Nguyễn Du thơ chữ Hán

NGUYỄN DU THƠ CHỮ HÁN
Hoàng Kim

Kiếm bút thấu tim Người
Đấng danh sĩ tinh hoa
Nguyễn Du khinh Thành Tổ
Bậc thánh viếng đức Hòa

Nguyễn Du thơ chữ Hán là ngọc quý di sản của văn chương Việt, góp phần hiệu quả bảo tồn và phát triển tinh hoa văn chương Việt và giao lưu ngôn ngữ văn hóa với nước ngoài;
xem tiếp http://hoangkimlong.wordpress,com/category/nguyen-du-tho-chu-han/

Nguyễn Du thơ chữ Hán gồm có Bắc hành tạp lục 132 bài, Thanh Hiên thi tập 78 bài, Nam trung tạp ngâm 40 bài (*). Tất cả những bài thơ này của Nguyễn Du đều rất toàn bích. Đặc biệt là tập thơ “Bắc Hành” có giá trị rất cao. Thơ Nguyễn Du lắng đọng hồn Việt, di sản văn hóa Việt, là tác phẩm sử thi vô giá thể hiện rõ chính kiến, tầm nhìn ngoại giao Việt Nam qua quan điểm đánh giá sử liệu. Sách Đại Nam liệt truyện chính biên sơ tập do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, người dịch Đỗ Mộng Khương, người hiệu đính Hoa Bằng, Viện Sử học Việt Nam, Nhà Xuất bản Thuận Hóa, Huế, năm 2006, Tập 2 gồm 716 trang. Nguyễn Du trong sách này, tại trang 400 / đã viết: “Nguyễn Du rất giỏi về thơ, làm thơ quốc âm rất hay, khi sang sứ nước Thanh về, có tập thơ “Bắc hành” và truyện “Thúy Kiều” lưu hành ở đời”. Ngày nay, tiếng Việt chữ Việt là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam, là tiếng mẹ đẻ của khoảng 85% dân cư Việt Nam cùng hơn 4 triệu Việt kiều, cũng là ngôn ngữ thứ hai của các dân tộc thiểu số tại Việt Nam và là ngôn ngữ dân tộc thiểu số tại Cộng hòa Séc. Chữ Hán mặc dầu vậy, vẫn rất quan trọng đối với nước Việt và người Việt, vì chữ Hán là chữ viết chính thức trên các văn bản hành chính nước Việt suốt trên 1600 năm, tính từ khi viên Thái thú Sĩ Nhiếp (137 – 226) dạy dân Việt thi thư cho đến năm bộ chữ La tinh được bắt đầu dùng phổ biến làm chữ Quốc ngữ chậm nhất là năm 1867.

Nguyễn Du sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766 nhằm ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tại phường Bích Câu, Thăng Long (Hà Nội), mất ngày 10 tháng tám năm Canh Tý (1820) tại kinh đô Huế, hưởng thọ 55 tuổi. Nguyễn Du tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, biệt hiệu là Nam Hải Điếu Đồ (kẻ đi câu ở biển Nam) và Hồng Sơn Liệp Hộ (người đi săn ở núi Hồng). Nguyễn Du là danh nhân văn hóa thế giới, nhà thơ lớn, danh sĩ tinh hoa, hiền tài lỗi lạc, nhà chính trị, ngoại giao, văn hóa, giáo dục kiệt xuất không chỉ của nhà Nguyễn mà còn là kỳ tài muôn thuở của mọi thời đại Việt Nam.

Nguyễn Du với Truyện Kiều làm say đắm lòng người về nhân cách và tài năng trác tuyệt của một đại thi hào danh nhân văn hóa thế giới. Nguyễn Du thơ chữ Hán chạm thấu những vấn đề sâu sắc nhất của tình yêu thương con người và nhân loại các giá trị sử thi văn hóa ngoại giao xuất chúng có một không hai. Nguyễn Du thơ chữ Hán là phần sâu kín trong tâm trạng Nguyễn Du. Giáo sư Mai Quốc Liên nhận xét “Thơ chữ Hán của Nguyễn Du là những áng văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa. Nó mới lạ và độc đáo trong một nghìn năm thơ chữ Hán của ông cha ta đã đành, mà cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của Trung Quốc nữa”. Nguyễn Du thơ chữ Hán là kiệt tác chính luận có sức mạnh của một đạo quân, mang tầm vóc bản lĩnh của một anh hùng quốc sĩ tinh hoa.

Hoàng Kim trích dẫn bốn bài thơ trong Nguyễn Du thơ chữ Hán để luận bàn bốn nội dung: 1) Kiếm bút thấu tim Người, “Minh Ninh Giang Chu Hành” (đi thuyền trên Minh Giang) thơ Nguyễn Du sắc như kiếm báu, chạm thấu tim người, đường Trung Hoa quanh co như sông dài, sâu hiểm như lòng người, trung tín không nhờ cậy được; 2) Đấng danh sĩ tinh hoa, tỏ ý mình qua “Đối tửu”: “Trăm năm chỉ ước say mềm mãi /Thế sự bèo mây ngẫm đắng cay” Bài thơ bi tráng này muốn hiểu thật thấm thía, cần chạm thấu Nguyễn Du niên biểu luận; 3) Nguyễn Du khinh Thành Tổ, đọc thơ Nguyễn Du “Kỳ Lân Mộ” “Hà huống Yên Đệ hà như nhân/ Đoạt điệt tự lập phi nhân quân (Phương Chi Yên Đệ người thế nào?/ Cướp ngôi của cháu, đồ bất nhân) và hai câu cuối ” Nếu bảo thánh nhân Kỳ Lân xuất / Buổi ấy sao không đi về Nam?” Chúng ta mới rùng mình thấu hiểu về thái độ ứng xử của Nguyễn Du vì sao không chịu theo nhà Tây Sơn và khi Mẫn Đế bị bán đứng đã “không có chí lại ra giúp đời nữa, còn tự ý đi chơi săn bắn núi Hồng Sơn, 99 ngọn vết chân hầu khắp. Khi bị lệnh triệu không thể từ được mới ra làm quan, thường phải chịu khuất với cấp trên, lấy làm uất ức bất đắc chí . Đến khi bệnh kịch, không chịu uống thuốc, sai người nhà mở duỗi chân tay, nói đã lạnh cả, Du bảo rằng: “Tốt”, nói xong thì chết, không nói một câu nào đến việc sau khi chết“. 4) Bậc thánh viếng đức Hòa, Nguyễn Du viếng mộ Liễu Hạ Huệ ” Bia tàn chữ mất vùi gai góc/ Nghe tiếng nghìn năm tôi xuống xe”

(*) Minh Ninh Giang Chu Hành; Kỳ Lân Mộ; Liễu Hạ Huệ Mộ trích dẫn từ trong Bắc hành. tạp lục; Đối tửu trích dẫn từ Thanh Hiên thi tập, dưới chân núi Hồng. Mời bạn đọc đường link Nguyễn Du thơ chữ Hán nguồn dẫn Thi Viện Đào Trung Kiên ở cuối bài.

KIẾM BÚT THẤU TIM NGƯỜI

Ninh Minh Giang Chu Hành “Đi thuyền trên Minh Giang” là Nguyễn Du thơ chữ Hán. Cuối bài thơ tác giả có ba chú thích: 1) Ninh Minh giang sông Minh Giang chảy qua Ninh Minh. 2) Ứng long: Rồng hiện. 3) Trung tín: Đường Giới đời Tống viết: Bình sinh thượng trung tín, Kim nhật nhiệm phong ba (Ngày thường giữ trung tín, Hôm nay mặc kệ phong ba…) Bài thơ Nguyễn Du cuối bài có lời kết Đường Trung Hoa không bằng phẳng mà quanh co, sâu hiểm như lòng người. Trung tín thảy không nhờ cậy được. Ninh Minh Giang Chu Hành cũng là một lối chơi chữ rất khéo tựa như Bắc Hành.

Đi thuyền trên Minh Giang
Nguyễn Du

Vùng núi Việt Tây nhiều khe núi,
Qua nghìn năm chảy hợp thành sông.
Nước như đổ tự trời cao xuống,
Trên thác nghe gì chăng ?
Rồng thiêng nổi giận sấm đùng đùng
Dưới thác nghe thấy gì ?
Máy nỏ bật nhanh tên lìa dây,
Một dòng vạn dậm không ngừng chảy.
Núi cao giáp bờ như tường thành,
Ở giữa đá lạ chen chúc nổi.
Như rồng, rắn, cọp, beo, ngựa, trâu la liệt trước mặt bày.
Lớn như cái nhà, nhỏ như nắm tay,
Hòn cao như đứng, thấp ngủ say.
Hòn thẳng như chạy, cong vòng xoay,
Nghìn hình vạn vẽ không nói hết,
Giao long ra vào thành vực sâu.
Sóng vỗ phun bọt ngày đêm ầm ầm tiếng,
Nước lụt hạ dâng tuôn trào sôi.
Một ngày ba ngày lòng bồi hồi.
Bồi hồi lo sợ điều trông thấy,
Nguy thay hiểm thay chìm sâu không đáy.
Ai cũng nói đất Trung Hoa bằng phẳng,
Hóa ra đường Trung Hoa lại thế này.
Sâu hiểm quanh co giống lòng người,
Nguy vong, nghiêng đổ đều ý trời.
Tài cao văn chương thường bị ghét,
Thịt người là thứ ma quỷ thích,
Làm sao dẹp yên hết phong ba ?
Trung tín thảy không nhờ cậy được.
Không tin: “Ra cửa đường hiểm nguy“
Hãy  ngắm dòng sông cuồn cuộn chảy.

Minh Ninh Giang Chu Hành
nguyên phiên âm Hán Việt

Việt Tây sơn trung đa giản tuyền,
Thiên niên hợp chú thành nhất xuyên.
Tự cao nhi hạ như bát thiên,
Than thượng hà sở văn ?
Ứng long kích nộ lôi điển điển,
Than hạ hà sở kiến ?
Nổ cơ kịch phát thỉ ly huyền,
Nhất tả vạn lý vô đình yên.
Cao sơn giáp ngan như tường viên,
Trung hữu quái thạch sâm sâm nhiên.
Hữu như long, xà, hổ, báo, ngưu, mã la kỳ tiền.
Đại giả như ốc, tiểu như quyền.
Cao giả như lập, đê như miên,
Trực giả như tẩu,khúc như tuyền.
Thiên hình vạn trạng nan tận ngôn.
Giao ly xuất một thành trùng uyên,
Dũng đào phún mạt đạ tranh hôi huyên.
Hạ lao sơ trướng phí như tiên.
Nhất hành tam nhật tâm huyền huyền.
Tâm huyền huyền đa sở úy.
Nguy hồ đãi tai cốt một vô để.
Cộng đạo Trung Hoa lột thản bình,
Trung Hoa đạo Trung phù như thị !
Oa bàn khuất khúc tự nhân tâm,
Nguy vong khuynh phúc giai thiên ý.
Cao tài mỗi bị văn chương đố.
Nhân nhục tối vi ly mị hỷ,
Phong ba na đắc tận năng bình.
Trung tín đáo đầu vô túc thị.
Bất tín “xuất môn giai úy đồ “
Thị vọng thao thao thử giang thủy.

Ninh Minh Giang Chu Hành trong thơ Nguyễn Du là chỉ sông Trường Giang nơi lưu dấu năm sự kiện lớn lịch sử: 1) Sự kiện “Đại chiến hồ Bà Dương” là trận thủy chiến ác liệt bậc nhất cuối thời Nguyên đầu thời Minh. Chu Nguyên Chương Minh Thái Tổ nhờ trận thắng trên sông Trường Giang này mà thống nhất Trung Quốc và khai sáng nhà Minh “Đại chiến hồ Bà Dương” xẩy ra ngày 3 tháng 10 năm 1363. Trần Hữu Lượng Hán Vương đã giành trọn đất Bách Việt nam Trường Giang, nữa nước Trung Hoa, vào năm Chí Chính thứ 20 (1360) đã dẫn đội thủy quân mạnh từ Thái Thạch theo sông Trường Giang xuôi xuống phía đông, tiến công Chu Nguyên Chương và sau đó tử trận tại hồ Bà Dương . Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử tiêu án, Đại Nam thực lục, Đại Việt sử ký bản kỷ, cùng gia phả nhà Trần để lại thì các bộ sử Việt đều khẳng định Tổ tiên nhà Trần  là cụ tổ Trần Tự Minh thuộc nhóm tộc người Bách Việt ở vùng Mân Việt (nay thuộc Phúc Kiến Trung Quốc), theo dòng người Bách Việt xuống phía Nam giúp vua An Dương Vương. Trần Tự Minh cùng Cao Lỗ từng là những vị tướng tài ba trụ cột, là hai cánh tay đắc lực giúp An Dương Vương nhiều lần đánh bại quân Triệu Đà. Nhà Trần Đại Việt từ khi Trần Ích Tắc chạy theo quân Nguyên, đã xem ông ta là kẻ phản bội và không công nhận chi họ Trần phương Bắc là dòng tộc nữa. Trần Hữu Lượng là con thứ của Trần Ích Tắc. Trần Ích Tắc khi qua đời có Con cả của Trần Ích Tắc là Trần Hữu Thành sau khi cha mất đã thay cha dạy học cho Trần Hữu Lượng. Sau này Trần Hữu Lượng lại học theo sách Đông A võ phái của cụ tổ Trần Tự An, noi gương tổ phụ khởi nghĩa chống Chu Nguyên Chương. Đại Việt Sử ký Toàn thư viết rằng Trần Hữu Lượng đã từng sai sứ sang hòa thân với Trần Dụ Tông, liên minh với quân Đại Việt chống Nguyên:  “Giáp Ngọ, [Thiệu Phong] năm thứ 14 [1354], (Nguyên Chí Chính năm thứ 14). Mùa xuân, tháng 2, quan trấn giữ biên giới phía bắc cho chạy trạm tâu việc Trần Hữu Lượng nước Nguyên dấy binh, sai sứ sang xin hòa thân (Hữu Lượng là con Trần Ích Tắc)”. Tuy nhiên vua Trần Dụ Tông đã từ chối.:2) Sông Trường Giang là nơi có sự kiện Trận Xích Bích thời Tam Quốc đặc biệt nổi tiếng; 3) “Ninh Minh giang chu hành” thơ chữ Hán Nguyễn Du là kiệt tác văn chương và sách trắng ngoại giao nhà Nguyễn, Tác phẩm này đánh giá thái độ của nhà Thanh sâu hiểm như sông Trường Giang, sự trung tín là không thể tin cậy; như lòng người qua ‘Bang giao tập” bí mật ngoại giao thời Tây Sơn” với các sự kiện bí mật kho báu trên đỉnh Tuyết Sơn và cái chết bí ẩn của Nguyễn Huệ; 4) Sự kiện Chủ tịch Mao Trạch Đông bơi qua sông Trường Giang ngày 6/7/1966; 5) Sự kiện đập Tam Hiệp bắt đầu tích nước vào ngày 1 tháng 6 năm 2003 đúng vào đêm trăng tròn 15 tháng 4 âm lịch hàng năm, cũng là ngày Tam Hiệp (đản sanh, giác ngộ, giải thoát). Đập Tam Hiệp trên sông Trường Giang có vị trí trọng yếu tại vùng Long Mạch Trung Hoa của núi Tuyết và lưu vực sông Dương Tử. Chuỗi địa danh huyền thoại Trung Khánh, Vũ Hán, Thượng Hải thăm thẳm một tầm nhìn. Sông Trường Giang với đập Tam Hiệp đã hoạt động. Sông Mekong với đập Mạn Loan, Đại Triều Sơn, Cảnh Hồng, đã hoạt động, Tiểu Loan cùng nhiều đập khác đang định hình. Từ Tam Hiệp Trường Giang đến Mekong với hàng  chục đập ngăn đang thay đổi sinh thái Trung Hoa và ảnh hưởng sâu sắc đến Đông Nam Á .Đế vương Trung Hoa nhiều đời đều tin tri tâm thuật quyền biến, trọng thực dụng hiệu quả. Nguyễn Du thơ chữ Hán kiếm bút thấu tim người chỉ ra lời luận bàn sâu sắc của ông.

ĐẤNG DANH SĨ TINH HOA

Đối tửu thơ bi tráng. Tâm sự Nguyễn Du qua ‘Đối tửu’ là tâm sự của bậc anh hùng. Đối tửu là tuyệt phẩm thơ của cụ Nguyễn Du do Hoa Huyền giới thiệu bản chữ Hán, dịch nghĩa, dịch thơ, thư pháp và những bài họa vần. Xưa nay chính sử và công luận đã nhìn nhận Nguyễn Du là đại thi hào, danh nhân văn hóa thế giới. Đến nay chính sử và dã sử được hệ thống hóa theo niên biểu Nguyễn Du (1766 – 1820) đã soi thấu nhiều góc khuất, làm bừng sáng Nguyễn Du danh sĩ tinh hoa, bậc anh hùng vàng lầm trong cát, ông đã vượt lên vinh nhục bản thân và dòng họ, để lại ngọc cho đời. Di sản của Nguyễn Du là thực tiễn và trước tác, với trí tuệ nhân văn, tầm nhìn mưu lược, “gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo“.

Đối tửu
Nguyễn Du

Bên cửa xếp bằng ngất ngưởng say
Cánh hoa rơi phủ thảm rêu đầy
Sống chưa vơi nửa lưng ly rượu
Chết hỏi rằng ai tưới mộ đây?
Xuân đã xa dần oanh bỏ tổ
Tháng năm bàng bạc tóc màu mây
Trăm năm chỉ ước say mềm mãi
Thế sự bèo mây…ngẫm đắng cay

(Bản dịch thơ của Hoa Huyền)

Nguyên văn chữ Hán

Phu tọa nhàn song túy nhãn khai,
Lạc hoa vô số há thương đài.
Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,
Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi ?
Xuân sắc tiệm thiên hoàng điểu khứ,
Niên quang ám trục bạch đầu lai.
Bách kỳ đản đắc chung triêu túy,
Thế sự phù vân chân khả ai.

Dịch nghĩa

Ngồi xếp bằng tròn trước cửa sổ, rượu vào hơi say mắt lim dim,
Vô số cánh hoa rơi trên thảm rêu xanh.
Lúc sống không uống cạn chén rượu,
Chết rồi, ai rưới trên mồ cho ?
Sắc xuân thay đổi dần, chim hoàng oanh bay đi,
Năm tháng ngầm thôi thúc đầu bạc.
Cuộc đời trăm năm, chỉ mong say suốt ngày.
Thế sự như đám mây nổi, thật đáng buồn.

NGUYỄN DU KHINH THÀNH TỔ

Nguyễn Du là quan đại thần của nhà Nguyễn Việt Nam. Ông làm Chánh sứ ngoại giao sang triều kiến vua Càn Long, nhà Đại Thanh Trung Quốc. Vua Càn Long được sử gia Trung Quốc đánh giá là một trong mười vị vua xuất sắc nhất mọi thời đại của Trung Quốc từ xưa tới nay trong lịch sử.Nguyễn Du tỏ rõ thái độ khinh Minh Thành Tổ qua bài thơ Kỳ Lân Mộ, để tỏ ý với vua Càn Long về tầm nhìn và đối sách Việt Nam thời ấy, kính trọng ai, yêu mến ai và khinh bỉ ai. Thơ ý tại ngôn ngoại .:

Kỳ Lân Mộ
Nguyễn Du

Phương Chi Yên Đệ người thế nào?
Cướp ngôi của cháu, đồ bất nhân.
Mỗi khi nổi giận giết mười họ,
Cổn to vạc lớn hại trung thần
Năm năm giết người hơn trăm vạn
Xương chất thành núi máu chảy tràn
Nếu bảo thánh nhân Kỳ Lân xuất
Buổi ấy sao không đi về Nam?

Nguyên văn chữ Hán

Hà huống Yên Đệ hà như nhân
Đoạt điệt tự lập phi nhân quân
Bạo nộ nhân sinh di thập tộc
Đại bỗng cự hoạch phanh trung thần
Ngũ niên sở sát bách dư vạn
Bạch cốt thành sơn địa huyết ân
Nhược đạo năng vị Thánh nhân xuất
Đương thế hà bất Nam du tường?

“Kỳ Lân mộ” là kiệt tác thơ Nguyễn Du trong Bắc Hành tạp lục được công bố vào năm Quý Dậu (1813) khi ông làm Chánh sứ của đoàn sứ thần nhà Nguyễn sang thông hiếu với nhà Thanh năm Gia Long thứ 12 và Gia Khánh thứ 17. “Kỳ Lân mộ” là văn kiện ngoại giao “ý tại ngôn ngoại” thể hiện quan điểm và đường lối chính trị của Việt Nam triều Nguyễn. “Kỳ Lân mộ” lấy từ điển tích đã được ghi trong chính sử:  “Năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406) có con Kỳ Lân xuất hiện ở Nam Dương. Quan trấn sai mang lên Bắc Kinh dâng Minh Thành Tổ. Nào ngờ đến đây Kỳ Lân chết. Viên quan sai chôn ở đây và lập bia để ghi lại chuyện đó. Mộ bị mưa gió san phẳng còn lại tấm bia này.” Nguyễn Du dùng bài thơ này để dâng lên vua Càn Long tỏ rõ chính kiến và thông điệp ngoại giao  khéo gửi vua Càn Long và vua Gia Khánh. Bài thơ căm phẫn mắng chửi thẳng Yên Đệ Minh Thành Tổ là đồ bất nhân không xứng đáng là một ông vua.

Yên Đệ  Minh Thành Tổ là một nhân vật lịch sử nổi bật của Trung Quốc. Sử gia Trung Quốc cho đến ngày nay vẫn gọi Minh Thành Tổ là Vĩnh Lạc Đế hay Vĩnh Lạc đại đế là một trong các Hoàng đế kiệt xuất nhất của triều đại nhà Minh và lịch sử của Trung Quốc. Thời kỳ của Yên Đệ được ca ngợi gọi là Vĩnh Lạc thịnh thế, khiến nhà Minh phát triển đỉnh cao về quyền lực trong lịch sử. Nguyễn Du qua tác phẩm “Kỳ Lân mộ” trong Bắc Hành tạp lục, đã mắng thẳng Yên Đệ Minh Thành Tổ chẳng phải là minh quân mà là kẻ bá đạo dẫu có giành được ngai vàng, xô lệch lịch sử, thắng được cuộc chiến. cướp được nước người, xóa được di sản, nhưng không thể đoạt được lòng người, bia miệng muôn đời vẫn lưu tiếng xấu.

Yên Đệ Minh Thành Tổ Vĩnh Lạc Đế, có tên thật là Chu Đệ, sinh năm 1360 tại Nam Kinh chết năm 1424 , là con trai thứ tư của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương và Hiếu Từ Cao hoàng hậu Mã thị. Chu Đệ khi sinh thì cha ông là Chu Nguyên Chương đang dấy binh chống lại nhà Nguyên trên đà sụp đổ. Chu Đệ trở thành hoàng tử nhà Minh khi Chu Nguyên Chương xưng đế năm 1368 với niên hiệu Hồng Vũ. Ông được Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương phong làm Yên Vương nên tục danh gọi là Yên Đệ. Ông cướp ngôi của cháu và tự lập làm vua, là vị hoàng đế thứ 3 của nhà Minh, tại vị từ năm 1402 đến năm 1424, tổng cộng 22 năm. Ông  chỉ dùng một niên hiệu Vĩnh Lạc, nên sử gia gọi ông là Vĩnh Lạc Đế. Yên Đệ khi làm Yên Vương đóng đô ở Bắc Bình (nay là Bắc Kinh). Sau một loạt chiến dịch thành công chống quân Mông Cổ, ông bắt đầu củng cố quyền lực của mình ở phía bắc và tiêu trừ đại tướng Lam Ngọc cùng với  các đối thủ. Lam Ngọc vốn là một danh tướng chỉ đứng sau Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân là các danh tướng khai quốc của nhà Minh.  Lam Ngọc vốn được ví như Vệ Thanh nhà Hán, Lý Tĩnh nhà Đường do có công đánh dẹp người Mông Cổ, mở rộng bờ cõi nhưng do tài năng kiệt xuất oai lấn Chu Nguyên Chương nên Chu Đệ dùng kế hiểm, vu oan cho Lam Ngọc mưu phản. Chu Nguyên Chương cho lực lượng an ninh nội vụ Cẩm Y Vệ vào cuộc, bắt giữ cả nhà Lam Ngọc rồi tru di chín họ cùng 2 vạn người. Thái tử Chu Tiêu mất đi một người ủng hộ hùng mạnh, còn Chu Đệ thì không còn đối thủ trong quân đội nhà Minh ở phía bắc. Đây cũng là tiền đề để Chu Đệ cướp ngôi sau này, khi triều đình không còn danh tướng nào so được với ông. Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương sau khi mất, người kế vị là Minh Huệ Đế cháu nội của Chu Nguyên Chương. Minh Huệ Đế là con trai thứ hai của Chu Tiêu Ý Văn thái tử (1355-1382) với bà phi họ Lã . Ông là người hiếu học, tính hiếu thảo. Do cha và anh trai ông là Chu Hùng Anh đã mất trước khi Chu Nguyên Chương qua đời cho nên Chu Nguyên Chương lập ông làm người kế vị vào tháng 9 năm 1382. Đến năm 1396, Chu Nguyên Chương cho lập Đông cung vương phủ. Minh Huệ Đế khi còn là hoàng thái tôn, từng dâng biểu đề nghị Minh Thái Tổ cho sửa 73 điều của Luật Hồng Vũ vì ông cho rằng các điều này quá ư nghiêm khắc. Tháng 5 nhuận năm 1398, Chu Nguyên Chương bị bệnh mất, Minh Huệ Đế lên ngôi, đóng đô ở Nam Kinh. Ông thay đổi chính sách của ông mình, giảm bớt hình phạt nghiêm khắc, tha nhiều tù nhân và áp dụng chính sách triệt phiên nhằm tập trung quyền lực về trung ương. Năm 1398,Minh Huệ Đế lên ngôi, Chu Đệ mang quan quân từ Bắc Bình về Nam Kinh viếng cha, Minh Huệ Đế đã sai người chặn lại ở Hoài An bắt Chu Đệ phải quay về Bắc Bình với lý do ba vị vương tử con ông đã được tân hoàng giữ lại thủ hiếu giùm ông. Chu Đệ khóc ầm lên mà nói rằng: “Cùng là cốt nhục chí thân, sao lại làm nhục ta quá vậy?“. Chu Đệ sau khi về nhà thì giả ốm và không lâu sau thì  “phát điên” để bảo toàn cho ba người con trai của ông và tránh chính sách triệt phiên. Yên Đệ đã lật đổ cháu trai Minh Huệ Đế trong một cuộc nội chiến đẫm máu, vốn bất lợi cho ông vào thời gian đầu, khi ba con trai của ông (Chu Cao Sí, Chu Cao Hú, Chu Cao Toại) còn ở Nam Kinh. Nhưng đến lúc Minh Huệ Đế thấy Chu Lệ sai sứ qua lại với thái độ mềm mỏng, cho rằng Chu Lệ thần phục nên thôi không giữ các con Chu Lệ nữa, thì tháng 7 âm lịch năm 1399, Yên Đệ khởi binh làm phản. Ban đầu, quân triều đình chiếm ưu thế nhưng do  Chu Nguyên Chương trước đó đã lạm sát công thần nên Minh Huệ Đế không còn tướng giỏi cầm quân. Yên Đệ lại là một danh tướng dày dạn chiến trận, vì vậy cán cân lực lượng sau đó ngả về phía Yên Đệ. Tháng 4 năm 1402, quân triều đình thua trận tại Hoài Bắc, quân của Yên Đệ Chu Lệ thừa thắng vượt qua sông Hoài Hà tiến về Trường Giang. Trong chiến sự, vai trò của Chu Cao Hú – một người con của Yên vương được Huệ Đế thả về – có đóng góp rất lớn.

Yên Đệ Chu Lệ giành được ngai vàng vào cuối năm1402.Yên Đệ đã bắt đầu triều đại của mình bằng cách hợp pháp hóa việc lên ngôi xóa bỏ lịch sử toàn bộ thời gian trị vì của người cháu và thiêu hủy hay sửa đổi tất cả các tài liệu có liên quan đến tuổi thơ và cuộc nổi loạn của mình. Điều này dẫn đến việc thanh trừng vô số quan viên ở Nam Kinh và ban thẩm quyền đặc biệt ngoài vòng pháp luật cho chính sách bí mật của hoạn quan và nội chính. Ông nối tiếp chính sách tập trung của Chu Nguyên Chương, tăng cường thể chế của đế quốc và thành lập thủ đô mới tại Bắc Kinh. Ông cho cải cách khoa cử và  theo đuổi chính sách đối ngoại bành trướng với nhiều chiến dịch quy mô lớn chống lại quân Mông Cổ, đồng thời tăng cường sự ảnh hưởng và cường thịnh của nhà Minh đối với khu vực Đông Á và Đông Nam Á.Vĩnh Lạc Đế thành lập một hạm đội hùng hậu do Trịnh Hòa điều khiển. Trịnh Hòa (1371–1433) đã dẫn hạm đội xuống Bắc nước Úc, qua bán đảo Ả Rập và có tài liệu cho rằng Trịnh Hòa qua tận châu Mỹ. Hoàng đế còn cho sửa và mở lại Đại Vận Hà và vào khoảng năm 1407 đến năm 1420, trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng Tử Cấm Thành. Dưới thời ông, các học giả đương thời đã hoàn thành công trình đồ sộVĩnh Lạc đại điển. Yên Đệ xô lệch lịch sử Trung Quốc thời đó bằng cách xóa bỏ hồ sơ thời cai trị của Minh Huệ Đế nhập vào thời kỳ Minh Thái Tổ. Tất cả các đại thần và gia đình họ cùng những kẻ thù  tiềm năng trên hai vạn người đều bị hành hình. Người anh trai cả đã mất của Chu Đệ là Chu Tiêu, vốn được Huệ Đế truy phong làm hoàng đế cũng bị ông giáng xuống làm Ý Văn Thái tử. Một quan viên trung thành của Huệ Đế là Phương Hiếu Nhụ, vốn được coi là bậc đại nho đương thời, không chịu quy hàng Chu Đệ khi Nam Kinh đã bị công phá, còn miệt thị ông là đồ phản tặc. Chu Đệ giận lắm, muốn giết ông nhưng đã bị một người thân tín là hòa thượng Đạo Diễn khuyên can: “Nay giết Nhụ thì tiệt hết cái nòi đọc sách trong thiên hạ, vậy còn ai dám ra sức vì bệ hạ?”. Chu Đệ nghe theo, sai người bắt Phương Hiếu Nhụ viết một đạo chiếu thư giả của Thái Tổ để hợp pháp hóa việc kế vị của mình vì Hiếu Nhụ là người đứng đầu bách quan, bù lại sẽ cho Hiếu Nhụ giữ lại chức quan cùng với tăng thêm bổng lộc, dù rằng chính Hiếu Nhụ là người ra các kế sách triệt phiên, dẫn đến cái chết của người em ruột của Thành Tổ. Phương Hiếu Nhụ nhận lấy giấy bút rồi viết lên bốn chữ to: “Yên tặc soán vị”. Chu Đệ xem xong hận ông lắm nhưng vẫn tiếc, cho đòi ông đến rồi hỏi: “Ngươi không sợ bị tru di chín họ sao?”. Phương Hiếu Nhụ đáp lại: “Tru di mười họ thì đã làm sao?”. Chu Đệ không nhịn nữa, sai người bắt hết thân tộc chín họ của Phương Hiếu Nhụ, lại bảo rằng: “Đã thế thì gom hết môn sinh, bạn bè, hàng xóm của nó lại cho đủ mười họ”, tổng cộng hơn nghìn người đều bị hành quyết. Đây là việc “Tru di thập tộc” nổi tiếng, trước chưa từng có, sau không xuất hiện, làm nổi bật sự tàn bạo của Chu Đệ. Yên Đệ cướp nước Đại Việt, xóa sạch di sản, thực hiện sự đồng hóa triệt để, với các chính sách hết sức thâm độc và tàn bạo. Với chiêu bài giúp đỡ nước yếu, tăng cường sự ảnh hưởng của nhà Minh đối với khu vực Đông Á và Đông Nam Á, Yên Đệ đã gây chia rẽ Đại Việt với Chiêm Thành tạo cớ gây hấn liên tục từ phương Nam. Với âm mưu nham hiểm “phù Trần diệt Hồ”, năm 1406, Hoàng đế Vĩnh Lạc chính thức đáp lại các thỉnh cầu từ Trần Thiêm Bình – người xưng là dòng dõi nhà Trần đã bị nhà Hồ lật đổ năm 1400. Tuy nhiên khi trở về nước, Trần Thiêm Bình và tướng lĩnh, quân đội nhà Minh đi cùng đã bị quân nhà Hồ đánh bại và bủa vây. Tướng Hoàng Trung phải nhượng bộ xin giao nộp Trần Thiêm Bình cho nhà Hồ bắt giết để được mở đường rút quân về nước.

Minh Thành Tổ đã đem hai đạo quân xâm lược Đại Ngu, đánh bại nhà Hồ năm 1407, sau đó thực hiện âm mưu đồng hóa nước Việt một cách lâu dài. Yên Đệ Minh Thành Tổ đã cho người đốt hết những sách vở, phá hủy những bia đá có khắc văn tự của người Việt, bắt những thợ thủ công có tay nghề cao người Việt thiến đi rồi đưa về Trung Quốc để phục dịch, đàn áp thảm khốc, sưu cao thuế nặng, Nguyễn Trãi đã khẳng định những tội ác mất nhân tính này  trong “Bài cáo bình Ngô”: “… Vừa rồi: Nhân họ Hồ chính sự phiền hà, Để trong nước lòng dân oán hận. Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ, Bọn gian tà bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế, Gây binh kết oán trải hai mươi năm. Bại nhân nghĩa nát cả đất trời, Nặng thuế khoá sạch không đầm núi. Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng. Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc. Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng, Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt. Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng. Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán ; Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa. Nặng nề những núi phu phen, Tan tác cả nghề canh cửi. Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi. Lẽ nào trời đất dung tha, Ai bảo thần nhân chịu được? Nhiều cuộc khởi nghĩa chống lại các bộ máy xâm lược nhà Minh do Trần Ngỗi vàTrần Quý Khoáng lãnh đạo. Minh Thành Tổ đã điều các tướng Mộc Thạnh,Trương Phụ sang dẹp các cuộc khởi nghĩa này. Sau khi họ Trần thất bại, vào đầu năm 1418 một cuộc nổi dậy lớn do Lê Lợi khởi xướng. Năm 1424 nghĩa quân Lam Sơn đã chiếm lại gần như toàn bộ vương quốc đúng lúc Yên Đệ chết. Năm 1427, Minh Tuyên Tông đã chính thức thừa nhận nền độc lập của Việt Nam với điều kiện Đại Việt chấp nhận làm chư hầu và phải cống nạp người vàng tượng trưng cho Liễu Thăng bị giết ở ải Chi Lăng mỗi lần đi sứ.

Nguyễn Du kiệt tác thơ chữ Hán “Kỳ Lân Mộ” là trang vàng lịch sử ngoại giao Việt Nam.

BẬC THÁNH VIẾNG ĐỨC HÒA

Nguyễn Du viếng mộ Liễu Hạ Huệ và đưa việc này vào sách ngoại giao của Cụ trình lên vua Càn Long là một vị vua sính văn chương nhà Mãn Thanh. Nguyễn Du làm quan đại thần Chánh sứ ngoại giao nhà Nguyễn Việt Nam đối với nhà Đại Thanh Trung Quốc. Nguyễn Du thơ chữ Hán “Liễu Hạ Huệ mộ” chuyễn tải thông điệp và dụng ý sâu sắc ‘quắc mắt coi khinh Minh Thành Tổ’ và ;nghìn dặm tới viếng đức Hòa Liễu Hạ Huệ’ “Bia tàn chữ mất vùi gai góc Nghe tiếng nghìn năm tôi xuống xe”:

Liễu Hạ Huệ Mộ
Nguyễn Du

Sông Tứ dưới cầu Ngô Điếm qua
Danh thơm kẻ sĩ chửa phôi pha
Đạo ngay xử thế ba lần truất
Bậc thánh nên công một đức Hòa
Đối mặt Ni Sơn vinh nước tổ
Thương thân Đạo Chích hổ danh nhà
Bia tàn chữ mất vùi gai góc
Nghe tiếng nghìn năm tôi xuống xe
(Dịch thơ: Đặng Thế Kiệt)

Nguyên văn chữ Hán

Ngô Điếm kiều thông Tứ thủy ba
Sĩ Sư danh tích vị tiêu ma
Sự nhân trực đạo ninh tam truất
Tác thánh toàn công tại nhất hòa
Tương đối Ni Sơn trường hữu Lỗ
Khả liên Đạo Chích dĩ vô gia
Bi tàn tự một mai hoang thảo
Thiên cổ văn phong nhất há xa

Mộ Liễu Hạ Huệ (Dịch nghĩa)

Dưới cầu Ngô Điếm sông Tứ chảy
Tiếng tăm của bậc Sĩ sư vẫn chưa mất
Lấy đạo ngay thẳng thờ người, ba lần chịu mất chức
Nên công bậc thánh ở chữ “Hòa”
Đối mặt Ni Sơn, nước Lỗ còn mãi mãi
Thương cho Đạo Chích kẻ không nhà
Bia tàn chữ mất chôn vùi nơi cỏ hoang
Nghìn năm còn nghe tiếng, tôi xuống xe.

Liễu Hạ Huệ mộ là kiệt tác thơ Nguyễn Du trong Bắc Hành tạp lục. Tác phẩm được Nguyễn Du chính thức công bố vào năm Quý Dậu (1813) khi ông là Chánh sứ của đoàn sứ thần của Nguyễn Ánh sáng thông hiếu với nhà Thanh năm Gia Long thứ 12 và Gia Khánh thứ 17. Liễu Hạ Huệ mộ tại Bắc Hành tạp lục được trình lên vua Càn Long, một vị vua thông minh tài trí kiệt xuất của Trung Quốc trong lịch sử. Nguyễn Du, với cương vị là Chánh sứ đã chuyển tải thông điệp ngoại giao là thật rõ ràng và “ý tại ngôn ngoại” thật kiệt xuất. Liễu Hạ Huệ mộ cùng với Kỳ Lân mộ là thông điệp ngoại giao sắc sảo của Nguyễn Du chính thức gửi vua Càn Long và vua Gia Khánh tỏ ý rất rõ ràng chính kiến ngoại giao và tư tưởng của nước Việt là thực sự kính trọng những gương trung hiếu, những người ‘thấp cổ bé họng’ như Liễu Hạ Huệ nhưng tâm sáng tuyệt vời.

Liễu Hạ Huệ (sinh 720 TCN, mất 621 TCN) tức Triển Cầm, tên Hoạch, tự là Quý, người đất Liễu Hạ nước Lỗ, thời Xuân Thu, nổi tiếng là một chính nhân quân tử. Liễu Hạ Huệ làm Sĩ Sư, ba lần bị truất mà không bỏ nước. Có người hỏi, ông trả lời: “Lấy đạo ngay mà thờ người thì đi đâu mà không bị ba lần truất. Nếu lấy đạo cong thì hà tất phải bỏ nước của cha mẹ“. Sau khi chết, được đặt tên thụy là Huệ. Mạnh Tử khen ông là bậc thánh về Hòa (Thánh chi Hòa).

Sách Đông Chu liệt quốc của Phùng Mộng Long, hồi thứ ba mươi chín “Triển Hỉ vấn kế cùng Liễu Hạ Huệ” tóm tắt như sau:  “Trong lúc này, Tề Hiến Công vẫn có ý nối chí cha, nuôi mộng bá chủ chư hầu. Một hôm hỏi các quan đại phu: Tiên quân ta là Tề Hoàn Công lúc nào cũng lo đánh đông dẹp bắc, gây thế lực cho mình, chư hầu kính nể. Nay đến đời ta, chẳng lẽ cứ nằm im, trong khi các chư hầu mỗi ngày một mạnh? Ta còn nhớ năm trước vua Lỗ định giúp Vô Khuy chống cự với ta, hận ấy chưa trả. Nay Lỗ lại liên kết với Vệ và Sở, thế rất mạnh, nếu không trừ trước ắt sanh hậu họa. Vừa rồi , ta nghe nói nước Lỗ mất mùa, ta muốn thừa cơ đánh Lỗ, ý các ngươi thế nào? Quan thượng khanh Cao Lỗ nói: Nước Lỗ được nhiều nước giúp, ta đánh khó thắng nổi. Tề Hiến Công nói: Nếu ngồi nhà mà luận chưa chắc đã đúng. Cứ đem quân đến đánh thử một trận xem các nước chư hầu có ai giúp Lỗ chăng? Nói xong, cử binh kéo sang miền bắc nước Lỗ. Quân thám thính về báo, Lỗ Hi Công nói: Nước ta đang lúc mất mùa, quân Tề lại kéo sang, vậy thì nên đánh hay hòa? Quan đại thần Tang Tôn Thần nói: Xin chúa công nhẫn nhục cho người đến giảng hòa với Tề, nếu không xong sẽ tính. Lỗ Hi Công hỏi: Hiện nay ai có thể lãnh trọng trách đó? Tang Tôn Thần nói: Tôi xin tiến cử Triển Hoạch, con quan Tư Không đời trước, làm quan Sĩ Sư, được phong ở đất Liễu Hạ. Người ấy nho nhã, thông minh lắm, chỉ vì chán ghét thói đời nên từ quan về sống cảnh an cư. Nay được người ấy đi chắc vua Tề phải kính trọng. Lỗ Hi Công nói: Tôi vẫn nghe tiếng người ấy, song hiện nay người ấy ở đâu? Tang Tôn Thần nói: Hiện nay nơi Liễu Hạ. Lỗ Hi Công liền cho người đến triệu Triển Hoạch, Triển Hoạch cáo bệnh không đến. Lỗ Hi Công hỏi Triển Hoạch cáo bệnh, bây giờ phải làm sao? Tang Tôn Thần nói: Triễn Hoạch còn có người em là Triển Hỉ dẫu quan chức nhỏ nhưng có tài ứng đối rất hay. Nay sai Triển Hỉ đến nhà Triển Hoạch hỏi xem dùng cách gì để ứng đối với vua Tề. Lỗ Hi Công theo lời, sai Triển Hỉ đến Liễu Hạ. Triển Hỉ theo lệnh đến nơi vào yết kiến Triển Hoạch, thuật lại ý muốn của Lỗ Hi Công và sứ mệnh của mình. Triển Hoạch nói: Vua Tề sang đánh ta là ý muốn noi công nghiệp của Tề Hoàn Công ngày trước, nhưng không biết muốn làm bá chủ phải tôn phù Thiên tử nhà Chu. Nay ta đem di mệnh của Tiên vương ngày xưa mà trách vua Tề thì thiếu gì cách nói. Triển Hỉ trở về nói với Lỗ Hi Công: Tôi đã hỏi được cách ứng đối với vua Tề rồi. Lỗ Hi Công liền phát lễ vật sai Triển Hỉ đến thương thuyết với vua Tề (…). Triển Hỉ nói với vua Tề: Chúa công tôi nghe xa giá nhà vua sang địa giới nước tôi nên sai tôi đến đây để tiến dâng lễ vật. Tề Hiến Công hỏi: Người Lỗ nghe ta đem quân sang đánh có sợ chăng? Triển Hỉ đáp: Có những bọn tiểu nhân thì sợ thật nhưng những người quân tử thì không chút gì sợ hãi. Tề Hiến Công nói: Hiện nay nước ngươi không có ai mưu trí như Thi Bá, cũng không có ai vũ dũng bằng Tào Tuệ, ngoài đồng lại bị mất mùa, cây cỏ vàng úa . Thế thì cậy vào đâu mà không sợ hãi? Triển Hỉ nói: Nước tôi không cậy tài cũng không cậy của, chỉ cậy có một điều là di mệnh của Tiên vương mà thôi. Tiên vương nhà Chu ta ngày xưa phong Thái công nơi đất Tề, phong Bá nơi nước Lỗ, khiến hai nước uống huyết ăn thề: “Con cháu sau này đời đời cùng giúp nhà Chu, không làm hại lẫn nhau”. Lời thề ấy còn chép trong sử sách hai nước. Trước kia Tề Hoàn Công lên làm bá chủ cũng vì hội chư hầu nơi đất Kha để giúp Thiên tử, nay hiền hầu bỏ đường lối ấy mà dùng vũ lực uy hiếp các nước chư hầu, trái với lời thề của Tiên vương, làm sao nên được? Tôi dám chắc hiền hầu không bao giờ làm trái đạo. Bởi vậy, nước tôi không sợ hãi. Tề. Hiến Công nghe nói nghĩ thầm, rồi bảo Triển Hỉ: Ngươi về nói lại với Lỗ hầu, ta xin cùng nước Lỗ giảng hòa. Nói xong truyền lui binh về nước.”

“Liễu Hạ Huệ mộ” là kiệt tác thơ chữ Hán Nguyễn Du trong “Bắc hành tạp lục”. Năm Gia Long thứ mười một 1813, Nguyễn Du được thăng chức Cần Chánh điện đại học sĩ và được cử làm Chánh Sứ đi Trung Quốc từ khoảng giữa năm 1813 đến gần cuối năm 1814. Trên hành trình muôn dặm của sứ thần, Nguyễn Du đã đến nước Lỗ (tỉnh Sơn Đông ngày nay) Nguyễn Du tìm đến viếng mộ Liễu Hạ Huệ, người Sĩ Sư ba lần bị biếm chức. Liễu Hạ Huệ có người em trai là kẻ trộm (Đạo Chích) với bia miệng người đời “chó nhà Đạo Chích sủa vua Nghiêu”. Ông cũng có người em trai là Triển Hỷ “chỉ làm một chức quan nhỏ”. Việc Vua Lỗ triệu kiến ông đi làm sứ thần, ông đã cáo ốm không đến nhưng kế sách châu ngọc của ông qua sự vấn kế của Triển Hỷ thì đã tránh cho dân chúng được cái thảm họa chiến tranh. Nguyễn Du đến thăm mộ Liễu Hạ Huệ nơi “bia tàn chữ mất vùi gai góc/ nghe tiếng nghìn năm tôi xuống xe” càng cho thấy nhân cách kẻ sĩ và sự cảm thông của ông đối với Liễu Hạ Huê sâu sắc đến dường nào. Những người hiền xưa nay thực ra đời nào cũng có, thời thế nhiễu loạn, chẳng qua vàng lầm trong cát đấy thôi. Nguyễn Du là con quan tướng quốc Nguyễn Nhiễm cựu thần nhà Lê và mẹ ông là người phụ nữ tài sắc, vợ lẽ nhà quan, gặp lúc thế nước động loạn, chúa Trịnh, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn đều có tâm cơ và dụng ý riêng. Ông lớn lên trong cảnh lận đận không nhà, có đức tài, khí tiết, trung tín mà không thể cậy. Ông là một đại sĩ phu tài năng trác tuyệt được vua triều Nguyễn vừa trọng dụng vừa tìm cách kiềm chế như đối với Nguyễn Công Trứ, Phan Huy Chú. Ông vì giỏi nên được vua Nguyễn cử đi sứ Tàu mà thôi. Thơ Nguyễn Du vì vậy kín đáo và sâu sắc hiếm thấy.

Bài thơ “Liễu Hạ Huệ mộ” là kiệt tác thật cô đọng, tài tình và tuyệt hay! Cầu Ngô Điểm, sông Tứ, núi Ni, ba lần truất, thánh chi hòa “Đối mặt Ni Sơn, nước Lỗ còn mãi, thương cho Đạo Chích kẻ không nhà” Mỗi câu thơ là những cụm từ chìa khóa với tình ý mênh mang. Viếng mộ Liễu Hạ Huệ, viết Truyện Kiều là Nguyễn Du đã gửi gắm tâm sự và sự trăn trở của sỹ phu trí thức thời loạn như thân phận nàng Kiều và Liễu Hạ Huệ vậy.

(*) Nguyễn Du thơ chữ Hán nguồn dẫn Thi Viện Đào Trung Kiên

BẮC HÀNH TẠP LỤC 北行雜錄

  1. Long thành cầm giả ca
  2. Thăng Long kỳ 1
  3. Thăng Long kỳ 2
  4. Ngộ gia đệ cựu ca cơ
  5. Quỷ Môn quan
  6. Lạng thành đạo trung
  7. Lưu biệt cựu khế Hoàng
  8. Trấn Nam Quan
  9. Nam Quan đạo trung
  10. Mạc phủ tức sự
  11. Giáp Thành Mã Phục Ba miếu
  12. Minh giang chu phát
  13. Ninh Minh giang chu hành
  14. Đề Đại Than Mã Phục Ba miếu
  15. Hoàng Sào binh mã
  16. Vọng Quan Âm miếu
  17. Tam Giang khẩu đường dạ bạc
  18. Vãn há Ðại Than, tân lạo bao trướng, chư hiểm câu thất
  19. Há than hỷ phú
  20. Thái Bình thành hạ văn xuy địch
  21. Thái Bình mại ca giả
  22. Chu hành tức sự
  23. Sơn Đường dạ bạc
  24. Thương Ngô tức sự
  25. Thương Ngô mộ vũ
  26. Ngũ nguyệt quan cạnh độ
  27. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 01
  28. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 02
  29. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 03
  30. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 04
  31. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 05
  32. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 06
  33. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 07
  34. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 08
  35. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 09
  36. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 10
  37. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 11
  38. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 12
  39. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 13
  40. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 14
  41. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 15
  42. Dương Phi cố lý
  43. Triệu Vũ Đế cố cảnh
  44. Bất tiến hành
  45. Tam Liệt miếu
  46. Quế Lâm Cù Các Bộ
  47. Quế Lâm công quán
  48. Đề Vi, Lư tập hậu
  49. Quá Thiên Bình
  50. Vọng Tương Sơn tự
  51. Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch
  52. Tương giang dạ bạc
  53. Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu kỳ 1
  54. Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu kỳ 2
  55. Phản “Chiêu hồn”
  56. Biện Giả
  57. Trường Sa Giả thái phó
  58. Sơ thu cảm hứng kỳ 1
  59. Sơ thu cảm hứng kỳ 2
  60. Sở vọng
  61. Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ kỳ 1
  62. Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ kỳ 2
  63. Tương Âm dạ
  64. Đăng Nhạc Dương lâu
  65. Hoàng Hạc lâu
  66. Hán Dương vãn diểu
  67. Nhiếp Khẩu đạo trung
  68. Lý gia trại tảo phát
  69. Vũ Thắng quan
  70. Tín Dương tức sự
  71. Ngẫu hứng
  72. Độ Hoài hữu cảm Hoài Âm hầu tác
  73. Độ Hoài hữu cảm Văn thừa tướng
  74. Hà Nam đạo trung khốc thử
  75. Cựu Hứa Đô
  76. Âu Dương Văn Trung Công mộ
  77. Bùi Tấn Công mộ
  78. Hoàng hà
  79. Hoàng Hà trở lạo
  80. Tỉ Can mộ
  81. Trở binh hành
  82. Kê thị trung từ
  83. Nhạc Vũ Mục mộ
  84. Tần Cối tượng kỳ 1
  85. Tần Cối tượng kỳ 2
  86. Vương thị tượng kỳ 1
  87. Vương thị tượng kỳ 2
  88. Đồng Tước đài
  89. Thất thập nhị nghi trủng
  90. Lạn Tương Như cố lý
  91. Hàm Đan tức sự
  92. Hàn Tín giảng binh xứ
  93. Liêm Pha bi
  94. Tô Tần đình kỳ 1
  95. Tô Tần đình kỳ 2
  96. Dự Nhượng kiều chuỷ thủ hành
  97. Dự Nhượng kiều
  98. Kinh Kha cố lý
  99. Đế Nghiêu miếu
  100. Lưu Linh mộ
  101. Kỳ lân mộ
  102. Yển Thành Nhạc Vũ Mục ban sư xứ
  103. Đông lộ
  104. Quản Trọng Tam Quy đài
  105. Kê Khang cầm đài
  106. Đông A sơn lộ hành
  107. Sở Bá Vương mộ kỳ 1
  108. Sở Bá Vương mộ kỳ 2
  109. Liễu Hạ Huệ mộ
  110. Từ Châu đạo trung
  111. Nhị Sơ cố lý
  112. Từ Châu đê thượng vọng
  113. An Huy đạo trung
  114. Á Phụ mộ
  115. Chu Lang mộ
  116. Tổ Sơn đạo trung
  117. Quảng Tế ký thắng
  118. Đồ trung ngẫu hứng
  119. Hoàng Châu trúc lâu
  120. Vinh Khải Kỳ thập tuệ xứ
  121. Mạnh Tử từ cổ liễu
  122. Từ Châu dạ
  123. Tiềm Sơn đạo trung
  124. Đào Hoa đàm Lý Thanh Liên cựu tích
  125. Đào Hoa dịch đạo trung kỳ 1
  126. Đào Hoa dịch đạo trung kỳ 2
  127. Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài
  128. Tây Hà dịch
  129. Sở kiến hành
  130. Hoàng Mai sơn thượng thôn
  131. Hoàng Mai đạo trung
  132. Chu phát

THANH HIÊN THI TẬP 清軒詩集

Mười năm gió bụi (1786-1795)

  1. Sơn cư mạn hứng
  2. U cư kỳ 1
  3. U cư kỳ 2
  4. Tự thán kỳ 1
  5. Tự thán kỳ 2
  6. Bất mị
  7. Quỳnh Hải nguyên tiêu
  8. Xuân nhật ngẫu hứng
  9. Tạp ngâm (I)
  10. Khất thực
  11. Xuân dạ
  12. Thu chí (II)
  13. Thu dạ kỳ 1
  14. Thu dạ kỳ 2
  15. Tống Nguyễn Sĩ Hữu nam quy
  16. Lưu biệt Nguyễn đại lang
  17. Hoạ Hải ông Đoàn Nguyễn Tuấn “Giáp Dần phụng mệnh nhập Phú Xuân đăng trình lưu biệt bắc thành chư hữu” chi tác
  18. Bát muộn
  19. Trệ khách
  20. Mạn hứng kỳ 1
  21. Mạn hứng kỳ 2
  22. Đại nhân hí bút
  23. Vị Hoàng doanh
  24. Độ Phú Nông giang cảm tác
  25. Hoàng Mai kiều vãn diểu
  26. Dao vọng Càn Hải từ
  27. Ký mộng
  28. Tái du Tam Điệp sơn
  29. Giang đình hữu cảm
  30. Ức gia huynh

Dưới chân núi Hồng (1796-1802)

  1. My trung mạn hứng
  2. Tặng Thực Đình
  3. Phúc Thực Đình
  4. Hành lạc từ kỳ 1
  5. Hành lạc từ kỳ 2
  6. Độ Long Vĩ giang
  7. Tạp thi kỳ 1
  8. Tạp thi kỳ 2
  9. Ký Huyền Hư tử
  10. Ký giang bắc Huyền Hư tử
  11. Ký hữu (I)
  12. Khai song
  13. Biệt Nguyễn đại lang kỳ 1
  14. Biệt Nguyễn đại lang kỳ 2
  15. Biệt Nguyễn đại lang kỳ 3
  16. Ngoạ bệnh kỳ 1
  17. Ngoạ bệnh kỳ 2
  18. Đối tửu
  19. Lam giang
  20. Liệp
  21. Sơn thôn
  22. Thôn dạ
  23. Tạp ngâm kỳ 1
  24. Tạp ngâm kỳ 2
  25. Tạp ngâm kỳ 3
  26. Mạn hứng
  27. Dạ hành
  28. Đạo ý
  29. Điếu La Thành ca giả
  30. Ninh Công thành

Làm quan ở Bắc Hà (1802-1804)

  1. Ký hữu (II)
  2. Sơ nguyệt
  3. La Phù giang thuỷ các độc toạ
  4. Ngẫu hứng kỳ 1
  5. Ngẫu hứng kỳ 2
  6. Thanh minh ngẫu hứng
  7. Mộ xuân mạn hứng
  8. Thanh Quyết giang vãn diểu
  9. Đồng Lư lộ thượng dao kiến Sài Sơn
  10. Đồng Lung giang
  11. Lạng Sơn đạo trung
  12. Quỷ Môn đạo trung
  13. Đề Nhị Thanh động
  14. Vọng Phu thạch
  15. Xuân tiêu lữ thứ
  16. Điệp tử thư trung
  17. Khổng tước vũ
  18. Độc Tiểu Thanh ký

NAM TRUNG TẠP NGÂM 南中雜吟

  1. Phượng Hoàng lộ thượng tảo hành
  2. Mộng đắc thái liên kỳ 1
  3. Mộng đắc thái liên kỳ 2
  4. Mộng đắc thái liên kỳ 3
  5. Mộng đắc thái liên kỳ 4
  6. Mộng đắc thái liên kỳ 5
  7. Thu chí (I)
  8. Điệu khuyển
  9. Ngẫu thư công quán bích
  10. Ngẫu đề công quán bích kỳ 1
  11. Ngẫu đề công quán bích kỳ 2
  12. Tống nhân
  13. Ngẫu hứng kỳ 1
  14. Ngẫu hứng kỳ 2
  15. Ngẫu hứng kỳ 3
  16. Ngẫu hứng kỳ 4
  17. Ngẫu hứng kỳ 5
  18. Ngẫu đề
  19. Thuỷ Liên đạo trung tảo hành
  20. Tân thu ngẫu hứng
  21. Dạ toạ
  22. Tặng nhân
  23. Tái thứ nguyên vận
  24. Tạp ngâm (II)
  25. Giang đầu tản bộ kỳ 1
  26. Giang đầu tản bộ kỳ 2
  27. Ngẫu đắc
  28. Pháo đài
  29. Thành hạ khí mã
  30. Vọng Thiên Thai tự
  31. Giản công bộ thiêm sự Trần kỳ 1
  32. Giản công bộ thiêm sự Trần kỳ 2
  33. Thu nhật ký hứng
  34. Sơn trung tức sự
  35. Độ Linh giang
  36. Nễ giang khẩu hương vọng
  37. Y nguyên vận ký Thanh Oai Ngô Tứ Nguyên
  38. Tống Ngô Nhữ Sơn công xuất Nhệ An
  39. Đại tác cửu thú tư quy kỳ 1
  40. Đại tác cửu thú tư quy kỳ 2

NGUYỄN DU TRĂNG HUYỀN THOẠI
Hoàng Kim

Vị thiền sư Linh Nhạc Phật Ý tại Tổ Đình chùa cổ Thủ Đức trong giấc mơ lạ Nguyễn Du nửa đêm đọc lại đã khuyên tôi viết Nguyễn Du trăng huyền thoại bằng cách lập “Nguyễn Du niên biểu luận” cuộc đời và thời thế Nguyễn Du để tìm hiểu về Người. Theo vị Thiền sư này thì dấu vết chứng cứ sự thật hàng năm của Nguyễn Du là chỉ dấu đáng tin cậy của thời ấy về những sự kiện trọng yếu của thời thế đã gợi ý chi phối thế xuất xử của Nguyễn Du bình sinh và hành trạng, để hậu thế chúng ta có thể hiểu đúng sự thật và huyền thoại về ông. Những sự kiện chính tại đàng Trong và đàng Ngoài với các nước liên quan trong hệ quy chiếu lấy chính Nguyễn Du và gia tộc của ông làm trung tâm sẽ là dẫn liệu thông tin thực sự có ích để thấu hiểu chính xác ẩn ngữ Truyện Kiều, lịch sử, văn hóa, con người, bối cảnh hình thành kiệt tác “300 năm nữa chốc mòng Biết ai thiên ha khóc cùng Tố Như” xem tiếp http://hoangkimlong.wordpress,com/category/nguyen-du-trang-huyen thoại

Tác phẩm bao gồm chín bài, mục lục như sau: 1 Nguyễn Du thơ chữ Hán Kiếm bút thấu tim Người, Đấng danh sĩ tinh hoa, Nguyễn Du khinh Thành Tổ, Bậc thánh viếng đức Hòa 2 Nguyễn Du tư liệu quý Linh Nhạc thương người hiền, Trung Liệt đền thờ cổ, “Bang giao tập” Việt Trung, Nguyễn Du niên biểu luận 3 Nguyễn Du Hồ Xuân Hương “Đối tửu” thơ bi tráng, “Tỏ ý” lệ vương đầy, Ba trăm năm thoáng chốc, Mại hạc vầng trăng soi. 4 Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ Uy Viễn “Vịnh Thúy Kiều”, Tố Như “Đọc Tiểu Thanh”, Bến Giang Đình ẩn ngữ, Thời biến nhớ người xưa. 5 Nguyễn Du thời Tây Sơn Mười lăm năm tuổi thơ, Mười lăm năm lưu lạc, Thời Hồng Sơn Liệp Hộ, Tình hiếu thật phân minh 6 Nguyễn Du làm Ngư Tiều Câu cá và đi săn, Ẩn ngữ giữa đời thường, Nguyễn Du ức gia huynh, Hành Lạc Từ bi tráng 7 Nguyễn Du thời nhà Nguyễn Mười tám năm làm quan, Chính sử và Bài tựa, Gia phả với luận bàn. Bắc hành và Truyện Kiều 8 Nguyễn Du tiếng tri âm Hồ Xuân Hương là ai, Kiều Nguyễn luận anh hùng, Thời Nam Hải Điếu Đồ, Thời Hồng Sơn Liệp Hộ 9 Nguyễn Du trăng huyền thoại Đi thuyền trên Trường Giang,Tâm tình và Hồn Việt, Tấm gương soi thời đại. Mai Hạc vầng trăng soi,

Tôi viết Nguyễn Du trăng huyền thoại cho những ai vốn thích Nguyễn Du và Truyện Kiều nhưng chỉ có sách Truyện Kiều và một ít bộ sách quý có liên quan mà chưa thể có thời gian đào sâu tìm hiểu về bộ kiệt tác văn chương Việt kỳ lạ này với những ẩn ngữ thời thế cuộc đời Nguyễn Du lắng đọng vào trang sách. Bạn đọc để đỡ tốn công, tôi xin có ít lời hướng dẫn cách đọc chùm 9 bài này như sau. Đầu tiên bạn nên đọc bảng Mục lục chín bài viết này và xác định mình cần đọc bài nào trong chín bài viết ấy sau đó bấm thẳng vào đường dẫn có tại trang ấy liên kết với chín bài; Thứ hai mời bạn đọc ngay bài bảy mục 2 va 3 đó là Chính sử và Bài tựa/ Gia phả với luận bàn. Muốn hiểu thêm Nguyễn Du trăng huyền thoại cần tìm đọc những sách và tác giả giới thiệu trong bài này và có sự định kỳ cập nhậti. Thứ ba Nguyễn Du là danh sĩ tinh hoa Việt Nam thời nhà Nguyễn Tổng luận Nguyễn Du và Truyện Kiều là sự suy ngẫm lắng đọng.

Nguyễn Du là danh sĩ tinh hoa Việt Nam thời nhà Nguyễn, là minh sư hiền tài lỗi lạc, là nhà thơ lớn danh nhân văn hóa thế giới, là một hình mẫu con người Việt Nam thuộc về văn hóa tương lai, là một tấm gương trong về phép ứng xử chí thiện, nhân đạo, minh triết giữa thời nhiễu loạn. Ông là tác giả của.Truyện Kiều và Bắc hành tạp lục bài học tâm tình Việt đã thấm sâu vào hồn Việt và lan tỏa khắp thế giới. Nguyễn Du sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766, nhằm ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tại phường Bích Câu, ở Thăng Long, Hà Nội, mất ngày 16 tháng 9 năm 1820 nhằm ngày 10 tháng tám năm Canh Thìn.

Tổng luận Nguyễn Du và Truyện Kiều tóm tắt như sau

1. Nguyễn Du không chỉ là nhà thơ lớn, danh nhân văn hóa thế giới mà còn là danh sĩ tinh hoa, đấng anh hùng hào kiệt minh sư hiền tài lỗi lạc.

2. Nguyễn Du rất mực nhân đạo và minh triết, ông nổi bật hơn tất cả những chính khách và danh nhân cùng thời. Nguyễn Du vượt lên vinh nhục bản thân giữa thời nhiễu loạn, vàng lầm trong cát để trao lại ngọc cho đời. “Nguyễn Du là người rất mực nhân đạo trong một thời đại ít nhân đạo” (Joocjo Budaren nhà văn Pháp). Ông chí thiện, nhân đạo, minh triết, mẫu hình con người văn hóa tương lai. Kiều Nguyễn Du là bài học lớn về tâm tình hồn Việt. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã thấm sâu vào hồn Việt và lan tỏa khắp thế giới.

3. Nguyễn Du quê hương và dòng họ cho thấy gia tộc họ Nguyễn Tiên Điền là dòng họ lớn đại quý tộc có thế lực mạnh “Triều đình riêng một góc trời/ Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”. Vị thế gia tộc Nguyễn Tiên Điền đến mức nhà Lê, họ Trịnh, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn đều tìm mọi cách liên kết, lôi kéo, mua chuộc, khống chế hoặc ra tay tàn độc để trấn phản. Nguyễn Du để lại kiệt tác Truyện Kiều là di sản muôn đời, kiệt tác Bắc hành tạp lục 132 bài, Nam trung tạp ngâm 16 bài và Thanh Hiên thi tập 78 bài, là phần sâu kín trong tâm trạng Nguyễn Du, tỏa sáng tầm vóc và bản lĩnh của một anh hùng quốc sĩ tinh hoa, chạm thấu những vấn đề sâu sắc nhất của tình yêu thương con người và nhân loại. Đặc biệt “Bắc Hành tạp lục” và Truyện Kiều là hai kiệt tác SÁCH NGOẠI GIAO NGUYỄN DU sử thi và tuyên ngôn ngoại giao nhân nghĩa làm rạng danh nước Việt được ghi trong chính sử nhà Nguyễn và và ngự chế Minh Mệnh tổng thuyết

4. Nguyễn Du niên biểu luận, cuộc đời và thời thế là bức tranh bi tráng của một bậc anh hùng hào kiệt nhân hậu, trọng nghĩa và tận lực vì lý tưởng. Nguyễn Du đã phải gánh chịu quá nhiều chuyện thương tâm và khổ đau cùng cực cho chính ông và gia đình ông bởi biến thiên của thời vận”Bắt phong trần phải phong trần.Cho thanh cao mới được phần thanh cao“. Nguyễn Du mười lăm năm tuổi thơ (1765-1780) mẹ mất sớm, ông có thiên tư thông tuệ, văn võ song toàn, văn tài nổi danh tam trường, võ quan giữ tước vị cao nơi trọng yếu; người thân gia đình ông giữ địa vị cao nhất trong triều Lê Trịnh và có nhiều người thân tín quản lý phần lớn những nơi trọng địa của Bắc Hà. Nguyễn Du mười lăm năm lưu lạc (1781- 1796) Thời Hồng Sơn Liệp Hộ (1797-1802) là giai đoạn đất nước nhiễu loạn Lê bại Trịnh vong, nội chiến, tranh đoạt và ngoại xâm. Nguyễn Du và gia đình ông đã chịu nhiều tổn thất nhưng ông kiên gan bền chí, tận tụy hết lòng vì nhà Lê “Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn. Để lời thệ hải minh sơn. Làm con trước phải đền ơn sinh thành“. Nguyễn Du thời Nhà Nguyễn (1802- 1820) ra làm quan triều Nguyễn giữ các chức vụ từ tri huyên, cai bạ, cần chánh điện đại hoc sĩ, chánh sứ đến hữu tham tri bộ lễ. Ông là nhà quản lý giỏi yêu nước thương dân, Nguyễn Du để lại Truyện Kiều và “Bắc Hành tạp lục” không chỉ là kiệt tác sử thi và tuyên ngôn ngoại giao nhân nghĩa  làm rạng danh nước Việt mà còn là di sản lịch sử văn hóa mẫu mực của dân tộc Việt.

5. Minh triết ứng xử của Nguyễn Du là bậc hiền tài trước ngã ba đường đời là phải chí thiện và thuận theo tự nhiên “Tùy cơ, tùy vận, tùy thiên mệnh, tùy thời, tùy thế, lại tùy nghi” Nguyễn Du ký thác tâm sự vào Truyện Kiều là ẩn ngữ ước vọng đời người, tâm tình và tình yêu cuộc sống “Thiện căn cốt ở lòng ta, Chữ tâm kia mới thành ba chữ tài” .

6. Truyện Kiều có tầm ảnh hưởng rất sâu rộng đã trở thành hồn Việt, và là tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam được dịch ra hơn 20 thứ tiếng và trên 73 bản dịch. Giá trị tác phẩm Kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du có sự tương đồng với kiệt tác Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần.nhưng khác chiều kích văn hóa giáo dục và giá trị tác phẩm.

7. Nhân cách, tâm thế của con người Nguyễn Du đặt trong mối tương quan với Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh của thời đại Hậu Lê Trịnh – nhà Tây Sơn – đầu triều Nguyễn; khi so sánh với Tào Tuyết Cần là văn nhân tài tử của thời đại cuối nhà Minh đến đầu và giữa nhà Thanh thì vừa có sự tương đồng vừa có sự dị biệt to lớn.

8. Gia tộc của Nguyễn Quỳnh – Nguyễn Thiếp – Nguyễn Du tương đồng với gia tộc của Tào Tỷ – Tào Dần – Tào Tuyết Cần nhưng nền tảng đạo đức văn hóa khác nhau  Nhấn mạnh điều này để thấy sự cần thiết nghiên cứu liên ngành lịch sử, văn hóa, con người tác gia, bởi điều đó chi phối rất sâu sắc đến giá trị của kiệt tác.

9. Nguyễn Du trăng huyền thoại gồm tư liệu 540 trang, là vầng trăng huyền thoại soi sáng thời đại Nguyễn Du. (Mục lục của chuyên luận này gồm 9 bài như đã trình bày ở phần trên)

Tài liệu tham khảo chính

1. Nguyễn Du tiểu sử trong sách Đại Nam liệt truyện chính biên sơ tập Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, người dịch Đỗ Mộng Khương, người hiệu đính Hoa Bằng, Viện Sử học Việt Nam, Nhà Xuất bản Thuận Hóa, Huế 2006, trang 400 /716 Tập 2

Nguyễn Du

Người huyện Nghi Xuân, trấn Hà Tĩnh, là con Xuân Quận Công đời Lê Nguyễn Nhiễm, và là em Tham tụng Nguyễn Khản; Du là con nhà tướng, có văn tài sẵn khí tiết, không chịu theo giặc. Gia Long sơ, bổ làm Tri phủ Thường Tín, rồi vì ốm xin cáo từ;Năm thứ 5, triệu bổ Đông các học sĩ; Năm thứ 8 ra làm Cai bạ Quảng Bình, trị dân có chính tích; Năm thứ 12, thăng Cần chính điện học sĩ, sung Chánh sứ sang nước Thanh tuế cống, đến khi về thăng Hữu tham tri bộ Lễ

Minh Mạng năm thứ 1, lại có mệnh đi sứ, chưa đi thì chết. Thánh Tổ Nhân Hoàng đế rất tiếc, cho 20 lạng bạc, hai cây gấm tàu, khi đưa quan về cho thêm 300 quan tiền. Du là người ngạo nghễ tự phụ, mà bề ngoài tỏ ra kính cẩn, mỗi khi vào yết kiến có vẻ sợ hãi như không nói được. Vua thường bảo rằng: Nhà nước dùng người, chỉ cần người hiền, vốn không phân biệt Nam Bắc, ngươi cùng với Ngô Vị đã được đối đãi hậu, làm quan đến Á khanh, nên biết thì phải nói để hết chức phận, khá nên do dự rụt rè chỉ cốt vâng dạ làm gì”.

Du rất giỏi về thơ, làm thơ quốc âm rất hay, khi sang sứ nước Thanh về, có tập thơ “Bắc hành” và truyện “Thúy Kiều”lưu hành ở đời. Du trước vì gia thế làm quan nhà Lê, gặp loạn Tây Sơn không có chí lại ra giúp đời nữa, còn tự ý đi chơi săn bắn núi Hồng Sơn, 99 ngọn vết chân hầu khắp. Khi bị lệnh triệu không thể từ được mới ra làm quan, thường phải chịu khuất với cấp trên, lấy làm uất ức bất đắc chí . Đến khi bệnh kịch, không chịu uống thuốc, sai người nhà mở duỗi chân tay, nói đã lạnh cả, Du bảo rằng: “Tốt”, nói xong thì chết, không nói một câu nào đến việc sau khi chết. Du có hai em là Thảng và Sóc đều có tài nghệ hiển đạt. Thảng chữ viết chân phương, có tiếng viết tốt, lúc đầu sung vào viện Hàn lâm, khoảng năm Minh Mạng thăng thị lang bộ Công           

2. Bài tựa của Bùi Kỷ trong sách Nguyễn Du Truyện Thúy Kiều, Bùi Kỷ Trần Trọng Kim hiệu khảo Nhà xuất bản Tân Việt 1968.

Quyển truyện Thúy Kiều này là một quyển sách kiệt-tác làm bằng quốc-âm ta. Người trong nước từ kẻ ngu-phu ngu-phụ cho chí người có văn-học, ai cũng biết, ai cũng đọc, mà ai cũng chịu là hay. Một quyển sách có giá-trị như thế, mà chỉ hiềm vì các bản in ra, có nhiều bản không giống nhau, rồi có người lại tự ý mình đem chữa đi, chữa lại, thành ra càng ngày càng sai-lầm nhiều thêm ra. Mới đây những bản in bằng quốc-ngữ, tuy có dễ đọc và dễ xem hơn trước, nhưng chưa thấy có bản in nào thật chính đáng, những điều sai lầm vẫn còn như các bản chữ Nôm cũ, mà chữ Quốc ngữ viết lại không được đúng, và những lời giải-thích cũng không kỹ càng lắm. Chúng tôi thấy vậy, mới nhặt nhạnh các bản cũ, rồi so sánh với các bản mới để hiệu chính lại cho gần được nguyên văn. Chúng tôi lại hết sức tìm tòi đủ các điển tích mà giải thích cho rõ ràng, để ai xem cũng hiểu, không phải ngờ điều gì nữa.

Hiện nay tập nguyên văn của tácgiả làm ra thì không tìm thấy nữa, chỉ có hai bản khác nhau ít nhiều, là bản Phường, in ở phố hàng Gai, Hà Nội, và bản Kinh của vua Dực Tông bản Triều đã chữa lại.

Bản Phường là bản của ông Phạm Quí Thích đem khắc in ra trước hết cả. Ông hiệu là Lập Trai, người làng Huê Đường (nay đổi là làng Lương Đường) phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương, đỗ tiến sĩ về cuối đời Lê, cùng với tác-giả là bạn đồng thanh đồng khí, cho nên khi quyển truyện này làm xong thì tác giả đưa cho ông xem. Chắc cũng có sửa-đổi lại một vài câu, nhưng xem lời văn thì chỗ nào cũng một giọng cả. Vậy nên chúng tôi thiết tưởng rằng lấy bản Phường làm cốt, thì có lẽ không sai lầm là mấy. Còn những chỗ mà bản Kinh đổi khác đi, hoặc những câu mà về sau người ta sửa lại, thì chúng tôi phụ lục cả ở dưới, để độc giả có thể xem mà cân nhắc hơn kém. Lại có một vài chữ người ta muốn đổi đi, nhưng không đúng với các bản Nôm cũ, thì chúng tôi cũng thích xuống dưới, chứ không tự tiện mà đổi nguyên-văn đi. Chủ-ý của chúng tôi là muốn giữ cho đúng như các bản cũ, chứ không muốn làm cho hay hơn.

Truyện Thúy Kiều này nguyên lúc đầu tác giả nhan đề là “ĐOẠN-TRƯỜNG TÂN-THANH” 斷腸新聲.  Sau nghe đâu ông Phạm Quí Thích đổi lại là “KIM VÂN KIỀU TÂN-TRUYỆN “金雲翹新傳. Nhưng vì trong truyện chỉ có Thúy Kiều là vai chính, còn Kim Trọng và Thúy Vân là vai phụ cả. Nếu đề như vậy, thì e không hợp lẽ. Vả chăng tục thường gọi là Truyện Kiều, thì chi bằng ta cứ theo thói thường mà nhan đề là Truyện Thúy Kiều, rồi ở dưới đề thêm tên cũ ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH”, gọi là để tỏ cái ý tồn cổ. Song đấy là nói về phần hình-thức ở bề ngoài, còn về phần tinh thần văn chương trong truyện Thúy Kiều, thì sau này chúng tôi sẽ đem ý kiến riêng mà bày tỏ ra đây, họa may có bổ ích được điều gì chăng. Vậy trước hết xin lược thuật cái tiểu sử của tác giả để độc giả hiểu rõ tác giả là người thế nào.

Tác-giả húy là Du 攸, tự là Tố-Như 素如, hiệu là Thanh-Hiên 清軒, biệt hiệu là Hồng-Sơn Liệp-hộ 鴻山獵戶, quán tại làng Tiên-Điền, huyện Nghi-Xuân, tỉnh Hà-Tĩnh, con thứ bảy ông Hoàng-giáp Xuân-Quận-công Nguyễn Nghiễm, làm thủ-tướng Lê-triều. Bác ruột là ông Nguyễn Huệ cùng anh là ông Nguyễn Khản đều đỗ tiến-sĩ, làm quan đồng thời. Ông Nguyễn Khản làm đến Lại-bộ Thượng-thư, sung chức Tham-tụng. Còn người anh thứ hai là Điều-nhạc-hầu, húy là Điều, làm Trấn-thủ Sơn-Tây. Cả nhà, cha con, chú bác, anh em, đều là người khoa-giáp, làm quan to đời nhà Lê. Tố-Như tiên-sinh là con bà trắc-thất, người huyện Đông-Ngạn, tỉnh Bắc-Ninh, tên là Thấn 殯. Bà sinh được bốn người con trai tên là Trụ 伷, Nệ 儞, Du 攸 (tức là tiên-sinh) và Ức 億. Tiên-sinh sinh vào ngày nào, thì nay ta không rõ, chỉ biết vào năm ất-dậu là năm Cảnh-Hưng thứ 26 (1765), nghĩa là vào đời Lê-mạt.

Xem gia-thế nhà tiên sinh, thì tiên sinh là dòng dõi một nhà thế phiệt trâm anh đệ nhất trong nước lúc bấy giờ. Không rõ tiên sinh thụ nghiệp ai, có lẽ là học tập phụ huynh trong nhà. Tiên sinh thuở còn trẻ thiên tư dĩnh ngộ, năm 19 tuổi đã đỗ ba trường, tức là đỗ tú tài. Tiên sinh là người có khí tiết, gặp khi trong nước có biến, nhà Nguyễn Tây Sơn dấy lên, nhà Lê bại vong, tiên sinh đã nhiều phen lo toan sự khôi phục, nhưng vì sự không thành, bỏ về quê ở, lấy sự chơi bời săn bắn làm vui thú. Trong vùng chín mươi chín ngọn núi Hồng Lĩnh không có chỗ nào là chỗ tiên sinh không đi đến. Phải thời quốc phá gia vong, tiên-sinh đã toan bỏ việc đời ra ngoài tai, đem cái thân thế mà vui với non sông. Ấy là cái chí của tiên sinh đã định như thế, nhưng đến khi vua Thế Tổ Cao Hoàng bản Triều đã thống-nhất được giang sơn, có ý muốn thu phục lòng người miền Bắc, xuống chiếu trưng triệu những nhà dòng dõi cựu thần nhà Lê ra lục dụng. Tiên sinh phải triệu ra làm quan, hai ba lần từ chối không được. Năm Gia Long nguyên-niên (1802), tiên sinh phải ra làm tri huyện huyện Phù Dực, (nay thuộc tỉnh Thái-Bình). Được ít lâu bổ đi Tri phủ Thường Tín. Sau tiên-sinh cáo bệnh xin về. Đến năm Gia Long thứ năm (1806) lại phải triệu vào Kinh thụ chức Đông các học sĩ. Năm thứ tám (1809) bổ ra làm Cai Bạ (tức là Bố chính) Quảng-Bình. Năm thứ 12 (1813) thăng lên làm Cần chính điện học sĩ, sung chức chánh sứ sang cống Tàu. Đến khi về, được thăng Lễ bộ Hữu tham tri. Năm Minh Mệnh nguyên niên (1820) lại có chỉ sai tiên sinh đi sứ Tàu lần nữa, nhưng chưa kịp đi thì phải bệnh mất.

3. Gia phả họ Nguyễn ở Tiên Điền trang 73-81. (có ba trang tiếng Việt và 6 trang tiếng Hán Nôm). Trong sách Lê Xuân Lít 2005. “200 năm nghiên cứu bàn luận truyện Kiều” Nhà Xuất Bản Giáo Dục ,1995 trang

Gia phả họ Nguyễn ở Tiên Điền
Thanh Hiên Công – Con thứ Bảy (Nguyễn Du)
Nguồn: Lê Xuân Lít 2005. Hai trăm năm nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều Nhà Xuất bản Giáo Dục, 1995 trang ‘Tôi tin rằng các độc giả sẽ tìm thấy trong tập sách này tất cả những kết quả tiêu biểu nhất mà giới nghiên cứu và phê bình văn học đã thu được trong thời gian hai trăm năm kể từ khi Truyện Kiều ra đời’ (GS Cao Xuân Hạo); Gia phả cụ Nguyễn Du ở trang 73-81 của sách này, gồm 3 trang bản dịch tiếng Việt và 6 trang bản Hán Nôm; Nguyễn Thị Thanh Xuân (dịch) Tài liệu lưu trữ tại Viện Hán Nôm.

Công tên húy là Du , lúc nhỏ húy Du, tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, sinh năm Ất Dậu (1765) do bà Liệt phu nhân họ Trần sinh ra. Ba tuổi được phong ấm Hoằng Tín đại trung thành môn vệ úy xuất thân Thu Nhạc công. Ông dung mạo khôi ngô, lúc nhỏ Việp Quận công trông thấy lấy làm lạ ban cho bảo kiếm. Năm lên sáu , sách vở đọc qua một lượt là nhớ. Năm Quý Mão (1783) 19 tuổi dự khoa thi Hương ở trường Sơn Nam đỗ Tam trường. Xưa kia môn hạ của Trung Cẩn công là Hà Mỗ làm Chánh Thủ hiệu quân Hùng hậu ở Thái Nguyên , già rồi không có con muốn xin ông làm hậu tự. Trung Cẩn công đồng ý. Khi Hà Mỗ mất thì ông được tập chức của Hà Mỗ. Năm Kỷ dậu (1789) vua Lê chạy sang phương Bắc ông theo hộ giá không kịp, bèn trở về quê vợ, nương nhờ anh vợ là Đoàn Khắc Tuấn (Bàn gia phả chép nhầm. Phải là Đoàn Nguyễn Tuấn mới đúng, Người dịch NTTX viết), người Hải An, Quỳnh Côi, Sơn Nam là con Hoàng giáp Phó đô ngự sử Quỳnh Châu bá Đoàn Nguyễn Thục; (Đoàn Nguyễn Tuấn) tuổi trẻ lãnh giải nguyên kỳ thi Hương, nổi tiếng văn chương, làm quan đến Lại bộ Tả thị lang thời Tây Sơn, tước Hải Phái hầu; (Nguyễn Du) tập hợp hào mục để mưu đồ báo quốc, nhưng chí không đạt được , bèn quay về quê hương, yên vui với sơn thủy, tự đặt hiệu là Hồng Sơn Liệp Hộ, lại hiệu là Nam Hải Điếu Đồ. Mùa đông năm Bính Thìn (1796) toan đi Gia Định , nhưng việc bị tiết lộ, bị tướng trấn thủ là Thận Quận công bắt giữ. Lòng trung nghĩa của ông khích phát thành thơ, có câu rằng: “Hán mạt nhất thời vô nghĩa sĩ. Chu sơ tam kỷ hữu ngoan dân”. Lại có câu: “Đản đắc kỳ tây thánh nhân xuất, Bá Di tuy tử bất vi nhân”. Thận Quận công vốn quen thân với Quế Hiên công là anh ruột của ông nên chỉ bắt giữ vài tháng rồi thả ông về. Mùa hạ năm Nhâm Tuất (1802) tháng sáu, Cao hoàng đế đến Nghệ An , ông đáp lời triệu ra yết kiến vua, phụng mệnh xuất thủ hạ hộ giá ra Bắc. Mùa thu tháng tám , được nhậm chức Tri huyện huyện Phù Dung (thuộc phủ Mục Bình, Khoái Châu, Sơn Nam) Tháng mười một thăng Tri phủ phủ Thường Tín (thuộc xứ Sơn Nam) Mùa đông năm Quý Hợi (1803), (Y sao trang đầu, còn nữa …)

(tiếp theo) sứ giả nhà Thanh đến sắc phong, ông phụng mệnh cùng đi với Tri phủ Thượng Hồng là Lý Trần Chuyên, Tri phủ Thiên Trường là Ngô Nguyễn Viên, Tri phủ Tiên Hưng là Trần Lưu, đến trấn Nam Quan nghênh tiếp, thơ từ tiễn tặng lúc sứ thần trở về đều do ông soạn thảo. Mùa thu năm Giáp Tý (1804) vì bị bệnh xin từ chức về quê, được hơn một tháng lại có lệnh triệu lên kinh. Mùa xuân năm Đinh Sửu (1805) tháng giêng thăng Đông Các học sĩ, tước Du Đức hầu. Tháng chín mùa thu năm Đinh Mão (1807) được lệnh làm giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương . Tháng tám mùa thu năm Mậu Thìn (1808), xin phép nghỉ về quê , được vua ban một trăm quan tiền, một trăm phương thóc. Mùa hạ năm Kỷ Tỵ (1809) tháng tư, được vua chuẩn ban Cai bạ doanh Quảng Bình. Các việc công trong hạt như bình dân , kiện tựng, tiền lương, thuế má … cho phép phối hợp với lưu thủ, ký lục trong hạt bàn bạc rồi thi hành. (Nước ta thoạt đầu đặt Quảng Nam, Quảng Đức, Quảng Trị, Quảng Bình là Trực Lệ, mỗi doanh có một viên lưu thủ , một viên ký lu5ccu4ng như chức trấn thủ, hiệp trấn, tham hiệp… của các trấn. Nay các doanh trấn đều cải là tỉnh: Quảng Đức doanh đổi thành Thừa Thiên phủ tỉnh, đặt chức Bố chánh, Án sát. Còn chức Phủ doãn , Phủ thừa của phủ Thừa Thiên trước đều bãi bỏ. ).

Ông làm quan được bốn năm , vi chính giản dị, không cầu tiếng tăm, sĩ dân đều tin yêu. mùa thu năm Nhâm Thân (1812) tháng chín, xin nghỉ phép về quê 2 tháng xây phần mộ của Quế Hiên công (Nguyễn Đề) . Tháng 12 được chiếu lệnh triệu đến kinh. Mùa xuân năm Quý Dậu (1813) tháng hai, thăng Cần chánh điện học si4ro62i được vua ban chức Chánh sứ tuế cống bộ, cùng với Phó sứ là Lại bộ Thiêm sự Đàm Ân hầu, Phong Đăng hầu cùng đi sứ phương Bắc. Mùa hạ năm Giáp Tuất (1814) tháng tư (năm đó có trước tác tập Bắc hành tạp lục) trở về nước ông đến kinh phụng mệnh. Tháng sáu được đồng ý cho nghỉ phép sáu tháng. Tháng 12 đến kinh. Mùa hạ tháng 5 năm Ất Hợi (1815) vì được văn giai tấu cử nên được thăng Lễ bộ Hữu Tham Tri. Mùa thu tháng 8 năm Ất Mão (1819) được cử làm Đề điệu trường thi Hương ở Quảng Nam , ông cố khước từ nên được miễn. Năm Canh Thìn (1820) vua Minh Mệnh Nhân hoàng đế lên ngôi, ngự bút viết thư riêng cử ông làm Chánh sứ cầu phong bộ. Chưa kịp đi thì bị bệnh , mất tại kinh đô ngày 10 tháng tám (16.9.1820) là ngày 10 tháng tám năm Canh Thìn niên hiệu Minh Mệnh , hưởng thọ 56 tuổi. Được tin vua thương xót , ban cho thụy là Trung Thanh, cho ân tuất. Lại cho thêm 24 lạng bạc, 2 tấm gấm màu, 30 cân nến sáp, 300 cân dầu. Hoàng mẫu, hoàng đệ cùng các văn quan đều đến phúng điếu. Câu đối liễn của các quan ở kinh có những câu: “Nhất đại tài hoa, vi sứ vi khanh, sinh bất thiêm; bách niên sự nghiệp, tại gia tại quốc, tử do vinh”. Lại có câu: “Nhất viện cầm tôn nhân ký khứ, đại gia văn tự thế không truyền” (Y sao trang hai, còn nữa…)

(tiếp theo và hết) Giờ phút lâm chung , em ruột ông là Thiêm sự Sóc Nhạc hầu và cháu là Hàn lâm viện Thắng Đức bá đều có mặt ở kinh . Lễ an táng được tiến hành ngay trong tháng đó, mộ tại cánh đồng Bào Đá, xã An Ninh, huyện Quảng Điền. Mùa hạ năm Giáp Thân (1824) con trai thứ là Ngũ đến kinh xin đem về quê quy táng. Vua ban cho 300 quan tiền công và cho dời mộ về địa phận xứ Đồng Ngang thuộc giáp cũ của bản xã (có bút phê). Ông học rộng, nhớ nhiều, sở trường về thơ. Trong số được mệnh danh là “An Nam ngũ tuyệt” thì ông và người cháu là Nam Thúc đã chiếm hai ngôi rồi. Khi ở Huế những lúc rãnh việc công , ông thường tập hợp văn sĩ và học trò như Trương Đăng Quế, Nguyễn Đăng Giai, phần lớn là các danh thần. Tác phẩm của ông có Thanh Hiên tiền hậu tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lụcLê Quý kỷ sự (?) (bắt đầu từ năm Đinh Dậu niên hiệu Cảnh Hưng(1777) kết thúc năm Chiêu Thống Kỷ Dậu (1789) trước sau 13 năm). Về những kiệt tác bằng Quốc âm thì đây đó có lưu truyền, nhưng Đoạn trường tân thanh thì được khắp nước truyền tụng. Còn đến như cầm , kỳ, thư, họa… không món nào không tinh diệu. Lại thông binh pháp, giỏi võ nghệ, tính người khiêm tốn, tuy ở ngôi vị á khanh nhưng thanh bạch như hàn sĩ. Nhân hoàng đế khi duyệt thơ văn của ông, thấy trong tập thơ Bắc sứ có bài đề Hoài Âm hầu từ có câu : “Thối thực, giãi y nan bội đức. Tàng cung, phanh cẩu diệc cam tâm” thường khen ngợi lòng trung nghĩa , muốn trọng dụng ông nhưng ông đã mất. Nếu như họ Nguyễn người Bắc mà còn thì trẫm phong cho chức Hiệp biện. Quan Lễ bộ Thượng thư Hưng Nhượng hầu thường nói với mọi người rằng: Khó mà có được một người đối với đồng sự thành kính động lòng người đến như thế.

Vợ chính họ Đoàn người Quỳnh Côi, Hải An (xưa thuộc Sơn Nam, nay thuộc Thái Bình) là con thứ sáu của Đoàn công, Hoàng giáp Phó Đô ngự sử Quỳnh Châu bá, bà sinh con trai tên Tứ tự là Hạo Như có văn học. Năm Quý Dậu (1813) , bà theo ông đi sứ phương Bắc, về nước được vài năm bị bệnh mất; bà sinh được một gái , gã cho Tú tài Ngô Cảnh Trân , người ở Trảo Nha, Thạch Hà.

Nguyễn Thị Thanh Xuân (dịch)
(Tài liệu lưu trữ tại Viện Hán Nôm)

xem tiếp

Nguyễn Du trăng huyền thoại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-trang-huyen-thoai/

NGUYỄN DU NIÊN BIỂU LUẬN
Hoàng Kim


Nguyễn Du những sự thật mới biết soi sáng nhiều góc khuất lịch sử. Với những phát hiện mới về cuộc đời và thời thế Nguyễn Du được chính ông dùng nhân cách và kiệt tác của mình để trao lại ngọc quý cho đời,

Di sản thế giới tại Việt Nam https://hoangkimlong.wordpress.com/category/di-san-the-gioi-tai-viet-nam/ Di sản thứ 21 là MỘC BẢN TRIỀU NGUYỄN là di sản tư liệu của Việt Nam được Uỷ ban tư vấn quốc tế (IAC) thuộc UNESCO công nhận là di sản tư liệu thế giới vào ngày 31/7/2009. Đây là một loại hình tài liệu đặc biệt quý hiếm không chỉ ở Việt Nam mà còn hiếm có trên toàn thế giới. Mộc bản triều Nguyễn là những văn bản chữ Hán – Nôm được khắc trên gỗ để in các loại sách lưu hành tại Việt Nam vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Mộc bản triều Nguyễn hiện còn lưu giữ được 34.619 tấm trong đó bao gồm cả những ván khắc in thu được ở Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội đưvào Huế lưu trữ. Tài liệu được khắc trên mộc bản rất tinh xảo và sắc nét với nội dung ghi lại các sự kiện lịch sử, các cuộc tiểu trừ giặc giã, công danh sự nghiệp của các bậc quân vương. Đồng thời nhân bản các bộ luật, các quy định về chuẩn mực xã hội để phổ biến bắt buộc mọi thần dân phải tuân thủ. Tất cả các bản thảo nói trên đều phải qua sự ngự lãm và phê duyệt bằng bút tích của Hoàng đế trước khi chuyển giao cho những nghệ nhân tài hoa trong ngự xưởng của cung đình khắc lên các loại gỗ quý như gỗ thị, nha đồng… Tài liệu Mộc bản triều Nguyễn là những bản khắc in các tác phẩm chính văn, chính sử được hình thành trong quá trình hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước và cuộc đời, hoạt động của những nhân vật lịch sử có ảnh hưởng lớn tới những biến cố xã hội cũng như tiến trình lịch sử của một dân tộc, của một đất nước. Hiện nay những tài liệu này rất hiếm có trên thế giới. Nó đặc biệt có giá trị trong việc nghiên cứu lịch sử văn hóa Việt Nam nói riêng và thể giới nói chung.

*

Bản đồ Hình thể đàng Trong đàng Ngoài năm 1760, khối hồ sơ chính biên của triều Nguyễn và Bang giao hảo thoại. Tài liệu nghiên cứu lịch sử này góp phần vén bức màn sự thật thời Tây Sơn. Tài liệu này cũng thêm tư liệu tương quan để thấu hiểu Bí mật kho báu trên đỉnh Tuyết Sơn, không chỉ giúp tư liệu đánh giá ba vấn đề lớn tồn nghi trong lịch sử: 1) Ngoại giao thời vua Càn Long với nhà Tây Sơn. 2) Lý Tự Thành và kho báu nhà Minh. 3) Vì sao Trung Quốc quyết không cho Tây Tạng tự trị?

(Bản đồ Hình thể Đại Việt đàng Trong đàng Ngoài năm 1760 (ảnh 1) khối hồ sơ chính biên của triều Nguyễn và Bang giao hảo thoại tiết lộ tài liệu chiếu vua Càn Long gửi Tôn Sĩ Nghị (ảnh 2) và Lê Chiêu Thống đón quân Thanh (ảnh 3)

CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter