Những trang văn thắp lửa

Những trang văn thắp lửa
VIẾNG MỘ CHA MẸ
Hoàng Trung Trực

“Dưới lớp đất này là mẹ là cha
Là khởi phát đời con từ bé bỏng
Là lời mẹ ru dịu dàng cánh võng
Là gươm đao cha một thuở đau đời.

Hành trang cho con đi bốn phương trời
Là nghĩa khí của cha, là nhân từ của mẹ
Vẫn bầu sữa tinh thần không ngừng không nghỉ
Để hành trang cho con đi tiếp cuộc đời

Cuộc đời con bươn chải bốn phương trời
Nay về lại nơi cội nguồn sinh trưởng
Dâng nén hương mà lòng hồi hồi tưởng
Thuở thiếu thời trong lồng cánh mẹ cha

“Ước hẹn anh em một lời nguyền
Thù nhà đâu sá kể truân chiên
Bao giờ đền được ơn trung hiếu
Suối vàng nhắm mắt mới nằm yên” (6)

“Không vì danh lợi đua chen
Công Cha nghĩa Mẹ quyết rèn bản thân !”

Bài thơ Viên đá Thời gian

BÀI THƠ VIÊN ĐÁ THỜI GIAN
Hoàng Kim


Tôi xin phép anh Phan Chí Thắng lưu ảnh hai cụ thân sinh của anh và bài thơ của Cụ Ông viết cho Cụ Bà thuở xưa. Ngắm ảnh hai Cụ, linh cảm tôi nhớ lời Bác Hồ lưu tại đầu sách “Bông sen vàng” mà nhà văn Sơn Tùng đã chọn làm đề dẫn :”Từng giọt nước nhỏ thấm vào lòng đất chảy về một hướng mới thành suối thành sông. Biết bao nhiêu giọt nước nhỏ hợp lại mới thành biển cả. Một pho tượng hay một lâu đài cũng phải có cái nền đất vững chắc mới đứng vững được. Nhưng người ta dễ nhìn thấy pho tượng và lâu đài mà không chú ý đến cái nền. Như thế là chỉ thấy cái ngọn mà quên mất cái gốc”. (Hồ Chí Minh tuyển tập, tập 2, trang 480). Anh Phan Chí Thắng có văn chương nhiều bài tôi yêu thích, tài tình, hợp tâm trạng, hoàn cảnh của tôi lúc đọc, có sự chứng ngô suy niệm riêng tôi lúc ấy của mỗi ghi chép.. Anh Phan Chí Thắng ba lần từ Hà Nội về thăm chúng tôi tại Trảng Bom Đồng Nai nơi vùng quê. Trong đó, có một lần hai anh em chúng tôi đã đi xe đò tìm về thăm những người bạn ở góc khuất Đức Linh. Tôi chép lại dưới đây “Bài thơ viên đá thời gian” và nối vần thơ anh Phan Chí Thắng: Hình như gặp lại mới hương / Ngựa già máng cỏ nhớ đường cỏ hoa / Ta tìm gặp bạn đường xa/ Tưởng là thăm bạn hóa ra thăm mình/ Đêm dài xòe một bình minh / Hoa Người Hoa Đất Ân tình Sớm Thu. Văn chương Ngọc cho đời. Tôi tin anh Thắng lưu lại được những điều tâm đắc. Dưới đây là đôi điều lắng đọng https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bai-tho-vien-da-thoi-gian/

Phan Chi

41 phút 4 8 2022 ·

Một khi ai đó sống thiếu cái tâm nhân ái, tệ nữa là vô trách nhiệm, tệ hơn nữa là độc ác hại người thì người đó luôn vin vào quy trình, quy định và bất cứ thứ gì có thể vin vào.

Người giám thị coi thi thấy thí sinh ngủ gật mà không đánh thức, biện minh là làm đúng quy định, không những thế còn là tôn trọng quyền tự do con người (!!!) làm cháu bị 0 điểm môn Anh văn.

Có nhiều thứ luật pháp không/ chưa quy định nhưng nhiều người vẫn làm theo lệnh của trái tim nhân hậu. Cháu bé 16 tuổi lao xuống sông cứu người đuối nước. Nếu thờ ơ vô cảm, cháu hoàn toàn có thể bỏ đi, dại gì mang nguy cơ vào thân, vì cháu chỉ là đứa trẻ vị thành niên, vì không có quy định nào buộc cháu phải nhảy xuống sông cứu người. Chả ai trách được cháu. Nhưng cháu đã tự đặt mình đối diện với lương tâm của chính mình.

Vụ cháu bé bị ô tô gây tai nạn dẫn đến tử vong ở Ninh Thuận không còn là chuyện thờ ơ tắc trách mà là có biểu hiện cố tình làm sai lệch hồ sơ vụ án. Bệnh viện tỉnh làm xét nghiệm máu của nạn nhân, đưa ra con số có nồng độ cồn trong máu cô bé nữ sinh chưa bao giờ bia rượu. Gia đình, mạng xã hội phản đối, liền có người giải thích là cồn tự sinh trong cơ thể nếu ăn sữa chua, trái cây!

Họ muốn giảm tội cho kẻ gây tai nạn một cách trơ tráo lộ liễu phi lý, cuối cùng đành nhận là do kỹ thuật viên xét nghiệm máu làm sai!

Thờ ơ – tắc trách – giả dối – lừa đảo – phạm pháp. Đó là chuỗi phát triển theo chiều hướng xấu (tự diễn biến) trong xã hội hiện nay.

Hôm rồi Thủ tướng đi thăm Gang Thép Thái Nguyên. Ông rất bức xúc khi nhìn tận mắt 4.400 tỷ đồng tiền của dân nay thành đống sắt vụn.

Thưa Thủ tướng, tôi quen biết nhiều người trong cái dự án Gang Thép đó. Tôi không chỉ bức xúc, tôi khóc vì họ phá tiền ngàn tỷ dễ như thò tay lấy kẹo trong túi.

Pháp luật luôn đi sau đời sống xã hội. Độ trễ đó phải được phủ đầy bởi lương tri, đạo lý và nhân phẩm. Tiếc là mấy thứ đó ngày càng hiếm.

NHỚ BẠN
Hoàng Trung Trực

Ngỡ như bạn vẫn đâu đây
Khói hương bảng lãng đất này bình yên
Tình đời đâu dễ nguôi quên

Những dòng máu thắm viết nên sử vàng

Trời xanh mây trắng thu sang
Mình ta đứng giữa nghĩa trang ban chiều
Nhớ bao đồng đội thương yêu
Đã nằm lòng đất thấm nhiều máu xương

Xông pha trên các chiến trường
Chiều nay ta đến thắp hương bạn mình

MẢNH ĐẠN TRONG NGƯỜI
Hoàng Trung Trực


Bao nhiêu mảnh đạn gắp rồi
Vẫn còn một mảnh trong người lạ thay
Nắng mưa qua bấy nhiêu ngày
Nó nằm trong tuỹ xương này lặng câm…

Thời khói lửa đã lui dần
Tấm huân chương cũng đã dần nhạt phai
Chiến trường thay đổi sớm mai
Việt Nam nở rộ tượng đài vinh quang.

Thẳng hàng bia mộ nghĩa trang
Tên đồng đội với thời gian nhạt nhoà
Muốn nguôi quên lãng xót xa
Hát cùng dân tộc bài ca thanh bình

Thế nhưng trong tuỷ xương mình
Vẫn còn mảnh đạn cố tình vẹn nguyên
Nằm hoài nó chẳng nguôi quên
Những ngày trở tiết những đêm chuyển mùa

Đã qua điều trị ngày xưa
Nó chai lỳ với nắng mưa tháng ngày
Hoà bình đất nước đổi thay
Đêm dài thức trắng, đau này buồn ghê

Khi lên bàn tiệc hả hê
Người đời uống cả lời thề chiến tranh
Mới hay cuộc sống yên lành
Vẫn còn mảnh đạn hoành hành đời ta.

BỀN CHÍ
Hoàng Trung Trực

Chỉ có chí mới giúp ta đứng vững
Và dòng thơ vực ta dậy làm người
Giờ ta hiểu vì sao Đặng Dung mài kiếm
Thơ “Thuật hoài” đau cảnh trần ai.

Cụ Nguyễn Du vì sao nén thở dài
Quan san cả trong lòng người áo gầm
Lầu Ngưng Bích vì đâu Kiều xế bóng
Khúc “Đoạn trường” dậy sóng nhớ lòng ai

Phạm Ngũ Lão sớm xuất chúng hơn người
Vì sao thành một hiền nhân trầm mặc
Ai chộn rộn đi kiếm tìm quyền lực
Để đời Ức Trai phải chịu án Lệ Chi Viên

Thương Nguyễn kim nặng lòng tri kỷ
Xoay cơ trời tạo lại nghiệp nhà Lê
Giữa sa trường phải chịu thác mưu gian
Gương trung liệt dám quên mình vì nước

Ơn Trạng Trình nhìn sâu thế nước
Miền Đằng Trong hiến kế Nguyễn Hoàng
Hoành Linh Lũy Thầy dựng nghiệp phương Nam
Đào Duy Từ người Thầy nhà Nguyễn

Sông núi này mỏi mòn cố quận
Hạnh Phúc là gì mà ta chưa hay
Ta đọc Kiều thương hàn sĩ đời nay
Còn lận đận giữa mênh mang trời đất.

Ta an viên vợ con, em trai Thầy học
Anh trai ta lưu ‘Khát vọng” ở đời
Chỉ có chí cùng niềm tin chân thật
Và dòng thơ vực ta dậy làm người

TRÒ CHUYỆN VỚI THIỀN SƯ
Hoàng Trung Trực

Vất bỏ ngoài tai mọi chuyện đời
Lòng không vướng bận dạ an thôi
Ráng vun đạo đức tròn nhân nghĩa
Huệ trí bùng khai tỏa sáng ngời

Lòng lộng đêm nghe tiếng mõ kinh
Bao nhiêu ham muốn bỗng an bình
Tâm tư trãi rộng ngàn thương mến
Mong cả nhân loài giữ đức tin.

Thượng Đế kỳ ba gíáo đô đời
Vô minh cố chấp tại con người
Thánh Tiên tùy hạnh tùy công đức
Ngôi vị thiêng liêng tạo bởi Người.

Vững trụ đức tin đạo chí thành
Vô cầu vô niệm bả công danh
Sớm hôm tu luyện rèn thân chí
Đạo cốt tình thương đức mới thành

TRẠNG TRÌNH
Hoàng Trung Trực

Hiền nhân tiền bối xưa nay
Xem thường danh vọng chẳng say tham tiền
Chẳng màng quan chức uy quyền
Không hề nghĩ đến thuyết truyền duy tâm
Đức hiền lưu giữ ngàn năm
Vì Dân vì Nước khó khăn chẳng sờn
Hoàn thành sứ mạng giang sơn
Lui về ở ẩn sáng thơm muôn đời
Tầm nhìn hơn hẳn bao người
Trở thành Sấm Trạng thức thời gương soi.

(*) ‘Trò chuyện với Thiền sư’ là tâm sự của Hoàng Trung Trực với thầy Thích Giác Tâm là vị cao tăng trụ trì ở chùa Bửu Minh, Biển Hồ ‘mắt ngọc Tây Nguyên” Pleiku – Gia Lai, nơi điểm nhấn của dòng sông Sê San huyền thoại, một trong các chi lưu chính của sông Mekong bắt nguồn từ núi Ngọc Linh và Chư Yang Sin nổi tiếng Tây Nguyên, Việt Nam. Bửu Minh (www.chuabuuminh.vn) là ngôi chùa cổ, một trong những địa chỉ văn hóa gốc của Tây Nguyên. Về nơi tịch lặng thơ Thượng tọa Thích Giác Tâm trích dẫn từ nguồn “Đạo Phật ngày nayhttp://www.daophatngaynay.com/vn/van-hoc/tho/15739-ve-noi-tich-lang.html

Về nơi tịch lặng
Thích Giác Tâm

Kính tặng quý thiện hữu cùng một trăn trở, ưu tư cho Đạo Pháp .

Ta rất muốn đi về trong tịch lặng.
Quẳng lại sau lưng nhân thế muộn phiền.
Lòng thao thức Đạo Đời luôn vướng nặng.
Mũ ni che tai, tâm lại hóa bình yên.

Đời chộn rộn sao còn  theo chộn rộn?
Đạo hưng suy ta mất ngủ bao lần.
Đời giả huyễn thịnh suy luôn bề bộn.
Đạo mất còn ta cứ mãi trầm ngâm.

Vai này gánh  cho vai kia nhẹ bớt.
Tìm tri âm ta nặng bước âm thầm.
Sợi tóc bạc trên đầu còn non nớt.
Tháng năm nào ta thấy lại nguồn tâm ?

Gia Lai 10-09-2014

(**) “Đến chốn thung dung”  là thơ Hoàng Kim, nhà khoa học xanh người thầy chiến sĩ quê Quảng Bình, em của Hoàng Trung Trực,

Đến chốn thung dung
Hoàng Kim

Người rất muốn đi về trong tịch lặng
Quẳng lại sau lưng nhân thế muộn phiền
Ta đến chốn thung dung tìm hoa lúa
Rong chơi đường trần, sống giữa thiên nhiên.

Tâm thanh thản buồn vui cùng nhân thế
Đời Đạo thịnh suy sương sớm đầu cành
Lòng hiền dịu và trái tim nhẹ nhõm
Kho báu chính mình phúc hậu an nhiên.

Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt (**)
Trăng rằm xuân lồng lộng bóng tri âm
Người tri kỷ cùng ta và năm tháng.
Giác Tâm: Ta về còn trọn niềm tin.

Nỗi đau nghiệt ngã vô hình
Nhận tin Mẹ mất nội tình cách phân
Công ơn Mẫu tử tình thâm
Căn bệnh đã cướp Mẫu thân mất rồi
Còn đâu bóng dáng hình Người
Đất trời nghiêng ngữa hại đời ta đây
Nỗi lòng đau khổ khôn khuây
Mẹ hiền ơi phút giờ này còn đâu
Lòng buồn tê tái đêm thâu
Trần gian đâu nữa Mẹ hiền, Cha ơi

Buồn thương Cha nỗi nhớ Người
Tình thương Cha Mẹ, trên đời còn Cha 

Con không khóc chỉ nhớ nhà
Trăm lần thương Mẹ xót xa phận mình
Làm người lính chiến tử sinh
Chiến tranh tàn khốc dứt tình Mẹ Cha
Tang thương đến không về nhà
Cuộc đời người lính vẫn là chiến tranh
Máu bạn đổ tiếp bên anh
Xác xương vùi dập trời xanh phủ rừng
Núi đồi che ấm thân lưng
Nhóm lên ngọn lửa bập bùng Trường Sơn.

DẤU CHÂN NGƯỜI LÍNH
Hoàng Trung Trực
    
Cuộc đời và thời thế


Năm Thân con khóc chào đời
Sức sống sữa Mẹ suốt đời tình thương
Nước nhà gặp cảnh tai ương
Việt Nam là bãi chiến trường giao tranh
 Pháp Nhật Tàu tới hoành  hành
Chạy giặc Cha Mẹ phải đành lánh thân
Người dân khổ cực muôn phần
Nước nhà chiến sự, nghèo bần Mẹ Cha
Trường Sơn rừng núi là nhà
Rừng thiêng nước độc, ta ra chẳng thời *

(*) Ernest Hemingway (1899-1961), tác giả của kiệt tác Ông già và biển cả, Giã từ vũ khí, là một cựu quân nhân, sống trãi gần trọn đời trong chiến tranh và nghèo đói của chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai, nên ông đã mô tả người như ông là thế hệ cầm súng, không hề được tận hưởng chất lượng cuộc sống, là “Thế hệ bỏ đi” (Lost Generation) của cộng đồng người Paris xa xứ; xem Borlaug và Hemingway
                                 
Tuổi thơ trong nghèo đói


Ai quyền sống được làm người
Mà dân mất nước gặp thời chua cay?
Đời Cha sự nghiệp đổi thay
Lính Tây ngày trước, thời này đánh Tây

Ru ta lời Mẹ đêm ngày
Vọng theo hồn Nước tháng ngày bên Cha
Cha thì chiến đấu đường xa
Mẹ con chạy giặc, cửa nhà thì không
Nỗi niềm cuộc sống đau lòng
Bão mưa tàn phá, gió lồng không ngơi.

Gia đình nhiều nguy nan

Mẹ ta dãi nắng dầm mưa
Lo cho con có cháo dưa học hành
Giữa rừng số phận mong manh
Mẹ phải chịu bệnh hoành hành héo hon
Đời Mẹ chung thủy sắt son
Đời Cha lính chiến tuổi xuân đọa đày
Lời thề nguyên bản xưa nay
Đã là người lính không lay lòng vàng
Bệnh về chẳng chút thở than
Bao nhiêu mầm bệnh Cha mang theo về

Mẹ Cha bao gian khổ

Bệnh sốt rét thật là ghê
Gan lách phù thủng trăm bề hại Cha
Chiến tranh tan cửa nát nhà
Mình Cha xoay xở thật là gian nan
Phận con rau cháo cơ hàn
Tuổi thơ năm tháng bần hàn Mẹ Cha
Tháng ngày khoai muối dưa cà
Đời còn Cha Mẹ đậm đà tình thương
Tình Cha Mẹ, nghĩa Nước Non
Tháng ngày chăm chút vuông tròn hiếu trung.

Tuổi xuân vui lên đường

Lên đường theo lệnh tòng quân

Xa nhà nỗi nhớ bội phần từ đây
Mẹ khóc nước mắt tuôn đầy
Lo con gian khổ cuộc đời chiến binh
Cha không khóc chỉ làm thinh
Tiễn con tựa cửa lặng nhìn theo con

Vần xoay sự nghiệp vuông tròn
Dấu chân Cha trước, nay con theo Người
Gẫm suy mới rõ thế thời
Hoàng Trung Trực đã thành người chiến binh.

Giải phóng nước bạn Lào
(10/1963- 5/1965)


Đất Hương Khê , núi Quảng Bình
Vượt Trường Sơn vắt sức mình kiệt hao
Núi Phú Riềng, đất Lạc Xao
Nơi này ghi dấu chiến hào binh ta
Đời nhọc nhằn, thân xót xa

Trĩu vai súng đạn, gạo là quanh lưng        
Vượt bao đèo dốc  hành quân
Liên hồi tác chiến, máu dầm mồ hôi
Lại thêm sốt rét từng hồi
Thuốc men chẳng có, tháng trời toàn măng
Chia nhau chén cháo cứu thân
Trên bom, dưới đạn, ngủ hầm, tình thâm.

Nhớ người thân đã khuất

Đêm trường thân lại xông pha
Theo chân thủ trưởng vào ra trận thù
Đạn giặc đan chéo như mưa
Đôi chân thủ trưởng đạn cưa mất rối
Trong ta tỉnh thức tình người
Cõng ngay thủ trưởng xuôi đồi chạy lui
Đêm rừng trời lại tối thui
Lạc mất phương hướng tới lui tìm đường
Quay đầu hỏi ý tình thương
Mới hay thủ trưởng tìm đường đi xa


Không hơi thở một xác ma
Làm ta thực sự xót xa một mình

Người thấm mệt, phút tử sinh
Giữa rừng im ắng lặng thinh không người 
Chỉ nghe tiếng thú quanh đồi

Làm cho ớn lạnh khắp người của ta
Song vì cái đói không tha
Cho nên khiếp sợ theo đà mất tiêu
Trãi qua những phút hiểm nghèo
Vác xác thủ trưởng cố leo tìm đường.

Giữa rừng núi, không người thương
Còn đâu phương hướng, tai ương không người
Một tâm hồn một cuộc đời
Không gạo không lửa, giữa trời rừng xanh
Một mình tính mạng mong manh
Tình thương người lính giúp anh chí bền
Năm ngày thủ trưởng vẫn nguyên
Tìm ra đơn vị bình yên lòng mình.

Tin Mẹ mất giữa chiến trường

Nỗi đau nghiệt ngã vô hình
Nhận tin Mẹ mất nội tình cách phân
Công ơn Mẫu tử tình thâm
Căn bệnh đã cướp Mẫu thân mất rồi
Còn đâu bóng dáng hình Người
Đất trời nghiêng ngữa hại đời ta đây
Nỗi lòng đau khổ khôn khuây
Mẹ hiền ơi phút giờ này còn đâu
Lòng buồn tê tái đêm thâu
Trần gian đâu nữa Mẹ hiền, Cha ơi

Buồn thương Cha nỗi nhớ Người
Tình thương Cha Mẹ, trên đời còn Cha 

Con không khóc chỉ nhớ nhà
Trăm lần thương Mẹ xót xa phận mình
Làm người lính chiến tử sinh
Chiến tranh tàn khốc dứt tình Mẹ Cha
Tang thương đến không về nhà
Cuộc đời người lính vẫn là chiến tranh
Máu bạn đổ tiếp bên anh
Xác xương vùi dập trời xanh phủ rừng
Núi đồi che ấm thân lưng
Nhóm lên ngọn lửa bập bùng Trường Sơn.

(xem tiếp chuỗi chiến dịch và sự kiện chính …)

.MỘT SỐ CÁC GHI CHÚ

Hai anh em gặp nhau giữa Sài Gòn giải phóng (Hoàng Trung Trực sư 341, Hoàng Kim sư 325B)

Gia đình tôi trong ngày viếng bác Giáp

Từ Khát vọng đến CNM365

NGUYỄN HUY THIỆP LẮNG ĐỌNG
Bạch Ngọc Hoàng Kim


Giăng lưới bắt chim1
Mưa Nhã Nam 2
Kiếm Sắc3
Những Ngọn Gió Hua Tát4
Phẩm tiết 5;
Tướng về hưu 6
Con gái thủy thần 7

Văn hay lời kiệm chữ
Sử giỏi đời cần lao
.

Bóng hạc chốn xa xôi 8
Những trang văn thắp lửa9
Ngày Quốc tế Hạnh phúc
Chim Phượng về làm tổ

Tôi tuyển chọn Nguyễn Huy Thiệp lắng đọng bảy truyện ngắn ưa thích (1-7) và lắng lòng mình trong hai tản văn Bóng hạc chốn xa xôi 8 Những trang văn thắp lửa9 để thấm thía rằng may mắn văn chương là mạch tâm linh có thật Văn hay lời kiệm chữ Sử giỏi đời cần lao.Ngày Quốc tế Hạnh phúc Chim Phượng về làm tổ , với gia đình tôi là thật sự may mắn; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-huy-thiep-lang-dong. Thông tin tích hợp tại #cnm365 #cltvn 20 tháng 3 https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-20-thang-3/#Thungdung#dayvahoc, #vietnamhoc#cnm365#cltvn; #đẹpvàhay

Nguyễn Huy Thiệp sinh ngày 29 tháng 4 năm 1950 tại Thái Nguyên, mất ngày 20 tháng 3 năm 2021 tại Hà Nội thọ 72 tuổi. Ông là nhà văn Việt Nam đương đại, về truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch với những góc nhìn mới, táo bạo. Ông xuất hiện khá muộn trên văn đàn (1986) nhưng được coi là người đạt đỉnh cao nghệ thuật của truyện ngắn với các tác phẩm nổi bật Giăng lưới bắt chim, Mưa Nhã Nam, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Những ngọn gió Hua Tat, Tướng về hưu, Thời của tiểu thuyết, Tuổi 20 yêu dấu, Những người thợ xẻ, Chảy đi sông ơi, Con gái thủy thần, …. Câu nói ấn tượng ám ảnh nhất , bài học sâu sắc nhất của chính anh “đậy nắp quan tài đình luận”. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nói (trên trang Văn hóa Nghệ An): “Nhà văn là người biết sống trung dung, phong lưu, tri túc, “cầm kỳ thi họa đủ mùi ca ngâm”. Không dễ gì tổ chức được một cuộc đời như thế. Rất khó, khó nhất không phải chỉ là tiền bạc, cũng khó nhất không phải chỉ là tri thức, mà khó nhất lại là đạo đức! Các cụ ngày xưa nói “có đức mặc sức mà ăn” là vô cùng sâu sắc, vô cùng tế nhị.  Ngày xưa có đạo hơn, con người sống giản dị nên ít bệnh. Bây giờ đuổi theo vật chất, vô đạo. Tôi là một trong những ca điển hình. Mình phải trả giá. Ngày xưa sống thanh đạm, gần đạo hơn, nét mặt vô tâm thư giãn chứ không cố ý thư giãn”.

1

Bạn ưa nhất văn chương anh Thiệp cuốn nào? Tôi thì chọn đầu tiên là Giăng lưới bắt chim, Văn hay lời kiệm chữ, sách này đúng ra phải là Huyền Quang, giăng lưới bắt chim. Chuyện về sư Huyền Quang. Người giăng lưới bắt chim là vua Trần Anh Tông và Trạng nguyên Tể tướng Mạc Đĩnh Chi, Chim là sư Huyền Quang Lý Đạo Tái. Tích truyện cổ có trong Thiền Uyển Tập Anh, một sách Phật học cổ có từ năm 1337, và nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã diễn đạt lại theo lối mới, dường như được rất nhiều người đồng tình, vì lối diễn đạt đúng (tôi xin được chép lại) như sau:

Giăng lưới bắt chim
Nguyễn Huy Thiệp

Chương 1

“…Thiền phái Trúc Lâm có ba Thiền sư kiệt xuất là Nhân Tông (Trúc Lâm Đầu Đà), Pháp Loa và Huyền Quang. Thiền phái này được xem là tiếp nối của dòng Yên Tử, dòng Yên Tử lại là sự hợp nhất của ba dòng thiền Việt Nam của thế kỉ thứ 12 – đó là dòng Thảo Đường, Vô Ngôn Thông và Tì-ni-đa-lưu-chi.

Thiền phái Trúc Lâm được xem là dạng Phật giáo chính thức của Đại Việt thời đó nên có liên quan mật thiết đến triều đại nhà Trần, phải chịu một hoàn cảnh mai một sau khi triều đại này suy tàn. Vì vậy, sau ba vị Tổ nói trên, hệ thống truyền thừa của phái này không còn rõ ràng, nhưng có lẽ không bị gián đoạn bởi vì đến thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh (1600- 1700), người ta lại thấy xuất hiện những vị Thiền sư của Trúc Lâm Yên Tử như Viên Cảnh Lục Hồ, Viên Khoan Đại Thâm và nổi bật nhất là Thiền sư Minh Châu Hương Hải (theo Nguyễn Hiền Đức).

Sau một thời gian ẩn dật, dòng Thiền này sản sinh ra một vị Thiền sư xuất sắc là Hương Hải, người đã phục hưng tông phong Trúc Lâm. Trong thế kỷ thứ 17-18, thiền phái này được hoà nhập vào tông Lâm Tế từ Trung Hoa và vị Thiền sư xuất sắc cuối cùng là Chân Nguyên Huệ Đăng….”

Khi mới xuất hiện, những sáng tác của Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã gây nên một cuộc tranh luận văn học sôi nổi. Văn phong và cách sáng tác từ trực giác của Tác giả rất lôi cuốn người đọc.

*

Sư Huyền Quang, vị tổ thứ ba của phái Trúc Lâm trước khi xuất gia là một Trạng nguyên, đã từng từ hôn công chúa Liễu Sinh. Vua Trần Anh Tông nói với quần thần:

– Người ta sống ở trong trời đất, mang khí âm, ôm khí dương, ăn thích vị ngon, mặc thích màu đẹp, đều có tình dục như thế. Đấy là lẽ thường. Chúng ta ngăn hãm một phía ham muốn ấy lại chính là để dốc lòng phụng đạo, đó là đành đi một lẽ. Riêng Huyền Quang sắc sắc không không, vậy đó là người ngăn hãm lòng dục hay là không có lòng dục?

Mạc Đĩnh Chi nói:

– Vẽ hổ chỉ vẽ được da, không vẽ được xương. Biết người chỉ biết mặt, ít biết được lòng. Vậy xin cho người thử xem.

Vua Trần Anh Tông nghe lời Mạc Đĩnh Chi, cử một nữ gián điệp xuân sắc mê hồn là nàng Thị Điểm Bích tìm đến Yên Tử để thử Huyền Quang theo kế giăng lưới bắt chim …

Huyền Quang, tên thật là gì không rõ, trong sử ghi là Lý Đạo Tái. Ông người làng Vạn Tải, huyện Gia Bình, xứ Kinh Bắc (nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Từ nhỏ nổi tiếng thần đồng, nghe một hiểu mười, nên người ta mới mệnh danh là Đạo Tái. Có sách chép Lý Đạo Tái đỗ Trạng nguyên khoa Nhâm Tý (1252) đời vua Trần Thánh Tông, lúc này mới 23 tuổi. Trong dân gian kể rằng nhà Lý Đạo Tái nghèo, không có đất cắm dùi. Khi còn hàn vi, Lý Đạo Tái từng hứa hôn với một cô gái nhưng về sau bị từ hôn, cô gái đi lấy một người nhà giàu. Cuộc nhân duyên lần thứ hai cũng thế. Chán nản, Lý Đạo Tái chuyên vào mỗi chuyện học hành rồi đỗ Trạng nguyên. Khi ấy, nhiều người đến manh mối hôn nhân nhưng ông đều từ chối, kể đến cả công chúa con vua. Nghe đồn Lý Đạo Tái đã từng ngán ngẩm than rằng:

Khó khăn thì chẳng ai nhìn

Đến khi đỗ Trạng tám nghìn nhân duyên!

Lý Đạo Tái theo đường hoạn lộ, nhiều lần đứng ra tiếp sứ thần Trung Hoa. Về sau, ông được sư Pháp Loa giác ngộ bèn xuất gia tu hành.

Sư Pháp Loa (tức Đồng Kiên Cường) là vị tổ thứ hai môn phái Trúc Lâm, đã theo vua Trần Nhân Tông khi người xuất gia ở núi Yên Tử. Vua Trần Nhân Tông, lấy pháp danh là Điểu Ngự trước khi viên tịch đã truyền y bát lại cho sư Pháp Loa, nay sư Pháp Loa giác ngộ và truyền y bát lại cho Lý Đạo Tái với pháp danh là Huyền Quang.

Huyền Quang là người có căn tu thế nào? Tại sao Huyền Quang lại trở thành vị sư tổ thứ ba trong phái Trúc Lâm, một môn phái Phật giáo có ảnh hưởng rất lớn đến thế giới tâm linh của người Việt Nam?

Bài thơ Cúc hoa của Huyền Quang nói tâm sự của một người tu đạo ở trong núi, ngắm hoa mới sực biết thời gian trôi đi:

Vong thân, vong thế dĩ đô vong

Tọa cửa tiên nhiên nhất tháp lương

Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật

Cúc hoa khai xứ nhất trùng dương.

Một người quên mình (vong thân ), quên đời (vong thế ) ngồi mãi trong rừng sâu không có lịch, không biết năm hết Tết đến, thấy hoa cúc nở mới đoán là đã đến Tết trùng dương! Vì sao người này lại ngắm hoa cúc mà không đi ngắm hoa khác?

Chủ nhân dữ vật hồng vô cảnh

Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu

(Lòng người và cảnh vật vốn không xung khắc

So sánh với muôn hoa, thì cúc đứng đầu )

Theo ý tứ bài thơ thì thấy Huyền Quang không phải là người không có thiên vị, không có tình ý riêng! Cũng trong bài thơ Cúc hoa này, Huyền Quang đã có một nhận xét rất sâu sắc: Nghĩa khí bất đồng nan cẩu hợp (Nghĩa khí mà khác nhau thì khó mà hòa hợp ). Đạo Phật thường lưu tâm người ta ở hai chữ nhân duyên. Huyền Quang cũng giống mọi người, không phải là lòng dạ sắt đá gì, không phải là người không hiểu biết về lẽ nhân duyên. Trong một bài thơ khác nữa tên là Sơn vũ (Nhà trong núi) tâm tình Huyền Quang phảng phất bâng khuâng:

Thu phong ngọ dạ phật thiềm nha

Sơn vũ tiên nhiên chầm lục la

Dĩ hí thành thiền tâm nhất phiến

Cùng thanh tức tức vị thuỳ đa

(Đêm khuya, gió thu xao xác ngoài mái hiên

Nhà trong núi đìu hiu giữa lùm cây xanh

Tấm lòng tu hành từ lâu đã hóa theo Phật

Tiếng dế vì ai mà kêu rầu rĩ mãi? )

Phái Trúc Lâm là phái có nhiều đệ tử tri thức nhất, học thức nhất, danh giá nhất ở nước ta. Huyền Quang được trao y bát, trở thành sư tổ của phái này thì căn tu, công lực đại thành của Huyền Quang ắt hẳn xuất chúng.

Làm sáng tỏ Phật tính là một mệnh đề cơ bản trong Kinh Niết bàn. Việc vua Trần Anh Tông cho Điểm Bích đi thử lòng Huyền Quang cũng có thể coi là một công án nhằm làm sáng tỏ Phật tính ở vị đại sư này vậy.

Ngày xưa, có người băn khoăn về pháp môn Bất nhị của Phật pháp đã từng thỉnh vấn Đức Phật: Những người phạm tội tà dâm, giết người, trộm cướp v.v… liệu có mất hết thiện căn Phật tính hay không? Đức Phật đáp: Thiện căn có hạng thường và hạng vô thường. Phật tính chẳng thường mà cũng chẳng vô thường, cho nên không đứt đoạn, gọi là pháp Bất nhị . Một hạng thiện, một hạng bất thiện, gọi là pháp Bất nhị. Uẩn và Giới kẻ phàm cho là hai nhưng bậc trí giả thì hiểu rõ tính của nó không phải là hai. Tính không hai đó (Vô nhị chi tính ) tức là Phật tính.

Theo cách giải thích trên có thể hiểu rằng người ngu kẻ trí Phật tính vốn không khác nhau, chỉ vì mê và tỉnh không giống nhau nên mới có kẻ ngu và trí mà thôi.

Trở lại việc vua Trần Anh Tông cho Điểm Bích đến thử Huyền Quang ở núi Yên Tử thì tưởng như mưu giăng lưới bắt chim là sâu sắc nhưng thực lại là mê vậy. Chuyện rằng Điểm Bích đã dùng nhiều kế nhưng không lay chuyển được Huyền Quang nên nàng bèn về tâu dối vua. Sách Tam tổ thực lục ghi lại lời tâu ấy như sau:

… Tôi vâng chiếu chỉ đi thử thiền sư Huyền Quang. Đến chùa Vân Yên, vào ở nhờ một bà vãi già, tự xưng là con gái nhà dân, xin được theo học đạo tôn sư. Bà vãi già thường sai tôi dâng nước chè lên cho sư. Trải qua hơn một tháng, sư không hề liếc nhìn, hỏi han gì tôi cả. Một hôm nửa đêm, sư lên nhà tụng kinh, đến canh ba, sư và đám tăng ni ai nấy đều về phòng mình mà ngủ. Tôi bèn đến bên cạnh phòng của thiền sư để nghe xem động tĩnh thế nào thì thấy sư ngâm lời kệ rằng:

Vằng vặc giăng mai ánh nước

Hiu hiu gió trúc khua sênh

Người vừa tươi tốt, cảnh vừa lạ

Mâu Thích ca nào chẳng hữu tình.

Sư ngâm đi ngâm lại mãi, tôi bèn vào phòng tăng, từ biệt sư để về thăm cha mẹ, để sang năm sẽ quay lại học đạo. Sư bèn giữ tôi lại ngủ một đêm, rồi cho tôi một dật vàng.

Nhà vua nghe lời Điểm Bích tâu, lòng bực bội không vui. Nghĩ lại, nhà vua tự trách mình:

– Sự việc nếu quả như lời Điểm Bích thì đúng là ta giăng lưới ở tổ bắt chim, chim nào mà không bị hại! Nếu sự việc mà không như thế thì hóa ra ta đã làm hại quốc sư, đẩy ông ta vào mối ngờ vực oan ức! Nếu hiểu rõ pháp Bất nhị của nhà Phật thì việc thử lòng này thật là nhảm quá!

Để sửa lỗi, cũng là để minh oan chiêu tuyết cho Huyền Quang, nhà vua cho mở hội Vô Già ở kinh thành, triệu Huyền Quang về làm lễ. Nhưng trái với tục lệ nhà chùa, hôm bước vào chính lễ, nhà vua cho giết bò và lợn, dọn toàn cỗ mặn.

Huyền Quang bước vào lễ, kêu tên Đức Phật khấn rằng:

– Kẻ đệ tử này có điều gì bất chính, xin chư Phật cho đày xuống A Tì địa ngục, còn nếu không thì xin cho những cỗ mặn kia hóa thành chay tất cả.

Huyền Quang khấn xong, bỗng có gió mạnh nổi lên, trời đất tối sầm. Khi gió tàn, trời sáng, tất cả các mâm cỗ mặn đều biến thành cỗ chay tinh khiết thơm tho. Nhà vua và mọi người thấy Huyền Quang làm phép thông cảm được với trời đất thì đều vô cùng cảm phục, quỳ xuống lạy tạ.

Huyền Quang viên tịch ở tuổi 82. Cho đến ngày nay, dân gian nhiều nơi vẫn kể lại những truyền thuyết trong cuộc đời ông. Có người nói rằng các món cỗ chay làm giống cỗ thường trong ngày lễ tết ở các nhà chùa là từ sự tích này. Nhân ngày Xuân, đọc lại sách Phật ngẫm ra nhiều điều. Trong chúng sinh, căn tính người ta có người sắc bén có người cùn nhụt. Người mê chấp thì phải tu thân, học tập; còn người giác ngộ có thể đột nhiên ứng hợp; chung quy lại để nhằm tự mình nhận thức được bản thân mình, tự mình chứng kiến được bản thân mình, sống hòa hợp cùng tự nhiên với tâm hồn trong sáng.

Phía trước là cuộc sống vẫy gọi! Đấy là tương lai với đầy mơ ước cho tất cả mọi người!

2

Mưa Nhã Nam là truyện ngắn mà tôi thật yêu thích của anh Nguyễn Huy Thiệp công bố năm 2001 Văn hay lời kiệm chữ, sách này đúng ra phải là Đề Thám, mưa Nhã Nam. Chuyện về Hoàng Hoa Thám. Quan Toàn Quyền Pháp vừa trao giải đầu Đề Thám ai giết được ông thưởng 30 ngàn quan tiền vừa thách thức ông bằng cách mời ông về dự tiệc tại dinh công sứ Bắc Giang . Ông Đề Thám đã đi vào hang hùm, và nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã diễn đạt lại sự thật và huyền thoại của câu chuyện ấy (Tôi xin chép lại) như sau:

Mưa Nhã Nam
Nguyễn Huy Thiệp .

Ở Nhã Nam, tháng Tư có mưa.

Tôi sẽ kể chuyện này cho anh, vì anh, anh bạn bởi đến năm mươi tuổi anh sẽ thành ông lão.

Tôi sẽ kể chuyện này cho chị, vì chị, chị bạn ạ, bởi đến bốn mươi tuổi chị sẽ trở thành bà lão.

Tôi sẽ kể chuyện này cho cậu, cậu câm miệng, cậu còn trẻ quá, cậu là thằng ngốc.

Tôi sẽ kể chuyện này cho cô, vì cô sẽ đi lấy chồng. Lúc ấy chỉ toàn những nhọc nhằn thôi, không ai kể chuyện cho cô nghe cả.

Ở Nhã Nam, tháng Tư có mưa. Chuyện thế này…Một câu chuyện nhỏ về Hoàng Hoa Thám.

Tôi không chắc ông Hoàng Hoa Thám, tức Đề Thám, tức Hùm xám Yên Thế trong lịch sử có giống ông Đề Thám mà tôi kể không? Còn ông Đề Thám như tôi biết (tôi biết rõ ông ta): ông ta là một anh hùng, cũng là một người nhu nhược.

Đấy là khoảng năm…, thời kỳ người Pháp giảng hòa với Đề Thám. Vốn hay đùa nhả trong chính trị, người Pháp thỉnh thoảng có mời Đề Thám về Hà Nội hoặc Bắc Giang chơi. Lần ấy, thống sứ Bắc Kỳ là ông Môren thông qua công sứ Bắc Giang có mời Đề Thám đến Bắc Giang dự một buổi tiếp tân.

Cả Dinh dẫn người đưa thư đến gặp Đề Thám.

– Có nên đi không? – Đề Thám hỏi các thủ hạ của mình.

– Đi chứ! – Những người già quả quyết.

Thế đấy, những người già! Với họ chẳng có việc gì là đáng kể. Trước mặt họ là cái chết. Những cơ hội tốt nhất trong đời họ bỏ lỡ cả rồi.

– Đi làm gì! – Cả Dinh, Cả Trọng, Cả Huỳnh cau có trả lời.

Thế đấy, các bác Cả! Các bác Cả thường rất khoảnh. Chúng ta thông cảm với họ, nếu chúng ta tự mình như họ, trần lực như họ, không có ai để bàn bạc, không có ai đáng bàn bạc, họ phải tự gánh lấy trách nhiệm của họ, nghĩa vụ của họ, giá trị của họ.

Thế còn bà? – Đề Thám hỏi bà Ba Cẩn. Bà Ba là người phụ nữ đáng kể nhất trong cuộc đời Đề Thám. Bà là người phụ nữ duy nhất có mặt nơi này, giữa những tên tuổi hào kiệt lừng danh của phong trào nông dân Yên Thế.

– ông nên làm điều có nghĩa, – Bà Ba trả lời rồi thở dài. Bà có tật như thế khi phải băn khoăn, lưỡng lự điều gì.

Đề Thám bảo mọi người lui ra để ông ngồi lại một mình. Ông nghĩ. Những ý nghĩ của ông bắt đầu phiêu lãng. Thường ý nghĩ của ông bắt đầu từ một vật gì đó cụ thể, tức thời đập vào mắt ông. Thí dụ từ bông hoa hồng.

Này bông hoa hồng
Giá trị của mày là khoảnh khắc
Ai biết mày khi đang hết nụ?
Ai để ý mày khi mày úa tàn?
Ôi hoa hồng, hoa hồng
Phút giây này thật tuyệt vời
May cho kẻ tình nhân gặp mày lúc này
Môi hồng của thiếu nữ cũng thua mày
Hương trầm kia sánh sao được
vị thơm nơi nhụy hoa?
Và những cánh mỏng mịn mà kia,
khiến tất cả vật khác thành phàm tục
Hoa hồng! Ôi hoa hồng!
Ta tiếc cho kẻ vô tình quên bẵng mày
Và giật mình ghen tị với kẻ vô danh nhanh tay
Không biết ai hái mày hôm qua
Kẻ ấy cư xử ra sao với mày?
Hắn có chôn mày trong tim không?
Trái tim ấy có rộng lượng không
có đủ chỗ cho mày ngụ không?
Trái tim ấy có đủ máu không?
Ước không có giông bão lọt vào đấy
Rồi mày cũng nát tan thôi, em ạ, cô em ạ,
Hắn không đáng kể gì, hắn không biết cách
Chơi hoa nào đã mấy người biết hoa”…

Đề Thám không nghĩ như thế, dĩ nhiên rồi. Có điều, hôm ấy trong đồn Phồn Xương ông đã cầm lên tay một bông hoa hồng. ông nghĩ về điều khác. Ông đặt mình vào vị trí của Môren, vào vị trí của những người Pháp. ông cho rằng buổi tiếp tân chẳng quan trọng gì và sự có mặt hay không có mặt của ông đều chứa hiểm họa. ông sẽ mang tiếng hèn nhát nếu ông từ chối. ông sẽ thành lố bịch nếu ông có mặt. Thế lố bịch hơn hay hèn nhát hơn? – Đề Thám tự hỏi. – Thôi thì lố bịch còn hơn hèn nhát!

Tôi sẽ đi, đi một mình, đi ngựa…Sẽ ăn mặc như một chàng rể…- Đề Thám vừa nói với bà Ba Cẩn vừa đội lên đầu chiếc khăn xếp trứ danh thửa mãi tận phố Hàng Lọng Hà Nội, chiếc khăn quái đản: không thể dùng làm mũ, cũng không thể dùng để lau mặt được.

– ông muốn đi ngựa thì đi…nhưng đến Bắc Giang tôi sẽ cho phu kiệu đón. – Bà Ba nói vậy rồi lại thở dài. Đề Thám bực mình: ông không thích người ta quan tâm nhiều quá đến mình. ông bảo:

– Đừng làm phiền tôi.

– Nhưng ông làm phiền mọi người. – Bà Ba bẻ lại.

Sự đời là thế. Bà Ba có lý của bà Ba, cũng như bà Cả có lý của bà Cả vậy. Đề Thám giật cương, thúc con ngựa ô ra khỏi cổng đồn Phồn Xương. ông cho ngựa đi bước một, lang thang trong rừng. ông thích như thế.

Đây là thiên nhiên: cành cây xòa trước mặt, tiếng chim hót, những giọt nước mưa đọng lại trên cây, mùi lá mục ẩm ướt, những con chim xanh, con chim đỏ, con chim vàng, những cánh mối ướt rụi, những con bọ nhảy, tiếng vượn kêu não nùng, bông hoa bé xíu…Tất cả hương vị, màu sắc của thiên nhiên đều chân thực, thanh khiết, đều khiến ta cảm động đến tận đáy sâu tâm hồn.

Đề Thám đi miết. Có thể ông nghĩ gì đấy về tuổi ấu thơ đắng cay tủi nhục, những ngày ông phải đi ở tận mãi Tiên Lữ, Hưng yên. Có thể ông nghĩ về Đề Nắm (Lương Văn Nắm), người đã trao quyền cho ông ở vùng Yên Thế, Nhã Nam này. Có thể ông nghĩ về cái mà ta vẫn gọi là “trường tranh đấu”, sự sống hoặc cái chết.

Đề Thám đi xuyên qua rừng mỡ, rừng dẻ, rừng lim và rừng nhội gai. ông trông thấy một cọn phượng hoàng bay qua trước mặt. ông nói:

– Nếu ta nhìn thấy mày hai mươi năm trước thì thích.

Đến giữa trưa thì Đề Thám rẽ vào nhà một người quen ở gần Kế. Đây là nhà ông đồ Hoạt. ông đồ Hoạt có nhà. Các ông đồ thường chẳng đi đâu cả: các ông ở trong bổn phận mình, trong kiến thức của mình (thực ra là của những con thú to hơn), trong thành kiến của mình, trong giá trị của mình. Ông Đồ Hoạt là người hay chữ, hay thơ. Và như thế, nghĩa là ông chẳng giàu có gì. ở nhà ông đồ, Đề Thám được đón tiếp như người nhà. Thoắt cái, đã thấy bà đồ Hoạt bưng lên một mâm lòng lợn, có cả một đa phèo nõn nà. Mùi mắm tôm chanh, mùi rau húng thơm lừng. Bà đồ Hoạt cười bảo Đề Thám:

– Chị vẫn biết chú thích món này!

Ông đồ Hoạt nói:

– Bà gọi ông Lũy với thằng Hoạt ra đây cùng ngồi.

Ông Lũy là ông hàng xóm, người nổi tiếng về tài ăn trộm trâu bò của bọn hào lý trong vùng. Hoạt là con trai duy nhất của ông bà đồ, bị khoèo tay, tính tình e thẹn.

Bữa rượu vui vẻ, thân mật. Mọi người đều ca thán về nạn sưu thuế, thói nhũng lạm, thái độ mất dạy của bọn quan liêu.

Thời dại chó má!

Mọi người đều thấy đúng là thời đại chó má.

Họ dốc vào họng thứ rượu nấu bằng sắn, thứ rượu mạnh đến nỗi có thể châm lửa đốt cháy được, để hòng làm dịu đi nỗi phiền muộn.

Đề Thám kể cho mọi người nghe chuyện bắt sống chủ bút tờ báo “L’ávenir du Ton Kin” (1) mấy năm trước, chuyện trung tá Péroz đến đồn Phồn Xương thương lượng để ký khế ước ngừng chiến.

Đang câu chuyện, Đề Thám hỏi ông Lũy:

– ông có đủ thịt ăn không?

– Nhờ giời, – tay trộm trả lời, – không phải lúc nào cũng ăn thịt bò, nhưng thịt gà thịt vịt cũng ngon.

Đề Thám nói: – Nếu ông ở chỗ tôi, tay Ba Biều sẽ nện cho ông một trận rồi tống ông vào trại. Tôi không thích trộm cắp vặt vãnh.

Ông Lũy bảo: – Tôi không đến chỗ ông vì thế, tôi biết tôi chẳng ra gì vì vướng nợ đời. Tôi giành công bằng theo lối trâu bò gà vịt chứ không phải theo lối con người. Chỉ xin ông đừng khinh tôi. – Tôi không khinh ông, – Đề Thám nói, – nhưng cũng chẳng trọng.

– Đa tạ ông. – ông Lũy đứng dậy chắp tay vái. – Ông và bác đồ cho tôi lỗi phép.

Ông Lũy đi ra. Mâm rượu còn lại ba người. Ông đồ Hoạt nói:

– Anh Đề ạ, cái đầu anh thật kiêu hãnh, thật đáng giá. Toàn quyền Đông Dương (2) thật hà tiện khi đặt giá đầu anh 30 ngàn quan.

Đề Thám cười:

– Bác vẫn làm thơ đấy chứ?

– Vẫn làm…Thế mới đê tiện. – ông Hoạt đỏ mặt. – Còn anh, anh cũng làm thơ theo lối của anh phải không?

Đề Thám nói:

– Không…Tôi không biết chữ.

Ông Đồ Hoạt lắc đầu:

– Mặc xác anh! Anh vẫn là một nhà thơ đáng kể nhất! Ai bảo anh sống thế? Anh là một tên thi sĩ ma vương.! Anh làm sao tránh được danh hiệu đáng sợ ấy! Anh đã làm những điều mà bọn văn chương suốt đời thèm muốn. Chúng không làm sao biến được ngọn bút của chúng thành ngọn giáo hay cái câu liêm!

– Giáo hay câu liêm, thì tôi có thừa, – Đề Thám nói, -nhưng tôi khát khao điều ấy.

Điều ấy, nào, bác Cả bác biết là điều gì không?

Đâu là giá trị tinh thần, vật chát nơi bác?

Chúng ta chỉ vẻn vẹn có mạng sống này thôi
Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê
Những con đường chúng ta đi qua
Tất cả đều xám xịt lầm bụi
Mỗi cung đường, mỗi vận hạn đều xám xịt, lầm bụi
Mà vầng trăng kia xa lắc
Vầng trăng kia lơ lửng trên đáu
Có đôi mắt nào mở to trong tim ta
Và mỗi cái chớp mắt đều khiến ta nhói lòng
Sẽ phải khởi nghĩa thôi
phải tranh đấu cùng số phận
Trăm năm trước cũng thế
trăm năm sau cung vậy
Ta phải dấn thân, phải đốt lửa
Ngọn cờ ta phất lên là giá trị cuộc đời
Bác Cả, cuộc chiến này thật khốn nạn
Bác có chối cũng chẳng được
Làm người chỉ có một lần làm người thật khó…

Đề Thám hỏi:

– Thằng Hoạt bao giờ lấy vợ?

– Chắc nó ở vậy. – ông đồ thở dài. – Không hiểu sao đàn bà chỉ thích những tên đàn ông nhăng nhít, dê cụ, khả ố, đểu cáng…Thằng Hoạt nhà tôi lại đứng đắn quá.

Đề Thám cười:

– Tôi nhớ tôi đã ăn lễ dạm hỏi ở nhà này rồi. Thằng Hoạt sẽ làm rể Chánh Trương cơ mà?

– Đúng vậy. – ông đồ gật đầu. – Tôi đã hỏi con bé Xoan cho nó. Trầu cau đưa rồi, cuối năm nay cưới nhưng Chánh Trương lại muốn chạy làng, định gả con Xoan cho lão nghị Trường. Lão ấy góa vợ, nhà giàu nứt đố đổ vách.

– Tôi biết nghị Trường, – Đề Thám nói. – Thằng già ấy lẩm cẩm lẫn lộn, khôn như cáo, nói chuyện với ai cũng chỉ gật đầu.

– Anh Đề! Anh hãy giúp đỡ chúng tôi. – ông đồ năn nỉ. – Anh vốn hào hiệp…Anh đừng để con trai tôi xổng con bé ấy.

Đề Thám nhìn Hoạt. Cậu thanh niên e thẹn thở dài. Ngoài cổng xôn xao, trông ra đã thấy Thống Luận, Bang Kinh và mấy phu kiệu thập thò đứng đón. Bà Ba Cẩn không quên lời hứa. Đề Thám biết rằng bà Ba đã đúng trong trường hợp này: Ông không thể vào dinh công sứ Bắc Giang như một phần tử cực đoan lãng mạn, ông buộc phải tiền hô hậu ủng như một đại diện cho nhiều người.

Đề Thám lên kiệu. ông bảo ông đồ:

– Tôi sẽ gắng làm hết sức.

Hoạt chào Đề Thám, đôi mắt chứa chan hy vọng.

Đề Thám nói với Bang Kinh:

– Mang con ngựa ô đi theo. Khi về tôi về bằng ngựa.

Bảy giờ tối, Đề Thám đến dinh công sứ Bắc Giang. Các quan chức và sĩ quan Pháp đi ra đón ông. Họ ngạc nhiên trước người anh hùng nổi tiếng, người được coi là “đại diện cho tâm hồn An Nam” (3) trông y hệt một tay địa chủ nông thôn họ vẫn thường gặp: cũng khăn xếp đen, áo lương, quần trắng, đi giày Gia Định. Đề Thám khác người là ở thần thái, ở tinh thần tự chủ cao, nhãn quan bao quát rộng, nếu có kể thêm thì đấy là sự buồn nản thất vọng về phẩm cách con người nói chung thỉnh thoảng lộ ra ở khóe nhìn vô hồn nơi ông.

Đề Thám trông thấy đám quan chức người Việt đứng tụm lại thật hèn hạ. ông nhận ra nghị Trường, Chánh Trương và cả Xoan, con gái lão, người đã đính hôn với con trai ông đồ Hoạt. Tôi sẽ không kể gì về buổi tiếp tân này. Theo sử sách ghi chép thì người Pháp ở giới thượng lưu thời ấy đều nhẹ dạ, ngông cuồng, xa hoa; đa phần người Pháp “thực dân” còn lại trong các guồng máy cai trị cồng kềnh, lại vừa ngu vừa ác. Bầu không khí tinh thần của thời “thuộc địa nửa phong kiến” ấy đại để như sau: thói ham tiền hám của trộn lẫn với lòng thèm khát khoái lạc vui chơi, chế dộ nô lệ tàn bạo bày ra trắng trợn ở các hầm mỏ, đồn điền; đám nha lại người Việt coi thuế là nguồn thu chủ yếu để xây lợp mái nhà Tổ quốc, có chỗ xây lợp bằng đá thật, có chỗ xây lợp bằng các tờ báo lá cải và chứng từ kế toán giả mạo, “con rồng tre An Nam” tìm cách nhảy chồm lên trong tiếng tom chát ở các ổ chứa và tiếng vỗ tay trong các hội đoàn, thỉnh thoảng lại giật mình co lại bởi tiếng súng kíp hoặc súng hỏa mai tự chế ngoài biên giới…Việt Nam đầu thế kỷ XX là một đất nước nghèo nàn, gần như mọi rợ…

Buổi tiếp tân không làm Đề Thám thú vị chút nào. Lựa dịp thuận tiện, Đề Thám nói với Chánh Trương:

– Tôi muốn nói chuyệh với con gái ông.

Tôi không biết Đề Thám đã nói với Xoan những gì hôm ấy, chỉ biết rằng cô rất bối rối xúc động.

Cô gái, lời nói nào làm cô bối rối xúc động?

Những lưỡi dao cứa vào sĩ diện cô ư?
– Không phải!

Những lời tán tỉnh rườm rà hoa mĩ ư?
– Cũng không phải nốt!

Ngôn ngữ trở nên ghê tởm,
nhớp nhúa trên miệng bọn tiểu nhân
Tôi biết một thứ ngôn ngữ giản dị như đất
Thứ ngôn ngữ mộc mạc, thẳng băng
Tựa như tiếng tù và
Như tiếng kèn đồng
Như tiếng chuông vọng…
Có một thứ ngôn ngữ thức tỉnh con người
Buộc họ soi vào lòng mình
như soi mặt xuống lòng hồ
Có thứ ngôn ngữ của người anh hùng,
của người chính trực
Nó làm ta bối rối xúc động
Ta không trón được
Thứ ngôn ngữ không hề phù phiếm
cũng chẳng tân kỳ
Thứ ngôn ngữ của giống nòi lruyền lại
Thứ ngôn ngữ của lương tri không bao giờ mất…

Đề Thám ra về trước khi buổi tiệc kết thúc.

Không có bất trắc gì xảy ra cho ông và các thủ hạ đi theo. Đề Thám chia tay với mọi người ở triền đê sông Thương, ông lên con ngựa ô rồi theo con đường mòn rẽ vào rừng, ở đấy có lối đi tắt về Nhã Nam. Đề Thám đến cửa rừng thì thấy Xoan đứng đó. Sự biến động trong tinh thần khiến khuôn mặt vốn trắng hồng của cô gái tái nhợt hẳn đi.

Xoan nói:

– Em van ông… Ông hãy cho em đi theo. Đi đâu cũng được…

– Cô phải về đi, – Để Thám nói. – Cô phải chọn Hoạt.

– Không.. – Xoan nức nở.

Đề Thám đón Xoan lên con ngựa ô rồi thúc con ngựa vào rừng. Đêm trong rừng mênh mông và hư ảo lắm. Tiếng côn trùng rỉ rắc. Mùi hương rừng nồng nàn. Bóng tối sẫm đen trên các tán lá cây, sẫm đen nơi hốc đá, sẫm đen eả trên mặt đất. Rừng vô tình, vô cảm, thản nhiên, lạnh lùng, tàn nhẫn. Rừng muôn đời là thế. Thiên nhiên muôn đời là thế: vô tình, vô cảm, thản nhiên, lạnh lùng, tàn nhẫn. Tất cả đều đẩy con người về nơi tận cùng ý thức cá nhân chính nó. Con người tự co lại như con sâu, cái kiến, thúc thủ trong phần sinh linh vừa bé mọn, vừa cô đơn, vừa bất lực; nó chớp đôi mắt phấp phỏng lo âu trong tâm hồn nó và tự hỏi mình: là ai? đi đâu? thế nào? làm gì? tiến đến đâu? bao giờ thành tựu? bao giờ kết thúc?

Đề Thám và Xoan đến chỗ có hai ngả rẽ một vào căn cứ Hố Chuối và một về Kế thì mưa. Mưa tháng Tư là thứ mưa đầu mùa ở vùng nhiệt đới. Nhoằng một ánh chớp, một làn gió thoảng qua là mưa liền, không sao lường được. Bắt đầu tưởng là cơn mưa bóng mây không phải ngại gì, bỗng thoắt là mưa đá, sấm rền, sét nổ. Mưa như roi quất, tàn bạo, hung hãn. Mây đen cuồn cuộn, gió giật liên hồi rồi mưa như những thác nước trên cao đổ xuống ào ào. Con ngựa không thể đi được vào trong hẻm núi. Đề Thám gầm lên một tiếng như lời chửi rủa, cũng gần như lời than thở rồi thúc đầu gối vào ức phải con ngựa cho nó chạy xuống cánh đồng, ngả rẽ về Kế. Một lúc sau, hai người đã ở trong nhà ông đồ Hoạt.

– Ta đã biết mà, – ông đồ bảo Xoan. – Ta biết con sẽ là một con người con dâu thảo hiền, tín nghĩa… Bà đồ cuống cuồng giục Xoan đi thay áo quần kẻo lạnh. Hoạt vung vẩy cánh tay khoèo, khuôn mặt tràn trề hạnh phúc.

– Anh Đề! – ông đồ nắm lấy vạt áo Đề Thám. – Anh hãy ở lại đến mai hãy về…

Không! – Đề Thám lắc đầu. Những giọt nước mưa mặn chát ướt đầm trên khuôn mặt ông. ông nhảy lên ngựa rồi phóng thẳng vào trong màn mưa dày đặc, màn đêm dày đặc.

Mưa như thế, bắt đầu từ lâu rồi
Trên mặt đất, những con bọ cử bò lổm ngổm
Tôi không biết con người khát khao
điều gì trong cõi sống này.
Hình như điều thiện bắt đầu từ tình yêu phải không?
Điều thiện buồn tẻ vì nó nhạt nhẽo
Điều thiện tầm thường vì nó an toàn
Điều thiện tệ hại vì nó giết đi đam mê
Anh có sợ điều thiện không?
Chị có sợ điều thiện không?
Và em nữa?
Em có bao giờ ghê tởm điều thiện bằng như điều ác?
Rồi mưa cùng với thời gian sẽ xóa đi thôi,
xóa hết Xóa tất cả, rửa đi tất cả
Người ta sẽ rửa chúng ta đi
như rửa xương khi bốc mộ
Trong đêm không có ánh mặt trời
Chúng ta bị rửa đi như rửa xương khi bốc mộ
Tất cả xương người đều như thế.
Tất cả đều rời rạc, đen đúa, khô khan
Chúng ta bị rửa đi như rửa xương khi bốc mộ
Có cơn mưa nào.
Có đôi mắt nào nhòa ướt cho anh?

Đề Thám phóng ngựa vào rừng. Mưa quất vào mặt ông bỏng rát. ông bỗng òa khóc. ông òa khóc cho mình, cho người, cho tất cả những hữu hạn của chính mình, của mỗi người. Đề Thám sụt sùi như một người thường: một anh bán bánh đa mật ở chợ Kế, một viên công chức quèn, một chàng thợ bạc vụng về, một ông giáo nghèo… Ông khóc như một người nhu nhược nhất đời, một người suốt đời thỏa hiệp, không bao giờ dám bước qua lằn ranh bổn phận, nghĩa vụ, cương tỏa. Ông khóc như chưa bao giờ là một anh hùng, một người khởi nghĩa.

Đề Thám đi suốt đêm mưa trong rừng. Người ta kể rằng sáng sớm hôm sau ông cầm đầu một toán quân đánh dồn binh Pháp ở Kép, tất cả binh sĩ trong đồn đều bị gíết sạch. Từ đấy chấm dứt thời kỳ hòa hoãn giữa ông và người Pháp.

Mấy năm trước tôi gặp bà cụ Xoan ở huyện lỵ Yên Thế gần đồn Phồn Xương, nơi bây giờ trở thành một phố chợ sầm suất. Bà cụ giờ 84 tuổi, tóc bạc trắng, trông rất hiền lành. Tôi hỏi bà cụ về cuộc đời bà cụ trải qua, bà cụ kể lể khống biết bao nhiêu những điều cơ cực nhọc nhằn xảy ra trong cuộc đời mình: nào người chồng tính nết dở hơi thô bạo, nào đói kém, nào con, nào cháu, nào tật bệnh, nào chiến tranh…

Tôi đứng trên quả đồi khô cằn toàn sỏi nơi bà cụ phát hoang để xây dựng cơ nghiệp cho gia đình mình, trong lòng vô cùng cảm động thương xót. Tôi hỏi điều gì đã làm bà cụ vượt qua được hết nhọc nhằn gian khó trong bao nhiêu nẩm tháng ấy, bà cụ cười móm mém để lộ hai hàm lợi không còn một cái răng nào rồi vạch áo cho tôi xem tấm ngực trần hom hem với đôi vú teo tóp răn reo.

Bà cụ nói: – Ông ấy muốn thế…Tôi không phụ lời tôi hứa… Ông ấy là nguồn an ủi suốt cuộc đời tôi…

– Ông ấy là ai hả cụ?

– Ông ấy kia kìa…

Bà cụ chỉ về bức tượng xi măng cốt thép đứng trên đỉnh đồi ở gần di tích Phồn Xương. – Ông ấy chẳng hề nói năng gì cả…

Tôi biết Đề Thám đã không hề nói năng gì cả từ năm 1913, hơn 80 năm rồi…

Hôm tôi ở Nhã Nam trời cũng mưa, nhưng là cơn mưa bóng mây, một thứ mưa xoàng.

Tôi kể chuyện này đến đây là hết.

*
(1) Tương lai xứ Bắc kỳ.
(2) Pôn Đume (Paul Doumer)
(3) Lời của nghị sĩ Metsimy ở nghị viện Pháp ngày 18-11-1909.

3
Kiếm Sắc là truyện ngắn thứ ba mà tôi thật yêu thích của anh Nguyễn Huy Thiệp công bố năm 2001 Văn hay lời kiệm chữ, Sử giỏi đời cần lao. Sách này đúng ra phải là Ðặng Phú Lân Kiếm Sắc. Chuyện về Ðặng Phú Lân Kiếm Sắc là tướng thân tùy của Thế tổ Nguyễn Phúc Ánh. Lúc vào thành Thăng Long Nguyễn Phúc Ánh bảo: “Ngươi theo hầu ta thế là chín năm một trăm ngày. Chín năm không làm hỏng việc gì, còn một trăm ngày thì hỏng việc, vô tích sự. Thế là trèo lên cây mà không hái được quả, đáng tội chết”. Lân không nói năng gì, vươn cổ ra chịu chém. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp kể vậy và sóng gió dư khen chê nhiều nhất về truyện ngắn này. (Tôi xin được chép lại) như sau:

Kiếm Sắc
Nguyễn Huy Thiệp

4

Những ngọn gió Hua Tat là truyện ngắn thứ tư mà tôi thật yêu thích của anh Nguyễn Huy Thiệp công bố năm 1989 Văn hay lời kiệm chữ, Sử giỏi đời cần lao. Sách này đúng ra phải là Chuyện đời Nguyễn Huy Thiệp. Chuyện về Chàng Khó và nàng Sinh

Những ngọn gió Hua Tat
Nguyễn Huy Thiệp

Ở Tây Bắc có một bản nhỏ người Thái đen nằm cách chân đèo Chiềng Dông chừng dậm đường. Bản tên là Hua Tát.

Bản Hua Tát ở trong thung lũng hẹp và dài, ba bề bốn bên là núi cao bao bọc, cuối thung lũng có hồ nước nhỏ, nước gần như không bao giờ cạn. Xung quanh hồ, khi thu đến, hoa cúc dại nở vàng đến nhức mắt.

Từ thung lũng Hua Tát đi ra bên ngoài có nhiều lốị Lối đi chính rải đá, vừa một con trâụ Hai bên lối đi này đầy những cây mè loi1, tre, vầu, bứa, muỗm và hàng trăm thứ cây dây leo không biết tên gọi là gì. Lối đi này đã in dấu chân nhiều người. Trong số đó, từng nghe có cả một vị hoàng đế.

Thung lũng Hua Tát ít nắng. ở đây quanh năm cứ lung bung một thứ sương mù bàng bạc nên nhìn người và vật thì chỉ nhìn thấy những nét nhòa nhòa đại thể mà thôi. Đây là thứ không khí huyền thoại.

ở Hua Tát, những chuyện cổ như những bông hoa dại, màu vàng nhạt, bé như khuy áo, điểm đâu đó quanh rào trong các ngõ nhỏ. Đàn ông ngậm hoa này trong miệng uống rượu không bao giờ saỵ Nó cũng giống như những viên đá cuội trắng có gân đỏ, mảnh như sợi chỉ nằm kín đáo nơi lòng suốị Phụ nữ thích những viên sỏi nàỵ Họ nhặt nó về ủ trong áo lót đủ một trăm ngàỵ Khi làm đệm cho chồng, họ dấu viên sỏi đó vào trong. Có lời truyền rằng người chồng nằm trên đệm ấy sẽ không bao giờ mơ tưởng đến những phụ nữ khác.

Hua Tát là một bản nhỏ cô đơn. Người dân ở đây sống giản dị, chất phác. Công việc nương rẫy nhọc nhằn vất vả. Cả việc săn bắt cũng thế. Tuy nhiên, người dân ở đây lại rất rộng lòng mến khách.

Đến Hua Tát, khách sẽ được mời ngồi trên bếp lửa, uống sừng rượu cần với xeo thịt rừng sấy khộ Nếu khách là một người công minh, chính trực, chủ nhà sẽ mời khách nghe một câu chuyện cổ. Có thể những chuyện cổ ấy nói nhiều đến nỗi đau khổ con người, nhưng chính hiểu rõ những đau khổ ấy mà ở trong ta nảy nở ra sự sáng suốt đạo đức, lòng cao thượng, tình người.

Những người sống trong chuyện cổ bây giờ đều không còn nữạ ở Hua Tát, họ đều biến thành đất bụi và tro than cả (2). Tuy vậy, linh hồn của họ vẫn bay thấp thoáng trên các khau cúi (3) nhà sàn.

Như những ngọn gió. *** Sinh là một thiếu nữ mồ côi ở bản Hua Tát. Nghe nói ngày xưa mẹ nàng bị ma chài, để nàng trong rừng. Nàng gầy gò, bé nhỏ, trông rất đáng thương. Nàng không bao giờ được ăn miếng ngon, mặc váy áo đẹp. Thân phận côn hươn (1) nàng sống thui thủi như con chim cút.

ở Hua Tát, trên đường đi vào rừng ma, có cái miếu nhỏ. Miếu này thờ chàng Khó, người từng giết con hổ dữ ngày nào. Trong miếu có hòn đá nhỏ bằng nắm tay người, để trên bệ gạch. Hòn đá nhẵn thín như bào, sâu trong lớp đá có những vân đỏ li ti như mạch máu người. Ai muốn cầu xin thì sờ tay vào hòn đá, ghé sát miệng vào kể lể với nó. Hòn đá nằm trên bệ thờ từ bao đời rồi, chứng kiến rất nhiều cuộc đời, rất nhiều số phận. Hòn đá trở thành mốt thứ ngẫu vật thiêng liêng, ban đêm có người trông thấy hòn đá tỏa sáng như một cục lửá. Những nỗi đau khổ, những lời cầu xin tích tụ trong hòn đá nhỏ.

Một bận, có một người khách lạ từ dưới xuôi lên, ông ta cao lớn, cưỡi trên một con ngựa ô khỏe mạnh. ông rẽ vào nhà trưởng bản, thăm các bô lão, la cà khắp nơi đây đó, ông hiểu rất rõ phong tục ở bản. Dân bản Hua Tát đoán ông là người buôn cao hoặc lông thú hiếm. ông rất nhiều tiền, cư xử hào hiệp và sang trọng lắm. Một bữa, ông khách qua miếu chàng Khó, trông thấy hòn đá định cầm lên xem. Nhưng thật lạ lùng, ông không làm sao nhấc được hòn đá lên khỏi bệ thờ. Ngạc nhiên, ông về gọi dân bản đến xem. Người ta xúm xít xung quanh miếu nhỏ. ông khách thử cho từng người lần lượt vào miếu để nhấc hòn đá lên tay, nhưng đều bất lực. Hòn đá nặng đến kinh người.

– Chắc có chuyện gì uẩn khúc? – ông khách căn vặn mọi người. – Trong bản liệu còn có ai chưa đến miếu này nhấc thử?

Người ta soát lại thấy thiếu Sinh. Người ta quên bẵng mất nàng.

Ông khách bảo với mọi người đi tìm Sinh đến. Nàng đang đi đào củ mài mãi trong nguồn nước. Sinh đến miếu thờ. Mọi người rẽ lối cho nàng. Ông khách bảo nàng nhấc thử hòn đá. Như có phép lạ, Sinh nhấc hòn đá lên tay dễ dàng như bởn. Mọi người ngạc nhiên, tất cả reo hò sửng sốt. Sinh cầm hòn đá đưa cho ông khách. ánh sáng mặt trời chiếu vào đôi bàn tay nàng, đôi tay chai sạn, ngón không ra ngón. Sinh bóp khẽ vào cái ngẫu vật thiêng liêng. Hòn đá bỗng tan thành nước trước mắt mọi người. Những giọt nước ấy trong như nước mắt, chảy qua kẽ tay nàng rơi xuống mặt đất, in hình trên đó như những ngôi sao. Ông khách lặng người rồi khóc. ông xin dân bản được đón Sinh đi. ông sắm váy mới, áo mới cho nàng. Sinh bỗng trở nên xinh đẹp lạ thường.

Phẩm tiết; Tướng về hưu
Con gái thủy thần

Tưởng nhớ NGUYỄN HUY THIỆP – Nhà văn Anh hùng thời Đổi mới (1950-2021)... Assessment of Nguyen Huy Thiep’s Works on Historical Topics

Nguyễn Hữu Sơn 22 tháng 3 lúc 22:38

* Nguyen Huu Son: Assessment of Nguyen Huy Thiep’s Works on Historical Topics. Vietnam social sciences, No3 (191)-2019, tr.80-92.

Abstract: As a challenge and a “trial” in the sphere of thoughts and art, it is not easy to make a general assessment of Nguyen Huy Thiep’s works on historical issues due to many different viewpoints and explanations. However, we cannot omit his works, when discussing the “literary and artistic creations on historical topics” in the đổi mới, or renovation, period. Basically, Nguyen Huy Thiep’s works on historical topics share many similarities with the general artistic conception in the first half of the 20th century. At the same time, his outlook was improved, renovated, and modernised. His literary works focus on exploring and reflecting people’s life, national destiny, and burning issues of the day. They have been highly appreciated by readers, republished many times, and translated into many languages.

Keywords: Nguyen Huy Thiep, historical topic, literature in the renovation period.
Subject classification: Literature

1. Introduction

Carrying out an in-depth survey of the works on historical topics, we can realise remarkable transitional stages, cultural exchange, and literary development. First of all, the works written in the context of the wars (1945 – 1975) are often subtitled “stories of famous people”, “historical celebrities”, “historical stories”, “historical memoirs”, “eternal exemplars”, “homeland celebrities”, or “national stars”, etc. Those works mainly narrate famous figures as central characters, describing their lives and achievements together with historical events as the story plot without wild fiction or exaggeration. The authors of those works were mainly cultural and historical researchers or teachers, who had thorough knowledge of famous people (for instance, Ha An, Quynh Cu, Nguyen Duc Hien, Nguyen Hong, Vu Ngoc Khanh, Nguyen Loc, Bui Van Nguyen, Chu Thien, Nguyen Huy Tuong, and Thai Vu, who wrote about historic figures such as Le Hoan, Ly Anh Tong, Tran Hung Dao, Tran Khanh Du, Tran Quoc Toan, Lieu Hanh, Nguyen Trai, Nguyen Chich, Nguyen Binh Khiem, Quang Trung, Nguyen Du, Nguyen Cong Tru, Nguyen Huu Cau, Phan Dinh Phung, and Hoang Hoa Tham). The central part of the literary works on historical topics is imbued with the creative role played by the authors as shown in the literary works published during the renovation period, which began in 1986 and consists of a large number of novels and short stories (written by authors such as Nguyen Huy Thiep, Nguyen Xuan Khanh, Hoang Quoc Hai, Ngo Van Phu, Nguyen Khac Phuc, Hoai Anh, Nguyen Quang Than, and Luu Son Minh) as well as historical dramas (composed by Nguyen Dinh Thi, Le Duy Hanh, and others). For example, of all 19 dramas performed during the national festival of Chèo, a form of generally satirical musical theatre, often encompassing dance, held in Ha Long city in 2009, 13 were focused on historical events, historical figures, and heroes in battles. In Vietnam, and the world as well, it is not rare that literary works on historical topics may result in debates and different attitudes towards the reception of those works. Queen mother Duong Van Nga (10th century) is one cited example. Should we consider her a woman, who had “illicit love”, “humane spirit”, or “high national duty”? Another example is Jeanne d’Arc in the history of France (the 15th century). Should she be recognised as “a heretic”, “a female devil”, “a saint”, or “a national heroine”? Obviously, it is necessary to review seriously “the historical fate” of such type of historical creation from all aspects, including creative psychology, imaginary limits, reception attitudes, and the potentials for further development of the topics and genres, aiming at helping to provide more comprehensive and profound awareness of the history and the nation [15, pp.42-49]. This paper2 focuses on some main points, including Nguyen Huy Thiep’s works in the literary movements in the renovation period; Nguyen Huy Thiep’s works on historical topics from the perspective of literature in the first half of the 20th century; and, Nguyen Huy Thiep’s works on historical topics from the perspective of national historical reality.

2. Nguyen Huy Thiep’s works in the literary movements in the renovation period

Discussing historical topics, subjects or genres, firstly we need to isolate the works, in which the authors use historical events and characters as a pretext for imagining completely different fictional plots. Instead of describing the reality, they focus on the supposed artistic reality. And, instead of realising the historical experience, they deliberately create a new image of historical situations and characters. As a part of those works, Nguyen Huy Thiep’s short stories, created on the basis of the plot related to historical famous people such as Nguyen Trai, Nguyen Thi Lo, Nguyen Hue, Nguyen Du, Nguyen Anh, Ho Xuan Huong, Hoang Hoa Tham, Tu Xuong, and Nguyen Thai Hoc, once aroused a lot of controversy.

As a challenge and a “trial” in the sphere of thoughts and art, it is not easy to make a general assessment of Nguyen Huy Thiep’s works on historical issues due to many different viewpoints and explanations. However, we cannot omit his works, when discussing the “literary and artistic creations on historical topics” in the renovation period.

It is possible to conclude that most of Nguyen Huy Thiep’s works related to the above-mentioned figures can be recognised as “historical imitation”, “historical simulation”, or “historical parody”. To various extents, historical realities are reflected sometimes boldly and sometimes slightly. In general, he just used the historical realities as a pretext for creating new plots, new situations, and new personalities. The writer directed readers to new fates, circumstances, events, details, locations, and periods, which never existed in the official documents of history. As a result, the readers feel confused by the fictitious stories created by him, which are different from the realities. Many readers, particularly the critics, therefore, had to raise their opinions and attitudes, which are divided into debating groups that have different ways of receiving his works depending on their own professional knowledge and cultural inertia. In 1988, when Nguyen Huy Thiep released his short stories titled “Sharp Sword” (Vietnamese: Kiếm sắc), “Fired Gold” (Vietnamese: Vàng lửa), and “Chastity” (Vietnamese: Phẩm tiết) in the newspaper “Literature and Art” (Vietnamese: Văn nghệ) published by the Vietnam Writers’ Association, they immediately encountered many strong objections. There were two reasons for those objections, which were recognised unconsciously by the critics. Firstly, some critics supposed that “Fired Gold” was a memoir of historical events and well-known figures (this shows a mistake in recognising the genres), which led to an old way of receiving the story pragmatically and required the author to answer questions in an illustrative and explicit way. “What readers are interested in is mainly shown by images and literary language. They want to know: what the author has written about, whether the nature of history has been reflected truly, and whether the work brings them deep emotions?” [6, p.10]. Secondly, some critics persisted in conforming to the old viewpoint and thinking. They closely followed the previous postulates; for example, they often said: “according to our ever-present conception, …”. This makes these very critics unable to “untie themselves” so as to approach the new. It also prevents the development of artistic creative thinking” [7, p.4]. Within the general correlation, the critics have not kept pace with the orientation towards the renovation in literature and art. During the warm-up of the guideline on the development of literature and art, Nguyen Van Linh, the general secretary of the Communist Party of Vietnam, spent two days attending a conference on literature and art (on 6th and 7th October 1987) so as to understand the reality of literature and art in Vietnam. He also gave an important speech to the writers, artists, and cultural practitioners at the conference. Although the participants were mainly those who were holding management positions, and Mr. Nguyen Van Linh’s speech focused on writing activities, in a general sense, it also caused a profound impact on literary researchers and critics as well. “You have talked a lot about the untying. It surely will help you to promote your ability in your fields greatly. How should we untie? Regarding the untying, I think the Communist Party has to carry out it first. It must be performed in all the organisational activities, policies, and regulations”. At the same time, he emphasised the necessity of changes in the conception, mechanism, and policies as well as the sense of self-control, which was seen as the nature, the quality, and the skill of the practitioners in the field of literature and art. “On the other hand, I think no one else, but you have to do it in your own fields” [8, pp.11-16].

Nguyen Huy Thiep’s works on historical topics are considered very new in comparison with the works classified as “memoirs of historical figures” or “historical stories”, which were more inclined to disseminate propaganda in the particular wartime context, when the whole nation gathered up every effort for the duty of national liberation (1945 – 1975). However, they are not new at all, compared to some of the earlier works. More precisely, they can be seen as the return or the follow-up of the literary style of expressing historical topics in the first half of the 20th century. During the French colonial period, certainly, the censorship was also carried out publicly. Thus, some books were confiscated; parts of some articles were removed; and, whole pages were sometimes left empty. There were specific individuals undertaking the censorship responsibility, and the censorship was guaranteed by the legal procedures. At that time, no one was tied by others, so “being untied” and “untying” was not considered to be a matter of concern. The writers freely described various feelings, experiences, and experiments, and reproduced history in accordance with artistic creativity. This is shown clearly by the fact that many historical novels from France and other Western countries were translated and introduced widely in Vietnam. The recognition of the genres, types, and purposes in artistic consumption was seen as basic knowledge at that time. In the paper titled “Do Not Mistake Narrative Stories for Historical Records; Do Not Be Foolish to Call Me a Historian” (Vietnamese: Đừng lầm lẫn truyện ký là sử ký, đừng lẩn thẩn gọi tôi là sử gia) published 80 years ago, Truc Khe, a writer and researcher (1901 – 1947), suggested differentiating between writers and historians as well as between historical tales and historical records. Acknowledging the changes in the literary trend, he said: “many people have started to use the novel style to write historical stories” and affirmed: “In those historical novels, some details were written with the authors’ imagination, but they are not harmful at all. On the other hand, the effect is that they make more people enjoy reading and being aware of historical stories. It is, therefore, necessary to have such books in our literature” [5, p.1]. As a result, a larger number of historical novels was published. Some of typical authors and novels can be enumerated below:

Nguyen Tu Sieu (1898-1965) with “Mountain Top and Branch of Ochna Integerrima” (Vietnamese: Đỉnh núi cành mai), “Thunder at the Winter Night” (Vietnamese: Tiếng sấm đêm đông), “Dinh Tien Hoang” (Vietnamese: Đinh Tiên Hoàng), “Le Dai Hanh” (Vietnamese: Lê Đại Hành), “Tran Hung Dao’s Fighting against Mongol Invasion” (Vietnamese: Trần Nguyên chiến kỷ), and “History of Viet – Qing War” (Vietnamese: Việt Thanh chiến sử).

Ngo Dinh Chien (?) with “The Person Confronting King Gia Long Who Founded the Nguyen Dynasty: Nguyen Hue” (Vietnamese: Người đương đầu với vua Gia Long khai sáng nhà Nguyễn: Nguyễn Huệ) published in 26 issues of “Hanoi Midday Newspapers” (Vietnamese: Hà thành ngọ báo) in 1935.

Hoa Bang (Hoang Thuc Tram, 1902-1977) with “Quang Trung” published in the newspaper “Nước Nam” (Vietnam) in 1939-1940 and in the form of a book in 1944.

TchyA Dai Duc Tuan (1908-1969) with “Wreck of Gold in Sam Son” (Vietnamese: Kho vàng Sầm Sơn).

Nguyen Huy Tuong (1912-1960) with “Night of Long Tri Festival” (Vietnamese: Đêm hội Long Trì), “Vu Nhu To” (Vietnamese: Vũ Như Tô), “Copper Columns of Ma Yuan” (Vietnamese: Cột đồng Mã Viện), and “Princess An Tu” (Vietnamese: An Tư công chúa).

And, Truong Tuu (1913-1999) with “Men of Vigour in Bo De” (Vietnamese: Tráng sĩ Bồ Đề), and “Five Knights” (Vietnamese: Năm chàng hiệp sĩ) etc…

All of those novels were written with a vivid imagination, thrilling plots, and lively characters, which were very different from the historical records. It is possible to state that the patriotism, the sense of national rehabilitation, the social liberation, and the democracy in the press and publishing activities together resulted in the bumper crop of literary works on historical topics during the semi-feudal colonial period.

3. Nguyen Huy Thiep’s works on historical topics from the perspective of literary experience in the first half of the 20th century

In my opinion, Nguyen Huy Thiep’s works on historical topics are not new in comparison with the literary works of the same genre in the period from 1932 to 1945. Nguyen Huy Thiep usually started or concluded his stories with the same way, which demonstrated that “the stories were made up, but very similar to the reality”. He told, for example, he heard about or saw with his own eyes the facts, or there were witnesses and evidence for his stories. As a result, many readers misconsidered those stories to be historical records. Meanwhile, in “Wreck of Gold in Sam Son” (1940), TchyA Dai Duc Tuan provided a very vague introduction, which was stuck in the middle between the reality and the fiction by the voice of a narrator and the skills of a novelist:

“By 1934, the Government found a wreck containing gold in the seabed off the coast of Sam Son beach in Thanh Hoa province located in North Central Vietnam.

When the wreck was moved to the land, people saw hundreds of bars of gold and silver in the shape of a cuboid. Each bar was as long as a handspan. All the bars were engraved with the [Chinese] character meaning “Virtue”. There were abundant coins made in the Canh Hung era and various Chinese coins made from the era of emperor Wanli (Ming Shenzong) to the era of emperor Qianlong (Qing Gaozong)… Based on our available historical facts, the gold and silver surely belonged to the period of decline of the Later Le dynasty. If they belonged to the period of Le Quy, they must have been owned by the Tay Son brothers or Nguyen Huu Chinh, who was one of two admirals of the army.

… Chinh was left alone in Bac Ha (North Vietnam) by Nguyen Nhac due to the slander made by Vo Van Nham, who was Nguyen Nhac’s son in law. Being too scared of staying alone there, Chinh quickly embarked all the havings and left by boat for Nghe An the next day. As an ingenious person, he never took the gold with himself. On the one hand, he was afraid that it would prevent his boat from going fast. On the other hand, it might lead to the fact that his boat would be robbed and his life could be lost. Consequently, Chinh surely left the havings to his son, while taking a boat to follow Nhac quickly to home.

As explained, the wreck of gold must have belonged to Nguyen Huu Chinh. Based on the surmise, which is very probably true, I am writing this sensational story so as to commemorate the past glorious period and provide you with a new genre of historical stories”.

It is completely a story of historical fiction but closely related to the national historical records. Some parts were copied almost exactly from what Tran Trong Kim, a staunch and sage historian, wrote in his work titled “Outline History of Vietnam” (Vietnamese: Việt Nam sử lược).

“The information I have collected to create this story about the wreck of gold is not completely similar to what is mentioned in the historical records. However, I am not worried about whether it is true or false since I just want to create a history-based novel without intending using the novel to bring back the historical period.

When reading this story, you should forgive me for the above-mentioned point. My expectation is to provide you with a story with an interesting plot and an exciting narrative style. I will feel very happy if you think the expectation is fulfilled. A writer cannot be presumptuous of assuming himself to be a wise historian”. At the end of the story, additional information was also added as follows: “The second day of the fourth lunar month in the year of Binh Dan (or Bingyin) – TCHYA (Vietnamese: Ngày mùng hai tháng tư năm Bính Dần – TCHYA) (i.e. NHS emphasis) [17, pp.V-VII]

… In the story, the character named Nguyen Hue, “King of Northern Pacification”, was created by TchyA as a merciless, narrow-minded, and envious person: … “As soon as the powerful company of the army came, the king ordered his troops to go straight to the headquarters of Vo Van Nham to arrest and bring Nham to the market for decapitation.

Nham was both surprised and terrified, as he did not understand why his uncle in law mistreated him. Prostrating, he cried, told his grievances, and asked for tolerance from Nguyen Hue. The King of Northern Pacification chuckled and shook his head without saying anything. He directed his soldier to give Nham a small piece of paper, on which the following 12 [Chinese] characters were written clearly: “Bất tu đa ngôn; nhữ tài quá ngã, phi sở ngã dụng” (i.e. Do not be garrulous; you are more talented than me; thus, I cannot keep you alive).

After reading those words, Nham did not know what to say but to complain to God about his tragic destiny. He realised that all entreaties would be in vain, once Hue gave the order. In reality, Hue was not less talented than Nham. What Hue wrote in the piece of paper was just a pretext to kill Nham. One is intentional, while the other is unmindful; thus, it was impossible to avoid the misfortune planned irrationally by the other” [17, pp.135-136].

Later on, the way to name historical figures coarsely such as “Nham” or “Hue” was no longer used in the novels by writers, including Nguyen Huy Thiep. This is certainly reasonable. During the period of the Nguyen dynasty, Nguyen Hue (Quang Trung) and the Tay Son dynasty were called “the usurper” and “the dynasty of usurpers” respectively. Meanwhile, the Tay Son brothers were highly respected by the people, and Quang Trung was adored as a national hero. Particularly, the two tendencies existed concurrently in the context of the early 20th century: the image of Quang Trung was fictionalised variously in stories, while the anniversaries related to him were also held solemnly in the whole country. Both of the tendencies complemented each other without mutual exclusion, leading to new explanations and respect for Quang Trung.

As regards the stories on historical topics alone, Nguyen Huy Tuong with his works titled “The Night of Long Tri Festival” and “Vu Nhu To” was considered to have created an entire world of characters and a new picture of history, which was not only far different from the historical records but also acknowledged widely and profoundly by various social strata in all periods.

Meanwhile, the literary works of Truong Tuu were often called “historical fictions”, “historical novels”, or “historical imitations”. In essence, his two novels, including “Man of Vigour in Bo De” [20, pp.597-751], and “Five Knights” [21, pp.753-885] under the pen-name of Mai Vien, are considered historical novels with specific periods, contexts, and events related to some figures mentioned in the historical records. “Man of Vigour in Bo De” (consisting of 2 volumes and 14 chapters) was based on the historical event, in which Le Hoan, Commander of Ten Armies, seized power from the Dinh dynasty in the late 10th century. The activities carried out by the men of vigour named Bo De and Bach Hac as well as Ms Minh Tam and Ms Minh Chi, members of the Tu Bi party, which was the opposition to the Ten Armies, also show the colour of modernisation and the influence of the contemporary society. In “Five Knights”, which consisted of 2 volumes and 14 chapters and used the social and historical context under the reign of Ly Anh Tong (1138-1175), many characters were created as loyal members of the Quan Anh party mixed with a large number of activities of romantic love, espionage, assassination attempts, and overthrow. This makes the novel more similar to a detective story with forest paths and thrilling cases. In general, both of the historical stories were “novelised” to a great extent with many fictitious characters, details, and events. This is seen as the strength of Truong Tuu’s historical fictitious works among the general current of historical stories.

The above-described comparison demonstrates that before the August revolution in 1945, when creating literary works on historical topics, writers were inclined to develop the novel thinking, instead of outlining portraits of “homeland celebrities” and “national stars” or narrating historical events and figures. Thus, they tended to create a world of new characters with new viewpoints on historical events and figures. This artistic conception was also mentioned by Nguyen Huy Thiep in a fictitious section of the short story titled “Chastity”: “Quach Thi Trinh, a daughter of Quach Ngoc Minh, asked me whether I knew anything about the dead person in the grave. I felt too nervous. To understand whether you know or don’t know, although they are just historical and limited ambiguous estimations, you must be a really strict dreamer” [18, pp.242]… With three short stories titled “Sharp Sword”, “Fired Gold”, and “Chastity”, Nguyen Huy Thiep deluded readers, providing them with a new feeling, taste, and conception of literature and the relation between the literary discourse and historical experiences. Nguyen Huy Thiep did make a contribution towards the renovation and improvement of national literature, aiming at integrating it with the modern kinds of literature in the region and the world as well. His works on historical topics alone have been highly appreciated and recognised by many scholars who are specialised in Vietnamese studies. Greg Lockhart, an Australian researcher, emphasised the creativity made by Nguyen Huy Thiep in his pressing concern about the progression and humanity; he was “a Vietnamese author of the same talent as excellent international writers [9, p.115]. Evelipe Pieller, a French journalist, recognised the way Nguyen Huy Thiep reflected the “strange life of ordinary people” [12, p.152]. Sean Tamis Rose, a French critic, stated: “For him, it is a reminder of the humankind’s responsibility by the contrast” [14, p.497]. T. N. Filimonova, a Russian researcher, acknowledged: “The writer has provided three views on Vietnamese history, three different approaches and assessments” [2, p.353]. Meanwhile, Vietnamese researchers have also enhanced the capacity for adopting the new and strange literary phenomenon and whereby scientific explanations and approaches have been made, as shown in the following papers: “Reading Literary Works Should be Different from Reading Historical Records (Lai Nguyen An) [1, pp.179-187]; “Fired Gold”: “Historical Philosophy” or “Artistic Prose” (Truong Hong Quang – Nguyen Mai Xuan) [13, pp.207-230]; “Thinking of Novels and Modern Folklore” (Hoang Ngoc Hien) [3, pp.355-366]; “Is Baroque Art Found in Nguyen Huy Thiep’s Short Stories?” (Thai Hoa) [4, p.91], in which it is strongly confirmed: “Historical phenomena, events, and figures are seen from various perspectives of common and popular relations without being isolated or one-sided, helping to escape from the dogmatic and voluntarist views. Historical “stars” are lowered by the thinking and behaviour in everyday life. As a result, the gap between those idols, masters of the past, and present-day people have been shortened for contemplation. History cannot consist of only abstract things kept far away from real life” (Vuong Anh Tuan) [19, p.337]. This is entirely appropriate for the creative thinking in arts and the space in the writers’ attitude towards historical figures, as shown in Nguyen Huy Thiep’s works and the written literature on historical topics during the first half of the 20th century.

4. Nguyen Huy Thiep’s works on historical topics from the perspective of actual national history

As regards history, writers (as well as historians) can know just a part of the realities of historical figures such as Le Hoan, Le Van Thinh, Ho Quy Ly, Tran Thu Do, Tran Hung Dao, Huyen Quang, Le Loi, Nguyen Trai, Nguyen Du, Ho Xuan Huong, Hoang Hoa Tham. How are writers allowed to imagine the portraits, talents, and personalities of those figures? It is more important that writers have to choose specific points to explore and create their own characters more appropriate to the real life and national history, aiming at recognising the values of “the true, the good, and the beautiful” and paving the way for creative artistic activities.

The following part in “Complete Annals of Dai Viet” (Vietnamese: Đại Việt sử ký toàn thư) is written about Le Van Thinh:

– “Year of Hinoe-ne or Fire Rat (Vietnamese: Bính Tý), [Hoi Phong] the fifth year [1096], (the third year under the reign of Emperor Zhezong of Song). In spring, in the third month of the lunar year, Le Van Thinh conspired against the king, but he was spared and exiled in Thao Giang. The king was once sitting in a small boat in Dam Dam (Vietnamese: Dâm Đàm) lake, watching people catching fish. Suddenly, the sky was shrouded in fog and cloud. As he heard rowing sounds and thought a boat was coming from the fog, he took a lance and threw it into the fog. When the fog and cloud disappeared in a little while, everyone became too afraid as they saw a tiger on the boat. They shouted: “It’s dangerous!”. The fisherman named Mac Than cast a net to cover the tiger, which then turned out to be Grand Preceptor Le Van Thinh. The king thought Thinh was a high-ranking mandarin; whoever provided the king with help, so he did not have the heart to kill Thinh. Instead, Thinh was sent into exile in Thao Giang. Meanwhile, Muc Than was rewarded with the title as a mandarin together with money and land in Tay Ho for his landholding. Earlier, Van Thinh had a servant, who came from the Dali Kingdom and knew how to practise witchcraft; thus, Thinh intended to use the witchcraft to carry out an act of treachery [10, p.283].

”The part talking about Tran Thu Do in “Complete Annals of Dai Viet” is as follows:

– “Year of Fire Dog (Vietnamese: Bính Tuất) – the second year of Kien Trung dynastic title [1226], (the second year under the reign of Baoqing Emperor of Song). In autumn, on the 19th day of the eighth month of the lunar year, Tran Thu Do killed Ly Hue Tong in Chan Giao pagoda.The father of the Ly king said: “I will commit suicide, after reciting the Buddhist scriptures”. Afterwards, he came into the bedroom and prayed: “The country of our family has already fallen into your hands, but you are still determined to kill me. I am dying today, but your children will have the same destiny in future”. Then, he garrotted himself in the backyard of the pagoda.Thu Do ordered royal mandarins to come and cry for the father of the king. A part of the southern wall of the citadel was broken to make a hole (called “borne gate” at that time), through which the coffin containing the dead body of the king’s father was moved to Yen Hoa ward for cremation. The ash and bones were then kept in Bao Quang stupa with the posthumous title of “Hue Tong”. The queen of Hue Tong was demoted to the title of “Princess Thien Cuc” and married to Tran Thu Do; she was provided with the Lang prefecture as her landholding…”- “Year of Water Dragon (Vietnamese: Nhâm Thìn), [Kien Trung] the eighth year [1232], (From the seventh month of the lunar year, it was the first year under the reign of Thien Ung Chinh Binh; i.e. the fifth year under the reign of Shaoding emperor of Song)…Tran Thu Do killed all the Ly family members. After Thu Do kept the dictatorship for a long time, he killed Hue Tong, making the Ly family members feel melancholic and disappointed. In winter of the same year, the Ly family members carried out worship of the Ly kings in Thai Duong, Hoa Lam. They then had a meal on the floor, under which a deep hole was dug beforehand according to the order of Thu Do. When the Ly family members got drunk, Thu Do made the floor collapse, and they all were, consequently, buried alive. (Seeing that under the reign of Tran Anh Tong, a military general was a member of the Ly family; moreover, it was not mentioned by [Phan] Phu Tien, this story might not be true. It was just temporarily written here) [11, p.8]…”Herein, the following is a part talking about Tran Quoc Tuan in “Complete Annals of Dai Viet”:- “Year of Metal Pig (Vietnamese: Tân Hợi), [Thien Ung Chinh Binh] the 20th year [1251], (From the second month of the lunar year, it was the first year of the Nguyen Phong dynastic title; i.e. the 11th year under the reign of Chunyou emperor of Song or the first year under the reign of Mongke Khan)…The eldest princess Thien Thanh was arranged to get married to the Prince Trung Thanh (his real name still remains unknown). However, Quoc Tuan as a son of Prince Yen Sinh abducted her, and she then got married to Quoc Tuan. On the 15th day of the month, the king held a 7-day ceremony, where marriage-related pictures were displayed, and many games were organised so that members of the royal court and other people could come to see. The king showed his intention of marrying Princess Thien Thanh to the prince Trung Thanh. Earlier, the king sent the princess to the palace of Prince Nhan Dao, who was the father of Trung Thanh. Quoc Tuan wanted to get married to Princess Thien Thanh, but he was not allowed by the king. Thus, at night, he sneaked into the sleeping place of the princess and committed fornication.Princess Thuy Ba (the older sister of Thai Tong and the aunt of Quoc Tuan), who adopted Quoc Tuan, immediately came to the palace of the king. The doorkeeper quickly rushed and reported it to the king. When the king asked her what happened, she replied: “Unexpectedly, Quoc Tuan was so extravagant and wicked that he sneaked into the sleeping place of Thien Thanh at night. He was arrested and is now kept by Nhan Dao. I am afraid he will be harmed. Your Majesty, please condescend to send people to rescue him”. The king, in a hurry, ordered his old woman to come to the palace of Prince Nhan Dao. When she came there, it was completely quiet. Thus, she came into the sleeping place of Thien Thanh and saw Quoc Tuan staying there. Only by that time did Nhan Dao realise the fact. Next day, Thuy Ba offered 10 trays of gold to the king, submitted a proposal for Quoc Tuan’s marriage with the princess, and said: “As being in an awful hurry, we have not prepared all betrothal gifts”. The king reluctantly agreed to marry Princess Thien Thanh to Quoc Tuan, while giving 2,000 plots of land in Ung Thien prefecture to Prince Trung Thanh as a compensation for his betrothal gifts [11, p.14]”.Based on the above-mentioned historical data, the writers who want to create literary works on historical topics can further explore the personalities, skills, and capacities as well as the psychology of their own characters in the context and specific situations under the feudal regimes, avoiding the modernised writing style and a biased exaggeration. This is, certainly, neither “a desacralisation” nor “an idol dethronement”, but it aims at creating lively historical characters, while ensuring the values of the true, the good, and the beautiful as well as dealing with the relationships between the lofty and the common, the mighty and the tragic, the heroes and the artists, the extraordinary and the ordinary, the community and individuals… Based on the life of historical figures such as Nguyen Trai, Nguyen Thi Lo, Nguyen Hue, Nguyen Du, Nguyen Anh, Ho Xuan Huong, Hoang Hoa Tham, Tu Xuong, and Nguyen Thai Hoc, short stories were created by Nguyen Huy Thiep with impressive and profound artistic figures, which attract readers to the historical portraits and realities in the past.

5. Open conclusion

Reviewing Nguyen Huy Thiep’s literary works on historical topics from the perspectives of theories, historical nature, and experience, I would like to emphasise the three following points:

Firstly, it is necessary to put our trust in the writers as well as the readers of literary works on historical topics. It is nonsensical to accuse literary talents and readers of making mistakes and scheming to carry out “idol dethronement”. The goodwill will make those, who work in the same field, not exaggerate the viewpoint or put a label on the works. They, therefore, can have discussions for the purpose of finding out the most appropriate explanations.

Secondly, it is necessary to place the literary works on historical topics created by Nguyen Huy Thiep and other contemporary writers in the general current of the artistic and literary works on historical topics, at least from the perspective of the modern literary achievements and the literature written in the Vietnamese alphabet from the beginning of the 20th century up to now.

Thirdly, for ongoing controversial issues, it is necessary to have real democratic and just discussions without concealing or subsidising the truth deliberately. With a long-term vision, we need to organise many seminars, workshops, conferences, and in-depth surveys on the literary works on historical topics for specific periods, genres, authors and works. To have a progressive mechanism for administering artistic and literary activities (including also the orientations for literary and artistic creations on historical topics), it is always essential to rely on knowledge, paving the way for creation and development.

Notes

2 The paper was published in Vietnamese in Nghiên cứu Văn học, số 3-2018. Translated by Nguyen Tuan Sinh. Edited by Etienne Mahler.References

[1] Lại Nguyên Ân (2001), “Đọc văn phải khác với đọc sử”, trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Nxb Văn hoá – Thông tin, Hà Nội, tr.179-187. [Lai Nguyen An (2001), “Reading Literary Works Should be Different from Reading Historical Records”, in Pham Xuan Nguyen’s publication (collected and edited) (2001), “Quest for Nguyen Huy Thiep”. Culture and Information Publishing House, Hanoi, pp.179-187].[2] T.N. Filimonova (1993), Lịch sử Việt Nam qua truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Việt Nam truyền thống, Moskva; in lại trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Sđd, tr.342-354. [T.N. Filimonova (1993), Vietnam’s History in Nguyen Huy Thiep’s Short Stories. Traditional Vietnam, Moscow; reprinted in Pham Xuan Nguyen’s publication (collected and edited) (2001), “Quest for Nguyen Huy Thiep”. Op.cit. pp.342-354].[3] Hoàng Ngọc Hiến (2001), Tư duy tiểu thuyết và follklore hiện đại (Nhân đọc mấy truyện lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp); trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Sđd, tr.355-366. [Hoang Ngoc Hien (2001), Thinking of Novels and Modern Folklore (On the Occasion of Reading Some Nguyen Huy Thiep’s Historical Tales); in Pham Xuan Nguyen’s publication (collected and edited) (2001), “Quest for Nguyen Huy Thiep”. Op.cit. pp. 355-366].[4] Thái Hòa (1989), Có nghệ thuật ba-rốc trong các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp hay không? Tạp chí Văn học, số 2, tr.84-91, 107. [Thai Hoa (1989), Is Baroque Art Found in Nguyen Huy Thiep’s Short Stories? Review “Literature”, No. 2, pp.84-91, 107].[5] Trúc Khê (1941), Đừng lầm lẫn truyện ký là sử ký, đừng lẩn thẩn gọi tôi là sử gia. Nước Nam, số 124, ra ngày 13-9-1941, tr.1. [Truc Khe (1941), Do Not Mistake Narrative Stories for Historical Records; Do Not Be Foolish to Call Me a Historian. Newspaper “Nuoc Nam”, No. 124, on 13 Sept. 1941, p.1].[6] Tạ Ngọc Liễn (1988), Về truyện ngắn Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp. Văn nghệ, số 26, ngày 26-6-1988, tr.10. [Ta Ngoc Lien (1988), On the Short Story “Fired Gold” by Nguyen Huy Thiep. Newspaper “Literature and Arts”, No. 26, on 26 June 1988, p.10].[7] Tạ Ngọc Liễn (1988), Về mối quan hệ giữa sử và văn. Nhân dân, số 12464, ngày 28-8-1988, tr.4. [Ta Ngoc Lien (1988), On the Relations between History and Literature, Nhan Dan (People) Newspaper, No. 12464, on 28 August 1988, p.4].[8] Nguyễn Văn Linh (1988), Bài nói chuyện của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh trong cuộc gặp gỡ văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hóa (7 tháng 10 năm 1987). Tạp chí Văn học, số 1, tr.11-16. [Nguyen Van Linh (1988), General Secretary Nguyen Van Linh’s Speech at the Meeting with Artists, Writers, and Cultural Practitioners (on 7 October 1987). Review “Literature”, No. 1, pp.11-16].[9] Greg Lockhart (1989), Tại sao tôi dịch truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ra tiếng Anh? Tạp chí Văn học, số 4, tr.49-53. [Greg Lockhart (1989), Why Did I Translate Nguyen Huy Thiep’s Short Stories into English? Review “Literature”, No. 4, pp.49-53].[10] Nhiều tác giả (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập I (Ngô Đức Thọ dịch, chú). Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.283. [Many authors (1998), Complete Annals of Dai Viet, Vol. I (translated and annotated by Ngo Duc Tho). Social Sciences Publishing House, Hanoi, p.283].[11] Nhiều tác giả (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II (Ngô Đức Thọ dịch, chú). Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.8, 14. [Many authors (1998), Complete Annals of Dai Viet, Vol. II (translated and annotated by Ngo Duc Tho). Social Sciences Publishing House, Hanoi, pp. 8, 14]. [12] Evelipe Pieller (2000), Lời giới thiệu hai tập truyện ngắn của Nguyễn huy Thiệp: Trái tim hổ và Tướng về hưu, xuất bản tại Pháp. La Quinzaine Literaire, ngày 31-3; in lại trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Sđd, tr.152-153. [Evelipe Pieller (2000), Introduction of Two Nguyen Huy Thiep’s Short Stories: “Tiger Heart” and “Retired General” published in France. La Quinzaine Literaire, on 31 March; reprinted in Pham Xuan Nguyen’s publication (collected and edited) (2001), Quest for Nguyen Huy Thiep, op.cit. pp. 152-153].[13] Trương Hồng Quang – Nguyễn Mai Xuân (1989), Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp – “triết học lịch sử” hay là “văn xuôi nghệ thuật”? Tạp chí Văn học, số 2, tr.74-83. [Truong Hong Quang – Nguyen Mai Xuan (1989), Nguyen Huy Thiep’s “Fired Gold”: “Historical Philosophy” or “Artistic Prose”, Review “Literature”, No. 2, pp.74-83].[14] Sean Tamis Rose (2000), Trái tim Thiệp. Libération, ngày 18-5; in lại trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Sđd, tr.497-500. [Sean Tamis Rose (2000), Thiep’s Heart. Libération, on 18 May; reprinted in Pham Xuan Nguyen’s publication (collected and edited) (2001), Quest for Nguyen Huy Thiep, op.cit. pp.497-500].[15] Nguyễn Hữu Sơn (2000), Sáng tác về đề tài lịch sử, trong sách Điểm tựa phê bình văn học. Nxb Lao động, Hà Nội, tr.42-49. [Nguyen Huu Son (2000), Literary Works on Historical Topics, in the publication “Fulcrum for Literary Criticism. Labour Publishing House, Hanoi, pp.42-49].[16] Nguyễn Hữu Sơn (2009), Văn xuôi Trương Tửu trước Cách mạng tháng Tám 1945, trong sách Trương Tửu – Tuyển tập văn xuôi. Nxb Lao động, Hà Nội, tr.5-21. [Nguyen Huu Son (2009), Truong Tuu’s Prose before the August Revolution of 1945, in the book “Truong Tuu: Prose Collection”. Labour Publishing House, Hanoi, pp.5-21]. [17] TchyA (1953), Kho vàng Sầm Sơn. Tái bản. Nxb Nam Cường, Sài Gòn. [TchyA (1953), Wreck of Gold in Sam Son. Reprinted. Nam Cuong Publishers, Saigon].[18] Nguyễn Huy Thiệp (2001), Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (Anh Trúc tuyển chọn). Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 388 trang. [Nguyen Huy Thiep (2001), Collection of Nguyen Huy Thiep’s Short Stories (collected by Anh Truc). Women’s Publishing House, Hanoi, 388 pages]. [19] Vương Anh Tuấn (1989), Lịch sử trong quan niệm của Nguyễn Huy Thiệp. Tạp chí Văn học, số 3, tr.37-42. [Vuong Anh Tuan (1989), History in Nguyen Huy Thiep’s Conception. Review “Literature”, No. 3, pp.37-42]. [20] Mai Viên (1942), Tráng sĩ Bồ Đề. Nxb Hàn Thuyên, Hà Nội. In lại trong sách Trương Tửu – Tuyển tập văn xuôi (Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm, biên soạn). Nxb Lao động, Hà Nội, 2009, tr.597-751. [Mai Vien (1942), Man of Vigour in Bo De. Han Thuyen Publishing House, Hanoi. Reprinted in the book “Truong Tuu: Prose Collection” (collected and edited by Nguyen Huu Son) . Labour Publishing House, Hanoi, 2009, pp.597-751]. [21] Mai Viên (1942), Năm chàng hiệp sĩ. Nxb Hàn Thuyên, Hà Nội. In lại trong sách Trương Tửu – Tuyển tập văn xuôi. Sđd, tr.753-885. [Mai Vien (1942), Five Knights. Han Thuyen Publishing House, Hanoi. Reprinted in the book “Truong Tuu: Prose Collection”, op.cit., pp. 753-885] (PHOTO, 2011)

Tưởng nhớ NGUYỄN HUY THIỆP – Nhà văn Anh hùng thời Đổi mới (1950-2021)…

NHẬN DIỆN NHỮNG SÁNG TÁC VỀ ĐỀ TÀI LỊCH SỬ CỦA NGUYỄN HUY THIỆP
PGS. TS. NGUYỄN HỮU SƠN (Viện Văn học)


Nguồn: Assessment of Nguyen Huy Thiep’s Works on Historical Topics. Vietnam social sciences, No3 (191)-2019, tr.80-92.

Tóm tắt:

Đánh giá sáng tác về đề tài lịch sử của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp là một vấn đề khó, không dễ thống nhất và làm thành thách thức, “phép thử” cho những quan niệm tư tưởng nghệ thuật và cách lý giải khác nhau. Tuy nhiên, không thể bỏ qua hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp một khi bàn đến chủ điểm “Sáng tạo văn học, nghệ thuật về đề tài lịch sử” từ thời Đổi mới đến nay. Về cơ bản, các sáng tác về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp có nhiều điểm tương đồng với tư duy nghệ thuật giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, đồng thời đã được cách tân, nâng cao và hiện đại hóa. Các tác phẩm này đã đi sâu khai thác, phản ánh số phận con người, dân tộc, thời đại, được công chúng bạn đọc ghi nhận, đánh giá cao, tái bản nhiều lần và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới…
Từ khóa: Nguyễn Huy Thiệp, Đề tài lịch sử, Văn học thời Đổi mới

1. Mở đầu

Đi sâu khảo sát các sáng tác về đề tài lịch sử có thể nhận thấy những bước chuyển tiếp, giao thoa và phát triển đáng chú ý. Trước hết là số tác phẩm xuất hiện trong bối cảnh kháng chiến chống Pháp và Mỹ (1945-1975) thường được duy danh qua các phụ đề như “truyện danh nhân”, “danh nhân lịch sử”, “truyện lịch sử”, “truyện ký lịch sử”, “gương sáng ngàn năm”, “danh nhân quê hương”, “vì sao đất nước”… Những tác phẩm này thường lấy chính danh nhân làm đối tượng phản ánh, lấy tiểu sử và sự nghiệp làm cốt truyện và theo sát tính chính xác của các biến cố, sự kiện lịch sử, không tô vẽ, hư cấu quá xa thực tế. Tác giả của những thiên truyện này chủ yếu là các nhà khảo cứu văn hóa – lịch sử, nhà giáo am tường danh nhân (chẳng hạn, Hà Ân, Quỳnh Cư, Nguyễn Đức Hiền, Nguyên Hồng, Vũ Ngọc Khánh, Nguyễn Lộc, Bùi Văn Nguyên, Chu Thiên, Nguyễn Huy Tưởng, Thái Vũ… viết về các nhân vật lịch sử Lê Hoàn, Lý Anh Tông, Trần Hưng Đạo, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Toản, Liễu Hạnh, Nguyễn Trãi, Nguyễn Chích, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Quang Trung, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Quận He Nguyễn Hữu Cầu, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám…). Phần chủ yếu nằm ở trung tâm dòng chảy đề tài lịch sử in đậm vai trò chủ thể sáng tạo ở các tác phẩm sáng tác từ thời kỳ Đổi mới (1986) được định vị qua hệ thống các thể loại như tiểu thuyết, truyện ngắn (Chẳng hạn, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Xuân Khánh, Hoàng Quốc Hải, Ngô Văn Phú, Nguyễn Khắc Phục, Hoài Anh, Nguyễn Quang Thân, Lưu Sơn Minh…), kịch lịch sử (Chẳng hạn, Nguyễn Đình Thi, Lê Duy Hạnh và liên hệ với Hội diễn Chèo toàn quốc năm 2009 tổ chức tại thành phố Hạ Long có 12/19 vở hướng về các đề tài lịch sử, danh nhân, anh hùng chiến trận…). Trên thực tế, các sáng tác về đề tài lịch sử trong nước và trên thế giới cũng không hiếm các trường hợp gây nên những cuộc bàn cãi và cảm ứng tiếp nhận khác nhau. (Đơn cử về Thái hậu Dương Vân Nga (thế kỷ X) được coi là “bất chính” hay “nhân văn”, “đại nghĩa”? Nhân vật Janđa trong lịch sử Pháp (thế kỷ XV) được nhìn nhận là “tà đạo”, “quỷ nữ” hay là “thánh nữ”, “anh hùng giải phóng dân tộc”?…). Rõ ràng “số phận lịch sử” của kiểu sáng tác lịch sử này cần được xem xét một cách nghiêm túc trên tất cả các phương diện tâm lý sáng tạo nghệ thuật, biên giới của tưởng tượng, tâm lý tiếp nhận và khả năng phát triển của đề tài – thể tài để giúp ích cho định hướng nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn về quá khứ lịch sử và dân tộc [15, tr.42-49]…

2. Sáng tác về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp trong dòng chảy văn học thời Đổi mới.

Bàn về đề tài/ chủ đề/ thể tài lịch sử, trước hết có lẽ cần khu biệt kiểu sáng tác mà nhân vật và sự kiện lịch sử dường như chỉ là cái cớ để tác giả tưởng tượng, hư cấu một cốt truyện hoàn toàn khác; thay vì mô tả hiện thực sự thật là một hiện thực nghệ thuật giả định, thay vì nhận thức kinh nghiệm lịch sử là tâm tưởng bổ sung một cách hình dung mới về nhân vật và diện mạo lịch sử. Đây là trường hợp các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp được gợi tứ từ các nhân vật lịch sử như Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ, Nguyễn Huệ, Nguyễn Du, Nguyễn Ánh, Hồ Xuân Hương, Hoàng Hoa Thám, Tú Xương, Nguyễn Thái Học… đã tạo nên những luồng dư luận khác nhau sôi nổi một thời.Bàn đến sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp về đề tài lịch sử là một vấn đề khó, phức tạp, không dễ thống nhất và làm thành một thách thức, một “phép thử” cho những quan niệm tư tưởng nghệ thuật và cách lý giải khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế không thể bỏ qua hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp một khi bàn đến chủ điểm “Sáng tạo văn học, nghệ thuật về đề tài lịch sử” từ thời Đổi mới đến nay.Có thể nói hầu hết các tác phẩm viết về đề tài lịch sử liên quan đến các danh nhân nói trên của Nguyễn Huy Thiệp đều được lược qui về kiểu truyện “giả lịch sử”, “phỏng lịch sử”, “nhại lịch sử”… Dù mức độ đậm nhạt có khác nhau nhưng nhìn chung hiện thực lịch sử chủ yếu là cái cớ để Nguyễn Huy Thiệp sáng tạo nên những cốt truyện mới, những hoàn cảnh mới và những tính cách nhân vật kiểu mới. Nhà văn dẫn dắt độc giả đến với những số phận, cảnh đời, sự kiện, tình tiết, không gian, thời gian khác lạ, không hề có trong chính sử, tạo nên một hiện thực lịch sử nào khác và khiến bạn đọc phải băn khoăn với những trang hiện thực lịch sử giả tưởng ấy. Điều này khiến độc giả – cụ thể và chuyên nghiệp hơn là giới phê bình – buộc phải bày tỏ thái độ, phân chia chiến tuyến, trình diễn những cách tiếp nhận riêng tùy theo sở học và quán tính văn hóa của mình. Vào năm 1988, khi Nguyễn Huy Thiệp in các truyện ngắn Kiếm sắc, Vàng lửa và Phẩm tiết trên báo Văn nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam), ngay sau đó đã xuất hiện nhiều ý kiến phản bác mạnh mẽ. Căn nguyên của sự phản bác này có hai lý do mà tự nhà phê bình cũng đã thừa nhận một cách không tự giác. Thứ nhất, ý kiến nhà sử học Tạ Ngọc Liễn cho rằng: “Vàng lửa là một truyện ký danh nhân, lịch sử” (điều này thể hiện là một sai lầm trong nhận thức về bản chất thể loại) và dẫn đến lối mòn tiếp nhận thực dụng, đòi hỏi nhà văn phải trả lời câu hỏi theo lối minh họa, hiển ngôn: “Điều người đọc quan tâm chủ yếu là qua hình tượng, ngôn ngữ nghệ thuật, họ muốn biết nhà văn nói gì, giải quyết vấn đề gì, những cái đó có phản ánh đúng bản chất lịch sử hay không, có đem lại cho họ những xúc động sâu xa không?” [6, tr.10]; thứ hai, khẳng định cách nhìn, suy nghĩ, tập giảng theo lối mòn, “bắt vít” vào những định đề xưa cũ: “Theo quan niệm của chúng ta từ trước tới nay…” (điều này khiến cho bản thân nhà phê bình không biết “tự cởi trói”, không mở đường tiếp cận được với cái mới và cản trở sự phát triển của tư duy sáng tạo nghệ thuật) [7, tr.4]… Đặt trong tương quan chung, xem ra người làm phê bình lại chưa theo kịp những định hướng đổi mới của đời sống văn nghệ. Bởi lẽ từ một năm trước đó, trong quá trình khởi động và phát triển đường lối văn nghệ, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã nắm bắt thực tế tình hình văn nghệ đất nước, dành ra hai ngày tham dự hội thảo (ngày 6, 7 tháng 10-1987) và có bài nói chuyện quan trọng trong cuộc gặp gỡ văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hóa. Mặc dù đối tượng chủ yếu ở đây là các nhà quản lý và hướng đến hoạt động sáng tác nhưng tinh thần chung hoàn toàn có tác động trực tiếp và sâu sắc đến đội ngũ các nhà nghiên cứu, phê bình văn học: “Các đồng chí có nói nhiều đến sự “cởi trói”. Có như vậy mới phát huy được hết khả năng trong lĩnh vực của các đồng chí. “Cởi trói” như thế nào? “Cởi trói” nói ở đây trước hết tôi nghĩ rằng Đảng phải cởi trói. Cởi trói trong lĩnh vực tổ chức, chính sách, trong các quy chế, chế độ”; đồng thời nhấn mạnh sự thay đổi từ quan niệm, cơ chế, đường lối đến việc phát huy tinh thần tự chủ vốn được coi là bản chất và phẩm chất, bản lĩnh của người hoạt động trên lĩnh vực văn hóa văn nghệ: “Một mặt khác, tôi nghĩ, trong lĩnh vực của các đồng chí, không thể có ai khác hơn là các đồng chí phải tự làm” [8, tr.11-16]…

Về cơ bản, tôi cho rằng những sáng tác về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp rất mới nếu so với kiểu sáng tác “truyện ký danh nhân”, “truyện lịch sử” thiên về định hướng tuyên truyền trong bối cảnh đặc thù thời chiến tranh, cả dân tộc dồn toàn bộ tâm sức cho nhiệm vụ cứu nước (1945-1975) nhưng lại là không mới (đúng hơn là sự trở lại, tiếp nối phương thức nghệ thuật thể hiện đề tài lịch sử giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX). Đương nhiên thời Pháp thuộc vẫn có chế độ kiểm duyệt (có sách bị tịch thu hoặc bài báo bị cắt, phải bỏ trắng cả trang) nhưng được thực hiện công khai, có người chịu trách nhiệm và được đảm bảo bằng những qui phạm pháp luật. Một thời không có ai trói ai và cũng không ai nghĩ đến chuyện “cởi trói”, “tự cởi trói” nên nhà văn cứ hồn nhiên cảm nhận, suy tư, chiêm nghiệm, thử nghiệm, tái tạo lịch sử bằng sáng tạo nghệ thuật. Điều này được đảm bảo bằng nhiều tiểu thuyết lịch sử Pháp và phương Tây được dịch, giới thiệu khá rộng rãi ở Việt Nam. Có thể nói nhận thức về các loại hình, thể loại và tính mục đích của sự tiêu dùng nghệ thuật đã trở thành kiến thức tương đối phổ thông. Từ tám mươi năm trước, nhà văn, nhà khảo cứu Trúc Khê (1901-1947) trong bài viết Đừng lầm lẫn truyện ký là sử ký, đừng lẩn thẩn gọi tôi là sử gia từng lên tiếng phân biệt văn gia với sử gia, truyện ký với sử ký, xác định sự hình thành “tư trào văn học ở bên ngoài gần đây, có sự đổi thay, đã có nhiều nhà văn sĩ viết những truyện ký bằng lối tiểu thuyết hóa” và đi đến khẳng định: “Những quyển truyện ký này, tuy những cái chi tiết vụn vặt, họ viết bằng sự tưởng tượng ra, nhưng tưởng cũng không hại gì, mà một mặt nữa, nó đã có được cái hiệu quả là làm cho nhiều người vui đọc để biết rộng chuyện sử. Vậy thì, trong cõi văn học của ta, cũng không nên thiếu loại sách ấy” [5, tr.1]… Thế cho nên Nguyễn Tử Siêu (1898-1965) viết Đỉnh núi cành mai, Tiếng sấm đêm đông, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Trần Nguyên chiến kỷ, Việt Thanh chiến sử; Ngô Đình Chiến (?) viết Người đương đầu với vua Gia Long khai sáng nhà Nguyễn: Nguyễn Huệ (Hà thành ngọ báo, 26 kỳ, 1935); Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm (1902-1977) viết Quang Trung (in báo Nước Nam, 1939-1940; in sách, 1944); TchyA Đái Đức Tuấn (1908-1969) viết Kho vàng Sầm Sơn; Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960) viết Đêm hội Long Trì, Vũ Như Tô, Cột đồng Mã Viện, An Tư công chúa; Trương Tửu (1913-1999) viết Tráng sĩ Bồ Đề, Năm chàng hiệp sĩ, v.v… đều mở rộng trí tưởng tượng, tạo lập được nhiều cốt truyện và nhân vật ly kỳ, sinh động, khác biệt rất nhiều so với chính sử. Có thể nói ý thức yêu nước, tinh thần phục hưng dân tộc, khai phóng xã hội và dân chủ trong hoạt động báo chí, xuất bản đã hợp lực tạo nên mùa bội thu sáng tác về đề tài lịch sử dưới thời thực dân nửa phong kiến trong quá khứ.

3. Sáng tác về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp nhìn từ kinh nghiệm văn chương nửa đầu thế kỷ XX.

Tôi xác định những sáng tác về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp không mới khi đặt trong tương quan với những sáng tạo cùng kiểu thức trong văn học giai đoạn 1932-1945. Chẳng hạn, Nguyễn Huy Thiệp có lối mở đầu và kết thúc “bịa như thật”, nói rằng mình đã được nghe kể, chứng kiến, có nhân chứng, vật chứng trong hầu hết các truyện,… khiến có người nhầm tưởng đây là những cứ liệu lịch sử thì

TchyA Đái Đức Tuấn trong Kho vàng Sầm Sơn (1940) cũng có Lời nói đầu giăng mắc giữa thực và ảo, giữa tiếng nói người kể chuyện và kỹ xảo của nhà tiểu thuyết:“Vào khoảng năm 1934, ở bãi Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, phía Bắc Trung Kỳ, nhà nước có khám phá được một kho vàng chìm đắm dưới đáy bể. Khi tải sản nghiệp lớn ấy lên mặt đất người ta thấy có mấy trăm thoi vừa vàng vừa bạc, hình chữ nhật, dài độ gang tay, trên thoi nào cũng có khắc dấu chữ ĐỨC. Lại thấy rất nhiều tiền Cảnh Hưng và các thứ tiền Tàu, từ đời Vạn Lịch (Minh Thần Tôn) cho đến đời Càn Long (Thanh Cao Tôn)…

Xét trong lịch sử, kho vàng bạc kia ắt phải thuộc về đời Lê mạt. Nếu trong thời Lê Quý, sản nghiệp đó không phải của hai anh em Tây Sơn, thì chỉ còn là của Hữu Quân đô đốc Nguyễn Hữu Chỉnh.… Chỉnh bị Nguyễn Nhạc, theo lời gièm pha của rể là Võ Văn Nhậm, bỏ một mình ở lại Bắc Hà, nên ngày hôm sau sợ quá, cho cả của cải lên thuyền, chạy theo về Nghệ. Chỉnh là người có mưu trí, không bao giờ đem vàng bạc ở bên người, phần sợ thuyền nặng khó đi nhanh, phần sợ bị cướp hại đến mạng. Thế tất Chỉnh phải giao tài sản cho con trông coi hộ, mình thì cưỡi thuyền nhẹ theo Nhạc về cho mau.Cứ xem như thế, kho vàng kia tất là của Nguyễn Hữu Chỉnh.

Dựa vào lời phỏng đoán có nhiều phần đúng sự thật ấy, tôi viết bộ truyện ly kỳ này, một là để tưởng nhớ lại một thời oanh liệt đã qua, hai là để hiến các bạn một thể truyện lịch sử mới.Câu chuyện này hoàn toàn là một truyện dã sử, nhưng nó có liên lạc mật thiết với chính sử nước nhà. Có lắm đoạn, tôi phải chép gần đúng văn của ông Trần Trọng Kim nhà làm sử cương trực và uyên bác đã soạn ra bộ Việt Nam sử lược.Những vật liệu tôi góp nhặt để xây đắp câu chuyện “kho vàng” này, nó không đúng hẳn với các việc chép trong chính sử đâu; song le, dù nó đúng hay không đúng, tôi cũng không quản ngại: tôi chỉ muốn dựa vào lịch sử để tạo ra một tiểu thuyết, có phải muốn dùng tiểu thuyết ấy để làm sống một thời lịch sử đâu?

Các bạn đọc truyện này hãy nên lượng cho tôi chỗ đó. Cái cốt truyện hay, giãi bằng một thể văn không tẻ, đó là sở nguyện của tôi. Nếu bạn cho là tôi đã đạt được mục đích ấy, tôi lấy làm sung sướng lắm rồi. Một nhà văn còn đâu dám tự phụ mình cũng là một sử gia uyên bác?”, và có thêm phần lạc khoản: “Ngày mùng hai tháng tư năm Bính Dần – TCHYA” (NHS nhấn mạnh) [17, tr.V-VII…

Ở đây TchyA cũng xây dựng nhân vật Bắc Bình vương Nguyễn Huệ như một kẻ nhẫn tâm, tiểu khí, tâm địa hẹp hòi, đố kỵ người tài:… “Đại đội hùng binh vừa tới nơi, vương truyền lịnh kéo thẳng đến hành doanh Võ Văn Nhậm, trói gô Nhậm lại giải ra chợ trảm quyết.Nhậm vừa lấy làm lạ, vừa kinh sợ, không hiểu vì lẽ gì chú vợ mình lại xử tệ với mình. Y lạy phục xuống thềm, khóc lóc kể lể nỗi oan ức và xin Nguyễn Huệ khoan dung cho. Bắc Bình vương chỉ lắc đầu, cười gằn, không nói gì cả, sai lính đưa ra cho Nhậm một mảnh giấy nhỏ, trên có đề mười hai chữ rõ rệt: “Bất tu đa ngôn; nhữ tài quá ngã, phi sở ngã dụng” (Chớ khá nhiều lời; tài mày hơn tao, tao không dùng được).Nhậm mượn đọc xong, không còn biết nói thế nào, chỉ kêu trời kêu đất, oán thán phận mình. Nhậm biết rằng Huệ đã truyền lệnh, có xin van cũng vô ích. Tài Huệ nào có kém Nhậm, nhưng Huệ nói thế, chỉ để có cớ giết Nhậm mà thôi. Một người hữu ý, một kẻ vô tình; ai tránh cho khỏi tai vạ mà tha nhân đã lập tâm gieo trên đầu mình một cách quá tự nhiên, vô lý?” [17, tr.135-136]…

Về sau này, kể cả đến Nguyễn Huy Thiệp, không thấy ai gọi tên suồng sã “Nhậm, Nhậm, Huệ, Huệ…” giọng điệu tiểu thuyết như thế nữa! Điều này có lý bởi suốt thời Nguyễn, nhà Tây Sơn – Nguyễn Huệ luôn bị coi là “ngụy triều”, “ngụy tặc”, trong khi nhân dân vẫn ngưỡng vọng, tôn thờ Quang Trung là anh hùng dân tộc. Đặc biệt trong bối cảnh đầu thế kỷ XX đã diễn ra hiện tượng song hành: hình tượng Quang Trung vừa được tiểu thuyết hóa theo nhiều chiều kích khác nhau vừa vẫn được tổ chức kỷ niệm trọng thể trong cả nước; cả hai bổ sung cho nhau, không loại trừ nhau, đưa đến những cách lý giải và tôn vinh kiểu mới về Quang Trung – Nguyễn Huệ.

Với Nguyễn Huy Tưởng, nói riêng về đề tài lịch sử với những Đêm hội Long Trì, Vũ Như Tô, chưa thấy ai đi xa hơn ông trong việc sáng tạo nên cả một thế giới nhân vật, một bức tranh lịch sử mới, một hiện thực lịch sử mới khác rất xa chính sử và được ghi nhận sâu rộng ở các thời kỳ, các môi trường xã hội khác nhau.

Với Trương Tửu, ông có viết dã sử – giả sử, thường được gọi là “truyện dã sử” hay “tiểu thuyết dã sử”, “giả lịch sử”. Trong thực chất, cả hai tiểu thuyết Tráng sĩ Bồ Đề [20, tr.597-751] và Năm chàng hiệp sĩ [21, tr.753-885] (ký bút danh Mai Viên) đều thuộc dòng tiểu thuyết lịch sử, có thời gian, bối cảnh, sự kiện, có mối liên hệ với một vài nhân vật được ghi chép trong chính sử. Tiểu thuyết Tráng sĩ Bồ Đề (2 quyển, 14 chương) nương theo sự kiện Thập đạo tướng quân Lê Hoàn thay thế nhà Đinh vào giai đoạn cuối thế kỷ X. Tuy nhiên, hoạt động của các tráng sĩ Bồ Đề, Bạch Hạc và các cô Minh Tâm, Kim Chi trong đảng Từ Bi đối lập với đảng Thập Đạo nơi kinh thành cho thấy màu sắc hiện đại hóa và dấu ấn ảnh hưởng không khí xã hội đương thời. Tiểu thuyết Năm chàng hiệp sĩ (2 quyển, 14 chương) lại lấy bối cảnh lịch sử xã hội thời Lý Anh Tông (1138-1175), xây dựng nhiều nhân vật đảng viên trung kiên của đảng Quần Anh đan xen những mối tình lãng mạn, những hoạt động do thám, thủ tiêu, lật đổ. Điều này khiến thiên tiểu thuyết gia tăng chất truyện trinh thám, cốt truyện vụ án, đường rừng, đưa lại sự hấp dẫn, ly kỳ, hồi hộp cho người đọc. Nhìn chung, cả hai thiên tiểu thuyết lịch sử này đều được “tiểu thuyết hóa” ở mức độ cao, hư cấu thêm nhiều nhân vật, sự kiện, chi tiết, tình tiết. Đây cũng chính là điều sở đắc của loại tiểu thuyết lịch sử (dã sử) của Trương Tửu trong dòng tiểu thuyết lịch sử nói chung…

Đặt một sự so sánh nói trên để thấy rằng các nhà văn trước cách mạng tháng Tám 1945 khi sáng tác về đề tài lịch sử có thiên hướng phát triển tư duy tiểu thuyết chứ không chỉ dừng lại ở mức viết phác thảo chân dung “danh nhân quê hương”, “những vì sao đất nước”, “truyện ký danh nhân, lịch sử”; theo đó, họ hướng tới sáng tạo nên những thế giới nhân vật kiểu mới, đưa đến những cách hình dung mới về lịch sử và nhân vật lịch sử. Định hướng quan niệm nghệ thuật kiểu này cũng từng được Nguyễn Huy Thiệp đề cập đến và ký thác qua đoạn văn giả tưởng trong truyện ngắn Phẩm tiết: “Con gái ông Quách Ngọc Minh là Quách Thị Trình hỏi tôi có biết gì về người phụ nữ nằm trong ngôi mộ hay không? Tôi băn khoăn quá. Phải là người mơ mộng và nghiêm khắc mới hiểu rằng biết hoặc không biết, đều chỉ là những ước lệ mơ hồ, có tính lịch sử và hạn chế” [18, tr.242]… Với bộ ba truyện ngắn lịch sử Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Nguyễn Huy Thiệp đã mê hoặc người đọc, đưa đến những cách cảm nhận mới, thị hiếu mới, quan niệm mới về văn chương, khả năng hư cấu của văn chương và mối quan hệ diễn ngôn văn chương với bài học kinh nghiệm lịch sử. Chính nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã góp phần đổi mới, nâng tầm văn học dân tộc, đưa văn học Việt Nam hội nhập với nền văn học khu vực châu Á và thế giới hiện đại. Nói riêng các sáng tác về đề tài lịch sử đã được các nhà Việt học ghi nhận, đánh giá cao. Nhà nghiên cứu Greg Lockhart (Austrlia) nhấn mạnh năng lực sáng tạo của Nguyễn Huy Thiệp ở những khắc khoải về tiến bộ, nhân bản và “là một tác giả Việt Nam có tài năng ngang tầm với những nhà văn xuất sắc quốc tế” [9, tr.115]; nhà báo Evelipe Pieller (Pháp) xác định khả năng phản ánh “cuộc sống kỳ lạ của những người bình thường” [12, tr.152]; nhà bình luận sách Sean Tamis Rose (Pháp) khẳng định “đối với ông, đấy là sự nhắc nhở trách nhiệm của nhân loại theo cách contraria (tương phản)” [14, tr.497]; nhà nghiên cứu T.N. Filimonova (Nga) ghi nhận “nhà văn đã đưa ra ba cái nhìn về lịch sử Việt Nam, ba cách tiếp cận, đánh giá khác nhau” [2, tr.353]…; trong khi giới nghiên cứu Việt Nam cũng nâng tầm năng lực tiếp nhận trước một hiện tượng văn học mới mẻ, khác biệt, từ đó đề xuất những phương hướng tiếp cận, lý giải thực sự khoa học: “Đọc văn phải khác với đọc sử” (Lại Nguyên Ân) [1, tr.179-187]; “Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp – “triết học lịch sử” hay là “văn xuôi nghệ thuật”? (Trương Hồng Quang – Nguyễn Mai Xuân) [13, tr.207-230]; “Tư duy tiểu thuyết và follklore hiện đại” (Hoàng Ngọc Hiến) [3, tr.355-366]; “có một nghệ thuật (phong cách) ba-rốc trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp” (Thái Hòa) [4, tr.91] và khẳng định mạnh mẽ: “Xem xét các hiện tượng, sự kiện, nhân vật lịch sử trong cả những liên hệ phổ biến, thông thường, không cô lập, một chiều; thoát ra khỏi cách nhìn giáo điều, duy ý chí. Những “ngôi sao” lịch sử được kéo thấp xuống với nững suy tư, xử thế đời thường, rút ngắn khoảng cách giữa những thần tượng, những ông chủ của quá khứ với người hôm nay để họ chiêm nghiệm. Lịch sử không thể chỉ là những cái cao xa treo lơ lửng và trừu tượng trên đời” (Vương Anh Tuấn) [19, tr.337]… Điều này hoàn toàn phù hợp với tư duy sáng tạo nghệ thuật, tinh thần dân chủ trong phương thức và khoảng cách không gian ứng xử giữa nhà văn với nhân vật lịch sử ở trường hợp Nguyễn Huy Thiệp và văn học viết về đề tài lịch sử giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX như đã nêu trên.

4. Sáng tác về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp nhìn từ hiện thực lịch sử dân tộc

Trước lịch sử, nhà văn (kể cả nhà sử học) biết được mấy phần sự thật về một Lê Hoàn, Lê Văn Thịnh, Hồ Quý Ly, Trần Thủ Độ, Trần Hưng Đạo, Huyền Quang, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Hoàng Hoa Thám, Lê Hoan?… Nhà văn được phép hình dung bao nhiêu dáng vẻ chân dung về tài năng, nhân cách của họ? Điều quan trọng hơn, nhà văn cần chọn điểm nhìn nào để khai thác, sáng tạo, xây dựng nhân vật cho phù hợp với hiện thực cuộc sống và lịch sử dân tộc, hướng đến khẳng định những giá trị chân – thiện – mỹ và mở đường cho hoạt động sáng tạo nghệ thuật?…

Này đây, Đại Việt sử ký toàn thư ghi về Lê Văn Thịnh:- Bính Tý, [Hội Phong] năm thứ 5 [1096], (Tống Thiệu Thánh năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 3, Lê Văn Thịnh mưu làm phản, tha tội chết, an trí ở Thao Giang. Bấy giờ vua ra hồ Dâm Đàm, ngự trên thuyền nhỏ xem đánh cá. Chợt có mây mù nổi lên, trong đám mù nghe có tiếng thuyền bơi đến, tiếng mái chèo rào rào, vua lấy giáo ném. Chốc lát mây mù tan, thấy trong thuyền có con hổ, mọi người sợ tái mặt, nói: “Việc nguy rồi!”. Người đánh cá là Mạc Thận quăng lưới trùm lên con hổ, thì ra là Thái sư Lê Văn Thịnh. Vua nghĩ Thịnh là đại thần có công giúp đỡ, không nỡ giết, đày lên trại đầu Thao Giang. Thưởng cho Mục Thận quan chức và tiền của, lại cho đất ở Tây Hồ làm thực ấp. Trước đấy Văn Thịnh có gia nô người nước Đại Lý có phép thuật kỳ lạ, cho nên mượn thuật ấy toan làm chuyện thí nghịch [10, tr.283]…

Này đây, Đại Việt sử ký toàn thư ghi về Trần Thủ Độ:- Bính Tuất, [Kiến Trung] năm thứ 2 [ 1226], (Tống Bảo Khánh năm thứ 2)… Mùa thu, tháng 8, ngày mồng 10, Trần Thủ Độ giết Lý Huệ Tông ở chùa Chân Giáo…… Thượng hoàng nhà Lý nói: “Ta tụng kinh xong sẽ tự tử”. Nói rồi vào buồng ngủ khấn rằng: “Thiên hạ nhà ta đã vào tay ngươi, ngươi lại còn giết ta, ngày nay ta chết, đến khi thác con cháu ngươi cũng sẽ bị như thế”. Bèn thắt cổ tự tử ở vườn sau chùa.Thủ Độ ra lệnh cho các quan đến khóc, khoét tường thành phía nam cửa (người bấy giờ gọi là “cửa khoét”), đưa linh cữu ra phường Yên Hoa để thiêu, chứa xương vào tháp chùa Bảo Quang, tôn miếu hiệu là Huệ Tông. Giáng hoàng hậu của Huệ Tông làm Thiên Cực công chúa, gả cho Trần Thủ Độ, cho châu Lạng làm ấp thang mộc…- Nhâm Thìn, [Kiến Trung] năm thứ 8 [1232], (Từ tháng 7 về sau là Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 1, Tống Thiệu Định năm thứ 5)…Trần Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý. Khi ấy, Thủ Độ chuyên chính lâu ngày, đã giết Huệ Tông, tôn thất nhà Lý đều bùi ngùi thất vọng. Mùa đông năm ấy, nhân người họ Lý làm lễ tế các vua Lý ở Thái Đường, Hoa Lâm, Thủ Độ ngầm đào hố sâu, làm nhà lên trên, đợi khi mọi người uống rượu say, giật máy chôn sống hết.(Xét thời Trần Anh Tông còn có người họ Lý làm tướng, hơn nữa [Phan] Phu Tiên không ghi lại, việc này chưa chắc đã có thực, hãy tạm chép vào đây) [11, tr.8]…

Này đây, Đại Việt sử ký toàn thư ghi về Trần Quốc Tuấn:- Tân Hợi, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 20 [1251], (Từ tháng 2 về sau là Nguyên Phong năm thứ 1, Tống Thuần Hựu năm thứ 11, Nguyên Hiến Tông Mông Kha năm thứ 1)…

Gả trưởng công chúa Thiên Thành cho Trung Thành Vương (không rõ tên). Con trai Yên Sinh Vương là Quốc Tuấn cướp lấy. Công chúa về với Quốc Tuấn. Ngày 15 tháng ấy, vua mở hội lớn 7 ngày đêm, bày các tranh về lễ kết tóc và nhiều trò chơi cho người trong triều ngoài nội đến xem, ý muốn cho công chúa Thiên Thành làm lễ kết tóc với Trung Thành Vương. Trước đó, vua cho công chúa Thiên Thành đến ở trong dinh Nhân Đạo Vương (Nhân Đạo Vương là cha Trung Thành Vương). Quốc Tuấn muốn lấy công chúa Thiên Thành, nhưng không làm thế nào được, mới nhân ban đêm lẻn vào chỗ ở của công chúa thông dâm với nàng.

Công chúa Thụy Bà (chị ruột của Thái Tông, cô của Quốc Tuấn, nuôi Quốc Tuấn làm con) liền đến gõ cửa điện cáo cấp. Người coi cửa vội vào tâu. Vua hỏi có việc gì, Thụy Bà trả lời: “Không ngờ Quốc Tuấn ngông cuồng càn rỡ, đang đêm lẻn vào chỗ Thiên Thành, Nhân Đạo đã bắt giữ hắn rồi, e sẽ bị hại, xin bệ hạ rủ lòng thương, sai người đến cứu”. Vua vội sai nội nhân đến dinh Nhân Đạo Vương. Đến nơi, thấy yên lặng, bèn vào chỗ Thiên Thành, thì thấy Quốc Tuấn đã ở đấy. Nhân Đạo bấy giờ mới biết chuyện. Hôm sau, Thụy Bà dâng 10 mâm vàng sống, tâu rằng: “Vì vội vàng nên không sắm được đủ lễ vật”. Vua bắt đắc dĩ phải gả công chúa Thiên Thành cho Quốc Tuấn, lấy 2000 khoảnh ruộng ở phủ Ứng Thiên để hoàn lại sính vật cho Trung Thành Vương [11, tr.14], v.v…

Trên cơ sở dữ liệu lịch sử đã nêu, nhà văn sáng tác về đề tài lịch sử hoàn toàn có thể đi sâu khai thác các khía cạnh tính cách, bản lĩnh, tâm lý nhân vật đặt trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể dưới thời phong kiến, tránh lối viết hiện đại hóa, tô màu một chiều. Điều này quyết không phải là sự “giải thiêng”, “hạ bệ thần tượng” mà chính là nhằm góp phần xây dựng các nhân vật lịch sử sinh động, đảm bảo các giá trị chân – thiện – mỹ, trong đó giải quyết tốt mối quan hệ giữa cái cao cả và thông tục, cái hùng và cái bi, anh hùng và nghệ sĩ, phi thường và đời thường, cộng đồng và cá nhân… Trường hợp các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp được gợi tứ từ các nhân vật lịch sử như Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ, Nguyễn Huệ, Nguyễn Du, Nguyễn Ánh, Hồ Xuân Hương, Hoàng Hoa Thám, Tú Xương, Nguyễn Thái Học chính là đã tạo nên những hình tượng nghệ thuật ấn tượng, sâu sắc, sinh động, góp phần khơi mở, hấp dẫn người đọc về chân dung nhân vật và hiện thực lịch sử trong quá khứ xa và gần.

5. Lời kết mở

Từ thực tế những tác phẩm viết về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp đặt trong tương quan điểm nhìn lý luận, bản chất lịch sử và bài học kinh nghiệm sáng tác, xin nhấn mạnh thêm ba nội dung sau.

Thứ nhất, cần phải có niềm tin vào người sáng tác và người đọc tác phẩm viết về đề tài lịch sử. Khó mà qui kết những tài năng văn chương và cả giới bạn đọc lại nhầm lẫn và mưu mô đi “lật đổ thần tượng” của dân tộc mình làm gì. Chỉ có sự thiện chí ấy mới giúp những người cùng chung đội ngũ không nâng quan điểm, không qui chụp và có thể cùng nhau bàn luận, ngõ hầu tìm đến những cách lý giải thỏa đáng.

Thứ hai, cần đặt những sáng tác về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp và nhiều tác giả đương đại khác trong dòng chảy kinh nghiệm sáng tạo văn học – nghệ thuật về đề tài lịch sử, chí ít là những thành tựu trong nền văn học hiện đại, nền văn học Quốc ngữ từ đầu thế kỷ XX đến nay.

Thứ ba, trước những vấn đề còn đương tranh luận, cần có những cuộc trao đổi thật sự dân chủ, bình đẳng, không bao biện, bao cấp chân lý. Trong một tầm nhìn xa, cần tổ chức nhiều những cuộc hội thảo, tọa đàm, thuyết trình, khảo sát chuyên sâu những sáng tác về đề tài lịch sử ở từng thời đại, từng giai đoạn, từng thể loại, từng tác giả và từng tác phẩm cụ thể. Một cơ chế tổ chức và quản lý văn nghệ tiến bộ (trong đó gồm cả việc định hướng những sáng tạo văn học, nghệ thuật về đề tài lịch sử) bao giờ cũng cần dựa trên nền tảng tri thức, mở đường cho sáng tạo và phát triển…

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Lại Nguyên Ân (2001), “Đọc văn phải khác với đọc sử”, trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Nxb. Văn hoá – Thông tin, Hà Nội, tr.179-187.

[2] T.N. Filimonova (1993), Lịch sử Việt Nam qua truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Việt Nam truyền thống, Moskva; in lại trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Sđd, tr.342-354.

[3] Hoàng Ngọc Hiến (2001), Tư duy tiểu thuyết và follklore hiện đại (Nhân đọc mấy truyện lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp); trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Sđd, tr.355-366.

[4] Thái Hòa (1989), Có nghệ thuật ba-rốc trong các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp hay không? Tạp chí Văn học, số 2, tr.84-91+107.

[5] Trúc Khê (1941), Đừng lầm lẫn truyện ký là sử ký, đừng lẩn thẩn gọi tôi là sử gia. Nước Nam, số 124, ra ngày 13-9-1941, tr.1.

[6] Tạ Ngọc Liễn (1988), Về truyện ngắn Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp. Văn nghệ, số 26, ngày 26-6, tr.10.

[7] Tạ Ngọc Liễn (1988), Về mối quan hệ giữa sử và văn. Nhân dân, số 12464, ngày 28-8, tr.4.

[8] Nguyễn Văn Linh (1988), Bài nói chuyện của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh trong cuộc gặp gỡ văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hóa (7 tháng 10 năm 1987). Tạp chí Văn học, số 1, tr.11-16.

[9] Greg Lockhart (1989), Tại sao tôi dịch truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ra tiếng Anh? Tạp chí Văn học, số 4, tr.49-53.

[10] Nhiều tác giả (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập I (Ngô Đức Thọ dịch, chú). Nxb. KHXH, Hà Nội, tr.283.

[11] Nhiều tác giả (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II (Ngô Đức Thọ dịch, chú). Nxb. KHXH, Hà Nội, tr.8, 14.

[12] Evelipe Pieller (2000), Lời giới thiệu hai tập truyện ngắn của Nguyễn huy Thiệp: Trái tim hổ và Tướng về hưu, xuất bản tại Pháp. La Quinzaine Literaire, ngày 31-3; in lại trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Sđd, tr.152-153.

[13] Trương Hồng Quang – Nguyễn Mai Xuân (1989), Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp – “triết học lịch sử” hay là “văn xuôi nghệ thuật”? Tạp chí Văn học, số 2, tr.74-83.

[14] Sean Tamis Rose (2000), Trái tim Thiệp. Libération, ngày 18-5; in lại trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Sđd, tr.497-500.

[15] Nguyễn Hữu Sơn (2000), Sáng tác về đề tài lịch sử, trong sách Điểm tựa phê bình văn học. Nxb. Lao động, Hà Nội, tr.42-49.

[16] Nguyễn Hữu Sơn (2009), Văn xuôi Trương Tửu trước cách mạng tháng Tám 1945, trong sách Trương Tửu – Tuyển tập văn xuôi. Nxb. Lao động, Hà Nội, tr.5-21.

[17] TchyA (1953), Kho vàng Sầm Sơn. Tái bản. Nxb. Nam Cường, Sài Gòn.

[18] Nguyễn Huy Thiệp (2001), Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (Anh Trúc tuyển chọn). Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 388 trang.

[19] Vương Anh Tuấn (1989), Lịch sử trong quan niệm của Nguyễn Huy Thiệp. Tạp chí Văn học, số 3, tr.37-42..

Video yêu thích
Nắng ban mai
KimYouTube

Bài ca nhịp thời gian Run away with me https://youtu.be/_Bs4XcVufqY
KỶ YẾU KHOA NÔNG HỌC 65 năm thành lập Khoa
Mùa xuân đầu tiên (Văn Cao) -Thanh Thúy
Bài học quý biết chăm sóc sức khỏe
Secret Garden, Bí mật vườn thiêng 
Quà tặng cuộc sống yêu thích
Giúp bà con cải thiện mùa vụ
Ban Mai; Chỉ tình yêu ở lại
Ngày hạnh phúc của em
Phim vua Solomon
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter.

Advertisement