử vũ kiếm khí hành
Tích hữu giai nhân Công Tôn thị Nhất vũ kiếm khí động tứ phương.
Quan giả như sơn sắc trở táng,
Thiên địa vi chi cửu đê ngang.
Quắc như Nghệ xạ cửu nhật lạc,
Kiểu như quần đế tham long tường.
Lai như lôi đình thu chấn nộ,
Bãi như giang hải ngưng thanh quang.
Giáng thần châu tự lưỡng tịch mịch,
Vãn hữu đệ tử truyền phân phương.
Lâm Dĩnh mĩ nhân tại Bạch Đế,
Diệu vũ thử khúc thần dương dương.
Dữ dư vấn đáp ký hữu dĩ,
Cảm thì phủ sự tằng uyển thương.
Tiên đế thị nữ bát thiên nhân,
Công Tôn kiếm khí sơ đệ nhất.
Ngũ thật niên gian tự phản chưởng,
Phong trần hồng động hôn vương thất.
Lê viên đệ tử tán như yên,
Nữ nhạc dư tư ánh hàn nhật.
Kim túc đôi tiền mộc dĩ củng,
Cù Đường thạch thành thảo tiêu sắt.
Đại diên cấp quản khúc phục chung,
Lạc cực ai lai nguyệt đông xuất.
Lão phu bất tri kỳ sở vãng,

Túc kiển hoang sơn chuyển sầu tật.

Dịch nghĩa

Bài hành xem học trò của đại nương Công Tôn múa điệu kiếm khí

Xưa có người đẹp họ Công Tôn,
Mỗi lần múa điệu kiếm khí, bốn phương rung động.
Người xem vững như núi cũng khiếp đảm.
Trời đất theo nhịp múa mà lên cao xuống thấp.
Sáng rực như Hậu Nghệ bắn rơi chín mặt trời,
Vững vàng như các chúa tiên cỡi rồng lượn.
Đến khi sấm sét thu hết cơn giận dữ,
Dừng như sông bể đọng ánh sáng trong veo.
Làm môi thắm, tay áo ngọc nay đã vắng tênh,
Về già có cô học trò để truyền nghề.
ấy là người đẹp xứ Lâm Dĩnh ở thành Bạch Đế.
Múa khúc tuyệt diệu này, thần thái hiên ngang.
Cùng ta trò chuyện trong chốc lát,
Cảm thời thế nhiều ngang trái mà xót thương !
Thị nữ của tiên đế có tám nghìn người,
Kiếm khí của Công Tôn đứng hàng đầu.
Khoảng năm chục năm trôi qua tựa như trở bàn tay,
Gió bụi tơi bời tối tăm cả cung vua.
Đệ tử Lê viên tan tác như khói,
Phong tư đội nữ nhạc chỉ còn ánh nắng lạnh lẽo.
Trước gò Kim Túc, côi cối chầu hầu,
Nơi thành đá Cù Đường, cỏ xác xơ buồn bã.
Trên tiệc, khúc sáo dồn dập đã dứt
Vui xong sinh buồn, trăng mọc trời đông.
Già này chẳng biết sẽ đi về đâu,
Chân chai lê trong núi hoang theo nỗi sầu.

Thuật hoài
Đặng Dung
Bản dịch của Phan Kế Bính

Việc đời bối rối tuổi già vay,
Trời đất vô cùng một cuộc say.
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay.
Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây.
Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.

Nguyên tác Thuật hoài Đặng Dung

感懷

世事悠悠奈老何
無窮天地入酣歌
時來屠釣成功易
運去英 雄飲恨多
致主有懷扶地軸
洗兵無路挽天河
國讎未報頭先白
幾度龍泉戴月磨

Phiên âm Hán-Việt

Cảm hoài

Thế sự du du [2] nại lão hà?
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca[3].
Thời lai đồ điếu [4] thành công dị.
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chủ [5] hữu hoài phù địa trục[6],
Tẩy binh [7] vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo [8] đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền [9] đới nguyệt ma
.

Chép theo Ngữ văn 10 (nâng cao), sách đã dẫn. Có bản chép khác: Thế lộ (câu 1), Nhập thù ca (câu 2), Sự khứ (câu 4), Trí chúa hữu tâm (câu 5), vị phục (câu 7).

Dịch nghĩa:

Việc đời dằng dặc mà ta đã già, biết làm thế nào?
Trời đất mênh mông đắm trong cuộc rượu hát ca.
Khi gặp thời, người làm nghề hàng thịt, kẻ câu cá cũng dễ thành công,
Lúc lỡ vận, bậc anh hùng đành phải nuốt hận nhiều.
Giúp chúa, những mong xoay trục đất lại,
Rửa vũ khí không có lối kéo tuột sông Ngân xuống.
Thù nước chưa trả được mà mái tóc đã bạc sớm,
Bao phen mang gươm báu mài dưới bóng trăng.

THIẾU LĂNG THƠ “BÁT TRẬN ĐỒ”

Đỗ Phủ thăm Bát trận đồ do Khổng Minh thời Tam quốc dựng thành tại huyện Phụng Tiết tỉnh Tứ Xuyên. Tướng Ngô là Lục Tốn bị quân Thục vây hăm tại đây nhưng nhờ được nhạc phụ của Khổng Minh là Hoàng Thừa Ngạn chỉ đường nên ra thoát. Khổng Minh chưa ra khỏi nhà tranh đă biết thiên hạ thế chia làm ba Thục Ngô Ngụy (tam phân quốc) Thụ liên Ngô kháng Ngụy là đại kế xoay chuyển tình thế. Lưu Bị đánh Đông Ngô để trả thù cho Quan Vân Trường, bị thua to về tay Lục Tốn. Khổng Mình với “bát trận đồ” thể hiện minh triết và tầm nhìn sâu sắc của Khổng Minh. Đỗ Phủ thơ kiệt tác ‘Bát trận đồ” chỉ vỏn vẹn 23 chữ đã khái quát Tam Quốc và bài học bi tráng lịch sử.

Bát trận đồ
Đỗ Phủ
Bản dịch của Phan Kế Bính

Công trùm thế tam phân,
Tiếng thơm đồ bát trận.
Nước chảy đá trơ trơ,
Đánh Ngô còn để giận.

八陣圖

功蓋三分國,
名成八陣圖。
江流石不轉,
遺恨失吞吳。


Bát trận đồ

Công cái tam phân quốc,
Danh thành Bát trận đồ.
Giang lưu thạch bất chuyển,
Di hận thất thôn Ngô.


Dịch nghĩa

Công lớn trùm khắp, nước chia làm ba,
Nổi danh trận đồ Bát quái.
Nước sông cứ chảy đá không lay chuyển,
Để lại hận đã thất kế thôn tính Ngô.

ĐỖ PHỦ THI THÁNH THI SỬ

Năm Chí Đức thứ 2 ( 757) đời Đường, Đỗ Phủ bị kẹt lại trong thành Tràng An đã lọt vào tay loạn tướng An Lộc Sơn. Núi sông vẫn như cũ nhưng nước mất nhà tan. Xuân về nhưng thành Tràng An hoang tàn sau nguy biến. Đỗ Phủ xuân vọng lời thơ cảm khái và bi thương. Khoảng 1500 bài thơ của ông lời vào châu ngọc như sử thi khắc vào đá. Văn hóa Trung Quốc cổ điển, văn học Nhật Bản rất trọng bút pháp sử thi tuyệt diệu này

Xuân vọng
Đỗ Phủ
Bản dịch của Trần Trọng Kim

Nước phá tan, núi sông còn đó
Đầy thành xuân cây cỏ rậm sâu
Cảm thời hoa rỏ dòng châu
Biệt ly tủi giận, chim đau nỗi lòng
Ba tháng khói lửa ròng không ngớt
Bức thư nhà, giá đắt bạc muôn
Gãi đầu tóc bạc ngắn ngun
Dường như hết thảy, e khôn búi tròn.

Nguồn: Trần Trọng Kim, Đường thi, NXB Văn hoá thông tin, 1995

春望

國破山河在,
城春草木深。
感時花濺淚,
恨別鳥驚心。
烽火連三月,
家書抵萬金。
白頭搔更短,
渾欲不勝簪。


Xuân vọng

Quốc phá sơn hà tại,
Thành xuân thảo mộc thâm.
Cảm thì hoa tiễn lệ,
Hận biệt điểu kinh tâm.
Phong hoả liên tam nguyệt,
Gia thư để vạn kim.
Bạch đầu tao cánh đoản,
Hồn dục bất thăng trâm.


Dịch nghĩa

Núi sông còn đó mà nước mất rồi,
Thành ngày xuân hoang tàn, cỏ cây rậm rạp.
Cảm thương thời thế mà hoa ướt lệ,
như con chim bị tên, kinh sợ sự chia lìa.
Khói lửa báo giặc giã cháy suốt ba tháng liền.
Thư nhà lúc này đáng vạn đồng.
Gãi mái đầu bạc thấy càng thêm thưa, ngắn,
Muốn cài trâm mà chẳng được.


(Năm 757)

Mao ốc vị thu phong sở phá ca là kiệt tác Thi Thánh của Đỗ Phủ. Hiện nay, bảo tàng Du Fu Caotang, nằm bên cạnh Công viên Huanhuaxi ở quận Qingyang của Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên có lưu giữ những di vật của ông. Bảo tàng Du Fu Caotang có diện tích 24 ha, được công bố thành lập vào ngày 4 tháng 3 năm 1961 là đợt đầu tiên của các địa điểm bảo vệ di tích văn hóa trọng điểm quốc gia Trung Quốc. Tái công bố là địa điểm bảo vệ di tích văn hóa đầu tiên ở tỉnh Tứ Xuyên vào ngày 7 tháng 7 năm 1980

Lều tranh bị phá do gió thu
Đỗ Phủ
Bản dịch của Nguyễn Minh

Gió mùa thu hú cơn cuồng nộ
Cuốn phăng ngay mái cỏ nhà tôi
Qua sông cỏ rải tơi bời
Trên cao vướng mắc khơi khơi trên cành
Dưới thấp thì chìm trong ao nhỏ
Trẻ xóm nam khi dễ ông già
Nỡ làm giặc cướp trước nhà
Ngang nhiên ôm cỏ mang qua nhà mình
Kêu khô cổ không giành được chúng
Trở về nhà gậy chống thở than
Lát sau gió mạnh cũng tan
Trời chiều đen tối, không gian mịt mù
Chăn vải cũ lạnh như tấm sắt
Con cưng nằm đạp rách tan hoang
Đầu giường nước dột mênh mang
Hạt mưa không ngớt rơi tràn thâu đêm
Từ khi loạn ít đêm ngủ được
Nay mưa rơi ướt át chịu sao
Uớc chi có một toà nào
Rộng ngàn căn hộ, bọc bao muôn người
Mưa gió lớn khôn lay chuyển nổi
Vững như non mãi mãi an toàn
Bao giờ toà đó thành hoàn
Thì nhà mái lật, cũng cam lòng này.


茅屋為秋風所破歌

八月秋高風怒號,
卷我屋上三重茅。
茅飛渡江灑江郊,
高者掛罥長林梢,
下者飄轉沉塘坳。
南村群童欺我老無力,
忍能對面為盜賊。
公然抱茅入竹去,
唇焦口燥呼不得,
歸來倚杖自歎息。
俄頃風定雲墨色,
秋天漠漠向昏黑。
布衾多年冷似鐵,
驕兒惡臥踏裡裂。
床頭屋漏無干處,
雨腳如麻未斷絕。
自經喪亂少睡眠,
長夜沾濕何由徹!
安得廣廈千萬間,
大庇天下寒士俱歡顏,
風雨不動安如山!
嗚呼!何時眼前突兀見此屋,
吾廬獨破受凍死亦足!


Mao ốc vị thu phong sở phá ca

Bát nguyệt thu cao phong nộ hào,
Quyển ngã ốc thượng tam trùng mao.
Mao phi độ giang sái giang giao.
Cao giả quái quyến trường lâm sao,
Hạ giả phiêu chuyển trầm đường ao.
Nam thôn quần đồng khi ngã lão vô lực,
Nhẫn năng đối diện vi đạo tặc.
Công nhiên bão mao nhập trúc khứ,
Thần tiều khẩu táo hô bất đắc.
Qui lai ỷ trượng tự thán tức.
Nga khoảnh phong định vân mặc sắc,
Thu thiên mạc mạc hướng hôn hắc.
Bố khâm đa niên lãnh tự thiết.
Kiều nhi ác ngoạ đạp lý liệt.
Sàng đầu ốc lậu vô can xứ,
Vũ cước như ma vị đoạn tuyệt.
Tự kinh táng loạn thiểu thuỵ miên,
Trường dạ chiêm thấp hà do triệt.
An đắc quảng hạ thiên vạn gian,
Ðại tí thiên hạ hàn sĩ câu hoan nhan,
Phong vũ bất động an như san.
Ô hô, hà thời nhãn tiền đột ngột kiến thử ốc,
Ngô lư độc phá thụ đống tử diệc túc.


Dịch nghĩa

Tháng tám, trời thu cao, gió giận dữ gào thét,
Cuốn đi ba lớp cỏ tranh trên mái nhà ta.
Cỏ tranh bay qua sông, rải xuống miền đất bên sông.
Cao thì vắt vẻo treo trên ngọn cây rừng;
Thấp thì tả tơi rơi chìm xuống ao nước.
Lũ trẻ xóm nam khinh ta già yếu,
Nhẫn tâm làm giặc cướp ngay trước mặt ta.
Chúng công khai ôm cỏ tranh đi vào trong xóm trúc;
Ta khô môi rát miệng, kêu thét mà không được.
Trở về, chống gậy, thở than.
Một lát sau, gió yên mây đen như mực.
Trời thu bát ngát đen tối lúc chiều tà.
Chiếc chăn vải dùng nhiều năm, lạnh như sắt,
Bị đứa con thơ khó ngủ đạp rách toang.
Ở đầu giường mái nhà dột, không chổ nào khô;
Vết mưa nhiều như gai vẫn còn chưa hết.
Từ khi gặp cơn loạn lạc, mình ít ngủ,
Suốt đêm dài ướt đẫm, biết làm sao hết được!
Mong sao có được ngàn vạn gian nhà lớn,
Để giúp cho các hàn sĩ trong thiên hạ đều được vui vẻ,
Không bị kinh động vì mưa gió, yên ổn như núi non!
Hỡi ôi, biết bao giờ được trông thấy nhà này đứng cao sững trước mắt,
Dù cho riêng nhà ta bị phá vỡ, mình có chịu rét đến chết, cũng thoả lòng!


(Năm 761)

Đỗ Phủ Thi Thánh Thi Sử thời nhà Đường Trung Hoa với bài thơ Xem người đẹp múa kiếm ca ngợi tài nghệ múa kiếm tuyệt luân của mỹ nhân Công Tôn Đại Nương. Đọc thơ Đỗ Phủ liên tưởng tới bài thơ ‘Thuật hoài’ của tráng sĩ Đặng Dung, danh tướng thời Hậu Trần của Việt Nam đêm thanh mài kiếm, ngẫm kỹ thấy có sự tương đồng. Đọc các bài “Bát trận đồ” “Xuân vọng” “Túp lều tranh nát dưới gió thu” càng thêm cảm khái.

Ôi, danh sĩ tinh hoa đức độ tài năng thời nào cũng có, gặp thời nhiễu loạn, đành vàng lầm trong cát, nhưng nhân cách vẫn lồng lộng như gương trời buổi sớm.

Nguồn: Đỗ Phủ thương đọc lại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/do-phu-thuong-doc-lai/; đọc thêm: Lời Thầy dặn Thung dung; Đối thoại với Thiền sư


IM LẶNG MÀ BÃO GIÔNG
Hoàng Kim

Im lặng mà bão giông, khoảnh khắc mà trường cửu, tưởng như vô định nhưng đang thấu mọi cõiVõ Nguyên Giáp, Văn Cao  ảnh Nguyễn Đình Toán thật đẹp và cảm khái. Hôm nay, nhân tưởng nhớ ngày sinh Văn Cao, nhạc sĩ nổi tiếng, tác giả quốc ca Việt Nam, tôi lại ngắm nhìn bức ảnh của Văn Cao với đại tướng Võ Nguyên Giáp , lắng nghe lại “Mùa xuân đầu tiên” Tác giả: Văn Cao, ca sĩ: Thanh Thúy, nhớ lời bình thật hay của nhà nhiếp ảnh danh tiếng Nguyễn Đình Toán.

Đọc lại và suy ngẫm  Vị tướng của lòng dân  Hoàng Kim đăng ngày 5 tháng 10 năm 2013 ngay sau ngày Người mất http://danhnhanviet.blogspot.com/2013/10/vo-nguyen-giap-vi-tuong-cua-long-dan.html.  mà nhớ thấm thía lời bình của Giáo sư Nguyễn Huệ Chi trong bài viết “Tướng Giáp, người anh hùng của độc lập Việt Nam, đã qua đời” : “Giải tỏa tấn bi kịch vô hình khủng khiếp đè lên con người đó, bỏ qua mọi thứ “công tội” do chính cái chủ nghĩa mà con người đó theo đuổi, trả lại cho con người đó cái giá trị đích thực của một vị tướng đánh trận tài năng, phải nói chính là vòng tay ân nghĩa của nhân dân“.“Về nghỉ là thượng sách. Thử điểm lại lịch sử xưa nay có tướng nào giành được chiến công lẫm liệt mà không đi kèm thân bại danh liệt hay không?”.

Hoàng Kim viết bài Vị tướng của lòng dân là tích hợp mười ghi chép nhỏ về Người trên DANH NHÂN VIỆT 1) Nhân cách lớn của đại tướng Võ Nguyên Giáp; 2) Tướng Giáp trí tuệ bậc Thầy; 3) Võ Nguyên Giáp sao sáng trời Nam; 4) Võ Nguyên Giáp vị nhân tướng khuyến học; 5) Võ Nguyên Giáp thiên tài quân sự; 6) Đại tướng Võ Nguyên Giáp chân dung một huyền thoại; 7) Võ Nguyên Giáp đọc lại và suy ngẫm; 8) Đọc lại và suy ngẫm Tết Mậu Thân 1968; 9) Võ Nguyên Giáp vị tướng của lòng dân; 10) Võ Nguyên Giáp tự trong sâu thẳm.

Hoa Lúa giữa đồng xuân là sự lựa chọn của người lính trở về sau chiến tranh

HOA LÚA GIỮA ĐỒNG XUÂN

Bao năm Trường Viện là nhà
Sắn khoai ngô lúa đều là thịt xương
Một đời người một rừng cây
Thầy ươm giống tốt để mai thành rừng.

Con theo Người nguyện làm Hoa Lúa
Bưng bát cơm đầy quý giọt mồ hôi
Trọn đời vì Dân mến thương hạt gạo
Hoa quê hương hạt ngọc trắng ngần.


Con thăm Thầy lên non thiêng Yên Tử
Về đất lành Chùa Ráng giữa đồng xuân

“Mưa thuận gió hòa chăm bón đúng
Nhân tươi quả tốt được thu nhiều”
(*)

Lẫn với cỏ không tranh đua hương vị
Không màng ngôi ngự trị các loài hoa
Hoa Lúa đượm hồn quê dung dị
Quên sắc hương để lộng lẫy Hoa Người ! ” (**)

Con nguyện ước nối đời theo hạt gạo
Chén cơm ngon thơm bếp lửa gia đình
Thầy Trò cùng chung tay làm việc thiện
Sống trọn tình với giấc mơ xanh.


Hoàng Kim
(*) Lão Nông Tăng trong ngôi cổ tự
(**) trích dẫn thơ Dương Phượng Toại

CNM365 TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
Hoàng Kim 

Dỗ Phủ thơ mưa lành và Toni Morrison khuyên tôi viết cnm365 Tình yêu cuộc sống. Mưa lành và yêu thương là trường năng lượng tích cực cho suối nguồn hạnh phúc

Toni sinh ở Lorain, Ohio, (ảnh Rona Proudfoot). Toni Morrison, gọi tắt là Toni, tên khai sinh Chloe Anthony Wofford, sinh ngày 18 tháng 2 năm 1931, là nhà văn nữ Mỹ gốc Phi, người thành phố New York, giáo sư Mỹ, phụ nữ đoạt giải Nobel Văn học năm 1993, giải Pulitzer năm 1988, nổi tiếng với các tác phẩm Tình yêu, Người yêu dấu, Bài ca Solomon, Mắt xanh.  Bà rất được kính trọng trong các phong trào quyền bình đẳng phụ nữ và thường phát biểu trong các đại hội của phụ nữ da đen. Tác phẩm của bà được dịch ra nhiều thứ tiếng và là đối tượng của nhiều công trình nghiên cứu. Morrison gọi Bill Clinton là “Tổng thống da đen đầu tiên”, vì bà cho rằng “Clinton phô bày hầu hết những nét đặc trưng của dân da đen: Một cậu bé gốc Arkansas, sinh ra trong một gia đình nghèo không cha, thuộc tầng lớp lao động, chơi kèn saxophone, và mê thức ăn McDonald”.

Toni Morrison là nhà văn tình yêu như tác phẩm mẫu mực mới đây của bà, một trong những biểu tượng văn hóa khát khao vươn tới. Đó là sự tôn vinh những giá trị đích thực của nhân loại: yêu thương con người, tôn trọng tự do, quan tâm bình đẳng giới, quan tâm người nghèo và những người kém may mắn.

Lorain Ohio

Toni sinh ở Lorain, Ohio, là một thành phố thuộc quận Lorain, tiểu bang Ohio, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của thành phố này là 64.097 người. Toni là con thứ hai trong một gia đình công nhân da đen có bốn người con. Toni lớn lên cùng cuộc đại suy thoái những năm 1930 ở nước Mỹ. Bà sớm  bộc lộ niềm yêu thích văn học. Thuở nhỏ, bà học tiếng Latin, đọc các tác phẩm của văn học Nga, AnhPháp.

 AustenTolstoy  là bậc thầy thần tượng của Toni.  Austen (hình UTA) sinh ngày 16 tháng 12 năm 1775 mất ngày 18 tháng 7 năm 1817, là nữ văn sĩ Anh, tác giả của nhiều tác phẩm nổi tiếng. Văn phong tuyệt kỹ trong nghệ thuật dẫn chuyện và xây dựng tình huống cùng với tầm cao văn hóa  xã hội đã đem tên tuổi Austen vào trong số những nhà văn nhiều ảnh hưởng và được trọng vọng nhất trên văn đàn nước Anh. Auten chưa bao giờ kết hôn nhưng có câu chuyện tình yêu lãng mạn với Tom Lefroy và thể hiện sâu sắc trong đời văn của mình. Austen đã ảnh hưởng sâu đậm đến phong cách văn chương của Toni.

Tolstoy là đại văn hào Nga với các kiệt tác Chiến tranh và hoà bìnhAnna Karenina, nhà viết tiểu thuyết vĩ đại nhất trong tất cả các nhà viết tiểu thuyết. Tolstoy sinh ngày  9 tháng 9 năm 1828 mất ngày 20 tháng 11 năm 1910 là nhà giáo dục, nhà triết học, nhà đạo đức, người theo chủ nghĩa nhân đạo, hoà bình,  nổi tiếng với tư tưởng đối kháng không bạo động, được thể hiện xuyên suốt các tác phẩm của mình, ảnh hưởng sâu đậm tới nhiều nhân vật danh tiếng của thế kỷ XX như Gandhi, Luther King, … và Toni.

Toni sau khi tốt nghiệp trung học loại ưu năm 1945 đã theo học ngành khoa học xã hội nhân văn tại trường Đại học Howard và hoàn thành chương trình cao học tại Đại học Cornell, sau đó làm giảng viên tại Đại học Texas, Đại học Howard và Đại học Yale. Biệt danh “Toni” có từ những ngày còn học ở đại học. Năm 1958 bà lấy chồng là Harold Morrison, có hai con là Harold và Slade. Sau năm 1964 bà sống độc thân và làm trợ lí biên tập cho nhà xuất bản Random House chuyên sách giáo khoa tiểu bang New York. Sau đó, bà trở thành biên tập viên chính, biên tập sách của nhiều nhà văn nổi tiếng từ năm 1967. Toni xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay “Mắt xanh” (The Bluest Eye) năm 1970, thu hút sự chú ý của công chúng Mỹ do sự mô tả sâu sắc cuộc sống và số phận của những người Mỹ gốc Phi. “Mắt xanh” nói về mơ ước của cô gái da đen ước mình có mắt xanh biểu tượng nét đẹp của người Mỹ da trắng, tác động sâu sắc đến sự thành kiến chủng tộc đang nhức nhối lương tâm nước Mỹ . Năm 1973, tiểu thuyết Sula của Toni trở thành sách bán chạy nhất và được trao Giải thưởng sách Quốc gia. Hai năm 1976 và 1977 bà dạy ở Đại học Yale và viết Bài ca Solomon (Song of Solomon), được trao Giải thưởng Quốc gia và Giải thưởng của Viện Hàn lâm Văn học và Nghệ thuật Mỹ. Toni từ năm 1989 giữ chức giáo sư Đại học Princeton, chuyên gia giảng dạy văn học Mỹ – Phi, thỉnh giảng và viết phê bình. Kể từ năm 1981, bà là thành viên Viện Hàn lâm Văn học và Nghệ thuật Mỹ, Viện Hàn lâm các Khoa học xã hội và Khoa học chính xác Mỹ. Bà đã nhận được nhiều giải thưởng văn học có uy tín, trong đó có giải Pulitzer năm 1988 cho tiểu thuyết Người yêu dấu (Beloved). Trong tác phẩm này, bà đã chỉ ra tác động kinh hoàng của kiếp nô lệ đến tình cảm của người mẹ. Câu chuyện của một phụ nữ da đen cho rằng thà tự tay giết chết con gái mình còn hơn phải đưa con đi làm nô lệ đã ám ảnh lương tâm nước Mỹ vừa phục hồi sau cuộc nội chiến, hướng tới giá trị nhân văn đa sắc tộc, tôn trọng quyền con người, quyền được sống, được tự do và mưu cầu hạnh phúc. Tiểu thuyết “Người yêu dấu” đã thành công vang dội. Năm 1993, bà được nhận giải Nobel, trở thành người phụ nữ da đen đầu tiên được trao giả thưởng cao quý này. “Tình yêu” (Love)  là tiểu thuyết mới nhất của bà xuất bản năm 2003, rất được yêu thích và bà trở thành một trong những biểu tượng của văn hóa Mỹ.

Những tác phẩm chính của Toni Morrison gồm có:

  • The Bluest Eye (Mắt xanh, 1970), tiểu thuyết
  • Sula (1973), tiểu thuyết
  • Song of Solomon (Bài ca Solomon, 1977), tiểu thuyết
  • Tar Baby (Thủy thủ nhóc, 1981), tiểu thuyết
  • Dreaming Emmett (Giấc mơ em, 1986), kịch
  • Beloved (Người yêu dấu, 1987), tiểu thuyết
  • Jazz (Nhạc Jazz, 1992), tiểu thuyết
  • Playing in the Dark (Chơi đêm, 1992), tiểu luận
  • Racing Justice (Thi đua công bằng, 1992), tiểu luận
  • Paradise (Thiên đường, 1998), tiểu thuyết
  • The Big Box (Chiếc hộp lớn, 2000), truyện thiếu nhi
  • The Book of Mean People (Sách đời thường, 2001), truyện thiếu nhi
  • Love (Tình yêu, 2003), tiểu thuyết.

Nguồn chính thông tin về Toni Morrison trên Wikipedia tiếng Việt, Literary Encyclopedia biography, Voices from the Gaps biography, The Nobel Prize in Literature 1993,  Toni trên thế giới tiếng Anh quá nổi tiếng, đặc biệt với Tình Yêu (Love), Người yêu dấu (Beloved), Bài ca Solomon (Song of Solomon), Mắt xanh (The Bluest Eye). Toni ở Việt Nam là khát khao xanh chờ đợi của tôi và bạn đọc Việt, mong muốn được thưởng thức các bản chuyển ngữ uy tín, danh tiếng để người Việt được lắng đọng và chia sẻ tầm tư tưởng nhân văn cao vọi cùng với nghệ thuật văn chương bậc thầy của một nhà văn lớn đương đại. Người Việt mở rộng cửa giao lưu văn hóa nhìn ra thế giới.

BÁU VẬT NƠI ĐẤT VIỆT

Pho tượng Phật Quan Âm
trở về từ biển cả
chùa Thanh Lương Phú Yên

đẹp và kỳ lạ quá !

Thành Hoàng Lương Văn Chánh
Châu Văn Tiếp Phú Yên
Lúa siêu xanh Việt Nam.
Mằng Lăng lưu chữ Việt.

Lời thương nơi Tháp Nhạn
An Hải mả Cao Biền
Ghềnh Đá Đĩa Tuy An
Báu vật nơi đất Việt.


Bạch Ngọc Hoàng Kim

https://hoangkimlong.wordpress.com/catrgory/pho-tuong-ngoc-quan-am/

Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là pho-tuong-ngoc-quan-am.jpg

Tôi biết câu chuyện pho tượng Ngọc Quan Âm từ thầy Thích Giác Tâm và chính cuộc đời mình Tôi từng ngắm suốt buổi sáng tượng Phật nằm, và từng hoan hỉ xúc động khi lắng nghe huyền tích và định kể câu chuyện này theo trình tự bố cục chặt của lối viết khoa học, cô lập tách biệt. Chuyện nhỏ gọn gàng này dễ hiểu, là một món quà quê trước trong và sau mùa Rằm Đản Sinh gửi tới quý thầy bạn. Nhưng thật lạ lùng, không hiểu sao, có một nghiệp lực vô hình mạnh mẽ cuốn hút tôi, mách bảo và khai mở cho tôi, khuyên rằng hãy vừa noi lối cũ vừa cần tiếp hợp mới. Tôi hào hứng mở đầu với sự chia sẻ bài viết ‘Người giàu và người nghèo‘ của Elon Musk do anh Nguyễn Văn Bộ, “Thầy bạn trong đời tôi” kể tại “Mưa tháng Năm nhớ bạn”. Câu chuyện ấy ở đây: https://hoangkimlong.wordpress.com/category/mua-thang-nam-nho-ban/ và được tích hợp trong năm bài “Pho tượng Ngọc Quan Âm” gồm 1) Người giàu và người nghèo; 2) A Na Bà Chúa Ngọc; 3) Chuyện đồng dao cho em; 4) Chuyện Ngậm Ngãi tìm trầm; 5) Báu vật nơi đất Việt

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/pho-tuong-ngoc-quan-am/

1.

NGƯỜI GIÀU VÀ NGƯỜI NGHÈO

Người giàu và người nghèo khác nhau như thế nào? Có một lần Elon Musk làm diễn giả cho một hội nghị ở Hoa Kỳ về đầu tư và tài chính, phần hỏi đáp, ông nhận được một câu hỏi khiến mọi người phải bật cười. “Thưa ông, là người giàu nhất thế giới, ông có thể chấp nhận việc con gái mình kết hôn với một người đàn ông nghèo và bình thường không?”

Ông Elon Musk nói: (Tôi HK thêm vào các số ngắt câu 1, 2, 3, 4, 5 theo ý riêng của mình để nắm rõ cốt lõi của câu chuyện kể) 1) Trước hết, hãy hiểu rằng “Giàu có” không có nghĩa là có một tài khoản ngân hàng hoành tráng. Giàu có trước hết là khả năng tạo ra của cải. Ví dụ: Một người nào đó trúng xổ số hoặc thắng bạc. Ngay cả khi anh ta thắng 100 triệu thì anh ta cũng không trở thành người giàu: Anh ta chỉ là người nghèo với rất nhiều tiền. Đó là lý do tại sao 90% triệu phú xổ số trở lại nghèo khổ sau 5 năm. 2) Ta có thể gặp những người giàu có nhưng không có tiền. Ví dụ: Hầu hết các doanh nhân. Họ đã và đang trên con đường trở nên giàu có ngay cả khi họ chưa có tiền, bởi vì họ đang phát triển trí thông minh tài chính của mình và với tôi đó chính là sự giàu có. Nói một cách đơn giản: Người giàu có thể chết để trở nên giàu có, trong khi người nghèo có thể giết người để có tiền. 3) Nếu bạn thấy một người trẻ quyết định rèn luyện, học hỏi những điều mới, luôn cố gắng cải thiện bản thân không ngừng, hãy tin rằng anh ta là một người giàu có. Nếu bạn thấy một người trẻ tuổi nghĩ rằng anh ta nghèo là do nhà nước, rằng người giàu toàn là người xấu, kẻ trộm và luôn chỉ trích người khác, hãy tin rằng anh ta là một người nghèo. 4) Người giàu tin rằng họ chỉ cần thông tin và học hỏi để thành công, người nghèo nghĩ rằng người khác phải cho họ tiền để họ cất cánh. 5) Tóm lại, khi tôi nói rằng con gái tôi sẽ không lấy một người đàn ông nghèo, tôi không nói về tiền bạc. Tôi đang nói về khả năng tạo ra của cải ở người đàn ông đó. Xin lỗi vì đã nói điều này, nhưng hầu hết tội phạm đều là những người nghèo. Khi đứng trước đồng tiền, họ mất lý trí, đó là lý do họ cướp giật, trộm cắp… Đối với họ đó là lối thoát vì họ không học hỏi được kỹ năng tự mình kiếm tiền. Như chuyện về người bảo vệ nghèo của một ngân hàng, một lần anh tìm thấy một chiếc túi đầy tiền, anh ta đã lấy chiếc túi và đi đưa cho giám đốc ngân hàng. Mọi người gọi người đàn ông này là đồ ngốc, nhưng thực tế người đàn ông này chỉ là một người giàu chưa có tiền. Để cám ơn, ngân hàng mời anh làm lễ tân, ngoài giờ làm anh đi học. Ba năm sau anh được đề cử làm giám đốc khách hàng và 10 năm sau anh trở thành quản lý khu vực của ngân hàng này, dưới quyền anh có hàng trăm nhân viên. Thu nhập của anh bây giờ gấp nhiều lần số tiền anh trả lại ngày nào, lại có vị trí xã hội và lòng tự hào mà việc giấu giếm số tiền không thể đem lại!

Bạn đồng tình với Elon Musk chứ? Ông ấy trả lời đúng và thẳng thắn, nhưng dường như còn nhiều khác biệt về góc nhìn, hoàn cảnh, nền văn hóa, cách tiếp cận giàu nghèo với cách trả lời. Ông ấy nói “Tóm lại, khi tôi nói rằng con gái tôi sẽ không lấy một người đàn ông nghèo, tôi không nói về tiền bạc, tôi đang nói về khả năng tạo ra của cải ở người đàn ông ấy” Tôi Nhớ lại và suy ngẫm, Nhớ kỷ niệm một thời vừa viết tiếp nối một chuyện thực đời thường Ngọc lưu ly nhớ Mẹ khi bạn học Nguyễn Quế đăng bài thơ xúc động

NHỚ DÁNG MẸ XƯA
Nguyễn Quế
(Viết nhân ngày của Mẹ 8/5)

Lặng thầm trên khúc đường thôn
Một đôi quang gánh bước dồn chiều quê

Miếng trầu bỏm bẻm đỏ hoe
Còng lưng vai mẹ chở che gió trời
Dáng đi của cả cuộc đời
Mà nay vẫn lặng như thời mẹ đi

Nghe trong tiếng gió thầm thì
Bước chân còn gợi những gì xa xưa
Xót lòng thương nỗi nắng mưa
Quanh năm tần tảo sớm trưa nhọc nhằn

Lặng thầm theo mỗi bước chân
Nhớ về dáng mẹ khuất dần đường quê.

Tôi nối tiếp bạn học của mình bằng bài thơ

NGỌC LƯU LY NHỚ MẸ
Hoàng Kim

Bạn nhớ dáng mẹ lưng còng
Mình thương mẹ mất lúc còn thanh xuân

Giáp Thìn bốn chín chân vân
Tuổi thơ vắng mẹ rưng rưng cuộc đời
Ít năm giặc giết cha rồi
Gian nan càng trải một thời truân chiên

Quê hương lưu bóng mẹ hiền
Thiêng liêng đất nước lời nguyền núi sông

Trưa nay tôi xúc động với Đường xuân đời quên tuổi Tôi lắng lòng mình thấu hiểu, và viết tiếp Pho tượng Ngọc Quan Âm, theo khuyến khích của những người thân trong gia đình và các thầy bạn quý.

2

cropped-dsc00927.jpg

A NA BÀ CHÚA NGỌC
Hoàng Kim

Nha Trang ngày nay ở tại tháp Po Nagar có A Na Bà Chúa Ngọc Tích truyện Thiên Y A Na Bà Chúa Ngọc do cụ Phan Thanh Giản soạn ngày 20 tháng 5 năm 1857 (Tự Đức thứ 9), bản dịch của Quách Tấn, văn bia này (hình dưới) do ông bà Lê Vinh tạc năm 1970. Hình tượng Mẹ thật tuyệt vời trong tín ngưỡng Đạo Mẫu Việt Nam với văn hóa Việt Chăm. Những công trình nghiên cứu lịch sử văn hóa gần đây của các tác giả Ngô Đức Thịnh 2009, và Lê Đình Phụng 2015, và Huỳnh Thiệu Phong 2016 với nhiều công trình khác đã giúp tôi soi thấu nhiều góc khuất để tích cũ viết lạị bài A na Bà Chúa Ngọc. Cám ơn các tác giả của những tài liệu đã trích dẫn (HK).

BÀ THIÊN Y A NAN
Lược sử


Xưa tại núi Đại An (Đại Điển) có hai vợ chồng Ông tiều đến cất nhà và vỡ rẫy trồng dưa nơi triền núi. Dưa chín thường hay bị mất.

Một hôm ông rình, bắt gặp một thiếu nữ trạc chừng chín mười tuổi hái dưa rồi giỡn dưới trăng. Thấy cô gái dễ thương ông đem về nuôi. Hai ông bà vốn không con cái, nên đối với thiếu nữ thương yêu như con ruột.

Một hôm trời mưa lụt lớn, cảnh vật tiêu điều buồn bã thiếu nữ lấy đá chất ba hòn dã sơn và hái hoa lá cắm vào, rồi đứng ngắm làm vui. Cho rằng hành vi của con không hợp với khuê tắc, ông tiều nặng tiếng rầy la. Không ngờ đó là một tiên nữ giáng trần đang nhớ cảnh Bồng Lai. Đã buồn thêm bực nhân thấy khúc kỳ nam theo nước nguồn trôi đến tiên nữ bèn biến thân vào khúc kỳ, để mặc cho sóng đưa đẩy. Khúc kỳ trôi ra biển cả rồi tấp vào đất Trung Hoa. Mùi hương bay ngào ngạt. Nhân dân địa phương lấy làm lạ rũ đến xem. Thấy gỗ tốt xúm nhau khiêng, nhưng người đông bao nhiêu cũng không giở nổi.

Thái tử Bắc Hải nghe tin đồn, tìm đến xem hư thực, thấy khúc gỗ không lớn lắm, lẽ gì nặng đến nỗi giở không lên, Thái Tử bèn lấy tay nhấc thử. Chàng hết sức lạ lùng vì khúc gỗ nhẹ như tờ giấy, bèn đem về cung, trân trọng như một bảo vật.

Một đêm, dưới bóng trăng mờ. Thái Tử thấy có bóng người thấp thoáng nơi để khúc kỳ nam. Nhưng lại gần xem thì tứ bề vắng vẻ, bên mình chỉ phảng phất mùi hương thanh thanh từ khúc kỳ bay ra. Chàng quyết rình xem mấy đêm liền không hề thấy khác lạ. Chàng không nản chí. Rồi một hôm, đêm vừa quá nửa, bốn bề im phăng phắc, một giai nhân tuyệt sắc theo ngọn gió hương ngào ngạt từ trong khúc kỳ nam bước ra.

Thái Tử vụt chạy đến ôm choàng. Không biến kịp, giai nhân đành theo Thái Tử về cung và cdo biết rõ lai lịch.

Giai nhân xưng là Thiên Y A Na.

Thái Tử vốn đã trưởng thành nhưng chưa có lứa đôi vì chưa chọn được người xứng ý. Nay thấy A Na xinh đẹp khác thường bèn tâu phụ hoàng xin cưới làm vợ. Nhà vua xin bói cát hung. Trúng quẻ “đại cát” liền cử lễ thành hôn.

Vợ chồng ăn ở với nhau rất tương đắc và sanh được hai con, một trai, một gái, trai tên Trí, gái tên Quý, dung mạo khôi ngô.

Thời gian qua trong êm ấm Nhưng một hôm lòng quê thúc giục Thiên Y bồng hai con nhập vào kỳ nam trở về làng cũ.

Núi Đại An còn đó nhưng vợ chồng ông tiều đã về cõi âm Thiên Y bèn xây đắp mồ mã cha mẹ nuôi và sửa sang nhà cửa để phụng tự. Thấy dân địa phương còn dã man, bà đem văn minh Trung Hoa ra giáo hóa, dạy cày cấy, dạy kéo vải, dệt sợi .. và đặt ra lễ nghi .. từ ấy ruộng nương mở rộng đời sống của nhân dân mỗi ngày mỗi thêm phúc túc phong lưu công khai phá của bà chẳng những ở trong địa phương và các vùng lân cận cũng được nhờ. Rồi một năm vào ngày lành tháng tốt, trời quang mây tạnh một con chim hạc từ trên mây bay xuống, bà cùng hai con lên lưng hạc bay về tiên.

Nhân dân địa phương nhớ ơn đức xây tháp tạc tượng vào năm 817 phụng thờ và mỗi năm vào ngày bà thăng thiên 23. 3 âm lịch tổ chức lễ múa bóng dâng hương hoa rất long trọng. Ở Bắc Hải Thái Tử trông đợi lâu ngày không thấy vợ con trở về bèn sai một đạo binh dong thuyền sang Đại An tìm kiếm. Khi thuyền đã đến nơi thì bà đã trở về Bồng đảo. Người Bắc Hải ỷ đông hà hiếp dân địa phương ngờ rằng dân địa phương nói dối bèn hành hung không giữ lễ xúc phạm thần tượng, nhân dân bèn thắp nhang khấn vái. Liền đó gió thổi đá bay đánh đắm thuyền của Thái Tử Bắc Hải.

Nơi đây nổi lên một hòn đá lớn tục gọi là đá chữ.

Ngày 20 5 năm Tự Đức thứ 9 ‘1857’ PHAN THANH GIẢN
Thượng thư Lễ nghi thảo văn, theo bản dịch Quách Tấn

Văn bia viết về Thiên Y A Na tại tháp Po Nagar, Nha Trang do cụ  Phan Thanh Giản soạn ngày 20 tháng 5 năm Tự Đức thứ 9 (1857) – bản dịch của Quách Tấn – ông bà Lê Vinh tạc năm 1970 (Thiên Y A NA Wikipedia Tiếng Việt), văn bản đánh máy của Hoàng Kim sao y văn bản tại tháp Po Nagar, Nha Trang.

Thien_Y_A_Na

Điện thờ Thiên Y A Na Bà Chúa Ngọc tại tháp Po Nagar, Nha Trang . Bài nghiên cứu của Huỳnh Thiệu Phong 2016 “TỪ YANG PO INÂ NÂGAR ĐẾN THIÊN YANA DIỄN NGỌC PHI: DẤU ẤN CỦA SỰ GIAO THOA VĂN HÓA VIỆT – CHĂM TRONG DÒNG CHẢY VĂN HÓA VIỆT NAM” (xem chi tiết tại A Na bà chúa Ngọc) và tác phẩm Đạo Mẫu Việt Nam của Ngô Đức Thịnh 2009, Lê Đình Phụng 2015 đã cung cấp một góc nhìn khái quát về lịch sử văn hóa về lĩnh vực này.

NgoDucThinh2009DaoMauVietNam

ĐẠO MẪU VIỆT NAM (tập 1 & tập 2)
Ngô Đức Thịnh 2009 (NXB Tôn Giáo 2009)
Sách Việt Dec 24, 2015

Bộ sách gồm 2 tập gần 1000 trang giấy khổ lớn này là công trình nghiên cứu qua nhiều năm của Giáo sư Tiến sĩ Ngô Đức Thịnh, thuộc Trung tâm Nghiên cứu và bảo tồn tín ngưỡng Việt Nam, bao gồm hầu hết những vấn đề liên quan đến tục thờ Mẫu ở Việt Nam từ xưa đến nay và trên khắp ba miền Nam, Trung, Bắc, tất nhiên là được trình bày dưới sự nhìn nhận và đánh giá của khoa học hiện đại.

Sách chia làm 6 phần. Phần thứ nhất trình bày những thành tựu nghiên cứu hiện nay về những vấn đề chung nhất đối với đạo Mẫu. Phần thứ hai, thứ ba và thứ tư tuần tự phân tích chi tiết về đạo Mẫu ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Phần thứ năm đánh giá chung về đạo Mẫu và các giá trị tích cực cũng như tiêu cực của nó. Cuối cùng, phần thứ sáu là phần sưu tầm các bản văn thơ, tư liệu bằng văn bản được lưu truyền trong đạo Mẫu

LeDinhPhung

ĐỐI THOẠI VỚI NỀN VĂN MINH CỔ CHĂM PA
Lê Đình Phụng 2015 (Bảo tàng lịch sử Việt Nam)
Cập nhật: 7:22 PM GMT+7, Thứ năm, 23/07/2015

Tác giả Lê Đình Phụng; Nhà Xuất bản Khoa học xã hội; Khổ sách 16 cm x 24 cm; Số lượng 302 trang; Năm 2015.

Văn hóa Champa là một nền văn hóa lớn, độc đáo, mang bản sắc riêng, có nhiều đóng góp quan trọng vào văn hóa dân tộc trong lịch sử và tỏa sáng đến ngày nay. Kế thừa từ văn hóa cội nguồn của tộc người và sự tiếp thu hội nhập từ văn minh Ấn Độ đưa lại, người Chăm đã xây dựng và phát triển tạo nên một nền văn hóa rực rỡ có mặt từ Nam đèo Ngang (tỉnh Quảng Bình) chạy dài theo dải đất miền Trung đến bờ Bắc sông Đồng Nai (tỉnh Bình Thuận), lan tỏa lên vùng cao nguyên đại ngàn hùng vĩ cùng hệ thống các đảo ven biển miền Trung.Lê Đình Phùng là một cán bộ nghiên cứu công tác tại Viện Khảo cổ. Ông được phân công nghiên cứu về khảo cổ học Champa. Sau hơn 30 năm nghiên cứu về nền văn hóa này, với lòng yêu nghề và niềm đam mê  đã thôi thúc tác giả luôn tìm hiểu, tự đặt ra những câu hỏi và tự tìm kiếm câu trả lời. Cuốn sách “ Đối thoại với nền văn minh cổ Champa” như sự tự độc thoại với nền văn minh trong quá khứ.  Tác giả không nêu các thành tựu nghiên cứu đã đạt được mà chỉ nêu những vấn đề còn chưa có lời giải thỏa đáng.

Tác phẩm gồm 4 nội dung chính:

Phần  I: Đối thoại với chủ nhân nền văn hóa Champa – Người Chăm
Phần  II : Đối thoại với lịch sử Champa
Phần III : Đối với tín ngưỡng và tôn giáo Champa
Phần IV : Đối thoại với di sản vật chất Champa

Tháp Bà Ponagar Nha Trang được xem là danh thắng bậc nhất của vịnh Nha Trang Khánh Hòa. Theo thông tin của Trung tâm bảo tồn di tích tỉnh Khánh Hòa về huyền bí đền tháp Ponagar thì “Ponagar như một huyền thoại về kiến trúc Chămpa, đến nay có lẽ chỉ xếp sau Di sản Mỹ Sơn nhưng hệ thống 22 cột trụ (Mandapa) mà Ponagar có được thì không đâu sánh bằng. Khám phá Ponagar, khám phá những huyền bí xung quanh ngọn bảo tháp tuyệt đẹp này đủ làm cho quý khách say đắm kiệt tác kiến trúc Chămpa cổ trên mảnh đất Khánh Hòa”.

Tháp Bà Ponagar tọa lạc trên đồi Cù Lao cao khoảng trên 20m (so với mực nước biển), diện tích theo số liệu mới nhất 17.683,6m2, thuộc Phường Vĩnh Phước, cách trung tâm thành phố  Nha Trang khoảng 2km về phía bắc. Khu di tích là quần thể công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo của vương quốc Chăm Pa cổ, được xây dựng khoảng từ giữa thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ XIII. Nơi đây là trung tâm tôn giáo thờ Nữ thần Ponagar (người Mẹ xứ sở của dân tộc Chăm) và được người Việt tiếp tục gìn giữ, phát triển làm nơi thờ Thiên Y Thánh Mẫu của cộng đồng cư dân khu vực Nam Trung bộ và Tây Nguyên. Với những giá trị tiêu biểu, di tích đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích cấp Quốc gia năm 1979. Quần thể di tích phân bố trên hai mặt bằng: Tháp cổng và Mandapa; khu đền tháp với các công trình kiến trúc và hoạt động văn hoá tiêu biểu:

1. Tháp cổng

Được người Pháp phục dựng đầu Thế kỷ XX, theo môtip kiến trúc Chăm,  bên trên có dòng chữ “Tháp Thiên Y Thánh Mẫu”. Cổng chính của Tháp Bà vốn nằm trên trục thẳng với Tháp Chính và Mandapa, nhưng đến nay cổng đó không còn. Theo khảo tả của nhà nghiên cứu H. Parmantier, đầu thế kỷ XX vẫn còn kiến trúc Tháp cổng.

2. Khu Mandapa

Đây là nơi các tín đồ chuẩn bị lễ vật và tịnh tâm trước khi hành lễ trên Tháp Chính. Kiến trúc gồm bốn hàng cột trụ hình bát giác (10 trụ lớn và 12 trụ nhỏ). Trên thân cột lớn ở độ cao bằng cột nhỏ có một ô hình chữ nhật khoét sâu vào thân cột, có chức năng như những “lỗ mộng” trong kiến trúc gỗ. Các nhà nghiên cứu cho rằng “lỗ mộng” có chức năng là điểm đỡ cho một kết cấu xà ngang để nâng đỡ mái che ở phía trên nhưng đã đổ và hiện nay không để lại vết tích.

Trước đây, Mandapa còn có hai cột nhỏ, thấp hơn nền, ở hai bên bậc lên xuống và thẳng ra cổng tháp cũ. Cổng, Mandapa và tháp lớn ở trên tạo thành trục thẳng đông – tây. Kiến trúc Mandapa hiện nay có cùng niên đại với niên đại cuối cùng của tháp chính, khoảng thế kỷ XI – XII.

Di tích Tháp Bà Ponagar là công trình kiến trúc, nghệ thuật của Vương quốc Chăm pa cổ. Vật liệu xây dựng bằng gạch nung, xốp, nhẹ và thoát nước rất nhanh, nên hầu như cũng không có hiện tượng rêu bám, các viên gạch chỉ bị bào mòn theo thời gian, phô ra màu đen, thể hiện gạch được nung ở nhiệt độ cao; các viên gạch liền mạch, khít chặt với nhau không để lộ ra mạch kết dính. Đây là điều đặc biệt về kỹ thuật nung gạch và xây dựng tháp Chăm nhưng đã bị thất truyền. Nhiều nhà khoa học nghiên cứu phương pháp làm gạch và xây tháp của người Chăm cổ nhưng đến nay vẫn chưa có một giải đáp thuyết phục.

Theo các nhà nghiên cứu, người Chăm xưa sử dụng phương pháp mài chập: Mài hai mặt viên gạch với nhau tạo ra những vết xước, bôi chất kết dính và xây từng viên một. Có giả thuyết cho rằng: Gạch ướt (gạch mộc), bôi chất kết dính (có thể là nhựa cây dầu rái, hoặc cây bời lời trộn với mật mía, tro của trấu…) và nung cả ngôi tháp, nhưng qua nghiên cứu cho thấy nhiệt độ nung của các viên gạch xây tháp khá đều nhau. Với bức tường dày (khoảng 0,5m – 2m) như vậy nếu xây xong tháp mới nung thì không thể có nhiệt độ nung đều nhau giữa các viên gạch. Chính vì vậy, cách thức xây dựng cũng như nghệ thuật xây dựng tháp Chăm đến nay vẫn là một điều bí ẩn.

Từ khu Mandapa lên khu đền tháp có 36 bậc cấp dốc và thẳng đứng. Tương truyền: để thể hiện sự tôn kính đối với các vị thần, đặc biệt là đối với Nữ thần Ponagar, các tín đồ khi lên trên khu đền tháp hành lễ phải bò và giật lùi khi xuống không quay lưng về phía đền tháp để thể hiện sự tôn kính đối với các vị thần; Sau này để thuận tiện cho du khách, khu đền tháp có thêm lối lên xuống bằng đá phía bên tay trái.

3. Cảnh quan khu di tích

Đồi Cù Lao được dòng sông Cái bao quanh, người Chăm gọi là Yatran (tức là Sông Lau). Trên đồi có nhiều cây rừng cổ thụ hàng trăm năm tuổi đã tồn tại cùng những ngọn tháp cả ngàn năm tuổi. Từ đây, du khách sẽ chiêm ngưỡng thành phố Nha Trang với cửa biển Cù Huân, cầu Xóm Bóng bắc qua Sông Cái (cây cầu mang tên Xóm Bóng, nơi có điệu múa linh thiêng “múa bóng” của các vũ nữ dâng lên nữ thần Ponagar trong dịp lễ hội) và vịnh Nha Trang với những hòn đảo: đảo Yến, Hòn Tre, Hòn Nội, Hòn Ngoại …

4. Khu đền tháp

Theo thống kê của nhà nghiên cứu H. Parmantier, đầu thế kỷ XX di tích có 6 ngôi tháp, nhưng hiện tại còn bốn ngôi đền tháp còn tương đối hoàn chỉnh so với các công trình đền tháp Chămpa còn lại ở Việt Nam: Tháp Chính (Tháp Đông Bắc), Tháp Nam, Tháp Đông Nam và Tháp Tây Bắc. Tiếng Chăm gọi các tháp là các Kalan, theo tiếng Việt có nghĩa là đền, tháp, nhưng theo tín ngưỡng của những người dân địa phương gọi đây là các dinh.

– Tháp Chính (Tháp Đông Bắc) có quy mô lớn nhất, mang đặc trưng cơ bản, tiêu biểu nhất của ngôi tháp Chăm truyền thống. Tháp cao khoảng 23 mét, có ba phần: Đế tháp, thân tháp và mái tháp. Mái tháp ba tầng thu nhỏ dần về phía trên, tầng trên là hình ảnh thu nhỏ của tầng dưới. Trên các tầng tháp được trang trí các linh vật: Ngỗng, dê, voi và các tu sĩ cầu nguyện (có người gọi là các ápsara). Trên cửa, được trang trí bằng một bức phù điêu hình lá đề: Thần Siva đang trong tư thế nhảy múa hân hoan cùng với hai nhạc công của mình (thổi sáo, đánh xập xòe), một chân dẫm lên lưng thần bò Nanđin. Phù điêu có niên đại thế kỷ XI và là một trong những tấm phù điêu đẹp nhất của văn hóa Chăm pa còn được lưu giữ ở Việt Nam.Tháp có bốn cửa theo bốn hướng đông – tây – nam và bắc nhưng chỉ có cửa hướng đông là được mở còn các hướng khác là ô cửa giả. Cửa hướng đông được đỡ bằng hai trụ đá, có ghi chữ Chăm cổ và chữ Sanscrit. Tháp chính thờ nữ thần Yan Po Inư Naga (người mẹ xứ sở của dân tộc Chăm); tương truyền bà sinh ra từ áng mây và bọt biển, Bà là nữ thần chủ của cả vương quốc Chăm Pa, được thờ ở xứ sở Kauthara và cũng là Thiên Y A Na Thánh Mẫu theo tín ngưỡng thờ “Mẫu” của người Việt.

Tượng Nữ thần được tạc bằng một khối đá granit nguyên khối, trong tư thế ngồi uy nghiêm trên bệ đá hình hoa sen, lưng tựa vào phiến đá lớn hình lá đề. Đây là một kiệt tác về điêu khắc ChămPa, là sự kết hợp hài hòa giữa kỹ thuật tượng tròn và chạm nổi. Toàn bộ pho tượng và tấm tựa được đặt trên một bệ Yoni khá lớn bằng đá. Với bố cục: tượng thờ là Linga, bệ thờ là Yoni, đây là bộ Linga-Yoni hoàn chỉnh, là sự kết hợp giữa giống đực và giống cái, tạo nên sự sống  và là vật thể linh thiêng của dân tộc Chăm pa. Hai bên Tháp thờ hai người con của Bà (Công chúa Quý và hoàng tử Trí, theo tục thờ của người Việt).

– Tháp Nam: Thờ thần Cri Cambhu (tên gọi khác của thần Shiva), tháp cao khoảng 18m; có niên đại thế kỷ XIII. Tháp có bình đồ hình vuông, mái tháp có hình dạng giống như quả chuông úp thu nhỏ về phía trên. Đặc biệt trên đỉnh mái tháp có gắn một biểu tượng trụ tròn bằng đá, đó chính là Linga biểu tượng sức mạnh của vị thần Siva, vị thần hủy diệt để thế giới sẽ tái sinh mang lại những điều tốt đẹp đến cho con người cũng như vạn vật. Không gian thờ tự bên trong là bộ sinh thực khí Linga -Yoni. Theo tín ngưỡng của người Việt: Tháp thờ ông Nam Hải (chồng Thánh Mẫu Thiên Y A Na).

– Tháp Đông Nam: cao khoảng 7m, có mái hình thuyền. Đây có thể là kiến trúc phụ trong quần thể kiến trúc và thuộc loại muộn, khoảng thế kỷ XIII. Tháp bị xâm hại nhiều bởi yếu tố thời gian và điều kiện tự nhiên. Trong tháp có bộ Linga – Yoni bằng đá. Tháp thờ con trai thần Shiva là thần Skanda (thần chiến tranh). Người Việt gọi là Dinh Cố, thờ bố mẹ nuôi của Bà Thiên YA Na.

– Tháp Tây Bắc: Ở phía sau Tháp chính, cao khoảng 9m, có một tầng mái hình yên ngựa. Hệ thống cửa giả được điêu khắc những pho tượng bằng gạch nung: Trên ô cửa giả phía nam là hình ảnh chim thần Garuda, ô cửa giả phía bắc là hình ảnh đầu con Sư Tử, ô cửa giả phía tây là hình tượng nữ thần cưỡi voi. Trong Tháp là bộ Linga – Yoni. Tháp thờ con trai thứ hai của thần Shiva là thần Ganesa (thần đầu voi) biểu tượng của sự thông thái, may mắn và hạnh phúc. Người Việt gọi là Dinh cô cậu (thờ 2 người con của Bà Thiên Y A Na). Theo bia kí và khảo cổ học, tháp có niên đại xây dựng năm 813 song đã được trùng tu nhiều lần, nên niên đại cuối cùng từ thế kỷ XIII – XIV.

5. Bia ký

Trên Tháp còn nhiều bia ký trên các cột đá, trên gạch bằng chữ Phạn (Sanscrit) và chữ Chăm cổ, một số bia ký chưa dịch được nội dung.

Phía sau Tháp chính có tấm bia do Phan Thanh Giản cho khắc vào năm 1856 (triều vua Tự Đức), bằng chữ Hán Nôm nói về truyền thuyết Thiên Y A Na Thánh Mẫu của người Việt.

Bên cạnh là tấm bia dựng vào năm 1972, nội dung về dịch sang chữ quốc ngữ truyền thuyết bà Thiên Y A Na theo “Xứ Trầm hương” của Quách Tấn.

Tấm bia đá thứ ba do vị quan đứng đầu tỉnh Khánh Hòa khắc vào năm 1881(nội dung)

 Và tấm bia đá giới thiệu về di tích Tháp Bà Ponagar, bằng chữ Quốc ngữ, được dựng vào năm 2010.

6. Lễ hội Tháp Bà

Diễn ra từ ngày 20 – 23 tháng 3 (Âm lịch) hàng năm, thể hiện quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa Việt – Chăm, nên lễ hội Tháp Bà đã trở thành lễ hội văn hóa dân gian lớn nhất ở Khánh Hòa, có sức lan toả cả vùng Nam Trung Bộ – Tây nguyên. Tiến trình diễn ra có sự linh thiêng của phần lễ và sự đa dạng, náo nhiệt của phần hội.

 Phần lễ: bao gồm các lễ như lễ thay y, lễ thả hoa đăng, lễ cầu Quốc thái Dân an, tế lễ cổ truyền…

 Phần hội: có múa Chăm truyền thống, múa Bóng (vũ nữ đội mâm hoa, quả, đèn…múa uyển chuyển theo điệu nhạc trầm bổng), chầu văn ca ngợi công đức Thánh Mẫu, các trò chơi dân gian, biểu diễn nghệ thuật truyền thống. Phần hội mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc thu hút đông đảo người Việt, người Chăm và hàng vạn du khách trong và ngoài nước tham dự .

Với đặc trưng tiêu biểu, lễ hội Tháp Bà Ponagar được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia  năm 2012.

7. Hoạt động trưng bày, biểu diễn

Phòng trưng bày: Giới thiệu hình ảnh, hiện vật liên quan đến di tích. Pho tượng Bà được phục chế theo tỉ lệ 1/1, được đặt ở giữa phòng trưng bày (giới thiệu về pho tượng: các cánh tay, tính nhân văn…); hiện vật, linh vật được phục chế; những bức ảnh đối chứng khu đền tháp trước và sau khi tu bổ…

Các thiếu nữ dân tộc Chăm múa các vũ điệu truyền thống dưới không gian tháp cổ, du khách như được chìm đắm trong khí thiêng của cõi tâm linh, chiêm ngưỡng từng công trình kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc tài tình; Đồng thời có cơ hội mua sắm những sản phẩm đặc trưng truyền thống được làm từ đôi bàn tay khéo léo của nghệ nhân Chăm như: dệt thổ cẩm, gốm Bầu Trúc và sản phẩm độc đáo của vùng đất Khánh Hoà: trầm hương, yến sào, tranh cát, tượng nghệ thuật bằng đất nung, thư pháp, thư hoạ trên nhiều vật liệu…”

AmChuaNhaTrang
Am Chúa được xây dựng trên núi Ðại An còn gọi là Qua Sơn (núi Dưa) thuộc thôn Ðại Ðiền Trung, xã Diên Ðiền, huyện Diên Khánh. Ðây là nơi thờ Thiên Y Ana Thánh Mẫu, một vị phúc thần rất được kính trọng ở Khánh Hòa. Theo sự tích được ghi lại trong một tấm bia đá từ năm 1856 ở Tháp Bà, Am Chúa được coi là nơi phát tích của Bà lúc ấu thơ sống với cha mẹ nuôi, còn Tháp Bà Nha Trang là nơi thờ Bà khi đã hiển thánh. Bởi vậy, ngay từ đầu triều Nguyễn, Thiên Y Ana đã được sắc phong là Hồng Nhơn Phổ Tế Linh Ứng Thượng Ðẳng Thần và tại Am Chúa mỗi khi tế lễ thường được tổ chức theo nghi lễ quốc tế do quan đầu tỉnh làm chủ tế. 

Lễ hội Am Chúa được tổ chức vào ngày mùng một tháng ba âm lịch hàng năm, mở đầu cho lễ hội Tháp Bà truyền thống của nhân dân Khánh Hòa được tổ chức vào ngày 23 tháng 3 âm lịch. Có thể khẳng định, lễ hội Am Chúa là nơi còn bảo lưu được nhiều nhất những nghi thức lễ hội cổ truyền của người Việt ở Khánh Hòa.

A NA BÀ CHÚA NGỌC

A Na bà chúa Ngọc
Mây lành Phổ Đà Sơn
Cát đá đất miền Trung
Về với vùng văn hóa

Ngọc Phương Nam ngày mới
Về với vùng cát đá
Giống sắn tốt Phú Yên
Lúa siêu xanh Phú Yên


Báu vật nơi đất Việt
A Na bà chúa Ngọc
Châu Văn Tiếp Phú Yên
Cao Biền trong sử Việt


Nha Trang và A. Yersin
Ông Rhodes chữ tiếng Việt
Sông Kỳ Lộ Phú Yên
Con đường xanh yêu thương


Cuối dòng sông là biển

Hoàng Kim

3

CHUYỆN ĐỒNG DAO CHO EM

Bạn hẳn nhớ Chuyện đồng dao cho em và phần 2 tích truyện A Na Bà Chúa Ngọc của chuyện dài Pho tượng Ngọc Quan Âm, có bia ký mà người viết là cụ Phan Thanh Giản, quan đại thần Thượng thư Lễ nghi thảo văn, theo bản dịch Quách Tấn, Văn bia đề ngày 20 tháng 5 năm 1857 (Tự Đức thứ 9). Những câu cuối của văn bia này như dưới đây:

Nhân dân địa phương nhớ ơn đức xây tháp tạc tượng vào năm 817 phụng thờ và mỗi năm vào ngày bà thăng thiên 23. 3 âm lịch tổ chức lễ múa bóng dâng hương hoa rất long trọng. Ở Bắc Hải Thái Tử trông đợi lâu ngày không thấy vợ con trở về bèn sai một đạo binh dong thuyền sang Đại An tìm kiếm. Khi thuyền đã đến nơi thì bà đã trở về Bồng đảo. Người Bắc Hải ỷ đông hà hiếp dân địa phương ngờ rằng dân địa phương nói dối bèn hành hung không giữ lễ xúc phạm thần tượng, nhân dân bèn thắp nhang khấn vái. Liền đó gió thổi đá bay đánh đắm thuyền của Thái Tử Bắc Hải.

N
ơi đây nổi lên một hòn đá lớn tục gọi là đá chữ.

Hòn đá lớn ấy nay ở đâu? Năm 817 là năm nào thuộc thời nào Hậu Đường trong lịch sử Việt? Trầm Hương Kỳ Nam Nha Trang Phú Yên liên hệ gì với pho tượng Ngọc Quan Âm? núi Chúa Đại An, Đầm Ô Loan Núi Cách Diều, sinh lộ Vũng Rô biển Phú Yên qua Đắk Lắk nối Stung Treng tới hợp lưu sông Me kong với tầm nhìn Tỉnh Hải Quân trong bản đồ thời Đường có quan hệ gì với khu dự án Vạn Ninh Bắc Vân Phong Khánh Hòa ngày nay? Mộ Cao Biền ở Phú Yên “Đầm Môn xóm Cát Cao Biền/ có đôi chim Nhạn đang chuyền cành Mai”/ “Ngó ra thấy mả Cao Biền./ Nhìn vào thấp thoáng Ma Liên Chóp Chài”/ “Đá Bia Đại Lãnh Phú Yên quan hệ gì với Đá Đứng’ ‘miếu cổ Cao Quân’/‘Giang sơn bến Lội’ ‘Hoành Linh Long Xà’/‘Tử Sinh’ ‘Cao Cát Mạc Sơn’ “Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non” những ẩn ngữ trong các câu chuyện cổ huyền thoại …

Tôi lãng du trong văn hóa Việt Nam, không chủ địch mà dấu chân đi tới theo nghiệp lực đời mình trên con đường khoa học nông nghiệp sinh thái, cặm cụi tìm tòi và cảm nhận Nha Trang và A. Yersin/ Báu vật nơi đất Việt/ A Na bà chúa Ngọc/ Châu Văn Tiếp Phú Yên / Cao Biền trong sử Việt/ Ông Rhodes chữ tiếng Việt / Sông Kỳ Lộ Phú Yên/… mà đặc biệt là Nha Trang và A. Yersin/ Báu vật nơi đất Việt/ đã góp phần liền mạch câu chuyện pho tượng Ngọc Quan Âm. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-dong-dao-cho-em/

Ngày mới Ngọc cho đời Đồng Nai đêm qua mưa. Tiếng mưa rả rích suốt từ khuya cho đến sáng. Ban mai trời hửng nắng. Tôi pha trà sớm nhớ bạn hiền và khởi đầu ngày mới bằng #cnm365 #cltvn 12 tháng 5. Mưa đều, thao thức việc Chọn giống sắn kháng CMD và xuống giống sắn vụ Hè. Ngắm ảnh Đường xuân đời quên tuổi, đọc lại Sắn Việt và Sắn Thái, đồng cảm sâu sắc với Sông Hậu Chiêm Lưu HuyBài thơ Viên đá Thời gian Chuyện đời Phan Chí Thắng. Tôi cặm cụi viết tiếp Pho tượng Ngọc Quan Âm thích hợp với điều kiện khả thi và hoàn cảnh cụ thể của chính mình hôm nay.

Hoàng Thành Trúc Lâm sáng
Thanh nhàn cùng tháng năm
Dựng nghiệp bền tâm đức
Yêu thương vững muôn năm
An lành phước lộc tho
Biết đủ duyên trời ban

Bài viết mới liên quan

CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

THAO THỨC NHỊP THỜI GIAN
Hoàng Kim

Sắn Việt Nam là câu chuyện thành công. Sự đồng hành với sắn Thái Lan là kinh nghiệm quý và bài học lớn..Hình ảnh và bài viết này tôn vinh tình bạn, lưu lại những kỷ niệm quý. Bạn tốt khó tìm, khó bỏ lại, và không thể quên lãng (Good friends are hard to find, harder to leave, and impossible to forget).Hoàng Kim gửi lời chào từ Việt Nam tới các bạn Chareinsak Rojanaridpiched and Suchada Rojanaridpiched; Watana Wattananon and Wipawan Suwanyotin; Peaingpen Sarawat; Piya Kittipadakul Boonmee Wattanaruangrong; Casava Kasetnakkak, Danai Suparhan; Klanarong Sriroth; Vich Vich; … Kazuo Kawano, Reinhardt Howeler, Jonathan Newby, Hernán Ceballos Lascano, Clair Hershey, Sheela Mn,… Tôi đã có trên mười lần qua Thái Lan. Đất nước con người Thái Lan thật thú vị nhưng sự lưu lại ấn tượng sâu sắc nhất trong tôi là:1) Bangkok Phanom Rung con đường di sản 2) Sắn Thái và Sắn Việt, và 3) Thái Lan nhiều bạn quý..Dưới đây là bài thơ “Sắn Việt và Sắn Thái ” viết ngày 12 5 1995 và viết tiếp 12. 5. 2021.

Cassava and Vietnam: Now and Then (Sắn và Việt Nam: bây giờ và sau đó) của giáo sư tiến sĩ Kazuo Kawano, người Nhật, chuyên gia chọn giống sắn hàng đầu Thế giới, đã kể lại câu chuyện thành công sắn Việt Nam https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cassava-and-vietnam-now-and-then/. Cách mạng sắn Việt Nam https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cach-mang-san-viet-nam/ là chuyện nhiều năm còn kể. Giáo sư Kazuo Kawano và các thành viên Hãng phim NHK Nhật Bản đã ghi nhận hình ảnh đột phá “Cách mạng sắn ở Việt Nam”: Hai giống sắn chủ lực KM419 và KM94 tại hai tỉnh Đồng Nai và Tây Ninh năm 2009 đã đạt năng suất bình quân toàn tỉnh 27-30 tấn/ ha, gấp ba lần năng suất sắn trước năm 2000. Hai giống sắn chủ lưc KM419 và KM94 chiếm lần lượt 38% và 31,7% tổng diện tích sắn Việt Nam (RTB Newsletter 2016. Assessment reveals that most cassava grown in Vietnam has a CIAT pedigree)

Sắn Việt Nam bảo tồn và phát triển bền vững (Cassava Conservation and Sustainable Development in Viet Nam) đã đạt những kết quả ngoạn mục trong các thử nghiệm được tổ chức tại Tây Ninh, Phú Yên, Đắk Lắk, Đồng Nai, nơi mà nông dân sử dụng các công nghệ và phương pháp cải tiến tăng năng suất sắn từ 8,5 tấn / ha (năm 2000) lên 36 tấn / ha (năm 2015) , một sự gia tăng năng suất hơn 400 phần trăm (Hoàng Kim, Reinhardt Howeler, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Bạch Mai 2015); .Thông tin và hình ảnh tại đây

Sách vàng nghề sắn: Sản xuất sắn bền vững ở châu Á đối với nhiều mục đích sử dụng và cho nhiều thị trường Reihardt Howeler (biên tập) và nhiều tác giả. CIAT 2015. (tại đây)

THAO THỨC NHỊP THỜI GIAN
Hoàng Kim

I
Chuyện giống sắn năm 1995 (*)

Thao thức
Đêm nay đêm 12
Khoảnh khắc thời gian trầm lắng
Chút nữa là 13
Phút chuyển mình rất chậm.


Mọi người giờ này chắc đã ngủ say
Có ai đó còn thao thức?
Bản tin tiếng Anh cuối ngày
Điệu múa lân bang dìu dặt…

Ngày mai trở về Tổ Quốc
Đêm nay là đêm cuối cùng
Đi một ngày đàng học một sàng khôn
Buổi tối đi xa, ai nỡ ngủ.


Nghe thêm một bản tin thời sự
Lắng đọng thêm bài học nước ngoài
Tách trà đậm và say
Đêm nay khó ngủ.

Lặng nhìn qua của sổ
Ánh điện và ánh sao trời sáng lung linh
Đêm Thái Lan xáo động xô bồ và bình yên
Tội lỗi và thánh thiện.

Vẩn vơ nghĩ về số đếm
Mỉm cười con số 13
Là rủi , là may, là đến, hay đi
Thời gian không trở lại

Ai ơi đừng quên
Thời gian không trở lại.


Thời gian không trở lại bao giờ !
Phải sống hết lòng
và biết ước mơ
Cuộc sống là mỗi ngày cộng lại.

Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là cassavaviet-friends-and-me.jpg
Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là thai-lan-nhieu-ban-quy-10.jpg
Sakol Chaisri 30 6 2020

II
Chuyện giống sắn năm 2000 (**)
Hoàng Kim với Casava Kasetnakkak

Tôi muốn liên hệ để mua giống
Từ Thầy Hoàng Kim
Để phát triển loài
Mỗi mẫu giống là một loài như sau.
KM419
KM101
HLS10
HLS11
Sa21-12
Sa60
Hoặc có thể trao đổi với loài của tôi Làm ơn
Tôi chỉ là một nông dân bình thường, không biết mua ở đâu?.

Tháng hai
Tháng mơ mộng !
Một cái khác cũng ấm áp như vậy,
càng gần tới đích, càng nhiều mồ hôi và tiếng thở dốc
với sự khôn ngoan trước đám cháy.
Bạn đã đọc Tháng 2 của Jill Osier rồi chứ?

Tôi không hiểu.
Đây là hình ảnh các loái của Tiến sĩ Piya
mà tôi đã thực hiện sự thử nghiệm


Tôi biết bạn là ai
Tôi dám hỏi loài của bạn.
Tôi đã không học
Nhưng tôi có ý định tạo ra một loài
Tôi lớn lên với sắn.
Tôi muốn tự hỏi mình là một học sinh.
Achan Sean đã nói về bạn nhiều lần.
Anh ấy nói

Bạn là người chọn giống sắn thạo nhất Việt Nam.
Tôi có một chút hiểu biết. Xin hãy dạy tôi.
Tôi không phải là thương gia Y
Bất cứ khi nào tôi nhận được số phù hợp với đất của tôi,

tôi sẽ ngừng làm điều đó.
Tôi dựa vào các ô để thử nghiệm các loài cho nhiều trạm nghiên cứu.
Nếu muốn biết rõ về tôi, hãy hỏi Ajarn Sakol Chaisi.
Thầy ấy đã dạy tôi


*

Bạn đã biết rõ tôi là ai
Tôi là Kim
Kim là KM, chữ KIM không có chữ I (không có chữ Tôi)
là nhóm ‘chọn giống sắn Việt Nam’
Chúng tôi đã chuyển đổi KU50 thành KM94,
đã lai tạo và phát triển KM98-1 có cùng chung
nguồn gốc cha mẹ với giống sắn Rayong 72
Chúng tôi đã bảo tồn và phát triển KM419, KM440
để trở thành những giống sắn phổ biến Việt Nam
Khi ấy nhóm ‘chọn giống sắn’ CIAT Thái Lan
và nhóm ‘chọn giống sắn Việt Nam’
cùng làm việc chung với nhau.

Ngày nay, giống sắn của bạn khác giống sắn của tôi
Chúng tôi cũng có ý định tạo ra một giống sắn mới
Chúng tôi cũng lớn lên với sắn
Chúng ta đã không cùng học

*
Nhưng bây giờ bạn bị ốm.
Tiếp theo là nhiệm vụ của tôi nhưng đến muộn.
Mặc dù chúng ta không học cùng nhau,
tôi sẽ kết hợp chúng bằng tay của mình.
Từ bàn tay của người dân làng này, tôi sẽ chỉ cho bạn
Không thành công, tôi không từ bỏ

*
Sắn Việt Nam thao thức
Cách mạng sắn Việt Nam
CassavaViet ACIAR CIAT và bản sắc
KM94 KM419 KM440 KM539 KM537 KM568 KM569
Việt Nam con đường xanh
Bảo tồn và phát triển

Casava Kasetnakkak , Danai Suparhan những bạn người Thái hãy giúp chuyển thể bài thơ “Sắn Việt Nam thao thức” thành tiếng Thái nhé:

คุณรู้แล้วว่าฉันเป็นใคร
ฉันคือคิม
คิมคือ KM, คิมคือ “ไม่” ฉัน
คือ ‘กลุ่มการเพาะพันธุ์มันสำปะหลัง’
ย้าย KU50 เป็น KM94
อนุรักษ์และพัฒนา KM419, KM440
เข้าถึงมันสำปะหลังมากกว่า 75% ของพื้นที่มันสำปะหลังของเวียดนาม
ในเวลานั้น CIAT ประเทศไทยและเวียดนาม ‘กลุ่มคัดเลือกมันสำปะหลัง’
ทำงานร่วมกัน


วันนี้สายพันธุ์ของคุณแตกต่างจากของฉัน
เราไม่ได้เรียนรู้ด้วยกัน
เราตั้งใจที่จะสร้างสายพันธุ์
เราเติบโตขึ้นมาพร้อมกับมันสำปะหลัง

*
แต่ตอนนี้ท่านไม่สบายต่อไปคือหน้าที่ผมจะต้องสายต่อ
ถึงเราจะไม่ได้เรียนรู้ด้วยกันแต่ผมจะผสานมันให้เข้ากันด้วยมือผม
จากมือชาวบ้านคนนี้ผมจะทำให้คุณดู
ไม่สำเร็จผมไม่เลิกลา

มันสำปะหลังเวียดนามตื่นตัว
การปฏิวัติมันสำปะหลังของเวียดนาม
CassavaViet ACIAR CIAT และตัวตน
KM94 KM419 KM440 KM539 KM537 KM568 KM569
เวียดนามเป็นสีเขียว
การอนุรักษ์และการพัฒนา

xem thêm https://www.facebook.com/messages/t/casava.kasetnakkak

CÁCH MẠNG SẮN VIỆT NAM
Hoàng Kim

Cách mạng sắn Việt Nam là thành tựu và bài học kinh nghiệm quý giá. Ở Việt Nam, sắn là cây lương thực quan trọng thứ ba sau lúa và ngô. Sắn Việt Nam ngày nay là một ngành xuất khẩu đầy triển vọng với diện tích hơn nửa triệu ha và giá trị xuất khẩu hơn một tỷ đô la Mỹ mỗi năm. Cách mạng sắn Việt Nam (Cassava revolution in Vietnam), với sự tham gia của hàng triệu nông dân trồng sắn Việt Nam, đã thực sự đạt được sự chuyển đổi to lớn cây sắn và ngành sắn về năng suất, sản lượng, giá trị sử dụng, hiệu quả kinh tế, thu nhập thực tế, sinh kế, việc làm và bội thu giá trị lao động sống ngành sắn cho hàng triệu người dân trên toàn quốc.Sắn Việt Nam hôm qua và ngày nay đã và đang tiếp tục làm cuộc cách mạng xanh mới. Cuộc chiến hôm nay là bảo tồn và phát triển sắn bền vững hợp tác Việt Nam ACIAR CIAT “Thiết lập các giải pháp bền vững cho cây sắn ở Đông Nam Á”.

Chương trình Sắn Việt Nam (Viet Nam Cassava Program VNCP) là một địa chỉ xanh của gia đình sắn. Gia đình sắn Việt Nam là một kinh nghiệm quý về sự liên kết chặt chẽ giữa các ‘bạn nhà nông’ chuyên gia nông học, thầy giáo cán bộ nghiên cứu sinh viên, các chuyên gia quốc tế cùng làm việc chặt chẽ với nông dân xây dựng mô hình điểm trình diễn, đó là chìa khóa cho sự bảo tồn và phát triển sắn bền vững. Chúng tôi đã cùng nhau đánh giá giống sắn mới và kỹ thuật thâm canh sắn thích hợp trên ruộng nông dân. Sự hợp tác chặt chẽ đã xâu chuỗi sự thành công bền vững.

Bạn tốt khó tìm, khó bỏ lại, và không thể quên lãng (Good friends are hard to find, harder to leave, and impossible to forget). Sắn Việt Nam là câu chuyện nhiều năm còn kể.
Cách mạng sắn Việt Nam. https://youtu.be/81aJ5-cGp28

ĐÂY CON SÔNG HẬU
(Ảnh internet, bài Chiêm Lưu Huy)
12 tháng 5, 2016 *

1 – Tôi sẽ không kể về những nỗi buồn của người Sông Hậu thời bao cấp! Cái thời mà tôi biết, nằm trên vựa lúa mà công chức phải ăn hạt bo bo nhập từ Liên xô cũ! Giữa cái rốn đụng tay xuống nước là gặp cá, tôm, cua… mà dân chúng suy dinh dưỡng mấy độ! Cái thời một nữ Giám đốc nông trường nổi tiếng mang tên Sông Hậu, hai lần được phong anh hùng lao động mà đến khi thất thế đã phải hầu tòa và chịu hình phạt! Cái thời mà như tôi biết, một tỉnh miền tây nam bộ có 12 nông trường thì 11 cái phá sản chỉ còn 1 tồn tại thực nhờ giao khoán mặt đất, mặt nước tới thẳng tay người nông dân (còn gọi là nông trường viên)!

2 – Thoắt cái đã 30 năm đổi mới mọi thứ mà khởi đầu là chính sách khoán sản đến người lao động trong nông nghiệp! Người Sông Hậu góp rất nhiều của cải vật chất và tinh thần cho cả nước! Con tôm, con cá, nhất là con cá da trơn đã xuất dương sang được thị trường khó tính nhất – Âu, Mỹ. Chính nó chiếm giữ được thị phần và mang USD về Việt nam!

3 – Câu chuyện tôi muốn kể ở đây là sau hơn 30 năm đổi mới ấy người dân đã ăn ở với nhau thế nào?

Không có con gì mang ra chợ bán mà không nuôi! Nhân tạo cho nhau ăn thực phẩm không sạch. Rau hai luống. Cá hai hầm (ao, hồ, lồng…)! Heo, gà, vịt,… còn bơm nước, tẩm hóa chất cấm, chưa kể nuôi bằng chất tăng trọng. Hoa trái cùng chung số phận!? Có thể nói dư lượng độc hại trong mân cơm, tô phở, miếng bánh và ly nước mía… đều ở mức báo động đỏ?!

4 – Bệnh viện quá tải. Chi phí cho khám và điều trị tăng cao.Thời gian nằm viện hoặc buộc phải nghỉ dưỡng kéo dài. Nan y! Ung thư, vỡ động mạch vành, động mạch chủ, tuần hoàn não. Viêm phổi cấp, sỏi mật. Gan, thận, hệ thần kinh, hệ vận động,… đều tổn thương?! Tất cả mọi người đều biết câu chuyện này!? Chẳng lẽ mỗi người và, tất cả chúng ta chịu khoanh tay chờ chết từ từ hoặc chứng kiến cái chết bất đắc kỳ tử !?

Tôi nghĩ, hãy bắt đầu hành động từ thực phẩm! Từ chính người nông dân Việt và các doanh nhân đứng mũi chịu sào nền nông nghiệp Việt.

5 – ĐÂY CON SÔNG HẬU bao đời! Nhìn ngắm những bức ảnh này giúp ta suy nghĩ về sự giàu có của đất nước, quê hương, xứ sở mình! Tại sao chính mình lại tự lấy đá ghè chân mình!? Không có ai hại ta bằng ta – Chưa hết lần này lại đến lần khác !?

Chỉ vì không ăn uống thì chết đói, chết khát mà phải đi chợ đó thôi! Thưa các bác, các cô, các chú, các ông, các bà,…! Kính thưa quí vị!

BÀI THƠ VIÊN ĐÁ THỜI GIAN
Hoàng Kim

Một số bài viết của anh Phan Chí Thắng là ký ức tháng năm mà tôi yêu thích nên lưu lại để nhớ, có kèm thêm một ít lời bình.

Anh Phan Chí Thắng đã từ Hà Nội đến thăm chúng tôi tại Trảng Bom Đồng Nai, sau đó hai anh em đi xe đò tìm về thăm những người bạn ở góc khuất Đức Linh. Hoàng Kim đã nối vần thơ anh Phan Chí Thắng chép lại “Bài thơ viên đá thời gian”:: Hình như gặp lại mới hương / Ngựa già máng cỏ nhớ đường cỏ hoa / Ta tìm gặp bạn đường xa/ Tưởng là thăm bạn hoá ra thăm mình/ Đêm dài xoè một bình minh / Hoa Người Hoa Đất Ân tình Sớm Xuân.; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bai-tho-vien-da-thoi-gian/

CHUYỆN VỀ TRANH
Phan Chí Thắng

Năm 1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp với tư cách khách mời của CP Pháp để trực tiếp chỉ đạo đoàn CP VNDCCH do ông Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn tham dự Hội nghị Fontainebleau.

Danh hoạ Picasso từ Tây Ban Nha sang chơi thăm Cụ Hồ – người bạn thân của mình. Cụ Picasso vẽ tặng Cụ Hồ bức ký hoạ. Cụ Hồ giao cho cụ Vũ Đình Huỳnh khi đó là đại tá bí thư chủ tịch nước giữ. Hồi đó hay dùng từ bí thư (secretary) sau này mới dùng từ thư ký.

Khi bị liên quan đến vụ án xét lại, cụ Vũ Đình Huỳnh bị bắt, bị khám xét và tịch thu tài liệu, trong đó có bức ký hoạ chân dung Chủ tịch HCM nói trên.

Một lãnh đạo rất cao của Việt Nam thời điềm đó nhận xét ai vẽ Bác Hồ mà bôi bác thế. Mặt thì gầy gò dài ngoẵng, thay vào chỗ hai đôi mắt lại là hai ngôi sao!

Từ đó không rõ số phận bức ký hoạ đó nữa.

(Viết theo lời kể của VCD con trai cụ Vũ Đình Huỳnh)

BÀI ĐỒNG DAO HUYỀN THOẠI
Hoàng Kim

6

1) #Thungdung vườn rộng nhà to
Tích thiện ít lộc biết lo láng giềng
2) Sắc không với việc quà, tiền
Chẳng ham danh lợi, không phiền lụy thân
3) Sắc không bảo mẫu toàn phần
Cháu Con tự lập ân cần Ông Cha

*

4) Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ Cha kính Mẹ ấy là chân tu
5) Người trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây đức để đời mai sau
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bai-dong-dao-huyen-thoai/

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là thai-lan-nhieu-ban-quy.jpg

THÁI LAN NHIỀU BẠN QUÝ
Hoàng Kim

Tôi đã có trên mười lần qua Thái Lan. Đất nước con người Thái Lan thật thú vị nhưng tôi ấn tượng nhất là: 1) Bangkok Phanom Rung con đường di sản. 2) Sắn Việt và Sắn Thái, và 3) Thái Lan nhiều bạn quý. Bài viết này tôn vinh tình bạn cao quý. Năm tháng đi qua chỉ tình yêu ở lại. Lời chào từ Hoàng Kim Việt Nam gửi tới các bạn Chareinsak Rojanaridpiched and Suchada Rojanaridpiched; Watana Wattananon and Wipawan Suwanyotin; Peaingpen Sarawat; Piya Kittipadakul Boonmee Wattanaruangrong; Casava Kasetnakkak, Danai Suparhan; Klanarong Sriroth; Vich Vich; … Kazuo Kawano, Reinhardt Howeler, Jonathan Newby, Hernán Ceballos Lascano, Clair Hershey, Sheela Mn; Martin Fregene… Bài thơ “Sắn Việt và sắn Thái ” tôi viết ngày 12 5 1995 và viết tiếp năm 2020. Đó là sự trao đổi của Hoàng Kim với Casava Kasetnakkak https://hoangkimlong.wordpress.com/category/san-viet-va-san-thai/

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là thailantoiconhieubanoday2.jpg

(*) Kim Notes lắng ghi chú Nhìn chặng đường 45 năm của hai Cu, ngẫm con đường đã qua, tự dưng thấm thía chuyện PHO TƯỢNG NGỌC QUAN ÂM với lời thơ lắng đọng:

ĐƯỜNG XUÂN ĐỜI QUÊN TUỔI
Hoàng Kim vui đề ảnh hai cụ Bình Khơi

Hoàng Thành Trúc Lâm sáng
Thanh nhàn cùng tháng năm
Dựng nghiệp bền tâm đức
Yêu thương vững muôn năm
An lành phước lộc tho
Biết đủ duyên trời ban

4

CHUYỆN NGẬM NGÃI TÌM TRẦM

Thương nhớ Bác Nakamura Nobuco, Phu nhân cố GS. Bác sĩ nông học Lương Định Của

Sóc Trăng Lương Định Của
Lão sư Nakamura Nobuco
Con đường lúa gạo Việt
Hoa Đất thương lời hiền

Ngày 13 tháng 5 năm 1968, Khai mạc phiên họp đầu tiên của cuộc hội đàm giữa đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ tại Paris (nhớ lại và suy ngẫm về Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng tại Paris, 1946, ảnh The New York Times; hình) https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-13-thang-5/

SÓC TRĂNG LƯƠNG ĐỊNH CỦA

Mai Hạc vầng trăng soi
Sóc Trăng Lương Định Của
Chuyện thầy Tôn Thất Trình
Thầy Quyền thâm canh lúa

Thầy lúa Bùi Bá Bổng
Lúa siêu xanh Hòa Bình
Lúa siêu xanh Việt Nam
Đêm Yên Tử Hoàng Kim.

Cánh cò bay trong mơ
Con đường lúa gạo Việt
Thầy nghề nông chiến sĩ
Hoa Đất thương lời hiền

Việt Nam con đường xanh
Gạo Việt và thương hiệu
Hồ Quang Cua gạo ST
Đáy đại dương là ngọc

Đêm lạnh nhớ Đào Công.
Thiền Sư Lão Nông Tăng
Ngày xuân đọc Trạng Trình
#Thungdung #vietnamhoc

Kim Notes lắng ghi chú, mỗi câu một đường dẫn, là ẩn ngữ thông tin; xem tiếp
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/soc-trang-luong-dinh-cua-2/

LƯƠNG ĐỊNH CỦA CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP

Giáo sư Lương Định Của (Quốc – 梁定国) sinh ngày 16 tháng 8 năm 1920 tại xã Đại Ngãi, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng, Theo văn bia gia đình thì ông nội của giáo sư là Lương Đức Ngãi, bà nội là Trịnh Thị Xuân, cha là Lương An Hùng và mẹ là Huỳnh Thị Có. Ông Lương Định Của lên Sài Gòn học xong tú tài và đã du học ở Hương Cảng (y học) rồi Thượng Hải (kinh tế) trước khi được học bổng của chính phủ Nhật Bản, sang Nhật năm 1942, được nhập ngang vào học năm thứ ba tại Trung tâm Nghiên cứu Nông học Nhiệt đới thuộc Trường Đại học Quốc gia Kyushu. Năm 1945 ông cưới vợ là bà Nobuko Nakamura (中村信子) người Nhật. Năm 1946, ông chuyển sang Trường Đại học Quốc gia Kyoto và được cấp bằng tiến sỹ nông học ở Nhật Bản. Năm 1952, ông cùng gia đình về Sài Gòn. Sau đó năm 1954 tập kết ra Bắc, làm Phó Giám Đốc Học Viện Nông Lâm Hà Nội, giảng dạy di truyền giống ở Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội (nay là Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam) và làm Viện trưởng Viện Cây Lương thực và Cây thực phẩm.

Giáo sư Lương Định Của là người có công lớn trong giáo dục đào tạo, Thầy đã huấn luyện được nhiều thế hệ học trò trở thành cán bộ đầu đàn trong các lĩnh vực khoa học nông nghiệp với nhiều người xuất sắc. Giáo sư Lương Định Của đã chọn tạo được nhiều giống cây trồng nông nghiệp nổi tiếng một thời như Giống lúa Nông nghiệp I lai tạo từ giống Ba thắc (Sóc Trăng – Nam Bộ) với Kun Ko (Nhật Bản) là giống lúa sớm đi vào sản xuất trên đồng ruộng Việt Nam từ những năm 60 của thế kỷ trước. Sau đó là nhiều giống mới mang tên “giống bác sĩ Của” như lúa chiêm 314 (lai giữa dòng Đoàn Kết và Thắng Lợi), NN75-1 (lai giữa giống 813 với NN1), NN8-388 (chọn giống từ IR8), lúa mùa Saisubao, lúa xuân sớm NN75-5, giống dưa lê, cà chua, khoai lang, dưa hấu không hạt, chuối, rau, táo… cùng với những ứng dụng tiến bộ kĩ thuật tam bội thể, tứ bội thể, chất kích thích sinh trưởng. Giáo sư đề xướng mô hình canh tác “bờ vùng, bờ thửa” “cấy nông tay thẳng hàng” “đảm bảo mật độ” được hàng chục triệu nông dân áp dụng trên diện rộng, tạo ra cuộc cách mạng trong nông nghiệp.

Cuộc đời của giáo sư là tấm gương sáng của một trí thức lớn dấn thân vì đại nghĩa, sống thanh đạm, giản dị, say mê, tận tuỵ với sự nghiệp trồng người và nghiên cứu khoa học tạo giống cây trồng, cải tiến kỹ thuật canh tác để mang lại đời sống tốt hơn cho người dân.

Giáo sư Lương Định Của được bầu là đại biểu Quốc hội các khoá 2, 3, 4, 5, được phong danh hiệu Anh hùng Lao động và Huân chương Lao động Hạng Nhất năm 1967 và được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học công nghệ đợt 1 năm 1996.

Nhiều con đường, mái trường Việt Nam mang tên Thầy. Năm 2006, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã lập Giải thưởng Lương Định Của để hằng năm trao tặng cho những thanh niên có thành tích đặc biệt xuất sắc trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, công nghệ nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.

GS Lương Định Của mất ngày 28 tháng 12 năm 1975, mai táng tại Nghĩa Trang Thành phố Hồ Chí Minh. Vợ của giáo sư, bà Nobuko Nakamura, sống cùng gia đình con trai cả Lương Hồng Việt ở thành phố Hồ Chí Minh.

Cuộc đời và sự nghiệp của nhà bác học nông dân Lương Định Của còn mãi với thời gian, với con đường lúa gạo Việt Nam đang tỏa rộng nhiều vùng đất nước kết nối lớp lớp những dâng hiến lặng lẽ tôn vinh hạt ngọc Việt. Cây lúa Việt Nam nửa thế kỷ nhìn lại (1975-2014) tốc độ tăng năng suất vượt 1,73 lần so với thế giới (Năm 2013 năng suất lúa gạo Việt Nam đạt 5,57 tấn/ ha so với năm 1975 là 2,11 tấn/ ha, gia tăng 3,46 tấn/ ha. Năm 2013 năng suất lúa gạo thế giới đạt 4,48 tấn/ ha so năm 1975 là 2,49 tấn/ ha gia tăng 1,99 tấn/ ha). Thành tựu này có cống hiến hiệu quả của nhà bác học nông dân Lương Định Của ở chặng đường đầu của nước Việt Nam mới.

LƯƠNG ĐỊNH CỦA QUÊ HƯƠNG VÀ DÒNG HỌ

Chuẩn bị xong những việc sau cùng để ngày mai cấy các bộ giống lúa mới, chúng tôi lên đường về thăm quê hương thầy Lương Định Của khi trời đã xế chiều. Chúng tôi đến thăm cụ Sáu, em gái Thầy Lương Định Của và thắp hương tại khu mộ gia đình Thầy khi trăng rằm tháng giêng lồng lộng đang lên. Ruộng lúa Đại Ngãi, Trường Khánh xanh ngát dưới ánh trăng.

Ngôi nhà niên thiếu và phần mộ tổ tiên, cha mẹ song thân của giáo sư Lương Định Của tại ấp Ngãi Hoà, cách trụ sở Uỷ ban Nhân dân xã Đại Ngãi khoảng 3 km, và phải đi bằng xe ôm vì lối đi nhỏ bé, thuần phác, khiêm nhường giữa vùng quê Nam Bộ. Xe ôm chạy hun hút dưới vòm dừa nước y như trong vườn thiêng cổ tích. Cha và mẹ của thầy Lương Định Của là Lương An Hùng và Huỳnh Thị Có cùng ông bà nội là Lương Đức Ngãi và Trịnh Thị Xuân đều an táng tại làng quê Đại Ngãi. Chúng tôi bâng khuâng trước phần mộ tổ tiên, cha mẹ song thân của bậc anh hùng. Nơi đây mấy trăm năm trước hẳn rất hoang vu, bởi lẽ mãi cho đến tận nay, vẫn vùng quê hẻo lánh đến vậy. Tôi chợt thấm thía câu thơ Sơn Nam:”Trong khói sóng mênh mông/ Có bóng người vô danh/Từ bên này sông Tiền/ Qua bên kia sông Hậu/ Tay ôm đàn độc huyền/ Điệu thơ Lục Vân Tiên/ Với câu chữ/ Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả/ Từ Cà Mau Rạch Giá/ Dựng chòi đốt lửa giữa rừng thiêng/ Muỗi vắt nhiều hơn cỏ/ Chướng khí mờ như sương/Thân chưa là lính thú/Sao không về cố hương?”

Anh Lương Hồng Việt nói với tôi tổ tiên họ Lương của anh có nguồn gốc Phúc Kiến lánh nạn Mãn Thanh sang cư trú ở Đàng Trong hồi thế kỷ XVII. Nam Bộ là nôi nuôi dưỡng của đại gia đình các dân tộc người Việt, người Hoa, người Khơ Me. Nhiều người Hoa trong số họ đã chung sức cùng người Việt, người Khơ Me khẩn hoang, giữ gìn và sinh sống nhiều đời tại quê hương.

Từ Đại Ngãi, Sóc Trăng về Hà Tiên không xa. Đó là nơi khởi nghiệp của Mạc Cửu công thần đất Hà Tiên ”phên dậu Đại Việt đất phương Nam” và vùng danh thắng Hà Tiên thập vịnh Mạc Thiên Tích. Mạc Cửu là Tổng trấn Hà Tiên, thành hoàng lập trấn địa đầu của đất cực Nam Tổ quốc. Mạc Thiên Tích con của Mạc Cữu làm Tổng binh Đại đô đốc thời chúa Nguyễn Phúc Trú. Hai cha con Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích và dòng họ Mạc là những người có công lớn đối với non sông Việt trong sự khai khẩn và trấn giữ miền Tây Nam Bộ. “Chẳng đội trời Thanh Mãn/ Lần qua đất Việt bang/ Triều đình riêng một góc/ Trung hiếu vẹn đôi đường/ Trúc thành xây vũ lược/ Anh Các cao văn chương” (thơ Đông Hồ). Nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt đã nhận xét chí lý: “Nhờ có Mạc Cửu, người Việt mới bước qua bờ nam sông Tiền”.

Từ Đại Ngãi, Sóc Trăng đi lênSài Gòn – Gia Định – Đồng Nai – Biên Hòa là vùng đất khởi nghiệp lừng lẫy của Trịnh Hoài Đức công thần nhà Nguyễn, quan Thượng thư, hiệp Tổng trấn, Điền toán (chuyên coi về sự cày cấy khai khẩn đất đai Nam Bộ), nhà thơ, nhà văn, sử gia nổi tiếng với tác phẩm Gia Định thành thông chí một công trình được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao. Đó cũng là nơi có bậc danh nho Võ Trường Toản cùng với các học trò của ông cũng là những công thần lỗi lạc của nhà Nguyễn như Ngô Tùng Châu, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tĩnh, Phạm Ngọc Uẩn, Lê Bá Phẩm, những người Việt gốc Hoa noi theo gương thầy Chu Văn An đời Trần, thực lòng yêu thương cộng đồng đại dân tộc Việt Nam, cùng chung lưng đấu cật, góp xương máu, công sức xây đắp nên cơ nghiệp muôn đời. Và nay có người phụ nữ Nhật Nakamura Nobuko thuận theo giáo sư Lương Định Của “thuyền theo lái, gái theo chồng” tạo dựng nên công đức cùng chồng là vậy.

LƯƠNG ĐỊNH CỦA NHỮNG NĂM THÁNG TUỔI TRẺ

Ruộng lúa Trường Khánh Đại Ngãi Long Phú Sóc Trăng dưới ánh trăng rằm tháng Giêng chụp lúc 19g30 mà vẫn lồng lộng xanh mướt lạ thường. Tuổi xuân của Lương Định Của khởi đầu ở vùng quê Đại Ngãi, Long Phú, Sóc Trăng, nơi vùng lúa Trường Khánh. Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời bắt đầu bằng tuổi trẻ. Ông là con trưởng trong một gia đình cha mẹ là điền chủ, mất sớm. Ông có hai em gái và một em trai. Ông theo học tiểu học ở Sóc Trăng, trung học ở Sài Gòn, học tiếng Anh ở Hồng Công và Thượng Hải, sống nhờ hoa lợi của số ruộng đất cha mẹ ông để lại. Sau đó ông xin được học bổng Nhật Bản theo học Khoa Nông học Trường Đại học Tổng hợp Kyushu. Kế đó, ông lấy vợ Nhật và theo học tiếp Tiến sĩ Nông học, rồi làm giảng sư Đại học Tổng hợp thành phố Kyoto. Con đường tuổi thơ Ngãi Hòa, Đại Ngãi, Trường Khánh quê hương Lương Định Của lung linh huyền thoại.

Tuổi xuân và những năm tháng đại học

Nhà báo Phan Quang kể về tuổi xuân và những năm tháng đại học của giáo sư Lương Định Của trong bài “Kỷ niệm đời thường về nhà khoa học Lương Định Của”:“ Lương Định Của sinh ngày 16-7-1919 tại làng Đại Ngãi, huyện Long Phú tỉnh Sóc Trăng trong một gia đình điền chủ theo đạo Thiên chúa. Cha mẹ mất sớm, lúc ông mới mười hai tuổi. Hồi nhỏ học Trường tiểu học Taberd ở thị xã Sóc Trăng, rồi chuyển lên Sài Gòn theo bậc trung học cũng tại Trường Taberd. Đến năm thứ tư, Lương Định Của xin sang Hồng Công học tiếp tại trường La Salle College với ý định trau dồi tiếng Anh thật giỏi để sau này đi vào ngành thương mại. Sau khi trúng tuyển kỳ thi tuyển sinh vào đại học (tiếng Anh gọi là University Matriculation), ông rời Hồng Công lên Thượng Hải học. Ở Hồng Công thời ấy chỉ có mỗi một trường đại học, học phí rất cao, trong khi tại Thượng Hải, sinh hoạt rẻ hơn. Tại đây, ông theo học Trường đại học Saint John’s. Đang học dở chừng thì chiến tranh thế giới lan rộng và ngày càng ác liệt. Cuộc sống của lưu học sinh tại Trung Quốc trở nên bấp bênh. Lương Định Của hiểu, cần phải tìm nguồn sinh hoạt ổn định ở ngay nước ngoài, vì rất khó trông chờ vào món tiền mà ông bác ruột trích từ hoa lợi số ruộng đất cha mẹ ông để lại ở Sóc Trăng vẫn tháng tháng gửi sang cho như những năm trước. Thấy một người bạn học gửi thư xin học phí du học tại Nhật Bản và được chấp thuận dễ dàng, ông cũng nộp đơn và được chấp nhận cho sang Nhật. Bước chân lên đất nước Phù Tang xưa kia không mấy khác nước mình, nay nhờ công cuộc duy tân đã trở thành một quốc gia hùng mạnh, chàng thanh niên Lương Định Của vẫn ôm ấp mộng làm giàu bằng con đường thương mại. Nhờ tiếp xúc với một số nhà yêu nước Việt Nam sống lưu vong, theo lời khuyên của họ, sau một năm học tiếng Nhật, ông bỏ ngành thương mại chuyển sang học ngành nông nghiệp với hoài bão rõ rệt mang vốn kiến thức về quê hương thiết thực phục vụ đất nước. Ông theo học Khoa Nông học Trường Đại học Tổng hợp Kyushu. Năm 1945, Nhật Bản thua trận. Nhân dân Nhật trải qua một thời kỳ cực kỳ khó khăn dưới sự chiếm đóng và cai quản trực tiếp của quân đội Mỹ. Miếng ăn hằng ngày còn chưa đủ, không ít người Nhật đói rét. Chính phủ Nhật Bản làm gì còn có học bổng ưu ái cho du học sinh nước ngoài. Để có thể tiếp tục theo học, cũng như mọi sinh viên khác, Lương Định Của làm đủ nghề: gia sư, biên dịch tài liệu, phiên dịch tiếng Anh… Cái vốn Anh ngữ lúc này thật sự có ích vì hồi ấy không có nhiều người Nhật sử dụng thành thạo ngoại ngữ. Sự giúp đỡ của Việt kiều ở Nhật là niềm khích lệ lớn đối với ông. Đặc biệt những người Việt Nam vì chống Pháp phải sống xa quê đã bồi dưỡng và khuyến khích lòng yêu nước vốn có trong chàng thanh niên Nam Bộ.”

Bác sĩ Nông học, Giảng sư Đại học

Nhà báo Phan Quang trong bài Kỷ niệm đời thường về nhà khoa học Lương Định Của phần 1 viết tiếp: “Lương Đình Của miệt mài học tập, nghiên cứu. Một nhà khoa học nổi tiếng khác, cũng là lưu học sinh cùng thời với Lương Định Của là bác sĩ Đặng Văn Ngữ, trước khi về nước phục vụ đã khuyên ông nên ráng ở lại học tập cho thành đạt rồi về sau cũng không muộn. Lương Định Của mãi biết ơn lời khuyên của bạn. Năm 1947, tốt nghiệp cử nhân Trường Đại học Tổng hợp Kyushu, ngành nông nghiệp. Phần lớn lưu học sinh nước ngoài ở Nhật Bản hồi ấy giật được mảnh bằng đều đi kiếm việc làm hoặc về nước để sớm chấm dứt cảnh thiếu thốn nơi đất khách quê người. Lương Định Của phân vân. Ông cảm thấy vốn kiến thức của mình còn mong manh quá. Nếu muốn thật sự phục vụ đất nước thì còn phải học tập thêm nhiều. Ông quyết định xin vào làm phụ việc ở Trường Đại học Tổng hợp thành phố Kyoto, cố đô nước Nhật và cũng là quê hương bà Của, tình nguyện làm việc không hưởng lương. Đổi lại, ông được phép đọc sách ở thư viện và dùng một số giờ nghiên cứu, thực nghiệm tại phòng thí nghiệm của nhà trường. Một lần nữa, cái vốn ngoại ngữ lại có ích cho ông. Ngoài công việc chuyên môn hằng ngày, còn nhận biên dịch ra tiếng Anh và đánh máy các công trình, luận văn cho một số giáo sư trong trường. Sức làm việc của chàng thanh niên Việt Nam cần cù, ít nói, gây ấn tượng và dần dần giành được lòng yêu mến của các thầy. Trường Đại học Kyoto chính thức cấp cho ông học bổng nghiên cứu sinh. Một thời gian sau, trường bổ nhiệm ông làm một chân tập sự trợ lý (sub-assistant), trong khi chờ đợi hội đủ điều kiện thi lấy bằng tiến sĩ. Một số tạp chí khoa học Nhật Bản và ở nước ngoài bắt đầu đăng tải các công trình nghiên cứu của nghiên cứu sinh Lương Định Của. Bài báo đầu tiên ông được công bố trên một tạp chí khoa học tên tuổi ở nước ngoài phản ánh phần nào sức đọc của ông.Đó là Thư mục về các công trình nghiên cứu di truyền học xuất bản ở Nhật Bản, thời gian 1941- 1948 (tạp chí Heredity, London, số 4 năm 1950, trang 121-133). Trong khoảng thời gian trên dưới hai năm (1950-1952), các tạp chí khoa học lớn công bố mười hai công trình của nhà nghiên cứu trẻ. Ông là một người rất thành thục công việc trong phòng thí nghiệm. Với thiết bị của Trường Đại học Kyoto, Lương Định Của đã chụp được ba vạn tấm ảnh nhiễm sắc thể cây trồng. Sau này có dịp sang thăm Viện Nghiên cứu Lúa gạo Hoa Nam, gặp nhà khoa học Trung Hoa chuyên gia nổi tiếng thế giới về cây lúa là Giáo sư Đình Dĩnh, bác sĩ nông học Lương Định Của được Giáo sư mời thao tác phương pháp chụp ảnh nhiễm sắc thể đã nhuộm mầu sau khi cắt tế bào tại phòng thí nghiệm cho các nhà khoa học của Viện tham khảo. Mùa hè năm 1951, Lương Định Của trình luận văn về công trình nghiên cứu nhiều năm của mình với chủ đề: “Cách xử lý đa bội thể di truyền nhằm tạo nên giống lúa mới”. Hội đồng khoa học Trường Đại học Tổng hợp Kyoto nhận xét, với kết quả nghiên cứu khoa học của mình, Lương Định Của đã có cống hiến lớn cho nền nông học trong việc cải thiện giống lúa, và bỏ phiếu nhất trí cấp học vị Bác sĩ Nông học cho ông. Cùng với học vị bác sĩ, Lương Định Của còn nhận được bằng khen và tiền thưởng của Viện Nghiên cứu Sinh học Kinhara về công trình “Sự sinh sản của giống lúa lai tạo từ hai giống lúa Japonica và Indica”.

Báo cáo khoa học của Viện khẳng định, với công trình này Lương Định Của đã giải quyết tốt một vấn đề từ năm 1930 đến lúc bấy giờ chưa có ai xử lý được. Một số kỹ thuật do Lương Định Của phát minh, trong đó có phương pháp xử lý rễ trước khi cố định trong việc nghiên cứu hình thái nhiễm sắc thể công bố lần đầu trên tạp chí Botanical Gazette (Mỹ) được ứng dụng rộng rãi tại Nhật Bản. Kỹ sư Hồ Đắc Song, phó vịên trưởng Viện Cây Lương thực, Cây Thực phẩm, một người cộng tác nhiều năm với bác sĩ Lương Định Của, có lần cho biết: Phát minh của Lương đã được ứng dụng ngay từ hồi ấy trong việc lai tạo giống lúa tại Hoa Kỳ, gọi là phương pháp Lương Định Của.Theo báo chí Nhật Bản, kể từ những năm đầu công cuộc duy tân đất nước thời Minh Trị thiên hoàng cho đến lúc bấy giờ (1888-1951), trong hơn sáu mươi năm, nước Nhật mới cấp học vị bác sĩ nông học cho hai trăm năm mươi người. Lương Định Của là nghiên cứu sinh trẻ tuổi nhất khi nhận học vị, và cũng là người ngoại quốc duy nhất được cấp bằng bác sĩ nông học tại Nhật bản cho đến lúc bấy giờ”.

Nhà báo Phan Quang có dịp được xem những bài báo viết về sự kiện ấy, những mẩu báo cắt chữ in vẫn còn rõ nét tuy giấy đã ố vàng và cứ chực mủn ra vì được xếp lẫn quần áo trong chiếc va ly tàng tàng bất ly thân của gia đình sau mấy chục năm cùng hai ông bà Lương Định Của bôn ba chuyển dịch nhiều nơi.

Báo Mainichi Shimbun số ra ngày 26 tháng Năm năm Chiêu Hòa thứ 26 đăng chân dung lớn của nhà khoa học trẻ với vầng trán cao, chiếc cằm nhọn, khuôn mặt gầy thanh nhã. Tin đăng kèm cho biết nhà khoa học ba mươi mốt tuổi Lương Định Của là người Việt Nam đầu tiên được cấp bằng bác sĩ nông học của Nhật bản. Báo đưa khá chi tiết lý lịch của ông, nói rõ Lương được sự hướng dẫn của Giáo sư nổi tiếng Kinhara, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Sinh học mang tên ông.

Cũng báo Mainichi, một số trước đó đăng ảnh Lương chăm chú trước kính hiển vi, bên cạnh là tấm ảnh khác chụp cận cảnh những hạt lúa do ông lai tạo nên, to gấp đôi những hạt lúa so sánh.

Báo Kyoto Shimbun cũng in ảnh những bông lúa mới được lai tạo nên. Bài báo cho biết thêm, kết quả này đã được thông báo cho Tổ chức Lương Nông Quốc tế (FAO) đóng tại Rome, đồng thời cũng thông báo đến Thủ tướng Ấn Độ J.Nerhu là người đang hết sức quan tâm giải quyết vững chắc vấn đề lương thực cho năm trăm triệu dân nước Ấn Độ mới giành lại được độc lập.

Mấy tháng sau khi nhận học vị bác sĩ nông học, tháng Mười năm 1951, Lương Định Của được Bộ Giáo dục Nhật Bản bổ nhiệm làm giảng sư Trường đại học Kyoto. Ông là người ngoại quốc duy nhất thời ấy được bổ nhiệm làm giảng sư chính thức ở một trường đại học quốc lập Nhật Bản. Theo những người am hiểu, chức vị giảng sư ở Nhật tương đương với phó giáo sư (tiếng Nhật gọi là phó giáo thụ) tuy chưa phải chính ngạch, bởi Nhà nước khống chế số lượng giáo sư và phó giáo sư ở các trường đại học trong một khung biên chế nhất dịnh, chỉ khi nào có ghế khuyết thì nhà trường mới được bổ nhiệm người khác thay vào, còn lại đều gọi là chung là giảng sư.

Khi bắt đầu nhận việc với chức trách giảng sư một Trường đại học quốc lập Nhật Bản, Lương Định Của đã kết hôn với một phụ nữ địa phương dòng dõi quý tộc và đã có hai con. Cuộc sống gia đình ổn định. Tương lai xán lạn mở ra trước mắt nhà khoa học trẻ.“

Sự mô tả khá chi tiết trên đây của nhà báo bậc thầy Phan Quang đã cung cấp cho chúng ta các thông tin chân thực từ năm 1919 đến năm 1951.

Theo Thông tin về một người đàn anh (Đặng Lương Mô) thì Giáo sư Ogata Kazuo (緒方一夫) thuộc Trung tâm Nghiên cứu Nông học Nhiệt đới(熱帯農学研究 センタ ー), Đại học Quốc gia Kyushu đã viết về hai người tiến sỹ nông học xuất thân Đại học Quốc Gia Kyushu này. Đó là Lương Định Của (Quốc) và Võ Tòng Xuân. Năm 1945, ông tốt nghiệp Đại học Đế quốc Kyushu, coi như là đợt cuối cùng của chế độ đại học cũ (旧制大学)của Nhật Bản. Cũng năm 1945, sau khi Chiến tranh Thế giới II kết thúc, ông lấy bà Nakamura Nobuko(中村信子). Rồi ông chuyển sang ĐHQG Kyoto, ở đó ông được cấp bằng Tiến sỹ Nông học (農学博士).

Điều chưa rõ là ngày sinh 16.8.1920 hay 16.7.1919 cần được xác minh thêm. Cách gọi học vị “Bác sĩ Nông học” thay vì “Tiến sỹ Nông học” cũng là một chủ đề thú vị.

Lương Định Của, luồng gió từ Hà Nội

Đạt được học vị cao, có công ăn việc làm, Lương Định Của vẫn nghĩ tới việc về nước phục vụ, kịp trước khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi hoàn toàn nhưng “Đường về Việt Bắc xa xôi lắm!”. Luồng gió từ Hà Nội đã thôi thúc ông hướng về Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đang tạo lập. Ông từ chối các cơ hội đi làm nghiên cứu sinh ở Mỹ, làm việc cho Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế (IRRI) để tìm cách về nước tham gia kháng chiến. Sau nhiều nỗ lực móc nối, chờ đợi, xoay đường này cách khác, năm 1952 ông đã đưa cả gia đình về Sài Gòn, làm việc một thời gian ngắn ở Viện Khảo cứu Nông nghiệp Sài Gòn, Bộ Canh Nông (nay là Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam), sau đó quá cảnh bưng biền và đầu năm 1954 cả nhà cùng lên một chuyến tàu tập kết ra Bắc (Tượng nhà nông học Lương Định Của ở Viện Cây Lương thực và Cây Thực phẩm, bài và ảnh HDO trong bài Nhà nông học Lương Định Của với Hải Dương).

Nhà báo Phan Quang kể tiếp Kỷ niệm đời thường về nhà khoa học Lương Định Của:

“Hồi còn là sinh viên, ông đã cùng nhiều lưu học sinh Nhật và nước ngoài trong đó có Đặng Văn Ngữ, tham gia các cuộc biểu tình tuần hành phản đối thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Theo như ông còn nhớ, ít nhất có bốn cuộc lớn, ba lần ở Tokyo, và một lần ở Kyoto. Hoạt động chống chiến tranh Việt Nam có thuận lợi là Đảng Cộng sản Nhật Bản hết lòng ủng hộ cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Nhiều Việt kiều ở Nhật nhờ thông qua Đảng Cộng sản Nhật Bản hoặc các tổ chức nhân dân do Đảng lãnh đạo mà giữ được mối liên hệ liên tục với phong trào kháng chiến trong nước.

Qua sự giới thiệu của một người bạn, một mặt Lương Định Của tiếp xúc với các nghị sĩ tiến bộ trong Quốc hội Nhật, nhờ giúp đỡ tạo điều kiện cho ông sớm được trở về vùng tự do nước Việt Nam. Thượng Nghị sĩ Kazami được các bạn Nhật cử đứng ra lo liệu việc này. Mặt khác, Lương viết thư gửi Đại sứ quán ta ở Bắc Kinh bày tỏ mong muốn của mình, và chẳng bao lâu sau nhận được thư Đại sứ trả lời đã chuyển nguyện vọng của ông về nhà. Theo sự hướng dẫn của ông Kazami, mùa hè 1952 Lương Định Của xin thôi việc ở Kyoto, lên thủ đô Tokyo chờ ngày về nước.

Ông xin việc làm ở Sở Nghiên cứu Khoa học Nông nghiệp Trung ương của Nhật Bản để có thể thu nhập trong thời gian chờ đợi. Đầu những năm 50, sau chiến thắng biên giới, tình hình nước ta rất sôi động. Đảng Lao động Việt Nam đảm nhiệm công khai sứ mệnh lịch sử lãnh đạo toàn dân kháng chiến. Mặt trận Liên Việt thành lập, giương cao ngọn cờ đại đoàn kết. Các vùng tự do được giữ vững. Chiến tranh nhân dân phát triển mạnh ở vùng sau lưng địch.

Thực dân Pháp ý thức rõ, tiến hành phá hoại kinh tế, gây nạn đói kém, cắt nguồn hậu cần của Quân đội Nhân dân Việt Nam là một mặt trận có ý nghĩa chiến lược đối với thành bại của chúng trong chiến tranh.Thông tri của tướng De Linarès, tư lệnh chiến trường Bắc Bộ gửi các cấp dưới đề ngày 14-3-1951 hướng dẫn cụ thể như sau:

“… Về phá hoại, có hai cách thực tế có thể áp dụng: a) làm ướt thóc hoặc bắt dân phải để thóc lúa ngoài trời trong mùa mưa ẩm. Tuy nhiên, để chắc chắn hạt gạo sẽ thối hẳn, phải dấp nước cho ướt thóc trong thời gian bốn mươi tám giờ. Ngoài ra, để cho sự phá hoại bảo đảm hiệu quả chắc chắn của nó, trong thời gian ấy, phải canh giữ không để cho dân chúng đến lọc lấy phần thóc còn tốt mang đi cất giấu; b) những kho thóc quan trọng nào phát hiện được, cho tưới xăng hoặc dầu nặng vào…” .

Tháng Chín năm 1952, ông Kazami báo cho Lương Định Của biết, có một tàu buôn Nhật Bản sắp sang Hồng Công rồi từ đó đến thành phố Thiên Tân của Trung Quốc. Ông đề nghị Lương đáp chuyến tàu ấy. Vào được Trung Quốc rồi thì rất dễ dàng về Việt Bắc vì biên giới Việt Trung đã thông, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã kiến lập quan hệ ngoại giao; giữa hai nước có tình hữu nghị sâu sắc. Ông nói đã nhờ Hội Hoa kiều tại Nhật Bản làm các thủ tục cần thiết cho gia đình Lương nhập cảnh Trung Quốc, ông cũng đã có liên hệ để thông báo với Chính phủ Việt Nam về chuyện này.

Lương Định Của vào Hồng Công, đến biên giới Cửu Long trình giấy giới thiệu của Hội Hoa kiều tại Nhật Bản. Biên phòng Trung Quốc cho biết chưa nhận được chỉ thị. Các bạn khuyên Lương nên trở lại Hồng Công lấy visa nhập cảnh. Hành lý có thể cho chuyển trước sang biên giới, đưa về thành phố Quảng Châu. Vài hôm nữa gia đình Lương đến thì có thể vào Trung Quốc, đến thẳng Quảng Châu luôn.

Trở lại khách sạn, Lương tìm cách liên hệ với Đại sứ quán ta ở Bắc Kinh, vừa gọi điện thoại vừa gửi thư song chờ mãi không thấy hồi âm. Tiền túi cạn dần: phòng trọ khách sạn rất đắt. Hàng ngày bà Của xuống phố mua bánh mì cho cả nhà ăn. Lúc này mới thấy hết bản lĩnh của người phụ nữ ấy. Ông lo cuống lên, bà chỉ cười: “Không sao, để tính xem”. Về đến Việt Nam ông thú thật với bạn bè, nếu không có bà thì với hai đứa con nhỏ, ông chẳng biết đường nào xoay xở trong những ngày quá cảnh Hồng Công. Thái độ bình tĩnh và đầy thông cảm của bà có tác dụng trấn an ông.

Sau một tuần chờ đợi trong lo âu, xuất hiện một người lạ mặt ăn mặc sang trọng. Ông nói: nếu Lương có giấy giới thiệu của Ngân hàng Trung Hoa thì ông có thể giúp cho qua biên giới. Lương Định Của chẳng có giấy tờ gì khác ngoài thư giới thiệu của Hội Hoa kiều tại Nhật Bản. Người lạ mặt khuyên, nếu vậy thì nên theo ông về Macao, ở nhờ nhà con trai ông một thời gian, chờ xin phép nhập cảnh.

Hồng Công là điểm quá cảnh, khách không được phép ở lại lâu. Lương Định Của hết sức phân vân. Người này ông chưa từng quen biết. Trong túi ông lại không có tiền, trừ gói hạt giống dưa. Đến áo quần thay hằng ngày cũng không có đủ vì các valy đã gửi hết vào Trung Quốc rồi.

Ông quyết định hẵng trở về Sài Gòn, rồi tìm cách ra vùng tự do sau. Ông đánh điện cho một người bạn ở Sài Gòn, báo tin mình đang trên đường về nước, đến Hồng Công thì mất hết đồ đạc, nhờ bạn đặt mua vé máy bay cho hai người lớn hai trẻ con, và cho vay tạm hai nghìn USD.

Ngay chiều hôm ấy, nhận được ngân khoản người bạn gửi đến thông qua một ngân hàng lớn. Có tiền, có vé trong tay, ông còn nấn ná lại thành phố này ba tuần nữa, hy vọng có tin tức Đại sứ quán ta tại Bắc Kinh. Cuối cùng hết hạn quá cảnh mới đáp máy bay về Sài Gòn.

Chính quyền Sài Gòn nồng nhiệt đón bác sĩ nông học Lương Định Của du học từ Nhật Bản về. Bộ trưởng Nông Lâm mời ông đến cơ quan, mở rượu whisky chúc mừng, và ngỏ ý mời ông làm thứ trưởng. Lương tìm cách thoái thác khéo. Ông khiêm tốn nói mình xa đất nước đã lâu, xin cho làm việc hợp đồng một thời gian để quen thêm thung thổ và bạn bè, rồi mới dám chính thức nhận nhiệm vụ.”

Theo lời kể của anh Lương Hồng Việt. Bác sĩ nông học Lương Định Của sau đó đã nhận làm việc ở Viện Khảo cứu Nông nghiệp Bộ Canh nông (nay là Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam) .

Theo hồi ức của thầy Phan Gia Tân, giảng viên Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, thì sau ngày Việt Nam thống nhất 30.4.1975, giáo sư Lương Định Của đã đi tìm Giáo sư Tôn Thất Trình ở Trường Đại học Nông nghiệp Sài Gòn (nay là Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh). Thầy Của tiếc không gặp được thầy Trình vì thầy đã ra đi trước đó. Tấm lòng tri ngô của họ mãi là dấu ấn của các trí thức lớn…

Giáo sư Tôn Thất Trình là người đã hai lần làm Bộ trưởng Bộ Canh nông chính quyền Sài Gòn và Hiệu trưởng Trường Đại học Nông nghiệp Sài Gòn. Thầy trực tiếp giảng dạy môn cây lương thực, nông học đại cương và một số môn học khác. Trong cơn lốc của các sự biến, thầy Trình đã sang làm việc ở FAO với cương vị Chánh Chuyên viên và Tổng Thư ký Chương trình Lúa Gạo Quốc tế, tiếp tục giúp Việt Nam sau hậu chiến.

Vị trí Tổng Thư ký Chương trình Lúa Gạo Quốc tế ở FAO, sau ngày GS. Tôn Thất Trình nghỉ hưu được tiếp nối bởi TS. Trần Văn Đạt, TS. Nguyễn Văn Ngưu, và nay là PGS.TS. Bùi Bá Bổng nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Đó là những người Việt lỗi lạc ở FAO.

Câu chuyện về thầy Trình, tôi đã có kể trong bài Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời. Cái bàn và nơi ngồi làm việc của thầy Trình, sau ngày Việt Nam thống nhất là chỗ ngồi và nơi làm việc của PGS. TS. Lê Minh Triết giảng viên cao cấp và tôi được may mắn được kế nhiệm tiếp nối việc giảng dạy và nghiên cứu cây lương thực (lúa, ngô, sắn, khoai lang).

Trở lại câu chuyện giáo sư Lương Định Của. Theo lời kể của nhà báo Phan Quang:

“Gia đình ông sống cùng gia đình người em trong ngôi nhà ở Đa Cao. Em gái ông có chồng đi kháng chiến, thỉnh thoảng lại kiếm cớ vắng nhà. Ông biết chị ra bưng thăm chồng.

Một hôm, vào ngày chủ nhật, ông đang ngồi chơi trước cửa thì thấy một người ăn vận có vẻ như vừa từ nông thôn ra, đi thẳng vào nhà sau nói chuyện với cô em gái. Khách về, Lương hỏi ai vậy, cô em trả lời: “Người ta muốn mời anh ra vùng kháng chiến đấy”. – Vậy em trả lời họ thế nào? Cô em cười: “Em nói, anh vợ con tùm lum thế kia thì làm sao đi kháng chiến được”. Lương Định Của lặng im, vì dự định từ Nhật Bản về thẳng miền Bắc không thành, ông không hề hé răng cho ai biết.

Hiệp định Genève về Đông Dương (1954) được ký kết. Trong giới trí thức Sài Gòn lại một lần nữa xôn xao – tuy thầm lặng – về việc ra đi hay ở lại. Nơi cơ quan Lương làm việc có một chị tên là B., em gái một bác sĩ nha khoa vốn là bạn của ông sau này cũng tập kết ra Bắc và cùng gặp lại nhau tại Hà Nội, có lần hỏi giọng nửa đùa nửa thật: “Nè, Chính phủ Việt Minh kêu gọi trí thức ra Bắc đấy, anh có đi không?”.

Lương nghiêm trang trả lời ông muốn đi. Chị B. bắt liên lạc, bố trí kế hoạch cho ông rời Sài Gòn. Chờ đợi một thời gian khá lâu mới có hồi âm. Lương Định Của nói với các em, ông muốn cho gia đình đi nghỉ mát ở Ô Cấp (Cap Saint Jacques – Vũng Tàu ngày nay) mấy hôm. Nửa đường, theo mật hiệu “cứ theo người có chửa mà đi”, ông đổi xe, đổi hướng, theo người phụ nữ ấy về thành phố Mỹ Tho. Từ đấy lại đổi xe khác, có người khác đón ra bưng biền.

Lương Định Của được nhà lãnh đạo Phạm Hùng tiếp ngay khi vừa đến cứ. Anh Bảy trò chuyện thân tình, và cho ông một bộ quần áo bà ba.

Năm 1954, qua liên lạc biệt động, gia đình giáo sư gửi thư xin phép đi tập kết. Anh Hồng Việt kể lại: “Từ Sài Gòn, theo biệt động đưa về Cần Thơ, xuống căn cứ Cà Mau và đi tàu Ba Lan ra Sầm Sơn, Thanh Hoá.

Ấn tượng đầu tiên là hưởng luôn một trận gió mùa đông bắc. Nhưng ngày hôm sau là 1.1.1955, gia đình được chứng kiến ngày lễ tưng bừng”. Luồng gió từ Hà Nội là bước ngoặt của nhà nông học Lương Định Của.


LƯƠNG ĐỊNH CỦA NHÀ BÁC HỌC NÔNG DÂN

Nhà báo Phan Quang kể về “Gánh xiếc Đông Phương Hồng” và những công việc cụ thể thường ngày của Bác Của:

“Bước vào thập niên 60 thế kỷ trước, công cuộc hợp tác hóa nông nghiệp ở miền bắc vừa hoàn thành, khắp mọi nơi sôi nổi phong trào cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động nông nghiệp. Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh được phân công kiêm Trưởng ban Nông nghiệp Trung ương. Bác Hồ đích thân chỉ thị cho ông tìm cách khuấy động phong trào, tạo khí thế thi đua phát triển sản xuất, xây dựng nông thôn mới.

Đội ngũ các nhà khoa học nông nghiệp, bắt đầu từ các con chim đầu đàn được đào tạo trong nước hoặc học từ nước ngoài về: Bùi Huy Đáp, Nguyễn Đăng, Lê Duy Thước, Trần Văn Hà, Dương Hồng Hiên, Trần Thế Thông, Đào Thế Tuấn, Lã Xuân Đĩnh…, mỗi vị một nghề chuyên sâu, sẵn sàng xắn quần lội ruộng.

Lương Định Của là chuyên gia về giống, được phân công chỉ đạo huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa, lấy hợp tác xã Đông Phương Hồng làm thí điểm. Nhà nông học cùng mấy học trò kỹ sư có, trung cấp có lếch thếch gồng gánh đồ lề rời thủ đô về mảnh đất vốn nổi tiếng “địa linh nhân kiệt”, đã góp phần rất to lớn về hậu cần cho chiến thắng Điện Biên Phủ song nghèo thì vẫn nghèo, vì mùa màng bấp bênh, năng suất lúa bình quân thấp. Anh em trong ngành nông nghiệp và cán bộ địa phương gọi đùa đội chỉ đạo của thầy trò Ông Của là “Gánh xiếc Đông Phương Hồng”.

Từ bấy, trên cánh đồng ruộng Thọ Xuân hầu như ngày nào bà con nông dân cũng thấy một người trạc tuổi trung niên dong dỏng cao, đầu đội nón lá, mình mặc sơmi mầu cỏ úa, quần xắn ống thấp ống cao quẩn quanh từ sáng đến xế chiều. Nông dân đã quên đi hoặc chẳng buồn quan tâm đến học vị cao siêu cũng như các chức danh rối rắm khác của ông trưởng đoàn chỉ đạo do Trung ương phái về mà chỉ biết đấy là Bác Của – không phải “bác” trong cụm từ thông thái “bác sĩ nông học” mà là “bác” như nông dân vùng này vẫn thường gọi nhau: bác Đỏ, anh Cò…

Nông dân chấp nhận nhà bác học nói giọng Nam Bộ như một người thân thuộc bà con lối xóm của mình. Lương Định Của là một người thẳng tính. Mới về huyện Thọ Xuân, dạo quanh một vòng quan sát đồng ruộng nơi cạn nơi úng, ông nói với Bí thư Huyện ủy: “Cánh đồng của anh như cái nồi đất thủng, nấu cơm không chín đâu”.

Ông chủ trương bắt đầu từ việc xây dựng đồng ruộng, làm bờ vùng bờ thửa. Hợp tác xã được chọn làm điểm chỉ đạo. Đông Phương Hồng vốn là một đơn vị làm ăn căn cơ, nhiều lần được báo chí nêu gương. Chủ nhiệm am hiểu kỹ thuật, báo cáo hay, “nói như viết trên báo”. Năng suất lúa đạt ba tấn/ha mỗi vụ – một mức khá cao thời ấy. Song chỉ cần làm một việc cực kỳ giản đơn là lấy tổng sản lượng thóc chia cho diện tích cấy trồng thì năng suất bình quân không đúng như lời chủ nhiệm báo cáo.

Lương Định Của đập bàn: “Anh nói dối. Báo cáo không đúng sự thật. Thế này không chỉ đạo được. Anh làm ăn vậy thì tôi thà đi nơi khác còn hơn”. Tuy vậy chẳng mấy chốc đoàn chỉ đạo và cán bộ hợp tác xã thân thiết với nhau. Đông Phương Hồng nổi bật lên như một điểm sáng thật sự. Toàn huyện Thọ Xuân cũng đạt kết quả khá nhờ xây dựng đồng ruộng, làm thủy lợi, cải tiến đồng bộ kỹ thuật, tạo điều kiện đưa các giống mới vào cơ cấu cây trồng.

Năm sau, Bộ Nông nghiệp tăng cường cho đoàn mười lăm kỹ sư mới tốt nghiệp, để bác Của cấy về các huyện khác trong tỉnh Thanh Hóa, nhân phong trào lên. Một chủ nhiệm hợp tác xã của huyện Thọ Xuân, Trịnh Xuân Bái, được tôn vinh Anh hùng Lao động hình như trước cả Lương Định Của và nhiều Anh hùng Lao động lừng lẫy khác.”

“Lúc gánh xiếc Đông Phương Hồng mới về, lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa chưa tiếp xúc ngay. Bí thư Tỉnh ủy Ngô Thuyền lặng lẽ cử cán bộ quan sát cung cách làm ăn của đoàn chỉ đạo. Một tháng sau, ông cho mời bác sĩ Lương Định Của về cơ quan, tiếp đón trọng thể, và chỉ thị cho văn phòng, mỗi lần bác Của có việc ghé thị xã thì mời vào nghỉ tại nhà khách của Tỉnh ủy (hồi ấy gọi là Nhà giao tế), và được mua thêm thuốc lá Điện Biên ngoài tiêu chuẩn… Trong hoàn cảnh đầu những năm sáu mươi thế kỷ trước, như vậy đã là một sự ưu ái.

Lương Định Của thành công trong việc vận động cấy lúa có chăng dây cho thẳng hàng và cầm ngửa tay bó mạ. Đó là phương pháp ông học của Nhật Bản và đã từng được áp dụng rộng rãi ở Triều Tiên. Cấy theo cách này thì cây mạ cắm nông, chóng bén rễ, lại bảo đảm mật độ quy định để đạt năng suất mong muốn cho từng loại ruộng. Mặt khác, cấy chăng dây thẳng hàng buộc phải làm đất kỹ, và có thể dùng bừa cỏ cải tiến để làm cỏ sục bùn – cũng là những yếu tố đạt sản lượng cao.

Nhưng ông là một người – cũng như hầu hết các nhà nông học tên tuổi và cán bộ chỉ đạo nông nghiệp của ta thời ấy – cực lực phản đối việc “thâm canh” bằng cách cấy lúa dồn, ken cây lúa thật dày, dày tới mức trẻ con có thể đứng lên trên ngọn các bông khi lúa chín. Phương pháp “tăng năng suất” này khởi thủy từ phong trào đại nhảy vọt ở Trung Quốc, được một số người truyền bá vào và khuyến khích áp dụng tại nước ta. Có người quát: “Sáu trăm triệu nhân dân Trung Hoa làm được, tại sao ta không làm”. Lương Định Của bình tĩnh trả lời: “Thưa, tôi đã có làm thí nghiệm. Kết quả: không được”.

Lương Định Của trước sau là một nhà di truyền học, một người tạo giống. Ông đạt nhiều thành tựu trong lĩnh vực ấy. Vì được giao trách nhiệm chỉ đạo cơ sở, ông buộc phải đánh lấn sang các sân khác. Cùng với tác phong đi sát thực tế, phương pháp suy luận khoa học giúp ông nhiều.cũng vào dạo ấy, có một cuộc họp các nhà quản lý nông nghiệp và nhà khoa học đầu đàn tại nhà riêng Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, phố Lý Nam Đế. Nội dung: bàn và quyết định về chiếc cào cỏ cải tiến, để cho sản xuất hàng loạt. Đấy là chiếc cào răng sắt có trục quay đẩy hoặc kéo trên mặt ruộng mềm, vừa làm cỏ vừa sục bùn, bàn cào rộng vừa đủ để chạy giữa hai hàng lúa. Dùng công cụ này thì đỡ cho chị em nhà nông phải khom lưng cào cỏ sục bùn bằng tay, bán mặt cho đất bán lưng cho trời.

Thật ra công cụ này đã được dùng phổ biến ở nước ngoài. Có hai loại. Loại một bàn tra cán dài cho người đứng thẳng đẩy bằng tay. Loại gắn nhiều bàn thì cho bò kéo. Một nhà khoa học nổi tiếng chủ trương áp dụng loại cào bò kéo, năng suất lao động sẽ cao, đáp ứng đúng yêu cầu của đất nước chuẩn bị bước vào chiến tranh.

Lương Định Của đề nghị nên dùng cào đơn, người đẩy, cho gọn nhẹ. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh ngồi yên, đầu hơi cúi vừa chăm chú nghe vừa rít thuốc lá, thỉnh thoảng gật gù tán thưởng. Các nhà khoa học lần lượt trình bày xong, ông ngửng đầu dụi tắt điếu thuốc lá hút dở: “Tôi tán thành ý kiến của anh Của. Dùng loại bừa do bò kéo đúng là sẽ đạt năng suất lao động cao. Nhưng ta lấy đâu ra bò mà kéo?”.

LƯƠNG ĐỊNH CỦA CHÍNH KHÁCH GIỮA LÒNG DÂN

Giáo sư Lương Định Của rất ít ảnh để lại, hình ảnh của ông là ở trong lòng dân. Ông là chính khách giữa lòng dân thật giản dị và chân thực. Bức ảnh trên đây từ Giáo sư Bùi Trọng Liễu khi ông ở Pháp về năm 1970 đến thăm Viện Cây Lương thực và Cây Thực phẩm tại Tứ Lộc Hải Dương hai năm sau ngày Viện được thành lập. Ngắm ảnh Giáo sư Viện trưởng Lương Định Của gầy gò, mặt rạng ngời, áo sơ mi phong phanh, tay áo xắn cao, tiếp chuyên gia nổi tiếng từ nước ngoài về một cách vui vẻ, thoải mái trong căn nhà lá thấy rõ cửa sổ tre đang chống lên, chúng ta hiểu thêm một ít về Thầy.

Hồi ký của bà Nobuko Luồng gió từ Hà Nội có in hình giáo sư Lương Định Của và Thủ tướng Phạm Văn Đồng đang lội ruộng xem cây trồng vào lúc chiến tranh đang khốc liệt. Như tất cả các gia đình cán bộ lúc đó, nhà bà phải ly tán đi làm nhiệm vụ: giáo sư làm việc ở Gia Lộc, Hải Dương; các con lớn gửi vào trường học sinh miền Nam; bà cùng cơ quan sơ tán về gần chùa Thầy, Quốc Oai. Bà cũng là phát thanh viên tiếng Nhật của đài Tiếng nói Việt Nam và vinh dự là người đọc bản tin loan báo chiến thắng lịch sử 30.4.1975.

Nhà báo Phan Quang đã tái hiện chân thực cuộc sống đời thường của nhà bác học nông dân trong phần 2 của bài “Kỷ niệm đời thường về nhà khoa học Lương Định Của”:

“Tập kết ra Bắc, tiến sĩ nông học Lương Định Của được phân về nhận việc tại Học viện Nông Lâm, đóng ở Gia Lâm. Là một nhà di truyền học nổi tiếng, ông được phân công phụ trách nghiên cứu và ứng dụng lai tạo giống. Ít lâu sau, Học viện tách làm đôi: Trường Đại học Nông Lâm, vẫn đóng ở địa điểm cũ, và Viện Khoa học Nông nghiệp chuyển sang bên này sông Hồng, xây dựng hoàn toàn mới ở Văn Điển.

Năm 1960, ông được bầu làm Đại biểu Quốc hội tỉnh Hải Dương, khóa II, và được bầu lại liên tiếp ba khóa nữa, cho đến khi qua đời. Lương Định Của về Viện. Bà Của – tên con gái là Nakamura Nobuto, thuộc một gia đình quý tộc phá sản vì chiến tranh – giúp việc ông trong việc lai tạo giống, hưởng lương nhân viên bốn mươi đồng một tháng.

Ông mang từ Nhật Bản về hai con trai sinh bên ấy. Về nước lại đẻ thêm hai đứa nữa. Vào lúc đó có chủ trương giảm biên chế. Bà Của làm công tác khoa học mà chưa có bằng đại học chuyên ngành, theo chính sách chung, đưa ra ngoài biên chế.

Cả nhà sáu miệng ăn, trông vào lương ông Viện phó, cho dù đã được ưu ái xếp tận trần thì bậc lương cao nhất của Phó Viện trưởng cũng không thể vượt quá một trăm năm mươi lăm đồng. Cộng thêm năm đồng phụ cấp ưu đãi gì đó nữa, tổng cộng mỗi tháng lĩnh tròn một trăm sáu mươi đồng. Với sự chuẩn xác của nhà khoa học, bác sĩ Của ghi vào tờ khai thu nhập bình quân gia đình: Hai mươi sáu phẩy sáu đồng.

Một ngày chủ nhật, Thủ tướng Phạm Văn Đồng về thăm Viện, xem giống lúa, vườn cây, đồng rau, chuồng gia súc, thí nghiệm… Phó Viện trưởng Lương Định Của hướng dẫn Thủ tướng. Đang đi trong Viện thì xe thủng lốp. Người lái xe xin Thủ tướng mười phút thay lốp xơcua. Anh Tô (*) nói: “Ta vào thăm nhà anh Của đi”.

Lương Định Của vội chạy về trước. Gia đình ông được cơ quan phân cho một ngôi nhà cấp bốn ba gian, mái lợp tranh. Trên bếp lò còn chảo cơm rang buổi sáng ăn dở, ông vội vàng lấy chiếc lồng bàn úp lại. Rồi vơ cuộn vội đống chăn lũ trẻ ngủ dậy muộn chưa kịp gấp, vứt bừa bãi. Các chăn bông không còn vỏ bọc, vì chỉ đủ tiền mua những cái cốt dày chống rét miền Bắc thôi. Bà Của sửa sang áo tóc, đứng ra bên cửa cúi mình rất thấp rước Thủ tướng vào nhà.

Anh Tô liếc nhìn cuộn chăn bông không có vỏ và chiếc lồng bàn úp luôn trên bếp lò, cảm ơn song không bước qua cửa mà thoái thác “Tôi muốn xem mấy cây táo”. Quả là trong vườn gia đình có trồng ba cây táo tạo dáng đẹp và rất sai quả, táo ta mà quả nào quả nấy to gần bằng trứng gà. Bác sĩ Lương Định Của nổi tiếng về mấy cây ăn trái này. Bà con hàng xóm đồn ông Của có mang hóa chất đặc biệt từ Nhật về, cho nên cây nào ông trồng cũng sai quả và quả to đến thế. Đấy, xem như rau muống là thứ phổ thông nhất, ông cho hóa chất vào, cọng rau cứ to tày thân cây sậy; rau muống ông Của chẳng đang phủ kín đồng, dùng làm thức ăn cho lợn là gì.

Trả lời Thủ tướng hỏi giống táo gì đây, bác sĩ Lương Định Của đáp: “Thưa, táo Thiện Phiến, Hưng Yên đấy ạ”. Nhiều người cho là ông Của không nói thật. Ngay trên Bộ Nông nghiệp cũng có ý kiến xì xầm tay Của giỏi giấu nghề. Lương Định Của bực lắm. Ông nói: “Báo cáo Thủ tướng mà dám nói sai, tôi không sợ vào tù sao?”.

Quả thật, đấy đúng là giống táo Thiện Phiến. Ông Của nhờ bạn là Trưởng Ty Nông nghiệp Hưng Yên chiết cho ba cành, ông mang về trồng trong vườn cho lũ trẻ có thêm vitamin; gia đình làm gì đủ tiền mua trái cây như thời bên Nhật Bản hoặc ở thành phố Sài Gòn. Cái quan trọng, ông nói, là biết chăm sóc và tạo dáng. Tỉa cành. Vặt bớt những quả bé đi. Và dạy cho lũ trẻ con, phải chờ cho quả thật chín mới được hái, không được bứt phá khi quả còn xanh.

Thủ tướng đến thăm cữ giáp Tết, đúng vào mùa thu hoạch, cho nên ba cây táo trong vườn nhà ông mới đẹp đến vậy. Chia tay ra về, Thủ tướng Phạm Văn Đồng vỗ vai nhà nông học: “Anh Của à, anh làm nghiên cứu, thường xuyên đi với nông dân, tác phong giản dị là tốt. Nhưng nông dân ta không bẩn đâu nhé. Nhà anh bẩn lắm!”.

Và người đứng đầu Chính phủ kết thúc câu nói bằng một tràng cười sang sảng quen thuộc. Lương Định Của đưa tay gãi cái trán đã bắt đầu hói, khẽ “dạ”. Từ bấy trở đi, mỗi kỳ lễ tết, anh Tô lại gửi cho cái phong bì một trăm rưởi, hai trăm đồng. Phó Thủ tướng Phạm Hùng chỉ thị chuyển bà Nakabura Nobuto, mà từ lâu rồi mọi người chỉ biết gọi là bà Của về làm việc ở Ban tiếng Nhật Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, hưởng lương cán bộ.

Chưa bao giờ ai nghe Lương Định Của có một lời phàn nàn về cuộc sống. Ông chỉ buồn về những trục trặc nhỏ trong quan hệ bạn bè, đồng nghiệp. Nỗi day dứt của ông là không đủ tiền đặt mua tạp chí khoa học của nước ngoài. Đúng vào dịp này, ông viết sơ yếu lý lịch cá nhân, mục “GIA ĐÌNH – Vợ người Nhật Bản. Có bốn con. Đứa lớn học trường miền Nam số 25, lớp năm. Đứa kế học trường ở Văn Điển, lớp ba. Lương hàng tháng đủ sống, không rách rưới, thiếu thốn gì. Ở Sài Gòn còn ba em, hai gái, một trai. Đứa em gái lớn chưa có chồng, đứa em kế đó chồng đi tập kết có hai con, thằng em út thì làm sĩ quan trong quân đội Sài Gòn”.

Thời chống chiến tranh phá hoại, xã hội thiếu thốn nhiều thứ, Lương Định Của quan tâm vấn đề dinh dưỡng cho mình cũng như cho đồng sự bạn bè, nhưng ông là người sống điều độ. Ngay đến khi lớn tuổi, ông vẫn giữ được dáng người thanh thoát, chỉ có cái trán là mỗi ngày mỗi hói và bóng hơn. Thỉnh thoảng ông có nhấm nháp vài chén hạt mít rượu ngang cùng các Bí thư huyện hoặc cánh nhà báo song để vui là chính. Một vại bia hơi đủ làm mặt ông ửng đỏ.

Có lần ông mang rượu thuốc ra mời anh em: “Anh Nguyễn Tạo (Tổng cục trưởng Lâm nghiệp) vừa gửi cho cái lộc nhung. Tôi nhờ ông Phùng mua cho một vò Phú Lộc, các anh tha hồ uống”. Ít lâu sau gặp lại thấy bữa ăn suông, tôi hỏi vui: “Hết rượu lâm nghiệp rồi sao:”. Ông đáp: “Hết thế nào được. Tôi cho mang lên Hà Nội. Sợ để ở Viện đêm ngồi đọc sách một mình, buồn lại mang ra uống thì chết. Rượu bổ, uống nhiều có hại”.

Lần nhà tôi sinh cháu thứ hai, tôi đi công tác xa. Một hôm bà thấy có tiếng gõ cửa. Xuất hiện một người quen quen mang cho hai quả đu đủ chín và mấy chai cà chua nghiền: “Chị dùng quả đu đủ, nhiều sữa cho cháu. Còn thứ purée này làm từ cà chua, tự tay tôi chế biến. Chị cho cháu lớn phết với bánh mì ăn sáng trước khi đi học, người Nhật vẫn dùng món này lắm…”. – Xin lỗi, anh là… Ông gãi cái trán hói: “Tôi là Của, Lương Định Của…”.

Dạo ấy đồng bằng Bắc Bộ mở rộng việc trồng cà chua vào vụ đông. Được mùa, cà chua tươi không xuất khẩu được, dân bày ra bán từng đống đỏ rực hai bên đường 5, thật là trên trời dưới cà chua. Ông Của từng bày cho chúng tôi cách làm bột cà chua nghiền để dành ăn dần. Chừng này quả, ngần này đường kính, ngần này muối, ngần này tỏi, vô trùng dụng cụ thế này, cho vào lọ, phủ lớp dầu ăn mỏng lên trên để lâu không bị nấm mốc… Anh em nể ông, chăm chú nghe, có người còn ghi chép, song rắc rối quá chẳng ai thực hành.

Một chiều, tan giờ làm việc, anh Hoàng Tùng, Tổng biên tập báo Nhân Dân tự dưng nảy ý, bảo tôi: “Tối nay ta đến thăm ông Của đi”. Nhà ông ở khu tập thể Kim Liên. Con đường chạy qua trước nhà ông thời ấy nay mang tên phố Lương Định Của, nó băng qua đường Phạm Ngọc Thạch để nối liền phố Đặng Văn Ngữ.

Hồi mới được phân căn hộ ở đây, ông vui mừng khoe với bạn bè. “Mình ở tầng trên cùng. Thành ra tận dụng được cái trần, làm nơi tạm chứa sách”. Thời chiến tranh, điện đóm phập phù, đường trong khu tập thể tối mò, tối nhất là các cầu thang. Nhà ông không có điện thọai, không thể báo trước.

Anh Hoàng Tùng theo tôi mò mẫm lên tầng năm. Lương Định Của ra mở cửa, hơi lộ vẻ ngạc nhiên song niềm nở mời vào.

Nơi tiếp khách của ông chỉ có mỗi cái bàn và bốn ghế gỗ rẻ tiền cấp theo tiêu chuẩn. Chiếc đèn bão không đủ sáng. Trên bàn, ngổn ngang vỏ bưởi: nhà nông học đang bóc trái cây mời vợ. Các cháu đều theo trường học nơi sơ tán. Lương Định Của lúng túng gạt tất cả những thứ trên bàn xuống cái chậu, nói với anh Hoàng Tùng: “Ăn bưởi còn tốt hơn ăn cam”. Trong múi bưởi có nhiều chất sắt”.

Tôi nghe nói, chính vì nhà không có điện thoại riêng, một tối cuối tuần ông có triệu chứng nhồi máu cơ tim, không thể gọi xe cấp cứu, khi đưa ông vào bệnh viện Bạch Mai thì đã quá muộn, mặc dù nơi ông ở chỉ cách nhà thương có một quãng đường.”

Theo Dương Đình Tường, báo Nông nghiệp Việt Nam trong bài viết: “GS Lương Định Của đã chết vì hóc xương?” thì giáo sư Lương Đình Của mất là do nhồi máu cơ tim mà không phải đã chết vì hóc xương hoặc do máy bay rơi như một số lời đồn. Tư liệu ghi theo lời kể của ông Nguyễn Quốc Tuấn và ông Trần Quý Lộc, cán bộ Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm .

“Năm 1975, Thủ tướng cử chuyên gia đầu ngành về cây lúa là Lương Định Của sang giúp Cu Ba. Trở về sau chuyến đi, ông tham gia họp Quốc hội khóa thống nhất đầu tiên của đất nước. Những ngày khác ông Tôn Đức Thắng thường chiêu đãi mọi người cơm nhưng hôm đó lại chiêu đãi bánh kẹo. Ông Của chia gói bánh của mình làm đôi, nửa cho ông Nguyễn Hoài Bắc nửa mang về nhà….Tối đó, bà Của làm cơm, có rán nem để chồng nhắm rượu. Bữa rượu tại nhà đó uống xong ông chẳng may phải cảm, thấy khó thở nên dậy tập khí công. Ba người phụ nữ trong nhà là bà Của và hai cô con dâu đang bụng mang dạ chửa tính gọi xe cấp cứu nhưng ông can: “Rồi cuối cùng sẽ qua thôi”. Từ 8 giờ tối đến 11 giờ tối, tình hình mỗi lúc một trầm trọng. Chiếc com măng ca khi ấy của Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm đang để ở gara của Viện Thú y, lái xe thì chẳng biết ở đâu vì điện thoại không có. Khó thở quá nên ông Của nôn khan. Thức ăn từ thực quản trào vào khí quản. Gần như ông đã tắc thở từ ở nhà. Sau khi giải phẩu tử thi, mổ sọ ra không thấy có gì bất thường, mổ tim ra thấy có cục máu đông bằng hạt tấm ở động mạch.

Nhà nông học Lương Định Của ra đi khi mới 55 tuổi để lại dở dang ước mơ đưa nông dân Việt bắt nhịp cùng nông dân Nhật. … Sáng 28/12/1975, Đài Tiếng nói Việt Nam thông báo trước quốc dân, đồng bào tin nhà khoa học Lương Định Của đã ra đi…

Trước ngày ra đi đột ngột đó, ông đã rất thành công với giống lúa xuân sớm được đặt tên là Nông nghiệp 75-1 chịu được cái rét cắt da, cắt thịt ở miền Bắc và có năng suất cao. Năm 1978, sau đúng ba năm ngày mất của GS Lương Định Của, giống lúa này đã chính thức được công nhận, cấp bằng sáng chế.”

Lương Định Của, chính khách giữa lòng dân. Tôi nhớ lời Giáo sư Trần Văn Giàu nói với TS. Quách Thu Nguyệt trong bài “Những bài học nhỏ từ người thầy lớn” : ” Học sử là để biết và không quên cội nguồn. Người làm sử phải chép lại quá khứ bằng sự thật một cách khách quan, khoa học” . Có nhiều chính khách đi qua đời tôi. Lương Định Của lắng đọng trong tôi một nhân cách, một người thầy lớn.


THẦY BẠN VÀ HỌC TRÒ LƯƠNG ĐỊNH CỦA

Thầy bạn và học trò của nhà bác học nông dân Lương Định Của là những ai? Giáo sư Lương Định Của mất năm 1975 nên đó vẫn còn là một câu hỏi lớn.

Thầy hướng dẫn luận án tiến sĩ của Lương Định Của là Giáo sư Kinhara, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Sinh học Kinhara, Trường Đại học Kyoto. Báo Mainichi Shimbun số ra ngày 26 tháng 5 năm Chiêu Hòa thứ 26 năm 1951 đăng chân dung lớn của nhà khoa học trẻ ba mươi mốt tuổi Lương Định Của là người Việt Nam đầu tiên được cấp bằng bác sĩ nông học của Nhật.

Ai là người ảnh hưởng lớn đến nhà bác học tài năng dấn thân trọn đời mình cho đại nghĩa dân tộc? Trong cuốn hồi ký Luồng gió từ Hà Nội bằng tiếng Nhật của bà Nubuko có in hình giáo sư Lương Định Của và Thủ tướng Phạm Văn Đồng đang lội ruộng xem cây trồng vào lúc chiến tranh đang khốc liệt. và bà nói rằng ông về nước theo lời gọi của Bác Hồ cùng với các trí thức lớn như Trần Đại Nghĩa, Đặng Văn Ngữ, Trần Hữu Tước… Theo nhà báo Phan Quang: “Khá lâu về sau, khi được Nhà nước ta phong Anh hùng Lao động, Lương Định Của xúc động thì thầm với tôi: “Anh có biết vinh dự lớn nhất của đời tôi là gì không? Ấy là việc ngày tôi được cấp bằng bác sĩ nông học trùng với kỷ niệm ngày sinh Bác Hồ: 19-5-1951. Mười Chín tháng Năm. Một sự trùng hợp vô cùng lý thú, có đúng không?”.

Niềm tin và nghị lực dấn thân đi theo Bác Hồ chắc chắn đó là động lực lớn của vợ chồng nhà bác học tài năng Lương Định Của. Thủ tướng Phạm Văn Đồng, cố Chủ tịch Nước Phạm Hùng rõ ràng là những người bạn lớn của Lương Đình Của đã phát hiện, nâng đỡ, trọng dụng đúng tài năng và tâm huyết của ông.

Tại bài viết “Đu đủ và bưởi”, nhà báo Phan Quang kể chuyện: “Thời gian làm việc tại Viện Cây Lương thực và Cây Thực phẩm, Lương Định Của có hai người bạn thân. Bí thư Huyện ủy Gia Lộc Lê Văn Đởm và Bí thư Huyện ủy Cẩm Giàng Nguyễn Phùng – ông Phùng ít lâu sau được điều chuyển lên tỉnh nhận nhiệm vụ Trưởng Ty Nông nghiệp. Hai ông bí thư – cũng như Lương Định Của, nay đã thành người thiên cổ – đều trưởng thành từ cơ sở lên, đặc nông dân, tiếng mỗi người đứng đầu một huyệt mà nhà vẫn rất nghèo.

Một anh bạn nhà báo có lần nói với tôi: “Quái, ông Của là nhà đại trí thức, mà xem ra chơi thân thật sự với hai tay đặc nông dân. Mà ý chừng ông ấy tâm đắc với tay Phùng Sơn. Viện đóng ở Gia Lộc, tối nào rảnh rỗi, ông Của lại sang Cẩm Giàng uống rượu Phú Lộc cùng Nguyễn Phùng. Ngồi với Lê Văn Đởm chỉ thấy hai ông bàn công việc”. Riêng tôi có hiểu phần nào.

Ông Đởm người cao lớn, đường bệ, đi đứng hơi chậm chạp. Ông Phùng tầm vóc nhỏ hơn, rắn rỏi, da săn, nói năng cởi mở, ham kỹ thuật mới và có điểm khác với ông Đởm là không biết (hoặc biết mà không thích) đánh tổ tôm. Một lần ông Của nói vui: “Mình nghiệm phần lớn những anh nào người quá béo tốt đều lười biếng. Thân thể nặng nề thì làm sao hoạt bát? Xem ông Đởm đấy, xong việc là đánh tổ tôm, tôi đưa cho bao nhiêu sách tối có buồn đọc đâu, chỉ đạo toàn bằng vốn cổ kinh nghiệm. Ông Phùng có vẻ chịu khó mầy mò học hỏi hơn”.

Một lần ăn cơm tối với nhau, Nguyễn Phùng giả vờ cà khịa: “Ông có biết cầm ống tiêm đâu mà gọi là bác sĩ…”. Tôi phụ họa: “Cái ngành nông nghiệp các anh đến là rắc rối. Thời Tây, cùng là kỹ sư như nhau lại phân thành kỹ sư nông nghiệp và kỹ sư nông học. Nay ngành nào người ta cũng gọi thống nhất cử nhân, phó tiến sĩ, tiến sĩ, giáo sư. Riêng anh thì cứ khăng khăng bảo mình là bác sĩ…”.

Lương Định Của không giận. Ông hiểu vì sao chúng tôi đề cập chuyện ấy. Nhà bác học là người không giỏi khoa ngôn từ. Trong nhóm nhỏ thân mật, ông chuyện trò rất hay, những vấn đề kỹ thuật rắc rối nhất cũng được ông giảng giải tường tận, phù hợp với trình độ người đối thoại. Nhưng cũng vấn đề ấy, mời ông lên thuyết trình tại hội nghị, có khi đã chuẩn bị kỹ nhưng trình bày lại không hấp dẫn, không mấy thuyết phục người nghe. Chúng tôi nhiều lần mời ông viết bài cho báo. Ông nhận lời, thì phải chờ nhiều hôm sau mới có bài. Bài ông ngắn gọn, nhìn bản thảo thấy những hàng chữ đều đặn viết bằng bút mực xanh, chữ hơi nghiêng về phía trái, biết là ông đã tự tay chép lại. Bởi vậy, chớ nên dại dột động bút chữa bài ông Của.

Một lần, anh biên tập viên có sửa đổi vài từ, và tiện tay xóa từ bác trong bác sĩ đi, thay vào từ tiến – “gọi chung là tiến sĩ cho nó nhất quán trên mặt báo”, lý lẽ của anh giản đơn như vậy. Lương Định Của hết sức phật ý: “Các anh chẳng hiểu cái gì”. Đó là câu trách móc nặng nề của ông. Lần này ông từ tốn nói: “Bác sĩ là học vị cao nhất bên Nhật Bản. (Ông nhúng ngón tay vào cốc nước, viết hai từ bác sĩ bằng chữ Hán ra bàn ăn).

“Nhà nước người ta phong cho tôi như vậy thì suốt đời tôi giữ nguyên như vậy, không hơn không kém”.

Bà Nubuko kể chuyện tình bạn với nhiều người, trong đó có mẹ con nghệ sĩ Đặng Thái Sơn và rất nhiều người khác. Bà đi du lịch khắp Việt Nam, về quê chồng ở Long Phú, Sóc Trăng, họp đồng hương ở Sài Gòn, về tận nhà người nông dân nghèo ngày xưa bà ở trọ lúc sơ tán.

Tiến sĩ Lê Hưng Quốc, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thương mại Giống Cây trồng đã xúc động viết “Lớp sinh viên đại học của chúng tôi khi ấy mới ra trường được tắm mình trong thực tiễn sản xuất, học các thao tác kĩ thuật trực tiếp ở Viện Lúa Tứ Lộc, các HTX nông nghiệp… đó là những trường học của những kĩ sư, kĩ thuật viên nông nghiệp trẻ tuổi. Thế hệ ấy sau này nhiều người đã trưởng thành những nhà khoa học có đóng góp xứng đáng như lớp thế hệ của PGS.TS Anh hùng Lao động Nguyễn Thị Trâm… Nhiều lớp cán bộ nông nghiệp do Giáo sư đào tạo đã trở thành những cán bộ đầu đàn trong nhiều lĩnh vực khoa học nông nghiệp. Giáo sư có nhiều thế hệ hoc trò xuất sắc.”

GSTS. Anh hùng Lao động Nguyễn Văn Luật trong bài Thầy Lương Định Của và tính tình Người Nam Bộ đã ca ngợi : “Cách đây 3-4 thập kỷ, hồi ở miền Bắc, thầy Của ở miền Bắc lai tạo được nhiều giống lúa mới được nông dân ưa chuộng như Nông nghiệp 1, Chiêm trăng, Đoàn kết … Gần đây, tỉnh Sóc Trăng quê hương của thầy Của lại sản sinh những con người chọn tạo ra nhiều giống lúa rất ấn tượng, mặc dầu chưa bao giờ được gặp, được thọ giáo tiền bối Lương Định Của. Đấy là nhóm chọn tạo giống lúa do KS Hồ Quang Cua đứng đầu. Đến nay nhóm này đã chọn tạo tới 22 giống ST, trong đó có nhiều giống như ST3, ST5 .. khá phổ biến, những giống ST đỏ từ lai tạo giữa giống gạo đỏ địa phương với giống năng suất cao rồi chọn ra dòng gạo đỏ vừa năng suất cao, vừa có mùi thơm lá dứa. Chân thành và khẳng khái trong cuộc sống, sáng tạo trong lao động chân tay và trí óc, nhân ái trong giao tiếp, độ lượng trong ứng xử xã hội, dũng cảm trong chống ngoại xâm, hòa nhập với cộng đồng và thân thiện với cây cỏ sông nước là những phẩm chất rất quý của con người Nam Bộ cả xưa và nay.”


ÔNG BÀ CỦA CỔ TÍCH GIỮA ĐỜI THƯỜNG

Cách đây mấy hôm, anh Lương Hồng Việt vừa cùng với vợ chồng thầy Trần Như Nguyện và Trần Thị Nữ Thanh ghé lên thăm chúng tôi ở Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc ở Trảng Bom, Đồng Nai. Anh Việt ghé nhà anh chị Đào Đức Miên và anh chị Trần Quang Khuông những công nhân, kỹ sư “quân” bác Của thời Tứ Lộc, Hải Dương. Chúng tôi cùng ăn cháo gà và kể chuyện những ngày gian khổ. Câu chuyện rôm rã lại quay trở về chuyện ông bà Của, cổ tích giữa đời thường.

Ai cũng nói thời ấy cực mà vui. Vợ chồng ông bà Của chịu đựng khổ cực giỏi và thực sự gầy dựng được một lớp kỹ sư thực hành vừa tâm huyết vừa tài năng thực sự có ích cho xã hội.

Ví như kỹ sư Trần Minh Chánh học trò bác Của, nguyên Trưởng trại Giống lúa Ma Lâm Bình Thuận (Thuận Hải cũ), từ năm 1981 đến năm 2004, đã nghiên cứu lai tạo, tuyển chọn được trên 35 giống lúa như TH5, TH6, ML24, ML48, ML49… Trong đó có nhiều giống được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận giống quốc gia như TH6, TH28, ML4, ML202 hoặc công nhận giống sản xuất thử như: TH41, ML29, ML48, ML107, ML214, suốt miền Trung ai cũng ngợi khen.

Ví như kỹ sư Nguyễn Văn Loãn quân bác Của cán bộ Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long tác giả chính của các giống lúa chủ lực và triển vọng của Nam Bộ giai đoạn 2004-2010 như OMCS 2000, OM 3536 (OMCS 21), OM 2517.

Ví như kỹ sư Phan Hùng Diêu, anh hùng lao động, v.v… và biết bao gương khác. Ông bà Của sống phúc hậu gắn bó máu thịt với những lớp người đó, cùng chia sẽ khó khăn gian khổ và ông bà Của là tấm gương mẫu mực đời thường.

Nhà báo Phạm Vũ trong bài Người vợ Nhật của Lương Định Của đã viết: Bà Nobuko bảo câu ngạn ngữ Nhật Bản mà bà thích nhất là “Ngày mai sẽ thổi cơn gió riêng của nó”, tương ứng với câu “Sau cơn mưa trời lại sáng” của Việt Nam. Lạc quan vậy nên bà cứ cười hoài khi xua tay giải thích: “Mọi người bảo Nhật Bản là một nước phát triển, giàu có, còn Việt Nam thì nghèo, thời tôi đến lại còn có chiến tranh, sợ tôi vất vả. Nhưng mà không phải vậy đâu. Tôi có vất vả mấy cũng không bằng người nông dân Việt Nam, sáng sớm đã phải ra đồng, ngâm chân xuống bùn lạnh buốt, ăn uống thì cực khổ. Người Việt Nam lại luôn giúp đỡ tôi. Bên cạnh tôi còn có anh Của, có các con”.

Câu chuyện của bà tràn ngập hình ảnh về ông Lương Định Của, thật khác với những gì người ta thường hình dung về ông giáo sư, viện trưởng đạo mạo, tác giả của những giống lúa năng suất cao, cây ăn trái nổi tiếng. “Anh Của” của bà dí dỏm, dễ gần, luôn đắm trong tình yêu với khoa học và lý tưởng về một xã hội chỉ có những điều tốt đẹp. Người Nhật trọng lễ nghi, phép tắc, đôi khi quá lịch sự mà trở thành xã giao, vậy nhưng chàng thanh niên Lương Định Của lại đến gặp cô gái làm việc trong phòng thí nghiệm trường mình rồi đưa ra một gói giấy: “Xin nhờ chị Nobuko may giúp tôi một cái áo sơmi”. Lần đầu tiên được Nobuko đưa đến nhà mình để nhờ mua giúp lương thực đang rất khan hiếm trong thời điểm chiến tranh, “anh Của” đã ngọt ngào gọi “Cha ơi! Mẹ ơi!” trước sự ngỡ ngàng của cha mẹ Nobuko. Bà Nobuko hôm nay cười thật tươi: “Sau này đến Việt Nam, tôi mới biết người miền Nam có tập quán xưng hô thân mật như thế. Nghe anh gọi “mẹ”, mẹ tôi thích lắm, và vì thế mà sau đó ít lâu bà đồng ý gả con gái cho anh sinh viên ấy. Bà còn tự tay đi chợ, nấu ăn cho đám cưới”.

Những ngày mùa thu 1945, ngoài niềm vui vì hạnh phúc riêng tư, ông Lương Định Của còn một niềm vui khác khiến ông như muốn bay lên, đôi mắt sáng loáng lên khi nói với vợ: “Em Nobuko ơi, Việt Nam đã được độc lập rồi. Việt Nam không còn là thuộc địa nữa. Từ nay trở đi, anh là người của nước Việt Nam độc lập, em ạ”. Từ ngày ấy, cơn gió thổi từ Hà Nội đã len vào tổ ấm nhỏ của đôi vợ chồng trẻ, theo họ từ Fukuoka đến Kyoto, Tokyo, từ lúc Lương Định Của còn là sinh viên cho đến khi nhận được danh hiệu bác sĩ nông học danh giá, tạo ra được giống lúa mới hột to, từ khi Nobuko là một cô gái trẻ cho đến lúc cô đã là một bà mẹ với hai con trai nhỏ.

Ông Lương Định Của đã say sưa nói với vợ về tương lai mới của đất nước, về xã hội tốt đẹp, tất cả vì nhân dân mà Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đang tạo lập. Ông từ chối các cơ hội đi làm nghiên cứu sinh ở Mỹ, làm việc cho Viện Nghiên cứu lúa gạo thế giới (IRRI) để tìm cách về nước tham gia kháng chiến. Sau nhiều nỗ lực móc nối, chờ đợi, xoay đường này cách khác, năm 1952 ông đã đưa cả gia đình về Sài Gòn, và đến năm 1954 cả nhà lại cùng lên một chuyến tàu tập kết ra Bắc.

Từ đấy, bà Nobuko đã biết đến nỗi cực khổ của người nông dân Việt Nam khi cùng ông Lương Định Của ra khỏi phòng thí nghiệm bước xuống ruộng làm khoa học thực nghiệm, nuôi con gà, con lợn trong sân nhà; biết đến tem phiếu, xếp hàng, thiếu trước hụt sau khi phải chăm sóc đàn con; biết đến hầm trú ẩn, bom đạn rơi sát bên mình trong những năm tháng ở lại Hà Nội để dịch và đọc những bản tin tiếng Nhật tại Đài Tiếng nói Việt Nam. Bà đã thay mặt đài viết từng lá thư tay trả lời thính giả Nhật, cảm ơn những lời động viên trong cuộc chiến tranh tàn khốc, giới thiệu những món ăn, những điểm du lịch Việt Nam… Tình yêu nước của chồng, những “cơn gió thổi từ Hà Nội” đã thấm vào bà từ bao giờ. Bà Nobuko lặp lại: “Tôi sống ở Việt Nam rất dễ chịu. Thời tiết dễ chịu, thức ăn dễ chịu, con người cũng dễ chịu, và cả cách ăn mặc nữa. Tôi rất thích áo dài, vừa nhẹ nhàng, vừa đẹp, lịch lãm, lại vừa dễ mặc”.

Tấm ảnh bà mặc áo dài đứng cạnh chồng chụp mấy mươi năm trước, dịu dàng, nền nã không khác gì một phụ nữ Việt Nam. Cầm tấm ảnh, bà lặng đi: “Chỉ tiếc anh Của mất sớm quá, mới 55 tuổi”. Đất nước vừa thống nhất, ông Lương Định Của đã hai lần vào Nam khảo sát để chuẩn bị xây dựng Trung tâm Nông nghiệp miền Nam. Rồi ông bác sĩ nông học hăng say tính chuyện trở về quê hương sinh sống, háo hức vì sắp được phát huy khả năng của mình trên những đồng ruộng mênh mông, màu mỡ của đồng bằng sông Cửu Long. Tháng 12-1975, ông tham dự kỳ họp thứ hai của Quốc hội khóa V, dự định kết thúc thì chuyển vào miền Nam nhận công tác. Chỉ còn hai ngày nữa lên đường, bỗng một đêm ông lên cơn nhồi máu cơ tim.

Hôm ấy là ngày 28-12-1975.

Hồi ký của bà Nobuko viết: “Tôi luôn tin tưởng là tôi hiểu biết về anh Của nhiều nhất, nhưng chứng kiến cảnh tang lễ, niềm tin này bắt đầu lung lay. Nhiều đoàn cán bộ cao cấp, nhiều cơ quan đoàn thể, đại biểu địa phương, những đoàn dài học sinh, sinh viên, hàng trăm người nông dân đứng xếp hàng trước cổng Bộ Nông Lâm nghiệp… Tôi mới hiểu anh với tư cách một người chồng, người cha, chứ chưa hiểu hết những đánh giá về mặt xã hội”.

Trong năm người con của bà, có tới ba người theo cha vào ngành nông nghiệp. Trong đó, từng tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, phục vụ mười năm trong quân đội rồi lại tiếp tục theo nông nghiệp, người con trai cả Lương Hồng Việt bây giờ đã nghỉ hưu, luôn sát vai cùng mẹ Nobuko trên những nẻo đường: về quê cha ở Sóc Trăng lo phần mộ tổ tiên, về Hà Nội mỗi năm để trao Giải thưởng Lương Định Của cho những thanh niên nông thôn xuất sắc, về quê mẹ Nhật Bản để bà vơi nỗi nhớ hoa anh đào…

Kim Notes lắng ghi chú, mỗi câu một đường dẫn, là ẩn ngữ thông tin; xem tiếp
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/soc-trang-luong-dinh-cua-2/

Nhắc về ông Lương Định Của, bà Nobuko bảo: “Ai cũng nói nếu chúng tôi vẫn cứ ở Nhật Bản thì sẽ giàu có lắm, sự nghiệp của anh cũng rực rỡ hơn về khoa học. Nhưng vật chất không làm nên hạnh phúc. Ở lại Nhật Bản thì anh Của sẽ không thể vui được đâu, vì những “cơn gió thổi từ Hà Nội”. Tôi đến đây, được làm vợ anh 30 năm, hợp nhau tới từng lời nói, như vậy là tôi được ở nấc thang trên cùng của hạnh phúc rồi”. Ông Việt cười tiếp lời: “Nhìn vào câu chuyện cuộc đời của ông bà, lớp con như chúng tôi thì thấy như huyền thoại, đám cháu thì bảo như cổ tích, không thể có được. Cả nhà bảo nhau phấn đấu theo ông bà thôi”. Ông bà Của là chuyện cổ tích sống động giữa đời thường.

Rằm xuân thăm thầy Lương Định Của, chúng tôi bồi hồi nghĩ về con đường lúa gạo Việt Nam từ vùng lúa Trường Khánh Đại Ngãi Sóc Trăng tỏa rộng nhiều vùng đất nước. Gạo thơm Sóc Trăng, gạo ngon OM Lúa Giống, gạo lúa siêu xanh Phú Yên, Đại học Cần Thơ, Lộc Trời An Giang, Bình Định Quảng Ngãi Quảng Nam, Gia Lai, Huế, Hà Nội, Thái Bình… gắn với tâm huyết của nhiều thế hệ khoa học xanh đang thầm lặng dâng hiến cho năng suất và chất lượng của hạt ngọc Việt Nam. Con đường lúa gạo Việt có công mở đường của nhà bác học nông dân Lương Định Cửa và tấm lòng nhân hậu của người vợ Nhật đối với quê hương chồng, tình nghĩa biết bao! Chúng ta đang đi trên con đường đó, lớp này tiếp lớp khác, theo con đường khai sáng của người Thầy biết dấn thân, biết hiến dâng đời mình cho đại nghĩa dân tộc, vì tương lai đất nước và xã hội tốt đẹp hơn.

Câu chuyện vinh danh hạt ngọc Việt, hạt gạo làng ta, hạt vàng Việt Nam có Lương Định Của con đường lúa gạo. Đó là câu chuyện dài về con đường lúa gạo Việt Nam. Dạy và học không chỉ trao truyền kiến thức mà thắp lên ngọn lửa! Chừng nào mỗi chúng ta chưa ứa nước mắt thấm hiểu sự nhọc nhằn của người nông dân một nắng hai sương làm ra hạt gạo. Chừng nào những giá trị lao động khoa học cao quý, liên tục, âm thầm chưa mang lại đủ niềm vui cho bữa ăn của người dân nghèo. Chừng đó chúng ta sẽ còn phải dạy và học cây lương thực. Cái gốc của sự học, sự nghiệp dạy và học, là học làm Người.

TS. Hoàng Kim
Nguyên giảng viên chính Cây Lương thực
Bộ môn Cây Lương thực Rau Hoa Quả, Khoa Nông học,
Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh
(ảnh: Châu Mỹ chuyện không quên)

CHUYỆN NGẬM NGÃI TÌM TRẦM

Chúng tôi ngậm ngãi tìm trầm, noi theo dấu chận của Người mà tôi rất mực tin tưởng và kính trọng. Trăng rằm đêm ấy tôi chứng kiến hai chuyện lạ; 1) Ruộng lúa Đại Ngãi, Trường Khánh xanh ngát dưới ánh trăng; 7g30 tối mà sáng rõ như ban ngày (mời đọc chi tiết tại Sóc Trăng Lương Định Của: “Chuẩn bị xong những việc sau cùng để ngày mai cấy các bộ giống lúa mới, chúng tôi lên đường về thăm quê hương thầy Lương Định Của khi trời đã xế chiều. Chúng tôi đến thăm cụ Sáu, em gái Thầy Lương Định Của và thắp hương tại khu mộ gia đình Thầy khi trăng rằm tháng giêng lồng lộng đang lên. Ruộng lúa Đại Ngãi, Trường Khánh xanh ngát dưới ánh trăng) ; 2) Chuyện bây giờ mới kể, Tôi kể câu chuyện thứ nhất, đã trên mười năm. Còn chuyện thứ hai này đến hôm nay mới kể, có nhiều nhân chứng trong cuộc nay còn đó, với việc anh Bùi Bá Bổng, anh Hồ Quang Cua, anh Nguyễn An Tiêm và mọi người đã “năn nỉ mời tôi quay trở lại Sóc Trăng” (lời của anh Bùi Bá Bổng). Tôi thật sự xúc động và không thể đành lòng về, nên dẫu đường xa, tôi vẫn quay xe trở lại. Và tất cả trái cây vú sữa trong bàn tiệc của lãnh đạo tỉnh Sóc Trăng mời cơm đoàn chuyên gia Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn hôm trăng rằm ấy, cuối cùng được dồn trút hết cho người tới muộn là tôi để ‘Anh mang về nhà làm quà Sóc Trăng cho người thân’ .Giỏ trái cây vú sữa này giống hệt như chuyện Tháp Canh và Tỉnh thức mà chị Thương Nga Tran đã mến gửi hôm nay. Âu cũng là duyên may. Ai nói lộc trầm hương của A Na bà chúa Ngọc là không có thật? .


Khi chia sẻ cảm nhận này với anh Nguyễn Hồng Quang về câu chuyện “Đây con sông Hậu” của bạn quý Chiêm Lưu Huy. Tôi đã kể cụ Nguyễn Khải thầy văn Việt lúc sinh thời đã có chiêm nghiệm rằng: “Trong gần bảy chục năm sống, tôi không phàn nàn bất cứ đoạn đời nào, những năm tháng nào. Có cái trước thì mới có cái sau, có cái này mới có cái kia. Tôi quan niệm khiếm khuyết là điềm lành, không có gì phải lo nhiều; hoàn toàn là điềm dữ, không chuẩn bị trước thì tai họa có ngày. Mươi năm trở lại đây tôi đã có ý thức điều chỉnh lại cách sống của mình, cố gắng sống thật tử tế, thật đàng hoàng. Bớt đi được một nửa những cái chưa tử tế cũng là tốt rồi. Tôi tự đánh giá là một cây bút nhẫn nại trong cái nghề của mình, chứ không phải là một cây bút tài hoa, có tài bẩm sinh. Nếu không có cuộc Cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến thì tôi chỉ là một kẻ vô danh, chứ không thể làm được gì nên chuyện. Cho nên chế độ chính trị hiện nay dẫu có bao nhiêu thiếu sót, có bao nhiêu chuyện đáng buồn, đáng giận, tôi vẫn gắn bó máu thịt với hôm nay. Những cái làm được là kỳ tích của dân tộc, chuộc lại những lỗi lầm trong quá khứ, (Đi tìm cái tôi đã mất ) đưa nước Việt Nam, người Việt Nam sang thế kỷ 21″. ““Tôi viết vậy thì tôi tồn tại! Viết văn không chỉ do nhu cầu kiếm sống, viết văn cũng không chỉ do những bức xúc khôn khuây của cá nhân, mà viết còn là mong muốn được trao trở về với cái vô hạn”. “Trên cuộc đời không có bước đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải vượt qua được những ranh giới ấy” . Tôi Kim Hoàng thật tâm đắc điều này, khi đang đúc kết “Ngày mới Ngọc cho đời” và “Pho tượng Ngọc Quan Âm” , chẳng qua mình chưa thấu suốt và khai mở đầy đủ đó thôi”

Anh Nguyễn Hồng Quang đồng tình và viết rằng :@Kim Hoàng hồi tưởng lại cuối những năm 80 (thế kỷ trước) đất nước như đang trên bờ vực, lúc đó có người nói: “ai cứu được đất nước này”. Sau 30 năm đổi mới đất nước ta có được vị thế như ngày hôm nay, nghĩ mà mừng đến rơi nước mắt. Thể chế nào cũng vậy, xã hội nào cũng vậy trên con đường tiến lên phía trước luôn tiếp nhận và giải quyết các vấn đề do thực tiễn cuộc sống đặt ra. Tôi tin rằng đất nước ta sẽ bước nên đài vinh quang sánh vai với các quốc gia hùng mạnh.
.
Tôi đã trả lời: @anh Nguyễn Hồng Quang quý mến. Kim Hoàng tiếc thương Thầy Cô ngậm ngãi tìm trầm. Chúng mình là lớp hậu sinh đi theo con đường đó. Hôm nay, đọc lại ‘Sự cao quý thầm lặng‘, mình thực ao ước được nối dài chuyện kể ‘Pho tượng Ngọc Quan Âm‘. Tâm đức, số phận và duyên may cả anh ạ. Mấy ai ngậm ngãi tìm trầm mà lưu được trầm hương đâu.

Nguyễn Hồng Quang Chiêm Lưu Huy đều có “Mười năm ở Bạc Liêu” để đến hôm nay 30 năm nhìn lại. Tôi thì trên 40 năm theo đuổi #cltvn Cây Lương thực Việt Nam. Tôi có câu chuyện dài ‘Sắn Việt và Sắn Thái’ . Con trai tôi Hoàng Long có trên 10 năm theo đuổi “Lúa siêu xanh Việt Nam”, và nay vẫn đang loay hoay dạy và học cây lương thực. Đó đều là những câu chuyện ngậm ngãi tìm trầm, nhưng mục đích chẳng phải tìm kiếm giàu sang, hư danh, tham lợi danh mà hóa hổ. Tôi viết lại bài học chiêm nghiệm cũng là sự noi đường sáng,

Tôi học cụ Hữu Ngọc “Lãng du trong văn hóa Việt Nam” dạo chơi #Thungdung trong khu rừng thiêng cổ tích văn hóa Việt, mà nhớ chuyên cũ ân tình đời người. Chuyện ngậm ngãi tìm trầm là sự thật, nay xin được kể tiếp.

Bà Nguyễn Thị Nhãn lớp giống khóa 6 Học Việt Nông nghiệp Hà Nội cùng các người thân trong gia đình và chúng tôi trước hương linh của Cụ Bà Nakamura Nobuco, Phu nhân cố Giáo sư Bác sĩ Nông học Lương Định Của . Sáng nay tôi dậy sớm từ ba giờ khuya để đi chuyến đầu của xe Cúc Phương kịp về viếng và tiễn Cụ, cũng may được gặp chị Nhãn trước khi chị vội đi Sóc Trang từ mờ sáng.

Anh Lương Hồng Thắng kể cho tôi nghe vắn tắt về việc nhà. Tôi từ rằm Nguyên tiêu 2011 thăm nhà gia đình tuổi thơ thầy Lương Định Của ở Sóc Trăng và lưu lại ghi chép Sóc Trăng Lương Định Của , hôm nay sau mười một năm, tôi mới tiếp tục bài viết Chuyện ngậm ngãi tìm trầm , cảm nhận về những điều tâm đắc.

Năm nhà sư đang giúp gia đình làm lễ dâng cơm nước tiễn đưa Lão sư Nakamura Nobuco từ biệt thế giới này để về cõi vĩnh hằng. Trang nghiêm lặng lẽ ấp áp nghi thức văn hóa Việt Hương linh Cụ Bà cúi chào (ba lần) ngôi nhà nhỏ thân thương, cúi chào (ba lần) con hẻm nhỏ gắn bó, và cúi chào (ba lần) đường lớn Nguyễn Đình Chiểu. Cô là bóng hạc chốn xa xôi đại thọ 100 xuân, ở chốn nhân gian, đường xuân đời quên tuổi, Thầy đón Cô về sau 47 năm (1975-2022)

Huỳnh Hồng với Hoàng Kim trở lai việc đời thường với bao điều tâm đắc. Huỳnh Hồng nói với tôi về câu chuyện cũ: Một người thầy hỏi học trò rằng từ khi ra trường đời tới nay anh mất gì và được gì so với lúc còn đi học?. Người thứ nhất trả lời rằng con thiệt ba điều ạ: Quá bận việc nên ít nâng cao học vấn, bổng lộc ít nên chẳng quan tâm được nhiều cho những người thân, thời gian hạn hẹp nên chẳng có thì giờ thăm nhau. Người thứ hai nói con được ba điều ạ: hành được những điều đã học, bổng lộc ít nhưng giúp được những người đáng giúp, thời gian hẹp nhưng cố tới được những nơi không thể không đến cho lòng bớt áy náy hơn và càng quý hơn,

Tôi nói với bạn quý Huỳnh Hồng Chuyện ngậm ngãi tìm trầm Lúa siêu xanh Việt Nam mười năm chọn giống chỉ mới là bước đầu; Tâm đức số phận và duyên may cả. Mấy ai ngậm ngãi tìm trầm mà lưu được trầm hương đâu; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/lua-sieu-xanh-viet-nam/

Trầm hương, kỳ nam là sản vật quý hiếm của đất phương Nam, vùng lõi trầm hương, kỳ nam là ở Khánh Hòa Phú Yên ngày nay nhưng từ Nghệ An trở vào, tới Thiên Cấm Sơn An Giang, tới Hà Tiên, trầm hương các tỉnh đều có. Vùng Đông Bắc,Việt Bắc,Tây Bắc theo thư tịch cổ cũng thấy

Chuyện ngậm ngãi tìm trầm, tìm cây gió bầu trầm hương kỳ nam, chuyện bỏ ngãi bỏ bùa của người Chăm, người Mọi, người Khơ Me, với chuyện đạo Mẫu Việt Nam đã lưu truyền nhiều đời tại nhiều vùng của các tộc người Việt cổ qua giai thoại dã sử mãi cho tới ngày nay. Chuyện ngậm ngãi tìm trầm lưu lại rõ nhất trong tích truyện Thiên Y A Na Bà Chúa Ngọc do cụ Phan Thanh Giản soạn ngày 20 tháng 5 năm 1857 (Tự Đức thứ 9), bản dịch của Quách Tấn, văn bia này tại tháp Po Nagar do ông bà Lê Vinh tạc năm 1970, tích cũ chép trong A Na bà chúa Ngọc, phần 2 (trong 5 phần của truyện) Pho tượng Ngọc Quan Âm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/pho-tuong-ngoc-quan-am/

Sách Đại Nam Nhất thống chí (Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn gồm 28 quyển dưới thời Tự Đức trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam, tập 2 Quốc chí, trang 816 viết. Trầm hương: Tục gọi là cây trầm. Bản thảo chép rằng bỏ xuống nước thì chìm nên gọi là trầm. Có thể trị thấp khử tà, bổ dương. Từ Nghệ An trở vào Nam các tỉnh đều có, có hộ thái hương. Năm Minh Mạng thứ 17 khắc hình tượng vào cao đỉnh. Nghệ An phong thổ ký chép rằng, cây gió già cỗi, tinh dịch kết lại thành hương, cây còn sống mà đẽo lấy thì gọi là sinh trầm, có thể dùng làm thuốc, cây đã chết mà lấy thì gọi là tử trầm, chỉ dùng chế chất thơm, lấy lúc cây đã mục nát gọi là tốc hương, là mật hương. Thảo mộc trạng của Kê Hàm nhà Tấn nói rằng: Cây giống cây liễu to, muốn lấy hương thì ngã cây để lâu năm, cỗi dễ cành đốt đều có màu sắc khác nhau, ruột cây rắn và đen, bỏ xuống nước mà chìm gọi là trầm hương, ngang với mặt nước là kê cốt hương, gốc là hoàng thục hương, thân cây là sạn hương, cành nhỏ rắn chắc chưa nát là thanh quế hương, gốc và mắt cứng mà lớn là mã đề hương.

Sách Lịch triều Hiến chương Loại chí của Phan Huy Chú 1821 trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam nói đến Phú Yên, Bình Khang, Diên Khánh có trầm hương (trang 192) Quảng Nam phù Tư Nghĩa có trầm hương (trang 190) Thuận Hóa có giáng hương (trang 187).

Sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi do Đại Nam Nhất thống chí trích dẫn trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (trang 1022) chép; Gỗ trầm ngư. Bãi biển có trầm ngư cùng nhiều thứ. Lời chua rằng: Trầm ngư là tên gỗ sinh ra ở ven biển nước mặn, “các loài cá lấy đuôi quẫy, người địa phương dùng nấu nước uống, có thể trừ được lam chướng”. Dùng làm đồ đạc cũng tốt

Sách Đại Nam Nhất thống chí quyển 26 tỉnh Hà Tiên, mục thổ sản cây gỗ có giáng hương (trang 1100). Sách Đại Nam Nhất thống chí quyển 27 tỉnh Biên Hòa, mục thổ sản có cây gió ờ huyện Nghĩa An (trang 1144).

Ngậm ngãi tìm trầm (Thanh Tịnh); Hồi sinh trầm hương; Những khúc ca huyền bí: Chuyện tình ngậm ngải tìm trầmTHVL | Thế giới cổ tích – Tập 94: Ngậm ngãi tìm trầm; Báu vật nơi đất Việt là những góc nhìn, ghi chép, và hình ảnh tóm tắt về câu chuyện trầm hương, kỳ nam.

Xứ Trầm Hương Quách Tấn là một sách du ký đáng đọc http://www.tuvienquangduc.com.au/Thanhtich/34xutramhuong.html “. Quách Tấn viết về mục đích của sách này: “Ghi chép lại vì nhận thấy đẹp, thấy hay, thấy thú, thấy đáng yêu đáng quý, đáng ra công gìn giữ cho đoàn hậu tiến có lòng cùng non nước. Ghi chép lại hầu mong bạn xa ghé mắt rồi đem lòng thương tưởng đến Khánh Hòa mà tôi kính yêu như bà Nghĩa Mẫu, vì nuôi nấng tôi gần nữa đời người. Mục đích viết XỨ TRẦM HƯƠNG là thế, và chỉ có thế. Nghĩa là tôi không có tham vọng viết một quyển sách địa lý, mà chỉ mong giới thiệu được những cái thấy cái hay cái đẹp của Khánh Hòa, về mặt thiên nhiên cũng như về mặt nhân sự. Cho nên tôi thiên về phong cảnh, cổ tích, giai thoại, huyền thoại…, là những cái dễ mất. Còn những cái gì thuộc về khoa học, thuộc về chuyên môn thuần túy, là những cái thường còn, thì nượng cho các nhà học giả. Do đó XỨ TRẦM HƯƠNG có tánh cách một tập du ký hơn là biên khảo. Vì vậy nên bảo XỨ TRẦM HƯƠNG không phải là Địa Phương Chí Khánh Hòa. Thế thì nó là gì? Tùy cao tình nhã ý của bạn đọc. Tấm lòng đã trải cùng non nước / Thương được nhờ ơn cũng chẳng nhờ”.

Tôi và con tôi theo nghề nông nghề giáo Cây Lương thực Việt Nam (#cltvn) ‘bưng bát cơm đầy, nhớ giọt mồ hôi” nay đi tiễn Cô về với Thầy, mà viết tiếp phần hai Chuyện ngậm ngãi tìm trầm trong Rằm Đản Sinh Nhớ Mẹ tiếp theo phần một Sóc Trăng Lương Định Của mà tôi đã viết dịp Rằm Nguyên Tiêu năm 2011, khi cấy lúa siêu xanh ở Trại giống lúa Long Phú Sóc Trăng và về Đại Ngãi Trường Khánh quê Thầy thắp hương biết ơn hạt gạo trắng ngần

Hôm nay là 14 tháng 5 năm 2022 (nhằm ngày 14 tháng 4 Nhâm Dần).

Báu vật nơi đất Việt, Pho tượng Ngọc Quan Âm là báu vật tâm hương.


Pho tượng Ngọc Quan Âm

5

BÁU VẬT NƠI ĐẤT VIỆT
Hoàng Kim


Pho tượng Phật Quan Âm
trở về từ biển cả
chùa Thanh Lương Phú Yên
đẹp và kỳ lạ quá !

Thành Hoàng Lương Văn Chánh
Châu Văn Tiếp Phú Yên
Lúa siêu xanh Việt Nam.
Mằng Lăng lưu chữ Việt.

Lời thương nơi Tháp Nhạn
An Hải mả Cao Biền
Ghềnh Đá Đĩa Tuy An
Báu vật nơi đất Việt.

Ghi chú

(*) Pho tượng Phật Quan Âm trở về từ biển cả lưu tại chùa Thanh Lương Phú Yên, là gần nơi kho báu Ghềnh Đá Dĩa Tuy An, cũng rất gần Nhà thờ Mằng Lăng nơi lưu giữ dấu tích ‘phép giảng tám ngày’ của ông Alecxandre de Rhodes người phát minh chữ Tiếng Việt. Nơi đây cũng là nơi kết nối trục giao lộ ngang từ Đầm Ô Long, cảng Quy Nhơn tới Nơi hội tụ Đông Dương ở ngả năm sông Mekong Champasak (hình trên) và nơi kết nối với trục dọc Trường Sơn sinh lộ biển trời Mekong. Địa thế này là tầm nhìn phong thủy Vạm Xuân đặc biệt xuất sắc, được thể hiện rõ trong bản đồ cổ từ thời mạt Đường, và quả thật là lạ lùng !

(**) Tôi hôm nay khi đứng nơi có mả Cao Biền, trên ‘đỉnh núi không còn ghồ ghề’  nghe tiếng gió hàng dương rì rào thổi bản nhạc đồng quê mênh mang ” Khi đỉnh núi không còn ghồ ghề Khi nước sông ngừng chảy Khi thời gian ngừng lại, ngày tháng bất phân. Khi vạn vật trên đất trời hóa thành hư vô …” tôi mới cảm nhận hết sự sâu xa trong bài văn của tiến sĩ Vũ Khâm Lân viết năm 1743 về Trạng Trình “Nguyễn Công Văn Đạt phổ ký” (Trích Gia phả dòng họ Trạng Trình): “Trình Quốc công Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm (còn có tên khác là Nguyễn Văn Đạt) tự Hành Phủ, đạo hiệu là Bạch Vân cư sĩ, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương. Tiên tổ ngày xưa tu nhân, tích đức nhiều, nay không thể khảo cứu được, chỉ biết từ đời cụ tổ được tập phong Thiếu bảo Tư Quận công, cụ bà được phong Chính phu nhân Phạm Thị Trinh Huệ. Nguyên trước các cụ lập gia cư ở nơi có núi sông bao bọc hợp với kiểu đất của Cao Biền, tay phong thủy trứ danh đời Đường.” . Tôi bồi hồi thấu hiểu điều hay của Lê Quý Đôn khi chép lại bài thơ hay của Cao Biền gửi lại:

Mênh mông mây nước sắp về chiều,
Khói nội, gà gô khắc khoải kêu.
Muôn dặm anh về chầu đế khuyết,
Năm thu Nam tiến nhớ tâu triều.





An Nam tống Tào Biệt Sắc quy triều

Vân thuỷ thương mang nhật dục thu,
Dã yên thâm xứ giá cô sầu.
Tri quân vạn lý triều thiên khứ,
Vị thuyết chinh nam dĩ ngũ thu.

Nguồn: Lê Quý Đôn toàn tập, tập II: Kiến văn tiểu lục, Thiên chương (Văn thơ, Từ lệnh), Phạm Trọng Điềm phiên dịch và chú thích, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977

(***) Thiền sư Thích Phổ Tuệ ở chùa Ráng Tổ Đình Viên Minh đã tặng tôi hai cuốn sách quý với dòng đầu phần duyên khởi ứng dụng trong đời sống hiện đại “Việc lớn đời người không gì lớn hơn Sống và Chết, mà vấn đề rất khó giải quyết cũng chỉ có sống chết mà thôi”. Tôi vốn tâm đắc với lời Thầy dạy và luôn ghi lòng: “Việc chính đời người chỉ ít thôi/ Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi/ Phúc hậu suốt đời làm việc thiện/ Di sản muôn năm mãi sáng ngời”.  Những danh nhân người nước ngoài gắn bó sống và chết với Việt Nam như Yersin, Cao Biền hoặc như  Alexandre de Rhodes, người phát minh ra chữ viết tiếng Việt, báu vật vô giá muôn đời của dân tộc Việt Nam, tôi xin dành một sự ngưỡng mộ và quý mến.

Tôi thực lòng muốn viết các khảo cứu chuyên đề này về huyền thoại và sự thật.

SÁNG MÃI NGỌC LƯU LY
Hoàng Kim


Trọn nợ duyên Phạm Lãi
Vẹn Tây Thi Ngũ Hồ
Yêu một đời đằm thắm
Sáng mãi ngọc lưu ly

xem tiếp Sáng mãi ngọc lưu ly https://hoangkimlong.wordpress.com/category/sang-mai-ngoc-luu-ly/ và Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tho-tu-tuyet-hoang-kim và Ngày mới Ngọc cho đời https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ngay-moi-ngoc-cho-doi/https://www.facebook.com/loithu.xua/posts/10224398853091547

Bài viết có liên quan

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là Nha-Trang-va-Yersin-2.jpg

A. YERSIN Ở NHA TRANG

Alexandre Émile Jean Yersin là nhà bác học lỗi lạc người Pháp gốc Thụy Sĩ. Ông là bác sĩ y khoa, nhà vi khuẩn học, nhà thám hiểm, nhà nông học, nhà chăn nuôi, nhà điểu học, nhà dân tộc học, nhiếp ảnh gia, nhà nghiên cứu khí tượng, nhà văn, nhà dịch thuật, nhà nhân đạo và ân nhân được nhân dân Việt Nam tôn kính. Ông được trao tặng Bắc Đẩu Bội tinh, huân chương cao quý nhất của nước Pháp, Việt Nam long bội tinh, Viện sĩ Viện Hàn Lâm Khoa học, Viện Hàn lâm Y học, Viện Hàn lâm Khoa học các thuộc địa, Hội Bệnh học Hải ngoại, Hội Y học Nhiệt đới, Hội Thiên văn Pháp quốc. Yersin sinh ngày 22 tháng 9 năm 1863 tại làng Lavaux (hat Vaux) Aubonne, Thụy Sĩ, tổ tiên ông vốn là người Pháp di cư sang Thụy Sĩ, năm 1889 ông phục hồi quốc tịch Pháp. Alecxandre Yersin mất tại Nha Trang ngày 01 tháng 3 năm 1943.

Nha Trang gắn bó với Yersin như hình với bóng. Yersin sống chết với Nha Trang. Ông tới Việt Nam năm 1890, Ông thám hiểm tìm ra con đường bộ từ Nha Trang ven Biển Đông băng qua dãy Trường Sơn qua Stung Treng đi suốt dọc ha lưu sông Mekong đến Phnom Penh năm 1892 . Ông là người thám sát lần đầu Cao nguyên Lâm Viên năm 1893 giúp thiết lập nên thành phố nghỉ mát Đà Lạt. Yersin đã tìm ra trực khuẩn gây bệnh dịch hạch sau này được đặt theo tên ông Yersinia pestis năm 1894 và điều chế huyết thanh chữa trị. Yersin là người sáng lập Viện Pasteur Nha Trang năm 1895. Với tiền thưởng khoa học, Yersin mua một khu đất rộng 500 héc-ta ở Suối Dầu để làm nông nghiệp và chăn nuôi.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nha-trang-va-yersin-1.jpg

Nha Trang và Yersin có một mối nhân duyên thật kỳ lạ. Năm 1891, khi đặt chân đến Nha Trang, Yersin đã yêu mến vùng đất này, và quyết định lưu trú tại đây. Ông viết cho Émile Roux, “Hãy đến đây với tôi, ông sẽ biết ở đây thú vị như thế nào, thời tiết không nóng nhiều, cũng không lạnh lắm, một khung cảnh thanh bình tuyệt đối và nhiều công việc cần làm“. Tên gọi “Nha Trang” có hai giả thuyết, một giả thuyết cho rằng nó được hình thành do cách đọc của người Việt phỏng theo âm một địa danh Chăm vốn có trước là Ya Trang hay Ea Trang (có nghĩa là “sông Lau”, tiếng người Chăm, tức là gọi sông Cái chảy qua Nha Trang ngày nay, con sông này đổ ra biển đúng chỗ có nhiều cây lau). Từ tên sông, sau chỉ rộng ra vùng đất, từ năm 1653. Giả thiết khác cho rằng Nha Trang trước năm 1891 chưa có tên gọi trên bản đồ chỉ mới là một vịnh nước yên tĩnh đầy nắng nhưng khi Yersin đến ở và xây “nhà trắng” nổi bật trên những ngôi nhà làng chài lúp xúp trên dải cát trắng từ năm 1891, thì họ gọi là ”Nhà trắng” lâu dần phiên âm thành Nha trang. Giả thiết đầu tiên được các nhà nghiên cứu thống nhất hơn. Dẫu vậy giả thuyết thứ hai cũng được nhiều người ủng hộ.

Yersin lưu dấu nhiều ký ức sâu đậm tại Nha Trang. Di sản Yersin thật sự to lớn và bền vững với thời gian ở Việt Nam. Ông từ trần tại nhà riêng ở Nha Trang ngày 1 tháng 3 năm 1943, và để lại di chúc: “Tôi muốn được chôn ở Suối Dầu. Yêu cầu ông Bùi Quang Phương giữ tôi lại tại Nha Trang, đừng cho ai đem tôi đi nơi khác. Mọi tài sản còn lại xin tặng hết cho Viện Pasteur Nha Trang, và những người cộng sự lâu năm. Đám táng làm giản dị, không huy hoàng không điếu văn.” Noël Bernard, người đầu tiên viết tiểu sử Yersin đã nhận xét: “Chắc chắn rất hiếm có người ít tư lợi đến thế. Yersin tự xóa mờ mình đi để người khác được tự do sáng kiến, sự tự do mà chính bản thân ông hết sức gắn bó

Yersin cũng lưu dấu ở Đà Lạt, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Thủ Dầu Một. Tại Đà Lạt, thành phố tình yêu, nơi núi non tuyệt đẹp trên cao nguyên Lâm Viên, Yersin là người nước ngoài đầu tiên đã thám hiểm và khám phá ra Đà Lạt. Tên ông được lưu dấu tại Trường Lycée Yersin (Trường Cao đẳng Sư phạm), Trường Đại học Yersin và Công viên Yersin. Tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Thủ Dầu Một,  tên của Yersin được đặt  tên đường để vinh danh. Dẫu vậy, nơi chính của Người vẫn là ở Nha Trang.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nha-trang-va-yersin-3-1.jpg

Ông Yersin là người đầu tiên du nhập và phát triển cây cao su ở Việt Nam năm 1897. Ông tuyển chọn nhiều loại thực vật và động vật từ khắp nơi trên thế giới để nuôi trồng tại Suối Dầu, biến nó thành một cộng đồng nông nghiệp và khoa học với một trạm xá phục vụ cư dân trong vùng.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nha-trang-va-yersin-4-1.jpg

Ngoài việc du nhập và phát triển cây cao su, ông cũng cho trồng cây cà-phê Liberia, các loại cây thuốc, cây coca để sản xuất cô-ca-in sử dụng trong ngành dược. Ông làm vườn, trồng hoa, nuôi chim, nuôi ngựa bò, sản xuất huyết thanh chống dịch cho bò. Trung tâm thí nghiệm này về sau trở thành Viện Thú y đầu tiên ở Đông Dương. Ông là người thành lập và là hiệu trưởng đầu tiên của Trường Y Đông Dương (tiền thân của Đại học Y Hà Nội) năm 1902. Ông trồng thử nghiệm cây canh ki na để sản xuất thuốc ký ninh chữa bệnh sốt rét năm 1917. Ông Năm Yersin nghiên cứu khoa học, sống thung dung trọn đời với người dân và thiên nhiên trong lành ở Suối Dầu, Nha Trang, Khánh Hòa.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là Nha-Trang-va-Yersin-4.jpg

Mộ ông Năm Alexandre Yersin nằm trên một ngọn đồi nhỏ gần Trại chăn nuôi Suối Dầu thuộc xã Suối Cát, huyện Cam Lâm, cách Nha Trang 20 km về phía nam và cách Đà Lạt 191km. Vị trí ngôi mộ tính từ cột mốc cây số và bảng hiệu chỉ đường rất rõ trên đường Quốc lộ 1, vào khoảng 2 km nữa thì đến một ngọn đồi có mộ ông Năm. Ngọn đồi này nằm giữa khu đất 500 ha ở Suối Dầu mà ông Năm đã mua bằng tiền thưởng nghiên cứu khoa học của chính ông. Tôi thật sự kính phục và ngưỡng mộ ông Năm và biết ơn khu đất này vì giống sắn KM94 và một số giống sắn lai mới triển vọng được bảo tồn và phát triển từ đây (Tôi sẽ kể chi tiết ở phần dưới).

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nha-trang-va-yersin-2.jpg

A. YERSIN VỚI VIỆT NAM

Ông Năm Yersin là một người dân Việt sống chết với Việt Nam như chính sự thật cuộc đời ông mà không chỉ là một nhà bác học lỗi lạc người Pháp gốc Thụy Sĩ . Ông Năm hiền lành tốt bụng là người thầy, nhà nhân đạo và ân nhân được nhân dân Việt Nam tôn kính. Suối Giầu Nha Trang  nơi ông an nghĩ trở thành nôi nuôi dưỡng hun đúc những thành quả lao động khoa học không chỉ của ông mà còn của lớp người sau. (Suối Dầu hay Suối Giầu .còn đó một ẩn ngữ vì bác Năm Yersin cũng là một nhà ngôn ngữ học thông tuệ và tên gọi này có từ thời ông. Thơ thiền Trần Nhân Tông có câu: “Sách Nhàn đọc dấu Thơ thiền Nhân Tông như có như không”.”Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu. Sách Nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim” . Giấu hay là Dấu là một ẩn ngữ trên 700 năm Giầu hay là Dầu cũng là một ẩn ngữ trên 100 năm nay.

Ông Năm Yersin không chỉ là bác sĩ y khoa, nhà vi khuẩn học, nhà bệnh học hàng đầu thế giới, mà còn là người thành lập và là Hiệu trưởng đầu tiên Trường Y Đông Dương từ năm 1902 (tiền thân của Đại học Y Hà Nội) . Ông Năm là người đầu tiên tìm ra bệnh bạch hầu và cách chữa trị năm 1888, người đầu tiên tìm ra bệnh dịch hạch và điều chế huyết thanh chữa trị, người đầu tiên thử nghiệm cây canh ki na để sản xuất thuốc ký ninh chữa bệnh sốt rét năm 1917.

Ông Năm Yersin không những là nhà thám hiểm đặc biệt xuất sắc, người làm cho Nha Trang có tên ‘nhà trắng ông Hoàng’ ở ven biển Nha Trang thuở xưa, người thám sát lần đầu Cao nguyên Lâm Viên năm 1893 giúp thiết lập nên thành phố nghỉ mát Đà Lạt mà còn là nhà thám hiểm người nước ngoài đầu tiên đã tìm ra con đường bộ từ Nha Trang ở ven Biển Đông đi băng qua dãy Trường Sơn tới Stung Treng và đi suốt dọc hạ lưu sông Mekong đến Phnom Penh vào năm 1892.

Ông Năm Yersin không những là nhà chăn nuôi thành lập Trại Chăn nuôi Suối Dầu đầu tiên để làm Trung tâm thí nghiệm sản xuất huyết thanh chống dịch cho bò ngựa, và nơi này về sau trở thành Viện Thú y đầu tiên ở Đông Dương, nay lại trở thành Viện Paster Khánh Hòa mà ông Năm Yersin còn là nhà điểu học, nhà dân tộc học, nhiếp ảnh gia, nhà thiên văn, nhà phong thủy tài danh đặc biệt xuất sắc về khí tượng nông nghiệp. Ông vừa là nhà văn và là nhà dịch thuật;

Ông Năm Yersin không những là một nhà bác học đặc biệt thông tuệ mà còn là một nhà nông học phúc hậu hiền triết yêu thiên nhiên con người cây cỏ muông thú và vạn vật. Ông sống thung dung tự do tự tại giữa thiên nhiên an lành. Ông là người nước ngoài duy nhất được Chính phủ Việt Nam cấp bằng chứng nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vì ông là nhà nhân đạo và ân nhân được người Việt tôn kính vì ông làm điều thiện việc lành mà cuộc đời ông như gương trong. Ông Năm Yersin là người đầu tiên du nhập và phát triển cây cao su ở Việt Nam năm 1897. Ông nhờ khu đất rộng 500 héc-ta của chính ông tự mua ở Suối Dầu để làm nông nghiệp và chăn nuôi mà ông cũng là người đầu tiên du nhập và tuyển chọn nhiều loại thực vật và động vật từ khắp nơi trên thế giới để nuôi trồng tại Suối Dầu, biến nó thành một cộng đồng nông nghiệp và khoa học với một trạm xá phục vụ cư dân trong vùng.

Sắn Việt ở Suối Dầu chuyện nhỏ bài học lớn. Ông Năm Yersin mất lâu rồi mà đất lành ông Năm vẫn tiếp tục nở hoa đất việc tốt điều thiện. Sắn Việt KM94 cùng nhiều giống sắn lai mới được bảo tồn tuyển chọn, nhân giống phát triển ở tỉnh Khánh Hòa từ năm 1993, từ một phần tư thế kỷ trước, tại đất lành Suối Dầu của ông Năm Yersin là nôi chọn và nhân giống cho miền Trung và sau đó đã phát triển rộng rãi ra khắp Việt Nam. Chị Đinh Thị Dục, giám đốc Trung tâm Khuyến Nông và Khuyến Lâm Khánh Hòa đã công bố kết quả này tại sách sắn ”Chương trình sắn Việt Nam hướng đến năm 2000″ trang 239 – 243. Ông Năm Yersin sống và chết tại Việt Nam, sau nửa thế kỷ Hoa Người và Hoa Đất ấy tiếp tục nở hoa. Chúng ta có được nhiều nhà khoa học xanh đến đất lành Việt Nam cùng chung sức làm việc. Kazuo Kawano và Reinhardt Howeler là những người bạn tốt của nông dân trồng sắn châu Á và Việt Nam, mà tôi thực sự kính trọng yêu mến họ và tôi sẽ kể tiếp cho bạn nghe trong câu chuyện khác.

Di sản ông Năm Yersin ở Việt Nam thật kính trọng và ngưỡng mộ.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là sanvietnam19971.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là sanvietnam1997c.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là ve-suoi-dau-nha-trang-tham-yersin.jpg

ĐẤT SUỐI DẦU A. YERSIN

Trại Chăn nuôi  Suối Dầu ở Suối Cát xã Cam Lâm, cách Nha Trang 20 km về phía nam và cách Đà Lạt 191 km. Nơi cột mốc cây số ven đường Quốc lộ 1 vẫn là tấm bảng hiệu khiêm nhường chỉ đường vào đất lành suối Dầu ông Năm Yersin. (Suối Dầu hay suối Giầu, giống như Đại Ngãi hay Đại Nghĩa, quê hương người anh hùng lao động Lương Định Của con đường lúa gạo Việt Nam ở Sóc Trăng). Trại Chăn nuôi Suối Dầu Cam Lâm chính nơi đây năm 1993 đã là nôi khảo nghiệm nhân giống sắn KM94 ra Khánh Hòa và các tỉnh miền Trung Việt Nam sau hơn nữa thế kỷ từ năm 1943 mà bác Năm Yersin mất. Chị Đinh Thị Dục, giám đốc Trung tâm Khuyến Nông và Khuyến Lâm Khánh Hòa đã phối hợp cùng chúng tôi công bố kết quả này tại sách sắn ”Chương trình sắn Việt Nam hướng đến năm 2000″ trang 239 – 243. Tôi tìm về di sản đất lành Suối Dầu ông Năm Yersin với biết bao xúc động cảm khái. Tôi lắng nghe các cây cao su già trăm tuổi, mía, đồng cỏ …và các ruộng sắn rì rào trò chuyện với gió núi, gió đồng quê gió biển. Chính nơi đây một phần tư thế kỷ trước tôi đã đến đây nhiều lần và thấu hiểu và chiêm nghiêm trên cõi đời này có nhiều điều uẩn khúc. Mục tiêu sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật có lời giải đúng và làm được việc.

Đất lành Suối Dầu A. Yersin đến nay tuy được bảo tồn nhưng vẫn chưa được đánh thức đúng tiềm năng. Hội Liên hiệp Phụ Nữ Thành phố Nha Trang chào mừng Khánh Hòa 350 năm đã có đầu tư giếng khoan nhưng phải đậy nắp vì sợ sự bảo quản máy bơm không an toàn và dường như điều này chưa thật đúng như tâm nguyện ông Năm Yersin là muốn nước giếng thơi ai cũng múc được. Giáo sư bác sĩ Nguyễn Chấn Hùng đã kể chuyện về quẻ Thủy Phong Tỉnh dạy về tinh thần của giếng trong sách Chu Dịch của cụ Sào Nam “Nước giếng trong không đậy, ai cần thì cứ múc. Giếng không sợ cạn. Càng múc nước lên càng trong, đầy mà không tràn. Không được đậy lại, phải để mọi người dùng”. Cụ Phan Bội Châu bàn về hào thượng quẻ Tỉnh:“Nước đã lên miệng giếng rồi, thời nên để cho tất thảy người dùng, chớ nên che trùm lại. Hễ ai muốn múc thời tùy ý múc. Quân tử đem tài đức ra gánh vác việc đời. Hễ lợi ích cho thiên hạ thời cứ làm, mà chẳng bao giờ tiếc công”.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nha-trang-va-yersin-5.jpg

Tôi và tiến sĩ Phan Công Kiên được mời tham gia Hội đồng Khoa học và Công nghệ Khánh Hòa đánh giá nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu xác định đối tượng và cơ cấu cây trồng phù hợp trên đất thoái hóa tại xã Cam Thịnh Tây, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa”. Tiến sĩ Phan Công Kiên là Phó Viện Trưởng Viện nghiên cứu Bông và Phát triển Nông nghiệp Nha Hố. Kiên mới đến khu mộ bác Năm lần đầu còn tôi thì đã đến đây nhiều lần từ nhiều năm trước. Chúng tôi sau khi họp xong đã dành được thời gian lên thăm và thắp hương tưởng nhớ bác Năm, và cùng đứng bên khu mộ với giếng nước thơi để tưởng nhớ Người. Tôi thầm mong một ngày nào đó sẽ có cơ hội đưa gia đình và các bé con cháu tôi về nơi đây để thấu hiểu Nha Trang và Yersin một bài học lớn. Bài học giấc mơ hạnh phúc…

Tôi thắp hương tưởng nhớ bác Năm Yersin theo lối gọi yêu mến của người dân Việt và bâng khuâng nhớ Người. Tôi thầm tự hỏi: dưới vòm trời này, đất lành này, núi biếc biển xanh này, so sánh con người phúc hậu, hiền lành, khiêm nhường đang nằm dưới ngôi mộ yên bình kia và những vĩ nhân lỗi lạc nhất của các nước lớn đến và ra đi khỏi Việt Nam, rốt cụộc thì ai hơn ai ? Ai đọng lại trong lòng dân Việt sâu bền hơn?

Biết bao danh nhân nước ngoài đến Việt Nam nhưng mấy ai được dân Việt tôn kính và quý trọng đến vậy? Ông Năm khiêm nhường như thế nhưng công đức và công bằng lịch sử lắng đọng như một ân nhân dân Việt . Tôi về nhà muộn, không dừng được những suy nghĩ về bác Năm. Tôi chợt đọc được cảm nhận xúc động của em Nguyễn Quang Huy quê Phú Yên và tôi không nỡ không thức dậy thắp ngọn đèn khuya để đối thoại thầm lặng với đêm thiêng. Nguyễn Quang Huy viết:

Em đọc Yersin, người chữa trị dịch hạch và thổ tả, vào những buổi sáng ở cao nguyên Lâm Viên, lòng vô cùng ngưỡng mộ về vị bác sĩ danh tiếng này. Từ một chuyên gia trong lĩnh vực vi trùng, lại bỏ áo bluse để trở thành một thủy thủ vì sau một chuyến công tác đã “lần đầu tiên thấy biển”. Rồi khi trở thành thủy thủ lại một lần nữa từ bỏ những con sóng để khám phá ra cao nguyên Lâm Viên vì “nhìn thấy những đám mây trên rặng núi của Khánh Vĩnh chưa có ai khám phá”. Thế rồi sau những chuyến phiêu lưu lại trở thành một chuyên gia nông học, chủ đồn điền để lại cho người Việt biết bao lợi ích vì những công hiến của mình. Từ đồn điền rộng 500ha ông lại lui vè với mảnh đất mấy mét vuông với tấm bia mộ khiêm tốn ở Suối Dầu, để lại cho đời hình ảnh về một con người phi thường, một người không có cha nhưng đã đi xa hơn những giới hạn mà những người cha có thể đạt tới.

Theo mô tả của Patrick Deville thì Yersin suốt đời theo đuổi cái hiện đại nhất, em lại nhớ tới lời dạy của thầy Hoàng Kim rằng trong nghiên cứu khoa học phải mang về những thông tin số liệu mới nhất của thế giới, giống tốt nhất để phục vụ cho bà con. Em ngưỡng mộ cách thiết kế bài giảng của Thầy, thể hiện được sự tôn trọng khoa học và yêu nghề lớn lao.

Em chưa đến được viện Passteur cũng như đến Suối Dầu thăm mộ của bác sĩ Yersin, nhưng em có cảm giác một sự đồng điệu ghê gớm với con người của thế kỉ trước này. Em cũng đã ghé thăm trường Lycée Yersin (đã đổi tên thành Cao Đẳng Sư Phạm) hay Đại học Yersin nhưng chưa tìm thấy dấu ấn nào. Mong rằng có dịp sẽ đến được Suối Dầu Nha Trang để thắp một nén nhang và tưởng nhớ về một con người vĩ đại.

Cảm ơn Thầy ạ.”

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nha-trang-va-yersin.jpg

Ông Năm Yersin không phải là người Việt nhưng ông được mọi người Việt mọi thời yêu quý, tôn kính, ngưỡng mộ. Ông thật hạnh phúc.

Đất lành bác Năm Yersin như cuốn sách kỳ diệu “vừng ơi mở ra”.
Nha Trang và Yersin, đất lành chim đậu, người hiền đến ở.
Nơi đây an nhiên một CON NGƯỜI.

Hoàng Kim

Video yêu thích
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim  Ngọc Phương Nam  Thung dung  Dạy và học  CNM365 Tình yêu cuộc sống Cây Lương thực  Dạy và Học  Kim on LinkedIn KimYouTube Kim on Facebook Kim on Twitter

NHA TRANG VÀ A. YERSIN
Hoàng Kim
về lại chốn xưa

Nha Trang biển hương rừng thoảng
A Na bà chúa Ngọc yêu thương
Ban mai ngày mới trời thăm thẳm
Người ngọc Yersin lộng giữa hồn.

Nha Trang biển yến rừng trầm thiên đường nghỉ dưỡng du lịch biển đảo nổi tiếng Việt Nam cũng là nơi an nghĩ và lưu dấu những cống hiến đặc biệt xuất sắc của nhà bác hoc thiên tài Yersin. Quần thể mộ Yersin ở Suối Dầu và thư viện Yersin ở Viện Pasteur Nha Trang là trường hợp duy nhất Chính phủ Việt Nam cấp bằng chứng nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia cho một người nước ngoài. Dân làng Tân Xương Suối Dầu thờ Yersin làm thành hoàng. Ngày mỗi ngày, công viên Yersin, Bảo tàng Yersin, mộ Yersin càng có nhiều lượt khách trong nước và quốc tế đến thăm để chiêm nghiệm bài học lớn tình yêu cuộc sống.

Ông Năm Yersin không phải là người Việt nhưng ông được mọi người Việt mọi thời yêu quý, tôn kính, ngưỡng mộ. Ông thật hạnh phúc.

Đất lành bác Năm Yersin như cuốn sách kỳ diệu “vừng ơi mở ra”.
Nha Trang và Yersin, đất lành chim đậu, người hiền đến ở.
Nơi đây an nhiên một CON NGƯỜI.

Hoàng Kim

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là NLU.jpg

Bài viết mới trên CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
CNM365 bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích

Mùa xuân đầu tiên (Văn Cao) -Thanh Thúy
Quê Hương saxophone hay nhất của Trần Mạnh Tuấn
Ban Mai; Chỉ tình yêu ở lại
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn; Kim on Facebook, Kim on Twitter Đăng tải tại Nha Trang và A. Yersin | Thẻ Nha Trang và A. Yersin | 1 Trả lờiSửa

Nha Trang và A. Yersin

Posted on

10

NHA TRANG VÀ A. YERSIN
Hoàng Kim


A Na bà chúa Ngọc
Nha Trang và A. Yersin
Ban mai đứng trước biển
Hoa Đất Ngọc phương Nam..

Nha Trang biển yến rừng trầm thiên đường nghỉ dưỡng du lịch biển đảo nổi tiếng Việt Nam , nơi ấy có di sản nổi tiếng A Na bà chúa Ngọc Nha Trang cũng là nơi an nghĩ và lưu dấu những cống hiến đặc biệt xuất sắc của nhà bác hoc thiên tài Yersin. Quần thể lăng mộ Yersin ở Suối Dầu và Viện Pasteur Thư viện Yersin công viên Yersin Nha Trang là trường hợp duy nhất Chính phủ Việt Nam cấp bằng chứng nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia cho một người nước ngoài. Dân làng Tân Xương Suối Dầu thờ Yersin làm Thành hoàng. Ngày mỗi ngày, công viên Yersin, Bảo tàng Yersin, mộ Yersin càng có nhiều lượt khách trong nước và quốc tế đến thăm để chiêm nghiệm bài học lớn tình yêu cuộc sống.

A. YERSIN Ở NHA TRANG

Alexandre Émile Jean Yersin là nhà bác học lỗi lạc người Pháp gốc Thụy Sĩ. Ông là bác sĩ y khoa, nhà vi khuẩn học, nhà thám hiểm, nhà nông học, nhà chăn nuôi, nhà điểu học, nhà dân tộc học, nhiếp ảnh gia, nhà nghiên cứu khí tượng, nhà văn, nhà dịch thuật, nhà nhân đạo và ân nhân được nhân dân Việt Nam tôn kính. Ông được trao tặng Bắc Đẩu Bội tinh, huân chương cao quý nhất của nước Pháp, Việt Nam long bội tinh, Viện sĩ Viện Hàn Lâm Khoa học, Viện Hàn lâm Y học, Viện Hàn lâm Khoa học các thuộc địa, Hội Bệnh học Hải ngoại, Hội Y học Nhiệt đới, Hội Thiên văn Pháp quốc. Yersin sinh ngày 22 tháng 9 năm 1863 tại làng Lavaux (hat Vaux) Aubonne, Thụy Sĩ, tổ tiên ông vốn là người Pháp di cư sang Thụy Sĩ, năm 1889 ông phục hồi quốc tịch Pháp. Alecxandre Yersin mất tại Nha Trang ngày 01 tháng 3 năm 1943.

Nha Trang gắn bó với Yersin như hình với bóng. Yersin sống chết với Nha Trang. Ông tới Việt Nam năm 1890, Ông thám hiểm tìm ra con đường bộ từ Nha Trang ven Biển Đông băng qua dãy Trường Sơn qua Stung Treng đi suốt dọc ha lưu sông Mekong đến Phnom Penh năm 1892 . Ông là người thám sát lần đầu Cao nguyên Lâm Viên năm 1893 giúp thiết lập nên thành phố nghỉ mát Đà Lạt. Yersin đã tìm ra trực khuẩn gây bệnh dịch hạch sau này được đặt theo tên ông Yersinia pestis năm 1894 và điều chế huyết thanh chữa trị. Yersin là người sáng lập Viện Pasteur Nha Trang năm 1895. Với tiền thưởng khoa học, Yersin mua một khu đất rộng 500 héc-ta ở Suối Dầu để làm nông nghiệp và chăn nuôi.

Nha Trang và Yersin có một mối nhân duyên thật kỳ lạ. Năm 1891, khi đặt chân đến Nha Trang, Yersin đã yêu mến vùng đất này, và quyết định lưu trú tại đây. Ông viết cho Émile Roux, “Hãy đến đây với tôi, ông sẽ biết ở đây thú vị như thế nào, thời tiết không nóng nhiều, cũng không lạnh lắm, một khung cảnh thanh bình tuyệt đối và nhiều công việc cần làm“. Tên gọi “Nha Trang” có hai giả thuyết, một giả thuyết cho rằng nó được hình thành do cách đọc của người Việt phỏng theo âm một địa danh Chăm vốn có trước là Ya Trang hay Ea Trang (có nghĩa là “sông Lau”, tiếng người Chăm, tức là gọi sông Cái chảy qua Nha Trang ngày nay, con sông này đổ ra biển đúng chỗ có nhiều cây lau). Từ tên sông, sau chỉ rộng ra vùng đất, từ năm 1653. Giả thiết khác cho rằng Nha Trang trước năm 1891 chưa có tên gọi trên bản đồ chỉ mới là một vịnh nước yên tĩnh đầy nắng nhưng khi Yersin đến ở và xây “nhà trắng” nổi bật trên những ngôi nhà làng chài lúp xúp trên dải cát trắng từ năm 1891, thì họ gọi là ”Nhà trắng” lâu dần phiên âm thành Nha trang. Giả thiết đầu tiên được các nhà nghiên cứu thống nhất hơn. Dẫu vậy giả thuyết thứ hai cũng được nhiều người ủng hộ.

Yersin lưu dấu nhiều ký ức sâu đậm tại Nha Trang. Di sản Yersin thật sự to lớn và bền vững với thời gian ở Việt Nam. Ông từ trần tại nhà riêng ở Nha Trang ngày 1 tháng 3 năm 1943, và để lại di chúc: “Tôi muốn được chôn ở Suối Dầu. Yêu cầu ông Bùi Quang Phương giữ tôi lại tại Nha Trang, đừng cho ai đem tôi đi nơi khác. Mọi tài sản còn lại xin tặng hết cho Viện Pasteur Nha Trang, và những người cộng sự lâu năm. Đám táng làm giản dị, không huy hoàng không điếu văn.” Noël Bernard, người đầu tiên viết tiểu sử Yersin đã nhận xét: “Chắc chắn rất hiếm có người ít tư lợi đến thế. Yersin tự xóa mờ mình đi để người khác được tự do sáng kiến, sự tự do mà chính bản thân ông hết sức gắn bó

Yersin cũng lưu dấu ở Đà Lạt, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Thủ Dầu Một. Tại Đà Lạt, thành phố tình yêu, nơi núi non tuyệt đẹp trên cao nguyên Lâm Viên, Yersin là người nước ngoài đầu tiên đã thám hiểm và khám phá ra Đà Lạt. Tên ông được lưu dấu tại Trường Lycée Yersin (Trường Cao đẳng Sư phạm), Trường Đại học Yersin và Công viên Yersin. Tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Thủ Dầu Một,  tên của Yersin được đặt  tên đường để vinh danh. Dẫu vậy, nơi chính của Người vẫn là ở Nha Trang.

Ông Yersin là người đầu tiên du nhập và phát triển cây cao su ở Việt Nam năm 1897. Ông tuyển chọn nhiều loại thực vật và động vật từ khắp nơi trên thế giới để nuôi trồng tại Suối Dầu, biến nó thành một cộng đồng nông nghiệp và khoa học với một trạm xá phục vụ cư dân trong vùng.

Ngoài việc du nhập và phát triển cây cao su, ông cũng cho trồng cây cà-phê Liberia, các loại cây thuốc, cây coca để sản xuất cô-ca-in sử dụng trong ngành dược. Ông làm vườn, trồng hoa, nuôi chim, nuôi ngựa bò, sản xuất huyết thanh chống dịch cho bò. Trung tâm thí nghiệm này về sau trở thành Viện Thú y đầu tiên ở Đông Dương. Ông là người thành lập và là hiệu trưởng đầu tiên của Trường Y Đông Dương (tiền thân của Đại học Y Hà Nội) năm 1902. Ông trồng thử nghiệm cây canh ki na để sản xuất thuốc ký ninh chữa bệnh sốt rét năm 1917. Ông Năm Yersin nghiên cứu khoa học, sống thung dung trọn đời với người dân và thiên nhiên trong lành ở Suối Dầu, Nha Trang, Khánh Hòa.

Mộ ông Năm Alexandre Yersin nằm trên một ngọn đồi nhỏ gần Trại chăn nuôi Suối Dầu thuộc xã Suối Cát, huyện Cam Lâm, cách Nha Trang 20 km về phía nam và cách Đà Lạt 191km. Vị trí ngôi mộ tính từ cột mốc cây số và bảng hiệu chỉ đường rất rõ trên đường Quốc lộ 1, vào khoảng 2 km nữa thì đến một ngọn đồi có mộ ông Năm. Ngọn đồi này nằm giữa khu đất 500 ha ở Suối Dầu mà ông Năm đã mua bằng tiền thưởng nghiên cứu khoa học của chính ông. Tôi thật sự kính phục và ngưỡng mộ ông Năm và biết ơn khu đất này vì giống sắn KM94 và một số giống sắn lai mới triển vọng được bảo tồn và phát triển từ đây (Tôi sẽ kể chi tiết ở phần dưới).

A. YERSIN VỚI VIỆT NAM

Ông Năm Yersin là một người dân Việt sống chết với Việt Nam như chính sự thật cuộc đời ông mà không chỉ là một nhà bác học lỗi lạc người Pháp gốc Thụy Sĩ . Ông Năm hiền lành tốt bụng là người thầy, nhà nhân đạo và ân nhân được nhân dân Việt Nam tôn kính. Suối Giầu Nha Trang  nơi ông an nghĩ trở thành nôi nuôi dưỡng hun đúc những thành quả lao động khoa học không chỉ của ông mà còn của lớp người sau. (Suối Dầu hay Suối Giầu .còn đó một ẩn ngữ vì bác Năm Yersin cũng là một nhà ngôn ngữ học thông tuệ và tên gọi này có từ thời ông. Thơ thiền Trần Nhân Tông có câu: “Sách Nhàn đọc dấu Thơ thiền Nhân Tông như có như không”.”Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu. Sách Nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim” . Giấu hay là Dấu là một ẩn ngữ trên 700 năm Giầu hay là Dầu cũng là một ẩn ngữ trên 100 năm nay.

Ông Năm Yersin không chỉ là bác sĩ y khoa, nhà vi khuẩn học, nhà bệnh học hàng đầu thế giới, mà còn là người thành lập và là Hiệu trưởng đầu tiên Trường Y Đông Dương từ năm 1902 (tiền thân của Đại học Y Hà Nội) . Ông Năm là người đầu tiên tìm ra bệnh bạch hầu và cách chữa trị năm 1888, người đầu tiên tìm ra bệnh dịch hạch và điều chế huyết thanh chữa trị, người đầu tiên thử nghiệm cây canh ki na để sản xuất thuốc ký ninh chữa bệnh sốt rét năm 1917.

Ông Năm Yersin không những là nhà thám hiểm đặc biệt xuất sắc, người làm cho Nha Trang có tên ‘nhà trắng ông Hoàng’ ở ven biển Nha Trang thuở xưa, người thám sát lần đầu Cao nguyên Lâm Viên năm 1893 giúp thiết lập nên thành phố nghỉ mát Đà Lạt mà còn là nhà thám hiểm người nước ngoài đầu tiên đã tìm ra con đường bộ từ Nha Trang ở ven Biển Đông đi băng qua dãy Trường Sơn tới Stung Treng và đi suốt dọc hạ lưu sông Mekong đến Phnom Penh vào năm 1892.

Ông Năm Yersin không những là nhà chăn nuôi thành lập Trại Chăn nuôi Suối Dầu đầu tiên để làm Trung tâm thí nghiệm sản xuất huyết thanh chống dịch cho bò ngựa, và nơi này về sau trở thành Viện Thú y đầu tiên ở Đông Dương, nay lại trở thành Viện Paster Khánh Hòa mà ông Năm Yersin còn là nhà điểu học, nhà dân tộc học, nhiếp ảnh gia, nhà thiên văn, nhà phong thủy tài danh đặc biệt xuất sắc về khí tượng nông nghiệp. Ông vừa là nhà văn và là nhà dịch thuật;

Ông Năm Yersin không những là một nhà bác học đặc biệt thông tuệ mà còn là một nhà nông học phúc hậu hiền triết yêu thiên nhiên con người cây cỏ muông thú và vạn vật. Ông sống thung dung tự do tự tại giữa thiên nhiên an lành. Ông là người nước ngoài duy nhất được Chính phủ Việt Nam cấp bằng chứng nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vì ông là nhà nhân đạo và ân nhân được người Việt tôn kính vì ông làm điều thiện việc lành mà cuộc đời ông như gương trong. Ông Năm Yersin là người đầu tiên du nhập và phát triển cây cao su ở Việt Nam năm 1897. Ông nhờ khu đất rộng 500 héc-ta của chính ông tự mua ở Suối Dầu để làm nông nghiệp và chăn nuôi mà ông cũng là người đầu tiên du nhập và tuyển chọn nhiều loại thực vật và động vật từ khắp nơi trên thế giới để nuôi trồng tại Suối Dầu, biến nó thành một cộng đồng nông nghiệp và khoa học với một trạm xá phục vụ cư dân trong vùng.

Sắn Việt ở Suối Dầu chuyện nhỏ bài học lớn. Ông Năm Yersin mất lâu rồi mà đất lành ông Năm vẫn tiếp tục nở hoa đất việc tốt điều thiện. Sắn Việt KM94 cùng nhiều giống sắn lai mới được bảo tồn tuyển chọn, nhân giống phát triển ở tỉnh Khánh Hòa từ năm 1993, từ một phần tư thế kỷ trước, tại đất lành Suối Dầu của ông Năm Yersin là nôi chọn và nhân giống cho miền Trung và sau đó đã phát triển rộng rãi ra khắp Việt Nam. Ông Năm Yersin sống và chết tại Việt Nam, sau nửa thế kỷ Hoa Người và Hoa Đất ấy tiếp tục nở hoa. Chúng ta có được nhiều nhà khoa học xanh đến đất lành Việt Nam cùng chung sức làm việc. Kazuo Kawano và Reinhardt Howeler là những người bạn tốt của nông dân trồng sắn châu Á và Việt Nam, mà tôi thực sự kính trọng yêu mến họ và tôi sẽ kể tiếp cho bạn nghe trong câu chuyện khác.

Di sản ông Năm Yersin ở Việt Nam thật kính trọng và ngưỡng mộ.

ĐẤT SUỐI DẦU A. YERSIN

Trại Chăn nuôi  Suối Dầu ở Suối Cát xã Cam Lâm, cách Nha Trang 20 km về phía nam và cách Đà Lạt 191 km. Nơi cột mốc cây số ven đường Quốc lộ 1 vẫn là tấm bảng hiệu khiêm nhường chỉ đường vào đất lành suối Dầu ông Năm Yersin. (Suối Dầu hay suối Giầu, giống như Đại Ngãi hay Đại Nghĩa, quê hương người anh hùng lao động Lương Định Của con đường lúa gạo Việt Nam ở Sóc Trăng). Trại Chăn nuôi Suối Dầu Cam Lâm chính nơi đây năm 1993 đã là nôi khảo nghiệm nhân giống sắn KM94 ra Khánh Hòa và các tỉnh miền Trung Việt Nam sau hơn nữa thế kỷ từ năm 1943 mà bác Năm Yersin mất. Chị Đinh Thị Dục, giám đốc Trung tâm Khuyến Nông và Khuyến Lâm Khánh Hòa đã phối hợp cùng chúng tôi công bố kết quả này tại sách sắn ”Chương trình sắn Việt Nam hướng đến năm 2000″ trang 239 – 243. Tôi tìm về di sản đất lành Suối Dầu ông Năm Yersin với biết bao xúc động cảm khái. Tôi lắng nghe các cây cao su già trăm tuổi, mía, đồng cỏ …và các ruộng sắn rì rào trò chuyện với gió núi, gió đồng quê gió biển. Chính nơi đây một phần tư thế kỷ trước tôi đã đến đây nhiều lần và thấu hiểu và chiêm nghiêm trên cõi đời này có nhiều điều uẩn khúc. Mục tiêu sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật có lời giải đúng và làm được việc.

Đất lành Suối Dầu A. Yersin đến nay tuy được bảo tồn nhưng vẫn chưa được đánh thức đúng tiềm năng. Hội Liên hiệp Phụ Nữ Thành phố Nha Trang chào mừng Khánh Hòa 350 năm đã có đầu tư giếng khoan nhưng phải đậy nắp vì sợ sự bảo quản máy bơm không an toàn và dường như điều này chưa thật đúng như tâm nguyện ông Năm Yersin là muốn nước giếng thơi ai cũng múc được. Giáo sư bác sĩ Nguyễn Chấn Hùng đã kể chuyện về quẻ Thủy Phong Tỉnh dạy về tinh thần của giếng trong sách Chu Dịch của cụ Sào Nam “Nước giếng trong không đậy, ai cần thì cứ múc. Giếng không sợ cạn. Càng múc nước lên càng trong, đầy mà không tràn. Không được đậy lại, phải để mọi người dùng”. Cụ Phan Bội Châu bàn về hào thượng quẻ Tỉnh:“Nước đã lên miệng giếng rồi, thời nên để cho tất thảy người dùng, chớ nên che trùm lại. Hễ ai muốn múc thời tùy ý múc. Quân tử đem tài đức ra gánh vác việc đời. Hễ lợi ích cho thiên hạ thời cứ làm, mà chẳng bao giờ tiếc công”.

Tôi và tiến sĩ Phan Công Kiên được mời tham gia Hội đồng Khoa học và Công nghệ Khánh Hòa đánh giá nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu xác định đối tượng và cơ cấu cây trồng phù hợp trên đất thoái hóa tại xã Cam Thịnh Tây, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa”. Tiến sĩ Phan Công Kiên là Phó Viện Trưởng Viện nghiên cứu Bông và Phát triển Nông nghiệp Nha Hố. Kiên mới đến khu mộ bác Năm lần đầu còn tôi thì đã đến đây nhiều lần từ nhiều năm trước. Chúng tôi sau khi họp xong đã dành được thời gian lên thăm và thắp hương tưởng nhớ bác Năm, và cùng đứng bên khu mộ với giếng nước thơi để tưởng nhớ Người. Tôi thầm mong một ngày nào đó sẽ có cơ hội đưa gia đình và các bé con cháu tôi về nơi đây để thấu hiểu Nha Trang và Yersin một bài học lớn. Bài học giấc mơ hạnh phúc…

Tôi thắp hương tưởng nhớ bác Năm Yersin theo lối gọi yêu mến của người dân Việt và bâng khuâng nhớ Người. Tôi thầm tự hỏi: dưới vòm trời này, đất lành này, núi biếc biển xanh này, so sánh con người phúc hậu, hiền lành, khiêm nhường đang nằm dưới ngôi mộ yên bình kia và những vĩ nhân lỗi lạc nhất của các nước lớn đến và ra đi khỏi Việt Nam, rốt cụộc thì ai hơn ai ? Ai đọng lại trong lòng dân Việt sâu bền hơn?

Biết bao danh nhân nước ngoài đến Việt Nam nhưng mấy ai được dân Việt tôn kính và quý trọng đến vậy? Ông Năm khiêm nhường như thế nhưng công đức và công bằng lịch sử lắng đọng như một ân nhân dân Việt . Tôi về nhà muộn, không dừng được những suy nghĩ về bác Năm. Tôi chợt đọc được cảm nhận xúc động của em Nguyễn Quang Huy quê Phú Yên và tôi không nỡ không thức dậy thắp ngọn đèn khuya để đối thoại thầm lặng với đêm thiêng. Nguyễn Quang Huy viết:

Em đọc Yersin, người chữa trị dịch hạch và thổ tả, vào những buổi sáng ở cao nguyên Lâm Viên, lòng vô cùng ngưỡng mộ về vị bác sĩ danh tiếng này. Từ một chuyên gia trong lĩnh vực vi trùng, lại bỏ áo bluse để trở thành một thủy thủ vì sau một chuyến công tác đã “lần đầu tiên thấy biển”. Rồi khi trở thành thủy thủ lại một lần nữa từ bỏ những con sóng để khám phá ra cao nguyên Lâm Viên vì “nhìn thấy những đám mây trên rặng núi của Khánh Vĩnh chưa có ai khám phá”. Thế rồi sau những chuyến phiêu lưu lại trở thành một chuyên gia nông học, chủ đồn điền để lại cho người Việt biết bao lợi ích vì những công hiến của mình. Từ đồn điền rộng 500ha ông lại lui vè với mảnh đất mấy mét vuông với tấm bia mộ khiêm tốn ở Suối Dầu, để lại cho đời hình ảnh về một con người phi thường, một người không có cha nhưng đã đi xa hơn những giới hạn mà những người cha có thể đạt tới.

Theo mô tả của Patrick Deville thì Yersin suốt đời theo đuổi cái hiện đại nhất, em lại nhớ tới lời dạy của thầy Hoàng Kim rằng trong nghiên cứu khoa học phải mang về những thông tin số liệu mới nhất của thế giới, giống tốt nhất để phục vụ cho bà con. Em ngưỡng mộ cách thiết kế bài giảng của Thầy, thể hiện được sự tôn trọng khoa học và yêu nghề lớn lao.

Em chưa đến được viện Passteur cũng như đến Suối Dầu thăm mộ của bác sĩ Yersin, nhưng em có cảm giác một sự đồng điệu ghê gớm với con người của thế kỉ trước này. Em cũng đã ghé thăm trường Lycée Yersin (đã đổi tên thành Cao Đẳng Sư Phạm) hay Đại học Yersin nhưng chưa tìm thấy dấu ấn nào. Mong rằng có dịp sẽ đến được Suối Dầu Nha Trang để thắp một nén nhang và tưởng nhớ về một con người vĩ đại.

Cảm ơn Thầy ạ.”

Ông Năm Yersin không phải là người Việt nhưng ông được mọi người Việt mọi thời yêu quý, tôn kính, ngưỡng mộ. Ông thật hạnh phúc.

Đất lành bác Năm Yersin như cuốn sách kỳ diệu “vừng ơi mở ra”.
Nha Trang và Yersin, đất lành chim đậu, người hiền đến ở.
Nơi đây an nhiên một CON NGƯỜI.

Hoàng Kim

TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây   cập nhật mỗi ngày

PDF và Video yêu thích
Mùa xuân đầu tiên (Văn Cao) -Thanh Thúy
Ban Mai; Chỉ tình yêu ở lại
Ngày hạnh phúc của em
Giúp bà con cải thiện mùa vụ
Quà tặng cuộc sống yêu thích
Kỷ yếu Khoa Nông Học 65 năm thành lập Khoa
Kỷ yếu 65 năm Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh
Kỷ niệm 65 năm Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh
Bài học quý giá biết chăm sóc sức khỏe
Secret Garden, Bí mật vườn thiêng 
Phim vua Solomon
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter Đăng tải tại Nha Trang và A. Yersin | Thẻ Nha Trang và A. Yersin | 10 Trả lờiSửa Tìm

Bài viết mới

Bình luận mới nhất

#cnm365 #cltvn 14 th… trong Gia Cát Mã Tiền Khóa
#cnm365 #cltvn 14 th… trong Gia Cát Mã Tiền Khóa
Chào ngày mới 14 thá… trong Gia Cát Mã Tiền Khóa
#cnm365 #cltvn 10 th… trong Gia Cát Mã Tiền Khóa
#cnm365 #cltvn 10 th… trong Gia Cát Mã Tiền Khóa

Thư viện

Chuyên mục

Đường xuân đời quên tuổi

ĐƯỜNG XUÂN ĐỜI QUÊN TUỔI

Một tiếng hạc, giữa trời xanh đồng vọng
Đời Bình An, thanh thản bước yêu thương

Mưa và nắng, ngày và đêm thăm thẳm
#Thungdung đi, đường lớn chẳng nao lòng

Hoàng Kim
Kính chúc Lão Nông vui khỏe https://hoangkimlong.wordpress.com/category/duong-xuan-doi-quen-tuoi

Hoa Lúa giữa đồng xuân
https://hoangkimlong.wordpress.comhttps://youtu.be/q2at-hofAWo

RẰM ĐẢN SINH NHỚ MẸ
Hoàng Kim

Đêm Vu Lan nhớ bài thơ đi học
Thấm nhọc nhằn củ sắn, củ khoai
Nhớ tay Chị gối đầu khi Mẹ mất
Thương lời Cha căn dặn học làm Người…

Chùm thơ Rằm Đản Sinh Nhớ Mẹ bảo tồn và phát triển tại Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tho-tu-tuyet-hoang-kim và Ngày mới Ngọc cho đời https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ngay-moi-ngoc-cho-đoi

HOÀNG NGỌC DỘ KHÁT VỌNG
Hoàng Ngọc Dộ và Hoàng Kim


Hoàng Ngọc Dộ (1937-1994) là nhà giáo. Ông quê ở xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch (nay là thị xã Ba Đồn), tỉnh Quảng Bình. Mẹ mất sớm. Nhà nghèo. Cha bị bom Mỹ giết hại. Ông đã nổ lực nuôi dạy các em vượt qua gian khổ, nghèo đói và chiến tranh để vươn lên trở thành những gia đình thành đạt và hạnh phúc. Gương nghị lực vượt khó hiếm thấy, ăn ngày một bữa suốt năm năm, nuôi hai em vào đại học với sự cưu mang của thầy bạn và xã hội đã một thời lay động sâu xa tình cảm thầy trò Trường Cấp Ba Bắc Quảng trạch (Quảng Bình). Ông mất sớm, hiện còn lưu lại gần 100 bài thơ. Lời thơ trong sáng, xúc động, ám ảnh, có giá trị khích lệ những em học sinh nhà nghèo, hiếu học. Anh Hai Hoàng Ngọc Dộ cũng là người Thầy dạy học đầu tiên cho Hoàng Kim: “Dặn con cháu khiêm nhu cần kiệm”; “Cảnh mãi đeo người được đâu em Hết khổ, hết cay, hết vận hèn Nghiệp sáng đèn giời đà chỉ rõ Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen”;”Không vì danh lợi đua chen. Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân”; “Soi mặt mình trong gương không bằng soi mặt mình trong lòng người”; “Có những di sản tỉnh thức cùng lương tâm, không thể để mất vì không thể tìm lại Hoàng Ngọc Dộ Khát vọng

KHÁT VỌNG
Hoàng Ngọc Dộ

Cảnh mãi theo người được đâu em
Hết khổ hết cay hết vận hèn
Nghiệp sáng đèn giời đà chỉ rõ
Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen.

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-ngoc-do-khat-vong

ÁNH SAO
Hoàng Ngọc Dộ


Bóng đêm trùm kín cả không trung
Lấp lánh phương Đông sáng một vừng
Mây bủa, mây giăng còn chẳng ngại
Hướng nhìn trần thế bạn văn chương.

LỜI NGUYỀN
Hoàng Ngọc Dộ

Không vì danh lợi đua chen
Thù nhà, nợ nước, quyết rèn bản thân!

Ước hẹn anh em một lời nguyền
Thù nhà đâu sá kể truân chiên
Bao giờ đền được ơn trung hiếu
Suối vàng nhắm mắt mới nằm yên.

CHÙM THƠ VỀ MẠ
Hoàng Ngọc Dộ

Chẵn tháng

Đã chẵn tháng rồi, ôi Mạ ôi!
Tuần trăng tròn khuyết đã hết rồi
Mà con không thấy đâu bóng Mạ
Thấy trăng vắng Mạ dạ bùi ngùi.

Năm mươi ngày

Năm mươi ngày chẵn thấm thoắt trôi
Mạ về cỏi hạc để con côi
Vầng trăng tròn trặn vừa hai lượt
Vắng Mạ, lòng con luống ngậm ngùi.

Đọc sách

Con đọc sách khuya không nghe tiếng Mạ
Nỗi tâm tư con nghĩ miên man
Lúc Mạ còn, con bận việc riêng con
Không đọc được để Mạ nghe cho thỏa dạ.

Nay con đọc, vắng nghe tiếng Mạ
Nỗi bùi ngùi lòng dạ con đau
Sách mua về đọc Mạ chẵng nghe đâu
Xót ruôt trẻ lòng sầu như cắt.

Mạ ơi Mạ, xin Mạ hãy nghe lời con đọc.

Buồn

Buồn khi rão bước đồng quê
Buồn khi chợp mắt Mạ về đâu đâu
Buồn khi vắng Mạ dạ sầu
Buồn khi mưa nắng giải dầu thân Cha
Buồn khi sớm tối vào ra
Ngó không thấy Mạ, xót xa lòng buồn.

CHIA TAY BẠN QÚY
Hoàng Ngọc Dộ

Đêm ngày chẳng quản đói no
Thức khuya dậy sớm lo cho hai người
Chăm lo văn sách dùi mài
Thông kim bác cổ, giúp đời cứu dân

Ngày đêm chẵng quản nhọc nhằn
Tối khuyên, khuya dục, dạy răn hai người
Mặc ai quyền quý đua bơi
Nghèo hèn vẫn giữ trọn đời thủy chung

Vận nghèo giúp kẻ anh hùng
Vận cùng giúp kẻ lạnh lùng vô danh
Mặc ai biết đến ta đành
Dăm câu ca ngợi tạc thành lời thơ

Hôm nay xa vắng đồng hồ
Bởi chưng hết gạo, tớ cho thay mày
Mày tuy gặp chủ tốt thay
Nhớ chăng hôm sớm có người tri ân.

THỨC EM DẬY
Hoàng Ngọc Dộ

Đã bốn giờ sáng
Ta phải dậy rồi
Sao mai chơi vơi
Khoe hào quang sáng

Ta kêu Kim dậy
Nó đã cựa mình
Vớ vẫn van xin
Cho thêm chút nữa.

Thức, lôi, kéo, đỡ
Nó vẫn nằm ỳ
Giấc ngủ say lỳ
Biết đâu trời đất

Tiếc giấc ngủ mật
Chẳng chịu học hành
Tuổi trẻ không chăm
Làm sao nên được

Đêm ni, đêm trước
Biết bao là đêm
Lấy hết chăn mền
Nó say sưa ngủ

Ta không nhắc nhủ
Nó ra sao đây
Khuyên em đã dày
Nó nghe chẳng lọt

Giờ đây ta quyết
Thực hiện nếp này
Kêu phải dậy ngay
Lay phải trở dậy

Quyết tâm ta phải
Cố gắng dạy răn
Để nó cố chăm
Ngày đêm đèn sách

Ta không chê trách
Vì nó tuổi thơ
Ta không giận ngờ
Vì nó tham ngủ

Quyết tâm nhắc nhủ
Nhắc nhủ, nhắc nhủ …

NẤU ĂN
Hoàng Ngọc Dộ

Ngày một bữa đỏ lửa
Ngày một bữa luốc lem
Ngày một bữa thổi nhen
Ngày một bữa lường gạo
Ngày một bữa tần tảo
Ngày một bữa nấu ăn.

(*) 5 năm cơm ngày một bữa

NỖI LÒNG
Hoàng Ngọc Dộ

Nhá củ lòng anh nhớ các em
Đang cơn lửa tắt khó thắp đèn
Cảnh cũ chưa lìa đeo cảnh mới
Vơi ăn, vơi ngủ, với vơi tiền

Cảnh mãi đeo người được đâu em
Hết khổ, hết cay, hết vận hèn
Nghiệp sáng đèn giời đang chỉ rõ
Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen.

DỰ LIÊN HOAN
Hoàng Ngọc Dộ

Hôm nay anh được chén cơm ngon
Cửa miệng anh ăn, nuốt chả trơn
Bởi lẽ ngày dài em lam lũ
Mà sao chỉ có bữa cơm tròn.

NHỚ NGƯỜI XƯA
Hoàng Ngọc Dộ

Ông Trình, ông Trãi, ông Du ơi
Chí cả ngày xưa Cụ trả rồi
Có biết giờ đây ai khắc khoải
Năm canh nguyệt giãi gợi lòng tôi

Bó gối mười năm ở nội thành
Thầy xưa đã rạng tiết thanh danh
Tớ nay vương nợ mười năm lẽ
Sự nghiệp Thầy ơi rạng sử xanh.

EM ỐM
Hoàng Ngọc Dộ

Bồn chồn khi được tin nhà
Rằng người xương thịt nay đà bị đau
Nghĩ mình là kẻ đỡ đầu
Mà sao phải chịu lao đao chốn này.

ĐÊM RÉT THƯƠNG EM
Hoàng Ngọc Dộ

Đêm này trời rét, rét ghê
Ta thương chiến sĩ dầm dề gió sương
Thương em lặn lội chiến trường
Chăn không, áo mỏng, gió sương dạn dày.

EM VỀ
Hoàng Ngọc Dộ

Em về anh biết nấu chi
Ba lần khoai sắn, kể chi cá gà
Thương em lặn lội đường xa
Về nhà khoai sắn, dưa cà cùng anh

Bao giờ giặc Mỹ sạch sanh
Em về anh thết cơm canh cá gà
Mùng vui kể chuyện nước nhà
Gia đình đoàn tụ thật là đượm vui.

LÀM ĐỒNG
Hoàng Ngọc Dộ

Làm đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót, say sưa với đồng
Chung tay liềm hái cuốc chòng
Ngày nay nhỏ giọt, mai lòng sướng vui.

Làm đồng nắng sém, da hui
Ai ơi xin chớ tham hời của dân
Khổ cay nắng sém da hồng
Xuân xanh già dặn với đồng, ai ơi!
NGẮM TRĂNG
Hoàng Ngọc Dộ

Nằm ngữa trong nhà ngắm Hằng Nga
Hợp cảnh, hợp tình, Hằng ngắm lại
Hợp nhà, hợp cửa, ả rọi hoa
Từng đám vòng tròn nằm giữa chiếu
Chiếu thế mà ra lại chiếu hoa
Hậu Nghệ thuở xưa sao chị ghét
Ngày nay mới biết ả yêu ta.

NHÀ DỘT
Hoàng Ngọc Dộ

Lã chã đêm đông giọt mưa phùn
Lách qua tranh rạ nhỏ lung tung
Chiếu giường ướt đẫm, thân đâu thoát
Nghĩ cảnh nhà hoa thật não nùng.

QUA ĐÈO NGANG
Hoàng Ngọc Dộ

Qua đèo Ngang, qua đèo Ngang
Rừng thẳm Hoành Sơn giống bức màn
Tường thành hai dãy nhiều lũy nhỏ
Gió chiều lướt thổi nhẹ hơi hương
Cổng dinh phân định đà hai tỉnh
Cheo leo tầng đá, giá hơi sương
Người qua kẻ lại đều tức cảnh
Ta ngẫm thơ hay của Xuân Hương (1)

(1) Thơ Xuân Hương:
“Một đèo, một đèo, lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo …”

CUỐC ĐẤT ĐÊM
Hoàng Ngọc Dộ

Mười lăm trăng qủa thật tròn
Anh hùng thời vận hãy còn gian nan
Đêm trăng nhát cuốc xới vàng
Trăng dòm, ta hẹn, trăng càng dòm thêm
Đất vàng, vàng ánh trăng đêm
Đêm khuya, ta với nàng quên nhọc nhằn.

Trích: Khát vọng I Thi Viện
http://www.thivien.net/…/Kh%C3…/topic-jvbfrjspi2Y6S8b3jeqzpA

VIẾNG MỘ CHA MẸ
Hoàng Trung Trực

“Dưới lớp đất này là mẹ là cha
Là khởi phát đời con từ bé bỏng
Là lời mẹ ru dịu dàng cánh võng
Là gươm đao cha một thuở đau đời.

Hành trang cho con đi bốn phương trời
Là nghĩa khí của cha, là nhân từ của mẹ
Vẫn bầu sữa tinh thần không ngừng không nghỉ
Để hành trang cho con đi tiếp cuộc đời

Cuộc đời con bươn chải bốn phương trời
Nay về lại nơi cội nguồn sinh trưởng
Dâng nén hương mà lòng hồi hồi tưởng
Thuở thiếu thời trong lồng cánh mẹ cha

“Ước hẹn anh em một lời nguyền
Thù nhà đâu sá kể truân chiên
Bao giờ đền được ơn trung hiếu
Suối vàng nhắm mắt mới nằm yên” (6)

“Không vì danh lợi đua chen
Công Cha nghĩa Mẹ quyết rèn bản thân !”

NHỚ MẸ CHA
Hoàng Kim

Lời ru của Mẹ ngày xưa
Con ru cháu đến bây giờ Mẹ ơi
Mẹ Cha trên chín tầng trời
Có nghe con hát những lời Mẹ ru:

“Công Cha như núi Thái Sơn
Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ Mẹ kính Cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo Con“

“Chèo thuyền cho khuất bến Son
Để con khỏi chộ nước non thêm buồn …”
Câu thơ quặn thắt lòng con
Mẹ Cha mất sớm con còn bé thơ.

Anh Hai con viết chùm thơ
Thương Cha nhớ Mẹ đến giờ chưa khuây
Con đi gần trọn kiếp người
Thơ anh lời dặn trọn đời theo em:

Không vì danh lợi đua chen
Công Cha nghĩa Mẹ quyết rèn bản thân

NGỌC LƯU LY NHỚ MẸ
Hoàng Kim


Bạn nhớ dáng mẹ lưng còng
Mình thương mẹ mất lúc còn thanh xuân

Giáp Thìn bốn chín chân vân
Tuổi thơ vắng mẹ rưng rưng cuộc đời

Bulukhin ngày 03.10.2013 lúc 10:56 nói:

Nếu thầy Thích Phổ Tuệ ấn chứng bạch ngọc (hạt gạo trắng ngần) thì cứ để nguyên vậy.

Thiển nghỉ của Bu thì có khác chút xíu. Bạch Ngọc là ngọc trắng thì chưa nói chi đến hạt gạo cả.

Thực ra hạt gạo không trắng thậm chí gạo lứt thì dinh dưỡng nhiều hơn gạo trắng. Bu được biết người Mỹ chế ra máy xát gạo trắng sau đó thấy là sai lầm bèn chế ra một thứ bột cho vào gạo để bù lại phần cám đã mất đi. Nhưng khi nấu cơm người ta vo gạo thì bột đó lại mất đi.

Dân gian nói hạt gạo là ngọc trời cho, trong trường hợp này là MỄ NGỌC.

Đấy cũng là nói cho vui.

HoangKim NgocphuongNam ngày 03.10.2013 lúc 22:10 nói:

Thưa anh Bu

Em đã thật xúc động được Thầy Thích Phổ Tuệ ấn chứng bạch ngọc (ngọc trắng, mễ ngọc, hạt gạo trắng ngần, ngọc trời cho, ngọc phương Nam). Đối với em được một người Thầy mẫu mực thiện tâm ấn chứng điều tốt đẹp này đã là một suối nguồn hạnh phúc. Em sẽ học thái độ của nước để đi như một dòng sông, học hoa lúa, hạt gạo để làm những việc có ích cho đời.

Đấy cũng là nói cho vui.

Kính anh chị vui khỏe ngày mới.

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoa-lua/

LINH GIANG SÔNG QUÊ HƯƠNG

Nhà mình gần ngã ba sông.
Rào Nan, Chợ Mới, Nguồn Son, Quảng Bình
Linh Giang sông núi hữu tình
Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con

“Chèo thuyền cho khuất bến Son
Để con khỏi chộ nước non thêm buồn“

Câu ru quặn thắt đời con
Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ

Ra đi từ bấy đến chừ
Lặn trong sương khói bến đò sông quê
Ngày xuân giữ vẹn lời thề
Non sông mở cõi, tụ về trời Nam.

Bài thơ “Linh Giang sông quê hương” là tâm tình sâu nặng của anh chị em chúng tôi đối với Làng Minh Lệ quê tôi. Nguồn Son nối Phong Nha là chuyện đời không quên: “Nghe nóng hổi nước mắt thầm vị mặn Nhớ Mẹ Cha thấm thía bữa nhường cơm Lời Cha dặn và lời Thầy nhớ mãi Một niềm tin thắp lửa giữa tâm hồn. Không vì danh lợi đua chen.Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân“. Mẹ tôi mất ngày mồng ba Tết Giáp Thìn 1964, cha tôi bị bom Mỹ giết ngày 29 tháng 8 năm Mậu Thân 1968. Anh chị em chúng tôi mồ côi mẹ cha và lưu lạc xa quê từ nhỏ. Lời anh Hai dặn, với tiếng dội Linh Giang “đi như một dòng sông” thao thức suốt đời chúng tôi.

NGUỒN SON VÀ CHỢ MỚI

Cha mẹ tôi sau khi chuyển nhà về Chợ Mới, thì cha tôi sinh kế chính là chèo đò ngang từ chợ Mới qua sông và chèo đò dọc từ chợ Mới theo nguồn Son nối Phong Nha vào chợ Troóc, hoặc chèo đò chợ Mới đến chợ Đồn ở Thanh Khê La Hà. Cha tôi thường dậy sớm chèo đò bắt đầu từ lúc ba giờ sáng thường cho đến suốt ngày, trừ những hôm bận làm công điểm hoặc việc khác. Cha làm nghề như vậy cốt để kiếm khoai gạo nuôi con suốt mười lăm năm từ năm 1954 cho đến năm 1968 lúc ông bị bom Mỹ giết hại. Mẹ tôi làm lụng ở đất vườn nhà và bán rau, nước lá vằng ở chợ Mới để phụ thêm. Hợp tác xã có tổ chức làm công điểm nhưng cuối vụ mới được chia và vì xã nghèo nên cũng được ít. Ai cũng vậy. Chị tôi đi học phải dắt em đi học kèm để rãnh cho mẹ chạy chợ. Tôi tuổi thơ đã chăn bò và bắt cua cá, tép ven sông, Học cấp 1 trường làng nhưng lớp năm thì lên học ở trường Thọ Linh Quảng Sơn, đi về chân trần khoảng 5 cây số. Sau này khi tôi về thăm quê, vẫn bàng hoàng lấy làm lạ là không hiểu sao thuở tôi nhỏ hơn 10 tuổi lại đã có thể ‘sáng kiến’ mấy lần nương theo bò lội qua sông Linh Giang rộng đến vậy. Tôi cũng không thể tưởng tượng nổi là sao thuở ấy cha tôi chèo chiếc thuyền nan nhỏ xíu một lá, đó dọc từ nguồn Son tới Phong Nha, chèo từ ba giờ khuya trên con sông sâu.thẳm, suốt 15 năm trời mà chỉ sơ sẩy một chút là gặp hiểm. Sau khi cha tôi mất, anh mẹt Phiếm cũng chèo đó ngang. Thuyền chìm ! Anh vớt được 9 em nhỏ đi học và anh đuối nước chết (sau này, anh Phiếm được phong liệt sĩ). Lần về quê gần đây, tôi có ghé thắp hương cho anh.

Từ bến đò Chợ Mới theo Nguồn Son nối Phong Nha ngày nay là tuyến du lịch tuyệt đẹp của đường thủy lộ nối từ Chợ Mới đến Động Thiên Đường và Động Sơn Đoòng di sản thiên nhiên thế giới ở Phong Nha Kẻ Bàng. Nhưng với gia đình tôi thì nghỉ lại là rùng mình khi cha tôi chèo đò trong đêm khuya hiểm yếu, sông sâu, thuyền nhỏ, đêm khua , trời gần sáng rất lạnh

CHUYỆN CỨU NGƯỜI CHẾT ĐUỐI

Một hôm chưa đến ba giờ khuya, cha tôi ra thuyền đón khách chợ Troóc. Cha thấy mái chèo bị vướng. Ông lần theo mái chèo thì vớt được một xác chết. Đêm tối như mực, ông ngại nhưng lòng trắc ẩn ông vớt lên loay hoay hô hấp hồi lâu, thì người chết đuối tỉnh lại. Ông vội vàng bế vào nhà cùng mẹ tôi hơ lửa cứu sống. Bà trẻ hơn mẹ tôi ít tuổi và ói mửa rất mệt. Sau hai hôm cha tôi vẫn đi chèo đò từ rất sớm. Mẹ hái rau. Chị Huyền tôi lên giúp chị Huyên. Anh Trực tôi đã đi bộ đội. Anh Dộ đi dạy học xa ở Pháp Kệ . Tôi chăn bò và bắt tép ven sông. Nhà vắng người. Bà bị chết đuối khi tỉnh lại đã tự ý bỏ nhà đi mà không một lời dặn lại.

Sau đó mấy tháng, chợt có một ông già mù dắt một đứa bé trạc tuổi tôi tìm đến nhà. Ông mời cha mẹ tôi ngồi lên ghế và hai ông cháu thụp lạy sống cha mẹ tôi. Ông nói rằng ông là cha của người phụ nữ chết đuối được cứu sống nọ. Bà là con ruột ông. Bà bị bệnh tâm thần, nay nhờ cha mẹ tôi cứu nên đã về nhà chết trẻ rồi. “Phúc đức đó , ông thầy bói mù nói rằng, ông là người mù lòa ăn mày, là thầy bói Cao Lao Hạ, ông nhà nghèo chẳng có cách gì để đền ơn, nên ông chỉ đến tạ ơn lời nói và giúp được cho ít lời khuyên.

CHUYỆN THẦY MÙ CAO HẠ

Ông già mù bảo tôi:– Cháu đi từ giếng này đến đường chính trước cửa nhà cho ông. Giếng là nơi góc sân trước nhà, nơi mà năm trước lụt to, tràn về làm ngập mất thành giếng. Gia đình bận chạy đồ đạc, không kịp để ý. Cháu Thung (Thung Tran) con đầu của chị Huyên tôi đã té giếng, đang chấp chới suýt chết đuối thì tôi còn bé nhưng may lúc ấy nghĩ kịp cách vội vàng đưa chân ra cho cháu níu lấy và hai cậu cháu thoát chết, may níu được túm cỏ, bò lên). Mẹ tôi vừa kể vừa khóc.

Tôi chạy chân sáo ra ngõ chính rất nhanh và về cũng rất nhanh trước mặt ông. Cụ hỏi:
– Cháu tên gì? – Cháu tên là Hoàng Minh Kim. Mẹ tôi đỡ lời. – Sao ông bà đặt cho cháu tên này? – Họ và tên Hoàng Minh Kim là do tôi đặt. Cha tôi nói.

– Vì tôi sinh cháu trong nhà lợp toóc (rạ) của khung chuồng bò do ông bà ngoại cho. Nhà tôi thuở ấy ở gần Đình Minh Lệ. Mẹ tôi nói. – Tôi sinh. Ông ấy đi kêu bà mụ. Tôi đau đẻ thì thấy có một con chuột rất to chạy qua nóc nhà, mồm ngậm một cục vàng to như quả trứng gà, rất sáng. Tôi vội vái lấy vái để, cầu khẩn xin ông Tý cho tôi cục vàng. Con chuột dừng lại nhìn tôi chằm chằm, nhưng lắc đầu, rồi ôm cục vàng chạy mất.

– Họ và tên Hoàng Minh Kim là vì chuyện ấy. Cha tôi xác nhận lời mẹ.– Ông bà có mấy con và nội ngoại thân thích có những ai?. Cụ già mù hỏi cha mẹ tôi Sau khi nghe kể chuyện, cụ già mù hỏi thêm: – Các bến đò chợ Đồn, chợ Troóc , bến Lội, bến Nghè, bến Đình, … Ông chèo bến mô nhiều hơn?

– Chợ Mới đi Nguồn Son tới Phong Nha, chợ Troóc, là nhiều hơn cả. Cha tôi nói: – Bên nội, tôi có hai anh em trai và một em gái. Anh trai tôi mất sớm. Em gái út tôi thì lấy chồng chợ Troóc cũng nghèo. Bên ngoại thì khá hơn, nhưng cũng nghèo. Nhà ngoại có hai chị em gái và một cậu em út mất sớm. Hai bên nội ngoại ông bà đều chết sớm. Tôi làm nông nhưng đủ ăn qua ngày là nhờ chèo đò.

Cha tôi hỏi cụ già mù: Nhà tôi trước đây ở rất gần Đình Minh Lệ, nhà hướng nam, ngoảnh mặt về với Rào Nan và đình, nhưng sao nhà quá nghèo khổ, phải bỏ nền nhà ông nhà cha mẹ mà đi. Vợ chồng tôi chuyển nhà về xóm Chợ Mới để dễ kiếm cơm nuôi con. Nghề là làm ruộng nhưng việc chính tôi chèo đò, vợ chạy chợ, bán mớ rau, ít nước chè lá vằng, thỉnh thoảng hàng chợ phiên Troóc, Ba Đồn đưa về, để đắp đổi sống qua ngày. Nhà tôi quay lưng hướng sông ngoảnh mặt ra ngã ba đường chính ,từ hướng chợ Hòa Ninh đi vô, hướng hói Đồng đi lên, hướng ga Minh Lệ đi xuống. Mấy người nói thế là hướng sai nhưng tôi giữ lối trung chính, thuận đường. Ông đi qua bà đi lại chào hỏi nhau được. Cụ nghĩ vậy là phải chứ?

– Ông còn chuyện gì khác mà phải chuyển nhà từ xóm Đình về xóm Chợ Mới ? Cụ già hỏi.

– Không! Mưu sinh, đường sống là chính. Sang đây thêm chèo đò, chạy chợ mới sống được. Nhất cận thị, nhị cận sông mới bớt khổ. Vì vợ chồng tôi đau yếu, nghèo khổ quá. Cha tôi nói thêm.

– Tôi bị Pháp bắt đi lính khố đỏ để đi đánh nhau bên Tây. Tôi đã vô Đà Nẵng, nhưng được anh em giác ngộ nên theo Vệ Quốc Đoàn đánh Tây suốt nhiều năm mãi đến năm 1951 là bệnh binh mới giải ngũ, trên cho về quê. Bệnh sốt rét phù thủng đọa đày tôi hết mức chết đi sống lại, mẹ nó đã khổ càng thêm khổ Tôi tánh nghĩa khí, trung trực, trọng lẽ phải, cứ theo điều hay lẽ phải mà làm, im nghe người ta nói không cãi, nhưng làm thì nhất định chỉ làm điều mà mình cho là phải, khi đã làm thì quyết làm cho bằng được, không hề sợ bất cứ ai, lượng sức lựa thế mà làm, không làm liều, không nghe người ta xui. Bà nhà tôi thì đức độ, hiền từ, nết ăn ở như đọi nước đầy, làng trên xóm dưới ai cũng thương. Cụ nói đi:.Nhà tôi gần ngã ba sông lại gần ngã ba đường thì hướng nhà nên làm sao?

– Linh Giang thông đại hải. Ngũ Lĩnh tiếp Cao Sơn. Đi như một dòng sông. Cuối dòng sông là biển. Cháu nhớ khẩu quyết chứ? Cụ già không trả lời cha mà quay sang bảo tôi.

– Hướng nhà theo thế Lục Môn. Đúng. Tôi nhìn theo tay ông chỉ. Nhà tôi lưng tựa Cao Sơn, xuôi chiều theo thế nước Nguồn Son lao thẳng về, đúng là thế nước hiểm, phải cuốn theo chiều nước, đi như một dòng sông, lá về nơi vô định. Đình Minh Lệ Linh Giang thông đại hải, đình hướng chính Đông biển lớn. Ngũ Lĩnh nối Cao Sơn, Đá Đứng chốn sông thiêng là hướng ngọc phương Nam, như rồng xanh Trường Sơn cuộn mình.

– Đất này sao đã quý hiếm mà lại hiểm? Cha tôi thắc mắc. – Vì rất rất cao giá !.Gian nan nên người hay. Thời thế tạo anh hùng. Địa linh sinh nhân kiệt. Nhân kiệt sáng địa linh. Đất sông núi thiêng này phát sinh những dòng họ lớn ! Ông già xuống giọng thầm thì. Ngã ba sông Chợ Mới là hiểm địa. Đá Đứng chốn sông thiêng là rất rất hiểm địa. Ông có biết vì sao đối diện Bến Lội Đền Bốn Miếu là động Ma Ca không? Thiêng lắm đấy, vì có quá nhiều người chết. Đây là nơi chính phân tranh từ nhiều đời. Thời Cao Vương lập đá Đứng bỏ bút thần. Thời Núi Đá Bia ngón tay minh sư thệ trời xanh bước qua lời nguyền chia cắt đấy. Giá máu xương cao lắm ! Chỗ cao giá hiểm nguy. Ông già nói .

– Nguồn Son Rào Nan hợp lưu thành Linh Gianh, giữa sông lại có Cồn, đó là … của người phụ nữ. Ông nghĩa khí trung trực, bà hiền từ đức độ, nhà có phước, sẽ thành dòng họ lớn ở phương xa, không thua kém người ta, nhưng ông bà không được hưởng lộc con. Cụ già mù kết luận. Đó là điều lạ thứ hai lời dặn của ông già mù Cao Lao Hạ, tự truyện ‘Linh Giang Đình Minh Lệ’ ngoài những thông tin địa chí lịch sử văn hóa mà tôi đã đúc kết thành bài dài.

– Không phải ngẫu nhiên mà Pháp chọn Đà Nẵng làm điểm khởi đầu trong kế hoạch đánh chiếm Việt Nam đâu. Có lý cả đấy ! Vì Kinh đô Huế nằm ở Bắc Hải Vân mà thế và lực với sự thông thuộc của Nhà Nguyễn chính là đất phương Nam trong khi Hoành Sơn Linh Giang Lũy Thầy lại là tuyến ba tầng thủ hiểm che chắn Kinh đô Huế ở mặt Bắc nên Pháp không chọn đánh Thanh Khê đó thôi – Nhưng Linh Giang chính là hiểm địa, bẻ đôi Việt Nam. Ông già mù nói

. Cụ nói đúng, Bố tôi lập tức nhỏm dậy. Vì tôi đã bị bắt đi đi lính Pháp để đưa sang đánh nhau bên Tây, đóng quân ở Đà Nẵng bên sông Hàn, sau đó tôi trốn theo Vệ Quốc Đoàn nên rất thông thuộc địa hình đó. Pháp nếu đứng chân được ở Đà Nẵng thì chẹn được mặt Nam, cô lập kinh thành Huế, mẹo ‘đánh rắn giập đầu’ rất mau thắng được dân Nam..

– Trận Đà Nẵng năm 1857 tụi Pháp thua. Cha tôi nói. – Vì tướng Nguyễn Tri Phương giỏi cầm quân, Ông ấy tránh đánh trực diện mà dùng phục binh, lập kế ‘đóng cửa đánh chó’ làm “vườn không, nhà trống” triệt hết đường tiếp tế của địch, cách ly và xử nghiêm tụi gián điệp đội lốt giáo sĩ, giáo dân. Ông lại cho đắp lũy kiểu như Lũy Thầy, bao vây chẹn họng địch ra biển, vây đánh trường kỳ không cần thắng nhanh, nên trận Đà Nẵng bên mình thắng Pháp phải chuyển vào đánh thành Gia Định, chiếm dần đất đai của mình từ phương Nam theo kiểu tằm ăn lá dâu.

– Ông giỏi sử thiệt. Cụ già khen. – Tôi ít học nhưng rất thích đọc sách Tam Quốc. Cha tôi nói : – Tôi thông gia với ông mẹt Rịnh thường kêu thằng Kim đọc sách Tam Quốc cho tôi và ông Rịnh nghe. Hôm nào ông Rịnh hoặc ông Thìn đến chơi, tôi không khi nào không kêu thằng Kim đọc sách Tam Quốc và sách Kiều, đến mức nó thuộc và kể được đấy. Mẹ nó thì mê nhất Lục Vân Tiên kế đến Kiều và Phạm Công Cúc Hoa.

– Cháu đọc cho ông nghe một đoạn nào? Cụ già nói. Tôi ngước mắt nhìn Mẹ, Mẹ tôi cười khuyến khích: – Con đọc đi Tôi đọc đoạn ông quán trong thơ Lục Vân Tiên mà mẹ thích:

– Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hán mạt, đã đành phôi pha.
Thương thầy Đồng tử cao xa,
Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.

Thương người Nguyên Lượng bùi ngùi,
Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
Thương ông Hàn Dũ chẳng may,
Sớm dâng lời biểu tối đày đi xa.

Thương thầy Liêm Lạc đã ra,
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.

– Địch đánh vô Thanh Khê cửa Hác không dễ. Bố tôi miên man kể. Ông nhớ thời lính tráng của ông: – Tôi dự nhiều trân đánh Pháp cùng thời và cùng đơn vị với Lâm Úy. Tôi ở đại đội 2 tiểu đoàn 274 của ông Lê Văn Tri làm tiểu đoàn trưởng thuộc Trung đoàn 18. Tôi vô sinh ra tử nhiều trận cùng anh em. Chỉ tiếc là đến năm 1951 bị đau bệnh sốt rét phù thủng ngã nước quá yếu trong khi đơn vị thiếu thốn thuốc men chữa trị và điều kiện chăm sóc nên trên mới phải cho giải ngũ về quê. Nếu không thì tôi đến nay đã nhất xanh cỏ nhì đỏ ngực rồi.

– Ông Lê Văn Tri là người Cao Hạ cùng làng với tôi. Sau này ông làm tướng rất to Cụ gìa nói – Trân Phú Trịch Là Hà, địa thế và cách dàn quân hai bên cũng lựa thế hiểm yếu như là trận Bạch Đằng. Voi trận của Đức Thánh Trần sa lầy ở Sông Hóa. Các trận địa phục kích cũng là các cồn tại các ngả ba sông hiểm yếu như Chợ Mới, La Hà Phú Trịch vậy. Lời thề trên sông Hóa “Chuyến đi này không thắng, ta thề không về lại nơi này!” của đức Thánh Trần cũng như lời thề quyết tử chiến của đội cảm tử 15 trận Phú Trịch La Hà đã chết như voi trận của đức Thánh Tràn chết vậy. Cha tôi nói

– Đá Đứng chốn sông thiêng Cầu Minh Lệ Rào Nan Bến Lội Đền Bốn Miếu là nơi rất rất hiểm. Ông già lại xuống giọng thầm thì. Ngã ba sông Chợ Mới là hiểm địa. Đá Đứng chốn sông thiêng là rất rất hiểm địa. Ông có biết vì sao đối diện Bến Lội Đền Bốn Miếu là động Ma Ca không? Thiêng lắm đấy, vì có quá nhiều người chết. Đây là nơi chính phân tranh từ nhiều đời. Thời Cao Vương lập đá Đứng bỏ bút thần. Thời Núi Đá Bia ngón tay minh sư thệ trời xanh bước qua lời nguyền chia cắt đấy. Giá máu xương cao lắm ! Chỗ cao giá hiểm nguy. Cụ già lặp lại.

Cụ già quay sang tôi, bắt tôi nhắc lại mấy lời khẩu quyết. Cao cát Mạc sơn / Sơn Hà Cảnh Thổ / Văn Võ Cổ Kim / Linh Giang thông đại hải / Ngũ Lĩnh tiếp Cao Sơn / Đình Bảng Cao Lao Hạ / Miếu cổ thủy sơn thần./ …. Mắt ông rất thành khẩn. Hốc mắt ông dường như có nước mắt. Người ông khoan thai thần bí và trầm tĩnh lạ lùng. Tôi cẩn thận lặp lại. Cha mẹ tôi im nghe và tỏ vẻ khuyến khích con. Cụ già nói chậm rãi: Ông bà thay tên cho ’em’ đi: Hoàng Kim tốt hơn Hoàng Minh Kim. Ông tánh trung trực nghĩa khí, bà tánh đức độ, hiền từ, nhà có phước đức, sẽ thành dòng họ lớn ở phương xa, con cháu có quý tử, nhưng ông bà không được hưởng lộc con, mà theo con hưởng phúc và bảo bọc che chở cho con cháu.

Cụ già dặn tôi “làm vàng ròng, ngọc cho đời, nên bớt sáng”. Đây là chuyện lạ của lời dặn thứ ba. Chuyện lạ đến mức anh hai Hoàng Ngọc Dộ đã quyết chọn Hoàng Kim làm tên gọi cho em từ lớp 10 sau khi cha mẹ mất và toàn gia lưu tán.

CHUYỆN ĐI NHƯ DÒNG SÔNG

Tôi mồ cha mẹ từ nhỏ mất sớm. Thầy Nguyễn Khoa Tịnh khóc trên bục giảng Thầy tăng tôi cuốn sách Trần Hưng Đạo Binh Thư Yếu Lược với lời đề tặng từ tuổi thơ để tôi lưu lại Lời dặn của Thánh Trần và Thầy viết bài thơ Em ơi em can đảm bước chân lên lưu những bài thơ tuổi thơ của chính tôi cho tôi. Tôi được anh trai Hoàng Ngọc Dộ và chị gái Hoàng Thị Huyền bảo bọc cưu mang từ nhỏ khi cha mẹ mất sớm, chị gái Hoàng Thị Huyên đã lấy chồng và anh trai Hoàng Trung Trực dấu chân người lính, bom đạn giữa chiến trường, Tôi gạt nước mắt ra đi, thề trước mộ cha mẹ theo Lời dặn của Thánh Trần với Lời thề trên sông Hóa. Thật xúc động ngày về quê tảo mộ tổ tiên Quảng Bình đất Mẹ ơn Người, trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ.

NGỌC QUAN ÂM AN PHƯỚC

GỐC MAI VÀNG TRƯỚC NGÕ
Hoàng Kim

“Anh trồng gốc mai này cho em!” Anh cả của tôi trước khi mất đã trồng tặng cho tôi một gốc mai trước ngõ vào hôm sinh nhật con tôi. Cháu sinh đêm trước Noel còn anh thì mất lúc gần nửa đêm trăng rằm tháng giêng, trùng sinh nhật của tôi. Anh trò chuyện với anh Cao Xuân Tài bạn tôi trong khi tôi cùng vài anh em đào huyệt và xây kim tỉnh cho anh. Nhìn anh bình thản chơi với các cháu, tôi nao lòng rưng rưng. Chưa bao giờ và chưa khi nào tôi thấm thía những bài thơ về hoa mai cuối mùa đông tàn bằng lúc đó. Anh đi rằm xuân1994 do căn bệnh ung thư hiểm nghèo khi các con anh còn thơ dại.

Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết

Bài kệ “Cáo tật thị chúng” (Cáo bệnh với đệ tử) của thiền sư Mãn Giác (1052 – 1096) trong Thiền Uyển Tập Anh và lời bình của anh về nhân cách người hiền, cốt cách hoa mai đã đi thẳng vào lòng tôi:

Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Trước mặt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai.

(Bản dịch của Ngô Tất Tố)
Khi Lâm Cúc và anh Đình Quang trao đổi về chủ đề hoa mai, mạch ngầm tâm thức trong tôi đã được khơi dậy như suối nguồn tuôn chảy.

Đêm qua sân trước một cành mai

Thiền sư Mãn Giác viết bài kệ “Cáo tật thị chúng” khi Người 45 tuổi, sau đó Người đã an nhiên kiết già thị tịch. Bài thơ kiệt tác vỏn vẹn chỉ có sáu câu, ba mươi tư chữ, bền vững trãi nghìn năm. Đối diện với cái chết, thiền sư ung dung, tự tại, thấu suốt lẽ sinh tử: Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết / Đêm qua sân trước một cành mai.

Lời thơ thanh thoát, giản dị một cách lạ lùng! Thực tế cuộc sống đã được hiểu đầy đủ và rõ ràng. Bản tính cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và luôn vô thường. Xuân đi trăm hoa rụng/ xuân đến trăm hoa cười/ trước mặt việc đi mãi/ trên đầu già đến rồi. Đó là qui luật muôn đời, hoa có tàn có nở, người có diệt có sinh. Hạnh phúc cuộc sống là phong thái luôn vui vẻ và sung sướng, thanh thản và thung dung, không lo âu, không phiền muộn. Sống với một tinh thần dịu hiền và một trái tim nhẹ nhõm.

Tình yêu cuộc sống thể hiện trong ý xuân và trật tự các câu thơ.“Xuân đi trăm hoa rụng/ xuân đến trăm hoa cười” ẩn chứa triết lý sâu sắc hơn là “Xuân đến trăm hoa cười, xuân đi trăm hoa rụng/”. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585) trong bài thơ nôm “Chín mươi” có câu: “Chín mươi thì kể xuân đà muộn/ Xuân ấy qua thì xuân khác còn”. Tăng Quốc Phiên chống quân Thái Bình Thiên Quốc “càng đánh càng thua” nhưng trong bản tấu chương gửi vua thì ông đã quyết ý đổi lại là “càng thua càng đánh”. Việc “đánh thua” thì vẫn vậy nhưng ý tứ của câu sau mạnh hơn hẵn câu trước.

Hoa mai là biểu tượng của mùa xuân, của sự may mắn, vui tươi và trường thọ. Cành mai ẩn tàng thông điệp của mùa xuân. Hoa mai vừa có cốt cách, vừa đẹp thanh nhã, vừa có hương thơm và nở sớm nhất trong các loại hoa xuân. Vì vậy, hoa mai đã được chọn để biểu hiện cho cốt cách thanh cao của người hiền. Hoa mai, hoa đào, hoa lê, hoa mận có nhiều loài với vùng phân bố rộng lớn ở nhiều nước châu Á nhưng chỉ riêng mai vàng là đặc sản của Việt Nam, trong khi mai trắng và hoa đào là phổ biến tại Trung Quốc, Nhật Bản, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc và các nước Trung Á.

Mai vàng hoa xuân của Tết Việt

Mai vàng là đặc sản Việt Nam. Hoa mai, hoa đào, bánh chưng là hình ảnh Tết cổ truyền của dân tộc Việt. Hoa mai là một trong bốn loài hoa kiểng quý nhất (mai, lan, cúc, trúc) của Việt Nam đặc trưng cho bốn mùa. Hoa mai gắn liền với văn hóa, đời sống, tâm linh, triết lý sống, nghệ thuật ứng xử, thơ văn, nhạc họa. Hiếm có loài hoa nào được quan tâm sâu sắc như vậy

“Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh. Đường về vó ngựa dẫm mây xanh. Qua đèo chợt gặp mai đầu suối . Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành” (Hồ Chí Minh 1890-1969); “Đêm qua sân trước một nhành mai” (Mãn Giác 1052-1096) “Lâm râm mưa bụi gội cành mai” (Trần Quang Khải 1241-1294); Ngự sử mai hai hàng chầu chắp/ Trượng phu tùng mấy rặng phò quanh” (Huyền Quang 1254-1334); Quét trúc bước qua lòng suối/ Thưởng mai về đạp bóng trăng” (Nguyễn Trãi 1380-1442); “Cốt cách mai rừng nguyên chẳng tục”( Nguyễn Trung Ngạn 1289-1370); “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” (Nguyễn Du 1765-1820) “Nhờ chúa xuân ưu ái/ Xếp đứng đầu trăm hoa/ Chỉ vì lòng khiêm tốn/ Nên hẵng nở tà tà” (Phan Bội Châu 1867-1940); “Mộng mai đình” (Trịnh Hoài Đức 1725-1825) ; “Non mai rồi gửi xương mai nhé/ Ước mộng hồn ta hóa đóa mai” (Đào Tấn 1845-1907); “Một đời chỉ biết cúi đầu vái trước hoa mai” (Cao Bá Quát 1809-1855) “Hững hờ mai thoảng gió đưa hương” (Hàn Mặc Tử 1912-1940) “Tìm em tôi tìm/ Mình hạc xương mai”(Trịnh Công Sơn 1939-2001),…

Gốc mai vàng trước ngõ. Đường xuân luôn nhớ anh. Cành mai rung rinh quả. Xuân sang lộc biếc cành. … Vườn nhà buổi sáng xuân nay. Nước xao tăm cá, mai đầy nắng xuân. Mẹ gà quấn quýt đàn con. Đất lành chim đậu, lộc xuân ân tình.

MỘT GIA ĐÌNH YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim


Ngày dâng hương tưởng nhớ công ơn Tổ tiên và Mẹ Cha, xem tiếp Một gia đình yêu thương https://hoangkimlong.wordpress.com/category/mot-gia-dinh-yeu-thuong/

MẸ ĐI THANH THẢN CHÚNG CON NHỚ NGƯỜI
Thơ anh Hoàng Trung Trực

Mẹ đi về chốn vĩnh hằng
Quên đi bao nỗi nhọc nhằn Mẹ ơi
Thế là Mẹ đã xa rồi
Vành khăn tang thấm nghĩa đời chúng con

Tháng ngày lời Mẹ chẳng còn
Mẹ đi thanh thản, chúng con nhớ người
Gần trăm năm sống với đời
Biết bao gian khổ cuộc đời Mẹ lo

Có ngày cơm chẳng đủ no
Vầng trăng trí tuệ Mẹ lo chu toàn
Cho con khôn lớn bình an
Vượt lên số mệnh, hiên ngang với đời

Kiến thức khoa học sáng ngời
Hiền tài giúp nước, giúp đời Mẹ ơi!

VIẾNG MỘ CHA MẸ
Thơ anh Hoàng Trung Trực

Dưới lớp đất này là mẹ là cha
Là khởi phát đời con từ bé bỏng
Là lời mẹ ru dịu dàng cánh võng
Là gươm đao cha một thuở đau đời

Hành trang cho con đi bốn phương trời
Là nghĩa khí của cha, là nhân từ của mẹ
Vẫn bầu sữa tinh thần không ngừng không nghỉ
Để hành trang cho con đi tiếp cuộc đời

Cuộc đời con bươn chãi bốn phương trời
Nay về lại nơi cội nguồn sinh trưởng
Dâng nén hương mà lòng hồi tưởng
Thuở thiếu thời dưới lồng cánh mẹ cha

“Ước hẹn anh em một lời nguyền
Thù nhà đâu sá kể truân chiên
Bao giờ đền được ơn trung hiếu
Suối vàng nhắm mắt mới nằm yên”.

MỘT GIA ĐÌNH YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim

Tổ tiên công đức muôn đời thịnh
Con cháu thảo hiền vạn kiếp vinh
Hà Nội Đồng Nai hai bầu sữa
Hoàng Trần Lê Nguyễn một con đường
Cậu Mẹ chở che tròn Nam Bắc
Anh Em thân thiết suốt tháng năm
Làng Minh Lệ quê tôi Hoa Đất
Quảng Bình đất Mẹ ơn Người

MỪNG ĐÓN CẬU MẸ
Thơ em Nguyễn Hữu Khánh


Lòng Cậu Mẹ mênh mông như trời rộng
Phủ ấm cháu con suốt cả một đời
Và ngay cả khi Cậu Mẹ đã về Trời 🙏

Tròn 10 năm Cậu vân du * cùng Mẹ
Trong tâm tưởng con Cậu Mẹ vẫn về đây
Về với cháu con trong những dịp sum vầy
Như hôm nay, ngày gia đình họp mặt.

Trong vấn vít khói hương trầm thơm ngát
Con thấy Cậu vui, mắt miệng cùng cười
Bỏm bẻm nhai trầu như thường thấy trong đời
Mẹ ngồi đó nhìn cháu con trìu mến.

Con lại thấy ký ức xưa hiện đến
Chủ nhật cả nhà bên nồi canh chua đầu cá thật “to”
“Đặc sản” nhà mình thường là đầu, thủ, chân giò
Những thực phẩm ít gia đình muốn lấy
Nhưng nhà mình đông con, biết sao, đành vậy
Lấy loại nhiều xương khối lượng được nhân đôi
Nhọc nhằn nuôi 4 con khôn lớn thành người.

Khó khăn vượt qua rồi
Mong Cậu Mẹ giờ chỉ còn thanh thản tiếng cười
Nhà mình vững vàng hơn
Luôn mừng đón Cậu Mẹ về thăm
Các cháu con gắng học giỏi, làm chăm
Để thêm nhiều niềm vui dâng Cậu Mẹ.

Làn khói trầm vẫn vờn bay nhè nhẹ
Tỏa hương thơm ngan ngát trong nhà./.

* Vân du tiên cảnh cõi VĨNH HẰNG
Giỗ Cậu lần 10 – 10/10/2020 AL
Giỗ Mẹ Liên 4 -7 AL (nhằm ngày 11/8/2021)
Giỗ Mẹ Giản (chị ruột mẹ Liên) ngày 3 -1 Tết AL (Canh Thìn 1963)
Giỗ Cụ (chồng mẹ Giản) bị bom Mỹ giết hại ngày 29 -8 Mậu Thân AL (1968)

Một gia đình yêu thương. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/mot-gia-dinh-yeu-thuong/ Ngày nhớ Mẹ kính yêu, con hội thảo quốc tế trực tuyến, thông tin và Nhớ Mẹ https://hoangkimvn.wordpress.com/2021/08/11/day-va-hoc-11-thang-8/

Nam Nguyen đang cảm thấy biết ơn cùng Nguyen Chien Thang10 người khác.

Mẹ tôi …. Nếu trên thế gian này có những người Phụ nữ sinh ra là để hy sinh tất cả cho Chồng, cho Con – thì một trong số đó là Mẹ tôi. Sự hy sinh vô bờ bến và không đòi hỏi, không điều kiện gì cả với Chồng, với các con. Chúng tôi lớn lên dưới sự chở che của Mẹ, không bị thúc ép về học hành, không bị yêu cầu phải là con ngoan, trò giỏi. Trong sự bao dung không lời của Mẹ, chúng tôi đọc được, hiểu được mình phải lớn lên, phải trưởng thành như những người có ích là việc đương nhiên. Mẹ dạy chúng tôi tính nhẫn nại, sự quan tâm đến người khác, tinh thần trách nhiệm với công việc, với mọi người xung quanh …. Tôi nhớ mãi thời những năm 70-80 thế kỷ trước, mặc dù để lo cho 4 cậu con trai tuổi ăn, tuổi ngủ là vô cùng vất vả. Nhưng Mẹ vẫn vui vẻ đón tiếp các cháu họ hàng từ quê hương ra học tập / công tác ở Hà Nội (Quê tôi ở Quảng Bình). Giữa Hà Nội (Hồ Đống Đa), mà cả nhà phải trồng rau muống & chăm lợn để có thêm thực phẩm cho GIa đình, nhưng Mẹ chưa bao giờ phàn nàn khi đón tiếp các cháu, con ở xa về. Nhà tôi luôn là trạm đón tiếp nhiệt tình & trung tâm của Họ hàng tại Hà Nội. Không ngần ngại khi chia sẽ cân gạo, gói quà cho hàng xóm, láng giềng xung quanh. Chúng tôi tự hào khi Bà con chòm xóm trường Nguyễn Ai Quốc X đều thể hiện sự yêu quý mỗi khi nói về Bà. Các cháu họ hàng thì luôn yêu quý, kính trọng Bà. Có thể chính vì vậy, mà cuộc sống của 4 AE tôi cũng được hanh thông hơn. Cổ nhân có câu “Phúc Đức tại Mẫu”, chắc là vậy.Mẹ tôi có mong ước lớn là có được 1 cô con gái, nhưng may mắn thay 😀, đứa em sau tôi lại là … con trai. Chú Thắng, để sau này tôi còn có thằng em để huấn luyện đánh nhau. Vì oánh lại các ông Anh là không lại được. Mẹ luôn để AE tôi tự xử, tự sắp đặt trật tự quyền lực trong 4 AE. Và chúng tôi đã sống vui, sống khỏe trong hòa bình mà không cần sự can thiệp của Bố Mẹ. Chúng tôi rất ân hận vì không được là con gái để chăm sóc Mẹ chu đáo hơn. Đặc biệt, mỗi khi Mẹ ốm là 4 ông con lộc ngộc cứ đi vòng quanh hỏi han, chứ không chải tóc, bóp chân bóp tay cho Mẹ như con gái được. Để bù đắp cho Mẹ, mấy AE tôi quyết định chỉ cần Bác cả đẻ con trai (nối dõi tông đường), còn 3 AE mỗi thằng 2 cô con gái cho Mẹ vui lòng 😘 Chúng tôi biết rằng dù lớn đến đâu, ở cương vị nào trong xã hội, thì đối với Mẹ chúng tôi vẫn luôn bé nhỏ như ngày nào….Với các con dâu, Mẹ tôi đối xử bình đẳng và luôn bênh các con dâu so với con trai. Có thể Văn hoá ứng xử mỗi nhà mỗi khác, nhưng Mẹ tôi luôn lấy sự ấm cúng làm trọng, nên Bà không bao giờ bắt bẻ con dâu. Cái gì bỏ qua được là bỏ qua. Lấy cái lớn làm trọng. Mặt khác, có lẽ Mẹ tôi đã thấy trước là khi Mẹ nằm xuống thì với bản tính hiền lành, bao dung AE chúng tôi cũng nhường quyền quản lý gia đình cho Vợ…. 😀Mẹ tôi khi thanh niên là 53 kg. Mà sau khi sinh, chăm sóc 4 đứa con trưởng thành và về già thì còn có 36 kg. Hình ảnh Bà lúc gần 80 tuổi, bỏm bẻm nhai trầu. quan sát chỉ đạo chị giúp việc chăm sóc Chồng cứ đọng mãi trong tôi. Thỉnh thoảng Bà còn ra ngồi quán Bia hơi ở Chợ Thái Hà nhâm nhi cốc Bia. Bà chỉ uống 1 cốc thôi. Hỏi thì Bà nói để xem XH có gì thay đổi, mới không. Có lẽ tôi hay đi nhậu với bạn bè cũng là do….. di truyền Xin được kính cẩn thắp nén nhang nhớ về Mẹ nhân ngày Giỗ thứ 17 giữa mùa Covid !(4/7/2004-4/7/2021)

hoangkimhonoi
nguyenhuuminh1

TIỄN EM VÀO TRẬN ĐÁNH
Hoàng Kim
gửi Chiến Thắng

Tiễn em vào trận đánh
Tím một trời yêu thương
Chợt gặp mai đầu suối
Đêm mai là trăng rằm

Ngày mới lời yêu thương
Người vịn trời chấp sói
Ngôi sao mai chân trời
Giấc mơ lành yêu thương

Tiễn em vào trận đánh

MỘT NẾP NHÀ VĂN HÓA
Hoàng Kim

Một gia đình yêu thương
Một nếp nhà văn hóa
Một niềm vui ngày mới
Thung dung giữa đời thường
Ngày của em thật đẹp
Minh triết Hồ Chí Minh

GIẤC MƠ LÀNH YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim

nhắm mắt lại đi em
để thấy rõ giấc mơ hạnh phúc
trời thanh thản xanh
đêm nồng nàn thở
ta có nhau trong cuộc đời này
nghe hương tinh khôi đọng mật
quyến rũ em và khát khao anh
mùi ngây ngất đằm sâu nỗi nhớ
một tiếng chuông ngân
thon thả đầu ghềnh

nhắm mắt lại đi em
hạnh phúc đâu chỉ là đích đến
hạnh phúc là con đường trãi nghiệm
vỗ về, chờ đợi, nhớ thương

nhắm mắt lại đi em
trong giấc mơ của anh
có em và rừng thiêng cổ tích
có suối nước trong veo như ngọc
có vườn trúc và ngôi nhà tranh
có một đàn trẻ thơ tung tăng
heo gà chó mèo ngựa trâu
nhởn nhơ trên đồng cỏ
tươi xanh.

nhắm mắt lại đi em,
tận hưởng thú an lành.

LINH GIANG SÔNG QUÊ HƯƠNG
Hoàng Kim

Nhà mình gần ngã ba sông
Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình
Linh Giang sông núi hữu tình
Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con.

“Chèo thuyền qua bến sông Son
Để con khỏi chộ nước non thêm buồn”
Câu thơ quặn thắt đời con
Mẹ Cha mất sớm con còn trẻ thơ.

Ra đi từ bấy đến chừ
Lặn trong sương khói bến đò sông quê
Ngày xuân giữ vẹn lời thề
Non sông mở cõi, tụ về trời Nam.

NhoMeCha

CẦU TRỜI NỐI MẸ CHA XƯA
Hoàng Kim

Cầu trời nối mẹ cha xưa
Mưa dày thấm đất nắng thưa thấu trời
Lời thương giao cảm lòng người
Ngày Cha Mẹ suốt trọn đời trong con.

NẾP NHÀ ĐẸP VĂN HÓA
Hoàng Kim


“Nhân hậu thói nhà in một nếp / Chân chính bao nhiêu phúc bấy nhiêu”/ Một gia đình yêu thương/ Nếp nhà đẹp văn hóa/ Hoa Đất thương lời hiền / Nhà Trần trong sử Việt / Mạc triều trong sử Việt/ Nhớ Ông Bà Cậu Mợ / Trăng rằm sen Tây Hồ/ Trăng rằm vui chơi giăng. Nếp nhà là thói quen của một gia đình. Nguyễn Trãi có câu “Nên thợ, nên thầy nhờ có học/ No ăn, no mặc bởi hay làm”. Làm và Học là hoạt động sống cơ bản của con người để đáp ứng nhu cầu tối thiểu ăn mặc, yêu đương, nhà ở, đi lại, chăm sóc sức khỏe và chất lượng cuộc sống. Nếp nhà xét cho cùng là sự bảo tồn phát triển tự do của mỗi cá nhân gia đình và dòng họ. Soi thấu gia tộc là soi vào văn hóa lịch sử của sự kế thừa, phát triển và biến đổi.

Danghuong

Lời dặn của Thánh Trần

Tâm cơ của nếp nhà. Vạn Kiếp tông bí truyền thư của Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương, tác phẩm này còn gọi là Vạn Kiếp binh thư đã thất truyền.Bài tựa của Trần Khánh Dư trong cuốn sách này giải thích bí truyền đại sư là người thế nào: “Phàm người khéo cầm quân thì không cần bày trận, khéo bày trận thì không cần giao chiến, khéo giao chiến thì không thể thất bại, khéo thất bại thì không thương vong. Xưa kia, Cao Dao làm chức sĩ sư mà mọi người không dám trái mệnh, Văn Vương và Vũ Vương nhà Chu là bậc thầy về văn và về võ, ngấm ngầm sửa đức để khuynh loát quyền bính của nhà Thương mà lấy nghiệp vương. Đó đều có thể gọi là những người giỏi cầm quân, không cần bày trận vậy. Vua Thuấn múa lá mộc và lông trĩ mà họ Hữu Miêu tự mình tìm đến, Tôn Vũ nước Ngô đem mỹ nhân trong cung thử tập trận mà phía tây phá nước Sở hùng cường, phía Bắc ra uy với nước Tần nước Tấn, nổi tiếng khắp chư hầu. Đó đều có thể gọi là những người giỏi bày trận, không cần giao chiến vậy. Cho đến Mã Ngập nước Tấn dựa vào bát trận đồ chuyển đánh nghìn dặm, phá được Thụ Cơ Năng mà lấy lại Lương Châu. Thế gọi là người giỏi giao chiến không bao giờ thất bại vậy.Cho nên, trận nghĩa là bày ra, là khéo léo. Ngày xưa, vua Hiên Viên lập ra phép “tỉnh điền” để đặt binh chế, Gia Cát Lượng xếp đá bên sông để làm bát trận, Vệ công sửa lại làm trận Lục Hoa, Hoàn Ôn định ra trận Xà Thế, trước sau đều có trận đồ nổi tiếng, trình bày tuần tự, thành phép tắc rõ ràng. Nhưng người đương thời ít ai thông hiểu, muôn vàn đầu mối nhìn vào dường như rối loạn, chưa từng nắm được lẽ biến dịch bên trong. Ví như những phép tắc và suy luận của Lý Thuyên, người sau không ai hiểu nghĩa là gì. Vì thế, Quốc công ta bèn so sánh, kê cứu trận đồ và binh pháp của các nhà, tổng hợp lại thành một bộ sách. Tuy chép cả những điều chi tiết, nhưng người sử dụng thì nên bỏ bớt những chỗ rườm, tóm lấy thực chất. Rồi lấy năm hành ứng với nhau, chín cung câu với nhau, phối hợp cương và nhu, xoay vần chẵn và lẽ, không làm hỗn loạn âm dương và thần sát, phương lợi và sao tốt, hung thần và ác tướng, ba cát và năm hung, việc nào việc ấy thực phân minh rõ rệt. Quốc công lại còn thêm bớt với chiến thuật của thời Tam đại, nhờ đó trăm trận trăm thắng. Cho nên đương thời phía bắc làm cho Hung Nô phải sợ, phía tây làm cho Lâm Ấp phải kinh. Rồi ông đem sách này dạy bảo con em làm gia truyền, không tiết lộ cho người ngoài biết. Lại có lời dặn rằng: “Sau này con cháu và bề tôi phò tá của ta có học được bí thuật này thì nên lấy đầu óc sáng suốt, linh hoạt mà thực hành và sắp đặt nó, chứ không nên lấy đầu óc cứng nhắc, tối tăm mà cất giữ và lưu truyền. Nếu trái điều đó thì sẽ mang vạ vào thân, lại hại lây đến cả con cháu. Đó gọi là tiết lậu cơ trời vậy.” Bài tựa của Trần Khánh Dư cho Vạn Kiếp tông bí truyền thư, còn như sách Binh thư yếu lược mà người đời ngờ rằng bản thật đã bị cướp và thất lạc, đời sau chỉ có chân truyền lời này. Chùa Thắng Nghiêm (Hà Nội) nơi Trần Hưng Đạo lúc nhỏ tu học, là nơi Người hiển thánh. Ôi, đọc lại “Binh Thư Yếu lược” “Hịch Tướng Sĩ Văn” và Vạn Kiếp tông bí truyền thư, soi gương kim cổ, lắng nghe cuộc sống, đọc lại lời răn dạy nếp nhà là để biết sửa lỗi mình; Lời dặn của Thánh Trần

Ngày xuân đọc Trạng Trình

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm nói về phép xử thế của bậc hiền minh thuở thời thế nhiễu loạn, vàng lầm trong cát: ”Đạo trời đất là Trung Tân, vẹn toàn điều Thiện là Trung, không vẹn toàn điều Thiện thì không phải là Trung. Tân là cái bến, biết chỗ dừng lại là bến chính, không biết chỗ dừng lại là bến mê. Nghĩa chữ Trung chính là ở chỗ Chí Thiện.Trung Tân quán bi ký, 1543). Đạo ở mình ta lấy đạo trung/ Chớ cho đục, chớ cho trong (Thơ chữ Nôm, Bài số 104) Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn, người đến chốn lao xao (Thơ chữ Nôm, Bài số 79). Làm việc thiện không phải vì công tích mà ở tấm lòng. Nay vừa sau cơn loạn lạc thì chẳng những thân người ta bị chìm đắm, mà tâm người ta càng thêm chìm đắm. Các bậc sĩ đệ nên khuyến khích nhau bằng điều thiện, để làm cho mọi người dấy nên lòng thiện mà tạo nên miền đất tốt lành. (Diên Thọ kiều bi ký, 1568) An nhàn, vô sự là tiên (Sấm ký)”. Người đời sau luận chuyện Lão Tử ‘dạy’ Khổng Tử: “Ngươi cứ nhìn vào trời đất mà hiểu Đạo của ta. Kìa, có trời thì có đất, có núi thì có sông, có cao thì có thấp, có dài thì có ngắn, có cương thì có nhu, có rỗng thì có đặc, có sáng thì có tối, có thẳng thì có cong… Mọi thứ đang dịch chuyển trong sự biến hóa vô cùng. Tự nhiên tự do nhưng có trật tự và cái lí của nó. Cao thì xa, thấp thì gần, dài thì yếu, ngắn thì mạnh, cương thì gãy, nhu thì dẻo, rỗng thì âm to, đặc thì câm. Mọi thứ trong trời đất gắn kết được nhờ khác biệt, không có chuyện giống nhau mà hợp lại được với nhau“. xem tiếp Ngày xuân đọc Trạng Trình

Phúc hậu thói nhà in một nếp

Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, thanh thản, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm. Hoàng Kim đúc kết tóm tắt về nếp nhà đẹp văn hóa xây dựng gia đình hạnh phúc, cần có phúc ấm gia đình với trí tuệ phúc hậu, minh triết, tận tâm, làm việc tự ý cẩn thận, lời nói là năng lực, im lặng là trí tuệ.  Cụ Hoàng Giáp Nguyễn Khắc Niêm (trong sách Hoàng Niêm đất Hương Sơn, Nhà Xuất bản Thuận Hoá, năm 2007) là cha ruột của những người con danh tiếng GS Nguyễn Khắc Dương, GS Nhà văn hoá Nguyễn Khắc Viện, GS Nguyễn Khắc Phi, Nhà văn Nguyễn Khắc Phê, nhà giáo Nguyễn Thị Dư Khánh, qua bài viết “Cụ Hoàng Giáp dạy con” của Vu Gia đã chúng ta thấy nét đẹp văn hóa của một gia đình hạnh phúc. GS. Hoàng Ngọc Hiến có bài bình giảng rất hay về nếp nhà Nên thợ, nên thầy” “No ăn, no mặc”. Ông Lê Quang Nhung ở Bến Tre có bài “Giữ lại nếp nhà” đã trao đổi thật thấm thía “Nếp nhà là cái ở sâu trong trái tim ta, là gốc rễ của con người nhưng do mải mê với cuộc sống, nhiều khi ta quên mất. Rất đồng tình với ai đó: Xã hội là nơi cho cá nhân phát triển, còn gia đình là nơi cá nhân hình thành tính cách, tâm hồn, tư duy, tài năng, đạo đức của con người. Vì vậy, xây dựng môi trường văn hóa từ gia đình phải là một mắc xích quan trọng trong quá trình giáo dục tính cách, tình cảm, tâm hồn, đạo đức, đặc biệt là cho giới trẻ. Tu được thân mới “tề gia”, rồi đến “trị quốc”, sau cùng là “bình thiên hạ”. Sắp xếp theo trình tự như vậy cũng có cái lý của người xưa.” Nhà văn Nguyễn Khải có bài viết “Nếp nhà” nói rõ quan niệm gia đình hạnh phúc qua lời kể của một bà cụ phúc hậu “Theo bà cụ, thời bây giờ có được vài trăm cây vàng không phải là khó, cũng không phải là lâu, nhưng có được một gia đình hạnh phúc phải mất vài đời người, phải được giáo dục vài đời. Hạnh phúc không bao giờ là món quà tặng bất ngờ, không thể đi tìm, mà cũng không nên cầu xin”. Bài này là suy nghiệm cá nhân về nếp nhà đẹp văn hóa

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là hoangthuccanh-29-6-1987.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là hoang-thuccanh-2.jpg

Hoàng Kim kính mừng thọ cậu Hoàng Thúc Cảnh vượt một trăm tuổi, cháu xin kể một mẫu chuyện nhỏ ân tình đã tạo nên sự đoàn tụ của Hoàng Gia như ngày nay : Năm 1977, cậu Hoàng Thúc Cảnh đã lên Đồn Lương, Việt Yên, Hà Bắc của Trường Đại học Nông nghiệp II Hà Bắc gặp thầy Hoàng Sỹ Oánh là Hiệu trưởng đầu tiên của Trường và nói: “Xin quý Thầy cho cháu Kim được chuyển trường vào Đại học Nông nghiệp 4 thành phố Hồ Chí Minh. Cháu Kim mồ côi cha mẹ từ nhỏ, cha bị bom Mỹ giết hại. Anh Trực của cháu trận mạc từ rất sớm và Kim đã xung phong nhập ngũ năm 1971 từ Trường Thầy. Cháu học giỏi lại trãi chiến đấu, nay được quý thầy quy hoạch học tập đào tạo ở Trường là thật mừng, nhưng mong quý Thầy chiếu cố hoàn cảnh của cháu thật thương tâm, trước đây cơm ngày một bữa suốt năm năm, nay anh em lưu tán. Gia đình ao ước lớn nhất là được tụ họp sau chiến tranh. Anh biết rõ tánh tôi ở gần gũi Bác Hồ và cụ Đồng, trọng tánh của các cụ mà chưa hề phiền lụy ai, nhưng riêng việc này nhờ anh chiếu cố cho cháu xin chuyển trường“. Thầy Đỗ Ánh Phó Hiệu trưởng và thầy Võ Hùng Trưởng Khoa Nông học đều cảm động và đồng tình. Hoàng Kim được chuyển trường khiến sau này cả gia đình chúng tôi có được cơ hội đoàn tụ đất phương Nam đó là nhờ đức nhân hậu, lòng yêu thương và tầm nhìn sáng suốt.

ĐỀN NGỌC SƠN HỒ GƯƠM
Minh Sơn Hoàng Bá Chuân

Tô điểm Hà Thành một hạt châu
Ấy hồ Lục Thủy tiếng từ lâu
Trăng vờn cổ thụ mây lồng nước
Tháp hướng trời xanh gió lộng cầu
Kiếm bạc hưng bang rùa vẫn ngậm
Bút son kiến quốc hạc đương chầu
Trùng trùng lá biếc hoa phơi gấm
Kìa tượng Vua Lê chót vót cao

1966
(Đã in trong tuyển tập Ngàn năm thương nhớ
NXB Hội Nhà Văn xuất bản năm 2004 nhân kỷ
niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội)

HÀ NỘI MÃI TRONG TIM
Hoàng Kim

Đền Ngọc Sơn Hồ Gươm
Hoàng Thành ngọc cho đời
Tháp Bút viết trời xanh
Trăng rằm sen Tây Hồ

TỰ VỊNH VƯỢT BÁT TUẦN
Minh Sơn Hoàng Bá Chuân


Bát tuần đã trãi việc đời nhiều
Chân chính bao nhiêu phúc bấy nhiêu
Nhân hậu thói nhà in một nếp
Trung kiên việc nước đủ trăm chiều
Lòng son phơi phới vầng trăng dọi
Tóc bạc phơ phơ ngọn gió phiêu
Hôm sớm sân Lai (*) thêm sắc mới
Sum vầy con cháu tiếng vui reo !

Tưởng nhớ ngày của Ông 24 4 âm lịch; Hồn chính khí bốc lên ánh sáng, sáng choang ngoc đá giữa hoang tàn. Tâm nhân văn lắng đọng tinh hoa, hoa Đất hoa Người trong cõi Bụt. xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nho-ong-ba-cau-mo/:

HOÀNG THÚC CẢNH THƠ TRĂM TUỔI
cảm xúc sau buổi liên hoan
mừng thọ 100 tuổi


Hôm nay mười một tháng tư
Biết bao kỷ niệm được ghi trong lòng
Các em khắp cả Tây Đông
Cháu chắt Nam Bắc quây quần bên nhau
Chúc cho còn được sống lâu
Nhiều lần gặp nữa biết đâu mà lường
Nghe lời chúc cũng động lòng
Thương người còn sống , nhớ người đã xa
Cuộc đời nghĩ thật bao la
Nhờ ơn Tiên Tổ cao xa đỡ đầu
Mỗi lời ước hẹn ghi sâu…

Hoàng Thúc Cảnh

Một trăm năm hiếu nghĩa vẹn toàn
Mười thập kỷ chính trung kiên định


Cậu Hoàng Thúc Cảnh 102 tuổi (2022), là Lão thành cách mạng, nguyên Cố vắn Văn phòng Chính phủ, huy hiệu 75 năm tuổi Đảng. Cậu Hoàng Gia Cương kính tặng anh ruột

NHỚ ÔNG BÀ CẬU MỢ
Hoàng Gia chi Phương Nam
kính mừng Ông Bà Cậu Mợ

Minh Lễ thái hòa Minh Lệ đây
Lời vàng bóng hạc lắng thơ hay
“Tổ tiên công đức muôn đời thịnh
Con cháu thảo hiền vạn kiếp vinh”
“Mạc tộc dựng xây thiên kỷ tạc.
Hoàng gia bồi đắp vạn đời ghi”

Chân thiện mỹ đức dày tâm sáng
Phước lộc thọ trí huệ anh minh.

(*) Kim Notes lắng ghi chú Một gia đình yêu thương:Hoàng chi Mạc tộc có cụ Minh Sơn Hoàng Bá Chuân và cụ Nguyễn Thị Như Đồng sinh được bảy người con trai nay có các cụ lão thành Hoàng Thúc Cảnh, Hoàng Thúc Cẩn, Hoàng Thúc Tấn, Hoàng Quý Thận, Hoàng Gia Cương hẵn có biết thông tin liên quan. Chuyện về vua Hàm Nghi rất cần một chuyên khảo để thấu hiểu sâu sắc Việt Nam vận mệnh đất nước ở thời khắc lịch sử ấy. “Bông sen vàng” tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Sơn Tùng, Nhà Xuất bản Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh V23/VN99/ 25/1241-99, từ trang 35 đến trang 99 đã lưu dấu những ẩn ngữ sự thật lịch sử quý giá ấy nhưng tiếc là chưa được giải mã đầy đủ. Làng Minh Lệ quê tôi Đất Mẹ vùng di sản có nhiều trầm tích lịch sử văn hóa về Nam /Bắc Bố Chánh của xứ Nghệ và xứ Thuận Hóa, Cao Biền trong sử Việt; Đá Đứng chốn sông thiêng, Nguồn Son nối Phong Nha; Bến Lội Đền Bốn Miếu, huyền tích Mạc Cảnh Huống, huyền thoại làng Trần thời hoàng hậu ở lại khi vua Trần Dụ Tông chết trận,.và bao chuyện khác của Quảng Bình đất và người; Bao nhân chứng và chứng tích lịch sử thời vua Hàm Nghi, Thành Thái và Duy Tân để hiểu sâu sắc thêm bài thơ “Tưởng niệm” của Nguyễn Duy:”Mặt trời vẫn mọc đằng đông/ lăng minh quân vẫn dựng trong lòng người /bao triều vua phế đi rồi /người yêu nước chẳng mất ngôi bao giờ…Lớp hậu sinh thật lòng muốn được nghe chuyện kể … Chuyện về vua Hàm Nghi https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-ve-vua-ham-nghi

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 2017-10-12_nepnhavanetdepvanhoa3.jpg

Bát tuần tự vịnh
Minh Sơn Hoàng Bá Chuân


Bát tuần đã trãi việc đời nhiều
Chân chính bao nhiêu phúc bấy nhiêu
Nhân hậu thói nhà in một nếp
Trung kiên việc nước đủ trăm chiều
Lòng son phơi phới vầng trăng dọi
Tóc bạc phơ phơ ngọn gió phiêu
Hôm sớm sân Lai (*) thêm sắc mới
Sum vầy con cháu tiếng vui reo !

Mai trắng tóc người cũng trắng trong
Đường trần lên thấu đỉnh cao phong
Hoàng gia Mạc tộc ngời tâm đức
Lối hẹp đường cong chẳng thẹn lòng

Mạc triều trong sử Việt.

Năm 1592 Cao Bằng thất thủ vì sự công phá của nhà Lê Trịnh. Hậu duệ nhà Mạc ngày nay sau 429 năm ghi nhớ lời dặn trăng trối sau cùng của Mạc Ngọc Liễn’ tại quốc sử Việt “Nay khí vận nhà Mạc đã hết, họ Lê lại trung hưng, đó là số trời. Dân ta là người vô tội mà khiến để phải mắc nạn binh đao, ai nỡ lòng nào! Chúng ta nên lánh ra ở nước khác, nuôi dưỡng uy lực, chịu khuất đợi thời, chờ khi nào mệnh trời trở lại mới làm được, chứ không thể lấy lực chọi với lực. Khi hai con hổ tranh nhau, tất phải có một con bị thương, không có ích gì cho công việc. Nếu thấy quân họ đến đây thì chúng ta nên tránh đi, chớ có đánh nhau với họ, cốt phòng thủ cẩn thận là chính; lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng”. Tác giả Trần Gia Phụng trong bài viết: “Những cuộc đổi họ lớn trong lịch sử” nhận xét “Đây không phải lời nói suông trong cảnh trà dư tửu hậu, nhưng đây là tâm huyết của một con người sắp nằm xuống trong cơn hoạn nạn cùng cực vì mất nước. Suốt trong lịch sử Việt Nam, chúng ta thường được nghe những lời nói của Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng, Đặng Dung, hào hùng như vó ngựa tổ tiên, nhưng ít khi được đọc những dặn dò như Mạc Ngọc Liễn – nhân bản, đầy tình tự dân tộc không khác gì lời ru êm ái trong những câu ca dao mộc mạc”. Tỉnh Cao Bằng ngày nay có làng Đà Quận ở xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, từ thời Mạc đến nay hàng năm đều có Lễ hội chùa Đà Quận từ ngày 9 âm lịch đến rằm Nguyên tiêu tháng Giêng hàng năm để tảo mộ tổ tiên và dâng hương tưởng nhớ. Cao Bằng là đất sau cùng của nhà Mạc tiếp tục tồn tại hơn 100 năm sau khi nhà Mạc không còn triển vọng phục quốc mới nhập vào đất nhà Hậu Lê. Làng Đà Quận là làng dân Mạc theo hương linh Đà Quận Công Mạc Ngọc Liễn. Nhà Mạc tuân theo di nguyện của Mạc Ngọc Liễn danh tướng thái phó vua Mạc là không bao giờ vì dòng họ mình mà nồi da xáo thịt đưa ngoại viện vào giày xéo non sông. Mạc tộc lúc kế cùng lực kiệt đã đổi họ Mạc thành họ khác và lưu tán khắp mọi nơi trong cả nước, trong đó có Hoàng chi Mạc tộc Làng Minh Lệ và cho đến nay có Hoàng chi Mạc tộc đất phương Nam cũng là những người con xa xứ.

Chuyện cổ tích người lớn

Nam tiến của người Việt là liên minh giữa chúa Nguyễn Hoàng với Mạc Cảnh Huống, giữa chúa Nguyễn Phúc Nguyên và hoàng hậu Mạc Thị là những uẩn khúc lịch sử chưa thể viết rõ. “Người trồng cây hạnh người chơi, Ta trồng cây đức để đời về sau” Trong 8 đời chúa Nguyễn, không thấy ông nào làm điều gì thất đức. Ông nào cũng lo làm cho dân giàu nước mạnh. Lịch sử cuộc Nam tiến đi từ Phú Yên đến Cà Mau-Châu Đốc chứng minh điều đó. Hậu thế đã được thừa hưởng biết bao phúc lợi từ sự nghiệp Nam tiến đó..Có 3 ông chúa mang danh hiệu khác người: Chúa Sãi, chúa Hiền, chúa Ngãi. Nghe nôm na và thân tình biết mấy. Nếu cai trị mà không được dân thương mến và biết ơn  thì làm chi có những cách gọi kém vương giả nhưng giàu tình cảm như thế? Có đến 4 ông chúa, ngoài tên và vương hiệu, lại tự xưng là đạo nhân, như Thiên Túng đạo nhân (chúa Minh Nguyễn Phúc Chu), Vân Tuyền đạo nhân (chúa Ninh Nguyễn Phúc Thụ) hay Từ Tế đạo nhân (Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát), Khánh Phủ đạo nhân (Định Vương Nguyễn Phúc Thuần). Đó cũng là một nét đặc biệt. Nhiều ông chúa xây chùa (chúa Tiên lập chùa Thiên Mụ, Long Hưng, Bảo Châu, Kính Thiên; chúa Hiền lập chùa Túy Vân) hay  trùng tu chùa, đúc chuông, thỉnh sư giảng Pháp (chúa Minh).  Có lẽ nhờ biết tu nhân tích đức mà Đức năng thắng số, Số bất cập đức nên  tai qua nạn khỏi, như câu tục ngữ mà ông bà xưa thường nói để dạy khôn cho con cháu: Trời hại mới lo, người hại như phấn nhồi. Đó là nói nôm na, cho có vẻ chính xác và minh triết hơn thì đấy chính là nhân quả nghiệp báo”.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 1b-cac-cau-cua-bakim.jpg

Hoàng chi Mạc tộc làng Minh Lệ

Cụ Hoàng Bá Chuân, bố của bảy người con trai ở câu chuyện “Cuộc đoàn tụ bất ngờ của 5 anh em ngày giải phóng thủ đô“ là em ruột của bà ngoại tôi .Cậu ruột mẹ tôi, cụ Hoàng Bá Chuân, là dòng chính Hoàng chi Mạc tộc trong câu chuyện nêu trên. Cụ thường giáo huấn con cháu về nếp nhà phúc hậu văn hóa, và đã trao lại di thư: “Nhà tôi sinh được bảy người con/ Quyết chí chung tình với nước non/ Kháng chiến năm con đi khắp nước/ Lớn lên trai bé sẽ xung phong…” Cậu Cương ngọc trai bé của ông tôi, sau này cũng vào bộ đội Trung đoàn Thủ Đô (E102) Sư đoàn Quân Tiên phong (F308). Cậu Cương dần dà theo trọn đời nghề làm kỹ thuật vô tuyến điện nhưng cái nghiệp lắng đọng lại là thơ, theo dòng thời gian thao thức một tầm nhìn nhân văn sâu sắc, tài hoa, với một gia đình hạnh phúc, nếp nhà phúc hậu và văn chương đích thực. Hoàng chi Mạc tộc Làng Minh Lệ có một thuở đã lạc vào tai ách “Phố cụt”. Thật may mắn trước “Phố cụt” đã có “Phố khuya” để kịp bình tâm suy ngẫm, và sau “Phố cụt” “cùng tắc biến” là “Phố nối” hóa giải “Phố cụt”, tiếp “Phố cong Tam Đảo” và xuống đến đời thường “Đi trên phố nhỏ” bình yên của một vòng tròn nhân quả. Tôi đã tâm đắc để viết nên bài thơ “Thời gian lắng đọng người hiền.” trong buổi sáng cuối thu cà phê sáng với CNM365

Đi tìm lịch sử bị quên lãng

Nam tiến của người Việt có sự liên minh giữa chúa Nguyễn Hoàng với viên phúc tướng Mạc Cảnh Huống, giữa chúa Nguyễn Phúc Nguyên và hoàng hậu Mạc Thị là những uẩn khúc lịch sử chưa thể viết rõ. Lại.nhớ đến Vua Hàm Nghi và ông Nguyễn Thạc và chuyện Bà Đen Bài ca thời gian. Lịch sử Việt do sự chi phối của những yếu tố tất nhiên và ngẫu nhiên mà tạo nên bước ngoặt quyết định, đó âu là duyên nghiệp số phận của dân tộc liên quan cá nhân. Vua Hàm Nghi  tên thật là  Nguyễn Phúc Ưng Lịch hay là Nguyễn Phúc Minh, sinh ngày  3 tháng 8 năm 1871 mất ngày  4 tháng 1 năm 1943, niên hiêu là Hàm Nghi từ khi làm vua  ngày  2 tháng 8 năm 1884 cho đến khi bị đày sang xứ Algérie ở Bắc Phi  ngày 25 tháng 11 năm 1888. Vua là vị Hoàng đế thứ 8 của nhà Nguyễn. Việt Nam ngày nay xem ba vị vua Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân là các vua yêu nước chống Pháp  trong thời kỳ Pháp thuộc. ông Trương Thạc là người Việt Nam duy nhất cuối cùng bên linh cữu vua Hàm Nghi. Ông Trương Thạc là chồng của mệ Phong họ Trần, chị gái đầu của bà ngoại tôi. Hoàng chi Mạc tộc làng Minh Lệ quan hệ Võ Nguyên Giáp ẩn số Chính Trung và chuyện dài nếp nhà đẹp văn hóa.Thời gian lắng đọng người hiền.

Hoàng Gia Cương thơ hiền

Hoàng Gia Cương là tác giả của chùm thơ (chữ tin đậm mà Hoàng Kim trích dẫn trên đây). Cụ có các tác phẩm chính: Thơ 1) Lặng lẽ thời gian, Nxb Thanh Niên 1997, 2) Lắng đọng Nxb Hội nhà văn, 2001, 3) Trong cõi vô biên Nxb Hội nhà văn 2005, 4) Trãi nghiệm với thời gian Nxb Hội nhà văn 2010, 5) Theo dòng thời gian Nxb Văn Học 2013; Truyện ký 6) Cổ tích cho mai sau Nxb QĐND 2006. Tác phẩm thơ văn của Hoàng Gia Cương có mặt trên 30 tuyển tập, tập thơ văn in chung. Anh Bu Lu Khin Nguyễn Quốc Toàn viết: “Trong số thơ của Hoàng Gia Cương bu tui thích nhất bài “Phố Cụt”. Cái cụt của con đường là biểu trưng cho cái bê tắc, cái cụt lủn của khát vọng của con người. Người ta bám vào ba cái phao cứu sinh là Phật, Chúa, và Tư bản luận của Mác nhưng tất cả cũng chỉ là cơn gió bay qua “Gió nồm rồi gió heo may. Lạc vào phố cụt Bụi bay mù trời!”. Gia đình Hoàng gia Mạc tộc “thập tam thế hậu” nhờ phúc ấm tổ tông và nếp nhà nét đẹp văn hóa mà có được sự hanh thông hạnh phúc tiếp nối.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là mung-em-lam-nguoi-thay-nhc3a2n-van.jpg

Thời gian lắng đọng người hiền
Hoàng Kim

Bình minh Yên Tử  đầu tiên
Ánh Trăng khuya rọi khắp miền thế gian
Hoàng Gia thi tứ nồng nàn
Tình yêu cuộc sống muôn vàn yêu thương.

Câu thơ lắng đọng đời thường,
Mạ ơi xúc động lời thương dặn dò,
Cha tôi là một nhà Nho,
Tìm về nguồn cội, Chớm thu … tuyệt vời !

Cội nguồn Lũng Động, Cổ Trai,
Khí thiêng cõi Bắc nhớ nơi sinh thành,
Vua Thái tổ Mạc Đăng Dung,
Hoàng chi dòng đích lưu cùng nước non.

Phố Cụt, Phố nối, Phố cong,
Đi trong phố nhỏ một vòng nhân gian
Rùa ơi tôn bậc trí nhân
Để nền Văn hiến ngàn năm không nhòa.

Sáu mươi năm Mạ đi xa,
Mạ ơi tiếng vọng không là niềm riêng.

Thời gian lắng đọng người hiền.
Đông tàn xuân tới, bình minh rạng ngời.

Họ Trần Mẹ và Dì

Họ Trần làng Minh Lệ gia đình chúng tôi, ông ngoại họ Trần lấy bà ngoại họ Hoàng của gia tộc nêu trên sinh được ba người con. Mẹ tôi là gái đầu đi ở cho nhà địa chủ từ nhỏ. Mẹ tôi sinh ba trai và hai gái. Cậu ‘Trần Qua’ là con trai thứ nhưng mất từ rất nhỏ. Dì tôi là gái út thoát li làm cách mạng từ rất sớm. Dì sinh bốn người con trai. Mẹ tôi mất sớm đúng ngày mồng Ba Tết Nguyên Đán năm 1964. Cha nói trong nước mắt: ‘Các con gọi chồng dì bằng cậu, bởi hiếm có ai chăm sóc chị dâu tận tụy như dượng của các con’. Cha bị bom Mỹ giết hại ngày 29 tháng 8 âm lịch năm 1968. Chúng con lớn lên dưới lồng cánh cưu mang của Dì Cậu và đại gia đình Trần Hoàng Nguyễn..Trong vận mệnh của Tổ Quốc và Gia Đình, cha và cậu đã từng cầm súng, bảy con trai của mẹ và dì có năm đứa đã từng cầm súng

HOÀNG GIA NGỌC PHƯƠNG NAM

Gia đình tôi Hoàng gia phương Nam có bốn tộc Hoàng, Trần, Lê, Nguyễn. Bố tôi với bác tôi và người em gái bố đều rất nghèo. Bác tôi là thầy đồ nho dạy học chữ Tàu thuở tiếng Tây lên ngôi nên nhà sa sút. Cô tôi đi ở và lấy chồng Phong Nha Kẻ Bàng. Bố tôi lấy mẹ tôi cũng là người đi ở cho địa chủ và nghề của bố là chuyên chèo đò khuya chợ Mới chợ Troóc từ ngã ba nguồn Son tới Phong Nha và kịp về làm nông để nhận công điểm hợp tác xã. Bố chết bom năm 1968. Trần là họ mẹ, gốc gác họ Trần có từ thời vua Trần Dụ Tông chết trận khi đánh Chiêm Thành thì vợ vua không về Bắc nữa mà ở lại thành tộc Trần. Năm gia tộc ở Làng Minh Lệ là Trần, Hoàng, Trương, Nguyễn và Hoàng chi Mạc tộc. Cũng có thêm chi tiết của Mạc Cảnh Huống và Mạc Thị Gái nhưng sự kiểm chứng nguồn gốc Trần, Hoàng còn cần thêm thời gian. Lê là họ chị dâu cả của gia đình tôi là dân xứ biển ngoại hải Quảng Thuận gần Ba Đồn. Nguyễn là họ vợ tôi và họ của chồng chị gái Hoàng Thị Huyền. “Chúng tôi sinh thành ở Quảng Bình… Nhà mình ở ngã ba sông. Rào Nan chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình. Nay thì đoàn tụ đất phương Nam. Gia đình chúng tôi đi như một dòng sông, gìn giữ nếp nhà chân chính nhân hậu

Đường Xuân đời quên tuổi
THI LÃO ĐỖ HOÀNG PHONG

Hoàng Kim

Chín sáu sách in ngỡ tưởng nhầm
“Đường xuân” thơ Cụ thật uyên thâm
‘Xứ Đông Thi Tập” sâu duyên nghiệp
“Nghĩa Hưng kháng chiến” lắng phương châm
“Thắp sáng Đường Thi” lưu phước đức
“Hương đồng gió nội” gửi nhân tâm
Bảy lăm tuổi Đảng “tình quê” vẹn
Hải Dương nức tiếng ngưỡng mộ tầm.

Kính chúc thọ Cụ Đỗ liên vân thơ tinh hoa Ơn Cụ tặng sách quý Xin nối lời tâm ca; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/do-hoang-phong-chieu-xuan/

CỤ ĐỖ THƠ CHIỀU XUÂN
Hoàng Kim

Cụ Đỗ chiều xuân rộng tháng ngày
Thơ hiền phơi phới đọc vui say
Đỗ Phủ mưa lành tâm ý sáng
Ức Trai nắng ấm đức tỏa bay
Nhà an ruộng tốt trời thêm lộc
Nước đủ người lành đất vén mây
Xứ Đông sứ người đều thương mến
Tuổi Hạc đông phong thích tỏ bày.

Cụ Đỗ Hoàng Phong thơ tuyệt hay
Chín lăm sức viết đọc thật say
Con Kim Đỗ Trọng ngời phẩm hạnh
Cháu Ho Dinh Bac sáng danh tài
Đình Làng Ngà vui nơi hạc ẩn
Núi Phượng Hoàng thỏa chốn chim bay
Vắt ngang thế kỷ trồng cây đức
Người và Cha cháu quý thư tay

Bảy lăm tuổi Đảng chẳng chùng dây
Cụ Đỗ Hoàng Phong rộng tháng ngày
Gia tộc thầy hiền gương người tốt
Xóm giềng bạn quý sáng điều hay
Duy Hưng, Huyền Linh vui chân bước
Thúy Hoa, Lê Nguyễn vững gót giầy
Cụ Trạng Trình xưa khen xuân muộn
Xuân này qua xuân khác gửi “ phây “

Hoàng Kim kính chúc mừng Cụ Đỗ Hoàng Phong

MỪNG CỤ ĐỔ HOÀNG PHONG
Đào Ngọc Hòa

Chín mốt nhiều en vẫn cứ nhầm
Họa thơ đường luật lại uyên thâm
Khi say láu lỉnh “Trăng” còn ghẹo
Lúc tỉnh ngang tàng “Tướng” cũng châm
Nam Bắc hoa khôi mê trí đức
Ba miền bằng hữu phục nhân tâm
Ung dung phước thọ ngoài trăm tuổi
Danh tiếng thi văn vượt ngưỡng tầm

VẮT NGANG THẾ KỶ TRỒNG CÂY ĐỨC
Cụ Đỗ Hoàng Phong
mừng thọ Cụ Nguyễn Đức Hà

Chín sáu mùa xuân ai bảo nhầm
Đối nhân xử thế đúng phương châm
Vắt ngang thế kỷ trồng cây Đức
Xẻ dọc biên niên dệt chữ Tâm
Dũng sĩ so tài không kém sức
Anh hùng đọ trí cũng ngang tầm
Huân chương Nước tặng hồng trên ngực
Bách tuế ghi tên vẫn nhớ thầm

KÍNH BỐ NGUYỄN ĐỨC HÀ
Hoàng Kim

Qua chín lăm xuân vượt mọi nhầm
Cha Anh theo Bác lắng uyên thâm
Bảy con hạnh phúc bền son sắt
ai lần tù ngục vững phương châm
Dòng họ mến thương vì tốt bụng
Bà con quý trọng bởi nhân tâm
Trọn vẹn một đời Cha thật sướng
Hai Cụ thăm nhau ngưỡng mộ tầm.

Cụ Nguyễn Đức Hà với Hoàng Trung Trực, Hoàng Thị Huyền và Hoàng Kim ngày bác Võ Nguyên Giáp

Đến với bài thơ hay
BẠN THƠ HOÀNG KIM
Đỗ Hoàng Phong 95 tuổi
đến bạn thơ Hoàng Kim

Hoàng Kim tụ hội áng thơ hay
Càng đọc, càng mê vẫn cứ say
Vương giả thất ngôn toan đọ tứ
Túc nho bát cú định so tài
Dưới thềm vịnh cảnh xuân khơi mạch
Trên gác đề thi hạ lá bay
Muốn đến thăm quê e lạc lối
Tâm hồn gửi trọn viết thư tay
….
Cung đàn có lúc để trùng dây
Tìm gặp Hoàng Kim cứ tính ngày
Chung Tử ngày xưa ai có biết
Bá Nha thủa trước bạn nào hay
Sân chơi cỏ mọc vương chân bước
Ngõ cũ rêu phong ngại gót giầy
Sinh nhật chúc mừng ngoài bách tuế
Cảm ơn thi hữu gửi trên “ phây “

Đến với bài thơ hay
CÓ MỘT BẠN THƠ
Đỗ Hoàng Phong 95 tuổi
đến Hoahuyen Đào Ngọc


Bạn thơ Đào Ngọc – đẹp Hoa huyen
Vạn dặm sơn Khê lại hữu duyên
Lục bát giao lưu nên nghĩa bút
Thất ngôn xướng họa tạc tình nghiêu
Non cao cũng vượt tầm người quí
Biển rộng vẫn qua gặp bạn hiền
Nam Bắc trùng Phùng năng hội ngộ
Đào mai đua nở tiết xuân thiên

Tao đàn nổi tiếng luật niêm đường
“ thất bộ thành thơ “ dệt khúc chương
Thả tứ rèn văn thơ tỏa sáng
Buông câu luyện bút phú đưa hương
Phong tư lịch lãm bao người mến
Đức độ khiêm nhường lắm khách thương
Văn tự , hán nôm danh tỏa sáng
Thắm tình thi hữu mãi còn vương

NHỮNG CON NGƯỜI TRUNG HIẾU
Hoàng Kim


kính cụ Đỗ Hoàng Phong và nhớ bố Nguyễn Đức Hà, họa vần thơ anh Hoahuyen Đào Ngọc, người bạn, tác giả của nghìn bài thơ. Cám ơn Cụ Đỗ đã có thơ tặng cho cha cháu. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nhung-con-nguoi-trung-hieu/https://hoangkimlong.wordpress.com/2020/07/03/kinh-cu-do-hoang-phong/

Hội đồng KH&CN nghiệm thu kết quả đề tài: Một số giống cây trồng, vật nuôi đạt hiệu quả kinh tế phù hợp trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa, Ngày 25 2 2022, xem tiếp video và power point tại đây .
..

NHA TRANG VÀ A. YERSIN
Hoàng Kim


A Na bà chúa Ngọc
Nha Trang và A. Yersin
Ban mai đứng trước biển
Hoa Đất Ngọc phương Nam..

Nha Trang biển yến rừng trầm thiên đường nghỉ dưỡng du lịch biển đảo nổi tiếng Việt Nam , nơi ấy có di sản nổi tiếng A Na bà chúa Ngọc Nha Trang cũng là nơi an nghĩ và lưu dấu những cống hiến đặc biệt xuất sắc của nhà bác hoc thiên tài Yersin. Quần thể lăng mộ Yersin ở Suối Dầu và Viện Pasteur Thư viện Yersin công viên Yersin Nha Trang là trường hợp duy nhất Chính phủ Việt Nam cấp bằng chứng nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia cho một người nước ngoài. Dân làng Tân Xương Suối Dầu thờ Yersin làm Thành hoàng. Ngày mỗi ngày, công viên Yersin, Bảo tàng Yersin, mộ Yersin càng có nhiều lượt khách trong nước và quốc tế đến thăm để chiêm nghiệm bài học lớn tình yêu cuộc sống.

A. YERSIN Ở NHA TRANG

Alexandre Émile Jean Yersin là nhà bác học lỗi lạc người Pháp gốc Thụy Sĩ. Ông là bác sĩ y khoa, nhà vi khuẩn học, nhà thám hiểm, nhà nông học, nhà chăn nuôi, nhà điểu học, nhà dân tộc học, nhiếp ảnh gia, nhà nghiên cứu khí tượng, nhà văn, nhà dịch thuật, nhà nhân đạo và ân nhân được nhân dân Việt Nam tôn kính. Ông được trao tặng Bắc Đẩu Bội tinh, huân chương cao quý nhất của nước Pháp, Việt Nam long bội tinh, Viện sĩ Viện Hàn Lâm Khoa học, Viện Hàn lâm Y học, Viện Hàn lâm Khoa học các thuộc địa, Hội Bệnh học Hải ngoại, Hội Y học Nhiệt đới, Hội Thiên văn Pháp quốc. Yersin sinh ngày 22 tháng 9 năm 1863 tại làng Lavaux (hat Vaux) Aubonne, Thụy Sĩ, tổ tiên ông vốn là người Pháp di cư sang Thụy Sĩ, năm 1889 ông phục hồi quốc tịch Pháp. Alecxandre Yersin mất tại Nha Trang ngày 01 tháng 3 năm 1943.

Nha Trang gắn bó với Yersin như hình với bóng. Yersin sống chết với Nha Trang. Ông tới Việt Nam năm 1890, Ông thám hiểm tìm ra con đường bộ từ Nha Trang ven Biển Đông băng qua dãy Trường Sơn qua Stung Treng đi suốt dọc ha lưu sông Mekong đến Phnom Penh năm 1892 . Ông là người thám sát lần đầu Cao nguyên Lâm Viên năm 1893 giúp thiết lập nên thành phố nghỉ mát Đà Lạt. Yersin đã tìm ra trực khuẩn gây bệnh dịch hạch sau này được đặt theo tên ông Yersinia pestis năm 1894 và điều chế huyết thanh chữa trị. Yersin là người sáng lập Viện Pasteur Nha Trang năm 1895. Với tiền thưởng khoa học, Yersin mua một khu đất rộng 500 héc-ta ở Suối Dầu để làm nông nghiệp và chăn nuôi.

Nha Trang và Yersin có một mối nhân duyên thật kỳ lạ. Năm 1891, khi đặt chân đến Nha Trang, Yersin đã yêu mến vùng đất này, và quyết định lưu trú tại đây. Ông viết cho Émile Roux, “Hãy đến đây với tôi, ông sẽ biết ở đây thú vị như thế nào, thời tiết không nóng nhiều, cũng không lạnh lắm, một khung cảnh thanh bình tuyệt đối và nhiều công việc cần làm“. Tên gọi “Nha Trang” có hai giả thuyết, một giả thuyết cho rằng nó được hình thành do cách đọc của người Việt phỏng theo âm một địa danh Chăm vốn có trước là Ya Trang hay Ea Trang (có nghĩa là “sông Lau”, tiếng người Chăm, tức là gọi sông Cái chảy qua Nha Trang ngày nay, con sông này đổ ra biển đúng chỗ có nhiều cây lau). Từ tên sông, sau chỉ rộng ra vùng đất, từ năm 1653. Giả thiết khác cho rằng Nha Trang trước năm 1891 chưa có tên gọi trên bản đồ chỉ mới là một vịnh nước yên tĩnh đầy nắng nhưng khi Yersin đến ở và xây “nhà trắng” nổi bật trên những ngôi nhà làng chài lúp xúp trên dải cát trắng từ năm 1891, thì họ gọi là ”Nhà trắng” lâu dần phiên âm thành Nha trang. Giả thiết đầu tiên được các nhà nghiên cứu thống nhất hơn. Dẫu vậy giả thuyết thứ hai cũng được nhiều người ủng hộ.

Yersin lưu dấu nhiều ký ức sâu đậm tại Nha Trang. Di sản Yersin thật sự to lớn và bền vững với thời gian ở Việt Nam. Ông từ trần tại nhà riêng ở Nha Trang ngày 1 tháng 3 năm 1943, và để lại di chúc: “Tôi muốn được chôn ở Suối Dầu. Yêu cầu ông Bùi Quang Phương giữ tôi lại tại Nha Trang, đừng cho ai đem tôi đi nơi khác. Mọi tài sản còn lại xin tặng hết cho Viện Pasteur Nha Trang, và những người cộng sự lâu năm. Đám táng làm giản dị, không huy hoàng không điếu văn.” Noël Bernard, người đầu tiên viết tiểu sử Yersin đã nhận xét: “Chắc chắn rất hiếm có người ít tư lợi đến thế. Yersin tự xóa mờ mình đi để người khác được tự do sáng kiến, sự tự do mà chính bản thân ông hết sức gắn bó

Yersin cũng lưu dấu ở Đà Lạt, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Thủ Dầu Một. Tại Đà Lạt, thành phố tình yêu, nơi núi non tuyệt đẹp trên cao nguyên Lâm Viên, Yersin là người nước ngoài đầu tiên đã thám hiểm và khám phá ra Đà Lạt. Tên ông được lưu dấu tại Trường Lycée Yersin (Trường Cao đẳng Sư phạm), Trường Đại học Yersin và Công viên Yersin. Tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Thủ Dầu Một,  tên của Yersin được đặt  tên đường để vinh danh. Dẫu vậy, nơi chính của Người vẫn là ở Nha Trang.

Ông Yersin là người đầu tiên du nhập và phát triển cây cao su ở Việt Nam năm 1897. Ông tuyển chọn nhiều loại thực vật và động vật từ khắp nơi trên thế giới để nuôi trồng tại Suối Dầu, biến nó thành một cộng đồng nông nghiệp và khoa học với một trạm xá phục vụ cư dân trong vùng.

Ngoài việc du nhập và phát triển cây cao su, ông cũng cho trồng cây cà-phê Liberia, các loại cây thuốc, cây coca để sản xuất cô-ca-in sử dụng trong ngành dược. Ông làm vườn, trồng hoa, nuôi chim, nuôi ngựa bò, sản xuất huyết thanh chống dịch cho bò. Trung tâm thí nghiệm này về sau trở thành Viện Thú y đầu tiên ở Đông Dương. Ông là người thành lập và là hiệu trưởng đầu tiên của Trường Y Đông Dương (tiền thân của Đại học Y Hà Nội) năm 1902. Ông trồng thử nghiệm cây canh ki na để sản xuất thuốc ký ninh chữa bệnh sốt rét năm 1917. Ông Năm Yersin nghiên cứu khoa học, sống thung dung trọn đời với người dân và thiên nhiên trong lành ở Suối Dầu, Nha Trang, Khánh Hòa.

Mộ ông Năm Alexandre Yersin nằm trên một ngọn đồi nhỏ gần Trại chăn nuôi Suối Dầu thuộc xã Suối Cát, huyện Cam Lâm, cách Nha Trang 20 km về phía nam và cách Đà Lạt 191km. Vị trí ngôi mộ tính từ cột mốc cây số và bảng hiệu chỉ đường rất rõ trên đường Quốc lộ 1, vào khoảng 2 km nữa thì đến một ngọn đồi có mộ ông Năm. Ngọn đồi này nằm giữa khu đất 500 ha ở Suối Dầu mà ông Năm đã mua bằng tiền thưởng nghiên cứu khoa học của chính ông. Tôi thật sự kính phục và ngưỡng mộ ông Năm và biết ơn khu đất này vì giống sắn KM94 và một số giống sắn lai mới triển vọng được bảo tồn và phát triển từ đây (Tôi sẽ kể chi tiết ở phần dưới).

A. YERSIN VỚI VIỆT NAM

Ông Năm Yersin là một người dân Việt sống chết với Việt Nam như chính sự thật cuộc đời ông mà không chỉ là một nhà bác học lỗi lạc người Pháp gốc Thụy Sĩ . Ông Năm hiền lành tốt bụng là người thầy, nhà nhân đạo và ân nhân được nhân dân Việt Nam tôn kính. Suối Giầu Nha Trang  nơi ông an nghĩ trở thành nôi nuôi dưỡng hun đúc những thành quả lao động khoa học không chỉ của ông mà còn của lớp người sau. (Suối Dầu hay Suối Giầu .còn đó một ẩn ngữ vì bác Năm Yersin cũng là một nhà ngôn ngữ học thông tuệ và tên gọi này có từ thời ông. Thơ thiền Trần Nhân Tông có câu: “Sách Nhàn đọc dấu Thơ thiền Nhân Tông như có như không”.”Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu. Sách Nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim” . Giấu hay là Dấu là một ẩn ngữ trên 700 năm Giầu hay là Dầu cũng là một ẩn ngữ trên 100 năm nay.

Ông Năm Yersin không chỉ là bác sĩ y khoa, nhà vi khuẩn học, nhà bệnh học hàng đầu thế giới, mà còn là người thành lập và là Hiệu trưởng đầu tiên Trường Y Đông Dương từ năm 1902 (tiền thân của Đại học Y Hà Nội) . Ông Năm là người đầu tiên tìm ra bệnh bạch hầu và cách chữa trị năm 1888, người đầu tiên tìm ra bệnh dịch hạch và điều chế huyết thanh chữa trị, người đầu tiên thử nghiệm cây canh ki na để sản xuất thuốc ký ninh chữa bệnh sốt rét năm 1917.

Ông Năm Yersin không những là nhà thám hiểm đặc biệt xuất sắc, người làm cho Nha Trang có tên ‘nhà trắng ông Hoàng’ ở ven biển Nha Trang thuở xưa, người thám sát lần đầu Cao nguyên Lâm Viên năm 1893 giúp thiết lập nên thành phố nghỉ mát Đà Lạt mà còn là nhà thám hiểm người nước ngoài đầu tiên đã tìm ra con đường bộ từ Nha Trang ở ven Biển Đông đi băng qua dãy Trường Sơn tới Stung Treng và đi suốt dọc hạ lưu sông Mekong đến Phnom Penh vào năm 1892.

Ông Năm Yersin không những là nhà chăn nuôi thành lập Trại Chăn nuôi Suối Dầu đầu tiên để làm Trung tâm thí nghiệm sản xuất huyết thanh chống dịch cho bò ngựa, và nơi này về sau trở thành Viện Thú y đầu tiên ở Đông Dương, nay lại trở thành Viện Paster Khánh Hòa mà ông Năm Yersin còn là nhà điểu học, nhà dân tộc học, nhiếp ảnh gia, nhà thiên văn, nhà phong thủy tài danh đặc biệt xuất sắc về khí tượng nông nghiệp. Ông vừa là nhà văn và là nhà dịch thuật;

Ông Năm Yersin không những là một nhà bác học đặc biệt thông tuệ mà còn là một nhà nông học phúc hậu hiền triết yêu thiên nhiên con người cây cỏ muông thú và vạn vật. Ông sống thung dung tự do tự tại giữa thiên nhiên an lành. Ông là người nước ngoài duy nhất được Chính phủ Việt Nam cấp bằng chứng nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vì ông là nhà nhân đạo và ân nhân được người Việt tôn kính vì ông làm điều thiện việc lành mà cuộc đời ông như gương trong. Ông Năm Yersin là người đầu tiên du nhập và phát triển cây cao su ở Việt Nam năm 1897. Ông nhờ khu đất rộng 500 héc-ta của chính ông tự mua ở Suối Dầu để làm nông nghiệp và chăn nuôi mà ông cũng là người đầu tiên du nhập và tuyển chọn nhiều loại thực vật và động vật từ khắp nơi trên thế giới để nuôi trồng tại Suối Dầu, biến nó thành một cộng đồng nông nghiệp và khoa học với một trạm xá phục vụ cư dân trong vùng.

Sắn Việt ở Suối Dầu chuyện nhỏ bài học lớn. Ông Năm Yersin mất lâu rồi mà đất lành ông Năm vẫn tiếp tục nở hoa đất việc tốt điều thiện. Sắn Việt KM94 cùng nhiều giống sắn lai mới được bảo tồn tuyển chọn, nhân giống phát triển ở tỉnh Khánh Hòa từ năm 1993, từ một phần tư thế kỷ trước, tại đất lành Suối Dầu của ông Năm Yersin là nôi chọn và nhân giống cho miền Trung và sau đó đã phát triển rộng rãi ra khắp Việt Nam. Ông Năm Yersin sống và chết tại Việt Nam, sau nửa thế kỷ Hoa Người và Hoa Đất ấy tiếp tục nở hoa. Chúng ta có được nhiều nhà khoa học xanh đến đất lành Việt Nam cùng chung sức làm việc. Kazuo Kawano và Reinhardt Howeler là những người bạn tốt của nông dân trồng sắn châu Á và Việt Nam, mà tôi thực sự kính trọng yêu mến họ và tôi sẽ kể tiếp cho bạn nghe trong câu chuyện khác.

Di sản ông Năm Yersin ở Việt Nam thật kính trọng và ngưỡng mộ.

ĐẤT SUỐI DẦU A. YERSIN

Trại Chăn nuôi  Suối Dầu ở Suối Cát xã Cam Lâm, cách Nha Trang 20 km về phía nam và cách Đà Lạt 191 km. Nơi cột mốc cây số ven đường Quốc lộ 1 vẫn là tấm bảng hiệu khiêm nhường chỉ đường vào đất lành suối Dầu ông Năm Yersin. (Suối Dầu hay suối Giầu, giống như Đại Ngãi hay Đại Nghĩa, quê hương người anh hùng lao động Lương Định Của con đường lúa gạo Việt Nam ở Sóc Trăng). Trại Chăn nuôi Suối Dầu Cam Lâm chính nơi đây năm 1993 đã là nôi khảo nghiệm nhân giống sắn KM94 ra Khánh Hòa và các tỉnh miền Trung Việt Nam sau hơn nữa thế kỷ từ năm 1943 mà bác Năm Yersin mất. Chị Đinh Thị Dục, giám đốc Trung tâm Khuyến Nông và Khuyến Lâm Khánh Hòa đã phối hợp cùng chúng tôi công bố kết quả này tại sách sắn ”Chương trình sắn Việt Nam hướng đến năm 2000″ trang 239 – 243. Tôi tìm về di sản đất lành Suối Dầu ông Năm Yersin với biết bao xúc động cảm khái. Tôi lắng nghe các cây cao su già trăm tuổi, mía, đồng cỏ …và các ruộng sắn rì rào trò chuyện với gió núi, gió đồng quê gió biển. Chính nơi đây một phần tư thế kỷ trước tôi đã đến đây nhiều lần và thấu hiểu và chiêm nghiêm trên cõi đời này có nhiều điều uẩn khúc. Mục tiêu sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật có lời giải đúng và làm được việc.

Đất lành Suối Dầu A. Yersin đến nay tuy được bảo tồn nhưng vẫn chưa được đánh thức đúng tiềm năng. Hội Liên hiệp Phụ Nữ Thành phố Nha Trang chào mừng Khánh Hòa 350 năm đã có đầu tư giếng khoan nhưng phải đậy nắp vì sợ sự bảo quản máy bơm không an toàn và dường như điều này chưa thật đúng như tâm nguyện ông Năm Yersin là muốn nước giếng thơi ai cũng múc được. Giáo sư bác sĩ Nguyễn Chấn Hùng đã kể chuyện về quẻ Thủy Phong Tỉnh dạy về tinh thần của giếng trong sách Chu Dịch của cụ Sào Nam “Nước giếng trong không đậy, ai cần thì cứ múc. Giếng không sợ cạn. Càng múc nước lên càng trong, đầy mà không tràn. Không được đậy lại, phải để mọi người dùng”. Cụ Phan Bội Châu bàn về hào thượng quẻ Tỉnh:“Nước đã lên miệng giếng rồi, thời nên để cho tất thảy người dùng, chớ nên che trùm lại. Hễ ai muốn múc thời tùy ý múc. Quân tử đem tài đức ra gánh vác việc đời. Hễ lợi ích cho thiên hạ thời cứ làm, mà chẳng bao giờ tiếc công”.

Tôi và tiến sĩ Phan Công Kiên được mời tham gia Hội đồng Khoa học và Công nghệ Khánh Hòa đánh giá nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu xác định đối tượng và cơ cấu cây trồng phù hợp trên đất thoái hóa tại xã Cam Thịnh Tây, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa”. Tiến sĩ Phan Công Kiên là Phó Viện Trưởng Viện nghiên cứu Bông và Phát triển Nông nghiệp Nha Hố. Kiên mới đến khu mộ bác Năm lần đầu còn tôi thì đã đến đây nhiều lần từ nhiều năm trước. Chúng tôi sau khi họp xong đã dành được thời gian lên thăm và thắp hương tưởng nhớ bác Năm, và cùng đứng bên khu mộ với giếng nước thơi để tưởng nhớ Người. Tôi thầm mong một ngày nào đó sẽ có cơ hội đưa gia đình và các bé con cháu tôi về nơi đây để thấu hiểu Nha Trang và Yersin một bài học lớn. Bài học giấc mơ hạnh phúc…

Tôi thắp hương tưởng nhớ bác Năm Yersin theo lối gọi yêu mến của người dân Việt và bâng khuâng nhớ Người. Tôi thầm tự hỏi: dưới vòm trời này, đất lành này, núi biếc biển xanh này, so sánh con người phúc hậu, hiền lành, khiêm nhường đang nằm dưới ngôi mộ yên bình kia và những vĩ nhân lỗi lạc nhất của các nước lớn đến và ra đi khỏi Việt Nam, rốt cụộc thì ai hơn ai ? Ai đọng lại trong lòng dân Việt sâu bền hơn?

Biết bao danh nhân nước ngoài đến Việt Nam nhưng mấy ai được dân Việt tôn kính và quý trọng đến vậy? Ông Năm khiêm nhường như thế nhưng công đức và công bằng lịch sử lắng đọng như một ân nhân dân Việt . Tôi về nhà muộn, không dừng được những suy nghĩ về bác Năm. Tôi chợt đọc được cảm nhận xúc động của em Nguyễn Quang Huy quê Phú Yên và tôi không nỡ không thức dậy thắp ngọn đèn khuya để đối thoại thầm lặng với đêm thiêng. Nguyễn Quang Huy viết:

Em đọc Yersin, người chữa trị dịch hạch và thổ tả, vào những buổi sáng ở cao nguyên Lâm Viên, lòng vô cùng ngưỡng mộ về vị bác sĩ danh tiếng này. Từ một chuyên gia trong lĩnh vực vi trùng, lại bỏ áo bluse để trở thành một thủy thủ vì sau một chuyến công tác đã “lần đầu tiên thấy biển”. Rồi khi trở thành thủy thủ lại một lần nữa từ bỏ những con sóng để khám phá ra cao nguyên Lâm Viên vì “nhìn thấy những đám mây trên rặng núi của Khánh Vĩnh chưa có ai khám phá”. Thế rồi sau những chuyến phiêu lưu lại trở thành một chuyên gia nông học, chủ đồn điền để lại cho người Việt biết bao lợi ích vì những công hiến của mình. Từ đồn điền rộng 500ha ông lại lui vè với mảnh đất mấy mét vuông với tấm bia mộ khiêm tốn ở Suối Dầu, để lại cho đời hình ảnh về một con người phi thường, một người không có cha nhưng đã đi xa hơn những giới hạn mà những người cha có thể đạt tới.

Theo mô tả của Patrick Deville thì Yersin suốt đời theo đuổi cái hiện đại nhất, em lại nhớ tới lời dạy của thầy Hoàng Kim rằng trong nghiên cứu khoa học phải mang về những thông tin số liệu mới nhất của thế giới, giống tốt nhất để phục vụ cho bà con. Em ngưỡng mộ cách thiết kế bài giảng của Thầy, thể hiện được sự tôn trọng khoa học và yêu nghề lớn lao.

Em chưa đến được viện Passteur cũng như đến Suối Dầu thăm mộ của bác sĩ Yersin, nhưng em có cảm giác một sự đồng điệu ghê gớm với con người của thế kỉ trước này. Em cũng đã ghé thăm trường Lycée Yersin (đã đổi tên thành Cao Đẳng Sư Phạm) hay Đại học Yersin nhưng chưa tìm thấy dấu ấn nào. Mong rằng có dịp sẽ đến được Suối Dầu Nha Trang để thắp một nén nhang và tưởng nhớ về một con người vĩ đại.

Cảm ơn Thầy ạ.”

Ông Năm Yersin không phải là người Việt nhưng ông được mọi người Việt mọi thời yêu quý, tôn kính, ngưỡng mộ. Ông thật hạnh phúc.

Đất lành bác Năm Yersin như cuốn sách kỳ diệu “vừng ơi mở ra”.
Nha Trang và Yersin, đất lành chim đậu, người hiền đến ở.
Nơi đây an nhiên một CON NGƯỜI.

Thầy Xuân và chuyên gia Ghana thăm chọn giống sắn
#cnm365 #cltvn 14 tháng 2

CHUNG SỨC TRÊN ĐƯỜNG XUÂN
Hoàng Kim

Chung sức bao năm một chặng đường
Cuộc đời nhìn lại phúc lưu hương
Ngô khoai chẳng phụ dày công Viện
Lúa sắn chuyên tâm mến nghĩa Trường
Dạy học tinh hoa giàu trí tuệ
IT sáng tạo ngọc văn chương
Ai chọn đường xuân duyên vẹn kiếp
Đời theo lối chính đức muôn phương

Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là chung-suc.jpg

ĐƯỜNG XUÂN ĐỜI QUÊN TUỔI
Hoàng Kim vui đề ảnh hai cụ Bình Khơi

Hoàng Thành Trúc Lâm sáng
#Thungdung cùng tháng năm
Dựng nghiệp bền tâm đức
Yêu thương vững #annhiên
Thiện lành phước lộc tho
Phúc hậu thanh thận cần

PHO TƯỢNG NGỌC QUAN ÂM
Hoàng Kim

Khởi nghiệp tại đường sáng gia đình và cộng đồng “Đi đâu cũng không bằng Tổ quốc mình. Nói gì, làm gì cũng không bằng dạy, học và làm cho đồng bào đất nước mình. Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương. Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc. Dạy và học thực tiễn trên chính Tổ quốc mình”. Đêm trắng và bình minh Hoàng Kim lời tâm đắc Pho tượng Ngọc Quan Âm chuyện ngậm ngãi tìm trầm là Chuyện cổ tích người lớn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-ngam-ngai-tim-tram/

VƯỜN GIỐNG SẮN ĐỒNG XUÂN
Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long và đồng sự

Vườn giống sắn Đồng Xuân là nơi bảo tồn nguồn gen giống sắn gốc và lai tạo các tinh dòng sắn lai ưu tú (elite clones), nơi khảo sát đánh giá tập đoàn các giống sắn tuyển chọn. Mục đích nhằm thu thập bảo tồn và phát triển thành tựu tốt nhất về giống sắn có năng suất tinh bột cao, kháng được một số sâu bệnh hại chính (CBD, CWBD, …) phù hợp với điều kiện sản xuất sắn tại tỉnh Phú Yên. Dưới đây là một số hình ảnh và thông tin chọn lọc

ĐƯỜNG XUÂN ĐỜI QUÊN TUỔI
Hoàng Kim


Hoàng Thành trông năm tháng
Hòa Thịnh thương người hiền
Đồng Cam vui ngày mới
Đất Phú Trời Bình Yên

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/duong-xuan-doi-quen-tuoi

TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây   cập nhật mỗi ngày

PDF và Video yêu thích
Mùa xuân đầu tiên (Văn Cao) -Thanh Thúy
Kỷ yếu Khoa Nông Học 65 năm thành lập Khoa
Kỷ yếu 65 năm Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh
Kỷ niệm 65 năm Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh
Bài học quý giá biết chăm sóc sức khỏe
Secret Garden, Bí mật vườn thiêng 
Phim vua Solomon
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter