Ăn cháo nói càn khôn

ĂN CHÁO NÓI CÀN KHÔN

Ăn cháo nói Càn Khôn
Trần Khánh Dư vẹn kiếp
Tự do ngời tâm đức
Văn chương ngọc cho đời


Hoàng Kim

Trần Khánh Dư, hiệu là Nhân Huệ vương, là một chính khách, nhà quân sự Đại Việt dưới thời đại nhà Trần. “Ở với lửa hương cho vẹn kiếp. Mà xem sắt đá có bền gan”. Đền thờ chính của ông tại Đền Gốm ở khu dân cư Linh Giàng, phường Cổ Thành (TP Chí Linh) ảnh http://baohaiduong.vn/di-tich/nhan-hue-vuong-tran-khanh-du-va-2-di-tich-143251. Trần Khánh Dư bình sinh là người thế nào? Hoàng Kim viết bài “Trần Khánh Dư vẹn kiếp” với bốn chuyên mục trên, nhằm tôn kính một danh nhân Việt https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tran-khanh-du-ven-kiep

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là an-chao-noi-can-khon.jpg

Hai ông ăn cháo nói chuyện càn khôn (1)
Bánh đúc Chợ Đồn cháo ngon Đồng Hới
Minh sư Hưng Đạo thấu hiểu Khánh Dư
Nhớ chuyện Vân Tiên yêu thương Lão Quán
Binh thư yếu lược chọn tướng cực tài (2)
Bát quái tùy thời (3) lời dẫn kiệt tác
Lửa hương vẹn kiếp sắt đá bền gan (4)
Đá Đứng sông thiêng (5) Linh Giang Minh Lệ


Cụ Nguyễn Quốc Toàn, thiền sư giữa đời thường, (xem Chuyện cụ Nguyễn Quốc Toàn) và anh Rúc Hung, chuyên gia ngôn ngữ văn hóa “ăn cháo nói càn khôn” (xem thư tịch anh Ruc Hung), đưa chuyện “Bán than” “Trần Khánh Dư” ra bàn luận. Hoàng Kim vào góp chuyện:

Ghi chú
(1) Bán than
Trần Khánh Dư


Một gánh càn khôn quẩy tếch ngàn,
Hỏi chi bán đó, gửi rằng than.
Ít nhiều miễn được đồng tiền tốt,
Hơn thiệt nài bao gốc củi tàn.
Ở với lửa hương cho vẹn kiếp,
Thử xem sắt đá có bền gan.
Nghĩ mình lem luốc toan nghề khác,
Nhưng sợ trời kia lắm kẻ hàn.

Theo Đào Trung Kiên, chủ bút Thi Viện, bài thơ này tương truyền là của Trần Khánh Dư, song có người lại nói của một người đời chúa Nguyễn trong Nam.

Nguồn:
1. Trần Trung Viên, Văn đàn bảo giám, NXB Văn học, 2004
2. Trần Trọng Kim, Việt thi, NXB Tân Việt, 1949
3. Dương Quảng Hàm, Quốc văn trích diễm: Cao đẳng tiểu học độc bản, Kim Khuê ấn quán phát hành.


Hoàng Kim có bài “Trần Khánh Dư vẹn kiếp” thành kính tôn vinh Nhân Huệ Vương bởi hào khí nam nhi lẫm liệt của Cụ:

TRẦN KHÁNH DƯ VẸN KIẾP

Ngọc Quan Âm
Hoàng Kim

Tỉnh thức càn khôn chốn đại ngàn
Ngọc lành vàng đá giữa lầm than
Hoàng Thành trọn vẹn tinh hoa tốt
Trúc Lâm gìn giữ lửa hương tàn
Vận chuyển thời cơ lưu vẹn kiếp
Mệnh nung tâm huyết chí bền gan
Nhờ ai lem luốc tròn duyên nghiệp
Đất cảm trời thương thấu kẻ hàn.

Nhân Huệ Vương vẹn kiếp là kỳ tài Việt “Ở với lửa hương cho vẹn kiếp. Mà xem sắt đá có bền gan”. Trần Khánh Dư bình sinh là người thế nào? Vì sao ông là “Thiên Tử Nam” của vua Trần, đích tôn của Thống Quốc Thái Sư Trần Thủ Độ, đã là danh chính thừa kế tông thất linh địa truyền đời tại Đền Gốm Chí Linh lại là ngôn thuận tổ sư của phát tích vượng địa nghề cói ở An Trung, Hà Nam nơi ông mở mới bến sông đồng ruộng. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tran-khanh-du-ven-kiep/

Trần Khánh Dư sinh ngày 13 tháng 3 năm 1240, tại thị xã Chí Linh; mất ngày 23 tháng 4 năm 1340, tại trại An Trung, Chí Linh Hải Dương. Cha của ông là thượng tướng Nhân Thành Hầu Trần Phó Duyệt. Mẹ của ông là Trần Thái Anh (?). Ông nội của ông là Thống quốc thái sư Trần Thủ Độ. Phố Trần Khánh Dư ngày nay có ở Hà Nội, Nam Định: Hải Phòng; Huế; Nha Trang; Hồ Chí Minh; Đà Lạt; Rạch Giá Kiên Giang; Cần Thơ.

Trần Khánh Dư là danh tướng ngay từ lúc còn trẻ đã lập đại công hiển hách từ trận thắng Nguyên Mông lần đầu, và tiếp đó ông chế thắng quân Man, được vua Trần Thành Tông phong tước Thiên tử nghĩa nam, với chức vụ Phiêu kỵ tướng quân, Ông mắc trọng tội thông dâm với công chúa Thiên Thụy, con gái của vua Trần Thánh Tông, vợ của Trần Quốc Nghiễn (con trai của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn). Sự việc xảy ra trước năm 1282 bị bại lộ, bị phạt đánh 100 trượng nhưng thoát chết, vì vua và Quốc Công đều mến tài nên ông may được sống. Ông là người “bán than’ có bài thơ nổi tiếng và Cuộc gặp gỡ với vua Trần Nhân Tông, được trọng dụng trở lại ,để có chiến công hiển hách, đốt sạch thuyền quân lương của Trương Văn Hổ, tạo trận thắng quyết định của Nhà Trần trong chuỗi thắng trận giặc Nguyên Mông lần thư ba. Ông là Phó Đô Thống tướng chỉ huy quân đánh biển do đích thân Hưng Đạo Vương kiến nghị hai vua cất nhắc. Ông cũng là người viết Bài tựa sách Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư của Trần Quốc Tuấn.

(2) Lời dặn của Thánh Trần: Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn mất ngày 20 tháng 8 âm lịch năm 1300. Người được dân Việt tôn kính gọi là Đức Thánh Trần và thường dâng lễ tạ ơn sớm từ 20 tháng 8 dương lịch đến ngày lễ chính. Vua Trần Anh Tông lúc Đức Thánh Trần sắp lâm chung có ân cần ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: “Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?”. Đức Thánh Trần trả lời: “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy”. Nguyên văn: “Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã (vườn không nhà trống), đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy” * (Đại Việt sử ký toàn thư tập 2 trang 76 -77). Tám hạng tướng và bậc đại tướng theo Binh thư yếu lược có nhân tướng, nghĩa tướng, lễ tướng, trí tướng, tín tướng, bộ tướng, kỵ tướng, mãnh tướng, đại tướng. Bậc đại tướng là người bao trùm và vượt hẳn tám hạng tướng kể trên, gặp hiền tài thì tôn trọng lắng nghe, biết tỏ ý mình không theo kịp người, biết nghe lời can ngăn như thuận theo dòng nước, lòng rộng rãi nhưng chí cương quyết, giản dị và nhiều mưu kế.” Trần Khánh Dư là tướng rất giỏi theo Lịch triều hiến chương loại chí thì ông được Trần Thánh Tông nhận làm Thiên tử nghĩa nam nhưng lại vướng phải vụ án gian dâm với Thiên Thụy công chúa là vợ Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, con trai Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Trần Khánh Dư được Trần Quốc Tuấn giao làm đại tướng. giữ chức phó đô thống tướng của ông.

(3) Vạn Kiếp tông bí truyền thư (萬劫宗秘傳書) của Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương, tác phẩm này còn gọi là Vạn Kiếp binh thư đã thất truyền. Bài tựa của Trần Khánh Dư trong cuốn sách này giải thích bí truyền đại sư là người thế nào:“Phàm người khéo cầm quân thì không cần bày trận, khéo bày trận thì không cần giao chiến, khéo giao chiến thì không thể thất bại, khéo thất bại thì không thương vong. Xưa kia, Cao Dao làm chức sĩ sư mà mọi người không dám trái mệnh, Văn Vương và Vũ Vương nhà Chu là bậc thầy về văn và về võ, ngấm ngầm sửa đức để khuynh loát quyền bính của nhà Thương mà lấy nghiệp vương. Đó đều có thể gọi là những người giỏi cầm quân, không cần bày trận vậy. Vua Thuấn múa lá mộc và lông trĩ mà họ Hữu Miêu tự mình tìm đến, Tôn Vũ nước Ngô đem mỹ nhân trong cung thử tập trận mà phía tây phá nước Sở hùng cường, phía Bắc ra uy với nước Tần nước Tấn, nổi tiếng khắp chư hầu. Đó đều có thể gọi là những người giỏi bày trận, không cần giao chiến vậy. Cho đến Mã Ngập nước Tấn dựa vào bát trận đồ chuyển đánh nghìn dặm, phá được Thụ Cơ Năng mà lấy lại Lương Châu. Thế gọi là người giỏi giao chiến không bao giờ thất bại vậy.Cho nên, trận nghĩa là bày ra, là khéo léo. Ngày xưa, vua Hiên Viên lập ra phép “tỉnh điền” để đặt binh chế, Gia Cát Lượng xếp đá bên sông để làm bát trận, Vệ công sửa lại làm trận Lục Hoa, Hoàn Ôn định ra trận Xà Thế, trước sau đều có trận đồ nổi tiếng, trình bày tuần tự, thành phép tắc rõ ràng. Nhưng người đương thời ít ai thông hiểu, muôn vàn đầu mối nhìn vào dường như rối loạn, chưa từng nắm được lẽ biến dịch bên trong. Ví như những phép tắc và suy luận của Lý Thuyên, người sau không ai hiểu nghĩa là gì. Vì thế, Quốc công ta bèn so sánh, kê cứu trận đồ và binh pháp của các nhà, tổng hợp lại thành một bộ sách. Tuy chép cả những điều chi tiết, nhưng người sử dụng thì nên bỏ bớt những chỗ rườm, tóm lấy thực chất. Rồi lấy năm hành ứng với nhau, chín cung câu với nhau, phối hợp cương và nhu, xoay vần chẵn và lẽ, không làm hỗn loạn âm dương và thần sát, phương lợi và sao tốt, hung thần và ác tướng, ba cát và năm hung, việc nào việc ấy thực phân minh rõ rệt. Quốc công lại còn thêm bớt với chiến thuật của thời Tam đại, nhờ đó trăm trận trăm thắng. Cho nên đương thời phía bắc làm cho Hung Nô phải sợ, phía tây làm cho Lâm Ấp phải kinh. Rồi ông đem sách này dạy bảo con em làm gia truyền, không tiết lộ cho người ngoài biết. Lại có lời dặn rằng: “Sau này con cháu và bề tôi phò tá của ta có học được bí thuật này thì nên lấy đầu óc sáng suốt, linh hoạt mà thực hành và sắp đặt nó, chứ không nên lấy đầu óc cứng nhắc, tối tăm mà cất giữ và lưu truyền. Nếu trái điều đó thì sẽ mang vạ vào thân, lại hại lây đến cả con cháu. Đó gọi là tiết lậu cơ trời vậy.”Bài tựa của Trần Khánh Dư cho Vạn Kiếp tông bí truyền thư, còn như sách Binh thư yếu lược mà người đời ngờ rằng bản thật đã bị cướp và thất lạc, đời sau chỉ có chân truyền lời này.

(4) Trần Khánh Dư được Trần Quốc Tuấn giao làm đại tướng. giữ chức phó đô thống tướng của ông. “lửa hương vẹn kiếp’ “sắt đá bền gan” là thơ viết ý này. Lời dặn của Thánh Trần trích dẫn phép CHỌN TƯỚNG của Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn:

Tám hạng tướng và bậc đại tướng

Nhân tướng là người dùng đức để đem đường cho người, dùng lễ để xếp việc cho họ, hiểu thấu sự đói rét của người dưới, biết rõ khó nhọc của đồng sự, đó là nhân tướng.

Nghĩa tướng là người làm việc không cẩu thả, thấy lợi mà không tham, biết chết vinh hơn sống nhục.

Lễ tướng là người có địa vị cao quý mà không kiêu căng, công hơn người mà không cậy, tài năng mà biết hạ mình, cứng cỏi mà biết nhẫn nhịn.

Trí tướng là người gặp biến bất ngờ mà chí không đổi, ứng phó linh hoạt với việc khó khăn, có thể đổi họa thành phúc, gặp cơn nguy biến mà sắp đặt thành thắng thế.

Tín tướng là người thưởng phạt nghiêm minh công bằng, khen thưởng không chậm trễ và không bỏ sót, trừng phạt không buông tha cho kẻ cao quý.

Bộ tướng thủ hạ của đại tướng phải chọn người tay chân lẹ làng, võ nghệ tuyệt luân,  giỏi đánh gần, ứng biến di chuyển mau lẹ, để bảo vệ an toàn cao nhất cho chủ soái.

Kỵ tướng là người có thể vượt núi non cheo leo, từng trải việc nguy hiểm, cưỡi ngựa bắn tên mau lẹ như chim bay, tới thì đi trước, lui thì về sau.

Bậc đại tướng là người bao trùm và vượt hẳn tám hạng tướng kể trên, gặp hiền tài thì tôn trọng lắng nghe, biết tỏ ý mình không theo kịp người, biết nghe lời can ngăn như thuận theo dòng nước, lòng rộng rãi nhưng chí cương quyết, giản dị và nhiều mưu kế.”

(5) Đá Đứng chốn sông thiêng Hoàng Kim Con về Đá Đứng Rào Nan / Cồn Dưa Minh Lệ của làng quê hương/ Linh Giang chảy giữa vô thường / Đôi bờ thăm thẳm nối đường tử sinh. Đá Đứng chốn sông thiêng tại Làng Minh Lệ quê tôi ở Nam Sông Gianh cùng với Thiên Thụ Sơn ở Huế và Núi Đá Bia Phú Yên và Văn Miếu Trấn Biên Đồng Nai với Thiên Cấm Sơn An Giang là năm dấu ấn Nam Tiến của người Việt để thống nhất giang sơn về một mối. Đá Đứng chốn sông thiêng có câu chuyện ông già mù Cao Hạ đã khuyên tôi đổi tên từ Hoàng Minh Kim sang Hoàng Kim. Ông đến nhà tôi để đền ơn cha mẹ tôi đã cứu vớt con ông. Sau này cha mẹ tôi mất sớm “không được hưởng lộc con” (mà chỉ theo con che chở cho con lập nghiệp phương xa) và gia đình tôi đang êm ấm trở nên lưu tán không nhà, đúng như “Hoành Linh vô gia huynh đệ tán”. Tôi đã lần lượt chép lại, để tiện theo dõi mời lần lượt đọc năm mục từ: 1) Làng Minh Lệ quê tôi; 2) Linh Giang Đình Minh Lệ; 3) Đứng chốn sông thiêng; Đợi nắng; Ta về với Linh Giang; Hoa Đất, Đất Mẹ vùng di sản; Nguồn Son nối Phong Nha; 4) Đất Mẹ vùng di sản; 5) Đá Đứng chốn sông thiêng; (tiếp theo kỳ trước).

(6) Bạn Hoàng Minh Thuần ở TU Bình Thuận trao đổi tổng quát: Dạ anh. Em cũng nghĩ khai thác được tour du lịch sông nước kết hơp thắng cảnh từ Cầu sông Gianh lên Ba Đồn, Chợ Mới, bến Lội đền Bốn Miếu, bến chợ Troóc, Phong Nha – Kẽ Bàng, động Thiên Đường, động Sơn Đoòng chẳng khác gì thắng cảnh TRÀNG AN… là điều kiện thuận lợi để quê mình phát triển.

(Hoàng Kim trả lời (Bố tôi kể tiếp Ông già mù Cao Lao Hạ)
– Không phải ngẫu nhiên mà Pháp chọn Đà Nẵng làm điểm khởi đầu trong kế hoạch đánh chiếm Việt Nam đâu. Có lý cả đấy ! Vì Kinh đô Huế nằm ở Bắc Hải Vân mà thế và lực với sự thông thuộc của Nhà Nguyễn chính là đất phương Nam trong khi Hoành Sơn Linh Giang Lũy Thầy lại là tuyến ba tầng thủ hiểm che chắn Kinh đô Huế ở mặt Bắc nên Pháp không chọn đánh Thanh Khê đó thôi

– Nhưng Linh Giang chính là hiểm địa, bẻ đôi Việt Nam. Ông già mù nói. Cụ nói đúng, Bố tôi lập tức nhỏm dậy. Vì tôi đã bị bắt đi đi lính Pháp để đưa sang đánh nhau bên Tây, đóng quân ở Đà Nẵng bên sông Hàn, sau đó tôi trốn theo Vệ Quốc Đoàn nên rất thông thuộc địa hình đó. Pháp nếu đứng chân được ở Đà Nẵng thì chẹn được mặt Nam, cô lập kinh thành Huế, mẹo ‘đánh rắn giập đầu’ rất mau thắng được dân Nam..

– Trận Đà Nẵng năm 1857 tụi Pháp thua. Cha tôi nói. – Vì tướng Nguyễn Tri Phương giỏi cầm quân, Ông ấy tránh đánh trực diện mà dùng phục binh, lập kế ‘đóng cửa đánh chó’ làm “vườn không, nhà trống” triệt hết đường tiếp tế của địch, cách ly và xử nghiêm tụi gián điệp đội lốt giáo sĩ, giáo dân. Ông lại cho đắp lũy kiểu như Lũy Thầy, bao vây chẹn họng địch ra biển, vây đánh trường kỳ không cần thắng nhanh, nên trận Đà Nẵng bên mình thắng Pháp phải chuyển vào đánh thành Gia Định, chiếm dần đất đai của mình từ phương Nam theo kiểu tằm ăn lá dâu.

– Ông giỏi sử thiệt. Cụ già khen.

– Tôi ít học nhưng rất thích đọc sách Tam Quốc. Cha tôi nói : – Tôi thông gia với ông mẹt Rịnh thường kêu thằng Kim đọc sách Tam Quốc cho tôi và ông Rịnh nghe. Hôm nào ông Rịnh hoặc ông Thìn đến chơi, tôi không khi nào không kêu thằng Kim đọc sách Tam Quốc và sách Kiều, đến mức nó thuộc và kể được đấy. Mẹ nó thì mê nhất Lục Vân Tiên kế đến Kiều và Phạm Công Cúc Hoa.

– Cháu đọc cho ông nghe một đoạn nào? Cụ già nói.Tôi ngước mắt nhìn Mẹ, Mẹ tôi cười khuyến khích: – Con đọc đi

Tôi (Hoàng Kim) đọc đoạn ông quán trong thơ Lục Vân Tiên mà mẹ thích:

– Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hán mạt, đã đành phôi pha.
Thương thầy Đồng tử cao xa,
Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.

Thương người Nguyên Lượng bùi ngùi,
Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
Thương ông Hàn Dũ chẳng may,
Sớm dâng lời biểu tối đày đi xa.


Thương thầy Liêm Lạc đã ra,
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.

– Địch đánh vô Thanh Khê cửa Hác không dễ. Bố tôi miên man kể. Ông nhớ thời lính tráng của ông: – Tôi dự nhiều trân đánh Pháp cùng thời và cùng đơn vị với Lâm Úy. Tôi ở đại đội 2 tiểu đoàn 274 của ông Lê Văn Tri làm tiểu đoàn trưởng thuộc Trung đoàn 18. Tôi vô sinh ra tử nhiều trận cùng anh em. Chỉ tiếc là đến năm 1951 bị đau bệnh sốt rét phù thủng ngã nước quá yếu trong khi đơn vị thiếu thốn thuốc men chữa trị và điều kiện chăm sóc nên trên mới phải cho giải ngũ về quê. Nếu không thì tôi đến nay đã nhất xanh cỏ nhì đỏ ngực rồi.

– Ông Lê Văn Tri là người Cao Hạ cùng làng với tôi. Sau này ông làm tướng rất to Cụ gìa nói

– Trân Phú Trịch Là Hà, địa thế và cách dàn quân hai bên cũng lựa thế hiểm yếu như là trận Bạch Đằng. Voi trận của Đức Thánh Trần sa lầy ở Sông Hóa. Các trận địa phục kích cũng là các cồn tại các ngả ba sông hiểm yếu như Chợ Mới, La Hà Phú Trịch vậy. Lời thề trên sông Hóa “Chuyến đi này không thắng, ta thề không về lại nơi này!” của đức Thánh Trần cũng như lời thề quyết tử chiến của đội cảm tử 15 trận Phú Trịch La Hà đã chết như voi trận của đức Thánh Trần chết vậy. Cha tôi nói

– Đá Đứng chốn sông thiêng Cầu Minh Lệ Rào Nan Bến Lội Đền Bốn Miếu là nơi rất rất hiểm. Ông già lại xuống giọng thầm thì. Ngã ba sông Chợ Mới là hiểm địa. Đá Đứng chốn sông thiêng là rất rất hiểm địa. Ông có biết vì sao đối diện Bến Lội Đền Bốn Miếu là động Ma Ca không? Thiêng lắm đấy, vì có quá nhiều người chết. Đây là nơi chính phân tranh từ nhiều đời. Thời Cao Vương lập đá Đứng bỏ bút thần. Thời Núi Đá Bia ngón tay minh sư thệ trời xanh bước qua lời nguyền chia cắt đấy. Giá máu xương cao lắm ! Chỗ cao giá hiểm nguy. Cụ già lặp lại.

Cụ già quay sang tôi, bắt tôi nhắc lại mấy lời khẩu quyết. Cao cát Mạc sơn / Sơn Hà Cảnh Thổ / Văn Võ Cổ Kim / Linh Giang thông đại hải / Ngũ Lĩnh tiếp Cao Sơn / Đình Bảng Cao Lao Hạ / Miếu cổ thủy sơn thần./ …. Mắt ông rất thành khẩn. Hốc mắt ông dường như có nước mắt. Người ông khoan thai thần bí và trầm tĩnh lạ lùng.

Tôi cẩn thận lặp lại. Cha mẹ tôi im nghe và tỏ vẻ khuyến khích con.

Cụ già nói chậm rãi: Ông bà thay tên cho ’em’ đi: Hoàng Kim tốt hơn Hoàng Minh Kim. Ông tánh trung trực nghĩa khí, bà tánh đức độ, hiền từ, nhà có phước đức, sẽ thành dòng họ lớn ở phương xa, con cháu có quý tử, nhưng ông bà không được hưởng lộc con, mà theo con hưởng phúc và bảo bọc che chở cho con cháu.Cụ già dặn tôi “làm vàng ròng, ngọc cho đời, nên bớt sáng”. Đây là chuyện lạ của lời dặn thứ ba. Chuyện lạ đến mức anh hai Hoàng Ngọc Dộ đã quyết chọn Hoàng Kim làm tên gọi cho em từ lớp 10 sau khi cha mẹ mất và toàn gia lưu tán.Tôi mồ cha mẹ từ nhỏ mất sớm. Thầy Nguyễn Khoa Tịnh khóc trên bục giảng Thầy tăng tôi cuốn sách Trần Hưng Đạo Binh Thư Yếu Lược với lời đề tặng từ tuổi thơ để tôi lưu lại Lời dặn của Thánh Trần và thầy viết bài thơ Em ơi em can đảm bước chân lên lưu những bài thơ tuổi thơ của chính tôi cho tôi. Tôi được anh trai Hoàng Ngọc Dộ và chị gái Hoàng Thị Huyền bảo bọc cưu mang từ nhỏ khi cha mẹ mất sớm, chị gái Hoàng Thị Huyên đã lấy chồng và anh trai Hoàng Trung Trực dấu chân người lính, bom đạn giữa chiến trường, Tôi gạt nước mắt ra đi, thề trước mộ cha mẹ theo Lời dặn của Thánh Trần với Lời thề trên sông Hóa. Thật xúc động ngày về quê tảo mộ tổ tiên Quảng Bình đất Mẹ ơn Người, trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ “

Nguyễn Quốc Toàn 9 tháng 3  · VỚI HOÀNG KIM (9.3.2021) Comment của Hoàng Kim ở st “BULUKIN TRẢ LỜI RUC HUNG về BÀI THƠ BÁN THAN của TRẦN KHÁNH DƯ” có hai nội dung:

1- Là bài thơ “Chuyện đồng dao cho em”:Hai ông ăn cháo nói chuyện càn khôn (1) Bánh đúc Chợ Đồn cháo ngon Đồng Hới Minh sư Hưng Đạo thấu hiểu Khánh Dư Nhớ chuyện Vân Tiên yêu thương Lão Quán Binh thư yếu lược chọn tướng cực tài (2) Bát quái tùy thời lời dẫn kiệt tác (3) Lửa hương vẹn kiếp sắt đá bền gan (4) Đá Đứng sông thiêng (5) Linh Giang Minh Lệ

2- Hoàng Kim cung cấp cho bu ba nguồn về bài thơ BÁN THAN của Trần Khánh Dư. Nguồn 1: Trần Trung Viên, Văn đàn bảo giám, NXB Văn học, 2004 Nguồn 2: Trần Trọng Kim, Việt thi, NXB Tân Việt, 1949 Nguồn 3: Dương Quảng Hàm, Quốc văn trích diễm: Cao đẳng tiểu học độc bản, Kim Khuê ấn quán phát hành, 1928

Dưới đây là đôi lời của bu với hai nội dung trên của của Hoàng Kim

I – Về bài thơ “Chuyện đồng dao cho em” 1- Theo từ điển tiếng Việt: “Đồng dao là lời bài hát dân gian truyền miệng của trẻ em, thường kèm một trò chơi nhất định”. Bài thơ của Hoàng kim nói đến những địa danh ở Quảng Bình, những nhân vật lịch sử thời Trần, Bát quái trong kinh dịch, những món ngon ở Ba Đồn, Đồng Hới… nên không thể gọi là Đồng dao cho trẻ em được.

2- Chưa rõ Hoàng Kim dựa vào tứ thơ nào để triển khai thành bài thơ “Chuyện đồng giao cho em”. Ý thơ nhảy từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác không liên quan gì nhau. Đang “Bánh đúc chợ Đồn cháo ngon Đồng Hới” liền ngay với “Minh sư Hưng Đạo thấu hiểu Khánh Dư”. Tác giả có sự thăng hoa cảm xúc về quê nhà, về lịch sử đất nước, về những danh nhân…nhưng ngần ấy ý tưởng không thể nói hết trong 64 từ (của bài thơ) nên mới dồn nén câu chữ đến như vậy chăng ??

3- Cũng do phải dồn nén nên tác giả đã dùng 5 chú thích cho 8 câu thơ. Tổng cộng số chữ chú thích là 3712, gấp 58 lần số chữ của bài thơ. Đây là sự lạ.Tương truyền giáo sư Hà Văn Tấn chú thích sách Dư điạ chí của Nguyễn Trãi bằng số chữ của bản gốc, tưởng đã kinh khủng. Nhà thơ Hoàng Kim lại còn gấp 58 lần thì cổ kim đông tây hiếm ai chú thích với tỷ lệ như vậy.

4- Tuy nhiên cái sự lạ của Hoàng Kim làm bu thấy lý thú, nhất là hai câu đầu:. “Hai ông ăn cháo nói chuyện càn khôn Bánh đúc chợ Đồn cháo ngon Đồng Hới” Hai câu thơ tả chân mà đượm vẻ hài hước.

I. Đúng là bulukhin được bạn Ruc Hung chiêu đãi cháo “ba trong một” tuyệt ngon ở Đồng Hới. Ăn cháo và bàn chuyện trên trời (càn) cùng chuyện dưới đất (khôn).

II- Trong ba nguồn Hoàng Kim giới thiệu, bu không tìm thấy sách của Trần Trọng Kim (nguồn 2) và Dương Quảng Hàm (nguồn 3) chỉ có sưu tập của Trần Trung Viên (nguồn 2). Sách có tựa để “Văn đàn bảo giám”, dày 1035 Trang do NXB Văn học ấn hành quý II năm 1999. Ở trang đầu tiên có ghi: Dương Bá Trạc: đề tựa Tản Đà: đề tựa 1934 Trần Tuấn Khải: duyệt lại Nam ký: Hán Việt văn biểu Hư Chu: Sắp xếp lại năm 1998 1- Lời nhà xuất bản cho biết: sách được in lần đầu từ năm 1926 đến năm 1938 mới trọn bộ. Và đã in lại mấy lần kể cả ở miền nam trước thời giải phóng 2- Tác giả Trần Khánh Dư được in ở trang 24 với bài Bán than như sau Một gánh kiền khôn quẩy tếch ngàn Hỏi chi bán đó, dạ rằng than Ít nhiều miễn được đồng tiền tốt, Hơn thiệt nài bao gốc củi tàn Ở với lửa hương cho vẹn kiếp Thử xem sắt đá có bền gan Nghĩ mình lem luốc toan nghề khác Nhưng sợ trời kia lắm kẻ hàn 3- Sách Văn đàn bảo giám liệt kê 226 tác giả, trong đó 66 vị được ghi vào mục TIỂU SỬ CÁC BỰC THI HÀO VIỆT NAM. Chín người đầu danh sách này tuần tự là Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tôn, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Đoàn thị Điểm, Phạm Thái, Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du. Trần Khánh Dư ở thứ hạng 65. 4- Tiểu sử Trần Khánh Dư được ghi trong 4 dòng “Trần Khánh Dư là tôn thất nhà Trần, phải cách chức ra ở Chí Linh (Hải Dương), đốt củi bán than. Sau giặc Nguyên sang xâm, vua Trần Nhân Tôn cho đánh giặc nên bậc danh tướng” (Nguyễn Quốc Toàn 9 tháng 3 VỚI HOÀNG KIM (9.3.2021).

Kính anh Nguyễn Quốc Toàn. Tiểu sử Trần Khánh Dư sách “Văn đàn bảo giám”được ghi trong 4 dòng “Trần Khánh Dư là tôn thất nhà Trần, phải cách chức ra ở Chí Linh (Hải Dương), đốt củi bán than. Sau giặc Nguyên sang xâm, vua Trần Nhân Tôn cho đánh giặc nên bậc danh tướng”. Thầy Nguyễn Khoa Tịnh năm 1970 nhận xét: “Trần Khánh Dư không phải là người tham lam, lem luốc. Ông là thiên tử nghĩa nam của vua Trần Thánh Tông, lại là cháu nội trưởng tộc của thống soái quốc sư Trần Thủ Độ, con trai trưởng của thượng tướng Trần Phó Duyệt, trấn thủ đất hương hỏa Nhà Trần tại Chí Linh, lại thông dâm với Thiên Thụy công chúa là chị gái ruột của vua trần Nhân Tông, vợ của Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn con trai trưởng của Trần Quốc Tuấn. Tướng Trần Khánh Dư trấn thủ Vân Đồn cổ họng của chiến địa Bắc Hà, Sự việc này chắc chắn có uẩn khúc. Trần Khánh Dư văn chương đây. Ông ấy nhất đình hàm oan”. Thầy Hoàng Ngọc Dộ (anh Hai của Hoàng Kim) tiếp lời: “Tui cũng nghĩ vậy “Thấy quái không thấy quái”, giỏi giang là do ba vua sáng đầu thời Trần là Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trân Nhân Tông giỏi tri tâm thuật biết tiết chế đức dụng nhân ‘nắm được lòng dạ của các bậc anh hùng” mới được như vậy. Ba vua giỏi dùng được các cặp ‘song kiếm hợp bích’ kỳ tài muôn đời như Trần Thủ Độ & Trần Thị Dung; Trần Quốc Tuấn & Thiên Thành Công chúa; Trần Quốc Nghiễn & Thiên Thụy Công chúa & Trần Khánh Dư; và cả Phạm Ngũ Lão và Anh Nguyên quận chúa nữa. Tui cũng tin là Trần Khánh Dư bị hàm oan, chẳng qua ông không màng chuyện thị phi và đã có vua cùng người tri kỷ thấu hiểu ông rồi Công đức là thiên thu, phước lớn muôn đời rồi

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là mua.jpg

TRẦN KHÁNH DƯ VẸN KIẾP

Nhà Trần trong sử Việt
Thái Tông và Hưng Đạo
Lời dặn của Thánh Trần
Lời khuyên thói quen tốt


Lời Thầy dặn thung dung
Biết mình và biết người
Kế sách một chữ Đồng
Quốc Công đạo làm tướng


Tiết Chế đức dụng nhân
Trần Thánh Tông minh quân
Thầy Tuệ Trung Thượng Sĩ
Trúc Lâm Trần Nhân Tông

Nguyễn Du trăng huyền thoại
Đặng Dung thơ Cảm hoài
Đào Duy Từ còn mãi
Mai Hạc vầng trăng soi


Ăn cháo nói càn khôn
Trần Khánh Dư vẹn kiếp
Tự do ngời tâm đức
Văn chương ngọc cho đời

Hoàng Kim
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tran-khanh-du-ven-kiep

“Thầy quái không thấy quái”:

Chuyện bây giờ mới kể. Một ngày thu năm 1970, thầy Nguyễn Khoa Tịnh dạy văn sử của Trường cấp ba Bắc Quảng Trạch từ mờ sớm đã đi xe đạp sang nhà anh em tôi. Thầy nói: “Thầy Dộ, (xem Hoàng Ngọc Dộ khát vọng) thầy đọc dùm cho bài thơ này. Trần Khánh Dư không phải là người tham lam, lem luốc. Ông là thiên tử nghĩa nam của vua Trần Thánh Tông, lại là cháu nội trưởng tộc của thống soái quốc sư Trần Thủ Độ , con trai trưởng của thượng tướng Trần Phó Duyệt, trấn thủ đất hương hỏa Nhà Trần tại Chí Linh, lại thông dâm với Thiên Thụy công chúa là chị gái ruột của vua trần Nhân Tông, vợ của Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn con trai trưởng của Trần Quốc Tuấn. Tướng Trần Khánh Dư trấn thủ Vân Đồn cổ họng của chiến địa Bắc Hà, Sự việc này chắc chắn có uẩn khúc. Trần Khánh Dư văn chương đây. Ông ấy nhất đình hàm oan. Thầy đọc bài thơ đi. Văn chương ngọc cho đời. 51 năm sau (1970- 2021), thầy Tịnh và anh Hai tôi đã mất, câu chuyện tuổi thơ tôi còn đó với cuộc đời sự tranh cải về việc “Ở với lửa hương cho vẹn kiếp. Thử xem sắt đá có bền gan” vẫn nghị luận chưa xong. (Thầy Nguyễn Khoa Tịnh là người tặng tôi bài thơ Em ơi can đảm lên và Sách Binh Thư Yếu Lược, mà tôi đã mang theo cho tới ngày nay, sau bao nhiêu đổi thay về nơi ở, nhà ở và tôi tự hứa lòng mình, đọc lại và suy ngẫm, trọn đời),

(*) Theo thaibinh.gov.vn Trần Thủ Độ và khoảng trống phía sau cuộc đời ông,[1] đã đúc kết thông tin về Trần Thủ Độ như sau:::

Thông qua các tài liệu chính sử và văn bia, thần phả, thần tích, chúng ta được biết, Trần Thủ Độ là người có bản lĩnh chính trị và cá tính khác thường. Ông xử lý việc gì cũng thẳng thắn, quả quyết theo ý chí của mình, ít khi để cho tình cảm sai khiến. Ông là người luôn đặt lợi ích của dòng họ Đông A lên trên.

Có thể nói ông là nhân vật trụ cột, là người thực hiện thành công ý tưởng đoạt ngôi vua triều Lý về tay triều Trần mà Trần Tự Khánh trước đây thường ấp ủ nhưng không thực hiện được vì ông mất sớm (1223). Trần Thủ Độ là một đại công thần, là người sáng lập và trực tiếp lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước những năm đầu thời kỳ nhà Trần. Trong suốt 40 năm (1226-1264), cuộc đời và sự nghiệp của ông gắn liền với nghiệp đế của họ Trần, với quá trình khôi phục và phát triển kinh tế xã hội Việt Nam từ đống tro tàn của triều Lý vào thế kỷ XIII.

Chiến công oanh liệt đánh bại quân xâm lược Mông Cổ lần thứ nhất (1258) và câu nói bất hủ, khảng khái, thể hiện ý chí của người anh hùng: “Đầu thần chưa rơi, xin bệ hạ đừng lo” của ông, đã để lại trong dân tộc Việt Nam một hình tượng Trần Thủ Độ anh hùng, bất khuất, tài năng, quả cảm. Đánh giá về ông xưa nay vẫn có nhiều cách nhìn nhận khác nhau; nhưng không thể phủ nhận được công lao to lớn của ông với Vương triều Trần và nhà nước Đại Việt.

Trần Thủ Độ sinh năm Giáp Dần (1194), ở Lưu Gia, Tinh Cương, hương Đa Cương (nay là làng Lưu Xá, xã Canh Tân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).

Theo nguồn tư liệu điền dã của cụ Dương Quảng Châu, thì thân sinh của Trần Thủ Độ là Trần Hoằng Nghị. Đáng tiếc các tư liệu điền dã đó chưa đủ cơ sở để chứng minh một cách khoa học, chính xác về thân phụ của Trần Thủ Độ. Chính sử đều ghi ông mồ côi cha mẹ từ bé và ở với bác là Trần Lý chứ không ghi rõ bố mẹ ông là ai.


Thực tế khảo sát điền dã ở làng Mẹo (Thái Phương, Hưng Hà), chúng ta đã thấy rõ đền đình ở đây thờ lục vị thần hoàng (những vị thần hoàng này không có ai là họ Trần như một số người lầm tưởng); và cũng không thờ vị nào tên là Trần Hoằng Nghị được tôn là thần hoàng hay phúc thần của làng. Nhân vật được thờ ở làng Xuân La và Phương La là “Trang Nghị Đại Vương”. Đây là nhân vật mà một số nhà nghiên cứu cho rằng đó là Trần Hoằng Nghị, nhưng theo thần phả, thần tích ở đình làng Xuân La thì Trang Nghị Đại Vương là một Thiên thần (con thần sấm) được vua Đường Trung Quốc và Cao Biền phong cho chứ không phải là một nhân thần.

Thực tế, nếu một người có công với dân với nước như Trần Hoằng Nghị: Khai hoang, lập ấp, dạy dân làm nghề, mở chợ, buôn bán và lại là thân sinh của Trần Thủ Độ (?) thì chắc hẳn triều đình phong kiến ngày xưa chí ít cũng phải phong cho ông làm một chức gì đó hoặc tôn ông làm thần hoàng và thờ ở đình làng. Ngay cả Trần Thủ Độ cũng không được thờ ở làng ứng Mão xa xưa thì quả là điều vô lý vì nó trái với đạo lý uống nước nhớ nguồn của người Việt Nam. Từ đó có thể nói rằng, đền Nhà Ông và Trần Hoằng Nghị không liên quan đến Trần Thủ Độ. Ông sinh ra ở Lưu Xá chứ không phải ở làng Mẹo như một số người lầm tưởng.


“Đại Việt sử ký toàn thư” từng ghi nhận thời Trần có hai người được vua cho lập sinh từ thờ khi vẫn còn sống là Trần Thủ Độ và Trần Quốc Tuấn. Vậy chẳng lẽ bố Trần Thủ Độ lại không được thờ phụng hoặc được truy phong, chí ít cũng là thần hoàng của một làng (?). Trong khi đó ở Hưng Hà hiện có năm làng thờ Trần Thủ Độ nhưng không phải là ở làng Mẹo mà là ở tổng Tống Xuyên xưa (nay gồm các xã Thái Hưng, Liên Hiệp thuộc Hưng Hà, Thái Bình).

Điều đó rõ ràng không phải nhà Trần quên Trần Hoằng Nghị mà thực ra không có nhân vật này. Thực tế chỉ có vị Thiên thần Trang Nghị Đại Vương được thờ ở xã Thái Phương mà thôi. Vì thế, không thể nói khi chưa đủ chứng cứ để khẳng định có nhân vật Trần Hoằng Nghị và càng không thể nói ông là thân sinh của Trần Thủ Độ được. Giáo sư Vũ Khiêu trong tổng kết cuộc hội thảo về Trần Hoằng Nghị tại Hà Nội năm 2007, khi đánh giá về việc ai là thân sinh của Trần Thủ Độ, đã nói: “Đây là vấn đề tồn nghi cần phải tìm hiểu các tư liệu ở các địa phương trong nước và ngoài nước. Tiến hành hội thảo nhiều lần mới đi đến kết luận chính xác được”.

Thực tế bố mẹ Trần Thủ Độ là ai, đến nay qua bảy, tám trăm năm vẫn chưa ai giải đáp được (kể cả Lê Văn Hưu – sử gia thời Trần; Phan Phu Tiên và Ngô Sĩ Liên – thời Lê).


Chính sử khẳng định Trần Lý ở Lưu Gia trang và chính sử cũng cho biết Trần Lý nuôi Trần Thủ Độ từ nhỏ. Từ đó có thể nói Trần Thủ Độ sinh ra ở đất Lưu Xá (Hưng Hà, Thái Bình). Cuộc đời Trần Thủ Độ là cuộc đời của một con người tài ba, thao lược cả về chính trị, quân sự và kinh tế… Có thể nói sau khi Trần Tự Khánh chết (1223), Trần Thủ Độ là người kế tục một cách xuất sắc sự nghiệp toan tính giành ngôi từ vương triều nhà Lý về tay nhà Trần. Đỉnh cao của toan tính này là “màn kịch” nhường ngôi vua của Lý Chiêu Hoàng cho chồng là Trần Cảnh vào cuối thời Lý (1225); mở đầu cho giai đoạn nắm quyền cai trị nước Đại Việt của Vương triều Trần. Khi còn sống, Trần Thủ Độ là người nắm thực quyền và là linh hồn của Vương triều Trần. Sử chép: “Thủ Độ tuy làm Tể tướng, nhưng mọi việc không việc gì là không để ý tới”. Thực tế khi Trần Cảnh bị ép lấy chị dâu (vợ Trần Liễu), bỏ lên Yên Tử nhưng cuối cùng cũng phải quay về kinh thành trước sự cứng rắn và khôn khéo của Trần Thủ Độ: “Vua ở đâu thì kinh thành ở đó”. Với tư tưởng có dựng được nước mạnh mới giữ được nước bền, Trần Thủ Độ tiến hành từng bước đổi mới đất nước Đại Việt.

Trần Thủ Độ là người không chỉ có mưu lược trong việc dựng nước và giữ nước mà ông còn là một người có đầu óc tổ chức, phát triển kinh tế đất nước. Các tư liệu lịch sử về việc đổi mới kinh tế thời Trần (khi Trần Thủ Độ còn sống) không có nhiều, nhưng qua các tài liệu hiện còn lưu giữ, ta có thể thấy rằng khi thực sự nắm quyền điều hành đất nước, Trần Thủ Độ và Vương triều Trần đã nhận thấy sự yếu kém về kinh tế của nhà nước Đại Việt dưới thời Lý Huệ Tông. Vì thế ông đã tiến hành cho phép chuyển công hữu thành tư hữu.

Cụ thể, “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi: “Tháng Sáu bán ruộng công, mỗi diện 5 quan tiền (diện tương đương với mẫu bây giờ), cho phép nhân dân mua làm ruộng tư”.

Sau khi đã nắm thực quyền trong tay, Thủ Độ đã tấu với vua không chỉ bán ruộng cho những người nông dân không tấc đất cắm dùi mà ông còn củng cố đê điều, đắp đê ngăn nước mặn, đào sông khai thông đường thuỷ, bộ. “Đại Việt sử ký toàn thư” viết: “Tháng 3, sai các lộ đắp đê giữ nước sông, gọi là đê Đỉnh Nhĩ (Quai Bạc), đắp suốt từ đầu nguồn đến bờ biển để giữ nước lụt khỏi tràn ngập. Đặt chức Hà đê Chánh phó sứ để trông coi. Chỗ đắp thì đo xem đắp mất bao nhiêu ruộng đất của dân, theo giá trả lại tiền. Đắp đê Đỉnh Nhĩ bắt đầu từ đấy”(1). Qua các tài liệu lịch sử triều đại thì các công trình thuỷ lợi dẫn nước, tiêu nước sản xuất nông nghiệp ở thời nhà Trần phát triển rất cao.

Trần Thủ Độ huy động không chỉ sức dân mà còn lệnh cho binh lính phải tham gia làm thuỷ lợi. “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi: “Tân Mão năm thứ 7 (1231), (Tống Thiên Định năm thứ 4), mùa xuân, tháng giêng, sai Nội Minh Tự là Nguyễn Bang Cốc (hoạn quan) trông coi các binh hữu đường phủ, đào vét các kênh trầm và hào từ phủ Thanh Hoá đến cõi Nam Diễn Châu”(2). Được sự tấu trình của Trần Độ, Trần Cảnh xuống chiếu cho cả nước Đại Việt dùng tiền “tinh bạch”, mỗi tiền là 60 đồng (tiền nộp cho nhà nước là tiền thượng cung thì mỗi tiền là 70 đồng).

“Năm Bính Thìn (1236), mùa xuân, tháng giêng, định lệ cấp lương bổng cho các quan văn võ trong triều và các quan ở cung điện, lăng miếu, chia tiền thuế ban cấp theo thứ bậc” (Sđd). Không những thế, Trần Thủ Độ còn bỏ tiền đánh thuế bằng hiện vật, thu thuế bằng tiền mặt. Một sự đổi mới chính sách thuế theo sở hữu ruộng đất cũng là một việc làm hơn hẳn các triều đại trước. Nó thể hiện tư duy phát triển kinh tế rất cao của Trần Thủ Độ: “Nhân dân có ruộng đất thì nộp tiền thóc, người không có ruộng đất thì miễn cả… (riêng tô vẫn thu bằng thóc)” (Sđd).

“Tháng Chín, xuống chiếu cho các ty xét án được lấy tiền bình bạc” hoặc “duyệt sổ đinh” để thu thuế và cũng là để điều động xây dựng kinh tế, thành lập ra 61 phường ở kinh thành để quản lý việc giao thương. Rõ ràng, dưới sự quản lý và chỉ đạo của Trần Thủ Độ, kinh tế Đại Việt đã phát triển mạnh mẽ, việc buôn bán giao lưu bằng đường bộ, đường sông rất thuận lợi, không những thế ông còn chú trọng mở các thương cảng ven sông, biển để đẩy mạnh việc giao lưu buôn bán hàng hoá trong nước và ngoài nước.

Không chỉ chú trọng phát triển kinh tế mà ông còn chủ trương phát triển Nho học. Trần Thủ Độ tâu vua cho xây Quốc Tử Giám, đẩy mạnh việc thi cử để tuyển chọn hiền tài cho đất nước: “Tháng 2 (1232), thi thái học sinh. Đỗ đệ nhất giáp là Trương Hanh, Lưu Diễm, đệ nhị giáp là Đặng Diễn, Trịnh Phẫu, đệ tam giáp là Trần Chu Phổ”(1).

“Đinh Mùi năm thứ 16 (1247), mùa xuân, tháng 2, mở khoa thi chọn học trò. Cho Nguyễn Hiền đỗ trạng nguyên, Lê Văn Hưu đỗ bảng nhãn, Đặng Ma La đỗ thám hoa, lấy đỗ thái học sinh 48 người”(2). Chính nhờ sự chú ý và coi trọng (hiền tài là nguyên khí quốc gia) nên thời nhà Trần đã xuất hiện rất nhiều hiền tài phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đặc biệt là trong ba cuộc chiến tranh chống Nguyên Mông, các nhân sĩ, tướng lĩnh Đại Việt, tuổi trẻ tài cao đã góp phần làm vẻ vang cho lịch sử dân tộc như: Nguyễn Hiền, Đặng Ma La, Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải v.v…

Trần Thủ Độ còn hoạch định: “Chép công việc của quốc triều làm Bộ Quốc triều thường lễ, 10 quyển” (Sđd).

Ông đề ra khung bậc, thể thức của luật hình. Tạo đường cho Bộ Quốc triều hình luật ra đời để tiện việc nắm tình hình đất nước, quản lý chặt chẽ hơn. Trần Thủ Độ chia nước thành 12 lộ, mỗi lộ đặt chức chánh phủ xứ. Trần Thủ Độ còn duyệt định hộ khẩu trong cả nước, đặt các chức quan đại tư xã cùng các chức xã chính, xã quan. Không chỉ là người đề ra các tư tưởng pháp trị, mà ông còn để lại cho đời sau tấm gương về tính thẳng thắn, nghiêm túc trong việc thi hành luật. Đối với ông, luật pháp không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, bất cứ ai, dù là đối tượng nào, ở vị trí nào đi chăng nữa, nếu vi phạm lụât pháp đều bị xử lý theo đúng quốc luật đã ban hành. Nặng hay nhẹ tuỳ thuộc vào hành vi vi phạm luật của người đó.

“Đại Việt sử ký toàn thư” chép: “Thủ Độ tuy không có học vấn nhưng tài lược hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tôn lấy được thiên hạ đều là mưu sức của Trần Thủ Độ cả, cho nên nhà nước phải nhờ cậy”… (tr.478).

Tài năng nhìn người của ông được thể hiện ở việc “khi vua Trần Thái tông muốn cho người anh của Thủ Độ là An Quốc làm tướng, Thủ Độ nói: “An Quốc là anh thần, nếu là người hiền thì thần xin nghỉ việc, nếu cho là thần hiền hơn An Quốc thì không nên cử An Quốc”… vua bèn thôi”(1). Phải chăng, Trần Thủ Độ đã sớm nhìn ra tính cách hai mặt của anh trai mình? Sự thật sau này An Quốc đã cùng với vợ (tương truyền là một công chúa nhà Lý) nổi loạn chống lại nhà Trần ở Quắc Hương, Vụ Bản, Nam Định. Cuộc nổi loạn đã bị chính Trần Thủ Độ dẹp tan. Phải khẳng định rằng ông là người có bản lĩnh chính trị và cá tính đặc biệt trong lịch sử Việt Nam. Ông làm việc gì cũng dứt khoát, xử lý quyết đoán theo ý chí của mình, ít để cho người khác sai khiến.

Ông luôn là người đi tiên phong trong cuộc đấu tranh giành ngôi vua từ tay nhà Lý chuyển sang nhà Trần cũng như các cuộc chiến đấu chống lại các phe phái như Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn hoặc trong kháng chiến chống Nguyên Mông. Đối với ông hoặc là chết cả họ hoặc là được cả thiên hạ! Bất cứ việc gì có lợi cho dòng tộc nhà Trần thì ông đều quyết làm bằng được. Ông là người đa mưu túc trí, khi đánh dẹp các thế lực chống đối, ông thấy thắng thì đánh, thấy cần hòa hoãn để đợi thời cơ thì tiến hành đàm phán. Thậm chí gả cả em gái vua cho Nguyễn Nộn hoặc phong vương cho Nguyễn Nộn và Đoàn Thượng (Đông Hải Đại Vương). Không những thế, ông còn bày mưu chia rẽ, gây mâu thuẫn để Nguyễn Nộn tiến đánh và giết Đoàn Thượng, nhằm mượn tay người để giảm bớt lực lượng chống đối mình.

Khi giặc Nguyên xâm lược Đại việt lần thứ nhất, ông là linh hồn của cuộc kháng chiến với câu nói bất hủ “Đầu tôi chưa rơi xuống đất thì bệ hạ không cần lo ngại gì cả”(1). Ông là người ngồi trong màn trướng mà định việc thiên hạ; chỉ đạo các tướng Lê Tần, Trần Khánh Dư, Trần Phó Duyệt và kể cả Trần Hưng Đạo (lúc đó còn trẻ) ra trận. Ngay chính cả vua Trần Thái Tông, thái tử Trần Hoảng… cũng đều vác gươm đánh giặc. Trần Thủ Độ là nhà chính trị, kinh tế, quân sự toàn tài.

Ông một lòng trung thành với triều đình nhà Trần. Đối với ông, Vương triều Trần là tất cả. Ngay cả việc ép vợ Trần Liễu gả cho Trần Cảnh ông cũng dám làm. Không phải ông không nghĩ tới việc Trần Liễu có hay không có động thái phản ứng; mà điều ông quan tâm nhất là tương lai của ngai vàng triều đình do ông tốn bao công sức xây dựng lên, liệu có người nối dõi hay không. Ông quả là một công thần hiếm có của Vương triều Trần – Đại Việt và là một người anh hùng của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ thứ XIII.
  Sử chép: “Giáp Tý năm thứ 7 (1264), Tống cảnh định năm thứ 5, Nguyên chí nguyên năm thứ 1, mùa xuân, tháng giêng, Thái sư Trần Thủ Độ chết (tuổi 71), truy tặng Thượng phụ Thái sư Trung Vũ Đại Vương”.

Theo tác giả Dương Tâm vnexpress.net, Trần Khánh Dư võ tướng lắm tài nhiều tật, [2] ông “lập chiến công trong cuộc chiến chống quân Nguyên Mông, nhưng Trần Khánh Dư từng mắc tội thông dâm, lợi dụng chức quyền để buôn bán”.. Tác giả Dương Tâm đã trích dẫn sử liệu dưới đây để thể hiện sự đồng tình với dư luận đã phê phán đối với Tiểu thuyết lịch sử đoạt giải quốc gia gây bàn tán với yếu tố sex :

(trích) ” Vậy Trần Khánh Dư được sách sử ghi lại như thế nào? Rất ít tài liệu ghi chép về chuyện thiếu thời của Trần Khánh Dư. Năm sinh của ông cũng không rõ, chỉ biết ông quê ở Chí Linh (Hải Dương), là con trai của thượng tướng Trần Phó Duyệt. Ông có tài mưu lược, dùng binh, uyên thâm văn sử, song cũng nhiều tật. 

Mắc tội thông dâm với công chúa 

Trong Lịch triều hiến chương loại chí, nhà sử học Phan Huy Chú viết Trần Khánh Dư là người tôn thất nên được phong tước Nhân Huệ vương. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất (năm 1258), ông thường thừa cơ đánh úp và giành thắng lợi. Trần Khánh Dư được vua Trần Thánh Tông khen trí dũng, phong làm Thiên tử nghĩa nam (tức con nuôi của vua).

Sau khi đánh người Man ở núi, đại thắng, Trần Khánh Dư lại được phong Phiêu Kỵ đại tướng quân. Chức Phiêu Kỵ nếu không phải là hoàng tử thì không được phong, vì ông là con nuôi vua nên mới được. Ông được vua yêu, từ tước hầu mấy lần được phong lên Thượng vị hầu áo tía, rồi cất lên làm phán thủ”, sách Lịch triều hiến chương loại chí chép.

Thời gian làm quan trong triều, Trần Khánh Dư đã mắc trọng tội. Ông thông dâm với công chúa Thiên Thụy, con gái của vua Trần Thánh Tông, vợ của Trần Quốc Nghiễn (con trai của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn). Sự việc xảy ra trước năm 1282 bị bại lộ, Trần Khánh Dư bị bắt, theo luật thời bấy giờ phải bị xử tội chết, tịch thu hết tài sản.

Vua Trần Thánh Tông rơi vào tình thế khó xử. Không xử Trần Khánh Dư tội chết thì luật pháp không nghiêm và gây ra nỗi hận thù cho Trần Quốc Nghiễn. Vua phải nể mặt Hưng Đạo Vương, nhưng cũng không thể giết người con nuôi vừa có tài, vừa có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Cuối cùng, vua cho dùng cực hình, phạt Khánh Dư 100 trượng, đánh tại Hồ Tây.

Theo luật bấy giờ, đánh 100 roi không chết là thiên mệnh cho sống. Vì vậy, vua Thánh Tông đã ngầm ra lệnh cho quan sai nha đánh chúc gậy xuống khiến Khánh Dư đau nhưng không chết. Như vậy, mọi người đều công nhận ông sống là do “thiên mệnh soi sáng”. Cách của vua coi như thành công, hợp lòng người.

Mặc dù không chết, Trần Khánh Dư vẫn bị tịch thu hết tài sản, phế truất binh quyền. Ông về quê cha ở Chí Linh làm nghề bán than kiếm sống.

Cuộc gặp gỡ với vua Trần Nhân Tông và chiến công hiển hách

Tháng 10/1282, khi nhà Trần tổ chức hội nghị Bình Than, vua Trần Nhân Tông gặp Khánh Dư (khi đó Trần Thánh Tông là Thái Thượng hoàng). Theo Đại Việt sử ký toàn thư, lúc thuyền của vua đỗ ở bến Bình Than thì bắt gặp một thuyền lớn chở than củi, người lái thuyền đội nón lá, mặc áo ngắn. Vua đoán là Khánh Dư, sai người chèo thuyền đuổi theo.

Đến cửa Đại Than, quân hiệu gọi “Ông lái ơi có lệnh vua gọi”. Khánh Dư trả lời “Lão là người buôn bán, có việc gì mà vua gọi”. Quân hiệu trở về tâu lại sự việc thì vua chắc chắn đó là Nhân Huệ vương bởi “người thường tất không dám nói thế”, liền sai nội thị đi gọi.

Nam nhi mà đến thế là cùng cực lắm rồi”, vua nói khi Khánh Dư đến gặp rồi xuống chiếu tha tội cho ông, ban áo ngự, cho ngồi ở hàng dưới các vương, hàng trên công hầu. Trần Khánh Dư bàn việc nước, nhiều điều hợp ý vua.

Khi quân Nguyên Mông xâm lược Đại Việt lần thứ ba (năm 1287), thủy quân Nguyên đánh vào Vân Đồn (Quảng Ninh ngày nay), Hưng Đạo Vương giao hết công việc biên thùy cho phó tướng Vân Đồn lúc đó là Trần Khánh Dư.

Khánh Dư để thất thủ, Thượng hoàng Trần Thánh Tông hay tin liền sai trung sứ đến xiềng ông giải về kinh. Khánh Dư nói với trung sứ: “Lấy quân pháp mà xử, tôi cam chịu tội, nhưng xin khất vài ba ngày để tôi mưu lập công rồi về chịu tội búa rìu cũng chưa muộn”. 

Khánh Dư biết thủy quân của giặc đã qua, thuyền vận tải lương thực chắc chắn theo sau nên thu thập tàn quân đợi chúng. Khi thuyền vận tải lương thực đến, ông đánh bại, bắt được rất nhiều quân lương, khí giới, tù binh của giặc.

Cho rằng chỗ trông cậy của quân Nguyên là lương thảo và khí giới, nay bị quân Đại Việt bắt, vua tha tội cũ cho Trần Khánh Dư, đồng thời thả tù binh về doanh trại quân Nguyên Mông để báo tin. Điều này buộc quân giặc rút lui.

Sách Danh tướng Việt Nam viết, ngoài tài dùng binh, Trần Khánh Dư còn uyên thâm văn sử. Ông viết bài tựa cho cuốn sách nghệ thuật quân sự “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Đoạn mở đầu, ông viết: “Người giỏi cầm quân thì không bày trận, người giỏi bày trận thì không phải đánh, người giỏi đánh thì không thua, người khéo thua thì không chết”.

Lợi dụng chức quyền để buôn bán 

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Trần Khánh Dư trấn giữ Vân Đồn, người dân ở đó lấy buôn bán làm kế sinh nhai. Mọi thức ăn uống, may mặc dựa vào khách buôn phương Bắc, quần áo, đồ dùng đều theo tục của người Bắc.

Khánh Dư duyệt quân trang thấy vậy liền ra lệnh: “Quân trấn giữ Vân Đồn để ngăn phòng giặc Hồ, không thể đội nón của phương Bắc, sợ khi vội vàng khó lòng phân biệt. Phải đội nón Ma Lôi (tên một hương ở Hồng Lộ chuyên nghề làm nón), ai trái tất phải phạt”.

Thực tế trước đó Khánh Dư đã ngầm sai người nhà mua nón Ma Lôi. Thuyền chở nón đã đến đậu trong cảng. Lệnh vừa ban ra, ông lại ngầm sai người phao tin “hôm qua thấy trước vùng biển có thuyền chở nón Ma Lôi đến đậu”. Nhận được tin, người dân tranh nhau mua nón. Ban đầu mua không tới một tiền, sau một chiếc nón đổi một tấm vải. Số vải thu được tới hàng nghìn tấm.

Thơ của một người khách phương Bắc có câu “Vân Đồn gà chó hết thảy đều kinh sợ” là mượn ý sợ uy danh của Khánh Dư, thực là châm biếm ông. Vua cho Khánh Dư là tướng tài, lập được nhiều công lao nên không hỏi đến việc này.

Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết Trần Khánh Dư có công lao đánh quân Nguyên Mông, nhưng “có tính tham lam, phàm giữ chức trấn thủ ở nơi nào, người trong hạt đều oán ghét”.

Trần Khánh Dư mất năm 1340. Ngày nay, ở bến Đình thuộc xã Quan Lạn (Vân Đồn, Quảng Ninh), người dân vẫn tổ chức lễ hội Quan Lạn, nhằm kỷ niệm chiến thắng Vân Đồn của Trần Khánh Dư.

Nhìn nhận về Trần Khánh Dư, nhà sử học hiện đại Nguyễn Khắc Thuần đã bàn trong Việt sử giai thoại: “Biết được tài của Khánh Dư là vua Trần mà biết được tật của Khánh Dư có lẽ cũng chỉ có vua Trần. Tài thì dùng, tật thì trị… Tiếc thay, Khánh Dư chẳng bỏ được lỗi lầm. Hóa ra, khai sinh danh tướng Trần Khánh Dư là vua Trần, còn khai tử uy danh Trần Khánh Dư lại chính là Trần Khánh Dư”.

Nguyễn Khắc Thuần cũng khẳng định: “Nhờ tài cao mà lập được công lớn nhưng cũng bởi đức mỏng mà để tiếng xấu với đời. Nhân Huệ vương Khánh Dư quả có lý lịch khác thường vậy. Sau Khánh Dư còn nói Tướng là chim ưng, quân dân là vịt, lấy vịt để nuôi chim ưng thì có gì lạ. Sợ thay”!

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là goc-mai-vang-truoc-ngo.jpg

NÔNG LỊCH TIẾT THU PHÂN
Hoàng Kim


Giữa thu chầm chậm nắng lên
Hơi may lành lạnh, êm đềm vườn thu
Mai vàng vẫn mướt cành tơ
Chùm hoa tứ quý bao giờ nở xong
Sớm Thu thơ ở giữa lòng
Thu như mắt lá mãi mong ngày dài.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nong-lich-tiet-lap-dong.jpg

24 TIẾT KHÍ NÔNG LỊCH
Hoàng Kim


Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
Di sản Việt Nam học mãi không cùng
Mình học để làm hai bốn tiết khí
Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.

Đất cảm trời thương lòng người gắn bó
Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
Bởi biết rằng năm tháng đó là em.

6 tháng Một bắt đầu rét nhẹ
21 tháng Một trời lạnh cắt da
4 tháng Hai ngày xuân mới đến
20 tháng Hai Thiên Địa Nhân hòa.

Đồng dao cho em khuyên em đừng tưởng
Câu chuyện mùa xuân thêm cho mồng Ba
Trải Cốc Vũ qua ngày Hạ Chí
Đại Thử rồi Sương Giáng thành hoa.

6 tháng Năm là ngày Hè đến
22 tháng Năm mưa nhỏ, vào mùa
5 tháng Sáu ngày Tua Rua mọc
21 tháng Sáu là chính giữa Hè.

7 tháng Bảy là ngày nắng nhẹ
23 tháng Bảy là tiết nóng oi
7 tháng Tám Lập Thu rồi đó
23 tháng 8 trời đất mưa Ngâu

Qua Xử Thử đến tiết trời Bạch Lộ
Sau Mưa Ngâu đến Nắng nhạt đấy em.
Tiết Thu Phân khoảng 23 tháng 9
Đối lịch nhà nông em nhớ đừng quên.

Tiết Hàn Lộ nghĩa là trời mát mẻ
Kế tiếp theo là Sương Giáng (sương mù)
23 tháng 10 mù sa dày đặc
Thuyền cỏ mượn tên nhớ chuyện Khổng Minh.

Ngày 7 tháng 11 là tiết lập đông
23 tháng 11 là ngày tiểu tuyết
8 tháng 12 là ngày đại tuyết
22 tháng 12 là chính giữa đông.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 24-tiet-khi-lich-nha-nong.jpg

Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
Di sản Việt Nam học mãi không cùng
Mình học để làm 24 tiết khí
Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.

Mùa vụ trồng cây, kinh nghiệm nghề nông
Xin em đừng quên điều ông bà dạy
Xuân Hạ Thu Đông hai bốn tiết khí
Khoa học thiên văn ẩn ngữ đời người.

Đất cảm trời thương, lòng người gắn bó
Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
Bởi biết rằng năm tháng đó là em.

SỚM THU THƠ GIỮA LÒNG
Hoàng Kim

Ai thương núi nhớ biển
Vui thu măng mỗi ngày
Ai chợp mắt Tam Đảo
Nắng lên là sương tan
Ai tỏ Ngọc Quan Âm
Vui bước tới thảnh thơi

*

Tỉnh thức ban mai đã sớm thu
Sương đêm giữ ngọc ướt cành tơ
Ai ơi gieo đậu vừa rồi đấy
Lộc biếc me xanh chín đợi chờ.

*

Sớm thu trên đồng rộng
Em cười trời đất nghiêng
Lúa ngậm đòng con gái
Em đang thì làm duyên.

Sớm thu trên đồng rộng
Cây đời xanh thật xanh
Lúa siêu xanh tỏa rộng
Hương lúa thơm mông mênh.

Sớm thu trên đồng rộng
Trời đất đẹp lạ lùng
Bản nhạc vui an lành
Ơi đồng xanh yêu dấu…

*

Thích thơ hay bạn quý
Yêu sương mai đầu cành
Bình minh chào ngày mới
Vườn nhà bừng nắng lên

Trà sớm nhớ bạn hiền
Trung thu bánh tình thân
Phố núi cao thu sớm
Gia an nguyên lộc gần.

*

Thanh thản an vui dạo dọn vườn
Vui thầy mừng bạn ngát thêm hương
Đường xuân nhàn hạ phai mưa nắng
Tâm sáng an lành trãi gió sương
Thoắt đó vườn thơm nhiều quả ngọt
Mới hay nhà phước lắm con đường
An nhiên vô sự là tiên cảnh
Sớm thu mai nở nắng thu vương

Sớm thu thơ giữa lòng là thơ liên vận của Hoàng Kim lưu chung với “Mùa thu trong thi ca” gồm 19 bài thơ tinh tuyển chọn lọc: Chớm thu Hoàng Gia Cương; Thu mưa Đỗ Phủ; Thu mưa Nguyễn Hoài Nhơn; Thu vịnh Nguyễn Khuyến; Thu buồn Đỗ Phủ; Thu hứng Đỗ Phủ; Thu sơn Bạch Cư Dị; Chiều thu Nguyễn Bính; Tiếng thu Lưu Trọng Lư; Thu tứ Bạch Cư Dị; Đêm thu Trần Đăng Khoa; Đêm thu Quách Tấn; Thu ẩm Nguyễn Khuyến; Thu ca Chanson d’automne (Paul Verlaine);Thu vàng Alexxandr Puskin; Thu vàng Thu Bồn; Giọt mưa thu Thái Lượng; Nắng thu Nam Trân; Thơ gửi mùa thu Nguyễn Hoài Nhơn; Thư tình gửi mùa thu, nhạc Phan Huỳnh Điểu phổ thơ Xuân Quỳnh ; xem tiếp Mùa thu trong thi ca https://hoangkimlong.wordpress.com/category/som-thu-tho-giua-long/

themphucngayba

NÔNG LỊCH TIẾT HÀN LỘ
Hoàng Kim

Đất cảm trời thương, lòng người gắn bó
Để xa nên gần trước nhớ sau thương
Mình đừng ngại tháng Mười rồi lâu đến
Bởi đêm ngày năm tháng đúc nhân duyên.

Tiết Hàn Lộ nghĩa là trời mát mẻ
Kế tiếp theo là Sương Giáng (sương mù)
23 tháng 10 mù sa dày đặc
Thuyền cỏ mượn tên nhớ chuyện Khổng Minh.

Ngày 7 tháng 11 là tiết lập đông
23 tháng 11 là ngày tiểu tuyết
8 tháng 12 là ngày đại tuyết
22 tháng 12 là chính giữa đông.

6 tháng Một bắt đầu rét nhẹ
21 tháng Một trời lạnh cắt da
4 tháng Hai ngày xuân mới đến
20 tháng Hai Thiên Địa Nhân hòa.

Tảo Mộ, Táo Quân, Tất Niên, Tổ Chạp
Giao thừa, Ngày Xuân, Tết nhớ Mẹ Cha
Phước Đức ngày Ba, cháu con mãi nhớ
Lập Xuân, Nguyên Tiêu, Thiên Địa Nhân Hòa.

themphucngay3

Tứ bách niên tiền, chung phục thuỷ
Thập tam thế hậu, dị nhi đồng… (**)

thaicucdo

(*) Tổ Chạp Bà 17/1 trước Đại Hàn 3 ngày
(**) Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm

phuocducngayba

Câu chuyện ảnh tháng Chín (ON THIS DAY)

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là haihaolinhtamoanh.jpg

CÓ MỘT NGÀY NHƯ THẾ
Hoàng Kim

Chúc mừng tân thạc sĩ
Mừng Hải, Hào, Thùy Linh
Mừng cô giáo hướng dẫn
Giúp em vượt chính mình.

Thắp sáng một niềm tin
Tỏa ngời như nắng ấm
Ngày thước đo cố gắng
Chúc mừng em thành công.

CHUYỆN ĐỒNG DAO CHO EM
Hoàng Kim


Tiếng Việt lung linh sáng
Lời dặn của Thánh Trần
Biết mình và biết người
Kế sách một chữ Đồng

Quốc Công đạo làm tướng
Tiết Chế đức dụng nhân
Văn chương ngọc cho đời
Tự do ngời tâm đức
Ăn cháo nói càn khôn

xem tiếp Ăn cháo nói Càn Khôn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/an-chao-noi-can-khon

truyenthuykieu

NGUYỄN DU NGUYỄN CÔNG TRỨ
Hoàng Kim

Nguyễn Công Trứ “Vịnh Thúy Kiều” đã viết: “Từ Mã Giám Sinh cho tới chàng Từ Hải. Cánh hoa tàn đem bán lại chốn thanh lâu. Bây giời Kiều còn hiếu vào đâu. Mà bướm chán ong chường cho đến thế. Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa. Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm. Bán mình trong bấy nhiêu năm. Đố đem chữ hiếu mà lầm được ai”. Bài thơ ‘Vịnh Thúy Kiều’ của Nguyễn Công Trứ cho dù có thực của ông hay không thì cũng thể hiện một sự thật về sự đánh giá và chính sách của triều đình nhà Nguyễn đối với Nguyễn Du với đám con cháu ‘trung liệt’ cựu thần nhà Lê. Nhà Nguyễn vừa luôn cảnh giác đề phòng vừa tiếc tài mà trọng dụng.

Nguyễn Du viết về Kiều:“Bất tri tam bách dư niên hậu. Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?” (Ba trăm năm nữa chốc mòng. Biết ai thiên hạ khóc cùng Tố Như?) với sự thật Nguyễn Du làm Ngư Tiều https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-lam-ngu-tieu/ có bằng chứng hiển nhiên, cùng với tập thơ Truyện Kiều chữ Nôm có những câu “Bên tình bên hiếu bên nào năng hơn. Để lời thệ hải minh sơn. Làm con trước phải đền ơn sinh thành”, tập thơ Bắc Hành chữ Hán (gồm “Bắc hành tạp lục” 132 bài, “Nam trung tạp ngâm” 16 bài “Thanh Hiên thi tập” 78 bài).đó là câu trả lời Nguyễn Du trước phán xét của triều Nguyễn và lịch sử .
Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ là bài học lớn về phép xử thế của hai bậc cao sĩ giữa đời thường. Cho đến nay chuyện Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ vẫn là câu chuyện thách đố với lịch sử, ẩn ngữ đời người “trơ gan cùng tuế nguyệt”. Nguyễn Du đã vượt lên vinh nhục bản thân giữa thời nhiễu loạn, vàng lầm trong cát để trao ngọc cho đời. Nguyễn Du ra làm quan triều Nguyễn giữ các chức vụ từ tri huyên, cai bạ, cần chánh điện đại hoc sĩ, chánh sứ đến hữu tham tri bộ lễ. Ông là nhà quản lý giỏi, yêu nước thương dân, Nguyễn Du để lại kiệt tác Truyện Kiều di sản muôn đời và Bắc Hành tạp lục kiệt tác sử thi tuyên ngôn ngoại giao nhân nghĩa rạng danh nước Việt.  Nguyễn Du được vua Càn Long kính trọng , được vua Gia Long phong làm làm Hữu Tham tri Bộ Lễ và tước Du Đức hầu sau khi ông làm Chánh sứ ngoại giao nhà Thanh năm 1813 trở về. Cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Du là một bài học lịch sử thật đáng suy ngẫm.

Nguyễn Du trăng huyền thoại 1 Nguyễn Du thơ chữ Hán Kiếm bút thấu tim Người Đấng danh sĩ tinh hoa Nguyễn Du khinh Thành Tổ Bậc thánh viếng đức Hòa 2 Nguyễn Du tư liệu quý Linh Nhạc thương người hiền Trung Liệt đền thờ cổ “Bang giao tập” Việt Trung
Nguyễn Du niên biểu luận 3 Nguyễn Du Hồ Xuân Hương “Đối tửu” thơ bi tráng “Tỏ ý” lệ vương đầy Ba trăm năm thoáng chốc Mại hạc vầng trăng soi. 4 Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ Uy Viễn “Vịnh Thúy Kiều” Tố Như “Đọc Tiểu Thanh” Bến Giang Đình ẩn ngữ Thời biến nhớ người xưa. 5 Nguyễn Du thời Tây Sơn Mười lăm năm tuổi thơ Mười lăm năm lưu lạc
Thời Hồng Sơn Liệp Hộ Tình hiếu thật phân minh 6 Nguyễn Du làm Ngư Tiều Câu cá và đi săn Ẩn ngữ giữa đời thường Nguyễn Du ức gia huynh Hành Lạc Từ bi tráng 7 Nguyễn Du thời nhà Nguyễn Mười tám năm làm quan (1802-1820) Chính sử và Bài tựa Gia phả với luận bàn Bắc hành và Truyện Kiều 8 Nguyễn Du tiếng tri âm Đối tửu cụ Nguyễn Du Đi thuyền trên Trường Giang Nguyễn Du khóc Tố Như Nguyễn Du Kinh Kim Cương 9 Nguyễn Du niên biểu luận Tâm tình và Hồn Việt Tấm gương soi thời đại Ba trăm năm thoáng chốc Mai Hạc vầng trăng soi ; xem tiếp Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ Uy Viễn “Vịnh Thúy Kiều” Tố Như “Đọc Tiểu Thanh” Bến Giang Đình ẩn ngữ Thời biến nhớ người xưa https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-nguyen-cong-tru/

Hoàng Kim

Tài liệu trích dẫn.

Nguyễn Du làm Ngư Tiều mười năm 1796-1802 với biệt hiệu Nam Hải Điếu Đồ (Người đi câu ở biển Nam) và Hồng Sơn Liệp Hộ (Người đi săn ở núi Hồng), đó là ẩn ngữ đời người. Ông trầm tĩnh quan sát với nhãn quan thấu suốt, tầm nhìn minh triết, thông tuệ lạ thường để đánh giá và ứng xử đúng sự chuyển dời vận nước ở những thời khắc quyết định. Nguyễn Du là danh sĩ tinh hoa, hiền tài lỗi lạc, một nhân cách lớn. Nguyễn Du trăng huyền thoại soi tỏ cuộc đời, thời thế, tâm hồn Nguyễn Du https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-trang-huyen-thoai/

ThuyKhueHoTay

Ngôi đền cổ “Cố Lê tiết nghĩa từ” ở địa chỉ ngõ 124, đường Thụy Khê, Hà Nội, cạnh hồ Tây, trên lối cổng chính, đường vào nhà của GS.TS. Vũ Mạnh Hải, cựu Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (ghi chép và chú dẫn: Hoàng Kim).

Lê Quýnh là ai ? Hoàng Lê nhất thống chí viết “Vua cưỡi ngựa đi trước, Lê Quýnh cưỡi ngựa đi sau, quân lính hộ vệ chỉ vài chục người. Người trong kinh có kẻ không biết là vua”. Lê Quýnh còn có tên là Lê Doãn Hữu, là trung thần nhà Lê trung hưng của họ Lê, vị quan nổi tiếng có linh vị được thờ ở chính giữa của đền thờ “Cố Lê tiết nghĩa từ” (đền thờ các bậc tiết nghĩa đời Lê) ở phía tây thành Thăng Long, tại phường Thuỵ Chương, huyện Vĩnh Thuận (nay là ngõ 124, đường Thụy Khê, Hà Nội). Lê Quýnh sinh năm 1750 mất năm 1805, quê ở làng Đại Mão, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, Kinh Bắc (nay là thôn Đại Mão, xã Hoài Thượng, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Ông con trai của tiến sĩ Lê Doãn Giản.Thời trẻ, năm 21 tuổi, Lê Quýnh được bổ làm nho sinh ở Chiêu Văn quán. Lúc trẻ ông là một công tử chơi bời nhưng biết làm văn. Năm 1774, lúc 25 tuổi, cha mất, ông về làng nuôi mẹ.

Lê Quýnh phò vua Lê chống Tây Sơn.  Năm 1786, sau khi Nguyễn Huệ diệt họ Trịnh, ông đem 300 gia đinh ra Thăng Long bảo vệ vua Lê Hiển Tông. Sau khi Lê Hiển Tông qua đời, cháu nội là Lê Duy Kỳ lên thay, tức vua Lê Chiêu Thống. Lê Quýnh nhận lệnh trấn giữ miền Giang Bắc, cắt đặt các công việc. Khi xong việc về kinh được phong tước bá, có tài liệu ghi là Tư Ốc bá, bấy giờ 37 tuổi .

Tháng 12 âm lịch năm 1787, sau khi Vũ Văn Nhậm đem quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long, Lê Chiêu Thống bỏ kinh thành chạy lên Kinh Bắc, sai hoàng đệ Duy Chi đem thị thần Lê Quýnh và tôn thất tất cả hơn 30 người rước thái hậu và nguyên tử (con trai Lê Chiêu Thống) đi Cao Bằng.

Tháng 4 năm 1788, ông tới được Thái Nguyên, gặp Đốc trấn Cao Bằng cho người đón lên Mục Mã (Cao Bằng) nhưng không lâu sau quân Tây Sơn đuổi tới, ông cùng đốc đồng Nguyễn Huy Túc, phiên thần Địch quận công Hoàng Ích Hiểu, Trường Xa hầu Phạm Đình Phan và Phượng Thái hầu Nguyễn Quốc Đống bảo vệ thái hậu và nguyên tử theo cửa ải Thủy Khẩu chạy sang Long Châu. Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị được lệnh che chở cho họ ở Nam Ninh và vua Càn Long bằng lòng cứu viện vua Lê. Sau đó Lê Quýnh và Nguyễn Quốc Đống trở về tâu với Lê Chiêu Thống. Lê Chiêu Thống sai tham tri chính sự Lê Duy Đản và Hàn lâm hiệu thảo Trần Danh Án vâng mệnh lệnh đem tờ bẩm, đi đường tắt, lên đón quân nhà Thanh. Ngày 24 tháng 10 năm 1788, quân Thanh được lệnh lên đường, tới ngày 1 tháng 11 đã vượt biên giới tiến vào Lạng Sơn và ngày 22 tháng ấy lấy lại kinh thành Thăng Long, đưa Lê Chiêu Thống trở lại ngai vàng. Lê Chiêu Thống phong Lê Quýnh lên Trung quân đô đốc, tước Trường Phái hầu. Theo Bắc hành tùng ký, Lê Quýnh được giao làm Tổng binh Đỉnh đái.

Ngày 2 tháng 12 năm 1789, Lê Chiêu Thống sai Lê Quýnh giữ việc tổng quản binh lương, hạn ngày tiến quân đánh dẹp quân của vua Quang Trung. Nhưng Tôn Sĩ Nghị muốn dùng kế dụ địch đến, giục Chiêu Thống thu hồi lại ấn kiếm, đổi chức vụ của Quýnh làm Đồng binh chương sự. Bấy giờ bệnh sốt rét của Lê Quýnh rất nguy kịch, bèn xin về nhà nghỉ để thuốc men điều trị.

Sau đó, quân Tây Sơn, dưới sự chỉ huy của vua Quang Trung, đã phản công và nhanh chóng đánh tan quân Thanh. Lê Chiêu Thống lại phải chạy trốn sang đất Trung Quốc vào đầu tháng giêng năm 1789.

Lê Quýnh lưu lạc đất Thanh. Tháng 2 năm 1789, Lê Quýnh mới biết Tôn Sĩ Nghị đã thất bại, Lê Chiêu Thống đã chạy sang Trung Quốc. Ông lại tụ họp quân sĩ để đợi quân của Lê Chiêu Thống]. Tháng 4 năm 1789, Phúc Khang An, khi đó thay Tôn Sĩ Nghị làm tổng đốc Lưỡng Quảng, đã dâng biểu xin hoàng đế Càn Long bãi binh. Các thần Hoà Thân ngấm ngầm ở trong ủng hộ cho kiến nghị ấy của Khang An, cố sức khuyên vua Thanh nên bãi binh. Vua Thanh cho lời tâu ấy là phải, bèn ra sắc mệnh phong Văn Huệ làm An Nam quốc vương, rồi triệu Lê Chiêu Thống và các bầy tôi trước sau theo sang tòng vong đều cho phép lục tục vào cả Yên Kinh. Tháng 6, Lê Quýnh gặp người anh họ tên là Lê Huy Lý, vâng mệnh Phúc Khang An sai về gọi Lê Quýnh lên cửa ải hỏi chuyện. Lúc ấy những việc mưu tính của ông còn chưa xong, bệnh cũng chưa khỏi hẳn nên đến tháng 7 mới lên đường đến cửa ải Nam Quan.

Phúc Khang An sai người gọi bọn Lê Quýnh, Lê Doãn Trị, Trịnh Hiến và Lý Gia Du vài mươi người đến Quảng Tây dụ bảo gióc tóc và thay đổi đồ mặc. Lê Quýnh đáp lại rằng: Được ơn vời đến đây, chúng tôi chưa được nghe ngài dạy bảo rõ ràng gì cả, thế mà nay chỉ bắt chúng tôi gióc tóc thì há phải là ý muốn ban đầu của bọn Quýnh này chạy vạy hàng hai, ba ngàn dặm sang đây để nhận lãnh lệnh truyền ấy đâu? Đầu chúng tôi có thể chặt được, chứ tóc chúng tôi không thể gióc được“. Phúc Khang An tức giận, cho đưa luôn cả bọn Lê Quýnh lên Yên Kinh. Bọn Quýnh đi đến Sơn Đông thì vừa gặp vua Thanh Càn Long đi tuần du ở phía đông. Vua Thanh triệu Lê Quýnh cùng đồng liêu vào yết kiến nói: Chúa nhà các ngươi đã tình nguyện yên phận ở lại Trung Quốc rồi, các ngươi đã một niềm theo vua thì khá lập tức gióc tóc và thay đổi lối ăn mặc để đợi lựa chọn bổ dùng. Lê Quýnh từ tạ mà rằng: Muôn dặm đi tòng vong, chúng tôi xin được giữ theo quốc tục để vào yết kiến quốc vương một chút đã, rồi sau sẽ xin vâng theo chỉ dụ gióc tóc cũng chưa muộn. Vua Thanh khen nói: Thật là trung thần của họ Lê. Tuy vậy, Càn Long vẫn cho đưa Lê Quýnh và các đồng liêu vào Yên Kinh. Về sau, vì không chịu gióc tóc, Lê Quýnh bị khép vào tội chống mệnh lệnh vua Thanh, bị giam ở ngục Bắc Sở thuộc tu Thận Hình.

Tháng 5 năm 1792, con nhỏ của Lê Chiêu Thống qua đời, đến ngày 16 tháng 10 năm 1793 vua Lê Chiêu Thống buồn rầu mà chết. Sau này, tới tháng 11 năm 1799 thì thái hậu mẹ Lê Chiêu Thống cũng chết. Cùng năm ấy (1799), vua Thanh Gia Khánh sai thả Lê Quýnh và các đồng liêu ra khỏi ngục, từ đầu tóc đến ăn mặc đều được để cho tùy tiện. Tháng 11 năm 1802, sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, vua Gia Long cử Thượng thư Binh bộ là Lê Quang Định làm chánh sứ dẫn đầu đoàn sứ thần sang nhà Thanh cầu phong. Nhân đó, ông cùng các cựu thần nhà Hậu Lê còn lưu lạc tại Trung Quốc xin đưa di hài của Lê Chiêu Thống, mẹ và con trai vị vua bất hạnh này về an táng tại Việt Nam. Hoàng đế nhà Thanh ân chuẩn. Ngày 13 tháng 8 năm 1804, ông cùng các cựu thần hộ tống di hài ba người về tới Việt Nam, vua Gia Long cho an táng tại Thanh Hóa. Ngày 16 tháng 9 âm lịch năm Ất Sửu (1805) Lê Quýnh mất, hưởng dương 55 tuổi. Tác phẩm của ông còn lưu lại là các tập “Bắc hành tung kí”, “Bắc hành lược biên” và “Bắc sở tự tình phú”, có giá trị sử học và văn học.

Đến mùa hè năm Tự Đức thứ 14 (1860), các quan ở Bộ theo lời bàn kê rõ lý lịch các vị cựu thần nhà Hậu Lê, vâng chỉ dụ của nhà vua cho lập đền thờ ở phía tây thành Thăng Long, tại phường Thụỵ Chương, huyện Vĩnh Thuận (nay là ngõ 124, đường Thụy Khê, Hà Nội). Thứ tự các bài vị đều sắp đặt theo như lời bàn của Bộ. Chính giữa là linh vị của Trường Phái hầu Lê Quýnh, đặt thụỵ hiệu là “Trung Nghị”. Bên tả bày linh vị của 11 người, gồm có đề lĩnh Nguyễn Viết Triệu, thượng thư Bút phong Đình Giản, Đinh Võ hầu Trần Quang Châu, Trần Danh Kệ, Hữu thị lang Nguyễn Huy Diệu, trấn thủ Lê Hân, chỉ huy Lê Doãn Trị, chưởng tứ bảo Lê Quý Thích, Nguyễn Hùng Trung, Lê Tùng, tả tham chính Kinh Bắc, Bình vọng Lê Trọng Trường. Bên hữu bày linh vị của mười một người, gồm có tĩnh nạn công thần Trần Danh Án, thanh hình hiến phó sứ Tuyên Quang Nguyễn Đình Viện, nội thị Nguyễn Quyên, Trần Đĩnh, đốc đồng Nguyễn Quốc Đống, Địch quận công Hoàng Ích Hiểu; Nguyễn Đình Miên, Đoàn Thận Xưởng, võ uý Nguyễn Trọng Du, Lê Thức, Cận quang hầu Phạm Như Tùng. Tất cả 22 người ấy đều được đặt thuỵ hiệu là “Trung mẫn”. Ngoài ra, ở phía đông thờ 5 người là Nguyễn Ngọc Liễn, Vương Triệu, Vương Chấn Thiều, Tôn Hạp, Lê Diên Định. Ở nhà phía tây thờ 5 người là Trần Lương, Trần Đăng, Vũ Trọng Dật, Trần Dần, Trần Hạc. Từ Lê Quýnh trở xuống cộng 33 người, trên đầu đều đề là “Cố Lê tiết nghĩa thần” (các bầy tôi tiết nghĩa đời Lê) và ngôi đền cũng đề là “Cố Lê tiết nghĩa từ” (đền thờ các bậc tiết nghĩa đời Lê).

Nguyễn Du làm gì trong ba năm 1790 – 1793? Theo tư liệu của Phạm Trọng Chánh đăng tại Văn Hóa Nghệ An ngày 9 tháng 11 năm 2013 với tựa đề “Đọc sách Nguyễn Du trên đường gió bụi của Hoàng Khôi” : Năm 1790 Nguyễn Du cư ngụ tại chùa Hổ Pháo bên Tây Hồ, tại Hàng Châu, nơi Từ Hải tức Minh Sơn Hoà thượng từng tu hành, trước khi đi giang hồ thành cướp biển. Tại đây Nguyễn Du có được bản Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Gặp lại Nguyễn Đại Lang tại miếu Nhạc Phi cũng bên cạnh Tây Hồ, nơi đây Nguyễn Du viết 5 bài thơ, một bài Nhạc Phi, hai bài Tần Cối và hai bài Vương Thị, sau đó hai người đi Yên Kinh gặp vua Lê Chiêu Thống, trở về Hoàng Châu thì gặp Đoàn Nguyễn Tuấn sứ đoàn Tây Sơn tại một lữ quán, gặp bạn văn chương, Nguyễn Du bàn chuyện sôi nổi về Hồng nhan đa truân. Đoàn Nguyễn Tuấn viết hai bài thơ tặng văn nhân họ Nguyễn. Nguyễn Du về Long Châu và trở về Thăng Long. Ba năm 1791-1793. Nguyễn Du về ở với anh Nguyễn Nể, đang làm quan Tây Sơn tại Bắc Thành giữ chức Hàn Lâm thị thư, sung chức Phó sứ tuế công, năm 1791 Nguyễn Nễ đi sứ về, đã xây dựng lại một phần dinh thự Bích Câu, tại đây Nguyễn Du nghe cô Cầm, người nhạc nữ cũ cung vua Lê đánh đàn. Nhưng Nguyễn Du thường làm “Nam Hải điếu đồ” như Lã Vọng xưa. Nguyễn Du câu cá tại ao vườn của anh Nguyễn Khản cạnh đền Khán Xuân. Và chính nơi đây Nguyễn Du cùng Xuân Hương Hồ Phi Mai bàn luận thời thế và sâu nặng mối tình ba năm “trai anh hùng, gái thuyền quyên. Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng”. Cũng cuối những năm này, Xuân Hương đã về quê ở làng Quỳnh Đôi

Năm Giáp Dần (1794). Nguyễn Du 30 tuổi. (*) Năm 1794, Nguyễn Nễ làm Tả Phụng Nghị Bộ Binh bên cạnh vua Cảnh Thịnh, trong Cơ Mật Viện có Tả hữu Trung Thư là Trần Văn Kỷ và Nguyễn Nễ, do sự sự xung của triều đình bởi Bùi Đắc Tuyên tiếm quyền nên đày Trung Thư Trần Văn Kỷ làm lính thú ở Hoàng Giang, Nguyễn Nễ nhân đó xin đi trấn nhậm Quy Nhơn đất khởi nghiệp triều Tây Sơn, và Nguyễn Du đã có ý vào Nam tù dịp ấy.

Nguyễn Du đầu năm 1794 vào Quy Nhơn và đầu năm 1796 vào Phú Xuân tiếng là ‘thăm anh’ thực chất là giúp Nguyễn Nễ thoát hiểm (*) tránh bị cuốn vào họa diệt tộc khi nhà Tây Sơn nội bộ chia rẽ nghiêm trọng sau khi Nguyễn Huệ mất. Nguyễn Nễ từ Hiệp trấn Quy Nhơn về làm Thái sử ở Phú Xuân bên cạnh vua Cảnh Thịnh, sau đó làm Phó sứ trong sứ đoàn Tây Sơn sang sứ nhà Thanh lần hai, thành công vang dội với “Quế Hiên Nguyễn Nễ đỉnh núi cao thi trận nước Nam”, sau được phong Tả Thị Lang, Nghi Thành Hầu .

Ngô Thời Nhậm từ quan Binh bộ thượng thư và chủ trì các chính sách ngoại giao nhà Tây Sơn với Trung Hoa năm 1794 xin về đi tu theo đạo Phật làm Hải Lượng Thiền Sư. Phan Huy Ích cũng từ quan Thị trung Ngự sử ở tòa Nội các và Thượng thư bộ Lễ về đi tu và sau mất tại làng Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An, (nay thuộc xã Thạch Châu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh).

Nguyễn Du viết bài thơ “Nhớ Anh” khi nào?  Khoảng năm 1794 Nguyễn Du gửi Nguyễn Nể làm Hiệp Tán Nhung Vụ Quy Nhơn. Bài thơ được chép chung cùng với các bài thơ khác của những danh sĩ đương thời cho thấy sự mẫn cảm kỳ tài của Nguyễn Du một trí tuệ đặc biệt minh triết, trí tướng hào kiệt lỗi lạc, tầm nhìn xa rộng, giúp anh Nguyễn Nể lánh họa tìm phúc.

NHỚ ANH

Nguyễn Du thơ chữ Hán,
Nhất Uyên dịch thơ.

Lục Tháp thành Nam buộc chức quan,
Gập gềnh đá vượt Hải Vân đêm.
Chướng lam ba tết xa, đồn trú,
Hoa khói tháng hai , nhớ cố hương.
Một biệt phương nào ai biết nhỉ ?
Kiếp sau hẹn đến cuộc tương phùng;
Biển trời mù mịt đườngngàn dậm,
Trong mộng tìm nhau cũng khó khăn.

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:

ỨC GIA HUYNH

Lục Tháp thành Nam hệ nhất quan,
Hải Vân dạ độ thạch toàn ngoan.
Cùng xu lam chướng tam niên thú.
Cố quốc yên hoa nhị nguyệt hàn.
Nhất biệt cách tri hà xứ trú,
Trùng phùng đương tác tái sinh khan.
Hải thiên mang điểu thiên dư lý,
Thần phách tương cầu mộng diệc nan.

Chú thích:
Lục tháp thành: chỉ thành Bình Định, có 8 cụm tháp, nhưng chỉ có 6 cụm ở gần đường chỉ thấy có sáu nên người xưa gọi là thành Lục Tháp.
Hải Vân đèo nằm giữa Thừa Thiên và Quảng Nam rất hiểm yếu nên được gọi là Đệ Nhất Hùng Quan.

Bài Tiễn ông Tả Phụng Nghị Bộ Binh Nghi thành hầu
họ Nguyễn đi thành Quy Nhơn.

Phan Huy Ích thơ chữ Hán,
Nhất Uyên dịch thơ

Sông núi Hoan gấm vóc,
Chung đúc bậc kỳ nhân.
Rạng rỡ quê đạo đức,
Điềm lành sinh phượng lân.
Tiến thủ biết khí phách.
Từ trẻ tỏ xuất sắc,
Cơ trí từng trải đời,
Đức độ rộng kiến thức.
Khí tiết như tùng bách,
Phẩm chất mài như ngọc.
Bản lĩnh tự tín trung,
Hành động thường lỗi lạc.
Hiểu lý tận tóc tơ,
Nói chuyện người bén sắc.
Làm bạn khắp thế gian,
Gắn bó như ruột thịt.
Nhìn rõ việc thiên hạ,
Nắm vững để vận hành.
Tạo hóa tính kỳ lạ,
Giao trách nhiệm xứng danh.
Gặp gỡ thánh minh trị;
Đi thăm gióng ngựa quý.
Học thức vua nể vì,
Nơi thanh toả dốc trí.
Ba năm dạo gươm đàn,
Thơ rượu thường vui vẻ.
Đấng trượng phu công danh,
Chí dũng giữ đúng thể.
Phía Nam biển mênh mang,
Đất mới triều khai thác.
Ấp thang mộc Quy Nhơn,
Anh tài nơi then chốt.
Dân vỗ về yên ổn,
Uy danh quân lẫy lừng,
Triều đình cần người trấn,
Khẳng khái đến cầm quân.
Lòng hùng khí độc tan,
Thanh cao tiếng hạc đàn.
Thị Nại sóng cuồn cuộn,
Cù Mông mây mác man.
Chí bốn phương thoả nguyền,
Mài núi khắc thơ hùng.
Bài khải ca tấu khúc,
Miếng đỉnh chung thấm ơn.
Nâng chén rượu lên đường,
Kẻ ở lòng thấy thẹn.

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:

Tiễn Binh Bộ Tả phụng nghị Nghi thành Nguyễn hầu
phó Quy Nhơn thành

Ngã Hoan hảo giang sơn,
Chung bẩm đa kỳ trác.
Thế đức diệu tiên hương,
Nhân thụy xuất lân nhạc.
Tiến phủ bão tài khí,
Diệu linh kiến đầu giác,
Cơ thức tảo duyệt thục,
Khí thế du hoành bác.
Tùng tiết nại nghiêm ngưng,
Ngọc chất kinh ma trác.
Bản lĩnh tự trung tín,
Động tức thường lỗi lạc.
Chúc lý cập hào mang
Lập đàn sinh phong ngọc.
Biến giao thế gian nhân,
Hệ thuộc vi tâm lạc.
Nhàn thị thiên hạ sự,
Vận dụng tại chưởng ác.
Tạo hóa dữ kỳ phẩm,
Giáng nhậm lương bất thác.
Tao tế thánh minh thì,
Tuân tư giá hoa lạc.
Vọng học vu thần cố,
Chu tuyền thanh tỏa các.
Tam niên cầm kiếm du,
Ngâm chước bất cải lạc.
Trượng phu pho công danh,
Bỉnh chí há đoan xác.
Hạo diểu hải chi nam,
Hy đại tân khai thác.
Quy Nhơn thang mộc địa,
Khu hoản ỷ khôi thạc.
Dân dung sơ phủ tập,
Quân thanh phương trấn bạc.
Triều đình trọng hành biên,
Khẳng khái tựu nhung mạc.
Tráng tâm tễ yên lam,
Thanh khiếu đái cầm hạc.
Thị Nại đào hung dũng,
Cù Mông vân lạc mạc.
Huyền hồ thù sơ chí,
Ma nhai lặc giai tác.
Khải ca tấu kỳ huân,
Chung đỉnh đàm tân ác.
Bả bôi tống chinh huy,
Cư giả diệc tâm tạc.

Năm Ất Mẹo (1795). Nguyễn Du 31 tuổi. Nguyễn Du trầm tĩnh theo dõi đại cục. Nguyễn Du làm “Nam Hải Điếu Đồ” (Người đi câu ở biển Nam) khoảng thời gian 1790-1796 ở đền Khán Xuân cạnh Hồ Tây (Hà Nội). Nguyễn Du làm nhà sư Chí Hiên đi lại ở Quảng Tây, Bắc Kinh, cung Nhiệt Hà (Trung Quốc), sau đó cùng em Nguyễn Ức xây đền thờ nghĩa sĩ nhà Hậu Lê (nay ở Thụy Khê, quận Tây Hồ, Hà Nội), làm nhiệm vụ được anh Nguyễn Nể (*) giao phó xây dựng lại từ đường họ Nguyễn Tiên Điền ở làng Tiên Điền, đình chùa Trường Ninh, cầu Tiên ở xứ Nghệ (tên cũ của  Nghệ An và Hà Tĩnh thời ấy).

Nguyễn Nể (1761-1805) là anh cùng cha khác mẹ của Nguyễn Du và là người đặc biệt yêu thương Nguyễn Du, thân thiết với Nguyễn Khản, Nguyễn Điều, Nguyễn Quýnh, Vũ Trinh, Đoàn Nguyễn Tuấn, Hà Mỗ. Họ là những anh em cùng gia tộc hoặc anh em rể hoặc là cha nuôi, tùy tướng đặc biệt tin cẩn (như với trường hợp của Hà Mỗ và Nguyễn Du). Nguyễn Nể tự là Tiến Phủ, hiệu Quế Hiên,  thi đậu đầu khóa Quốc Tử Giám, đậu đầu thi hạch, đậu Tứ Trường thi Hương năm 1779, Nguyễn Nể được bổ vào Thị Nội Văn thường trực tại nhà học của con chúa Trịnh Sâm, là bạn thiết của Trịnh Tông, sau Nguyễn Nể cai quản đội quân Nhất Phẩm kiêm Trị thị nội thư tả của phủ chúa Trịnh. Năm 1783, Nguyễn Nể làm Hiệp tán quân cơ đạo quân Sơn Tây. Năm 1786 vua Lê Quý Kỳ trực tiếp nắm lại chính sự nhất thống thì Lê Quýnh và Nguyễn Nể được vua Lê tin cẩn “ngày đêm cùng họ trù tính mọi công việc, ngay cả những mưu kế phải dùng đến trong lúc bối rối bất ngờ, cũng được lo toan chu đáo” (Hoàng Lê Nhất Thống Chí trang 179).

Vũ Trinh (1769-1828) là Chánh Sứ phụ trách mọi công việc bang giao của nhà Lê đối với Tôn Sĩ Nghị. Suốt triều Tây Sơn, (1789- 1801) Vũ Trinh lánh thân ở Hồ Sơn vùng Hà Nam ngày nay, dạy học và soạn sách. Khi Nguyễn Ánh lên ngôi, Vũ Trinh được mời ra tham chính, nhận chức Thị Trung Học sĩ được thăng Hữu Tham Tri Bộ Hình năm 1807 làm Chánh Sứ cùng Ngô Nhân Tĩnh đi sứ nhà Thanh. Năm 1816 ông có ý bênh vực cho học trò ông là Nguyễn Văn Thuyên, con Tổng Trấn Nguyễn Văn Thành nên bị đày đi Quảng Nam 12 năm, đến năm 1828 mới được ân xá, trở về quê vài ngày thì bị bệnh mất hưởng dương 59 tuổi.

Nguyễn Nễ sau khi thời gian 1788, khi Tôn Sĩ Nghị sang chiếm nước ta, vua Lê Chiêu Thống thanh trừng những người cộng tác với nhà Tây Sơn thì rất nhiều người bị đục bỏ tên trong bia tiến sĩ nhưng Nguyễn Nể không có trong danh sách những người bị tội. Năm 1789 vua Quang Trung ra Bắc đánh bại Tôn Sĩ Nghi quét sạch quân Thanh ra khỏi bờ cõi, Nguyễn Nể được vời ra bổ làm Hàn Lâm Thị Thư và làm Phó Sứ sang Trung Quốc cầu phong nhà Thanh cho Vua Quang Trung, Vũ Huy Tấn làm Chánh Sứ, sứ đoàn còn có Ngô Vi Quý, Nguyễn Đình Cử, Nguyễn Quang Hiến … Trong cuộc đi sứ, vua Càn Long mời dự yến ở Các Tứ Quang ông làm thơ chúc mừng, vua Càn Long thưởng cho một tấm đoạn, hai thỏi mực và 3 tập hoa tiên lụa. Trở về được thăng Đông Các Học Sĩ, Thái tử Tả Thị Lang, Nghi Thành Hầu, được giao việc cai trị tại Bắc Hà.

Nguyễn Nể năm 1794 được nhà Tây Sơn vời vào Phú Xuân làm việc Viện Cơ Mật.  Ông giao phó tiền bạc cho hai em là Nguyễn Du và Nguyễn Ức về xây dựng lại từ đường, đền thờ, cầu Tiên, chùa Trường Ninh làng Tiên Điền bị Hiệp Trấn Tây Sơn Lê Văn Dụ đốt phá nhân vụ Nguyễn Quýnh khởi nghĩa. Nguyễn Nể sau đó được phong Tả phụng Nghi Bộ Binh, hàm Tam phẩm, được cử làm Hiệp Tán Nhung vụ Quy Nhơn. Năm 1795 Nguyễn Nể được cử làm Chánh Sứ của triều Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản sang dự lễ vua Càn Long nhường ngôi cho con là vua Gia Khánh. Nguyễn Nể dâng hai bài thơ ứng chế được vua Càn Long đích thân mời uống rượu và dự yến Các Tử Quang. Nguyễn Nể được vua Càn Long khen thơ và ban thưởng : gấm đoạn, trà sen, gậy tuổi già, ngọc như ý, tứ bửu.. Cháu 24 đời Chu Văn Công tri phủ Tứ Thành tặng bốn chữ Thiên Môn Tái Đăng (hai lần lên cổng trời).

Năm Bính Thìn (1796). Nguyễn Du 32 tuổi. Nguyễn Nể mùa thu 1796 sau khi sứ đoàn về nước được vẻ vang vì cả hai lần được vua Càn Long và triều đình nhà Thanh kính trọng. “Quế Hiên Nguyễn Nễ đỉnh núi cao thi trận nước Nam” được vua Cảnh Thịnh ban thưởng 40 mẫu ruộng, giữ chức Đông Các đại học sĩ, gia tặng Thái sử, Tả Thị Lang, tước Nghi Thành Hầu, chức vụ dâng sách cho vua Cảnh Thịnh mới lên mười hai tuổi, đọc và giảng nghĩa cho vua nghe sách Tiểu Học Diễn Nghĩa do La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp và Sùng Chính Viện vừa mới soạn xong. Ngoài ra còn các công việc giúp vua soạn các chiếu biểu, và kiêm các công việc Cơ Mật Viện, và chức vụ cuối cùng được thăng tới chức Trung Thư lĩnh hữu đồng nghị, chức vụ ngang hàng với quân sư Trần Văn Kỷ.

Sau khi Nguyễn Du thăm anh cuối năm 1796, Nguyễn Nể xin về quê Nghệ An là hiệp trấn tham mưu cho Nguyễn Thận, xa dần kinh đô. Nguyễn Nể can thiệp cho Nguyễn Du ra tù sau khi toan trốn vào Nam theo Nguyễn Ánh. Theo nhà nghiên cứu Phạm Trọng Chánh “Nguyễn Du- Người đi săn núi Hồng” và “Quế Hiên Nguyễn Nể” thì lí do Nguyễn Nể năm 1797 được rời Phú Xuân là  Nguyễn Nể xin đi xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô tại Nghệ An cùng Trần Quang Diệu và Trấn Thủ Nguyễn Văn Thận. 

Ba năm vẹn” trong Lưu Hương ký của Hồ Xuân Hương nhớ Nguyễn Du là những năm 1793-1795. Nguyễn Du không chịu ra phò tá triều đại Tây Sơn nhưng cũng không chịu vào Nam theo Nguyễn Ánh như Đặng Trần Thường. Điều đó là có lý do riêng, kín đáo, sâu sắc, khó nhận thấy. Người đời sau chỉ mới nhìn thấy ông dốc lòng cùng người thân trong họ Nguyễn Tiên Điền lập đền thờ cho những nghĩa sĩ “Cố Lê tiết nghĩa thần” (các bầy tôi tiết nghĩa đời Lê). Câu chuyện Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương “Hồ Xuân Hương thực là ai?”, “Nguyễn Du Hồ Xuân Hương luận anh hùng” soi sáng thêm các thông tin về Nguyễn Du 15 năm lưu lạc

Cuối năm Bính Thìn (1796), Nguyễn Du được tha và đã về sống hẳn (quản thúc?) ở làng Tiên Điền, khép lại Nguyễn Du mười lăm năm lưu lạc.

Hành trạng Nguyễn Du (1765-1796)?

1. Nguyễn Du trước năm 1796 phò Lê đồng chí hướng với Lê Quýnh và 23 nghĩa sĩ nhà Hậu Lê “Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn ? Để lời thệ hải minh sơn . Làm con , trước phải đền ơn sinh thành”. “Đau lòng tử biệt sinh ly, Thân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên! Hạt mưa sá nghĩ phận hèn. Liệu đem tấc cỏ báo đền ba xuân“. Nguyễn Du và cùng với Quản Vũ Hầu Nguyễn Đăng Tiến (Hà Mỗ trong Gia Phả họ Nguyễn Tiên Điền, là cha nuôi Nguyễn Du và tâm phúc Nguyễn Nhiễm) và thân binh đã can đảm, bình tĩnh bảo vệ vua Lê Hiển Tông, ngang nhiên đối mặt với Nguyễn Huệ khi Bắc Bình Vương lần đầu ra Bắc. Nguyễn Du và nhà Nguyễn Tiên Điền là lực lượng chính đã giúp cho vua Lê chống lại nhà Tây Sơn. Nguyễn Du đã trực tiếp tổ chức khởi nghĩa ở Tư Nông (Thái Nguyên) Nguyễn Quýnh anh Nguyễn Du chỉ huy các lực lượng nổi dậy liên thủ với vua nước Vạn Tượng (Ai Lao) tấn công Tây Nghệ An (Trấn Ninh). Vua Lê cũng phát động khởi nghĩa ở Tuyên Quang, Cao Bằng trong sư phối hợp. Ba chiến dịch mặc dù đều bị thất bại, vì binh lực Tây Sơn quá mạnh, thiện chiến và đàn áp quá tàn khốc trong khi binh lực nhà vua Lê mỏng yếu, Lê mạt, Trịnh vong, quân nhát, tướng hèn, nội bộ nghi ngờ lẫn nhau, vua không tin dùng nhà Nguyễn Tiên Điền vì Nguyễn Khản là thầy của chúa Trịnh Tông (chúa Trịnh Sâm là cha của chúa Trịnh Tông. Trịnh Sâm là người sát hại thái tử Lê Duy Vĩ, cha của vua Lê Duy Kỳ sau này và giam anh em Lê Duy Kỳ 15 năm trong ngục tối). Nhà Nguyễn Tiên Điền bị vu oan giá họa là đã dẫn dắt Tây Sơn ra đánh chiếm Bắc Hà (mà thực chất là do mưu của Nguyễn Hữu Chỉnh). Nhà Nguyễn Tiên Điền bị vua nghi ngờ, tước hết binh quyền, nhưng Nguyễn Du lòng trung trinh vẫn không thay đổi.

2. Nguyễn Du và Nguyễn Đăng Tiến dù bị vua Lê không tin dùng, lại bị tước hết binh quyền giao cho kẻ khác, chỉ còn lại một ít thân binh nhưng khi vua Lê chạy lên Thái Nguyên, Nguyễn Hữu Chỉnh bị bắt và bị giết, quân bị tan rã nhưng ông vẫn can đảm tạo thế cần vương, một lòng với Lê Quýnh  tập hợp các cựu thần nhà Lê và số nho sĩ thật lòng phò vua để tạo dựng cơ đồ lập ‘thế Tam phân’ với nhà Nguyễn Gia Miêu và nhà Tây Sơn.

3. Nguyễn Du đã giúp vua Lê tạo dựng được thế ngoại giao với nhà Thanh qua việc ông cùng Quản Vũ Hầu Nguyễn Đăng Tiến, sau khi khởi nghĩa Tư Nông (Thái Nguyên) thất bại,  bị Vũ Văn Nhậm bắt và được thả, ông chịu lưu lạc nhiều năm, trãi gian khổ trăm bề đi lại tại vùng Nam Trung Quốc, Bắc Hà và miền Trung, kể cả việc từng lên tận cung Nhiệt Hà để cầu kiến vua Càn Long.  Nguyễn Du không “khảng khái’ cứng cỏi bị giết như Nguyễn Quýnh, mà cũng không quá tùy thời như Nguyễn Nễ, người anh cùng mẹ, khi nhà Tây Sơn lên đã ra phò nhà Tây Sơn ngay. Nguyễn Du cân nhắc tình thế, xuất xử chuẩn xác theo thời gian. Nguyễn Du viết: “Cổ kim vị kiến thiên niên quốc” (xưa nay chưa thấy triều đại nào đứng vững ngàn năm). Nguyễn Du minh triết, mưu lược, điềm tĩnh, chắc chắn, là một nhà nho thức thời.

4. Nguyễn Du sau những năm Quang Trung mất (1792) ông càng thấy rõ ràng hơn sự suy sụp tất yếu khó bề cứu vãn của nhà Tây Sơn do anh em bất hòa, lòng người ly tán. Trước đây ông không chịu theo nhà Tây Sơn và cũng không chịu theo nhà Nguyễn Gia Miêu mà trọng nghĩa khí và mưu việc tự lập “Bó thân về với triều đình. Hàng thần lơ láo phận mình ra sao. Áo xiêm ràng buộc lấy nhau. Vào luồn ra cúi công hầu mà chi. Sao bằng riêng một biên thùy. Sức này đã dễ làm gì được nhau. Chọc trời, khuấy nước ma84c dầu. Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” (Kiều – Nguyễn Du).  Mùa đông năm Bính Thìn (1796), Nguyễn Du trốn trốn khỏi quê nhà nhưng bị Quận công Nguyễn Thận bắt giam ba tháng ở Nghệ An vì cho rằng ông định vào Gia Định liên thủ với chúa Nguyễn Ánh. Trong thời gian bị giam, Nguyễn Du có làm thơ My trung mạn hứng (Cảm hứng trong tù) để tỏ ý. Sau khi được tha, ông về sống hẵn ở Tiên Điền và kết thúc Nguyễn Du mười lăm năm lưu lạc (1781-1796)

5. Nguyễn Du được vua Càn Long nhà Thanh tặng bức hoành phi, ngày nay treo ở giữa Từ đường Nguyễn Du thể hiện sự tôn trọng đặc biệt của vua Càn Long, với bốn chữ “Hồng Sơn thế phổ” (bên tả có bức hoành đề ghi rõ: Càn Long thập ngũ niên đoan nguyệt cát nhật; Bức bên hữu có bốn chữ “Long chương điệp tích” bên hữu bức hoành này đề “Càn Long thập ngũ niên đoan nguyệt cát nhật” Bức bên tả có bốn chữ “Thiên môn tái đăng” bên tả bức hoành đề  “Đại Thanh Gia Khánh nguyên niên Bính Thìn mạnh xuân” . Chuyện có liên quan tới manh mối vua Lê Chiêu Thống bị “bán đứng” trong Bí mật kho báu trên đỉnh Tuyết Sơn. Đây là uẩn khúc đặc biệt của lịch sử. Vua Lê Chiêu Thống bị giới làm sử đời sau phê phán gay gắt nhưng nhà Nguyễn do Nguyễn Ánh thành lập sau đó, lại nhìn nhận khá rộng lượng với Chiêu Thống. Hoàng đế Tự Đức có lời phê về Chiêu Thống, đại ý nói: “Nhà vua bị người ta lừa gạt, bị giám buộc ở quê người đất khách, đến nỗi lo buồn phẫn uất, ôm hận mà chết, thân dẫu chết, nhưng tâm không chết, kể cũng đáng thương! Vậy nên truy đặt tên thụy là Mẫn Đế“.

Nguyễn Du hai mươi bốn năm cuối đời (1797- 1820)

Năm Đinh Tỵ (1797). Nguyễn Du 32 tuổi. Vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản đã cử Lê Trung làm tướng trấn giữ Quy Nhơn và điều Trần Quang Diệu về hầu việc trong triều. Bốn tứ trụ triều đình Cảnh Thịnh là Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, Nguyễn Văn Huấn và Nguyễn Văn Danh. Thế nhưng tướng Trần Quang Diệu bị người ta dèm pha là uy quyền quá lớn sắp có mưu đồ khác nên vua Cảnh Thịnh đã điều chỉnh như vậy. Trần Quang Diệu lo sợ nên cáo bệnh không vào chầu mà đốc suất thủ hạ thân tín canh phòng tự vệ suốt ngày đêm.

Nguyễn Vương truy quét thổ phỉ người Thượng, phủ dụ dân tình ở vùng núi và tìm hiểu tướng trấn giữ các nơi. Nguyễn Vương được tin mật báo nội tình Tây Sơn cả mừng, tập hợp các tướng bàn định việc ra quân. Nguyễn Vương  để Tôn Thất Hội giữ thành Gia Định, sai Nguyễn Văn Thành, Võ Tánh, Nguyễn Đình Đắc theo đường bộ đánh thẳng ra Phú Yên, Quy Nhơn, còn tự mình thì cùng với hoàng tử Cảnh và tướng Nguyễn Văn Trương đem đại binh thuyền đánh ra Quy Nhơn. Quân thủy của Nguyễn Vương tiến sâu vào cửa Thị Nại. Vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản ra lệnh cho Nguyễn Văn Huấn mang toàn quân ra chống cự, phục chức cho Trần Quang Diệu sai giữ cửa Thuận để làm thanh ứng.

Nguyễn Vương tấn công quyết liệt quân Tây Sơn mấy tháng ròng ở Bình Định không phân thắng bại, thấy sự phòng thủ chặt chẽ, liệu sức không đánh đổ được bèn kéo binh thuyền ra đánh phá Quảng Nam, nhưng cũng không giành được thế thắng và quân nhu không đủ, bèn rút về Gia Định, sai Nguyễn Văn Thành giữ chức khâm sai tiền tướng quân và Đặng Trần Thường làm hiệp tán quân vụ ở lại giữ thành Diên Khánh.

Nguyễn Vương theo mưu kế của Đặng Trần Thường, một mặt sai Nguyễn Văn Thụy sang Thái Lan báo tin thắng trận cho vua Thái và nhờ quốc vương nước này xuất binh theo đường bộ Lào với sự dẫn đường của Thụy để tấn công Thuận Hóa từ hướng Tây  hoặc cho quân đột phá Nghệ An để chặn đường quân Bắc Hà vào cứu viện. Quân sĩ Nguyễn Vương cũng sẽ phối hợp tấn công ở hai mặt Đông và Nam. Mặt khác, Nguyễn Vương cũng sai binh bộ tham tri Lưu Nhân Tĩnh sang sứ nhà Thanh vừa do thám tình hình vừa trao trả lại cho nhà Thanh một số tàu thuyền mượn tiếng là thu được của quân Tàu biển “Thiên Địa Hội” phản Thanh phục Minh nhằm lấy lòng vua nhà Thanh vừa tố cáo Nguyễn Huệ nhà Tây Sơn trước đây trong thì tiếm xưng là hoàng đế Quang Trung, ngoài thì giả cách thuần phục nhà Thanh, nhưng lại ngấm ngầm tiếp tay cho quân phỉ biển “Thiên Địa Hội” để gây chia rẽ nhà Thanh với nhà Tây Sơn. Mặt khác Lưu Nhân Tĩnh cũng tìm mọi cách liên kết với các cựu thần nhà Lê, tầng lớp sĩ phu và những người vốn có oán thù với nhà Tây Sơn để tăng thêm thanh thế và đồng minh.  

Ngô Nhân Tĩnh vừa đi khỏi thì “phụ quốc nguyên công’ Tôn Thất Hội là tướng giỏi của Nguyễn Vương bị ốm nặng và mất. Nguyễn Ánh theo lời của quốc thúc Tôn Thất Thăng đã đưa hoàng tử Cảnh với sự trợ giúp của Bá Đa Lộc và Tống Viết Phước ra trấn giữ Diên Khánh, thay thế cho các tướng Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Tính và Đặng Trần Thường được gấp rút trở về Gia Định luyện quân để chuẩn bị cho chiến dịch mới.

Nguyễn Du từ đầu năm 1997 đã về sống hẳn ở Tiên Điền. Theo Gia phả Nguyễn tộc tính toán năm sinh các con của Nguyễn Du thì năm 1977 Nguyễn Du về sống với vợ là cô Đoàn Nguyễn Thị Huệ (còn gọi là Tộ) là em gái của Đoàn Nguyễn Tuấn. Nhưng theo Nguyễn Trung Chánh thì lúc đầu có lẽ là ông vẫn độc thân sau mới lấy vợ là em của Đoàn Nguyễn Tuấn, bạn thân của Nguyễn Du. Hồ Xuân Hương là Hồ Phi Mai cũng khoảng năm 1796 mẹ gả chồng cho một thầy lang gần Cổ Nguyệt Đường (*) làng Nghi Tàm.  Lưu Hương Ký sau này đă cắt nghĩa nguyên do có điều đau xót ấy.

Họa Thanh Liên Chí Hiên nguyên vận

Khúc hoàng tay nguyệt còn chờ dạy,
Cánh phượng đường mây đã vội chi.
Chua xót lòng xem lời để lại,
Hững hờ duyên bấy bước ra đi.
Thử vàng đá nọ treo từng giá,
Phong gấm hoa kia nở có thì,
Đào thắm mận xanh còn thú lắm,
Xuân ơi đành nở đứt ra về.

Thơ Hồ Xuân Hương chép trong Lưu Hương ký.

Thạch đình tặng biệt

Đường nghĩa bấy lâu trót vẽ vời,
Nước non sầu nặng muốn đi về.
Cung hoàng dịu vợi đường khôn lọt,
Đường nguyệt mơ màng giấc hãy mê.
Đã chắc hương đâu cho lửa bén,
Lệ mà hoa lại quyến xuân đi.
Xanh vàng chẳng phụ lòng ân ái,
Tròn trặn gương tình cũng có khi …

Thơ chữ Nôm Thanh Hiên Nguyễn Du
Hồ Xuân Hương chép trong Lưu Hương ký.

(*) Nhà nghiên cứu Phạm Trọng Chánh có ghi chú : Cổ Nguyệt Đường cạnh chùa Kim Liên, cho nên Phạm Đình Hổ đã viết: Từ thuở làm thân khách Cố kinh. Kim Liên qua lại đã bao lần, anh chàng này từng là học trò cụ Đồ Diễn, nên biết Xuân Hương từ thuở còn thiếu nữ. Trong Vũ Trung tùy bút tr. 42, cho biết năm 1798 -1799 có dạy học tại thôn Khánh Văn, hạ lưu sông Tô Lịch không xa nhà Xuân Hương. Trong Tang Thương Ngẫu lục, q 2 tr 231 có bài ký tả cảnh chùa Kim Liên. “Mùa thu năm Đinh Tỵ (1797) tôi cùng các ông Nguyễn Thạch Hiên, Nguyễn Kính Phủ, Hoàng Hy Đỗ đến vãn cảnh chùa Kim Liên ở làng Nghi Tàm, nơi trụ trì của Hoà Thượng Huệ (nội thị của chúa Uy Vương)”  Phạm Đình Hổ đến thăm Xuân Hương cùng các bạn nhân đó ra về thăm chùa Kim Liên. Qua Vũ Trung Tùy bút ta biết Phạm Đình Hổ nhà ở phố Hàng Buồm và Nguyễn Kính Phủ (Nguyễn Án) ở cạnh đền Lý Quốc Sư bên Hồ Gươm, (nay là phố Nhà Thờ). Quang cảnh chung quanh Cổ Nguyệt Đường thế nào? Theo thơ Tốn Phong, người viết tựa cho Lưu Hương Ký:Phía trước nhà có trồng một cây bàng lớn: Cội bàng trăng khuất chiếu mai đình bài 6. Chung quanh nhà có trồng nhiều cây mai (mơ) Chủ nhân trước viện trắng mai hoa Bài 5, Bên quán người hoa chỉ thích mai.Bài 9 Tiết hàn mai tự nở ngàn hoa bài 26. Nhà nàng cạnh bến trúc làng Nghi Tàm: Vàng bay lá trúc ngõ chuyền oanh. Bài 6, Phượng cầm tự khóm trúc vang thanh, bài 14, Khóm trúc đình mai ta với ta, bài 21, Bến trúc mừng vui gặp mỹ nhân bài 25 Trên bến có trồng vài cây liễu: Bến nước đìu hiu liễu rủ cành, bài 6 Trong vườn có trồng cây vông và cây mận: Ngô đồng lá cũ mơ hồn phượng, ngõ hạnh lạnh tàn chuyển bóng oanh, bài 17.

Năm Mậu Ngọ (1798). Nguyễn Du 33 tuổi. Nguyễn Ánh đang bàn việc mang tin thắng lợi sang báo vua Xiêm (Thái Lan) thì vừa lúc vua Xiêm cử sứ giả sang xin viện binh chống Miến Điện. Nguyên lúc trước ở Băng Cốc vua tôi Nguyễn Ánh lúc sang nương nhờ Thái Lan đã cùng quân tướng Thái Lan đánh lui được quân Miến nên được vua Thái trọng thị. Nay trước việc này, Nguyễn Vương sai Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Đình Đắc đem một vạn quân và chiến thuyền sang cứu viện cho Thái Lan. Quân Nguyễn khi đến Côn Lôn vừa lúc nghe tin quân Miến đã lui, nên chỉ một mình Nguyễn Huỳnh Đức mang quốc thư sang Xiêm còn Nguyễn Văn Trương và Nguyễn Đình Đắc thì mang quân về. Khi về Gia Định lại gặp Nguyễn Văn Nhơn đưa Đặng Đức Siêu là danh sĩ Hàn lâm, kỳ tài của Bồng Sơn Bình Định thường tự ví mình là Quản Trọng Nhạc Nghị, trước làm quan nhà Nguyễn, sau không chịu theo họ Trịnh và nhà Tây Sơn, nay theo thuyền buôn trốn vào dâng sách Bình Tây phương lược. Nguyễn Ánh vui mừng cử làm Trung doanh tham mưu.

Nguyễn Vương cử tướng Nguyễn Văn Thụy làm Khâm sai thượng đạo đại tướng quân cùng tiền quân Lưu Phước Tường, tham mưu Nguyễn Hoài Châu, Nguyễn Văn Uẩn, tham quân Lê Văn Xuân làm cánh quân vu hồi đi cắt đường sang Lào. Cánh quân này có nhiệm vụ trên lối đi dụ người Thượng cùng dấy binh hưởng ứng và đến thành Viên Chăn dụ quốc vương Vạn Tượng cùng người dân ở Trấn Ninh, Thanh Nghệ hành binh đi theo. Quân đi đến đâu cũng phao lên rằng quân Nguyễn cùng quân Xiêm và Lào đang hành binh tiến đánh Thuận Hóa và Tây Nghệ An để đánh lạc lướng và ghìm chân lực lượng tinh nhuệ cửa hai nơi này và quân Bắc Hà vào cứu Quy Nhơn.

Tướng Nguyễn Văn Thụy là người Diên Phước, Quảng Nam vốn là người mưu trí lại có sẵn thẻ thông hành đi các nước, nguyên là tướng thân tùy hộ giá Nguyễn Vương lúc trước ở Băng Cốc, đã ba lần đi sứ nước Xiêm, hai lần quản lĩnh đạo Thanh Châu, và vừa bảo hộ Nguyễn Văn Nhơn đi sứ Xiêm về, nay được Nguyễn Vương cử làm thống tướng phụ trách cánh quân vu hồi này.

Nguyễn Vương lại sai cho hoàng tử thứ hai trọng trách trấn giữ vùng Gia Định và các trọng địa của đất phương Nam, cùng với các tướng là Nguyễn Văn Nhơn làm Chưởng cơ thống lĩnh quân binh kiêm chưởng Bộ Hộ, Nguyễn Tử Châu làm Tham mưu Bồi tán quân vụ.

Tại Bình Định, Nguyễn Bảo là con của Nguyễn Nhạc vì căm giận vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản chiếm giữ đất Tây Sơn bèn định bỏ về hàng Nguyễn triều. Vua Cảnh Thịnh biết mưu ấy sai tướng vào bắt Nguyễn Bảo đưa về dìm xuống sông giết đi. Lại có người nói gièm rằng Nguyễn Bảo sở dĩ làm phản là tại quan trấn thủ Lê Trung. Vua Cảnh Thịnh triệu Lê Trung về Phú Xuân sai võ sĩ bắt chém đi. Được ít lâu sau quan Thái phó Nguyễn Văn Huấn cũng bị giết. Từ đó tướng sĩ Tây Sơn nhiều người nản lòng tìm cơ hội bỏ theo về Nguyễn Vương.

Nguyễn Du làm Hồng Sơn Liệp Hộ ở Tiên Điền. Ba bài Tạp ngâm cho ta thấy cảnh sống của nhà thơ tại bên bờ sông Quế Giang.

TẠP NGÂM I

Nguyễn Du thơ chữ Hán,
Nhất Uyên dịch thơ.

Tiếng thu một tối vượt Lam Hà,
Vô ảnh vô hình đến với ta.
Muôn dậm Tây phong đầu bạc tóc,
Một song thu sắc cúc vàng hoa.
Trăm năm vui khổ bao giờ hết,
Bốc vách thi thư mấy cũng vừa.
Trước ngõ cội tùng trăm thước đứng,
Chúa Xuân ghen có được gì a ?

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:

TẠP NGÂM I

Thu thanh nhất dạ độ Lam hà,
Vô ảnh vô hình nhập ngã gia.
Vạn lý Tây phong lai bạch phát,
Nhất song thu sắc tại hoàng hoa.
Bách niên ai lạc hà thời liễu ?
Tứ bích đồ thư bất yếm đa.
Đình thực cô tùng cao bách xích,
Bất tri thanh đế nại nhân hà ?

Chú thích:
Lam hà : tức sông Lam
Thanh đế: thần mùa xuân, còn gọi Đông đế hay Đông quân. Ý nói cây thường xanh tươi mùa xuân, tiêu điều rụng lá mùa thu, nay trồng một cây tùng xanh tươi suốt năm, chẳng hay chúa Xuân có làm gì được người trồng cây tùng không ?
Xích:  thước đo ngày xưa bằng ba gang tay.

TẠP NGÂM 1 (dịch nghĩa)
Tiếng thu một tối vượt qua sông Lam,
không bóng không hình lọt vào nhà ta.
Gió Tây muôn dậm làm cho mái tóc thêm bạc.
Sắc thu đầy trên cửa sổ trên khóm hoa vàng.
Cuộc vui buồn trăm năm bao giờ hết ?
Sách vở đầy bốn vách, bao nhiêu cũng vừa.
Trước sân trồng một cây tùng cao trăm thước,
không biết chúa Xuân sẽ làm gì được người .

Bài này cho thấy số sách vở họ Nguyễn Tiên Điền không cháy hết còn lại một hai  phần mười mà vẫn còn lại một số chất đầy bốn vách. Đáng tiếc nhất là bộ sưu tập thơ văn của Đoàn Thị Điểm của cụ Nguyễn Nghiễm bị cháy.

TẠP NGÂM II

Nguyễn Du thơ chữ Hán,
Nhất Uyên dịch thơ

Long Vĩ đầu sông nhà một gian,
Ẩn sầu chót vót bỗng vui tràn.
Đạt nhân lòng tỏ như trăng sáng,
Xử sĩ trước nhà vọng núi xanh.
Gối sách đỡ thân nằm bệnh tật,
Bên đèn rượu nhắp thắm dung nhan.
Suốt ngày bên bếp không đun lửa,
Ngoài song no với khóm hoa vàng.

Nguyên tác phiên âm Hán Việt

TẠP NGÂM  III

Long Vĩ giang đầu ốc nhất gian,
U cư sầu cực hốt tri hoan.
Đạt nhân tâm cảnh quang như nguyệt,
Xử sĩ môn tiền thanh giả san.
Chẩm bạn thúc thư phù bệnh cốt,
Đăng tiền đẩu tửu khởi suy nhan.
Táo đầu chung nhật vô yên hỏa,
Song ngoại hoàng hoa tú khả xan.

TẠP NGÂM II (dịch nghĩa): 
Đầu sông Long Vĩ có một gian nhà,
ở ẩn buồn đến cực độ, bỗng thấy vui.
Cõi lòng người khoáng đạt sáng tỏ như vầng trăng.
Trước cửa nhà ẩn dật toàn là núi xanh.
cạnh gối có chồng sách đỡ tấm thân bệnh tật.
Trước đèn uống chén rượu cho vẻ mặt tiều tụy vui tươi  lên.
Suốt ngày bếp không đỏ lửa,
ngoài cửa sổ hoa cúc vàng tươi tốt có thể ăn được.

Bài viết này thêm một bằng chứng Nguyễn Du còn độc thân.

TẠP NGÂM III

Nguyễn Du thơ chữ Hán,
Nhất Uyên dịch thơ

Tháng tám thu tàn vương mác man,
Khí trời nửa nắng mây mênh mang.
Gió đùa cao trúc trời vang sáo,
Mưa ướt  hoàng hoa đất rãi vàng.
Núi lạnh gió lùa du tử mộng,
Đầm sâu trong suốt chủ nhân lòng.
Cửa ngoài dạo gót nhìn thu sắc,
Thoáng nửa đầu sông, rừng lá phong.

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:

TẠP NGÂM III

Mạc mạc thu quang bát nguyệt thâm,
Mang mang thiên khí bán tình âm.
Thu phong cao trúc minh thiên lại,
Linh vũ hoàng hoa bố địa câm (kim).
Viễn tụ hàn xâm du tử mộng,
Trừng đàn thanh cộng chủ nhân tâm.
Xuất môn từ bộ khan thu sắc,
Bán tại giang đầu phong thụ lâm.

BÀI TẠP NGÂM III (dịch nghĩa)

Tháng tám cảnh thu già lặng lẽ,
khí trời mênh mang nửa rạm mây nửa nắng.
Bụi trúc cao gió thổi, tiếng sáo trời nổi lên,
hoa cúc sau trận mưa, rơi xuống rắc hoa vàng trên mặt đất.
Khí lạnh rặng núi xa thấm vào giấc mộng người du tử.
Nước đầm trong suốt giống như lòng chủ nhân.
Ra trước cửa thong thả ngắm sắc thu,
thấy một nửa trên dải rừng phong mé đầu sông.

Năm Kỷ Mùi (1799). Nguyễn Du 34 tuổi. Nguyễn Vương thấy thế Tây Sơn đã suy yếu; cánh quân vu hồi của tướng Nguyễn Văn Thụy cùng phương lược ngoại giao của binh bộ tham tri Lưu Nhân Tĩnh đã hình thành tình thế mới, bèn quyết định cử đại binh ra đánh Quy Nhơn. Nguyễn Vương tự mình làm tướng, chia binh làm hai đường thủy bộ, giao cho tướng trấn giữ Diên Khánh là Đông cung Cảnh với Tả quân phó tướng Nguyễn Đình Đắc, Hữu quân phó tướng Nguyễn Công Thái chẹn giữ các vùng hiểm yếu Phú Yên, Ninh Thuận,  Bình Thuận để làm thanh thế.

Cánh quân tiên phong đường bộ do Nguyễn Văn Thành làm thống tướng, Đặng Trần Thường làm Hiệp tán quân vụ, Trịnh Hoài Đức làm Hộ bộ tham tri, Lưu thủ Vĩnh Trấn Nguyễn Văn Thịnh phụ trách việc vận chuyển lương cho bộ binh.

Cánh quân thủy do Nguyễn Vương trực tiếp thống lãnh, Bình Tây tham thặng đại tướng quân Võ Tánh làm hộ giá, tướng Mai Đức Nghị quản lĩnh hơn năm mươi chiến thuyền  hộ vệ đoàn thuyền lương.

Năm Kỷ Mùi (1799) đầu mùa hè, Nguyễn Vương hạ lệnh xuất quân. Quân Nguyễn và quân Tây Sơn đối trân ác liệt tại cửa Thị Nại Bình Định cho đến Quảng Ngãi. Bá Đa Lộc ốm chết trong quân ở cửa Thị Nại ngày 9 tháng 10 năm 1799, xác được ướp thuốc đưa về chôn ở gần nhà giảng của Lộc ở Gia Định, xây lăng gọi là lăng Cha Cả .
Tướng sĩ Tây Sơn do sự chia rẽ của triều đình Cảnh Thịnh nên một số tướng lĩnh thân tín Nguyễn Nhạc cùng hậu duệ của họ nản lòng bỏ theo về Nguyễn Vương, trong số đó có  đại đô đốc Tây Sơn là Lê Chất, một tướng giỏi đánh trận, người huyện Phù Ly, phủ Bình Định là con rễ của Tư lệ Lê Trung. Lê Chất đưa hơn hai trăm quân bản bộ về hàng được Nguyễn Vương cho làm chức tướng quân dưới quyền Võ Tánh.

Nguyên Lê Chất là thuộc tướng Lê Trung được Lê Trung mến tài gả con gái cho. Lê Chất biết tình thế triều Quang Toản sẽ tan vỡ từ bên trong nên nhiều lần khuyên Lê Trung đầu hàng Nguyễn Ánh nhưng Trung còn do dự chưa quyết. Sau sự biến Nguyễn Bảo bị dìm chết, Lê Trung và Nguyễn Văn Huấn bị giết, vua Cảnh Thịnh lùng bắt Chất rất gấp, Chất giả dạng trốn được. Lê Chất được Tổng quản Tây Sơn là Lê Văn Thanh tiếc tài giữ lại làm thân tín trong doanh. Lê Chất gặp thời cơ đã sang hàng Võ Tánh.

Tướng trấn thủ Quy Nhơn là Lê Văn Ứng thấy quân Nam thế lớn sợ lương thực không đủ dùng nên lệnh cho Tổng quản Nguyễn Văn Thanh, Binh bộ Thượng thư Nguyễn Thái Phác cùng Thiếu úy Nguyễn Tiến Thúy giữ thành còn mình thì mang quân ra thành về ấp Tây Sơn thu chở quân lương. Lê Chất biết rõ tình hình báo cho Võ Tánh lập tức giao tinh binh cho Nguyễn Đức Xuyên và Lê Chất chia làm hai cánh đánh tiêu diệt lớn và cướp binh lương. Lê Văn Ứng thua to, chạy thoát được vào thành, xua quân ra ngoài dàn trận chống cự. Nguyễn Văn Thành Và Võ Tánh đem đại binh vây chặt. Tổng quản Lê Văn Thanh thế cùng phải đóng cửa thành tử thủ để chờ viện binh.

Quang Toản nghe tin thua trận liền sai ngay hai đại tướng Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng mang binh thuyền tới cứu viện. Quân do thám báo về Nguyễn Vương lập tức dẫn đại quân chia ba đường do Lê Văn Duyệt, Tống Viết Phước, Đông cung Cảnh với hai phó tướng là Nguyễn Đình Đắc, Nguyễn Công Thái cùng tiến đánh quân cứu viện; Võ Duy Nghi quản binh thuyền năm doanh án ngữ cửa biển Kim Bồng. Nguyễn Vương tự mình chỉ huy đại quân tiến gấp đến Tân Quan.

Nguyễn Quang Diệu và Võ Văn Dũng vào Quảng Ngãi nghe tin quân Nam đã chiếm Tân Quan bèn bỏ thuyền lên bộ, quân đông tới vài vạn, tiến nhanh như gió cuốn đất. Quân Quang Diệu và Nguyễn Ánh giáp chiến, trong khi Võ Văn Dũng ngầm chia binh theo đường tắt thẳng đến Bến Đá định tập kích Tân Quan đang đêm vượt suối nhỏ bị chạm trán cánh quân mạnh của Tống Viết Phước bị thua to phải lùi về Quảng Ngãi.

Nguyễn Vương lập tức sai đem quân thua của Võ Văn Dũng đi diễu quanh thành Bình Định để làm quân Bắc khiếp sợ, lại lệnh cho Võ Tánh gấp rút công đồn và cho người vào thành dụ hàng. Tổng quản Lê Văn Thanh, Binh bộ Thượng thư Nguyễn Đại Phác, Thiếu úy Trương Tiến Thúy thấy thế không thể chống nổi, phải dâng thành xin hàng. Nguyễn Vương sai Lại bộ Tham tri Phạm Đăng Hưng cùng Lại bộ  Trần Văn Trạc đến thành Quy Nhơn chiêu dụ và tiếp nhận sự đầu hàng.

Phạm Đăng Hưng nguyên là người làng Tân Hòa, Gia Định, là môn sinh của Lại bộ Nguyễn Bảo Trì, thông minh, hiếu học , thạo việc nước , binh thư lịch pháp tinh thông, thường được dự bàn mưu lược trong quân. Phạm Đăng Hưng sau này có con gái là bà Từ Dụ hoàng thái hậu, vợ vua Thiệu Trị, mẹ vua Tự Đức.

Tướng Nguyễn Văn Thành chỉ huy quân tiên phong và hữu quân kịch chiến năm ngày ở Bến Đá với quân của tướng Tây Sơn Nguyễn Quang Diệu không phân thắng bại. Quang Diệu thấy Võ Văn Dũng thua trận nên không dám ham đánh mà thu binh rút lui. Nguyễn Vương chiếm thành Quy Nhơn.

Nguyễn Vương thu quân về Nam, chọn cử đại tướng quân kiêu dũng thiện chiến Võ Tánh vừa là con rể Nguyễn Vương thống tướng trấn thủ  Bình Định,  Ngô Tòng Chu làm hiệp trấn, Hình bộ Nguyễn Hoài Quýnh làm Bồi tán Quân vụ, Vệ úy Nguyễn Văn Thịnh làm Lưu thủ, Cai cơ Nguyễn Văn Tường làm Cai bạ. Phụng nghị Tá làm Ký lục giúp Võ Tánh ở dinh Trấn thủ. Ba đồn quân ngự lâm Tả Trung Tiền đặt dưới quyền của ba tướng Phan Tiến Huỳnh, Đoàn Văn Cát, Lê Chất, cùng với Nguyễn Văn Tồn chỉ huy lính Xiêm đóng tại các vị trí hiểm yếu che chắn vòng ngoài và tạo thế liên hoàn phòng thủ thành Bình Định. Nguyễn Vương cũng chọn cử tướng Nguyễn Văn Trương đóng giữ cửa Thi Nại. Tướng Nguyễn Văn Tính lưu thủ Diên Khánh, Đặng Trần Thường làm Hiệp trấn, Phạm Tiến Tuấn lưu thủ Phú Yên, Lưu Tiến Hòa lưu thủ Bình Khang, Võ Văn Lân lưu thủ Bình Thuận. Ra lệnh lập sổ dân binh, khen thưởng huân công, bổ dụng con cháu những người trung nghĩa, xét trả lại ruộng đất bị quan quân Tây Sơn chiếm đoạt.

Quy Nhơn trước  thuộc trấn Quảng Nam vốn là đất khởi nghiệp của nhà Tây Sơn, sản vật dồi dào, sức binh hùng mạnh mà Trung ương Hoàng Đế Tây Sơn Nguyễn Nhạc và Hoàng Đế Quang Trung Nguyễn Huệ tranh chấp để giành lấy sự chính danh ngôi vua, đã dẫn đến hiềm khích bất hòa và chia rẽ sâu sắc, dẫn đến suy yếu. Sau hai mươi sáu năm khởi nghiệp nay thành Quy Nhơn bị rơi vào tay quân Nam Triều, Nguyễn Vương cho đổi tên thành Bình Định. Vua Quang Toản nghe tin báo quân Nam đã rút về Nam, chỉ để lại quân tướng giữ thành bèn thương nghị với Trần Văn Kỷ.  Quy Nhơn là đất hưng vượng triều ta mà không giữ được thì làm sao giữ được Phú Xuân và cửa Hàn?

Trần Văn Kỷ người Thuận Hóa, vốn có văn học, là bậc danh sĩ ở Nam Hà. Sách Hoàng Lê Nhất thống chí viết: “Năm Đinh Dậu (1777) niên hiệu Cảnh Hưng, Kỷ thi ở trấn (Phú Xuân) đậu giải nguyên. Năm Mậu Tuất (1778), Kỷ tới kinh (Thăng Long) thi Hội. Sĩ phu ở Bắc Hà, Kỷ có giao thiệp quen biết ít nhiều. Năm Bính Ngọ (1786), Bắc Bình Vương (Nguyễn Huệ) đánh lấy thành Phú Xuân, sai người tìm Kỷ hỏi việc Nam, Bắc. Kỷ đối đáp rất nhanh và rất hợp ý, nên Bắc Bình Vương rất trọng, cho ở vào chỗ “màn trướng”, việc gì cũng bàn với Kỷ, lúc nào cũng gần bên Kỷ, không mấy khi xa rời”. Năm 1786, khi  Nguyễn Huệ xuất quân ra Thăng Long lần thứ nhất để diệt Trịnh, phò Lê; gặp khi vua Lê Hiển Tông mất (ngày 10 tháng 8), Trần Văn Kỷ cùng Nguyễn Hữu Chỉnh đã thay mặt Nguyễn Huệ mặc áo trắng đi theo hầu đám tang vua đến nơi an táng ở Bàn Thạch (Thanh Hóa). Năm 1787, nội bộ Tây Sơn lâm vào tình trạng chia rẽ sâu sắc. Trần Văn Kỷ đã đứng ra lo dàn xếp giữa hai anh em Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ bằng cách lấy Bản Tân làm ranh giới. Từ Quảng Ngãi trở vào Nam do Nguyễn Nhạc làm chủ, từ Thăng Diện ra Bắc thuộc về Nguyễn Huệ, nhờ mưu kế này đã chấm dứt cuộc hỗn chiến đẫm máu kéo dài suốt từ tháng 1 đến  tháng 5 năm 1787 giữa hai thủ lĩnh Tây Sơn làm thiệt hại chừng một nửa trong số 6 vạn quân của Nguyễn Huệ điều vào Quy Nhơn. Theo sách Tây Sơn thủy mạt khảo của Đào Nguyên Phổ (1861-1908) đã xác nhận điều này “nhờ mưu kế của Trần Văn Kỷ, là người hạnh thần của Nguyễn Huệ bày ra”. Do thành quả trên, ông được phong tước Kỷ Thiện hầu, giữ chức Trung thư Phụng chính, có nhiệm vụ tham mưu, nắm toàn bộ trung thư cơ mật, thảo sắc phong, chiếu lệnh, vị đại thần bên cạnh vua Quang Toản.

Chính vì vậy Quang Toản  đã đích thân dẫn đại quân vào Trà Khúc để đôn đốc các tướng tiến đánh. Trần Nhật Kết nói: Nay là cuối thu, hướng gió không thuận, nên chuẩn bị kỹ quân lương mọi mặt, đầu xuân hãy ra quân. Mặt khác cũng phải đề phòng kinh thành Phú Xuân bị đột kích từ hướng tây và hướng biển. Quang Toản nghe lời, sau khi hội tướng xong bèn để Nguyễn Quang Diệu, Võ Văn Dũng  trấn thủ Quảng Nam và Quảng Ngãi, Nguyễn Văn Giáp trấn thủ Trà Khúc, còn vua thì đem quân về Phú Xuân.

Nguyễn Du năm 1799 vẫn ở làng Tiên Điền. Ông làm Hồng Sơn Liệp Hộ nhưng tâm trạng vẫn khắc khoải nhiều tâm sự buồn. Tôi chép lại trích dẫn các bài thơ Tạp thi của Nguyễn Du và lời bình của Tiến sĩ Nguyễn Trọng Chánh nhưng tôi cho rằng chùm thơ này không phải của giai đoạn Nam Hải Điếu Đồ (Người câu cá ở biển Bắc 1790-1994) mà thuộc giai đoạn này.

Bài Tạp thi I  Ghi lại tâm sự Nguyễn Du: Tráng sĩ bạc đầu bùi ngùi ngẩng nhìn trời, hùng tâm sinh khí mờ mịt cả hai. Chuyện tình với cô Xuân Hương làng Nghi Tàm, cô Cúc làng Trường Lưu thành chuyện hão. Lần lửa đông rét hè nóng, cướp cả tuổi trẻ. Dắt chó vàng mãi vui thú dưới Hồng Lĩnh. Trông mây trắng nằm bệnh bên bờ sông Quế. Ở thôn quê, thích được mua rượu luôn. Trong túi hãy còn ba mươi đồng tiền.

TẠP THI I

Nguyẽn Du thơ chữ Hán,
Nhất Uyên dịch thơ

Bạc đầu tráng sĩ ngẩng trời than !
Dựng nghiệp, mưu sinh thảy lỡ làng.
Thu cúc, xuân lan thành mộng ảo,
Hạ nồng, đông lạnh cướp ngày xanh.
Chó vàng vui thú quanh Hồng Lĩnh,
Mây trắng, nằm đau cạnh Quế Giang.
Vẫn thích làng quê hằng có rượu,
Ba mươi tiền sẵn túi con mang.

Nguyên tác phiên âm Hán Việt :

TẠP THI I

Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên,
Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên.
Xuân lan, thu cúc thành hư sự,
Hạ thử đông hàn đoạt thiếu niên.
Hoàng khuyển truy hoan Hồng Lĩnh hạ,
Bạch vân ngọa bệnh Quế Giang biên.
Thôn cư bất yếm tần cô tửu,
Thượng hữu nang trung tam thập tiền.

TẠP THI II (dịch nghĩa).
Non Hồng một màu soi bóng xuống làn nước phẳng,
nơi thanh tú tĩnh mịch này, kẻ hàn sĩ có thể ở được.
Mây trắng từ ngàn dậm đến bay in bóng trên giường chiếu,
Trăng sáng soi qua cửa sổ chiếu vào cặp sách túi đàn (*).
Lúc loạn lạc cười khóc cũng theo đời.
Thân  già yếu nên yên lặng để giữ mình.
Chuyện đời trước mắt thay đổi như hoa nở lá rụng.
Quanh năm cõi lòng vẫn thản nhiên như không .

(*) TS. Nguyễn Trọng Chánh bình: Nguyễn Du luôn có bên mình thanh gươm và cây đàn nguyệt. Tình hình Hồng Lĩnh từ sau cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quýnh, công an quận công Thận đang kiểm soát gắt gao, tai vách mạch rừng, nói gì cũng phải cẩn thận, cười khóc phải theo thời, thiên hạ đang cười mà mình khóc, thiên hạ đang khóc mà mình cười công an bắt ngay !. Từ khi vua Quang Trung mất, chúa Nguyẽn Ánh nổi dậy đang hùng cứ Nam Hà, chuyện đời sẽ đổi thay như hoa nở lá rụng ).

TẠP THI  II

Nguyễn Du thơ chữ Hán,
Nhất Uyên dịch thơ

Núi Hồng soi bóng nước xanh trong,
Hàn sĩ nơi đây ẩn cảnh nhàn.
Ngàn dậm mây về quanh chiếu chỏng,
Một song trăng sáng rọi thư đàn.
Khóc cười thời loạn theo trần thế,
Bệnh yếu lặng câm mà giữ thân,
Trước mắt nở hoa rồi rụng lá,
Bốn mùa thanh thản có như không.

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:

TẠP THI II

Hồng Sơn nhất sắc lâm bình cừ,
Thanh tịch khả vi hàn sĩ cư.
Thiên lý bạch vân sinh kỷ tịch.
Nhất song minh nguyệt thướng cầm thư.
Tiếu đề tuẫn tục can qua tế,
Giam mặc tàng sinh lão bệnh dư.
Diệp lạc hoa khai nhãn tiền sự,
Tứ thời tâm kính tự như như.

Năm Canh Thân (1800). Nguyễn Du 35 tuổi.  Nguyễn Quang Diệu và Võ Văn Dũng về triều kiến vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản ở Phú Xuân. Vua Quang Toản phủ dụ rằng: Các khanh là trụ cột của triều đình , nên đồng tâm gắng sức để trừ họa ngoài, không nên nghi ngờ nhau.  Hai tướng khóc mà tạ ơn. Diệu nói: Bọn thần đi chuyến nay nếu không thu phục được Quy Nhơn thề không đem binh trở về. Không ngờ, đây chính là chuyến xuất quân định mệnh, bước ngoặt của cục diện quân sự thay đổi dẫn đến sụp đổ nhà Tây Sơn.

Nguyễn Quang Diệu và Võ Văn Dũng vốn là hai chiến tướng trụ cột lừng danh của nhà Tây Sơn, hai  ông cùng với Ngô Văn Sở và Bùi Thị Xuân được người đương thời gọi là Tây Sơn tứ kiệt. Ngô Văn Sở lúc ấy đã chết. Bùi Thị Xuân thì sau này là nữ tướng lẫm liệt bậc nhất của triều Cảnh Thịnh đương đầu với thế quân áp đảo của Nguyễn Vương khi Nguyễn Quang Diệu và Võ Văn Dũng bị hãm trận ở nơi xa.

Nguyên là Võ Văn Dũng sau trận thua nặng nề ở Bến Đá khi ông định tập kích Tân Quan, kỹ luật của quân Tây Sơn rất nghiêm minh, Quang Toản nối chí Nguyễn Huệ nhưng đã quen phong thái cỉ huy của cha, trị quân và khiển tướng rất nghiêm. Mọi sơ suất trong hành binh, đánh trận và thưởng phạt đều xử trọng tội theo quân pháp. Võ Văn Dũng dễ bị tội chết  nhưng nhờ có Quang Diệu che giấu nên Võ Văn Dũng cảm nghĩa ấy mà kết sinh tử với Trần Quang Diệu và cố kết với nhau rất tương đắc. Trần Văn Kỷ, Trần Nhật Kết và Hồ Công Diệu trong Cơ Mật Viện ‘ban tham mưu’ của vua Cảnh Thịnh ở Phú Xuân vốn ghét Nguyễn Quang Diệu oai quyền lấn chủ, tướng ở ngoài thường tự chuyên, hành binh tiến lui và mưu lược đánh trận coi thường mưu kế tcủa ham mưu ở xa. Nay nhân việc binh thua mất đất căn bản Quy Nhơn của Quang Diệu nên đã gửi mật chiếu lệnh cho Dũng thay Diệu nắm trọng binh. Dũng vì mang ơn Diệu nên đưa tờ chiếu ấy cho Diệu xem. Hai người kéo binh về đóng trại ở nam Sông Hương đòi trị tội tên giặc ở bên cạnh vua. Trần Văn Kỷ đổ lỗi cho Hồ Công Diệu và Trần Nhật Kết. Kết bỏ trốn. Quang Toản sai bắt Hồ Công Diệu nộp cho Nguyễn Quang Diệu, bấy giờ Trần Quang Dũng và Võ Văn Dũng mới chịu vào triều kiến và xuất quân đánh Quy Nhơn

Tháng Chạp năm 1800, Trần Quang Diệu sai đắp lũy dài vây đánh thành Quy Nhơn rất gấp, trong khi Võ Văn Dũng thì đem hai tàu lớn và hơn trăm chiến thuyền bố phòng bị nghiêm ngặt cửa biển Thị Nại, xây đồn và đặt súng đại bác ở hai bên cửa biến phòng thủy quân của nhà Nguyễn đánh ra. Tin báo về Gia Định, các tướng đều thấy quân Võ Tánh thế cô, xin xuất binh cứu viện gấp. Nguyễn Vương nói: “Lương thảo trong thành Bình Định đủ ăn một năm. Nay gió mùa đông bắc đang mạnh, chưa tiện đưa thủy quân ra”. Nói rồi cho người ruổi ngựa mang thư khuyến khích Võ Tánh đốc thúc tướng sĩ liều chết cầm cự, một mặt hội tướng bàn việc tiến quân.

Nguyễn Vương điều Đông cung Cảnh về giữ thành Gia Định, lấy Nguyễn Văn Nhơn quyền lãnh Tả quân phó tướng coi sóc mọi việc cùng Đông cung và lo chi viện lương thảo, cử Hình bộ Thượng thư Nguyễn Tử Châu làm hiệp tán cơ vụ. Tấn phong Nguyễn Văn Thụy làm làm Khâm sai thượng đạo Bình Tây đại tướng quân, dẫn một cánh quân  ‘thám báo tinh nhuệ’ đi mua chuộc lòng dân, tổ chức dân binh, hội binh cùng vua Vạn Tượng loan truyền việc đánh Nghệ An và tây Phú Xuyên để kiềm chế viện binh Phú Xuân và Bắc Hà kéo vào tiếp ứng Quy Nhơn. Kế đến là tung thám báo và những người có quan hệ nhiều với triều Lê, tướng trụ cột Tây Sơn để  thăm dò nội tình, gây chia rẽ, lũng đoạn triều chính ngay trong lòng nội bộ Tây Sơn. Đội quân này xuất phát ngay.

Tháng ba năm ấy, Nguyễn Vương lệnh cho Nguyễn Đức Xuyên đưa đội tượng binh và đại quân đường bộ lên đường còn tự mình thì dẫn đoàn chiến thuyền tiến phát tiếp sau. Nguyễn Đức Xuyên ra đến Diên Khánh thì Trần Quang Diệu đã lập 90 đồn binh hùng hậu liên hoàn để phòng giữ. Nguyễn Đức Xuyên xin lệnh Nguyễn Vương về phối hợp tiến công. Các tướng bàn định là nên bỏ Bình Định để tấn công Phú Xuân. Đặng Trần Thường cho rằng không nên vì quân Nam triều thuận gió ập đến, thủy quân Tây Sơn đang hùng hậu và cố thủ ở cửa Thị Nại, nếu thuyền quân Nam tiến ra Phú Xuân thì thủy quân Tây Sơn sẽ thuận gió đuổi theo, hai mặt trước sau giáp công thì quân Nam sẽ rất nguy hiểm. Nên đánh tan thủy binh mới đánh Phú Xuân được. Nguyễn Vương khen phải nên cho chiến thuyền tạm cập bến Cù Mông là nơi luồng lạch không thuận lợi bằng cửa Thị Nại vì Tây Sơn đã chiếm trước và phòng ngự chắc chắn rồi.

Quân sư Đặng Đức Siêu dâng kế là quân Nam nếu bỏ tàu thuyền lên bộ thì thuyền neo lại ngoài khơi rất dễ bị Tây Sơn đánh đoạt, trong khi quân Nam sở trường thủy chiến hơn đánh bộ, sao bằng nhân trời gió nồm lớn gió thuận thế hãy dùng kế hỏa công lấy thuyền cá của dân chở thuốc dẫn nổ và đồ gây cháy đi đầu bí mật xáp trận phá sạch thủy quân của địch thì sẽ có lợi lớn. Sự cần thiết là quân bộ phải tấn công nhiều hướng để thu hút địch và phân tán sự chú ý. Nguyễn Vương theo kế này. Tướng tiền quân Nguyễn Văn Thành kiêu dũng, thiện chiến được giao thống binh tất cả các đạo quân bộ để giao chiến gìm chân tướng giỏi Nguyễn Quang Diệu. Tướng Võ Duy Nghi và Lê Văn Duyệt  cùng đại đội quân thủy tổ chức tập kích Võ Văn Dũng ở Thị Nại.

Quân hai bên giao chiến rất ác liệt. Lúc bấy giờ quân bộ của Nguyễn Văn Thành và Võ Tánh với quân thủy của Nguyễn Vương chưa thông được với nhau. Các tướng thống binh của hai bên đều là tướng tài, chiến sự rất ác liệt giằng co không phân thắng bại.

Nguyễn Du năm 1800 làm Hồng Sơn Liệp Hộ ở Tiên Điền, xứ Nghệ. Anh Nguyễn Nễ ở thành Nghệ An làm hiệp trấn nhung vụ cho Thận Quận Công. Nguyễn Du vẫn thường quan sát diễn biến thời thế. Năm Tân Dậu (1801). Nguyễn Du 36 tuổi.  Chúa Nguyễn cùng cánh quân thủy của Lê Văn Duyệt và các tướng là Nguyễn Văn Trương, Tống Phước Lương, Võ Di Nguy đánh chiếm cửa biển Thị Nại. Tướng Võ Di Nguy bị trúng đạn chết lúc lâm trận, Lê Văn Duyệt trong mưa đạn liều chết hãm trận, càng gắng sức đánh, đốt phá gần hết binh thuyền Tây Sơn. Trận Thị Nại được khen là “võ công đệ nhất” của Nhà Nguyễn, và là “võ công lớn nhất” của Lê Văn Duyệt. Thủy quân Tây Sơn của danh tướng Võ Văn Dũng bị quân Nguyễn Ánh đánh bại, tàu lớn và chiến thuyền đều bị thiêu rụi. Võ Văn Dũng lên bộ, hợp quân với Trần Quang Diệu tiếp tục vây Quy Nhơn. Quân đôi bên đánh nhau rất quyết liệt thì vừa có tin Gia Định báo ra là Đông cung Cảnh bị bệnh đậu mùa đã mất. Nguyễn Vương đau đớn sai Nguyễn Văn Nhơn, Nguyễn Tử Châu thay thế giữ công việc trấn thủ Gia Định và lo liệu việc tang. Tháng sau hoàng tử thứ hai tên là Hi cũng mất ở Diên Khánh, đem về táng ở Gia Định.

Nguyễn Ánh sai tướng chỉ huy đạo Trung doanh là Nguyễn Văn Trương tấn công Quảng Ngãi và Quảng Nam. Đô đốc Tây Sơn tên là Tuấn phải bỏ chạy. Đại đô đốc Tây Sơn là Nguyễn Văn Xuân và Thiếu úy Văn Tiến Thể liều chết cố thủ. Trương cho quân vòng ra phía sau đánh úp, quân Tây Sơn buộc phải tháo chạy. Nguyễn Vương sai Tống Viết Phước và Phạm Văn Nhơn đem binh thuyền tiến gấp ra cửa biển Đà Nẵng phối hợp tác chiến. Đại đô đốc Nguyễn Văn Toản quê huyện Bình Sơn Quảng Ngãi đang quản sáu đạo quân Quảng Ngãi vây Quy Nhơn đã lén theo hàng Nguyễn Ánh và được Nguyễn Vương cho giữ chức Lưu thủ Quảng Ngãi.

Vua Cảnh Thịnh được tin chiến sự cấp báo bèn triệu Trần Văn Kỷ vào định kế ngăn chặn quân Nam đánh ra Bắc. Trần Văn Kỷ tâu: Lực lượng tinh nhuệ quân Tây Sơn nay đang vướng bận vây thành Quy Nhơn và bị cắt đường về không thể ứng cứu, trong khi Nghệ An bị người Vạn Tượng, Trấn Ninh kéo xuống quấy nhiễu. Quân lực ở Quảng Bình và Quảng Trị chỉ đủ trấn giữ địa phương, nên Phú Xuân không còn quân dự bị để ngăn quân Nam tiến ra. Vua cần mời gấp La Sơn Phu Tử về vấn kế.

Gặp vua,  La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp nói ngay: “Song Ngư thủy thiển. Nguyễn thị hoàn lương” (Song Ngư nước cạn. Họ Nguyễn về làng). “Xin bệ hạ gấp dời đô về Nghệ An, ngõ hầu còn kịp” vua Cảnh Thịnh sợ rối loạn lòng quân dân nên do dự chưa quyết.

Trần Văn Kỷ hiến kế cho vua là cử Phò mã Nguyễn Văn Trị đóng đồn trọng binh ở cửa Thuận An, đắp lũy đóng cọc rào để chặn thủy quân Nguyễn Vương, lại lệnh cho Đại đô đốc Nguyễn Văn Xuân và Thiếu úy Văn Tiến Thể thu thập quân mã tiến đánh Nguyễn Văn Trương để khôi phục lại Quảng Nam làm thanh viện cho quân Tây Sơn đang vây thành Quy Nhơn. Xuân  và Thể nghe lệnh đã thu thập binh mã, trước dụ hàng và sau tiến đánh quân Nam của Nguyễn Văn Trương nhưng bị thua nên buộc phải cố thủ.

Tháng 4 âm lịch năm 1801, nhận thấy quân tinh nhuệ của Tây Sơn đều ở cả Quy Nhơn mà lực lượng ở Phú Xuân (Huế) thì rất yếu ớt, Nguyễn Ánh đốc suất toàn bộ thuỷ quân và trên 1.000 chiến thuyền, thuận theo gió nam vượt biển ra phía bắc, đánh thẳng vào cửa Thuận An. Quân Tây Sơn địch không nổi và tan vỡ. Cảnh Thịnh dốc hết tướng sĩ, tự mình cầm quân tới đánh nhau với quân Nguyễn. Gần trưa, quân Tây Sơn đại bại, vỡ chạy tan tác. Quân chúa Nguyễn chiếm lại đô thành, tướng Lê Văn Duyệt bắt sống Phò mã Nguyễn Văn Trị và Đô đốc Phan Văn Sách.

Ngày 3 tháng 5 (tức ngày 15 tháng 6 năm 1801),  Nguyễn Vương tiến vào nội thành Phú Xuân sau khi đánh tan đội thủy quân của nhà Tây Sơn, khiến vua Cảnh Thịnh phải tháo chạy ra Bắc. Một số quan tướng triều Cảnh Thịnh ra hàng, có người được dùng có người bị giết. Vua Gia Long nói: “Bọn khanh trình bày, cố nhiên là có ý phòng ngừa từ trước. Nhưng từ khi ta lấy lại Phú Xuân, bọn tướng giặc đầu hàng có, bắt được cũng có, ta đã tùy nghi xếp đặt, quân của chúng cho xen lẫn với quân ta, dưới quyền quan ta cai quản. Bọn chúng bất quá cai quản năm ba tên thuộc binh mà lệ theo súy phủ, phỏng có mang lòng phản trắc cũng không thi hành vào đâu. Bọn khanh ở quân thứ xa, chưa rõ sự cơ, nên đặc dụ cho biết”.

Nguyễn Vương vừa chiếm Phú Xuân đã lập tức sai Tiết chế Lê Văn Duyệt (có Lê Chất đi theo) đem quân bộ và Tống Viết Phước đem quân thủy, bất kể ngày đêm gấp đường vào cứu Bình Định. Lê Văn Duyệt dọc đường đánh thắng nhiều trận nhưng rốt cuộc không kịp cứu Quận Công Võ Tánh và Lễ Bộ Ngô Tùng Châu. Hai ông vì lương hết, nên đều đã tuẫn tiết vào cuối tháng 5 âm lịch năm 1801. Chúa Nguyễn xét công phong Lê Văn Duyệt làm “Thần sách quân Chưởng tả dinh Đô thống chế Quận Công”, phong cho Lê Chất làm tướng dưới quyền, để cùng mang quân đi thu phục các nơi.

Nguyễn Quang Toản sau khi thua trận, chạy ra Nghệ An ở lại vài ngày, rồi vội ra Thăng Long hội họp tướng sĩ, lo việc chống giữ. Tháng 8 năm đó, vua Quang Toản ở Thăng Long đổi niên hiệu Cảnh Thịnh làm năm đầu niên hiệu Bảo Hưng. Tháng 11, vua đem quân và voi của 6 trấn Hải Dương, Sơn Tây, Sơn Nam, Kinh Bắc, Thanh Hoa, Nghệ An vào đánh, nhưng bị quân nhà Nguyễn đánh thua, lại phải rút về.

Nguyễn Du năm ấy viết hai bài Hành lạc từ. Theo lời bình của nhà Kiều học đích thực, giáo sư văn chương, tiến sĩ Phạm Trọng Chánh, đại học Paris Pháp thì “Bài thơ phản phất không khí thơ bài Lý Bạch mời rượu, Trương Tiến Tửu, hãy vui chơi hôm nay. Đừng lo danh tiếng hảo xa vời khi đã chết, công danh, giàu sang trần thế như phù vân, có rồi lại mất, đời người ai sống được trăm tuổi, làm chi cho mệt cuộc đời. Đọc bài này rồi ta không thể nghĩ rằng Nguyễn Du có thể viết ngược lại đòi ba trăm năm lẻ nữa có người khóc mình trong bài Độc Tiểu Thanh Ký“. (Nguyễn Du- Người đi săn núi Hồng)

HÀNH LẠC I

Nguyễn Du thơ và từ
Nhất Uyên dịch thơ

Chó săn vàng đốm trắng,
Cổ đẹp đeo chuông vàng.
Chàng trai mặc áo ngắn,
Dắt về phía núi Nam.

Núi Nam nhiều nai hương,
Huyết ngọt thịt thơm ngon.
Dao vàng thái món quý,
Rượu ngon uống trăm chung.

Đời ai sống trăm tuổi,
Gặp thời cứ vui chơi.
Tội chi sống bần tiện,
Lo âu suốt đời người.

Di Tề chẳng danh lớn,
Chích Cược không giàu to.
Sống lâu chỉ tám chục,
Tội gì ngàn năm lo.

Có chó cứ làm thịt,
Có rượu cứ nghiêng bầu.
Hay dỡ trên đời sao biết được,
Cần gì lo tiếng hão về sau.

HÀNH LẠC  (I)

Tuấn khuyển hoàng bạch mao,
Kim linh hệ tú cảnh,
Kinh sam thiếu niên lam,
Khiển hướng Nam sơn lĩnh.

Nam sơn hương đa mi,
Huyết nhục cam thả phì.
Kim đao thiết ngọc soạn,
Mỹ tửu lũy bách chi.

Nhân sinh vô bách tải,
Hành lạc dương cập kỳ.
Vô vi thủ bần tiện,
Cùng niên bất khai mi.

Di Tề vô đại danh,
Chích Cược vô đại lợi,
Trung thọ chỉ bát thập,
Hà sự thiên niên kế.

Hữu khuyển khả tu sát,
Hữu tửy thả tu khuynh.
Nhãn tiền đắc táng dĩ nan nhận,
Hà sự mang mang thân hậu danh.

HÀNH LẠC bài từ số I ( dịch nghĩa)

Chó tốt lông vàng đóm trắng,
cổ đẹp đeo chuông vàng,

chàng trai trẻ mặc áo cộc,
dắt về núi phía nam.

Núi phía nam có lắm nai hương,
huyết thơm thịt lại béo,

dao vàng thái thành món ăn quý,
rượu ngon uống hàng trăm chén.

Đời người ai sống trăm tuổi,
vui chơi nên kịp thì,

tội gì giữ nếp nghèo nàn,
suốt năm không mở mặt mở mày.

Bá Di, Thúc Tề cũng chẳng có danh lớn.
Đạo Chích, Trang Cược cũng chẳng giàu to.
Sống lâu cũng chỉ tám mươi tuổi,
cần gì tính chuyện nghìn năm.

Có chó cứ giết ăn thịt,
có rượu cứ uống cho hết;

chuyện trước mắt hay dỡ khó mà biết được,
cần gì phải lo cái danh xa xôi sau khi chết rồi.

Chú thích :
– Di, Tề : Bá Di, Thúc Tề con vua Cô Trúc, một nước thuộc nhàÂn nay thuộc tỉnh Trực Lệ, Khi nhà Ân bị nhà Chu lấy, hai người không phục nhà Chu, lên núi Thú Dương ởẩn rồi nhịn đói mà chết chứ không thèm ăn thóc nhà Chu.
– Chích, Cược : Đạo Chích và Trang Cược hai tên trộm cướp nổi tiếng thời Xuân Thu. Đạo Chích em của Liễu Hạ Huệ có khoảng chín ngàn lâu la, đi bắt bò trâu trộm, cướp vợ người. Trang Cược em Sở Trang Vương cũng là tay cướp đại bợm.
– Trung thọ : Người xưa chia tuổi làm ba bậc : Hạ thọ (60 tuổi), Trung thọ (80 tuổi), Đại thọ (90 tuổi).

HÀNH LẠC  II

Nguyễn Du thơ và từ
Nhất Uyên dịch thơ

Núi cao hoa đào nở,
Tươi như màu lụa đỏ.
Sáng mai đùa xuân xanh,
Chiều tối rơi bùn nhọ.

Hoa nào đẹp trăm ngày ?
Người sống ai trăm tuổi ?
Chuyện đời lắm đổi thay,
Kiếp phù sinh chơi mãi.

Trong tiệc mỹ nữ đẹp như hoa,
Trong hồ có rượu như vàng pha,
Tiếng kèn tiếng sáo như khoan nhặt,
Được dịp hát to cứ hát ca.

Anh có thấy ông Vương Nhung tự tay cầm bàn ngà,
Ngày ngày tính toán lòng chưa vui sướng,
Đài Tam công đổ, cây mận ngon tàn,
Bạc vàng tiêu tán người khác hưởng.

Lại thấy không, ông Phùng Đạo khi về già còn phú quý.
Trải mấy triều vua ngôi cao khanh sĩ,
Chuông minh đỉnh vạc lại hoàn không,
Nghìn năm lưu bài Trường Lạc Tự.

Giàu sang trước mắt như phù vân,
Người nay chỉ biết cười người trước,
Người trước chết chôn đầy tha ma,
Người nay sao vẫn còn xuôi ngược.

Hiền ngu xưa nay một nấm mồ,
Nào ai vượt qua được sống chết.
Anh ơi uống rượu rồi vui chơi,
Kìa trông phía Tây trời đã xế.

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:

HÀNH LẠC (II)

Sơn thượng hữu đào hoa,
Xước ước như hồng ỷ,
Thanh thần lộng xuân nghiên,
Nhật mộ trước nê trỉ.

Hảo hoa vô bách nhật,
Nhân thọ vô bách tuế,
Thế sự đã suy di,
Phù sinh hành lạc sự.

Tịch thượng hữu kỹ hiểu như hoa,
Hổ trung hữu tửu như kim ba,
Thúy quản ngọc tiêu hoãn cánh cấp.
Đắc cao ca xứ thả cao ca.

Quân bất kiến:
Vương Nhung nha trù thủ tự tróc,
Nhật nhật cối kê thường bất túc,
Tam công đài khuynh hảo lý tử,
Kim tiền tán tán tha nhân phúc.

Hựu bất kiến:
Phùng Đạo vãn niên xung cực quý,
Lịch triều bất ly khanh tướng vị,
Chung minh đỉnh thực cánh hoàn không,
Thiên trải đồ lưu  Trường Lạc Tự.

Nhãn tiền phú quý như phù vân,
Lãng đắc kim nhân tiếu cổ nhân.
Cổ nhân phần doanh dĩ luy luy,
Kim nhân bôn tẩu hà phân phân,

Cổ kim hiền ngu nhất khâu khổ,
Sinh tử quan đầu mạc năng độ.
Khuyến quân ẩm tửu thả vi hoan,
Tây song nhật lạc thiên tương mộ.

HÀNH LẠC (Bài từ số II dịch nghĩa) 

Trên núi có hoa đào tươi
đẹp như tấm lụa đỏ,

sáng sớm còn đùa giỡn với màu xuân đẹp,
chiều tối đã nằm giữa bùn lầy.

Hoa đẹp không được trăm ngày,
người sống lâu mấy ai trăm tuổi,
chuyện đời lắm đổi thay,
kiếp phù sinh nên cứ vui chơi.

Trên tiệc có gái đẹp như hoa,
trong vò có rượu quý như nổi sóng vàng,
tiếng thúy quản, tiếng ngọc tiêu (tiếng kèn, tiếng sáo)
khi mau khi chậm,
được dịp hát to cứ hát to.

Người không thấy
ông Vương Nhung cầm thẻ ngà,

ngày nào cũng tính toán mà trong bụng vẫn thấy chưa đủ.
Đài Tam công cũng đổ, cây mận ngon cũng chết,
bạc vàng tiêu tan cho người khác hưởng.

Lại không thấy
ông Phùng Đạo lúc về già phú quý xiếc bao,

trải mấy triều vua không rời gối khanh tướng,
thế mà miếng đỉnh chung rốt cuộc vẫn không,
nghìn năm chỉ lưu lại bài Trường Lạc Tự.
Phú quý trước mắt không khác gì phù vân,

người nay chỉ biết cười người xưa,
người chết mồ mả đã ngổn ngang,
người sau vẫn bôn tẩu rộn ràng ?
Xưa nay kẻ hiền người ngu cũng chỉ trơ lại một nấm đất,

không ai vượt qua cửa ải sống chết,
khuyên anh nên uống rượu rồi vui chơi,
kìa trong cửa sổ phía tây,
bóng mặt trời đã xế.

Chú thích:

Vương Nhung: một trong Trúc Lâm thất hiền đời Tấn, nhà giàu ruộng vườn khắp các châu, nhưng lại là tay biển lận, ngày nào cũng cầm bàn tính, thẻ ngà trong tay để tính toán, trong nhà có cây mận rất ngon, bán quả sợ người ta được giống, nền dùi nát hột đi rồi mới bán.

Phùng Đạo, người đời Ngũ Đạo, tính chất phác văn chương hay, làm khanh tướng dưới bốn triều Đường, Tấn.. tự đặt hiệu là Trường Lạc lão có làm bài Trường Lão lạc tứ tự kể chuyện mình thờ bốn họ, sáu ông vua.

Đọc bài thơ Hành Lạc Từ của Nguyễn Du chúng ta tìm lại được cái an vui thanh thản của nhà nho ngày xưa. Cái triết lý Á Đông  chấp nhận cuộc đời có sống có chết lẽ thường.

Năm Nhâm Tuất (1802). Nguyễn Du 37 tuổi. Mùa xuân năm 1802, quân nhà Nguyễn qua sông Gianh tiến đánh, hạ được đồn Tâm Hiệu thuộc châu Bố Chính. Quân Tây Sơn tan vỡ, chạy về doanh Hà Trung trong hạt Kỳ Anh. Tháng 5 năm này, Nguyễn Ánh hạ chiếu đổi niên hiệu làm năm đầu niên hiệu Gia Long.

Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng sau khi hạ được thành Quy Nhơn liền đem quân về đánh Phú Xuân. Khi Diệu đem quân ra khỏi địa giới Quy Nhơn thì bị tướng của nhà Nguyễn là Đắc Lộc hầu chặn lại. Quân của Trần Quang Diệu đánh phá nửa ngày nhưng không thể hạ được với vô số người chết và bị thương. Diệu đành đem quân theo đường núi vào Ai Lao, định ra Nghệ An. Được tin, Nguyễn Ánh lập tức cắt đặt các tướng, thống lĩnh các đạo quân thuỷ bộ, hẹn ngày kéo ra Bắc.

Ngày 28 tháng 5, thuỷ quân của nhà Nguyễn tới cửa biển Đan Nhai thuộc Nghệ An, tiến đánh và phá được đồn Quần Mộc. Quân bộ cũng tiến đến phía nam sông Thanh Long rồi vượt sang bờ phía Bắc. Hai mặt thuỷ bộ đều tiến công, quân Tây Sơn bỏ chạy tán loạn. Quân nhà Nguyễn bèn xông lên cướp kho thóc Kỳ Lân. Trấn thủ của nhà Tây Sơn là Nguyễn Văn Thận cùng với hiệp trấn Nguyễn Triêm, thống lĩnh Nguyễn Văn Đại, thiếu uý Đặng Văn Đằng bỏ thành chạy ra miền Bắc. Đến đồn Tiên Lý, Nguyễn Triêm tự thắt cổ; còn Nguyễn Văn Thận chạy ra trấn Thanh Hoa. Quân nhà Nguyễn lấy được thành Nghệ An.

Trần Quang Diệu ở Quỳ Hợp xuống đến địa phận Hương Sơn thì nghe tin Nghệ An đã thất thủ, bèn đến Thanh Chương, qua sông Thanh Long,  rồi chạy ra trấn Thanh Hoa. Tướng sĩ đi theo Diệu dần dần tản mát mỗi người một nơi. Quân nhà Nguyễn đuổi kịp, bắt sống được Diệu.

Tháng 6, quân nhà Nguyễn tiến đánh thành Thanh Hoa. Em vua Quang Toản là đốc trấn Nguyễn Quang Bàn cùng Nguyễn Văn Thận, Đặng Văn Đằng đều đầu hàng.

Ngày 18, Nguyễn Ánh tiến ra Thăng Long, quân Tây Sơn hoàn toàn tan vỡ. Nguyễn Quang Toản bỏ thành cùng với em là Nguyễn Quang Thùy và đô đốc Tú qua sông Nhĩ Hà chạy về hướng bắc. Sau đó, Quang Thùy và vợ chồng Tú đều tự thắt cổ. Còn vua cùng các bề tôi đều bị thổ hào Kinh Bắc bắt được đóng cũi giao nộp cho Nguyễn Ánh. Quan lại của nhà Tây Sơn ở các trấn hoặc trốn, hoặc hàng, không ai dám chống lại.

Vua Gia Long vài tháng sau về lại Phú Xuân, sửa lễ cáo miếu dâng tù, đem Nguyễn Quang Toản ra dùng cực hình giết chết, rồi bố cáo cho khắp cả nước đều biết. Quang Toản cùng những người con khác của anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đều bị Gia Long sai dùng cực hình 5 voi xé xác. Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc cũng bị trả thù rất dã man: Mồ mả bị khai quật, hài cốt bị giã nát vứt đi; đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ của vợ chồng Nguyễn Huệ đều bị giam ở nhà Đồ Ngoại, sau lại đưa vào cấm cố vĩnh viễn trong ngục thất (Nơi ấy, nay thuộc địa điểm Trường Đại học Nông Lâm Huế).

Quang Toản khi bị hành hình, mới 19 tuổi. Triều đại Tây Sơn chấm dứt.

Nguyễn Du năm ấy vẫn ở Tiên Điền làm Hồng Sơn Liệp Hộ. Nguyễn Du viết bài thơ “Đi săn” là trong dịp này.

ĐI SĂN

Nguyễn Du thơ chữ Hán,
Nhất Uyên dịch thơ

Kẻ đạt quan trường chí đỉnh mây,
Còn ta vui thú với hươu nai.
Cốt lòng thư thái không mong được,
Không hại điều nhân diệt các loài.
Xạ ngủ cỏ thơm hương ướt ẩm,
Núi xa, chó sủa tiếng ngoài tai.
Thú vui phù thế âu tùy thích,
Xe đón lộng che ấy những ai ?

Nguyên tác phiên âm Hán Việt :

LIỆP

Y quan đạt giả chí thanh vân,
Ngô diệc lạc ngô mi lộc quân.
Giải thích nhàn tình an tại hoạch,
Bỉnh trừ dị loại bất phương nhân.
Xạ miên thiển thảo hương do thấp,
Khuyển độ trùng sơn phệ bất văn.
Phù thế vi hoan các hữu đạo,
Khu xa ủng cái thị hà nhân.

Chú thích:
Thanh vân, mây xanh, chỉ công danh thành đạt.

Nguyễn Du người đi săn ở núi Hồng  đã tỏ chí mình trong bài Liệp “Đi săn” như sau : “Những người áo mũ hiển đạt để chí mình ở đường mây, còn ta, ta vui với bầy hươu nai của ta, cốt là để khuây khỏa trong lúc nhàn chớ đâu phải ham được thịt thú. Diệt trừ giống khác hại chăng đến đức nhân ? Con xạ ngủ nơi đồng cỏ non hương thơm còn ướt. Con chó vượt qua nhiều lớp núi, tiếng sủa không còn nghe thấy. Tìm thú vui chơi trong cuộc phù sinh mỗi người một sở thích. Những người lọng đón xe đưa là người nào thế nhỉ ?” Nguyễn Hành viết về Phi Tử Nguyễn Du trong bài Ca tụng việc đi săn (Trương Chính. Thơ chữ Hán Nguyễn Du  Nxb Văn Học, Hàn Nội 1965,  tr 38) : Đó là ông nói việc đi săn của người tầm thường, chứ ông đâu có biết việc đi săn của bậc đại nhân. Bậc đại nhân đi săn không ở chỗ đi săn. Họ nhỡn nhơ chỗ nọ chỗ kia, ngắm núi ngắm rừng. Họ trèo lên đỉnh cao để nhìn vực thẳm, tắm gội nơi suối trong, thơ thẩn giữa cây tùng cây bách, nhìn tạo vật biến hóa, đùa giỡn với hươu nai, do đó mà tinh thần được thư thái, ý chí được trau giồi, lòng dạ thảnh thơi không bận bịu, mây nhẹ nhàng luồn trong tay áo, gió phất phơ thổi đưa tà áo, trông thấy kinh kỳ trong gang tấc, hứa hẹn những cuộc ngao du. Bậc đại nhân đi săn như thế, người tục đâu có biết !

Mùa thu năm Nhâm Tuất (1802), vua Gia Long diệt nhà Tây Sơn, Nguyễn Du ra làm quan Tri huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hưng Yên); mấy tháng sau ông được thăng chức tri phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc Hà Nội). Năm Quý Hợi (1803), Nguyễn Du được cử lên ải Nam Quan tiếp sứ nhà Thanh sang phong sắc cho vua Gia Long. Năm Ất Sửu (1805) ông được thăng Đông các đại học sĩ (hàm Ngũ phẩm), tước Du Đức hầu và vào nhậm chức ở kinh đô Phú Xuân. Năm Đinh Mão (1807) ông được cử làm giám khảo kỳ thi Hương ở Hải Dương. Mùa thu năm Mậu Thìn (1808), ông xin về quê nghỉ. Năm Kỷ Tỵ (1809) ông được bổ chức Cai bạ (hàm Tứ phẩm) ở Quảng Bình. Năm Quý Dậu (1813) ông được thăng Cần chánh điện Đại học sĩ và được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh. Tập thơ Bắc Hành tạp lục được hoàn thành trong dịp này. Năm 1814 ông đi sứ về, được thăng Hữu tham tri bộ Lễ (hàm Tam phẩm) ông được về nghỉ ở quê Tiên Điền sáu tháng, ông dựng lều thơ ở bến Giang Đình và hoàn thành Truyện Thúy Kiều. Năm Bính Tý (1816), anh rể Nguyễn Du là Vũ Trinh vì liên quan đến vụ án cha con Tổng trấn Nguyễn Văn Thành nên bị đày vào Quảng Nam. Năm (Canh Thìn) 1820 Gia Long qua đời Minh Mạng nối ngôi. Lúc này Nguyễn Du được cử đi làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong nhưng ông bị bệnh dịch chết ngày 16 tháng 9 năm  1820 nhằm ngày mồng 10 tháng 8 Canh Thìn lúc ông 55 tuổi. Năm Giáp Thân (1824), di cốt của ông được cải táng về quê nhà Tiên Điền, Hà Tĩnh.*

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là NLU.jpg
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
Mênh mang một khúc sông Hồng
Huyền Thoại Hồ Núi Cốc
Chỉ tình yêu ở lại
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on twitter