Hãy để tôi đọc lại. Sự chậm rãi minh triết. Tôi đọc lại Nguyễn Ngọc Tư sầu riêng và bổ sung thêm ít ghi chú mới. Nguyễn Ngọc Tư có trang “Sầu riêng” riêng tư vừa đủ. Ở đó có thơ; Một vài phiên bản; Hành lý hư vô; Những trang viết mới.
Vị thiền sư Linh Nhạc Phật Ý tại Tổ Đình ngôi chùa cổ Thủ Đức trong giấc mơ lạ “Nguyễn Du nửa đêm đọc lại” đã khuyên tôi lập “Nguyễn Du niên biểu luận” cuộc đời và thời thế Nguyễn Du để tìm hiểu về Người. Theo vị Thiền sư này thì dấu vết chứng cứ sự thật hàng năm của Nguyễn Du là chỉ dấu đáng tin cậy nhất về những sự kiện trọng yếu cuộc đời và thời thế của ông. Điều này chi phối, gợi ý thế xuất xử của bình sinh hành trạng Nguyễn Du, để chúng ta có thể hiểu đúng sự thật huyền thoại về ông. Những sự kiện chính yếu của thời thế đàng Trong và đàng Ngoài với các nước liên quan hệ quy chiếu lấy chính cuộc đời Nguyễn Du và gia tộc của ông làm trung tâm, là dẫn liệu thông tin thực sự có ích để thấu hiểu chính xác ẩn ngữ Truyện Kiều, lịch sử, văn hóa, con người, bối cảnh hình thành kiệt tác”Thúy Kiều” “300 năm nữa chốc mòng, biết ai thiên ha khóc cùng Tố Như”. Sách Đại Nam liệt truyện chính biên sơ tập do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, người dịch Đỗ Mộng Khương, người hiệu đính Hoa Bằng, Viện Sử học Việt Nam, Nhà Xuất bản Thuận Hóa, Huế, năm 2006, trang 400 /716 Tập 2 đã viết: “Nguyễn Du rất giỏi về thơ, làm thơ quốc âm rất hay, khi sang sứ nước Thanh về, có tập thơ “Bắc hành” và truyện “Thúy Kiều” lưu hành ở đời”.
Nguyễn Du niên biểu luận được thiết lập dựa trên các tài liệu chính: 1) Chính sử Nguyễn Du tiểu sử trong sách Đại Nam liệt truyện chính biên sơ tập Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, người dịch Đỗ Mộng Khương, người hiệu đính Hoa Bằng, Viện Sử học Việt Nam, Nhà Xuất bản Thuận Hóa, Huế 2006, Tập 2, trang 400 /716; 2) Bài tựa của Bùi Kỷ trong sách Nguyễn Du Truyện Thúy Kiều, Bùi Kỷ Trần Trọng Kim hiệu khảo Nhà xuất bản Tân Việt năm 1968; Sách này có đủ các bài tựa rất quan trọng mà các sách khác không có. Ghi chú điển cố Truyện Kiều trong sách này được Cụ Bùi Kỷ và Cụ Trần Trọng Kim hiệu khảo kỹ và chuẩn mực với mức tin cậy cao ví như “ngọc bích họ Hòa” với Lạn Tương Như; 3) Gia phả họ Nguyễn ở Tiên Điền trang 73-81, có ba trang tiếng Việt và 6 trang tiếng Hán Nôm. Trong sách Lê Xuân Lít 2005. “200 năm nghiên cứu bàn luận truyện Kiều” Nhà Xuất Bản Giáo Dục ,1995 trang, (mời đọc và kiểm chứng tại Nguyễn Du trăng huyền thoại bài !). 4) Nguyễn Du Truyện Thúy Kiều, do Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim hiệu khảo Nhà xuất bản Tân Việt 1968, sách này được coi là bản Phường gần sự thật nguyên tác hơn hết; 5) Bắc hành tạp lục 132 bài, Thanh Hiên thi tập 78 bài và Nam trung tạp ngâm 40 bài của Nguyễn Du tại Thi Viện Đào Trung Kiên, dẫn liệu đường link ở Nguyễn Du thơ chữ Hán, 6) Ngoại giao Việt Nam thời Tây Sơn; thông tin tuyển chọn từ Bang giao hảo thoại, của Ngô Thì Nhậm, Viện Hán Nôm, Thư viện Khoa học xã hội (sách chép tay chữ Hán), Bang giao tập, Ngô gia văn phái, hiện lưu ở Thư viện khoa học xã hội, bản mang ký hiệu A117a (sách chép tay chữ Hán) thông tin này có đối chiếu với sách Cương mục chính sử Triều Nguyễn với tóm tắt sự kiện trích dẫn tại Kho báu đỉnh Tuyết Sơn 7) Ngô Gia Văn Phái 1984. Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, 8) Lê Quý Đôn toàn tập, Đại Việt thông sử (Lê triều thông sử) ; 9) Trần Trọng Kim, 1999, Việt Nam sử lược, Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin 617 trang, 10) Lê Xuân Lít, 2005 “200 năm nghiên cứu bàn luận truyện Kiều” Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 1995 trang; 11) Nguyễn Thế Quang 2010, Nguyễn Du, tiểu thuyết lịch sử, Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn, 416 trang, 12) Thích Nhất Hạnh 2000, Thả một bè lau, Truyện Kiều dưới cái nhìn Thiền quán,Lá Bối in lần thứ nhất, San Jose , 471 trang 13) Ngô Giáp Đậu, người dịch Ngô Đức Thọ, Mai Xuân Hải, Nguyễn Văn Nguyên, 2013. Hoàng Việt long hưng chí Nhà Xuất bản Hồng Bàng, 469 trang; 14) Dương Quảng Hàm 2005. Việt Nam văn học sử yếu Nhà Xuất bản Trẻ, 688 trang; 15) Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh; Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, 2015. Đại thi hào dân tộc danh nhân văn hóa Nguyễn Du kỷ niệm 250 năm năm sinh Nguyễn Du (Kỷ yếu hội thảo khoa học) NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 997 trang; 16) Lê Nghị 2020 Thử giải mã lại Truyện Kiều; và bài viết “Truyện Kiều có trước hay sau Kim Vân Kiều truyện?” của PGS.TS Đoàn Lê Giang (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh) và tác giả Nguyễn Cẩm Xuyên bài viết “Cần làm sáng tỏ một nghi án văn học “Thanh Tâm tài nhân ” là ai? 17) Phạm Trọng Chánh đọc sách Nguyễn Du trên đường gió bụi của Hoàng Khôi, cùng với các bài nghiên cứu dịch thuật của Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh về Nguyễn Du cuộc đời và tác phẩm. 18) Sách Sông Côn mùa lũ của tác giả Thiện Ngộ Nguyễn Mộng Giác https://nguyenmonggiac.com/song-con-mua-lu.html, sử thi Việt huyền thoại trên 2000 trang mà tôi thật sự tâm đắc có Lời giới thiệu của giáo sư tiến sĩ Mai Quốc Liên, giám đốc Trung tâm nghiên cứu Quốc học với với 45 Tài Liệu Tham KhảoSông Côn Mùa Lũ. Hoàng Kim đã tích hợp song song hai nguồn thông tin chọn lọc từ Mộc bản triều Nguyễn (1) của Di sản thế giới tại Việt Nam, cùng với tích hợp so sánh đối chiếu với sách Sông Côn mùa lũ và các tài liệu tham khảo từ sách này. Đúc kết thông tin mới đọc tại Nhớ thầy Nguyễn Mộng Giác; Nguyễn Huệ thời Tây Sơn; Châu Văn Tiếp Phú Yên; Ngưa không nản chân bon . LINH NHẠC THƯƠNG LỜI HIỀN
Nguyễn Du nửa đêm đọc lại.Tôi có một chuyện lạ xẩy ra lúc 12 giờ 40 phút ngày 4 tháng 7 năm 2012 mà chuyện vẫn chưa kết thúc mãi cho tới hôm nay của chín năm sau. Đêm ấy, tôi tỉnh dậy lúc nửa đêm. Mai coi thi. Buổi tối mưa lớn. Sấm chớp ầm ầm, Điện tắt. Trời nóng ngột ngạt, Tôi tự ép mình phải ngủ để ngày mai dậy sớm. Bài viết “Một khám phá độc đáo về Truyện Kiều” của Giáo sư Nguyễn Lân Dũng về cuốn sách “Thử tìm hiểu tâm sự Nguyễn Du qua Truyện Kiều” của GS.NGND Ngô Quốc Quýnh (Đại học Quốc gia Hà Nội) làm tôi mộng mị. Trong cuốn sách này, tác giả đã cho rằng Nguyễn Du gửi gắm tâm sự của mình qua Truyện Kiều mà Từ Hải chính là Nguyễn Huệ, Kim Trọng là Lê Chiêu Thống và nàng Kiều là Nguyễn Du. Thầy Nguyễn Lân Dũng gọi điện cho tôi và nhắn tin giục tôi sớm giúp nhận xét phản biện cuốn sách. Tôi vừa thương quý kính trọng Thầy vừa nhận thấy luận điểm của thầy Ngô Quốc Quýnh cũng có lý có tình nên tôi định sớm viết bài đồng tình. Không ngờ vì điện tắt nên chợt thiếp đi . Và, trong giấc mơ lạ lúc nửa đêm, tôi được đối thoại với một cụ già râu tóc bạc phơ tự xưng là Thiền sư Linh Nhạc Phật Ý. Cụ già hỏi lại tôi và đã ngăn tôi khoan vội đồng tình mà hãy nên tìm hiểu kỹ sự thật của 12 uẩn khúc chưa rõ. Đó là: Nguyễn Du là người thế nào? Nguyễn Du Bắc hành tạp lục; Nguyễn Du với Hồ Xuân Hương; Nguyễn Du và Kinh Kim Cương; Nguyễn Du so tài Nguyễn Huệ; Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ; Nguyễn Du tri kỷ, tri âm; Tố Như sau ba trăm năm; Nguyễn Du viếng Kỳ Lân mộ; Hoành Sơn những bài thơ cổ; Hồng Lam vằng vặc sao Khuê. Tôi thức dậy ghi vội những lời Cụ dặn và đã không dám đồng tình ngay với lời kết luận của thầy Ngô Quốc Quýnh. Tôiđồng tình với khám phá độc đáo của GS.NGND Ngô Quốc Quýnh là Nguyễn Du mượn Kiều để chuyển tải tâm sự của Người. Tuy nhiên, sự khác biệt trong nhận định là ở chỗ Từ Hải và nàng Kiều chính là Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương.. Khuya không ngủ được, tôi thao thức đọc lại Nguyễn Du. Chiều tối hôm sau, tôi ngẫu nhiên theo chỉ dẫu của cụ già trong giấc mơ, đã tìm thấy được ngôi chùa cổ Tổ Đình Phước Tường tại địa chỉ 13/32 đường Lã Xuân Oai phường Tăng Nhơn Phú, Quận 9. Ngôi chùa này lưu dấu tích của thiền sư Linh Nhạc Phật Ý.và vị thiền sư này quan hệ tới sự đã che giấu vua nhà Nguyễn thoát chết gang tấc bởi sự truy vết của nhà Tây Sơn. Hiện nay, Tổ Đình Phước Tường sư trụ trì là Thượng tọa Thích Nhật An. Tổ Đình đã được Bộ Thông tin Việt Nam xếp hạng Di tich Văn hóa Quốc gia tại Quyết định số 43/VH QĐ ngày 7 /1/ 1993 .Ngày tiếp sau, khi coi thi đã hoàn thành trở về nhà tôi duyên may lại tình cờ gặp được Bố tát Nhựt Tông trên chuyến xe từ Suối Tiên đi ngã tư Bà Rịa- Vũng Tài. Tôi đã đổi ý không đi về nhà ở Hưng Thịnh Đồng Nai mà theo gót chân Bố tát vân du chùa Long Phước 98 Trần Xuân Độ, Phường 6 tại Núi Lớn, phía sau Thích Ca Phật Đài, thành phố Vũng Tàu, thăm thiền sư Thiện Lý, với Lão Quán Lục Vân Tiên giữa đời thường Nguyễn Quốc Toàn, để cùng luận bàn đạo Phật ngày nay và mang sách của thầy Nhựt Tông và mang sách Nguyễn Du của anh Toàn về nhà cặm cụi tra cứu tìm tòi. Chuyện cũ ấy và chứng cứ ở đây http://dayvahoc.blogtiengviet.net/2012/07/04/http_dayvahoc_blogtiengviet_net_nguyendu
Nguyễn Du, Nguyễn Huệ, Châu Văn Tiếp đã được khảo cứu song song trong 9 năm qua.
Nhà nghiên cứu Phạm Trọng Chánh nói những lời thật cảm khái : “Trong tình hình đọc sách hiện tại trong nước và hải ngoại, mỗi người Việt Nam đọc không đến một quyển sách một năm, các nhà xuất bản tại hải ngoại chỉ sống nhờ sự hy sinh của tác giả, tự viết tự bỏ tiền in, không kể gì lời lỗ. Sách gửi đi các nơi không hy vọng gì thu tiền lại. Trong nước sách in được 1500 quyển như Nguyễn Du trên đường gió bụi anh Hoàng Khôi là thuộc loại khá. Đáng cho chúng ta khuyến khích. Phải chăng vì thiếu sách hay, các nhà văn ngày nay không đủ sức hấp dẫn lôi kéo người đọc chăng. Nghĩ lại ngày xưa thời Tự Lực Văn Đoàn, Thơ Mới, những năm 1930-1940 mỗi năm người đậu Tú Tài chỉ vài chục người, người biết chữ quốc ngữ có là bao nhiêu trên 25 triệu dân thế mà sách đã tạo ra những trào lưu văn học lớn mạnh. Ngày nay chúng ta có 90 triệu dân trong nước và 4 triệu người Việt hải ngoại, mà tình hình sách vở còn thua các nước nhược tiểu, nghĩ thật đáng buồn. Chúng ta không nâng cao được dân trí, mà dân trí lại thụt lùi. Được một nhà văn như anh Hoàng Khôi, hy sinh thức đêm thức hôm để viết sách, để mua vui một vài trống canh, tôi mừng và mong có nhiều người như anh Hoàng Khôi. Đừng để các thế hệ mai sau không còn biết viết văn, biết đọc mà chỉ còn biết bấm mấy câu vớ vẫn trên điện thoại di động.“
Tôi từng tâm đắc với Nguyễn Du viếng mộ Liễu Hạ Huệ nơi “bia tàn chữ mất vùi gai góc/ nghe tiếng nghìn năm tôi xuống xe” càng cho thấy nhân cách kẻ sĩ và sự cảm thông của ông đối với Liễu Hạ Huê sâu sắc đến dường nào. Người hiền thực ra đời nào cũng có, thời thế nhiễu loạn, chẳng qua vàng lầm trong cát đấy thôi. Nguyễn Du là con quan tướng quốc Nguyễn Nhiễm cựu thần nhà Lê và mẹ ông là người phụ nữ tài sắc, vợ lẽ nhà quan, gặp lúc thế nước động loạn, chúa Trịnh, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn đều có ý riêng. Ông lớn lên trong cảnh lận đận không nhà, có tài mà không thể cậy. Ông là một đại sĩ phu tài năng trác tuyệt nhưng chỉ làm một viên quan thường triều Nguyễn mà vua vừa dùng, vừa tìm cách kiềm chế như đối với Nguyễn Công Trứ, Phan Huy Chú. Ông vì giỏi nên được vua Nguyễn cử đi sứ Tàu mà thôi. Thơ Nguyễn Du vì vậy kín đáo và sâu sắc hiếm thấy Để thấu hiểu những giá trị nhân văn đích thực, rất cần những khoảng lặng để đối diện với chính mình. Hôm trước tôi đã có dịp cùng với những người bạn quý thảo luận về hành vi ứng xử của Liễu Hạ Huệ gần gũi với một người nữ mà ông không mang tiếng dâm tà. Nhờ việc tra cứu, đọc đi đọc lại nhiều lần bài thơ ‘Liễu Hạ Huệ mộ’ của cụ Nguyễn Du, tôi chợt sững người, nhận thức thêm được những nỗi niềm, của cụ Nguyễn lấp lánh sau những con chữ …
Tôi đọc cuốn sách “Nguyễn Du” của nhà giáo Nguyễn Thế Quang “Của tin còn một chút này làm ghi” không dưới hai mươi lần (Trang sách Nguyễn Du với lời đề tặng của tác giả Nguyễn Thế Quang, ảnh Hoàng Kim), và sực thấm hiểu vì sao Nguyễn Du đọc Kinh Kim Cương chú giải của Lê Quý Đôn trên nghìn lần cũng như chợt hiểu vì sao Hồ Chí Minh “sao vàng năm cánh mộng hồn quanh“. Tôi đã đọc mười hai tư liệu quý về Nguyễn Du (kể cả ba tư liệu mới bổ sung gần đây) Dẫu vậy tôi vẫn hồ nghi nhiều điều, chưa đủ tư liệu trao đổi với các giáo sư Nguyễn Lân Dũng, Ngô Quốc Quýnh nhà giáo Nguyễn Thế Quang, nhà nghiên cứu Bulukhin Nguyễn Quốc Toàn và còn nợ Ví Dặm Ân Tình, Quỳnh Trâm, Huy Việt … những lời bàn luận.
Tôi nhờ lập “Nguyễn Du một niên biểu” chi tiết hóa thời thế và cuộc đời Nguyễn Du đúng hành trạng từng năm, từ lúc ông sinh ra cho đến khi ông mất, theo gợi ý của cụ già tự xưng là thiền sư Linh Nhạc Phật Ý trong giấc mơ lạ. Cụ già đã khuyến khích tôi làm điều này và cũng nhờ phản biện sâu sắc với các dẫn liệu của tiến sĩ Phạm Trọng Chánh. Ông là người bôn ba hải ngoại đã hiểu tác phẩm Nguyễn Du trên đường gió bụi của Hoàng Khôi một cách sâu sắc hiếm thấy, chân thành, đức độ và khích lệ tác giả Hoàng Khôi với một triết lý dạy và học mẫu mực. “Nghiên cứu không phải là chuyện độc quyền của riêng ai, không phải chuyện người sau đánh đổ người trước để được nổi danh hơn mà người đi sau nối tiếp người trước, làm giải quyết những nghi vấn còn tồn đọng, làm cho việc nghiên cứu ngày càng phát triển, sáng tỏ“.
Tôi mừng không ngủ được trước tư liệu quý này và xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
TRUNG LIỆT ĐỀN THỜ CỔ
Việt Nam thế Tam Quốc trong thời Nguyễn Du vua Lê Chiêu Thống bị bán đứng, vua Quang Trung cái chết bí ẩn, Nhà Đại Thanh có bí mật kho báu trên đỉnh Tuyết Sơn. Ba tồn nghi lớn của lịch sử: Vì sao Trung Quốc quyết không cho Tây Tạng tự trị? Lý Tự Thành và kho báu đời Minh đến nay ở đâu? và, Hệ lụy ngoại giao thời vua Càn Long với nhà Tây Sơn? là ba nghi vấn và chỉ dấu lịch sử có thật. Nguyễn Du cuộc đời và thời thế, là một trong những tấm gương lớn soi thấu những bí ẩn lịch sử ấy. Đó là một chuỗi lịch sử lớn cần nghiên cứu, giải mã thấu đáo. Các thông tin mới hé lộ gần đây của kho sử liệu Nhà Nguyễn mới được khai thác công bố một phần trong ‘Khát vọng Non sông”, và một phần được tập hợp đúc kết tại “Nguyễn Du niên biểu luận” của Hoàng Kim với các hồ sơ điền dã về Linh Nhạc Phật Ýở Tổ Đình Phước Tường TP Hồ Chí Minh với đền cổ Trung Liệt Hà Nội và tư liệu Bang giao tập (bí mật ngoại giao nhà Tây Sơn) góp phần vén bức màn bí mật ấy.
Vua Càn Long sau thất bại nặng nề của nhà Thanh trong chiến tranh với Tây Sơn đã sai danh tướng Phúc Khang An thay thế Tôn Sĩ Nghị làm Tổng đốc Lưỡng Quảng, được giao quyền tùy cơ hành xử và điều động thêm 50 vạn quân ứng chiến vùng biên giới nhằm hư trương thanh thế. Phúc Khang An là người mà vua Càn Long đặc biệt yêu quý và tin cẩn, dân gian cho rằng đó là con ngoài giá thú của vua với em gái của Hoàng Hậu. Phúc Khang An.nguyên là đặc sứ phụ trách hậu cần cho đội quân của Tôn Sĩ Nghị
Năm 1789, kho vàng tại tu viện Mật Tông ở Tây Tạng đang bị quân Khuếch Nhĩ Khách Mông Cổ dòm ngó chuẩn bị tấn công. Vua Càn Long coi đây là điểm quan tâm lớn nhất. Vua Càn Long đã 78 tuổi có tính toán riêng về người kế vị là Hoàng tử Gia Khánh và phúc tướng Phúc Khang An nên việc cơ mật này không thể giao cho ai khác ngoài Phúc Kháng An đảm nhiệm. Lưỡng Quảng và Đại Việt cũng cần sớm an định vì điểm nóng Cam Túc đang làm vua Thanh rất lo nghĩ, trong khi Nguyễn Huệ anh dũng thiện chiến không thể xem thường nên vua Càn Long lựa ý vỗ về hơn là đem binh thảo phạt.
Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp sớm biết tình thế nên đã đón ý hoặc phân vai mật trao đổi với Tây Sơn. Nguyễn Huệ thấy rõ chỗ yếu của quân Thanh và biết họ đang tìm cách để giảng hòa, trong khi ông cũng đang bận tâm xử lý phía Nam. Do vậy Nguyễn Huệ sau khi thắng trận đã sai mang nhiều vàng bạc hối lộ Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp để nghị hòa và cho cháu là Nguyễn Quang Hiển lên cửa ải Nam Quan cầu phong và xin cho Nguyễn Huệ được về Bắc Kinh triều kiến Càn Long. Mưu mẹo này thông đồng giữa hai bên với sự thách giá trả giá bên trong, cách qua mặt vua Lê Chiêu Thống cùng số cựu thần nhà Lê và cách hợp lý hóa chính sử, xin xem kỹ Bang giao tập “Ngoại giao Việt Nam thời Tây Sơn” là tư liệu quý.
Lê Chiêu Thống lại tiếp tục xin nhà Thanh cho quân cứu viện. Nhà Thanh, phần sợ Quang Trung, phần đã ngán ngẩm việc chinh chiến, chỉ hứa hão với Chiêu Thống mà không chịu phát quân. Phúc Khang An thân vương vua Thanh, đã được hưởng lợi từ Tây Sơn và nhận rõ tình thế, nên ngoài mặt hứa giúp quân cho Lê Chiêu Thống, nhưng mặt khác lại tâu với vua Thanh Càn Long rằng Chiêu Thống không còn muốn trở về và đã dâng biểu xin hoàng đế Càn Long bãi binh, đồng thời ông cũng chỉ thị cho Thang Hùng Nghiệp gửi mật thư cho Quang Trung gợi ý nên hoà hiếu, tránh binh đao và lập các mẹo mực bang giao để giữ thể diện cho vua Càn Long mà tránh được chiến tranh.
Thư ngoại giao “Trần tình biểu” của vua Quang Trung lúc đầu khá cứng rắn nhưng với sự mưu kế của Thang Hùng Nghiệp nên đã nhẹ đi rất nhiều Tây Sơn theo phương lược vạch sẵn, với tài ngoại giao khéo léo của Ngô Thì Nhậm, đã nhanh chóng bình thường hóa bang giao với phương Bắc. Nhà Thanh đồng ý hủy bỏ việc động binh để trả thù, và tiếp nhận sứ thần của Tây Sơn. Vua Quang Trung phải dâng biểu “Nộp lòng thành”, nộp cống phẩm. Nhà Thanh đã chịu chấm dứt chiến tranh, nhưng vẫn chưa chịu thừa nhận Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương. Phúc Khang An viết cho vua Quang Trung một bức thư dài báo cho vua Quang Trung biết là vua Càn Long đã ban cho Quang Trung một chuỗi hạt trai, “Ơn trời cao đất dày đến thế là tốt lắm” lại báo cho vua Quang Trung biết rằng: bọn Lê Duy Kỳ đã bị róc tóc, mặc quần áo kiểu người Thanh, đã bị đưa đi an trí ở “ngoại biên” “quyết không cho về nước nữa”. Rồi sau đó Phúc Khang An đòi Tây Sơn phải làm miếu thờ Hứa Thế Hanh, Sầm Nghi Đống. Lại cho biết là khoảng tháng bảy, tháng tám năm Canh Tuất (1790) nhà Thanh sẽ làm lễ bát tuần vạn thọ vua Càn Long “Có hàng vạn nước vượt biển trèo non đem ngọc xe lễ vật đến chầu“. Phúc Khang An yêu cầu vua Quang Trung đến ngày đó cũng phải “chỉnh trang” sang chầu, và như thế phải khởi hành vào tháng tư năm Canh Tuất (1790) Đáng chú ý là sau đó, vua Càn Long xuống chỉ cho vua Quang Trung đại ý nói: do quân Thanh vượt biên giới đến Thăng Long, Nguyễn Huệ phải đem quân ra để hỏi Lê Duy Kỳ vì cớ gì cầu cứu thiên binh; vì bị quân Thanh đánh, quân Tây Sơn bất đắc dĩ phải đánh lại; gặp lúc cầu phao đứt, nên quân Thanh bị chết hại nhiều. Trong tờ chỉ Càn Long còn nhận rằng Nguyễn Huệ đã bắt và giết hết những người đã giết Hứa Thế Hanh và Sầm Nghi Đống. Ông còn cho rằng khi quân Thanh vào Thăng Long, ông đã ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị rút quân về nước, vì Sĩ Nghị không tuân lệnh, cho nên có trận đại bại vào đầu năm Kỷ Dậu. Ông lại đòi lập đền thờ Hứa Thế Hanh và Sầm Nghi Đống, và đòi vua Quang Trung phải đích thân sang Yên Kinh triều cận vào dịp Càn Long làm lễ bát tuần vạn thọ năm Canh Tuất. Ông lại nhắc rằng “Lê Duy Kỳ hèn lười, không tài, bỏ ấn trốn đi, chiểu theo pháp luật của Thiên triều phải tội nặng; rằng ông quyết an trí bọn chúng ở Quế Lâm, không bao giờ cho về nước nữa; rằng ông đã ra lệnh cho Phúc Khang An đưa phái đoàn Nguyễn Quang Hiển đến xem chỗ bọn Lê Duy Kỳ ở”.Nhưng vua Quang Trung viện cớ là mình chưa được phong vương, sợ có điều bất tiện khi gặp các vị quốc vương các nước ở Yên Kinh. Thế là Càn Long đành phải phong cho Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương để có điều kiện đến Yên Kinh triều cận một cách đàng hoàng. Vua Càn Long qua Phúc Khang An lại ra điều kiện đòi triều Tây Sơn phải đúc người vàng đem cống như các triều đại trước. Ngô Thì Nhậm đã viết cho Phúc Khang An bức thư, trong đó có đoạn: “Quốc trưởng nước tôi vùng lên từ thủa áo vải, nhân thời biết việc, đối với vua Lê vốn không có danh phận vua tôi. Mất hay còn là do số trời; theo hay bỏ là do lòng người. Quốc trưởng tôi có ý cướp ngôi của nhà Lê đâu mà lại coi như kẻ thoán đoạt. Trước đây Tôn bộ đường đem quân đến, quốc trưởng nước tôi bất đắc dĩ phải đem quân ra ứng chiến, không hề có ý xâm phạm biên cảnh để mang tội. Nay đại nhân theo lệ cũ của Trần, Lê, Mạc bắt cống người vàng, như vậy chẳng hóa ra quốc trưởng nước tôi được nước một cách quang minh chính đại mà lại bị coi như hạng ngụy Mạc hay sao? Như thế thì tấm lòng kính thuận sợ trời thờ nước lớn cũng bị coi như việc nhà Trần bắt Ô Mã Nhi, nhà Lê giết Liễu Thăng hay sao? Mong đại nhân noi theo mệnh lớn, miễn cho nước tôi lệ đúc người vàng để tiến cống” Nguyễn Huệ trong thư này đã nói rõ rằng các vua Việt Nam thời trước sở dĩ phải cống người vàng là để chuộc một tội lỗi nào đó đối với Thiên triều còn Nguyễn Huệ tự coi không có tội gì với nhà Lê và cũng không có tội gì với nhà Thanh nên Tây Sơn không thể đúc người vàng để tiến cống.Tháng 7 năm 1789, Càn Long ra chỉ dụ phong Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương.
Năm Canh Tuất (1790). Nguyễn Du 25 tuổi. Tháng 1 năm 1790, Hoàng đế Quang Trung giả (do Phạm Công Trị, cháu gọi Nguyễn Huệ bằng cậu đóng) đã sang triều kiến và dự lễ mừng thọ 80 tuổi của vua Càn Long. Đoàn sứ bộ Tây Sơn gồm 159 người có giả vương Nguyễn Huệ và Nguyễn Quang Thùy (mà vua Càn Long tưởng là hoàng thái tử của Nguyễn Huệ). Mục đích khác của đoàn sứ là thăm dò thái độ của nhà Thanh đối với vị vua lưu vong Chiêu Thống của nhà Lê. Đại quan nhà Thanh là Phúc Khang An, từng sang chiến trường Đại Việt, đứng sau lưng đoàn sứ bộ, nên nhiều tướng lĩnh nhà Thanh biết người cầm đầu sứ bộ không phải Nguyễn Huệ, nhưng ngại gây hấn nên không nói ra. Sứ thần Tây Sơn đi đợt đó có Ngô Văn Sở, Phan Huy Ích (thượng thư, nhà ngoại giao, quê Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh, tiền bối của nhà sử học Phan Huy Lê, giáo sư nhà giáo nhân dân, là một trong những chuyên gia hàng đầu về lịch sử Việt Nam hiện đại, người có ảnh hưởng lớn đến chính sử hiện tại trong sự đánh giá nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn), Vũ Huy Tấn ( Thị lang bộ Công, tước bá, sau khi đi sứ về ông được phong làm Thượng thư bộ Công, tước Hạo Trạch hầu. Dưới triều Cảnh Thịnh, ông được đặc cách lên hàng Thượng trụ quốc, Thị trung đãi chiếu Thượng thư). Sứ đoàn Tây Sơn lần đó cũng có Nguyễn Nể là anh cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du và Đoàn Nguyễn Tuấn là anh vợ Nguyễn Du. Dọc đường đi, đoàn sứ giả có gặp hành tung của một số người họ Nguyễn ở Quảng Tây và sau đó cùng đi lên Yên Kinh. Người đời sau ngờ rằng đó chính là Nguyễn Du và Hà Mỗ. Đoàn sứ thần Tây Sơn có giả vương Nguyễn Huệ làm thế nào để che mắt sứ đoàn vua Lê Chiêu Thống hiển nhiên có mặt ?. Phúc Khang An đã ngầm thông đồng mưu kế với Tây Sơn: “Tìm một người diện mạo giống quốc vương đi thay. Việc này chỉ có Công gia, Thang đại nhân, Vương đại nhân và ta là bốn người biết mà thôi. Nếu sợ Lê Duy Kỳ biết, ta bẩm ngay với Công gia đem 1000 người bọn ấy giữ kỹ không cho ra ngoài, còn ai biết được nữa”. (theo Bang giao tập, ngoại giao nhà Tây Sơn).
Mưu lược ngoại giao của nhà Tây Sơn mua chuộc Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp qua các chứng cứ của Phan Huy Ích và Bang giao tập, với tình thế nhà Thanh đang rất chú tâm đến Tây Tạng, Cam Túc và chuyển giao ngai vàng. Phúc Khang An đã nhanh chóng lập được đại công quản lý Lưỡng Quảng, vỗ yên Đại Việt, tránh được thế đối đầu Đó là có lý do ẩn ý riêng.(*) Bài viết Kho báu đỉnh Tuyết Sơn của Hoàng Kim đã viết rõ điều này.
BANG GIAO TẬP VIỆT TRUNG
Sách Bang giao tập viết: “Đại Hoàng đế sợ Duy Kỳ ở Quảng Tây còn có nhiều bầy tôi cũ gây ra việc, cho nên ngày 16 tháng giêng năm Canh Tuất đã cho đem gia quyến Lê Duy Kỳ lên Yên Kinh, đem 116 người tùy tùng đi an trí ở các tỉnh Triết Giang, Giang Nam, Tứ Xuyên, Hồ Quảng. Lê Quýnh bị đưa đi Ỷ Lệ cách Yên Kinh 4000 dặm”. Nhà Thanh sai phân tán các quan lại cũ của nhà Lê đi các nơi để tách biệt không liên lạc được với nhau và cô lập Lê Duy Kỳ.Bản thân Lê Duy Kỳ bị giam lỏng ở “Tây An Nam dinh” tại Yên Kinh . Nhà Tây Sơn chính thức nhận được sự công nhận của nhà Thanh.
Sách Cương mục viết:“Nhà vua (Lê Duy Kỳ) căm giận vì bị người Thanh lừa gạt, bèn cùng các bầy tôi là bọn Phạm Như Tùng, Hoàng Ích Hiểu, Lê Hân, Nguyễn Quốc Đống, Nguyễn Viết Triệu, Lê Quý Thích, Nguyễn Đình Miên, Lê Văn Trương, Lê Tùng và Lê Thức mười người uống máu ăn thề, làm bài biểu định đưa lên vua Thanh để xin quân cứu viện, nếu không được thì xin được đất hai châu Tuyên Quang và Thái Nguyên để quay về giữ việc thờ cúng tổ tiên hay là cùng nhau lén về Gia Định, nương nhờ triều ta (triều Nguyễn) để dần dà toan tính việc khôi phục, chứ quyết không chịu sống thừa ở đất Bắc.”
NGUYỄN DU NIÊN BIỂU LUẬN
Nguyễn Du niên biểu luận đã đúc kết và đang bổ sung dữ liệu giải mã thông tin giai thoại chưa kiểm chứng rõ sự thật. Phạm Quý Thích (giai thoại là Lê Quý Thích của sách Cương mục và sách Lê Quý kỷ sự, người từng cắt máu ăn thề với vua Lê) bạn thân của Nguyễn Du, người được chính Nguyễn Du tiểu dẫn trong những trang đầu của Truyện Thúy Kiều, bài tựa số 1 của Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân, “Ta lấy một thiên mực nhạt, xa viếng nàng Kiều, …” được sao lục tại Bài tựa Truyện Kiều trang 392-396 trong sách “200 năm nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều”, Lê Xuân Lít sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu. Nhà Xuất Bản Giáo Dục, Giấy phép xuất bản số 698/CXB ngày 12/5/2005. 1998 trang, năm 2005. Tổng vịnh Truyện Kiều của Phạm Quý Thích.. Cụ Phạm là một danh sĩ thời Lê mạt, giao du rất thân với cụ Nguyễn Du. Chẳng những hay thơ chữ, cụ cũng hay cả thơ Nôm, xem bản dịch của cụ đã nêu liền dưới bài thơ chữ, quả tài tình rất mực.
Tổng vịnh Truyện Kiều của Phạm Quý Thích, trang 397 (hình) trong sách “200 năm nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều”, Lê Xuân Lít sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu. Sđd.
Sách Nguyễn Du Truyện Thúy Kiều do Bùi Kỷ Trần Trọng Kim hiệu khảo có in đầu sách hai bài tựa này là ẩn ngữ cần được soi tỏ sự thật mà các sách Truyện Kiều sau này ít thấy. Đó là bản in sát hơn hết với bản phường (gốc)Truyện Kiều. Y sao Toàn văn Tổng vịnh Truyện Kiều của Phạm Quý Thích (Bài Tựa số 2 đầu sách Truyện Kiều, Sđd trên tại trọn trang 397), chính cụ Phạm Quý Thích (2) lại tự dịch luôn ra Quốc âm:
Giọt nước Tiền Đường chẳng rửa oan Phong ba chưa trắng nợ hồng nhan Lòng tơ còn vướng chàng Kim Trọng Gót ngọc khôn đành giấc thủy quan Nửa gối đoạn trường tan giấc điệp, Một dây bạc mệnh dứt cầm loan Cho hay những kẻ tài tình lắm, Trời bắt làm gương để thế gian,
(Truyện Thúy Kiều, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim hiệu khảo, NXB Tân Việt, 1968; tr.52)
(1) Nghĩa tám câu này là: Nàng Kiều nếu không đến sông Tiền Đường (thì) cái nợ yên hoa nửa đời trả chưa xong? Cái tài sắc của nàng không đáng vùi xuống nước; tấm lòng trong sạch của nàng lúc nào cũng không thẹn với Kim Lang.(Nhưng ngẫm) trong giấc mộng đoạn trường thì đã hiểu rõ cái căn nguyên cả đời nàng, nghe tiếng đàn bạc mệnh tuy đã gảy hết khúc, mà nỗi oán hận vẫn còn dài. (Thế mới hay) Một mảnh tài tình là cái lụy chung muôn đời. (Vậy thì) quyển Tân thanh này cốt để thương xót ai?
(2) Cụ Phạm là một danh sĩ thời Lê mạt, giao du rất thân với cụ Nguyễn Du. Chẳng những hay thơ chữ, cụ cũng hay cả thơ Nôm, xem bản dịch của cụ đã nêu liền dưới bài thơ chữ, quả tài tình rất mực.
Sách Nguyễn Du Truyên Thúy Kiều do Bùi Kỷ Trần Trọng Kim hiệu khảo là chỉ dẫn văn bản trong sách “200 năm nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều”, Lê Xuân Lít sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu. Nhà Xuất Bản Giáo Dục, Giấy phép xuất bản số 698/CXB ngày 12/5/2005. 1998 trang, năm 2005, trang 392-397.và tài liệu “Trung Liệt đền thờ cổ” là chỉ dẫn địa lý nơimà Nguyễn Du và em trai đã lập đền thờ cho những người Trung Liệt Nhà Hậu Lê ở 124 Thụy Khuê, Hà Nội khi Nguyễn Nể đi sứ cho nhà Tây Sơn được thành công trở về và dinh thự họ Nguyễn Tiên Điền ở Hà Nội được tu sửa khôi phục lại. Xin chép lại nguyên văn và trân trọng giới thiệu hồ sơ chuyên đề Nguyễn Du tư kiệu quý, mục tư liệu số 13 này có “Phát hiện mới nguồn gốc Truyện Kiều” “Thử giải mã lại Truyện Kiều” của Lê Nghị (Li Li Nghê) và bài viết “Truyện Kiều có trước hay sau Kim Vân Kiều truyện?“ của PGS.TS Đoàn Lê Giang (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh),” Hồ sơ tham khảo chi tiết chúng tôi lưu về chung trang “Nguyễn Du tư liệu quý” |
TTO – ‘Dựa vào các văn bản, chúng tôi phát hiện ra rằng Truyện Kiều mới là gốc của Kim Vân Kiều truyện ở Việt Nam. Rồi từ Kim Vân Kiều truyện của Việt Nam người ta mới phóng tác Kim Vân Kiều truyện ở Trung Quốc’.
Nhà nghiên cứu Lê Nghị có một loạt tác phẩm nghiên cứu về Truyện Kiều trong thời gian gần đây rất đáng trân trọng và lưu ý: Luận về Kim Vân Kiều lục (bài 1 FB Li Li Nghệ Thứ Năm 15 tháng 10 , 2020 lúc 19;27); Ai soạn Kim Vân Kiều Truyện A 953? (bài 3 Kim Vân Kiều Truyện A953 kế thừa tác phẩm nào ở Đại Nam, FB Li Li Nghệ 12 tháng 10 lúc 18:15); Phản biện nhận định của giáo sư Dương Quảng Hàm về nguồn gốc Truyện Kiều ( hình chụp trang báo Tri Tân và bài viết của GS Dương Quảng Hàm; FB Li Li Nghệ 8 tháng 10 lúc 14:19) . Luận về Kim Vân Kiều Lục, bài 1: Thời gian xuất hiện và yếu tố xác định tác phẩm của người Việt FB Li Li Nghệ, Thứ Năm 15 tháng 10 , 2020 lúc 19;27 viết Biên khảo của chúng tôi là dọn một con đường thẳng đi từ Đoạn Trường Tân Thanh đến Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Ở các bài trước, chúng tôi đã chứng minh xong: Tác giả Kim Vân Kiều truyện là Duy Minh Thị. Ông tên thật là Trần Quang Quang, còn có bút danh khác là Gia Định Thành cư sĩ, sống ở Sài Gòn, hoạt động văn hóa mạnh nhất vào những năm 1870-1883. Việc chứng minh này trong loạt gồm 3 bài: Ai là người viết A953 đã đăng tuần trước.Nhưng việc phát quang, mở rộng con đường ắt sẽ có người khác và thế hệ sau. Học thuật không phải là độc quyền của riêng ai. Những gì chúng tôi vận dụng tại biên khảo này cũng từ bằng chứng người trước để lại, cho dù người trước đã đi con đường khác mà chúng tôi cho rằng đã lạc hướng.Sau khi cung cấp sơ đồ cơ bản, và chứng minh xong con đường vạch ra đã tới đích: thơ ĐTTT => Thơ KVK Truyện => tiểu thuyết KVK Lục => KVKT- Duy Minh Thị=> KVKT- Thanh Tâm Tài Tử => KVKT- Thanh Tâm Tài Nhân. Bài này đi sâu vào chi tiết Kim Vân Kiều Lục vì nó là tác phẩm quan trọng, ví như một trạm dừng chân lớn nhất giữa điểm khởi phát ĐTTT đi đến điểm cuối Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Thiễn nghĩ người tìm hiểu về truyện Kiều nhất thiết phải đọc Kim Vân Kiều Lục, mới hiểu sâu hơn về Truyện Kiều, và cuốn Kim Vân Kiều truyện, nên tôi viết loạt bài giới thiệu này cho những ai chưa đọc. “Thời gian sách xuất hiện:-Sách Kim Vân Kiều Lục theo Phạm Tú Châu năm 2015 đã cho rằng in lần đầu năm 1888, hiện còn bản lưu. Tôi e rằng năm 2015 tiến sĩ Phạm Tú Châu không biết thông tin: theo di lục của A.d.Michelle 1884 ghi là KVKL đã in năm1876 tại Hà Nội. Cũng như đa số nhầm lẫn, do không rõ vô tình hay cố ý, tôi cho rằng cố ý, trước tháng 5/2020 người ta đã dịch cuốn sách ông Abel des Michelle giữ tên Kim Vân Kiều Lục thành Kim Vân Kiều Truyện. Cũng như bao thế hệ học sinh có người chưa từng nghe tới Thanh Tâm Tài Tử mà chỉ biết Thanh Tâm Tài Nhân. Chính vì vậy đã đào tạo ra bao thế hệ chỉ biết tới Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, và mặc định tác giả và tác phẩm là của Trung Quốc. Người học và người đoc không hề biết tới các tác phẩm tiền thân của Kim Vân Kiều Truyện -Thanh Tâm Tài Nhân Việt Nam là cuốn Kim Vân Kiều Lục. Đây là một việc làm bẻ cong văn học sử, bẻ lái học thuật của một số được gọi là “ tín đồ Thanh Tâm Tài Nhân Trung Hoa” hiện nay.
Truyện Kiều có trước Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Tử Việt Nam, Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân Trung Quốc chỉ là sản phẩm ăn theo, tên tác giả cũng là tự đặt. (Nhà nghiên cứu LÊ NGHỊ viết)
Nhà nghiên cứu Lê Nghị mở đầu bản tham luận Nguồn gốc Truyện Kiều, tại Hội thảo Minh họa Kiều dưới góc nhìn minh triết Việt, do Trung tâm Văn hóa Pháp tại Hà Nội vừa tổ chức làm cả khán phòng ngỡ ngàng…
Truyện Kiều là gốc
Sách vở xưa nay, hầu hết đều cho rằng Nguyễn Du đã mượn cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc để viết Truyện Kiều. Trong khi đó, nhà nghiên cứu Lê Nghị khẳng định: “Thanh Tâm Tài Tử hay Thanh Tâm Tài Nhân cũng đều ở Việt Nam cả”.
Theo ông, sau khi qua đời Nguyễn Du để lại Đoạn trường tân thanh, vì nhan đề nhạy cảm với vương triều nên Minh Mạng đổi thành Kim Vân Kiều truyện.
Điều này thể hiện trên bản Kiều cổ ký hiệu B60 (đang lưu ở Thư viện Khoa học xã hội – thuộc Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (Viện Viễn Đông bác cổ xưa): “Minh Mạng ngự lãm tứ cải danh Đoạn trường tân thanh (thành) Kim Vân Kiều truyện”.
Đồng thời Minh Mạng chỉ đạo các văn thần, gọi tên chung là Thanh Tâm Tài Tử soạn một cuốn bình giảng thơ Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn Du. Cuốn bình giảng đầu tiên là Kim Vân Kiều lục.
Như vậy hai cụm từ Kim Vân Kiều truyện và Thanh Tâm Tài Tử có từ thời Minh Mạng 1830, tại văn bản Thanh Tâm Tài Tử cổ kim Minh lương đề tập biên. Thánh tổ Nhân hoàng đế (thường gọi vua Minh Mạng – NV) ngự chế tổng thuyết thường tập (ký hiệu VNv.240).
Văn bản này giải quyết vấn đề mấu chốt rằng cụm từ Thanh Tâm Tài Tử, chữ “tử” không phải viết nhầm chữ “nhân” trong bút danh Thanh Tâm Tài Nhân xuất hiện sau năm 1902.
Nhà nghiên cứu Lâm Thanh Sơn cho rằng, Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du có nhiều nội dung phản ánh xã hội thối nát kèm nhiều điều không phù hợp với triều đình đương thời, kể cả tiêu đề.
Nhưng văn chương hay quá, không thể bỏ qua nên nhà vua mới ra lệnh soạn sách giảng theo các hướng trung, hiếu và trinh. Nhóm Thanh Tâm Tài Tử đã “diễn” lại Đoạn trường tân thanh từ thể thơ lục bát chữ Nôm thành văn xuôi chữ Hán, đặt nhan đề Kim Vân Kiều lục.
Những người đời sau đã dùng bản này kết hợp một số tác phẩm tuồng, chèo, viết nên Kim Vân Kiều truyện, lấy tác giả là Thanh Tâm Tài Tử, và in vài lần trong thế kỷ 19.
Đến nay, ở Thư viện Khoa học xã hội thuộc Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (Viện Viễn Đông bác cổ xưa) vẫn còn lưu bản chữ Hán chép tay Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Tử, số hiệu A953, niên đại được xác định từ 1910-1914.
Cũng trong nước năm 1924, sách Kim Vân Kiều truyện (1 quyển) của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân lần đầu xuất hiện.
Theo nhà nghiên cứu Lê Nghị, tên tác giả mới này xuất phát từ năm 1898, cụ Đào Nguyên Phổ khi đang học Trường Quốc Tử Giám, được một người họ ngoại nhà vua đến bảo có “Truyện Thanh Tâm Tài Nhân”.
Cụ Đào Nguyên Phổ chính là người giao một bản Kim Vân Kiều truyện cho Kiều Oánh Mậu để in ở Hà Nội năm 1902; trong sách in sau đó có xuất hiện cái tên Thanh Tâm Tài Nhân.
Đến năm 1941, học giả Dương Quảng Hàm đã dùng Kim Vân Kiều truyện (4 quyển, quyển đầu mất 21 trang và quyển cuối chỉ còn 24 trang) làm nên Kim Vân Kiều truyện, cũng đặt tác giả Thanh Tâm Tài Nhân…
Tranh vẽ câu thơ “Trăm năm trong cõi người ta” trong bản Kiều cổ ở Anh – Ảnh NXH cung cấp
Thanh Tâm Tài Nhân mơ hồ ở Trung Quốc
Trong khi đó, ở Trung Quốc, cuốn Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, bản Đại Liên, được in lần đầu vào tháng 10-1983, do Lý Trí Trung hiệu điểm.
Còn trước đó, Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân chỉ được ghi trong danh mục sách Văn học Trung Hoa từ năm 1926, nhưng không thấy địa chỉ tiểu thuyết dẫn được. Còn tên gọi Thanh Tâm Tài Nhân ở Trung Quốc không thấy ghi trên một cuốn sách nào.
“Bút danh Thanh Tâm Tài Nhân này lần lượt gán cho nhiều tác giả thời Minh đến giữa Thanh nửa đầu thế kỷ XVI như Từ Vị, Kim Thánh Thán, Trương Chiêu, Trương Quân, Từ Chấn… Hiện nay gán cho một bút danh khác cũng không rõ nhân thân là Thiên Hoa tàng chủ nhân, nhưng không một bút tích ghi nhận, phê bình, bài thơ nào của ai khác nhắc tới bút danh mặc định 72 tuổi này” – nhà nghiên cứu Lê Nghị phân tích.
Nhà nghiên cứu Lâm Thanh Sơn cho biết ngay cả một số học giả Trung Quốc cũng xác nhận: từ trước những năm 1980, tất cả các bộ sách, giáo trình về lịch sử Trung Quốc, bao gồm cả Trung Quốc tiểu thuyết sử lược của Lỗ Tấn đều không đề cập đến Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân.
Theo ông: “Đến năm 1957, giáo sư từ Trung Quốc sang Viện Viễn Đông bác cổ Hà Nội giúp sắp xếp lại tư liệu, thấy bản Kim Vân Kiều truyện được giới thiệu cốt truyện có nguồn gốc từ Trung Quốc.
Ông khẳng định là Trung Quốc không có tác giả Thanh Tâm Tài Nhân nào cả. Ngay cả Lý Trí Trung, người hiệu đính cuốn Kim Vân Kiều truyện – Thanh Tâm Tài Nhân năm 1983, cũng mơ hồ về nguồn gốc”.
Khi so sánh sách này với cuốn Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Tử ở Việt Nam (bản A953), nhà nghiên cứu Lâm Thanh Sơn cho rằng nó giống nhau khoảng 99%.
Chỉ có một vài khác biệt nhỏ, do bản người Việt dùng chữ Hán phồn thể theo lối văn ngôn. Còn bản Trung Quốc chữ Hán giản thể, theo lối tiểu thuyết chương hồi, văn phong bạch thoại.
Hiểu Kiều theo cách người Việt
Theo nhà nghiên cứu Lê Nghị, khi viết Truyện Kiều, Nguyễn Du chỉ mượn chất liệu Minh sử và vở kịch Hổ Phách Chủy để viết tổng cộng 187 câu, chiếm 5,7% so trong 3.254 câu; trong đó có 65 câu đúng theo chính sử, còn lại là nửa chính sử nửa hư cấu. Số 94,3% còn lại là do Nguyễn Du hư cấu và sáng tác nên.
Nguyễn Du mượn 3 nhân vật trong vở kịch là Hồ Tôn Hiến, Từ Hải và Vương Thúy Kiều (Mã Kiều). Còn tất cả các nhân vật khác Nguyễn Du đều hư cấu nên để viết, và toàn bộ đều mang tâm hồn, tính cách của người Việt.
Từ những điều trên, theo nhà nghiên cứu Lê Nghị, sách giáo khoa cần rút định đề Truyện Kiều dựa vào cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc.
Thay vào đó, cần thiết tăng cường bối cảnh lịch sử đương thời và tác giả tạo nên tác phẩm; phân tích tính cách, tâm hồn Việt của nhân vật với cách nhìn của người Việt đối với Thúy Kiều, đối với Hoạn Thư, đối với Từ Hải…
Do đó, cần dựa vào 3 tiêu chí: trung thực, dân tộc và nhân văn để chú giải Truyện Kiều theo tri thức và văn hóa của người Việt. Ông đơn cử: chữ trăm năm từng được chú giải bách niên theo tiếng Hán.
Trong khi, trong Truyện Kiều nhiều trường hợp “trăm năm không dính líu đến bách niên”, mà là xưa nay (Trăm năm trong cõi người ta), hôn nhân (Trăm năm biết có duyên gì hay không), đời người (Trăm năm một nấm cỏ khô xanh rì)…
Còn bể dâu từng chú giải kèm dẫn chứng Dĩ kiến Đông hải tam vi tang điền. Theo ông, nó vừa thừa, vừa lệch nghĩa: “đã từng thấy 3 lần biển Đông biến thành ruộng dâu là lối thậm xưng của người Trung Hoa”.
Trong khi với người Việt gọi bể dâu là tang thương, là một sự biến đổi từ tốt đến xấu. “Lẽ ra nên dẫn câu rất hay: Phong trần đến cả sơn khê/ Tang thương đến cả hoa kia cỏ này trong Cung oán ngâm khúc để thêm kiến thức và khơi gợi sự tìm đọc tác phẩm có câu thơ hay. Phải làm sao cho học sinh hiểu, áp dụng được, mới có lợi cho dân tộc” – nhà nghiên cứu Lê Nghị chia sẻ.
Trước công trình nghiên cứu và quan điểm mới trên, một số nhà nghiên cứu như ông Trần Đình Sơn cho rằng đó cũng là một hướng nghiên cứu thú vị.
Tất nhiên, sẽ còn cần thêm nhiều nghiên cứu khác về xuất phát Truyện Kiều để tường minh hơn về đại thi hào Nguyễn Du và tác phẩm đã đi vào lòng muôn đời người Việt…
“Kiến giải mới về nguồn gốc Truyện Kiều“ tác giả Hồng Hà đăng trên Báo điện tử Đại biểu Nhân dân 03/08/2020, và Phan Lan Hoa phản biện nguồn gốc Truyện Kiều đã cho thấy ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH SAU 200 NĂM ĐÃ ĐƯỢC TRẢ LẠI NGUỒN GỐC.Về tác giả của Kim Vân Kiều truyện, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều giả thuyết. Trong đó, bằng chứng khoa học là văn bản của vua Minh Mạng năm 1830, ra chỉ dụ cho nhóm văn thần Thanh Tâm Tài Tử ở Hàn lâm viện viết Kim Vân Kiều lục (bình giảng Truyện Kiều) bằng chữ Hán. Đó cũng là một trong những lý do trải qua hàng trăm năm sau, nhiều đồn đại cho rằng cuốn sách được xuất phát từ Trung Hoa nên Kim Vân Kiều lục được diễn giải lại bằng văn xuôi tiếng Việt, trở thành cuốn Kim Vân Kiều truyện. Những đồn đoán sai lầm đó của người Việt cũng là nguyên nhân để học giả người Trung Hoa nhận về mình cuốn sách này năm 1983, như đã trình bày ở trên.Các nhà nghiên cứu kết luận, cùng nguồn sử liệu nhà Minh, với các nhân vật Từ Hải – Kiều – Hồ Tôn Hiến, ở Trung Hoa và Việt Nam đi theo 2 hướng khác nhau. Ở Trung Hoa phóng tác thành các tiểu phẩm gồm truyện ngắn, kịch, tuồng độc lập, không tác phẩm nào kế thừa tác phẩm nào. Cũng không có tác phẩm nào mang cùng tên nhân vật và số phận nhân vật có cốt truyện, nội dung giống Đoạn trường Tân Thanh” ” Cụ Văn Hòe viết như này:- “Đoạn trường tân thanh” là do tác giả Nguyễn Du đặt khi viết xong tác phẩm (tức tên gốc nguyên thủy của Truyện Kiều).- Cụ Phạm Quý Thích đổi tên sang “Kim Vân Kiều tân truyện” khi xuất bản ấn phẩm chữ Nôm theo chỉ dụ của vua Minh Mạng.- Hai cụ Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim gọi là “Truyện Kiều”- Cụ Tản Đà gọi là “Vương Thúy Kiều”- Nhưng “Kim Túy tình từ chú thích” của cụ Phạm Kim Chi lại thể hiện tên do Nguyễn Du đề là “Kim Túy tình từ”. Còn “đoạn trường tân thanh” là bút tích vua Minh Mạng đề khi chỉ dụ cho xuất bản.- Cụ Trương Vĩnh Ký cho rằng chữ tân gây hệ lụy cho Truyện Kiều sau này, nên bỏ chữ “tân” gọi là “Kim Vân Kiều truyện” .- Hai cụ Lê Xuân Thủy, Huyền Mặc Đạo Nhân bớt từ “truyện”, lấy tên là “Kim Vân Kiều” (chắc là thấy chữ truyện thừa?).- Cư sĩ Trương Cam Vũ dịch ra thơ Hán lấy tên là “Hán dịch Kim Vân Kiều Nam âm thi tập”Các tác giả đều có trình bày nguyên do đặt tên của mình. Nội dung bên trong các cuốn sách này đều là thơ Kiều và luận giải, chú thích theo ý tác giả; hoặc là khảo luận ngôn ngữ thơ Kiều của Nguyễn Du. Khác chăng từ ngữ trong thơ có thay đổi đôi chút tiếng địa phương (chắc là cho phù hợp với sử dụng của vùng miền), còn thì nguyên bản.Từ đó có thể suy ra tên “Kim Vân Kiều truyện” KHÔNG PHẢI SÁCH TÀU. Đồng thời cũng không phải do người khác sáng tạo từ truyện Kiều, mà bắt đầu do cụ Phạm Quý Thích. Các tên khác do các thi nhân đời sau dịch chữ Nôm ra Quốc ngữ mỗi người một kiểu thôi ạ.Như vậy, ta có thể hiểu, những tác phẩm có lời thoại tựa như tuồng, hát bội, là do chỉ dụ của vua Minh Mạng biến thể “Đoạn trường tân thanh” sang thể ca kịch và các thể khác nhằm mục đích phát triển văn nghệ dân gian sâu rộng trong bá tính? Kính mong mọi người nghiên cứu thêm” .
Bài đăng trên báo Tuổi Trẻ ngày 26/09/2020 10:49 GMT+7 giới thiệu Trang cuối cuốn 7 của Thông tục Kim Kiều truyện, dòng 3 từ trái qua ghi năm xuất bản: Bảo Lịch thứ 13, Quý Mùi, chính nguyệt (tháng Giêng 1763)- Ảnh: Đoàn Lê Giang.
:Ý tưởng chung của ông Lê Nghị được dẫn lại trong bài “Thử giải mã lại Truyện Kiều” là muốn chứng minh Truyện Kiều của Nguyễn Du không phải là sáng tác trên cơ sở cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc, mà ngược lại Truyện Kiều có trước, sau đó nhóm Thanh Tâm Tài Tử người Việt Nam diễn thành Kim Vân Kiều truyện, từ đó truyền sang Trung Quốc thành Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, lưu ở Thư viện Đại Liên (nơi vẫn coi là tìm ra một trong các bản cổ Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc), và người Trung Quốc nhận là sáng tác của họ.
Quan điểm này đi ngược lại những nghiên cứu lâu nay của các học giả Việt Nam và nước ngoài, từ Phạm Quỳnh, Lê Thước, Phan Sĩ Bàng, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Dương Quảng Hàm, Giản Chi và các học giả sau này.
Những ghi nhận của sách Hán Nôm cổ cùng với quá trình nghiên cứu của các học giả 100 năm nay cho thấy: Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc có trước, Truyện Kiều của Nguyễn Du được sáng tác trên cốt truyện ấy có sau nhưng trở thành kiệt tác của văn học thế giới.
Tuy nhiên, ông Lê Nghị đưa ra luận điểm rằng Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc lưu ở Thư viện Đại Liên là sách giả. Nói như vậy là không có cơ sở, nhưng để cho rõ ràng, tôi xin đi đường vòng, không dùng tư liệu Trung Quốc nữa mà dùng tư liệu Nhật Bản.
Truyện Kiều của Nguyễn Du đã được dịch ra tiếng Nhật từ khá sớm, người dịch là nhà văn nổi tiếng Komatsu Kiyoshi. Người Nhật đặc biệt yêu thích Truyện Kiều qua bản dịch này, trong vòng 6 năm nó được tái bản đến 3 lần (1942, 1943, 1948).
Nhờ thế các học giả Nhật Bản mới chú ý tìm xem có Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc truyền đến Nhật Bản không. Họ phát hiện ra ở Nhật có các bản dịch, phóng tác Kim Vân Kiều truyện khá phong phú.
Trong đó, sớm nhất có thể kể tới bản Kim Kiều truyện dịch sang tiếng Nhật thành Tú tượng Thông tục Kim Kiều truyện(Kim Kiều truyện thông tục có tranh minh họa) của Nishida Korenori được xuất bản vào năm Bảo Lịch 13 (1763).
Bản này được lưu giữ ở Thư viện Đại học Tenri, gồm 7 sách, 5 quyển, 20 hồi. Cuối sách 7 có ghi: “Tháng Giêng, năm Quý Mùi, Bảo Lịch thứ 13 (1763)”. Như vậy, bản dịch xuất hiện 3 năm trước khi thi hào Nguyễn Du ra đời vào năm 1766.
Năm 2003, tôi đến Thư viện Đại học Tenri (gần Nara) để nhìn tận mắt, sờ tận tay bản dịch Thông tục Kim Kiều truyện và xin sao chụp lại (318 trang, khổ 28 cm x 36 cm, 20 tranh minh họa). Tôi được biết GS Trần Đình Sử cũng có cuốn này từ năm 1996 khi ông đi Nhật.
Gần đây, nhà nghiên cứu Vương Trung Hiếu cũng đã tìm được những tư liệu mới nhất về Kim Vân Kiều truyện ở Nhật Bản.
Ông đã giới thiệu bài Ảnh hưởng của tiểu thuyết tài tử giai nhân Trung Quốc – Trường hợp Bakin của GS Isobe Yūko (trích từ kỷ yếu của Đại học Takaoka, quyển thứ 18, xuất bản 2003 tại Nhật Bản). GS Isobe Yūko cho biết:
“Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc du nhập vào Nhật Bản trong thời kỳ Edo (1603 – 1868), từ đó về sau có nhiều bản dịch truyện này sang tiếng Nhật.
Năm 1763, xuất hiện bản dịch Thông tục Kim Kiều truyện của Nishida Korenori, được xem là bản dịch Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc sớm nhất”.
Với tư liệu như thế về năm xuất hiện bản dịch Kim Vân Kiều truyện của Nhật Bản, vấn đề Kim Vân Kiều truyện có trước, Truyện Kiều sáng tạo lại, chuyển thể thành truyện thơ từ tác phẩm này là đã rõ.
ĐỀ NGHỊ BÁO TUỔI TRẺ THEO GƯƠNG GOOGLE GỠ BÀI “THỬ “GIẢI MÔ LẠI TRUYỆN KIỀU” RA KHỎI TRANG ONLINE ĐỂ TRÁNH LÀM HẠI HỌC THUẬT NƯỚC NHÀ! Đoàn Lê Giang nguồn FB Đoàn Lê Giang19 tháng 9
Facebooker Lê Nghị đã đưa ra một quan điểm giật gân: Không phải Truyện Kiều của Nguyễn Du sáng tạo lại từ “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, mà ngược lại “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân được sáng tác từ Truyện Kiều. Tức Truyện Kiều có trước, Kim Vân Kiều truyện có sau.
Ý kiến này được ông Lê Nghị đã đưa lên Facebook cách đây một năm. Để khỏi làm nhiễu thông tin tôi đã viết 3 status để vạch rõ cái vô lý của lập luận đó, trong đó có việc tôi trưng ra bản chụp quyển “Thông tục Kim Kiều truyện” là bản dịch “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân ra tiếng Nhật xuất bản năm 1763 – trước khi Nguyễn Du (1765-1820) sinh 2 năm.
Người đầu tiên phát hiện ra bản dịch “Kim Vân Kiều truyện” ở Nhật Bản là GS.Hatakenaka Toshirô 畠中 敏郎 (ĐH Osaka- Nhật Bản) trong bài viết “Kim Vân Kiều và văn học thời Edo” 江戸文学 と 金 雲 翹 năm 1959, sau đó được in ở phần sau bản dịch “Kim Vân Kiều” của Takeuchi Yonosuke (Kodansha, 1975).
Năm 2003 tôi đã cùng GS.Kawaguchi Kenichi (ĐH Ngoại ngữ Tokyo) đi đến Nara để nhìn tận mắt, sờ tận tay bản dịch đó và xin sao chụp về, vì biết đây là tư liệu quý về người anh em của Truyện Kiều. Khi tôi chụp lên FB tư liệu trên thì GS.Trần Đình Sử cho biết ông cũng có và chụp đưa lên. https://www.facebook.com/photo?fbid=1471795693005591…
Ông Lê Nghị không chấp nhận sự thật đó, vẫn tiếp tục đi trình bày quan điểm ngược đời của mình trong cuộc trưng bày các minh họa về Truyện Kiều ở Trung tâm Văn hóa Pháp (Hà Nội) vào tháng 8/2020 vừa qua.
Ngày 17/9/2020 báo Tuổi trẻ đã giới thiệu bài viết của ông Lê Nghị lên báo giấy và online với nhan đề “Thử “giải mã” lại Truyện Kiều“. Bài viết gây xôn xao dư luận, sau đó Google lại đưa lên trang của mình, có lẽ đến hàng triệu người biết. Có rất nhiều giáo viên hoang mang, có cô giáo là học trò cũ hỏi tôi: Vậy SGK, giáo trình xưa nay sai hết à? Tôi phải mắng át đi: Tôi hỏi em, em ra đường gặp một người nói: Con bê đẻ ra con bò, thế rồi em cũng tin và bỏ hết niềm tin của mình trước nay à?
Rất may nhà nghiên cứu Vương Trung Hiếu đã cất công tìm những tư liệu nghiên cứu mới nhất của giới nghiên cứu Nhật Bản về “Kim Vân Kiều truyện” và giới thiệu bài nghiên cứu “Ảnh hưởng của tiểu thuyết tài tử giai nhân Trung Quốc – Trường hợp Bakin (中国才子佳人小説の影響 – 馬琴の場合)” của GS.Isobe Yūko (磯部祐子), trích từ Kỷ yếu của Đại học quốc gia Takaoka (高岡短期大学紀要), quyển thứ 18, xuất bản năm 2003 tại Nhật Bản. GS.Isobe Yūko cho biết:
“Kim Vân Kiều truyện (金雲翹伝) của Trung Quốc du nhập vào Nhật Bản trong thời kỳ Edo (1603 – 1868), từ đó về sau có nhiều bản dịch truyện này sang tiếng Nhật. Năm 1763, xuất hiện bản dịch Thông tục Kim Kiều truyện (通俗金翹伝) của Nishida Isoku (西田維則/ Tây Điền Duy Tắc), được xem là bản dịch Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc sớm nhất’, nghĩa là có trước khi Nguyễn Du chào đời 3 năm.” (Status “Nguồn gốc Truyện Kiều”-Fb Vương Trung Hiếu 18/9/2020). https://www.facebook.com/hieuvuongtrung
Với tư liệu rõ ràng như thế về năm xuất hiện bản dịch Kim Vân Kiều truyện của Nhật Bản (1763 – Xem ảnh từ tư liệu Đoàn Lê Giang), vấn đề “Kim Vân Kiều truyện” có trước, Truyện Kiều sáng tạo lại, chuyển thể thành truyện thơ từ tác phẩm này coi như đã rõ, mọi bàn luận sau này chỉ là cãi cố, cãi lấy được, cãi vì tự ái, hoặc không có hiểu biết tối thiểu về nghiên cứu. Tôi sẽ không tranh luận gì nữa.
Xin nói về việc dùng bài của facebooker Lê Nghị. Báo “Tuổi trẻ” đã tin dùng một bài có quan điểm rất giật gân về tác phẩm hệ trọng nhất của văn hóa VN là Truyện Kiều. Facebooker Lê Nghị (biệt danh là Li Li Nghệ) và nhóm đã bác lại hết mọi thành tựu nghiên cứu của các học giả uyên thâm về Truyện Kiều từ trước tới nay như Phạm Quỳnh, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Lê Thước, Phan Sĩ Bàng, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Dương Quảng Hàm… – những học giả rất giỏi Hán Nôm, tiếng Pháp và làm chủ các kho tư liệu Hán Nôm; trong khi đó ông Lê Nghị không biết Hán Nôm, không có một quá trình nghiên cứu nghiêm túc, không có tư liệu gốc, không từng đến các thư viện lớn ở Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc để khảo tư liệu. Lập luận của ông và nhóm rất ngược đời, rất vô lý, toàn là quy kết, suy diễn vô bằng, ai đưa ra tư liệu nào khác quan điểm của các ông, các ông đều chỉ có một cách bác bỏ duy nhất: bảo đó là tư liệu giả hoặc tung hỏa mù để mọi người nghĩ là tư liệu giả, dù là tư liệu cổ chụp từ Thư viện Đại Liên (TQ), hay Thư viện ở Đài Loan, Thư viện Đại học Ngoại ngữ Tokyo, Thư viện Đại học Tenri, Thư viện Quốc hội Nhật Bản….
Nếu các ông chỉ chơi Facebook thì muốn “chém gió”, muốn “nổ”, muốn chửi hết các học giả lớn, rồi chia sẻ với nhau trong nhóm thế nào cũng được – miễn là đừng phạm pháp. Tôi đã trình bày lý lẽ, chứng cứ rõ ràng một lần cho các ông biết rồi, các ông nghe hay không thì tùy, tôi không quan tâm các ông viết cái gì nữa. Nhưng bài các ông đưa lên báo Tuổi trẻ lại là một việc hệ trọng (dù đoạn kết báo có nói đưa để tham khảo), nên tôi thấy mình có trách nhiệm phải lên tiếng. Bây giờ trắng đen, đúng sai đã rõ, Google đã rút bài “Thử “giải mã” lại Truyện Kiều” ra khỏi trang tin của mình, thì báo Tuổi trẻ cũng nên mạnh dạn rút bài ấy. Điều ấy rất nên làm, nó thể hiện thái độ trọng sự thật, lòng dũng cảm và tinh thần trách nhiệm của người làm báo với bạn đọc – những phẩm chất mà tờ báo đã và đang theo đuổi, những phẩm chất mang đến sự tin tưởng và kính trọng của bạn đọc, trong đó có tôi đối với tờ báo. Nếu không rút cứ để đấy, nhiều người tưởng bài viết đúng tin theo, trích dẫn thì sẽ thành trò cười cho giới nghiên cứu, nhưng rất có hại cho học thuật, cho văn hóa nước nhà.
Kính trọng Nguyễn Du, nhớ đến ông nhân 200 năm ngày mất của ông thì đừng làm gì tổn thương đến ông – để ông có thể “ngậm cười chín suối”.
-Ảnh: Bìa và trang cuối của cuốn “Thông tục Kim Kiều truyện” của Nhật Bản, dòng 3 trái qua ghi rõ năm xuất bản: “Bảo Lịch 宝暦 thứ 13, Quý mùi, Chính nguyệt”. Bảo Lịch năm thứ nhất là 1751, thì Bảo Lịch thứ 13 là 1763, cụ thể là tháng Giêng.” (Tư liệu Đoàn Lê Giang)
*
Nguyễn Du tư liệu quý do Hoàng Kim thu thập đúc kết nhằm góp phần giải mã Nguyễn Du và Truyện Kiều gồm: 1) Nguyễn Du Truyện Thúy Kiều (bản Phường do Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim hiệu đính); 2) Bắc hành tạp lục của Nguyễn Du, 3) “Hoàng Lê Nhất Thống Chí” của Ngô Gia Văn Phái, 4) Đại Việt thông sử, còn gọi Lê triều thông sử của Lê Quý Đôn; 5) “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim, 6) “200 năm nghiên cứu bàn luận truyện Kiều” 1989 trang của Lê Xuân Lít, 7) “Nguyễn Du” 416 trang của Nguyễn Thế Quang, 8) “Thả một bè lau”, Truyện Kiều dưới cái nhìn Thiền quán, 471 trang của Nhất Hạnh 9) Hoàng Việt hưng long chí của Ngô Giáp Đậu, người dịch Ngô Đức Thọ, Mai Xuân Hải, Nguyễn Văn Nguyên; 10) Phạm Trọng Chánh đọc sách Nguyễn Du trên đường gió bụi của Hoàng Khôi, cùng với hệ thống các bài nghiên cứu dịch thuật của Phạm Trọng Chánh về Nguyễn Du cuộc đời và tác phẩm; 11) “Đại thi hào dân tộc danh nhân văn hóa Nguyển Du kỷ niệm 250 năm năm sinh Nguyễn Du” (Kỷ yếu hội thảo khoa học) NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh 2015, 997 trang của Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh; 12) Nguyễn Du một niên biểu của Hoàng Kim với các hồ sơ điền dã gồm Linh Nhạc Phật Ý Phước Tường TP Hồ Chí Minh, đền cổ Trung Liệt Hà Nội và tư liệu Bang giao tập (bí mật ngoại giao nhà Tây Sơn); 13) Phát hiện mới nguồn gốc Truyện Kiều “Thử giải mã lại Truyện Kiều” (Lê Nghị luận Truyện Kiều; Phan Lan Hoa phản biện nguồn gốc truyện Kiều, và bài viết “Truyện Kiều có trước hay sau Kim Vân Kiều truyện?” của PGS.TS Đoàn Lê Giang (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh) chứng minh ngược lại là Kim Vân Kiều truyện có trước.Thông tin lưu tại Nguyễn Du tư liệu quý CNM365 Chào ngày mới 16 tháng 10 http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-16-thang-10/..
Cảm ơn nữ sĩ Phan Lan Hoa phản biệnnguồn gốc Truyện Kiều với chủ đề chính Đoạn trường Tân thanh sau 200 năm đã được trả lại nguồn gốc và nhà nghiên cứu Lê Nghị với loạt tác phẩm đúc kết tại Lê Nghị luận Truyện Kiều đã tỏ ý nghi ngờ“Kim Vân Kiều truyện” và Truyện Kiều có uẩn khúc lịch sử chưa được giải mã đầy đủ. Cảm ơn PGS. TS Đoàn Lê Giang (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh) với tác phẩm Truyện Kiều có trước hay sau Kim Vân Kiều truyện? của .. Đây là những cố gắng mới, phát hiện mới rất quý, cùng với thông tin Nguyễn Du niên biểu luận, Nguyễn Du trăng huyền thoại của TS Hoàng Kim, Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh góp phần sưu tầm, đúc kết minh chứng sự thật sáng tỏ khối thông tin Nguyễn Du tư liệu quý để bảo tồn và phát triển di sản lịch sử văn hóa Việt Nguyễn Du và Truyện Kiều.
xem tiếp:
PHAN LAN HOA PHẢN BIỆNNGUỒN GỐC TRUYỆN KIỀU Nguồn: FB Phan Lan Hoa Thứ Ba 13 tháng 10, 2020
Bản Truyện Kiều do Công Thiện Đường in vào mùa Đông năm Mậu Tuất (1898), thời vua Thành Thái (Nguồn: Kiến giải mớ1 về nguồn gốc Truyện Kiều; Hồng Hà; Báo điện tử Đại biểu Nhân dân 03/08/2020)
ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH SAU 200 NĂM ĐÃ ĐƯỢC TRẢ LẠI NGUỒN GỐC.Về tác giả của Kim Vân Kiều truyện, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều giả thuyết. Trong đó, bằng chứng khoa học là văn bản của vua Minh Mạng năm 1830, ra chỉ dụ cho nhóm văn thần Thanh Tâm Tài Tử ở Hàn lâm viện viết Kim Vân Kiều lục (bình giảng Truyện Kiều) bằng chữ Hán. Đó cũng là một trong những lý do trải qua hàng trăm năm sau, nhiều đồn đại cho rằng cuốn sách được xuất phát từ Trung Hoa nên Kim Vân Kiều lục được diễn giải lại bằng văn xuôi tiếng Việt, trở thành cuốn Kim Vân Kiều truyện. Những đồn đoán sai lầm đó của người Việt cũng là nguyên nhân để học giả người Trung Hoa nhận về mình cuốn sách này năm 1983, như đã trình bày ở trên.Các nhà nghiên cứu kết luận, cùng nguồn sử liệu nhà Minh, với các nhân vật Từ Hải – Kiều – Hồ Tôn Hiến, ở Trung Hoa và Việt Nam đi theo 2 hướng khác nhau. Ở Trung Hoa phóng tác thành các tiểu phẩm gồm truyện ngắn, kịch, tuồng độc lập, không tác phẩm nào kế thừa tác phẩm nào. Cũng không có tác phẩm nào mang cùng tên nhân vật và số phận nhân vật có cốt truyện, nội dung giống Đoạn trường Tân Thanh.
Thứ Tư 14 tháng 10, 2020
Gửi các Nhà Kiều học. Cả sách giấy, lẫn sách điện tử, tui có khoảng gần 30 cuốn xung quanh nàng Kiều và chàng Nguyễn Du. Trong đó có nhận định của cụ Văn Hòe như này:- “Đoạn trường tân thanh” là do tác giả Nguyễn Du đặt khi viết xong tác phẩm (tức tên gốc nguyên thủy của Truyện Kiều).- Cụ Phạm Quý Thích đổi tên sang “Kim Vân Kiều tân truyện” khi xuất bản ấn phẩm chữ Nôm theo chỉ dụ của vua Minh Mạng.- Hai cụ Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim gọi là “Truyện Kiều”- Cụ Tản Đà gọi là “Vương Thúy Kiều”Ngoài ra trong các cuốn sách khác:- Cụ Phạm Kim Chi đặt là “Kim túy tình từ”- Cụ Trương Vĩnh Ký bỏ chữ “tân” gọi là “Kim Vân Kiều truyện” theo cụ Phạm Quý Thích- Hai cụ Lê Xuân Thủy, Huyền Mặc Đạo Nhân bớt từ “truyện”, lấy tên là “Kim Vân Kiều”- Cư sĩ Trương Cam Vũ dịch ra thơ Hán lấy tên là “Hán dịch Kim Vân Kiều Nam âm thi tập”Các tác giả đều có trình bày nguyên do đặt tên của mình. Nội dung bên trong các cuốn sách này đều là thơ Kiều và luận giải, chú thích theo ý tác giả; hoặc là khảo luận ngôn ngữ thơ Kiều của Nguyễn Du. Khác chăng từ ngữ trong thơ có thay đổi đôi chút tiếng địa phương (chắc là cho phù hợp với sử dụng của vùng miền), còn thì nguyên bản. Từ đó có thể suy ra tên “Kim Vân Kiều truyện” KHÔNG PHẢI SÁCH TÀU. Đồng thời cũng không phải do người khác sáng tạo từ truyện Kiều, mà bắt đầu do cụ Phạm Quý Thích. Các tên khác do các thi nhân đời sau dịch chữ Nôm ra Quốc ngữ mỗi người một kiểu thôi ạ.Như vậy, ta có thể hiểu, những tác phẩm có lời thoại tựa như tuồng, hát bội, là do chỉ dụ của vua Minh Mạng biến thể “Đoạn trường tân thanh” sang thể ca kịch và các thể khác nhằm mục đích phát triển văn nghệ dân gian sâu rộng trong bá tính? Kính mong mọi người nghiên cứu thêm.
LÊ NGHỊ LUẬN TRUYỆN KIỀU
Nhà nghiên cứu Lê Nghị có một loạt tác phẩm nghiên cứu về Truyện Kiều trong thời gian gần đây rất đáng trân trọng và lưu ý: Luận về Kim Vân Kiều lục (bài 1 FB Li Li NghệThứ Năm 15 tháng 10 , 2020 lúc 19;27) ; Ai soạn Kim Vân Kiều Truyện A953? (bài 3 Kim Vân Kiều Truyện A953 kế thừa tác phẩm nào ở Đại Nam, FB Li Li Nghệ12 tháng 10 lúc 18:15); Phản biện nhận định của giáo sư Dương Quảng Hàm về nguồn gốc Truyện Kiều ( hình chụp trang báo Tri Tân và bài viết của GS Dương Quảng Hàm; FB Li Li Nghệ 8 tháng 10 lúc 14:19) . Xin chép lại nguyên văn và trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc trong hồ sơ chuyên đề NGUYỄN DU TƯ LIỆU QUÝ.
Biên khảo của chúng tôi là dọn một con đường thẳng đi từ ĐTTT đến KVKT của Thanh Tâm Tài Nhân. Ở các bài trước, chúng tôi đã chứng minh xong: Tác giả Kim Vân Kiều truyện là Duy Minh Thị. Ông tên thật là Trần Quang Quang, còn có bút danh khác là Gia Định Thành cư sĩ, sống ở Sài Gòn, hoạt động văn hóa mạnh nhất vào những năm 1870-1883. Việc chứng minh này trong loạt gồm 3 bài: Ai là người viết A953 đã đăng tuần trước.
Nhưng việc phát quang, mở rộng con đường ắt sẽ có người khác và thế hệ sau. Học thuật không phải là độc quyền của riêng ai. Những gì chúng tôi vận dụng tại biên khảo này cũng từ bằng chứng người trước để lại, cho dù người trước đã đi con đường khác mà chúng tôi cho rằng đã lạc hướng.
Sau khi cung cấp sơ đồ cơ bản, và chứng minh xong con đường vạch ra đã tới đích: thơ ĐTTT => Thơ KVK Truyện => tiểu thuyết KVK Lục => KVKT- Duy Minh Thị=> KVKT- Thanh Tâm Tài Tử => KVKT- Thanh Tâm Tài Nhân. Bài này đi sâu vào chi tiết Kim Vân Kiều Lục vì nó là tác phẩm quan trọng, ví như một trạm dừng chân lớn nhất giữa điểm khởi phát ĐTTT đi đến điểm cuối Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Thiễn nghĩ người tìm hiểu về truyện Kiều nhất thiết phải đọc Kim Vân Kiều Lục, mới hiểu sâu hơn về Truyện Kiều, và cuốn Kim Vân Kiều truyện, nên tôi viết loạt bài giới thiệu này cho những ai chưa đọc.
1.Thời gian sách xuất hiện:
-Sách Kim Vân Kiều Lục theo Phạm Tú Châu năm 2015 đã cho rằng in lần đầu năm 1888, hiện còn bản lưu. Tôi e rằng năm 2015 tiến sĩ Phạm Tú Châu không biết thông tin: theo di lục của A.d.Michelle 1884 ghi là KVKL đã in năm1876 tại Hà Nội. Cũng như đa số nhầm lẫn, do không rõ vô tình hay cố ý, tôi cho rằng cố ý, trước tháng 5/2020 người ta đã dịch cuốn sách ông Abel des Michelle giữ tên Kim Vân Kiều Lục thành Kim Vân Kiều Truyện. Cũng như bao thế hệ học sinh có người chưa từng nghe tới Thanh Tâm Tài Tử mà chỉ biết Thanh Tâm Tài Nhân. Chính vì vậy đã đào tạo ra bao thế hệ chỉ biết tới Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, và mặc định tác giả và tác phẩm là của Trung Quốc. Người học và người đoc không hề biết tới các tác phẩm tiền thân của Kim Vân Kiều Truyện -Thanh Tâm Tài Nhân Việt Nam là cuốn Kim Vân Kiều Lục. Đây là một việc làm bẻ cong văn học sử, bẻ lái học thuật của một số được gọi là “ tín đồ Thanh Tâm Tài Nhân Trung Hoa” hiện nay.(1)
Do vậy, khi mở đầu xét lại hồ sơ vụ án đánh tráo bằng chứng về nguồn gốc Đoạn Trường Tân Thanh phải bắt đầu từ 2 cặp từ Tử- Nhân và Lục-Truyện. Cứ đi sâu khai thác 2 cặp từ này từ trong văn bản của Việt nam thì sẽ thông, chứ không cần tìm đâu xa xôi và mơ hồ.
Nhắc lại, giáo sư Dương Quảng Hàm 1941, đã so sánh 3 cuốn: Kim Vân Kiều Lục khuyết danh – cuốn chép tay A953 Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Tử -cuốn in KVKT của Thanh Tâm Tài Nhân. Ông đã kết luận KVK Lục là cuốn tóm tắt thơ Truyện Kiều, mặc dù ông không giải thích vì sao, ngày nay thẩm định chuẩn xác là tác phẩm của Việt Nam. Nói rằng tóm tắt thơ Truyện Kiều tức hàm ý ra đời sau Truyện Kiều Nguyễn Du. Trần Ích Nguyên năm 2003 đánh giá cao tác phẩm cả về mặt văn chương lẫn văn học sử. Nhưng mãi đến 2015 Phạm Tú Châu mới dịch bản này, không thấy ai quan tâm nhận xét vì sao Trần Ích Nguyên đánh giá là quốc bảo.
Như trên đã nói, di lục của Michelle đánh dấu thời điểm sách được in là 1876, khuyết danh, nhưng ta hiểu rằng trước khi in là phải sáng tác, nhưng không rõ sáng tác từ năm nào.
Truy tìm xa hơn, tôi lưu ý nhận xét của Maspero rằng KVK Lục là của Phạm Quý Thích và Thanh Tâm là bút hiệu khác của Hoa Đường Phạm Quý Thích. Ông không nói rõ vì sao. Mới đây một người bạn đưa tôi thông tin từ câu đối của Vũ Thì Mẫn (1795-1866)
Bạc Mệnh trầm nhân giai tác do ư giai sự Kỳ tài diệu bút Thanh Hiên viễn quá Thanh Tâm. (Mệnh bạc thân chìm, tác phẩm do từ sự tích Tài cao diệu bút, Thanh Hiên hơn hẳn Thanh Tâm)
Nếu câu đối này đích thực là của Vũ Thì Mẫn thì có giá trị truy cứu. Hai câu đối đó phản ánh rằng Vũ Thì Mẫn đang so sánh hai tác phẩm của hai tác giả, viết cùng một sự tích nhưng bút danh Thanh Hiên (tức Nguyễn Du) hơn hẳn bút danh Thanh Tâm. Phối hợp với Maspero đã đọc hai chữ Thanh Tâm trên bản Kim Vân Kiều Lục nào đó mà ông cho là bút danh của Phạm Quý Thích, thì Kim Vân Kiều Lục phải có trước 1866, trước khi xuất hiện bút tích Duy Minh Thị 1872 ít nhất 6 năm. Tuy nhiên chúng tôi chưa xác minh được tính chân thực tác giả câu đối này. (2)
Cũng có thể đi xa hơn từ di lục lời đề từ Kim Vân Kiều Án của Nguyễn Văn Thắng (1931- 1932). Trong đó ông nhắc tới thơ Nguyễn Du là “Kim Vân kiều truyện quốc ngữ’. Sau đó ông nói Bắc bản “ thực lục” do nhà Ngũ Vân Lâu in đã bán khắp nơi. Có người dựa vào chữ “thực lục” hiểu rằng cuốn ông nói là Kim Vân Kiều Lục. Nói cách khác thời Minh Mạng đã có Kim Vân Kiều Lục Việt Nam được in ở nhà Ngũ Vân Lâu bên Tàu. Tuy nhiên chúng tôi nghi ngờ tác giả lời đề từ không phải của Nguyễn Văn Thắng mà là của đời sau, viết không chính xác. (3)
Vì vậy phối hợp thông tin đa số nêu trên, cộng với thông tin về Mộng Liên Đường tôi dẫn chứng phần sau, thì KVKL có trước 1825, năm Phạm Quý Thích mất. Tuy nhiên đó là suy luận tổng hợp, không mâu thuẫn chứ chưa phải bằng chứng. Đặc biệt là Nguyễn Văn Thắng văn bản còn đáng ngờ, Vũ Thì Mẫn tôi chưa có điều kiện đọc toàn văn để xét.
Do đó đến nay phải tạm chấp nhận bằng chứng di lục hiện có của Abel des Michelle: KVK Lục có trước 1876 mà không rõ thời điểm sáng tác và không rõ tác giả. Nhưng dù gì đi nữa, về di lục và sách thực chứng Kim Vân Kiều Lục vẫn xuất hiện trước Kim Vân Kiều truyện ít nhất 30 năm, và tác giả là người Việt.
2. Xác định tác phẩm của người Việt:
Trừ ông Abel des Michelle 1884 hiểu lầm KVKL là sách Trung Hoa. Các tác giả Maspero, Dương Quảng Hàm, Phạm Tú Châu, Trần Ích Nguyên ( học giả Đài Loan qua viện Hán Nôm khảo sát 2003) đều thừa nhận là tác phẩm của người Việt. Chỉ khác nhau về nhận định thời điểm. Nhắc lại theo Maspero tác giả là Phạm Quý Thích, tức trước 1825. Dương Quảng Hàm không biết, Phạm Tú Châu và Trần Ích Nguyên sau 1850.
Phần tôi, tôi cho rằng ông Trương Minh Ký không cải chính sự hiểu lầm của ông Michelle là một đáng ngờ về vai trò tiếp tay nhóm Duy Minh Thị ở Sài Gòn. Vì ngay cả tôi, hậu sinh xa lắc, đọc qua vài trang Kim Vân Kiều Lục thì đã thấy Kim Vân Kiều Lục đã trích thơ Chinh Phụ Ngâm Khúc của Đặng Trần Côn:
Ví dụ:
Chinh phụ ngâm: (CPN)
Thiên địa phong trần Hồng nhan đa truân Du du bỉ thương hề thùy tạo nhân
(Thuở trời đất nổi cơn gió bụi Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên Xanh kia thăm thẳm từng trên Vì ai gây dựng cho nên nỗi này) (Đoàn Thị Điểm dịch)
Kim Vân Kiều Lục (KVKL):
Du du bỉ thương thùy tạo nhân Hồng nhan hà tự cánh đa truân.
-CPN: Tu du trung hề đối diện Khoảnh khắc lý hề đăng trình.……… Tương cố bất tương kiến,
-KVKL lặp lại y hệt: Tu du hề đối diện Khoảnh khắc hề đăng trình Tương cố bất tương kiến
– Hoặc CPN: Vọng vân khứ hề lang biệt thiếp Vọng sơn khứ hề thiếp tư lang
-KVKL: Vân khứ hề lang biệt thiếp Vân quy hề thiếp tư lang
Có thể nói còn cả chục dẫn chứng nữa, song bấy nhiêu cũng đủ chắc chắc rằng Kim Vân Kiều lục tác giả là người Việt, vận dụng thơ Việt. Vậy mà từ rất lâu người ta đồn đây là cuốn sách của người Hoa, cả ông Abel des Michelle cũng lầm.(Còn tiếp bài 2: đặc điểm của Kim Vân Kiều Lục, tầm ảnh hưởng đến các tác phẩm khá.c
Chú thích:
(1).Tín đồ Thanh Tâm Tài Nhân Trung Hoa: Chỉ những người mặc định bút danh Thanh Tâm Tài Nhân, không có nhân thân, lại biết quốc tịch Trung Hoa và năm sinh tử, lần lượt theo các học giả Trung Hoa. ( 1536 -1707= 131 tuổi)
(2) dẫn theo: Non Nước Hồng Lam, địa chí văn hóa Hà Tĩnh, tập 2, xb 2010)
(3) Sẽ có bài riêng luận về bài giới thiệu Kim Vân Kiều Án sắp đăng sau loạt bài về Kim Vân Kiều Lục.
Bài 3: KIM VÂN KIỀU TRUYỆN A953 ĐÃ KẾ THỪA TÁC PHẨM NÀO Ở ĐẠI NAM
Nhắc lại ở bài 1 chúng tôi đã chỉ ra Duy Minh Thị 1872 là người nhắc tới nội dung A953 đầu tiên. Nếu ép ngay Duy Minh Thị là người khởi thảo chứ không phải là người đọc một cuốn Kim Vân Kiều có trước thì chưa thể vững chắc. Cho nên ở bài 2 chúng tôi đã chỉ ra diễn tiến từ khi Kiều Oánh Mậu và các vị tòa soạn báo Đồng Văn có trong tay ruột của cuốn A953, và sau đó chỉnh sửa dần để bán cho Viễn Đông Bác Cổ. Cũng như sau khi bỏ Nho học thì nó được nhanh chóng dịch ra quốc ngữ để bán cho công chúng.Việc bổ sung bài 2 nhằm chứng minh rằng: một khi tác phẩm nào đó xuất hiện thì nó sẽ được nhiều người biết tới. Ngay cả bài thơ “ con cóc” vô danh, vẫn được nhiều người biết tới. Trong những năm 1902-1905, người trong tòa soạn báo Đồng Văn nhắc tới cuốn Thanh Tâm Tài Nhân Truyện hoặc Thanh Tâm Tài Nhân Lục chính là nội dung chứa trong A953. Nhưng bên ngoài thì người ta chỉ biết đến Kim Vân Kiều Lục đã có từ lâu và phổ biến rộng trong công chúng. Dù vậy,A953 chưa hoặc hoàn thiện xong, luôn có sự nhắc tới của người đương thời, là di lục nhắc tới. Trước Duy Minh Thị không một ai trích, nhắc tới nội dung cuốn A953 nghĩa là nó không tồn tại trước đó. Chỉ có Duy Minh Thị biết nên sách đó do ông viết, chứ không phải do ông đọc.Để củng cố thêm suy luận đó, ta phải xét thêm A953 có chứa nội dung sách nào trước khi nó ra đời và có, khi Duy Minh Thị còn sống không? Tôi khảo sát 2 tác phẩm có trước A953 và đương thời với Duy Minh Thị ở Đại Nam. Đó là 2 cuốn: Kim Vân Kiều Lục và Tuồng Túy Kiều của Ngụy Khắc Đản.1.A953 kế thừa Kim Vân Kiều Lục:Tình tiết Truyện Kiều Mã giám sinh mua Kiều:Cò kè bớt một thêm haiHồi lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm -KVKL: 500 xâu bạc xanh (tự phóng tác )-KVKT: 500 xâu bạc xanh (KVKT chép lại KVKL)-Thúc Sinh chuộc Kiều:Rõ ràng của dẫn tay traoHoàn lương một thiếp thân vào cửa công -KVKL: 500 xâu bạc xanh( tự phóng tác) -KVKT: 500 xâu bạc xanh (chép lại KVK Lục)Kiều viết một bài tuyệt mệnh trước khi trầm mình: sông Tiền Đường:Dưới đèn sẳn bức tiên hoaMột thiên tuyệt bút gọi là để sau KVKL( bản AC521):Thập ngũ niên tiền hữu ướcKim triêu chi đáo Tiền Đường Bách thế quang âm hỏa thướcNhất sinh sự nghiệp hoàn lươngTriều tín thôi nhân khứ dãĐẳng gian khước liễu đoạn trường.(tự phóng tác) -KVKTThập ngũ niên tiền hữu ướcKim triêu phương đáo Tiền ĐườngBách thế quang âm hỏa thướcNhất sinh thân sự hoàn lươngTriều tín thôi nhân khứ dãĐẳng nhàn liễu khước đoạn trường.(chép lại KVK Lục)Đó là những bằng chứng không thể chối cãi rằng A953 có kế thừa nội dung của Kim Vân Kiều Lục. Trước hết là đi theo bố cục như Kim Vân Kiều Lục, bắt chước Kim Vân Kiều lục là chen vào các bài thơ, thay đổi vài chi tiết. Sáng tạo là đưa thêm trên chục nhân vật phụ, miêu tả thêm hành động cho sinh động, giống với một tiểu thuyết chương hồi. Nhưng lời thoại lại lấy chất liệu tại vở tuồng dưới đây.2. A953 kế thừa Tuồng Túy Kiều của Ngụy Khắc Đản (?-1872). Ngụy Khắc Đản là vị quan có tiếng thời Tự Đức. Ông là Phó chánh sứ trong đoàn sứ của Phan Thanh Giản đi Pháp điều đình, ông mất năm 1872, năm Duy Minh Thị in bản Kiều Nôm. Sau năm 1883 mới mất dấu Duy Minh Thị. Triều Nguyễn chuộng diễn tuồng, và xem đó là truyền thông giáo dục tư tưởng cho dân chúng. Chúng tôi dẫn từ bản chuyển nôm của Trương Minh Ký, xuất bản lần đầu 1897 ( Phạm Đan Quế, Truyện Kiều và các nhà nho thế Kỷ 19), đoạn tuồng Hoạn Thư hành hạ Thúy Kiều và Thúc sinh. Lời thoại trong Kịch giống hệt trong Kim Vân Kiều truyện.Tuồng Túy Kiều có trước 1872 ( trích hồi đánh ghen):Hoạn Thư viết:Thưa phu quân:Con hầu đó giỏi giang bao việcMẹ thiếp cho giúp đỡ sớm khuyaÂm nhạc đã lành nghềHồ cầm thêm đủ ngónHựu viết: Ủa này có chi phiền muộnChẳng đặng hân hoanThời:Gần một năm mới được đoàn viênSánh đôi mặt cớ sao sầu thảmThúc sanh viết:Số là: trời xa ngàn dặmTrời cách hai phươngTrông mây thôi phát nhớ huyên đườngNên: tuôn mưa khó ngăn cầm được lụy chớ!Hoạn Thư viết: Phải điều tình lý, hẳn thiệt hiếu thân!KVK Truyện: -Chàng Thúc sinh quay mặt lại hỏi Hoạn Thư: người con gái này từ đâu mới đến?Tiểu thư rằng: Đó là gia gia ở Bắc Kinh mua nó đem về để sang đây hầu thiếp. Con thị tì nó lại đủ tài hoa đã hát được tân thanh lại giỏi ngón Hồ cầm nữa đó!( tiếp một đoạn Thúc sinh nhận ra Thúy Kiều, suy nghĩ bị mắc mưu…xúc động khiến nước mắt tuôn tràn trề)-Tiểu thư thấy thế tra hỏi rằng:Cớ sao tướng công lại quá cảm động như vậy?Sinh rằng: Vì sắp hết tang, nhớ thân mẫu ngày trước, nên chi lệ mới trào ra!Tiểu thư rằng: Quả thật những giọt nước mắt của chàng vì thương thân mẫu nên trào ra, thực cũng đáng khen là bậc hiếu tử vậy.Đây là trích mở đầu một hồi của tuồng, diễn đạt minh họa đoạn Hoạn Thư hành hạ Kiều trong Đoạn Trường Tân Thanh, từ lúc Thúc Sinh về nhà đến lúc lén gặp Kiều tại am và xúi nàng đi trốn. Đem so với A953, lời thoại toàn bộ của kịch hệt trong Kim Vân Kiều truyện, cũng đủ chứng minh Duy Minh Thị đã lấy chất liệu lời thoại Tuồng Túy Kiều đưa vào A953. Ngụy Khắc Đản mất 1872, nghĩa là vở kịch này công diễn trước đó nhiều năm. Lúc này Chiêm Vân Thị khởi thảo cuốn A953 ít nhất cũng tới đoạn Thúc Thủ gặp Kiều, ông đã sửa câu Kiều trong bản 1872 đã nói ở bài 1.Như vậy có thể nói, Truyện Kiều, Kim Vân Kiều Lục và Tuồng Thúy Kiều là chất liệu chủ yếu phóng tác ra A953. Giá như A953 đừng viết những cảnh dâm ô như Kim Bình Mai, và đoạn Kiều trả thù tàn nhẫn, trên 50 bài thơ tuy không phải là tác phẩm hay, nhưng cũng không kém, cũng đừng vội vàng ráp bài Tống Ngọc khóc Khuất nguyên thay cho Kim Trọng khóc Thúy Kiều, mà tự sáng tác thay Kim Trọng, thì tác phẩm cũng có nét đẹp và sáng tạo riêng.Ngoài ra, vì văn cảnh lấy từ truyện Kiều là tác phẩm gốc, nên lời văn rất nhiều chỗ giống như lấy lời thơ Kiều chuyển ngữ. Lời thoại lại lấy từ tuồng nên câu văn quá nhiều chỗ biền ngẫu như lời vở tuồng. Bạn đọc kịch Ngụy Khắc Đản và cuốn dịch của Nguyễn Duy Ngung thì thấy rõ. So với bản Hán văn, không phải Nguyễn Duy Ngung dịch dối, mà các bản dịch của Tô Nam và Nguyễn Khắc Hanh chuyển theo lối hành văn hiện đại. Lý Trí Trung dựa vào cuốn Tô Nam ở miền Nam, cuốn Hoàng Dật Cầu 1957, trau chuốt lại dĩ nhiên là cho hợp với ngôn ngữ người Hoa hiện đại, nên hiện nay giới trẻ say mê, trong đó có một phần nhờ tả sex.Một nhược khác nữa là A953 trong kết cấu từng hồi lại có đoạn vừa dẫn chuyện trước, cuối hồi lại bình, thậm chí tự khen văn chương do chính mình viết. Kết cấu rất sát với ý chỉ đạo của Minh Mạng về một cuốn bình giảng, thậm chí có đoạn lập lại ý Minh Mạng là hình thức không cần thiết. Mở rộng cốt truyện Kim Vân Kiều Lục thêm hành vi và lời thoại từ kịch là đủ và tự nhiên. Tổng thể tác phẩm biên soạn có vẻ mang tính giải trí, thương mại hơn là một tác phẩm văn chương. So với Kim Vân Kiều Lục do những lỗi kể trên, kém về nhất quán thể loại tiểu thuyết, tuy dài hơn nhưng ít cảm xúc hơn. Đáng tiếc! Tuy nhiên, bản phóng tác A953 có kém và vài chỗ bệnh hoạn, nó vẫn đáp ứng sở thích của giới bình dân, nên tái bản liên tục trong 5 năm liền khi chuyển quốc ngữ. Như vậy chúng tôi chứng đã chứng minh Tác giả Kim Vân Kiều Truyện là người Việt Nam Duy Minh Thị từ trong tác phẩm trung gian là cuốn Kiều 1872. Duy Minh Thị là người có nhân thân hoạt động văn học, đồng thời gốc Minh hương và giỏi Hán học. Cùng hoạt động đương thời với Trương Minh Ký, Abel des Michelle. Tuy không biết rõ ngày ông mất, nhưng sau 1883 không còn thấy ông ra sách. Người thế hệ tiếp theo có danh tính, nhân thân, có di lục nhắc tới nội dung cuốn A953. Sự xuất hiện cuốn sách là có người nhắc tới ngay. Khi bỏ thi Nho học thì có người chuyển quốc ngữ ngay. So với các tác phẩm có trước A953 thì thấy nó kế thừa tác phẩm trước nó: trùng tên nhân vật, số phận nhân vật. Thanh Tâm Tài Tử và Thanh Tâm Tài Nhân là bút hiệu người đời sau sao chép gắn vào, vì đạo thư để bán nên không dám đưa tên thật.Tổng kết: Diễn biến từ Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du đến Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân theo từng bước như sau:A. Đoạn Trường Tân Thanh:Được sáng tác từ mượn nhân vật và cảm hứng của một đoạn sử nhà Minh ( Từ Hải- Mã Kiều- Hồ Tôn Hiến) và phong tình lục gồm vở kịch Hổ phách Trủy ( Thúc Sinh, Tú bà) và Thu Hổ Khâu ( mượn chuyện Chân Nương đổi thành Đạm Tiên). Nguyễn Du đã trình bày nguồn gốc: “Cảo thơm lần giở trước đèn. Phong tình có lục còn truyền sử xanh.”.B. Diễn biến:1.Đoạn Trường Tân Thanh Nguyễn Du. =>2.Thơ Kim Vân Kiều Truyện Nguyễn Du => 3. Kim Vân Kiều Lục khuyết danh => 4. Thanh Tâm Tài Nhân truyện (Duy Minh Thị ẩn danh) => 5. Kim Vân Kiều Truyện Thanh Tâm Tài Tử *( giả danh) => 6. Kim Vân Kiều Truyện Thanh Tâm Tài Nhân ( giả danh) **.Đã có bằng chứng trình tự thời gian diễn biến, chứng minh tác giả Việt Nam viết, xác định được thời điểm khởi thảo, tên tác giả, xác định được nội dung kế thừa các tác phẩm khác ở Việt Nam thì khỏi tìm ở nước khác mất công! Đó cũng là lý do đừng vội nói chúng tôi cuồng ngôn, làm loạn học thuật. Chúng tôi đang chờ sự tán đồng, góp ý cũng như lắng nghe những bằng chứng phản biện khoa học. Nếu không ai phản biện vững chắc, thì kiến nghị đầu tiên là rút chú thích : “ Viết Truyện Kiều Nguyễn Du có dựa vào cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân ( Trung quốc)” ra khỏi sách giáo khoa ngữ văn lớp 9, cũng như các bài tham khảo, bài tập ngữ văn từ lớp 9-11 có trích đoạn Kim Vân Kiều truyện. Nếu có trích thì trích Kim Vân Kiều Lục. Kết thúc 3 bài ngắn: Ai là người viết Kim Vân Kiều Truyện. Nhân 200 năm ngày giỗ cụ Tố Như, ta cùng ôn lại câu đối của ai đó viếng tang, khi Minh Mạng viếng nhà ông thấy:Nhứt đợi tài ba, vi sứ vi khanh, sinh bất thiểmBách niên sự nghiệp, tại gia tại quốc, tử dư vinhPhóng dịch:Một thuở tài ba, vai sứ vai khanh, sanh chẳng thẹnTrăm năm sự nghiệp, trọn nhà trọn nước, tử thừa vinh.Lê Nghị 12-10-20.*******Chú thích:-1: Nhan ĐTTT xuất hiện từ sau 1814- 1821 (1821 Phạm Quý Thích giảng đầu tiên bản Phường tại Hà Nội, phản ánh trong bài thơ của Châu Doãn Trí, học trò Phạm Quý Thích: Một khúc Tân Thanh truyền nhạc phủ. Đến nay ca xướng khắp Tràng An)-Từ 1=> 2: việc chuyển nhan vào thời Minh Mạng, chưa rõ năm cụ thể , chậm nhất là 1830- Nguyễn văn Thắng Kim Vân Kiều Án. (chúng tôi đoán sớm nhất ngay sau tháng 9/1821, Minh Mạng gặp Phạm Quý Thích hỏi về cổ thư tại Hà Nội ).-Từ 2=> 3: di lục 1884 của Abel des Michel nói in tại Hà Nội 1876. Khuyết danh, nên không định rõ năm. 3 ứng viên sáng giá là: Nguyễn Tứ, Phạm Quý Thích, Mộng Liên Đường. Cá nhân tôi thiên về Phạm Quý Thích, các nhà nghiên cứu tìm tòi thêm. – Từ 3=> 4: 1872-1905 Duy Minh Thị ( phóng tác từ Truyện Kiều + Kim Vân Kiều Lục + Tuồng Túy Kiều + kiến thức khác)-Từ 4=> 5: 1906-1910: xuất hiện tại Viễn Đông Bác Cổ.* Cụm từ Thanh Tâm Tài Tử xuất hiện năm 1830. Ông Maspero nói: Kim Vân Kiều Lục cũng lấy bút hiệu Thanh Tâm Tài Tử, Thanh Tâm là hiệu Phạm Quý Thích, nhưng chưa thấy chứng cứ, ghi lại mong học giả truy tìm.- Từ 5 => 6:1924: Ông Lê Thước nhắc tới đầu tiên năm 1924.**Thanh Tâm Tài Nhân: học giả Đào Duy Anh và Giáo sư Dương Quảng Hàm tự cho là tác giả Trung Hoa năm 1943.
PHẢN BIỆN NHẬN ĐỊNH NGUỒN GỐC TRUYỆN KIỀU CỦA GIÁO SƯ DƯƠNG QUẢNG HÀM
Lê Nghị Li Li Nghệ 8 tháng 10 lúc 14:19 Theo đề nghị của một số bạn đọc ,Xin công bố tư liệu khảo chứng của gs Dương Quảng Hàm. Bài tuy dài nhưng nếu bạn đọc chịu khó đọc kỹ, hoặc lưu khi rãnh đọc sẽ hiểu rõ ngọn nguồn.TRÍCH: Từ Truyện Kiều đến Kim Vân Kiều truyện
I.Thanh Tâm Tài Tử và Thanh Tâm Tài Nhân.
Các nhà Kiều học Việt Nam không phải tự dưng mặc định cuốn sách Kim Vân Kiều Truyện là của một bút danh Thanh Tâm Tài Nhân, người Hoa. Sự mặc định này có nguồn gốc chính thức từ nhận định của giáo sư Dương Quảng Hàm trong cuốn Việt Nam Văn Học Sử Yếu ấn hành năm 1943. Từ đó đến nay không ai phản biện quan điểm cụ Dương, ngược lại chỉ tìm cách hỗ trợ thêm. Những tên tuổi lớn có thể nói đến: Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn. Còn học giả đàn em và học trò như Nguyễn Thạch Giang, Trần Nghĩa, Ngô Đức Thọ….thì vô số.
Trong bài viết trên báo Tri Tân số 4 tháng 6-1941, cụ Dương đã so sánh 2 cuốn Kim Vân Kiều truyện. Một cuốn chép tay bút danh Thanh Tâm Tài Tử phát hiện trước, để tại Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội và cuốn in có bút danh Thanh Tâm Tài Nhân phát hiện sau. Cả hai cuốn nói trên, phát hiện đầu tiên ở Việt Nam cũng là đầu tiên trên thế giới. Theo Cụ Dương: cuốn chép tay chép chữ ‘ nhân’ bị nhầm thành ‘tử’. Bản in giấy sản xuất ở Tàu, kèm với Thánh Thán và Hoa Đường là một nhà phê bình người Hoa nổi tiếng. Vì vậy kết luận: Kim Vân Kiều truyện là tiểu thuyết người Hoa, Thanh Tâm Tài Nhân là tác giả, Kim Thánh Thán bình luận. Nguyễn Du dựa vào cốt truyện này dịch sang thơ nôm: Truyện Kiều. Nội dung này được đưa vào cuốn Việt Nam Văn Học sử yếu năm 1943, cuốn sách được xem là nền tảng sách giáo khoa cổ văn tại miền Nam sau 1954.
Để khách quan chúng tôi xem như một phiên tòa xem xét quyền sở hữu trí tuệ. Lý do để chấp nhận thụ lý hồ sơ là:-Cả 2 bản chép tay và bản in đều không ghi niên đại, nên tự chúng không thể chứng minh cuốn nào có trước.-Trước năm 1919, Việt Nam dùng chữ Hán, nên sách chữ Hán trước đó tại Việt Nam không nhất thiết là của người Hoa.-Trước năm 1919 nhiều sách Việt nam in tại Tàu, nên không thể nói giấy in và nhà in của Tàu phải là sách Tàu.Để giải quyết tranh chấp quyền tác giả của hai nước, trước hết phải xem hai bút danh này có phải là một không? Hiện nay không có bằng chứng tại Trung Hoa có bút danh Thanh Tâm Tài Tử. Tại Việt nam thì có cả 2 bút danh trước năm 1898. Cũng không có cơ sở nào để khẳng định 2 bút danh là một.Như vậy trước hết là xét tại Việt Nam rồi mới đến Trung Hoa về 2 bút danh này.Việc xem xét dựa vào bằng chứng chứ không có việc mặc nhiên thừa nhận.
1.Bản văn.
-Cuốn Kim Vân Kiều Truyện bản chép tay thấy công khai đầu tiên trước 1910 ( Maspero thấy tại Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội) gồm 4 quyển ghi ở bìa chung: Thanh Tâm Tài Tử. Trong đầu mỗi quyển đều ghi như như nhau: Quán Hoa đường bình luận, Thánh Thán ngoại thư. Thanh Tâm Tài Tử biên thứ. Cuốn này được lưu tại thư viện văn học Việt Nam ký hiệu A953, còn 2 cuốn như vậy lưu tại Thư Viện quốc gia Anh và Đại học Yale ở Mỹ. Viễn Đông Bác Cổ chuyển ra Hà Nội năm 1902, cuốn sách có mặt từ năm nào không rõ, nhưng trong một bài viết năm 1914, Maspero đã nhắc tới (dẫn theo Durand, trong tập Kỷ yếu 150 năm ngày sinh Nguyễn Du. Lê Thước năm 1924 cũng đã nhắc tới cuốn này có ở VĐBC khi ông so sánh với 1 quyển in ông sưu tầm.)
-Cuốn Kim Vân Kiều Truyện bản in Lê Thước phát hiện năm 1924 chỉ một quyển, Đào Duy Anh nói thêm là nhà Hoài Thanh cũng có một quyển, cả 2 không thấy nói rõ là quyển thứ mấy. Thấy đủ 4 quyển in công khai là bản Hoàng Xuân Hãn, sưu tập từ vài người, do cụ Dương Quảng Hàm mượn khảo sát năm 1941. Quyển 1 mất 21 trang đầu nên không kể. Quyển 4 mất 21 trang cuối nhưng phần đầu còn do đó xét được. Ba quyển 2,3,4 trang đầu ghi: Thanh Tâm Tài Nhân Biên Thứ. Tuy nhiên lại ghi khác nhau về hình thức đăng ký giữa 3 quyển, cụ thể:
Quyển 2 ghi: Quán Hoa Đường bình luận Kim Vân Kiều truyện- Thánh Hâm (Thánh Hâm chứ không phải Thánh Thán ngoại thư). Quyển 3 ghi: Quán Hoa Đường bình luận Kim vân Kiều truyện – Thánh Thán ngoại thư.( giống bản chép tay A953) Quyển 4 lại ghi: Ngũ Vân lâu bình luận Kim Vân Kiều truyện ( Ngũ Vân Lâu chứ không phải Quán Hoa Đường) – Thánh Thán ngoại thư.
Giáo sư Dương Quảng Hàm mô tả đầy đủ và trung thực, nhưng ông đã suy luận một chiều. Cũng như một bức tranh người nhìn ra bà phù thủy người khác lại ra nàng công chúa vậy.Giáo sư cũng đã nhận xét: Bản in rất nhiều lỗi. Nhưng ông lại bỏ qua chuyện nhiều lỗi in khi nhận định, chỉ chú trọng từ ngữ không theo quy ước kỵ húy thời Nguyễn để kết luận bản in có trước thời Nguyễn và là sách Tàu. Sao giáo sư không nghĩ nếu sách người Tàu viết chữ Tàu mà thợ in Tàu lại khắc sai nhiều chữ? Cuốn A953 viết kỵ húy nhà Nguyễn thì rõ ràng viết thời nhà Nguyễn nên không sai. Còn người cố ý sửa chữ cho khỏi kỵ húy nước Nam, thợ in Tàu nhìn không hiểu nên mới khắc sai.
Dễ thấy rằng bản in các quyển không được in cùng lúc. Việc đăng ký hình thức bản quyền tùy tiện, chúng đã được sửa chửa từ bản chép tay để đem in, và mỗi cuốn là một người khác biên soạn sửa chửa, do đó nội dung đăng ký bản quyền chụp giựt, mỗi quyển in một khác. Như vậy cuốn viết tay A953 là bản thảo gốc không in, được biên tập bởi 1 người. Trong khi đó, các quyển của Hoàng Xuân Hãn sưu tầm do nhiều người khác sao lại cuốn A953, sửa một số từ đem in, khiến thợ người Tàu khắc sai rất nhiều từ ngữ.
Có thể đặt vấn đề ngược lại: 4 quyển in khác nhau có trước bản chép tay không? Đặt vấn đề thì được, nhưng không có gì chứng minh có trước. Trong khi bản A953 phát hiện trước, tên tác giả lại có di lục 1830 chuyên bàn về nội dung, danh chính ngôn thuận phần thắng đã thuộc về A953. Đó là những bằng chứng trực tiếp, không bị mâu thuẫn. Trong một phiên tòa bên nào có bằng chứng trực tiếp thì thắng, bên kia dù có biện luận bởi ngàn bằng chứng gián tiếp cũng vô ích. Nói cách khác có oan cũng đành chịu, huống chi là không bị oan. Cho nên sách giáo khoa là đại diện cho kiến thức xã hội chấp nhận, phải như một công bố quyết định của tòa, không được nói trái lại. Kêu oan thì có quyền, quyền đó xem như nằm trong biên khảo cá nhân để người khác tham khảo thêm.
Phụ vào bằng 2 chứng trực tiếp, bên thắng kiện có thể lý giải thêm: một người sưu tập được 4 quyển in khác nhau đã khó, lại thêm mỗi quyển lại mất nhiều trang. Như bản của Hoàng Xuân Hãn sưu tập từ 1936-1941 quyển 1 mất 21 trang đầu, quyển 4 không biết bao nhiêu tờ, chỉ còn 21 tờ đầu, vậy thì làm sao chép lại đủ câu truyện như cuốn A953? Trong khi một người sao lại từ một bản thảo nguyên vẹn A953 dễ dàng hơn, đem in từng quyển mới đủ đầu đuôi câu chuyện, thời gian sau có quyển bị xé mất các trang là chuyện bình thường.
2. Nhân thân 2 bút danh và di lục:
a. Thanh Tâm Tài Tử và Thanh Tâm Tài Nhân ở Việt Nam.
-1830 Minh Mạng có văn bản còn lưu: Thanh Tâm Tài Tử cổ kim minh lương đề tập biên: Theo nội dung văn bản, Thanh Tâm Tài Tử gồm các quan Hàn Lâm và các nhà nho tài tử. Minh mạng xem như nhóm tao đàn ngày nay. Tao đàn phải gồm nhiều người, đối với Minh Mạng là một nhóm bình giảng Truyện Kiều, gần với dạng “ Kiều học” ngày nay. Nội dung chỉ đạo của văn bản này được thể hiện trong KVKT của Thanh Tâm Tài Tử. Các bài thơ, phú về Kiều của Phạm Quý Thích, Minh Mạng, Hà Tôn Quyền, Tự Đức, Nguyễn Khuyến… đều được xếp chung vào tập này. Như vậy bút danh Thanh Tâm Tài Tử được nhiều người biết rất lâu, nên không có chuyện do chép lại sách mà nhầm chữ nhân thành tử như giáo sư Dương đoán.
– Cuốn tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện được dịch sang quốc ngữ đầu tiên bởi 2 tác giả Nguyễn Duy Ngung và Nguyễn Đỗ Mục, lại có thêm ông chủ nhà in Tân dân hiệu đính, không nói rõ dịch từ cuốn nào, cũng ghi rõ bút danh Thanh Tâm Tài Tử. Vậy bút danh này được nhiều người trước 1924 cùng biết tới trước.
Ở đây xin nói thêm rằng:-Cụm từ “nhà nho tài tử “ xuất hiện phổ biến triều Nguyễn. Trước đó ít nhắc tới cụm từ này. Cao Bá Quát thời Tự Đức có Tài Tử Đa Cùng Phú. Nam bộ có “ đờn ca tài tử “, ngày nay còn sử dụng. Tài tử là những người ham vui, phóng khoáng, yêu văn nghệ. Nhiều bài viết thời Nguyễn kể cả các học giả Tây Phương thường nhắc tới cụm từ nhà nho tài tử.
Cần nhắc thêm rằng các nhà Trung Hoa học của Pháp từ 1914 đến 1930 như Maspero, Coerdier, Durand chỉ nhắc tới bút danh Thanh Tâm Tài Tử. Năm 1941 gs Dương Quảng Hàm đã tận mắt so sánh bản in với bản A953, Thanh Tâm Tài Tử ( đã nói trên) kèm cuốn in Kim Vân Kiều Lục chữ Hán khuyết danh. Giáo Sư kết luận cuốn Kim Vân Kiều Lục khuyết danh là của Việt Nam tóm tắt truyện Kiều, tuy không nói rõ vì sao. Nhưng ngày nay thẩm tra là có căn cứ vững chắc sẽ trình bày sau. Nhưng cụ cho Thánh Thán là Kim Thánh Thán; Thanh Tâm Tài Nhân là người Hoa, Thanh Tâm Tài Tử và Thanh Tâm Tài Nhân là một, chữ Tử 子 là do chép nhầm chữ nhân人là một loạt suy diễn và gán ghép không bằng chứng.
-Bút danh Thanh Tâm Tài Nhân tại Việt Nam di lục sớm nhất nhắc tới là Đào Nguyên Phổ 1898. Sau đó là Kiều Oánh Mậu, Bùi Khánh Diễn 1902 cùng gọi là: sách Thanh Tâm Tài Nhân ( nhan đề chứ không phải bút danh). Rất mơ hồ.
2. Thanh Tâm Tài Nhân Tại Trung Hoa:
-Không có tác phẩm, hoặc di lục nào ghi bút danh Thanh Tâm Tài Tử tại Trung Hoa.
-Cổ thực tự nhận bút danh Thanh Tâm Tài Nhân về Trung Hoa năm 1926 thời hiện đại, sau khi cuốn sách đã dịch ra tại Việt Nam. Trước đó không có di lục nào ghi nhận tác giả và tác phẩm tại Trung Hoa. Học giả Trung Hoa đến nay hoàn toàn không tìm ra nhân thân tác giả đã đành, cũng không thấy ai nhắc tới, nhưng lại biết năm sinh- tử. Tự đặt năm sinh tử (1636-1707) và quốc tịch Trung Hoa là nhận bừa. Hơn nữa bút danh Thanh Tâm Tài Nhân này lần lượt gán cho nhiều tác giả thời Minh đến Thanh (1521-1707): Từ Vị, Kim Thánh Thán, Trương Chiêu, Trương Quân, Thiên tàng chủ nhân, Từ Chấn,Tề Kế Xương đều không thành. Nếu TTTN là có thật thì các học giả Trung Hoa không khó gì để tìm ra, thống nhất ngay từ đầu.Trong khi tại Việt Nam xác định Thanh Tâm Tài Tử là bút danh thực có từ thời Minh Mạng1830. Bút danh Thanh Tâm Tài Nhân xuất hiện 68 năm sau đó là bút danh ăn theo. Cho nên in vào sách giáo khoa Thanh Tâm Tài Nhân người Hoa, 1 là tác giả Kim Vân Kiều truyện đồng thời là nguồn gốc Truyện Kiều là việc làm tùy tiện.
Như vậy xét rằng:
Về bằng chứng trực tiếp:
Tại Việt nam bút danh Thanh Tâm Tài Tử xuất hiện trước bút danh Thanh Tâm Tài Nhân 68 năm.Thanh Tâm Tài Tử có di lục liên quan đến nội dung cuốn sách, có nhiều người làm chứng: Minh Mạng viết và các Hàn Lâm thừa chỉ ghi chép, có văn bản chứng minh. Do đó không thể là bút danh bị chép nhầm. Ngược lại Thanh Tâm Tài Nhân là bút danh chỉ nghe Đào Nguyên Phổ nói 68 năm sau khi bút danh Thanh Tâm Tài Tử được xác nhận. Sách có in tên Thanh Tâm Tài Nhân nghe Lê Thước nói 96 năm sau bút danh Thanh Tâm Tài Tử được ghi nhận.
Phần sách thực chứng, cuốn in thấy được sau cuốn viết tay A953 ít nhất 27 năm, đủ thời gian sao chép lại, biên tập cuốn viết tay đem in. Bên cho tác giả Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân không chứng minh được bút danh này có trước Thanh tâm Tài Tử, không chứng minh được sách thực chứng có trước, do đó phải thua kiện như đã nói trên.
Tại Trung Hoa ghi nhận tác giả và tác phẩm năm 1926 mà không có di lục xác định nhân thân tác giả và tác phẩm trước đó, đến nay vẫn không tìm ra di lục.
Nhận định của cụ Dương là lập thuyết cảm tính chứ không phải là kết luận dựa trên bằng chứng. Thứ nhất, cụ không nhắc tới văn bản Minh Mạng đã ghi TT Tài Tử từ 1830. Nói cách khác nhân thân, hoàn cảnh của người chép tên Thanh Tâm Tài Tử được biết, văn bản còn lưu. Thứ hai: giữa bản chép tay và bản in không thể quả quyết bản in có trước. Thứ ba: chữ 子 tử và 人 nhân âm đọc và nét khác nhau. Thứ tư: từ bìa đến đầu mỗi trang A953 đều nhất quán ghi Tử. Vả lại có thể nhầm một từ trong trang văn bản, không thể nhầm tên tác giả ở bìa và mỗi đầu trang 4 quyển được. Sự khác nhau giữa tử và nhân là cố ý. Trước khi in phải có bản viết tay. Người đem in sửa lại bản thảo trước khi in chứ không hề in nhầm. Bản in cải tên tác giả và một số câu cú, từ ngữ trong văn bản một cách vội vàng, dẫn tới thợ khắc chữ để in bị lỗi nhiều chỗ trong sách. Kết luận: bản in là bản đạo thư, nhằm mục đích thương mại hoặc mục đích khác.
II. Phần nói thêm.
3. Tại Nhật:
Không nói đến việc học giả Việt Nam suy diễn mà xem như chân lý bao nhiêu năm: Thanh Tâm Tài Nhân là Từ Vị ( theo giả thuyết của Lý Văn Hùng, một ký giả người Hoa Chợ Lớn), Kim Thánh Thán là người phê bình từ cụ Dương đến Hoàng Xuân Hãn bị chính người Hoa và các học giả Tây phương bác bỏ. Hiện nay, điểm duy nhất trường phái cho Thanh Tâm Tài Nhân người Hoa, Kim Vân Kiều truyện có trước truyện Kiều chỉ còn bám víu vào bằng chứng ở nước nước thứ 3 là Nhật Bản. Vì vậy chúng tôi xem xét kỹ.
Từ năm 1980 đến nay học giả Tàu Đổng Văn Thành viện dẫn: Bách tải thư mục tại Nhât năm 1754 có ghi: Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Năm 1763 dịch ra cuốn Tú Tượng Thông Tục Kim Kiều Truyện ( truyện tranh) không được quan tâm, bản gốc chữ Hán nay đã thất lạc. Cuốn dịch này được phóng tác thành Phong tục Kim Ngư Nữ năm 1829, bởi dịch giả nổi tiếng thời đó: Bakin nhưng đến nay cũng không mấy ai biết.
Trước hết phải khẳng định đây là một thông tin lập thuyết từ suy diễn gán ghép chứ chưa phải bằng chứng. Thông tin từ Đổng Văn Thành tung ra từ năm 1980 lại càng đáng nghi ngờ. Đoàn Lê Giang, Trần Ích Nguyên cũng dẫn theo Đổng Văn Thành mà thôi.
Thứ nhất, đến khi người viết bài này, chưa ai trình ra được cuốn Bách tải thư mục, chỉ nghe theo Đổng Văn Thành giải thích rằng đó là cuốn kiểm kê hàng hóa của hàng trăm chuyến tàu nhập vào Nhật Bản. Cần hiểu thêm, những chuyến hàng ở nước ngoài nhập vào Nhật có món hàng là bí mật quốc gia, nó thể cướp hoặc đánh cắp của nước khác, không dễ gì người ngoài được xem.
Thứ hai, thông tin cuốn Hán văn nhập đã bị mất, chỉ còn bản dịch mâu thuẫn với sự thật. Thực tế thì tại Nhật vẫn có 2 bản in Hán Văn, một bản vì mất đầu đuôi nên không có niên đại. Nhưng một bản có quyển cuối có niên đại, in tại nhà in Văn Uyên Nhật năm 1938.( Benoit, Diễn biến câu truyện Vương Thúy Kiều, từ sự kiện lịch sử Trung Hoa đến kiệt tác văn chương Việt Nam, trang 319)
Không một lời giới thiệu vì sao in một bản chữ Hán vào thời điểm người Nhật không còn dùng chữ Hán. Cho thấy đây là dấu tích người Hoa hoặc người Việt thuê in lại cuốn ở Việt Nam tại Nhật, có thể làm mất đầu đuôi để hợp thức hóa cổ vật. Tám quyển của 2 bản tại Nhật đều mất trang đầu và nhiều trang khác. Rủi thay lại còn một quyển 4 ở Nhật có năm in 1938.
Cuốn Kim Ngư Nữ ( truyện con cá vàng) lại là truyện độc lập. Chữ Kim không dính líu gì tới tên nhân vật Kim Trọng mà nhằm chỉ màu vàng, ngư nữ: con cá cái thì chẳng liên quan gì tới Thúy Kiều. Bối cảnh lịch sử tại Nhật trong truyện trước đời Minh 500 năm, nhân vật và nội dung không trùng hợp. Chỉ là sự áp đặt mơ hồ. ( Đoàn Lê Giang và Nguyễn Đỗ An Nhiên, kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du trang 807-822)
Trước đó, Tôn Khải Đệ 1931 trong bài viết “ Đông Kinh Nhật Bản sở kiến tiểu thuyết thư mục ” có nhắc tới một bản Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân tại Nhật, ông mô tả mỗi trang 8 dòng, mỗi dòng 20 chữ. Thực tế không có cuốn nào như thế. Cuốn lưu tại Nhật in năm 1938 mỗi trang 10 dòng, mỗi dòng 25 chữ, hệt bản của Lê Thước thấy năm 1924. ( Charles Benoit, Diễn biến câu truyện Vương thúy Kiều….trang 318). Rõ ràng năm 1931 Tôn Khải Đệ chưa hề tận mắt thấy cuốn Kim Vân Kiều truyện tại thư viện Hoàng gia, bịa chuyện đã đếm. Đó là chưa kể, Hoa coi Nhật là kẻ thù vì tô giới Thượng Hải. Năm 1931 Nhật chiếm Mãn Châu của Trung Hoa, không dễ gì một người Hoa vào được thư viện hoàng gia Nhật nghiên cứu.
Cũng trong bài viết này ông có nói sách chữ Hán đầu tiên dịch sang tiếng Nhật là cuốn Song Kỳ Mộng. (sách Tôn Khải Đệ đã dẫn, Trung Quốc thông sử, trang 135) Ông đã xếp cuốn Song Kỳ Mộng cho Từ Vị, nghĩa là ông không đồng nhất Song Kỳ Mộng với cuốn Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân là một. Vì Kim Vân Kiều truyện theo ông đã đọc và đếm từng trang tại Nhật. (mặc dù sách ông đếm không thấy ở đâu!? ).
Tề Như Sơn năm 1937 soạn Tiểu thuyết Tam Thập Bộ, ông đã đưa 33 tiểu thuyết lấy tên là Tiểu thuyết Câu Trần, trong đó có cuốn Song Kỳ Mộng chép tay lại từ nhà in Đàm Tích Hiên nên ông cho xuất bản thời Minh. Ông không hề nói cuốn đó là Kim Vân Kiều truyện. ( Trần Ích Nguyên, Nghiên cứu câu truyện Vương Thúy Kiều, trang 256).
Trần Ích Nguyên, cũng như Đổng Văn Thành cho rằng Song Kỳ Mộng là bản giản của Kim Vân Kiều truyện. Theo Trần Ích Nguyên: Tề Như Sơn không chú ý những “tình tiết sóng gió, quanh co rất nhiều” của nhân vật trong Song Kỳ Mộng chính là cuộc đời Vương Thúy Kiều. Theo cách nói đó thì bản Song Kỳ Mộng không hề giống như cuốn Kim Vân Kiều truyện rồi! Tức là chẳng những không trùng nhan đề, không trùng tên nhân vật, mà còn không trùng hoàn toàn cốt truyện. Cũng là một kiểu có chút tình tiết giống nhau đem gán ghép. Cũng như ai đó muốn gán thì nói chị Dậu trong Tắt Đèn của Ngô Tất Tố là phóng tác từ hình ảnh nàng Kiều! Cuối cùng thì Trần Ích Nguyên cho Tôn Khải Đệ 1931 và Tề Như Sơn 1937 là 2 người đầu tiên may mắn nhìn thấy Song Kỳ Mộng mà cả hai không biết nó là Kim Vân Kiều truyện!? Cả hai không hề biết nó đã đổi tên thành Kim Vân Kiều vào nửa cuối đời Thanh? Xác quyết của Trần Ích Ngyên rất kỳ quặc, vô căn cứ. Chẳng có di lục nào bảo cuối đời Thanh đổi tên cuốn Song Kỳ Mộng thành Kim Vân Kiều truyện cả.
Benoit thừa nhận cuốn Song Kỳ Mộng khuyết danh là cuốn sách chữ Hán đầu tiên dịch ra tiếng Nhật. Cuốn này còn một bản ở thư viện của Havard Yenching, khuyết danh. Đồng thời cũng so bản chép tay từ bản in nhà Đàm Tích Hiên mà Trần Ích Nguyên nói. Xem kỹ nội dung với cuốn Tiểu Thuyết Câu Trần, Benoit “chắc chắn rằng” Song Kỳ Mộng là lược bản toàn tập Tiểu Thuyết Câu Trần, không ăn nhập gì với nhân vật và cốt truyện của Kim Vân Kiều Truyện cả.
Vài dẫn chứng đơn giản nhất, cũng là quan trọng nhất để thấy thông tin Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Nhân nhập vào Nhật năm 1756 là chưa có bằng chứng và mâu thuẫn với sự thật. Một sự cố ngụy tạo và ngụy biện của Đổng Văn Thành, cũng như từng gán ghép vô tội vạ của hàng trăm tiểu phẩm cho rằng trích ra từ Kim Vân Kiều truyện, thậm chí nhân vật Hồng Hy Phượng trong Hồng Lâu Mộng là ảnh hưởng Hoạn Thư trong Kim Vân Kiều truyện! Xâm lược lãnh thổ, lãnh hải Tàu còn bịa ra bản đồ cổ, sách cổ được, nói chi đến việc xâm lược văn hóa.
( còn tiếp: Kim Vân Kiều Lục là sách gì? Quá trình đi từ Kim Vân Kiều Lục của Thanh Tâm Tài Tử đến Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Tử tại Việt Nam) ảnh: Tri Tân bài viết khảo chứng của gs Dương Quảng Hàm.
Mươi ngày qua, những người quan tâm đến Văn học đã sôi nổi luận bàn về buổi thuyết trình Truyện Kiều ở Trung tâm Văn hóa Pháp ở Hà Nội và bài viết Thử giải mã lại Truyện Kiều của ông Lê Nghị đăng trên báo Tuổi Trẻ ngày 17/9/2020. Đã có những tranh cãi gay gắt xoay quanh một vấn đề rất xưa cũ là “nguồn gốc của Truyện Kiều” – tức là Nguyễn Du đã căn cứ vào đâu để viết nên Truyện Kiều?
Từ xưa đến nay hầu hết mọi người đều cho rằng Nguyễn Du đã dựa vào một cuốn tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân bên Trung Hoa mà viết nên Truyện Kiều – Nay Lê Nghị cùng nhóm các nhà nghiên cứu đã nói ngược lại, cho rằng Thanh Tâm Tài Nhân không phải là một tác gia của Trung Quốc mà chính là một nhóm văn thần triều Nguyễn. Họ đã viết Kim Vân Kiều truyện từ Truyện Kiều nôm của Nguyễn Du – Thời gian sau, nhóm Thanh Tâm Tài Nhân này mới theo lệnh vua Minh Mạng mà viết nên Kim Vân Kiều lục. Vậy là Kim Vân Kiều truyện và Thanh Tâm Tài Nhân đều là của Việt Nam.
Ngày 26/9/2020, PGS.TS. Đoàn Lê Giang đã phản bác Lê Nghị với chứng cứ : …Ở Nhật Bản, dựa vào Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc, tác gia Nishida Korenori đã viết truyện Tú tượng Thông tục Kim Kiều, xuất bản vào năm Bảo Lịch 13 (1763), tức là truyện đã có trước khi thi hào Nguyễn Du ra đời 3 năm (có nghĩa là Kim Vân Kiều truyện phải có trước Nguyễn Du từ nhiều năm trước nữa) (1)
Phát hiện của Đoàn Lê Giang là đáng quý song chắc không thể thuyết phục được Lê Nghị bởi dựa vào một số lí lẽ chứng cứ có phần hợp lí đã không công nhận Kim Vân Kiều truyện là tác phẩm có ở Trung Quốc đời Minh – Kim Vân Kiều truyện ban đầu đã do các văn thần triều Nguyễn biên soạn thời Minh Mạng (sau năm 1820). Có thể Nishida Korenori đã dựa vào một truyện khác chứ không phải truyện của Thanh Tâm Tài Nhân để viết sách Kim Kiều truyện thông tục (2).
Những năm gần đây, do truyền thông, giao tiếp phát triển, các nhà nghiên cứu có điều kiện thâm nhập kho tàng văn học nước ngoài đã biết rõ ngọn nguồn truyện Vương Thuý Kiều đời Minh được phổ biến rộng rãi với nhiều tiểu thuyết, kịch, tuồng. Trước hết là bộ sách Trù Hải Đồ Biên do quan Tổng đốc đời Minh-Hồ Tôn Hiến soạn gồm 13 quyển; ở quyển 9 có bài Kỷ tiễu Từ Hải bản mạt (3) (ghi chép ngọn ngành việc đánh dẹp Từ Hải) kể lại chuyện quân Minh đánh nhau với quân Oa (4) vào năm Bính Thìn (1556) đời Gia Tĩnh. Lúc này Từ Hải, một tướng cướp biển, mang hơn 1 vạn quân từ sào huyệt ở Sạ Phố xuống Hàng Châu càn quét các vùng Tô Châu, Hồ Châu, uy hiếp Kim Lăng. Thế giặc mạnh, Hồ Tôn Hiến phải dùng mưu dụ hàng rồi trở ngược lại đánh bằng hỏa công. Từ Hải thua trận nhảy xuống sông. Quân Hồ Tôn Hiến bắt được 2 thị nữ, một người tên Vương Thuý Kiều, một người tên Lục Châu, vốn xuất thân từ ca kỹ. Hai thị nữ khóc và chỉ chỗ Hải trầm mình; quân sĩ vớt Từ Hải lên chém lấy thủ cấp mang về…
Dựa vào Minh sử, về sau nhiều tác phẩm nữa kể chuyện Vương Thúy Kiều là Hồ Thiếu Bảo bình Oa chiến công của Chu Tiếp, Vương Thúy Kiều truyện của Dư Hoài, Lý Thúy Kiều truyện của Đới Sĩ Lâm, Sinh báo Hoa Ngạc ân, tử tạ Từ Hải nghĩa của Mộng Giác Đạo Nhân (5), Vương Thúy Kiều truyện của Hồ Khoáng… Các truyện càng về sau càng hư cấu thêm nhiều nhân vật, nhiều tình tiết, biến chuyện có thật của lịch sử thành tiểu thuyết kì tình; riêng truyện của Mộng Giác Đạo Nhân và Dư Hoài (6) đã là tiểu thuyết luận đề, tập trung vào chủ đề tư tưởng rất hợp khẩu vị của giới bình dân: người phụ nữ rất đỗi tầm thường trong xã hội mà lại trung nghĩa, khí tiết hơn hẳn các bậc trượng phu, hơn cả những đại nhân, quan lại như Hồ Tôn Hiến. Mở đầu truyện, mặc dù Mộng Giác Đạo Nhân đã nêu gương Muội Hỉ, Đát Kỉ, Bao Tự, Trương Lệ Hoa, Dương Quý Phi… làm “hoang khí chính sự, chí táng quốc gia” trước khi kể chuyện Vương Thúy Kiều nhưng tựu trung lại tô điểm cho nhân vật này nhiều hào quang khiến hình ảnh người phụ nữ trong xã hội được đề cao: Vương Thúy Kiều không chỉ đẹp về hình vóc mà còn đẹp cả về tư cách, phẩm hạnh, là người trung hiếu vẹn toàn lại rất nghĩa khí: sẵn sàng liều mình khi ân nhân tử nạn.
Ngoài tiểu thuyết, Trung Quốc xưa cũng đã có các vở kịch, tuồng sáng tác từ câu chuyện của Vương Thúy Kiều như Tứ Thanh Viên của Từ Văn Trường (7) Hổ phách thi của Diệp Trĩ Phỉ, Song Thúy viên của Hạ Bỉnh Hoành… Như vậy chuyện kể về cuộc đời chìm nổi của Vương Thuý Kiều là nội dung của nhiều sách. Trong tất cả các sách viết về Vương Thúy Kiều của Trung Hoa thì Sinh báo Hoa Ngạc ân, tử tạ Từ Hải nghĩa của Mộng Giác Đạo Nhân và Vương Thúy Kiều truyện của Dư Hoài là đã bắt đầu đậm chất tiểu thuyết và đã kể về cuộc đời Kiều khá tỉ mỉ: Vương Thúy Kiều là người Lâm Tri, thuở nhỏ bị bán vào kĩ viện, lấy họ Mã, thường gọi là Mã Kiều nhi. Tuy còn nhỏ nhưng đẹp và thông minh, lại hát hay, đàn giỏi, thổi sáo cũng hay nên được nhiều người mến chuộng; vậy nhưng tính tình nhã đạm, không thích trang sức và cũng không thích nghề chiều chuộng khách nên giả mẫu lấy thế làm giận, thường chửi đánh. May có được một chàng thiếu niên giàu có chuộc ra, thuê nhà cho ở, đổi tên là Vương Thúy Kiều. Về sau lại gặp La Long Văn, một hào phú có cảm tình thường chu cấp, đi lại với Kiều và nuôi thêm cho một hầu gái là Lục Châu. Lúc này có một tướng cướp là Từ Hải, gặp lúc quẫn bách lẻn trốn vào ở nhờ nhà Thúy Kiều. Từ Hải nguyên là Minh Sơn Hòa Thượng, tu tại chùa Hổ Bào ở Hàng Châu. Long Văn gặp Từ Hải, đánh giá Hải là tráng sĩ nên cùng giao tiếp, lại đem cho Lục Châu làm hầu gái. Sống cùng La Long Văn một thời gian, Từ Hải từ biệt lên đường quyết lập chí dựng cơ đồ, chiêu tập bọn thảo khấu quay về xâm chiếm Giang Nam, vây đánh Tuần phủ Nguyễn Ngạc. Thật bất ngờ, trong một trận đánh, quân sĩ lại bắt được Thúy Kiều và Lục Châu. Mừng lắm, Từ Hải lập Thúy Kiều làm phu nhân, thường cùng cho dự bàn quân cơ. Lúc này thế lực Từ Hải đã mạnh; triều đình phải cử Tổng đốc Hồ Tôn Hiến ở Triết Giang đánh dẹp. Hồ Tôn Hiến nhiều mưu lược, thấy thế lực của Từ mạnh bèn cho Hoa lão nhân đến dụ hàng. Từ Hải nổi giận bắt trói Hoa lão nhân. May cho Hoa là lúc này tuy Kiều hết sức được yêu chiều nhưng vẫn canh cánh nỗi nhớ cố hương, mong sớm được đoàn viên bèn bàn với Từ tha chết cho Hoa. Hoa trở về báo với Tôn Hiến là thế giặc đang mạnh, chưa thể đánh nhưng xem ra Vương phu nhân có vẻ có ngoại tâm, ta có thể nhân đây mà thắng giặc. Tôn Hiến có biết La Long Văn là ân nhân cũ của Từ Hải và Thúy Kiều bèn dùng Văn để dụ hàng. Long Văn đến dinh, được Từ Hải ân cần tiếp đãi lại cho gọi phu nhân cùng Lục Châu ra chào. Trở về, Long Văn bàn với Hồ Tôn Hiến dùng kế đem châu báu lo lót Thúy Kiều, vận động Từ quy hàng. Đúng như ý nguyện, Kiều ra sức khuyên Từ Hải quy phục triều đình. Nghe lời Thúy Kiều, Từ Hải ước hàng cùng Tôn Hiến, không phòng bị gì. Tôn Hiến dùng hỏa công đánh giặc tan tác. Từ Hải nhảy xuống sông bị quan quân vớt lên chém đầu. Trong tiệc khao binh, Tôn Hiến bắt Thúy Kiều hát và chuốc rượu. Lúc quá chén, Tôn Hiến cũng giở trò đùa cợt. Hôm sau tỉnh rượu, sợ mất thể diện trọng thần, Tôn Hiến đem Thúy Kiều gả cho tù trưởng Vĩnh Thuận. Lúc sang sông, Kiều khóc lớn rồi đâm đầu xuống nước tự trầm…
Đến đây ta khẳng định một điều là để viết truyện Vương Thuý Kiều thì dù ở Việt Nam hay Nhật, Triều tiên, Mãn Châu…người ta có thể vận dụng nhiều nguồn: nhiều tiểu thuyết, kịch tuồng đời Minh Thanh nêu trên. Tất cả có tên trong Văn học sử Trung Quốc, riêng chỉ có Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài nhân là không.
“THANH TÂM TÀI NHÂN” MỘT TÁC GIA KHÔNG THỂ XÁC ĐỊNH.
Đọc Kiều, ngay đoạn mở đầu, ta gặp 2 câu:“Cảo thơm lần giở trước đèn’Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh…”Vậy nhưng “cảo thơm” (cuốn sách hay), chép lại một câu chuyện phong tình trong sử sách mà Nguyễn Du đã đọc là sách nào thì nay chưa ai biết.Trước đây, từ lâu lắm người ta đã khẳng định Truyện Kiều xuất phát từ truyện của Thanh Tâm tài nhân. Trên Nam Phong tạp chí năm 1919, Phạm Quỳnh đã khẳng định Truyện Kiều có xuất xứ từ Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc mặc dù không xác định được Thanh Tâm Tài Nhân là ai và Kim Vân Kiều truyện được viết khi nào. Riêng Dương Quảng Hàm thì cho rằng: “Tuy là không biết tác giả tên thực là gì và sống về đời nào nhưng các việc kể trong tiểu thuyết đều thuộc về đời Gia tĩnh nhà Minh tức là tự năm 1522 đến năm 1566”. Bulletin général de l’ Instruction publique số tháng 6-8 năm 1941 có đăng bài Les sources du Kim Vân Kiều, célèbre poème de Nguyễn Du (Nguồn gốc truyện Kiều, tác phẩm thơ nổi tiếng của Nguyễn Du). Bài này về sau đã được dịch ra quốc ngữ đăng lại trên tạp chí Tri Tân, số 4, ngày 4/6/1941, với tựa đề: “Nguồn gốc truyện Kiều của cụ Nguyễn Du” cũng có quan điểm tương tự
Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Lê Thước, Phan Sĩ Bàng, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Dương Quảng Hàm… và gần đây là Nguyễn Quảng Tuân… cùng tất cả các tác giả biên soạn sách giáo khoa, các giáo trình văn học từ trung đến đại học đều cho rằng Truyện Kiều xuất phát từ truyện của Thanh Tâm Tài Nhân – vậy nhưng vẫn tồn tại một ngờ vực là cuốn tiểu thuyết của Trung Quốc dở tệ mà sao Nguyễn Du lại chọn? Trần Nghĩa, trên tạp chí Hán Nôm số 2/1998 đã viết: “… Khi luận giải về mối quan hệ giữa Kim Vân Kiều tân truyện của Nguyễn Du và Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, một số người băn khoăn không rõ vì sao Nguyễn Du lại chọn một tác phẩm vô danh tiểu tốt của Trung Quốc để cải biên …”. Đây là một điểm rất đáng ngờ. Ngoài ra một điểm đáng ngờ nữa là: Dù cho rằng Nguyễn Du đã dựa vào truyện của Thanh Tâm Tài Nhân nhưng lại chẳng ai biết Thanh Tâm Tài Nhân là ai (!).
Học giả Phạm Quỳnh đã viết trên báo Nam Phong số 30, tháng 12 năm 1919: “…Nguyên bộ tiểu thuyết Tàu mà cụ (Nguyễn Du) phỏng theo để đặt ra truyện Kiều, đề là “Thanh Tâm Tài Nhân lục”, không biết rõ tác giả là ai, soạn vào đời nào, nhưng truyện với lời văn cũng tầm thường, ngoài mấy bài từ điệu có vẻ thanh tao lưu loát, không có đặc sắc gì…”. Học giả Phạm Quỳnh, chủ bút báo Nam Phong, người tinh thông cả Pháp văn lẫn Hán văn cũng đã chê Kim Vân Kiều truyện cả về nội dung lẫn nghệ thuật và khẳng định là không biết rõ tác giả là ai, soạn vào đời nào. Ở Trung Quốc cũng vậy, chẳng ai biết Thanh Tâm Tài Nhân. Ngay Đổng Văn Thành, Giáo sư Văn học Trường đại học Liêu Ninh cũng thú nhận: “…Những năm 60, hồi học khoa Trung văn trường đại học, qua giáo trình văn học nước ngoài, tôi được biết ở Việt Nam có một truyện thơ nổi tiếng thế giới gọi là truyện Kim Vân Kiều […] Vì truyện thơ đó có quan hệ máu thịt với văn học của tổ quốc cho nên tôi rất hứng thú […] Từ lâu tôi đã mong có ngày nhìn thấy truyện “Kim Vân Kiều”, cuốn tiểu thuyết Trung Quốc nghe nói đã thất truyền ở trong nước. Năm 1981, bất ngờ phát hiện ra cuốn sách đó ở thư viện Đại Liên, nỗi vui mừng của tôi thật không sao hình dung nổi. Tôi đọc một hơi hết cả cuốn sách […] Cuốn sách của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân bị vùi lấp hàng mấy thế kỷ trong văn học sử Trung Quốc; từ cuối đời Thanh cho tới những năm 50 của thế kỷ XX, cuốn tiểu thuyết ấy hầu như được ít người biết đến. Trong tất cả các sách về lịch sử tiểu thuyết, lịch sử văn học, kể từ cuốn Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc của Lỗ Tấn đến nay, đều không có đến nửa chữ giới thiệu về nó…”Trung Quốc có cả một nền văn học đồ sộ với bao nhiêu học giả, nhà phê bình mà qua bao nhiêu thế kỉ không hề nêu tên Thanh Tâm Tài Nhân vào văn học sử thì kể cũng lạ.
KIM VÂN KIÊU TRUYỆN TÌM ĐƯỢC Ở THƯ VIỆN ĐẠI LIÊN TRUNG QUỐC CÓ THỂ LÀ MẠO TÁC.
Năm 1981, GS. Đổng Văn Thành, Trung Quốc tuyên bố là đã tìm được bản chép tay Kim Vân Kiều truyện trong thư viện Đại Liên. Một điểm rất đáng ngờ là bản chép tay Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc ngay đầu mỗi quyển đều có ghi: “Quán Hoa Đường bình luận, Kim Vân Kiều quyển chi… Thánh Thán ngoại thư”. Kim Thánh Thán mất năm 1661, đời nhà Thanh; vậy Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc phải được sáng tác trước đó vì Quán Hoa đường là thư viện riêng của Kim Thánh Thán. Nếu đã được xếp vào hàng “Quán Hoa Đường bình luận – Thánh Thán ngoại thư” có nghĩa là sách thuộc vào loại có giá trị nên đã được nhà phê bình kiệt xuất Kim Thánh Thán để ý xem xét, bình luận. Ta nên biết rằng: Trung Quốc chỉ có 6 tác phẩm được Kim Thánh Thán xếp vào danh hiệu “Tài tử thư” (lục Tài tử), gồm có: Nam Hoa kinh của Trang Tử, Ly Tao của Khuất Nguyên, Sử kí của Tư Mã Thiên, Thơ luật của Đỗ Phủ, Thủy Hử của Thi Nại Am và Tây sương kí của Vương Thực Phủ. Một số sách khác tuy được Kim Thánh Thán lưu vào thư viện “Quán Hoa Đường” song chỉ thuộc hàng “Thánh Thán ngoại thư”.
Khẳng định Kim Vân Kiều truyện là Thánh Thán ngoại thư. Điều này khiến ta hết sức băn khoăn. Có thể đây là tác phẩm mạo tác chăng?. Thật vậy, vào thời mà việc lưu truyền, phổ biến tác phẩm chủ yếu chỉ nhờ vào chép tay thì dòng chữ “Quán Hoa đường bình luận – Thánh Thán ngoại thư” ghi ở đầu truyện: ai cũng có thể ghi được; ngoài ra là nếu cho là “Kim Vân Kiều truyện” là “Tài tử thư” thì sao lại không một ai biết đến – như chính Đổng Văn Thành đã công nhận: “…Trong tất cả các sách về lịch sử tiểu thuyết, lịch sử văn học, kể từ cuốn Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc của Lỗ Tấn đến nay, đều không có đến nửa chữ giới thiệu về nó…
”NHỮNG NGỜ VỰC ĐÃ TẠO NÊN QUAN ĐIỂM CỦA NHÀ NGHIÊN CỨU LÊ NGHỊ
Chính những vấn nạn chưa thể giải quyết ở trên là căn cứ để nhóm Lê Nghị khẳng định lại nguồn gốc Truyện Kiều. Lê Nghị cho rằng: “… nghiêm túc so sánh các văn bản, chúng tôi phát hiện ra rằng Truyện Kiều là gốc của Kim Vân Kiều truyện ở Việt Nam, rồi từ đó người ta phóng tác Kim Vân Kiều truyện ở Trung Quốc”. Quan điểm này cũng là quan điểm chung của nhóm nghiên cứu gồm Lê Nghị, Lâm Thanh Sơn, Nguyễn Tuấn Sơn… Quan điểm khá táo bạo. Thoạt tiên người yêu văn học cảm thấy như mình bị xúc phạm bởi những gì học hỏi được bấy lâu – nay bỗng nhiên bị phủ nhận. Vậy nhưng đọc kĩ lí luận này hồi lâu rồi bình tĩnh suy xét ta có thể thấy quyết đoán của nhóm Lê Nghị cũng có những điểm có lí:
1/ Những tiểu phẩm phóng tác ở Trung Hoa gồm truyện ngắn, kịch, tuồng… đều độc lập, không tác phẩm nào kế thừa tác phẩm nào. Cũng không có tác phẩm nào mang cùng tên nhân vật và số phận nhân vật có cốt truyện, nội dung giống Đoạn trường Tân Thanh.2/ Kim Vân Kiều truyện ở Trung Hoa xưa không có độc giả, không có nhà phê bình nào đoái hoài, lại cũng không có sách nào ghi nhận về tác giả Thanh Tâm tài nhân.3/ Cùng nhóm với Lê Nghị, Lâm Thanh Sơn khẳng định: “… Nguyễn Du đã lấy chất liệu từ sử nhà Minh, xây dựng các nhân vật Từ Hải, Kiều, Hồ Tôn Hiến làm đỉnh điểm cho tiểu thuyết trường thi của mình. Đồng thời, tự đặt tên các nhân vật còn lại như: Kim Trọng, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà, Thúc Sinh, Đạm Tiên, cùng những nhân khác…”Vương Thuý Kiều là câu chuyện diễm tình có sức lan toả mạnh mẽ, đã truyền ra nhiều nước Đông Á. Không riêng gì Nhật Bản mà cả Triều Tiên và Mãn Châu thời xưa cũng đã có các tác phẩm văn học mô phỏng hoặc cải biên truyện kể về Vương Thuý Kiều của Trung Quốc(8). Vấn đề cần làm rõ ở đây là câu chuyện này truyền sang các nước bằng tác phẩm nào? Có thể không phải là tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân mà là của các tác giả khác có tên tuổi trong Văn học sử Trung Quốc.Ý kiến của Đoàn Lê Giang tuy phủ nhận quan điểm của Lê Nghị vậy nhưng vẫn chưa giải quyết được vấn đề tại sao tác gia Thanh Tâm Tài Nhân lại không hề xuất hiện trong Văn học sử Trung Quốc trước 1981.
Một nghi án văn học cũng như một vụ án hình sự với nhiều chứng cứ chưa rõ rệt thường rất khó đoán định. Trong thực tế ở nước ta cũng như nhiều nước khác trên thế giới đã có nhiều vụ án sau khi trải qua nhiều lần nghị án vởi đủ mọi thủ tục để Toà xác định thủ phạm – rồi thi hành án giam tù hoặc tử hình. Vậy nhưng án thi hành xong, qua nhiều năm mới phát hiện là nhầm, hung thủ lại là một người khác…! Văn chương cũng vậy, dù bao nhiêu học giả tầm cỡ đã khẳng định Truyện Kiều bắt nguồn từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân nhưng vẫn còn nhiều điểm nghi ngờ chưa thể lí giải nên ý kiến của Lê Nghị vẫn cần được xem xét. Biết đâu Nguyễn Du cũng như các tác gia của Nhật, Triều Tiên, Mãn Châu lại chỉ dựa vào Minh sử và một cuốn tiểu thuyết nào đó viết về Truyện Kiều như Sinh báo Hoa Ngạc ân, tử tạ Từ Hải nghĩa của Mộng Giác Đạo Nhân hay Vương Thúy Kiều truyện của Dư Hoài chẳng hạn để tạo nên tác phẩm của mình. Còn Thanh Tâm Tài Nhân thì rõ là không có tên trong Văn học sử Trung Hoa. Vậy thì Thanh Tâm Tài Nhân là ai? Phải chăng là một nhóm văn thần đời Minh Mạng đã vâng lệnh vua mà soạn nên Kim Vân Kiều truyện? còn Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc mà GS.Đổng Văn Thành thông báo đã tìm được ở Thư viện Đại Liên năm 1981 biết đâu lại chỉ là mạo tác nhằm bảo vệ luận thuyết in trong Minh Thanh Tiểu Thuyết Giám Thường từ điển (9), cho rằng Truyện Kiều chẳng qua chỉ là dùng thể thơ lục bát của Việt Nam để dịch lại một cuốn tiểu thuyết của Trung Quốc; cũng như trong bài “So sánh truyện Kim Vân Kiều Trung Quốc và Việt Nam” trên “Minh Thanh tiểu thuyết luận tùng”, GS. Thành cũng cho rằng: “Nguyễn Du chẳng những chỉ mượn đề tài của tiểu thuyết Trung Quốc mà dường như bê nguyên xi […] Nguyễn Du không có bất kỳ một sáng tạo mới nào, chỉ chuyển thuật khá trung thực nội dung tiểu thuyết của Thanh Tâm tài nhân…”(10).
Chê Nguyễn Du hết lời, Đổng Văn Thành lại tâng bốc Thanh Tâm Tài Nhân lên tận mây xanh: “…Đối với Kim Vân Kiều truyện: “…chữ nào cũng là đá ngũ sắc vá trời cả, công của tác giả chẳng hề kém Nữ Oa” (11). Đánh giá Kim Vân Kiều truyện ghê gớm như thế mà lại khẳng định là: “trong tất cả các sách về lịch sử tiểu thuyết, lịch sử văn học, kể từ cuốn Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc của Lỗ Tấn đến nay: đều không có đến nửa chữ giới thiệu về nó….thì quả là một sự mâu thuẫn đáng ngờ.
Trước một nghi án văn học phức tạp như trên, ta cần cẩn trọng với những định kiến cũ dù rằng nó đã khởi phát từ những khẳng định của những vị mũ cao áo dài. Biết đâu những định kiến này đã thoát ra từ một luận thuyết mơ hồ trong quá khứ. Ngoài ra ta cũng nên lắng nghe, trân trọng những ý kiến mới, những tư tưởng sáng tạo để rộng đường xem xét.
(2) Theo Lê Nghị (https://www.facebook.com/linghe.li.7): Đoàn Lê Giang có cho biết trong phần giới thiệu của sách: Nishida Korenori đã phóng tác từ từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Chi tiết này nay vẫn chưa được chứng thực
(3) TRÙ HẢI ĐỒ BIÊN 籌海圖編 là bộ sách do Hồ Tôn Hiến soạn, gồm họa đồ vẽ các vùng biển thường bị quân hải khấu Nhật xâm phạm và các kế hoạch trù định nhằm giữ gìn an ninh vùng biển. Bài Kỷ tiễu Từ Hải bản mạt 纪剿徐海本末 chép ở quyển 9 của bộ sách này là do Phó sứ Mao Khôn, thuộc cấp theo lệnh Hồ Tôn Hiến ghi chép, đã kể lại khá tỉ mỉ cuộc đánh dẹp Từ Hải. (Hồ Tôn Hiến – Trù Hải Đồ Biên, Cảnh Ấn Văn Uyên Các, Tứ Khố Toàn Thư, sách thứ 343. Đài Bắc, Đài Loan; Thương Vụ ấn thư quán, 1983)
(4) Oa 倭 : lùn. Người Nhật bản xưa thấp bé nên người Trung Hoa gọi là Oa nhân 倭 人(người lùn), nước Nhật là Oa quốc 倭国 , cướp biển từ Nhật sang gọi là Oa khấu 倭寇 (giặc lùn). Chữ Oa cũng hay đọc là Nụy .
(5) Mộng Giác Đạo Nhân梦觉道人; tác giả truyện 三刻拍案惊奇 Tam Khắc Phách Án Kinh Kì đời Minh.
(6) Dư Hoài 余怀(1617—?)tự là Đạm Tâm, học giả, nhà thơ, nhà văn nổi tiếng đất Giang Nam đời Minh mạt-Thanh sơ.
(7) Từ Văn Trường (Từ Vị), một nhà văn đời Minh, có nhiều bút danh: Thiện Tri, Thanh đằng, Điền Thủy Nguyệt, là mặc khách của Hồ Tôn Hiến.
(8) Thông báo Hán Nôm học 2001, tr.397: “Lời tựa sách Trung Quốc tiểu thuyết hội mô bản có nhắc tới Vương Thuý Kiều truyện của Hàn quốc; trong sách Trung Quốc cổ đại tiểu thuyết đông truyền Hàn quốc cập kỳ ảnh hưởng của Trần Tường Hoa cũng đề cập đến truyện Vương Thuý Kiều truyện du nhập Triều Tiên…
9) MINH THANH TIỂU THUYẾT GIÁM THƯỜNG TỪ ĐIỂN; Hà Mãn Tử – Lý Thời Nhân, Chiết Giang Cổ Tịch xuất bản xã xuất bản năm 1992(
10) Phạm Tú Châu “So sánh Truyện Kim Vân Kiều Trung Quốc và Việt Nam”; 200 năm nghiên cứu bàn luận “Truyện Kiều”, Nxb. Giáo dục, Hà Nội 2005.
(11) Nguyễn Khắc Phi; Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc qua cái nhìn văn học so sánh, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr.178 – 189.
ĐỌC SÁCH “NGUYỄN DU TRÊN ĐƯỜNG GIÓ BỤI” CỦA HOÀNG KHÔI Phạm Trọng Chánh
Có gì vui hơn, khi những thành quả nghiên cứu văn học của mình được bè bạn Hội Kiều Học trong nước hưởng ứng viết thành tiểu thuyết. Nhận được sách anh Hoàng Khôi: Nguyễn Du trên đường gió bụi với lời đề tặng : “Thân tặng anh Phạm Trọng Chánh. Cám ơn anh vì những bài viết của anh đã gợi ý nhiều và tạo cảm hứng cho tôi hoàn thiện cuốn sách này “. Người viết vội vàng viết bài về quyển sách anh gửi tặng, giúp anh “nhặt sạn” những sơ sót trong lúc say sưa viết. Tiếc là không được đọc bản thảo lúc sách chưa ra đời để công trình anh được hoàn hảo hơn, thôi thì góp ý kiến để lần tái bản anh xem xét lại. Bài viết cũng trả lời các thắc mắc nhiều bạn khi thấy dàn bài sách anh Hoàng Khôi trùng hợp với tên tựa các bài tôi đã viết đăng trên nhiều site trong nước và hải ngoại, gửi email hỏi tôi, mong rằng bài viết này giải toả các nghi ngờ về sách anh Hoàng Khôi.
Người nghiên cứu văn học sau bao năm tìm kiếm giải quyết những thắc mắc của các học giả đi trước : Tại sao Nguyễn Du có những bài thơ làm ở Trường An, Hàng Châu không nằm trên đường đi sứ năm 1813 ? Tại sao trong Thanh Hiên thi tập có các địa danh : Liễu Cao Lâm, Trường An, Giang Hán, Giang Bắc, Giang Nam, Nam Đài, Long Thủy, những địa danh ấy ở đâu ? Những người đi trước không nghĩ tới chỉ dịch phớt qua hay bỏ quên ! Nhân vật Nguyễn Đại Lang trong Thanh Hiên thi tập là ai ? Nguyễn Du trong thơ tiễn biệt có nói đã cùng kết nghĩa sinh tử, cùng tồn vong, chia tay tại đâu mà hẹn gặp lại tại Trung Châu ? Trung Châu là Hà Nội hay ở Trung Quốc. Nguyễn Du từ năm 1783 làm Chánh Thủ Hiệu Quân Hùng Hậu hiệu tại Thái Nguyên. Sách sử các tài liệu rãi rác : Nguyễn Khản làm Thượng Thư Bộ Lại kiêm trấn thủ Thái Nguyên, Hưng Hóa, Hoàng Lê Nhất Thống Chí có nói đến Cai Gia, tay giặc già, thuộc hạ của Nguyễn Khản nắm binh quyền tại Thái Nguyên. Lê Quý Kỷ Sự của Nguyễn Thu có nói đến cuộc khởi nghĩa tại Tư Nông của cựu Trấn Thủ Thái Nguyên Nguyễn Đăng Tiến, tước Quản Vũ Hầu, bị tướng Tây Sơn bắt giải về cho Vũ Văn Nhậm, Nhậm trọng khí khái dụ hàng, lại tha bổng cho phép muốn đi đâu thì đi. Gom lại các tài liệu, tôi tìm được một nhân vật, vừa là thầy, là anh kết nghĩa Nguyễn Du và cũng là Từ Hải, mở cách cửa Nguyễn Du đã vào bước đường đi giang hồ khắp Trung Quốc thời thanh niên.Những chi tiết rành rành trong Thanh Hiên thi tập có những bài tả cảnh tuyết, núi non trùng điệp, lá vàng, trưởng giả ăn mặc còn theo nhà Hán (không theo nhà Thanh để tóc bính đuôi sam, áo quần Mãn Châu), dân chúng theo lịch nhà Tần, xử dụng nhạc cụ “tù và” ? Nguyễn Du có hư cấu, ở Quỳnh Hải, Hồng Lĩnh theo sách vở mà tưởng tượng làm thơ, hay thơ chữ Hán Nguyễn Du là những trang nhật ký ?Tại sao Nguyễn Du có những câu thơ kỳ lạ : Tôi đọc kinh Kim Cương nghìn lượt ?. Muôn dậm mũ vàng chiều nắng xế? Giang Bắc, Giang Nam cái túi không? Nguyễn Du làm gì mà đọc kinh Kim Cương trong ba năm, đội mũ vàng nhà sư đi muôn dậm (khoảng 5000 km), làm gì không tiền mà đi hết các sông phía bắc đến sông phía nam Dương Tử Giang ? Nguyễn Du ở đâu mà cách Trường An ngàn dậm về phía Nam ?Theo Nguyễn Hành, cháu Nguyễn Du, có viết ông có một cuộc đời giang hồ như cuộc đời làm quan : Giang hồ long miếu hai điều đủ, Thi họa cầm thư bốn nghệ tinh.Theo gia phả từ năm 1786 đến 1796 Nguyễn Du về quê vợ tại Quỳnh Hải, Thái Bình hợp cùng Đoàn Nguyễn Tuấn khởi nghĩa chống Tây Sơn. Nhưng điều này không đúng vì từ năm 1788 Đoàn Nguyễn Tuấn ra làm quan Tây Sơn và đi sứ trong đoàn 158 người năm 1790. Đoàn Nguyễn Tuấn có hai bài thơ viết tặng một văn nhân họ Nguyễn, gặp tại Hoàng Châu, Trung Quốc vào mùa thu bàn luận về văn chương sôi nổi chuyện gì ?, Đoàn Nguyễn Tuấn phải lên Nhiệt Hà nơi vua Càn Long đang nghỉ mát ? Văn nhân họNguyễn đi xe song mã về Nam và hẹn gặp lại tại nước nhà vào mùa xuân. Trên đường đi cớ gì mà Đoàn lại viết một bài thơ Vô Đề về hồng nhan đa truân khi gặp một ca nhi hát cho sứ đoàn tại bến sông Hán?.Mang những thắc mắc bao nhiêu năm, năm 2009, tôi đi Trung Quốc qua những thành phố Nguyễn Du đi sứ và các địa danh trong thơ, tôi nghiên cứu, tham khảo sách vở từng con sông, từng hồ, từng thắng cảnh Nguyễn Du đã đi qua, tôi dịch lại toàn bộ thơ chữ Hán Nguyễn Du, do không nghĩ đến Nguyễn Du có một thời gian đi giang hồ tại Trung Quốc thời trẻ, những địa danh bị người đi trước không hiểu nên bỏ qua hay dịch sai và tôi hoàn thành quyển Nguyễn Du mười năm gió bụi và mối tình Hồ Xuân Hương. Khuê Văn Paris Xb 2011. Và gần đây tôi viết thành nhiều bài nhỏ để phổ biến trên các báo điện tử.
Nghiên cứu không phải là chuyện độc quyền của riêng ai, không phải chuyện người sau đánh đổ người trước để được nổi danh hơn mà người đi sau nối tiếp người trước , làm giải quyết những nghi vấn còn tồn động, làm cho việc nghiên cứu ngày càng phát triển, sáng tỏ. Điều may mắn trong nghiên cứu về Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương tôi có dịp gặp gỡ bàn bạc với Giáo sư Hoàng Xuân Hãn và Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn.
Những thắc mắc về Nguyễn Du tôi đã từng bàn với Giáo sư Hoàng Xuân Hãn, từ những năm 1980 thuở còn thanh niên trong những lần tôi về nghỉ hè hàng tháng trời tại dã thự Cam Tuyền, tại Trouville bờ biển Normandie, Giáo sư khuyến khích, chỉ dẫn tôi những điều giáo sư nghi ngờ và chưa tìm ra câu giải đáp. Tôi mang nặng những lời hướng dẫn của giáo sư suốt mấy mươi năm, nên đọc lại, dịch lại từng câu từng chữ thơ chữ Hán, chữ Nôm Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du. Ở Paris mà nghiên cứu Văn Học Việt Nam quả thật là chuyện gàn, vì ban ngày nói tiếng Pháp, làm ăn sinh sống bằng tiếng Pháp, mà ban đêm cứ thao thức ngồi viết bằng tiếng Việt, dịch thơ tiếng Việt chữ Hán, chữ Nôm. Được tiếp xúc với kho tàng văn hóa Hán Nôm lưu trữ tại Trường Viễn Đông Bác Cổ Paris, di sản cha ông mình nhiều quá, mà người nghiên cứu lác đác như lá mùa thu, vì việc làm chẳng ai trả lương, chỉ để tiêu khiển. Ngày xưa, tôi tò mò hỏi giáo sư Hoàng Xuân Hãn : Vì sao Bác tốt nghiệp trường Bách Khoa Paris, tốt nghiệp Kỹ sư Hầm Mỏ, Thạc Sĩ Toán mà lại dành cả đời đi nghiên cứu văn chương Việt Nam ? Bác trả lời : “Việc ấy các anh em trẻ có nhiều sẽ làm giỏi hơn bác, nhưng kho tàng văn học Việt Nam nếu không ai làm, di sản tổ tiên sẽ mất đi rất nhiều“. Rồi từ lúc, ngồi trên ghế trường Bách Khoa Paris, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã viết tự điển danh từ Khoa Học bằng tiếng Việt, đặt nền tảng cho việc giảng dạy tiếng Việt, chỉ một năm làm Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục và Mỹ Thuật, giáo sư đã đặt nền tảng cho chương trình giảng dạy bằng tiếng Việt còn tồn tại cho đến ngày nay. Trong tiếng súng chiến tranh Pháp Việt, giáo sư Dương Quảng Hàm lao vào cứu thư viện của mình và bị chết cháy. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn vẫn tiếp tục đi mua hàng gánh sách vở các đại gia bị con cháu đem bán làm giấy bổi, rồi mang nó ra xa nơi chiến tranh ngồi tiếp tục nghiên cứu, chẳng màng đến danh lợi. Bác Hãn viết sách cả đời, công sức như cả một Viện Văn Học nhưng không hề hưởng được một đồng nào do sách vở mang lại. Với địa vị, bằng cấp tại Pháp, Bác Hãn có thể trở nên giàu có, nhưng Bác biết dừng lại khi đã có đầy đủ và dành thì giờ nghiên cứu di sản tổ tiên.
Tôi vốn nặng nợ với nghiệp văn chương, thuở học trung học đã làm thơ viết báo, nhiều khi tự nhủ lòng : Trang Tích xưa khi bệnh mới rên bằng tiếng Việt, chứ tôi đi du học từ năm 19 tuổi, mà cứ rên bằng tiếng Việt suốt hơn 43 năm. Thôi thì như Tú Xương : Một chè, một rượu, một đàn bà.. mình thì chẳng rượu chè, cờ bạc chỉ mê có cô Hồ Xuân Hương và cô Kiều.
Công trình Nguyễn Du, mười năm gió bụi và mối tình Hồ Xuân Hương sau khi hoàn thành từ Paris năm 2011, tôi gửi sang Moscou tặng Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn trong những ngày cuối đời, giáo sư cho biết bị phong thấp tê liệt cả nửa người, chỉ còn một tay gõ chữ, bao ngày tháng trông đợi, thường xuyên viết Email hỏi thăm khuyến khích, không có quyển Hoàng Lê Nhất Thống Chí tại Moscou, Giáo sư nhờ môn sinh từ trong nước gửi qua, cầm quyển sách trong tay, giáo sư đánh Email hỏi gấp : Cai Gia ở trang mấy, anh nói gấp cho tôi biết, giáo sư rất vui khi đọc được những khám phá mới của tôi về Nguyễn Du, nhất là về Cai Gia Nguyễn Đại Lang sẽ mở ra cánh cửa về cuộc đời giang hồ của Nguyễn Du và Giáo sư vui vẻ nói rằng khám phá này rằng “sẽ làm mưa làm gió”… không ngờ đây là quyển sách cuối cùng Giáo sư đọc trước khi nhắm mắt lìa đời.
Được Giáo Sư Nguyễn Văn Hoàn, vốn đã quen biết từng sang chơi Paris hơn 30 năm, nay là Chủ Tịch Hội Kiều Học, mời tham gia Hội Kiều Học vừa mới thành lập, nay được anh Vũ Ngọc Khôi, một hội viên Kiều Học viết chuyện Mười năm gió bụi của Nguyễn Du thành tiểu thuyết còn gì vui hơn. Hy vọng có một đạo diễn tài ba, một nhà sản xuất phim, một nhà viết kịch bản phim… sẽ có cảm hứng làm phim truyện nhiều tập về Nguyễn Du – Hồ Xuân Hương chắc chắn sẽ ăn đứt các bộ phim Trung Quốc – Hàn Quốc, sẽ phục hưng văn hóa Việt đánh bạt được các ảnh hưởng văn hóa tình cảm lẫm cẩm, giúp cho giới trẻ Việt Nam biết lịch sử Việt Nam nhiều hơn là sử Trung Quốc, Hàn Quốc. Hàn Quốc đã làm được bộ phim Xuân Hương, một truyện thơ hàng đầu của Triều Tiên, còn Việt Nam chờ đến bao giờ ?
Mơ ước nhiều, nhưng trước tiên đề nghị với anh Hoàng Khôi, xây dựng lại quyển tiếu thuyết hoàn hảo hơn, và mắc các sự kiện trên chiếc đinh lịch sử vững chắc.
Trước tiên, để đóng những chiếc đinh sự kiện vào lịch sử, cần tóm lược các sai lầm năm tháng trong Thanh Hiên thi tập, và mười năm gió bụi. Thời gian các tài liệu cũ dựa theo gia phả cho rằng Nguyễn Du theo vua Lê Chiêu Thống không kịp về ẩn lánh quê vợ ở Quỳnh Hải, hợp cùng Đoàn Nguyễn Tuấn chống Tây Sơn 1786-1796 và từ 1796-1802 là thời kỳ dưới chân núi Hồng, Vợ chết năm 1796, Nguyễn Du cõng con Nguyễn Tứ về Hà Tĩnh, làm Hồng Sơn Liệp Hộ. Năm 1802 Nguyễn Du đón đường vua Gia Long tại Hà Tĩnh dâng sớ và được đưa ra Bắc phong làm Tri huyện Phù Dung trấn Sơn Nam.
Cách chia này không đúng vì có các mâu thuẫn : Ngược lại Đoàn Nguyễn Tuấn ra làm quan Tây Sơn. Bài thơ Quỳnh Hải Nguyên tiêu : Nguyễn Du hạnh phúc bên vợ : Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên, Trăng sáng đầu xuân tỏa ngập tràn, và mình đã trải qua chân trời góc biển đến 30 tuổi. Các tài liệu cũ không biết vợ Nguyễn Du tên gì, không biết năm sinh, làm sao biết năm mất ? Tại Hồng Lĩnh, Nguyễn Du bị tù, Trấn thủ Nguyễn Văn Thận giữ vững Hà Tĩnh cho đến năm 1802, Nguyễn Du không thể chiêu tập thủ hạ và không thể có lương thực, bò, ngựa để dâng vua Gia Long. Người đã làm quan được mời ra (cùng Nguyễn Thiếp) năm 1802 và đi theo vua Gia Long từ Phú Xuân ra Bắc là Nguyễn Nể chứ không phải Nguyễn Du. Bài thơ Chí Hiên tặng của Nguyễn Du lưu trong Lưu Hương Ký của Hồ Xuân Hương, có hai câu : Ra Bắc phen này mong nổi việc, Vào Nam ngẩm trước cũng hoài công. Chứng tỏ Nguyễn Du không tìm được ai ủng hộ mình tại Hà Tĩnh (Tụ đầu nan đắc thường thanh mục – Họp bạn khó tìm người mắt biếc) Hà Tĩnh trải qua cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quýnh, làng Tiên Điền bị làm cỏ, không ai còn muốn phiêu lưu chống Tây Sơn, (Tiếu đề tuẫn tục can qua tế – Khóc cười thời loạn theo trần thế. Tạp thi II). Nguyễn Du không thể ở lại dạy học vì người bạn thân là Thực Đình dạy học cũng không sống nổi. Cái tên Thực Đình tự cười mình, nói lên số phận chỉ ăn no khi có đám tiệc ở đình làng. Nguyễn Du thất bại, bị tù tại Hà Tĩnh, mới ra trở lại Thăng Long, thì Hồ Xuân Hương đã đi lấy chồng thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm. Nguyễn Du về Quỳnh Hải cưới vợ Đoàn Nguyễn Thị Huệ, do hai ông anh Nguyễn Nể , Đoàn Nguyễn Tuấn thu xếp, năm ấy Nguyễn Du 30 tuổi. Tại Quỳnh Hải, Nguyễn Du dạy học văn võ, chiêu tập thủ hạ, hoàn tất Truyện Kiều, làm ăn khấm khá mới có bò ngựa lương thực dâng vua Gia Long. Từ Quỳnh Hải, Nguyễn Du dẫn thủ hạ đi không xa đến Phù Dung cùng trấn Sơn Nam, thì gặp vua Gia Long, vua phong ngay làm Tri huyện tại đây cho nên có danh hiệu là Phi Tử. Nguyễn Nể cũng được vua Gia Long để lại Bắc Hà giúp Tổng Trấn Nguyễn Văn Thành các nghi lễ cho sứ đoàn do Binh Bộ Thượng thư Lê Quang Định làm Chánh sứ xin nhà Thanh phong vương và đổi quốc hiệu là Nam Việt, nhưng không giữ chức vụ gì. Nguyễn Nể không bị Đặng Trần Thường đem ra Văn Miếu đánh đòn như Ngô Thời Nhiệm, Phan Huy Ích, Nguyễn An Lịch.. nhưng năm 1805 về Hà Tĩnh thì bị tri phủ Trần Văn Chiêu tuy bức, ông uất ức mà chết. Nguyễn Du vợ mất năm 1804 để lại một con Nguyễn Tứ.
NIÊN BIỂU NGUYỄN DU
1766. Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tính ra dương lịch là ngày 3-1-1766, mới đúng. (Các tài liệu cũ đều lầm lẫn khi viết Nguyễn Du sinh năm 1765).
1771 Cha là Nguyễn Nghiễm xin về hưu trí sĩ, được gia thăng chức Đại Tư Đồ. Chúa Trịnh cấp cho xe bồ, ngựa tứ và thuyền hãi mã đưa về làng. Nguyễn Du theo cha về. Nguyễn Nghiễm lại được gọi ra làm quan Tham Tụng.
1774. Nguyễn Nghiễm được sung chức Tả Tướng cùng Hoàng Ngũ Phúc đánh Chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
1776 Nguyễn Nghiễm bị nhiễm bệnh dịch cùng hàng ngàn quân sĩ, đưa về quê dưỡng bệnh và mất tại Hà Tĩnh 7 tháng 11 Ất Mùi (7-1-1976). Được truy tặng tước Huân dụ Đô hiến đại vương, Thượng đẳng phúc thần.
1778 Bà Trần thị Tần (1740-1778) mẹ Nguyễn Du qua đời ngày 20-7-1978.
1780 Trong vụ án Canh Tý. Anh cả Nguyễn Khản (1734-1786) thầy dạy Trịnh Tông bị khép tội mưu loạn cùng Trịnh Tông, được tha chết nhưng bãi chức, giam ở nhà Châu Quận công. Nguyễn Du về Tiên Điền học với chú Nguyễn Trọng.
1783 Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam, Nam Định đậu tam trường. Nguyễn Khản thăng Thiếu Bảo, cuối năm thăng Tham Tụng kiêm trấn thủ Hưng Hóa, Thái Nguyên. Cử Nguyễn Du làm Chánh Thủ Hiệu quân Hùng Hậu Hiệu cai quản đội quân tinh nhuệ nhất Thái Nguyên. Cai Gia Nguyễn Đăng Tiến tước Quản Vũ Hầu vốn là tay giặc già, phản Thanh phục Minh Trung Quốc, gốc người Việt Đông, là tân khách (thủ hạ) dưới trướng, thầy dạy võ cho Nguyễn Du và các anh em được giao quyền Trấn thủ Thái Nguyên, nơi có nhiều người Trung Quốc sang khai mỏ bạc. Nguyễn Nể(1761-1805) đỗ tứ trường trường thi Hương Phụng Thiên, Hà Nội, Nguyễn Khản phong làm Cai quản đội quân Phấn Nhất trong phủ Chúa.
1784 Nhân vụ 7 kiêu binh bị nhà chúa giết vì bữa tiệc vua Lê đãi kiêu binh có công phò Hoàng Tự Tôn Lê Duy Kỳ từ trong tù ra, kiêu binh nổi loạn đốt phá dinh thự Bích Câu. Nguyễn Khản chạy trốn lên Sơn Tây với em Nguyễn Điều (1745-1786), trấn thủ Sơn Tây, Nguyễn Nể phụ tá làm Hiệp tán Nhung vụ,họ toan hợp quân các trấn về đánh kiêu binh, nhưng kiêu binh giữ chặt chúa Trịnh Tông nên âm mưu bất thành. Kiêu binh áp lực bãi chức Nguyễn Khản và giáng chức Nguyễn Điều, hai người về Hà Tĩnh. Nguyễn Điều về huyện Thanh Chương lập nhà ở đấy, khi nghe nhà Trịnh mất, ông uất ức mà chết năm 1786.
1786 Tây Sơn ra Bắc, Nguyễn Khản từ Hà Tỉnh theo ghe mành ra Bắc giúp chúa Trịnh chủ trương đóng quân theo lối vẩy sộp (theo Lê Quý Kỷ sự) , nhưng kiêu binh vu cáo ông rước giặc Tây Sơn về. Nguyễn Khản phải bỏ chạy, ông mất trong hoàn cảnh đó, thi hài được đưa về an táng tại Hà Tĩnh.
1787 Nguyễn Du, Nguyễn Quýnh cùng Cai Gia Nguyễn Đăng Tiến, quyền trấn thủ Thái Nguyên khởi nghĩa tại Tư Nông thất bại, bị bắt và cùng được Vũ Văn Nhậm tha chết. Họ đi sang Vân Nam. Nguyễn Quýnh quay trở về Hồng Lĩnh khởi nghĩa bị bắt và bị giết năm 1791 tròn 30 tuổi, dinh thự và làng Tiên Điền bị đốt sạch.
1787. Đến Vân Nam, Nguyễn Du bị bệnh ba tháng mùa xuân. Hết bệnh, họ đi Liễu Châu và chia tay, Nguyễn Đại Lang về thăm quê nhà vùng Quế Lâm, cao sơn lưu thủy. Nguyễn Du đi giang hồ ba năm ở Trung Quốc trong áo mũ nhà sư mang danh Chí Hiên, từ Quảng Tây theo thuyền đi dọc sông và Hồ Động Đình đến Hán Khẩu, rồi theo sông Hán rồi lên Trường An viết bài Dương Quý Phi, Bùi Tấn Công mộ, Phân Kinh thạch đài, rồi lại theo kinh Đại Vận Hà đến Hàng Châu .
1790 Tại Hàng Châu Nguyễn Du cư ngụ tại chùa Hổ Pháo bên Tây Hồ, nơi Từ Hải tức Minh Sơn Hoà thượng từng tu hành, trước khi đi giang hồ thành cướp biển. Tại đây Nguyễn Du có được bản Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Gặp lại Nguyễn Đại Lang tại miếu Nhạc Phi cũng bên cạnh Tây Hồ, (nơi đây Nguyễn Du viết 5 bài thơ, một bài Nhạc Phi, hai bài Tần Cối và hai bài Vương Thị), sau đó hai người đi Yên Kinh (gặp vua Lê Chiêu Thống), trở về Hoàng Châu thì gặp Đoàn Nguyễn Tuấn sứ đoàn Tây Sơn tại một lữ quán, gặp bạn văn chương, Nguyễn Du bàn chuyện sôi nổi về Hồng nhan đa truân. Đoàn Nguyễn Tuấn viết hai bài thơ tặng văn nhân họ Nguyễn. Nguyễn Du về Long Châu và trở về Thăng Long.
1790-1793. Nguyễn Du về ở với anh Nguyễn Nể, đang làm quan Tây Sơn tại Bắc Thành giữ chức Hàn Lâm thị thư, sung chức Phó sứ tuế công, năm 1791 đi sứ về, đã xây dựng lại một phần dinh thự Bích Câu, tại đây Nguyễn Du nghe cô Cầm, người nhạc nữ cũ cung vua Lê đánh đàn. Nhưng Nguyễn Du thường ở gác tía, nơi câu cá anh Nguyễn Khản cạnh đền Khán Xuân. Tại đây Nguyễn Du quen biết Xuân Hương Hồ Phi Mai, mối tình ba năm.
1794. Nguyễn Nể được triệu về Phú Xuân thăng chức Đông Các Đại Học Sĩ, gia tăng Thái Sử Tả Nghị Lang, chức vụ thầy dạy vua Cảnh Thịnh. Nguyễn Nể giao phó cho hai em Nguyễn Du và Nguyễn Ức tiền bạc để về Tiên Điền xây dựng lại từ đường và làng Tiên Điền. Về Phú Xuân, quyền hành nhà Tây Sơn trong tay Thái sư Bùi Đắc Tuyên, cậu vua Cảnh Thịnh, Thái sư đày Quân sư Trần Văn Kỷ ra Hoàng Giang làm lính thú. 1795 Nguyễn Nể xin ra Quy Nhơn vừa mới lấy được từ vua Trung Ương Nguyễn Nhạc, trấn đóng để tránh xa xung đột triều đình, cuối năm được cử làm Chánh Sứ (Hành Khánh Sứ) lễ bộ mừng lễ truyền ngôi vua Càn Long cho vua Gia Khánh.
1794-1796. Nguyễn Du về Tiên Điền, bị bệnh ba tháng cuối năm. Ở nhà cạnh Giang Đình bến sông để tiếp nhận mua gỗ đá, vật liệu chở bằng thuyền. Nguyễn Ức vẽ kiểu và chỉ huy thợ xây cất. Nguyễn Du trao đổi thơ với Hồ Xuân Hương. Nguyễn Du đi săn làm Hồng Sơn liệp hộ. Nguyễn Du có vào Phú Xuân thăm anh và nhận một món tiền khác.
1796. Công việc xây dựng tạm xong. Nguyễn Du làm Nam Hải Điếu đồ, người đi câu biển Nam Hải toan theo thuyền về Nam. Lúc này chúa Nguyễn Ánh đã đánh chiếm đến thành Diên Khánh (Nha Trang). Nguyễn Du bị quận công Nguyễn Văn Thận trấn thủ Hà Tĩnh bắt giam mười tuần. Nguyễn Du trở ra Thăng Long thì hay tin Hồ Xuân Hương đã đi lấy chồng thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm. Nguyễn Du viết hai bài thơ ký tên Chí Hiên oán trách nàng tệ bạc. Hồ Xuân Hương vẫn trân trọng chép trong Lưu Hương Ký. Nguyễn Du sang nhà Đoàn Nguyễn Tuấn, anh Nguyễn Nể cũng vừa đi sứ về được thăng chức Hữu Trung Thư, chức vụ quân sư cho vua Cảnh Thịnh, trước biến loạn triều đình Nguyễn Nể xin ra xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô ở Nghệ An thay Trần Quang Diệu.
1797-1801 Nguyễn Nể cùng Đoàn Nguyễn Tuấn tác thành hôn nhân cho Nguyễn Du cùng Đoàn Nguyễn Thị Huệ và giao cho gia trang ở Quỳnh Hải. Từ đây Nguyễn Du có vợ con sống hạnh phúc chấm dứt cuộc đời gió bụi. Nguyễn Du hoàn tất Truyện Kiều, dạy văn, dạy võ chiêu tập thủ hạ tại Quỳnh Hải.
1801 Nguyễn Nể được lệnh vua Cảnh Thịnh đưa La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp vào chầu, còn ở Phú Xuân thì kinh đô thất thủ. Nguyễn Nể và La Sơn Phu Tử được vua Gia Long gọi ra. Nguyễn Nể dâng sớ được trọng dụng khen thưởng và cho theo xe vua ra Bắc chỉ dẫn nghi lễ cho sứ đoàn ngoại giao Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức đi sứ. Nguyễn Thiếp được cho về quê quán.
1802. Vua Gia Long ra Bắc truy lùng vua Tây Sơn Cảnh Thịnh. Nguyễn Du dẫn học trò, tráng đinh mang lương thực, bò, ngựa từ Quỳnh Hải đón đường đi gặp vua Gia Long, đến huyện Phù Dung thì gặp vua, vua phong ngay làm tri huyện Phù Dung. Việc này tương tự với Phi Tử đời Chiến Quốc dâng ngựa cho vua Chu Hiếu Vương được chức Phụ Dung, nên Nguyễn Du có danh hiệu là Phi Tử, Nguyễn Hành bài Đi Săn có nhắc đến danh hiệu này.
1803. Làm Tri huyện được mấy tháng nhờ tài nói lưu loát ngôn ngữ Trung Quốc trong thời gian đi giang hồ và tài năng ứng đối thi ca. Nguyễn Du được thăng Tri phủ Thường Tín lên Lạng Sơn đặc trách tiếp sứ sang phong vương cho vua Gia Long cùng Tri phủ Thượng Hồng Trần Quý Chuyên. Tri phủ Thiên Trường Ngô Nguyên Viễn, Tri phủ Tiên Hưng Trần Lưu. Thơ tống tiễn do Nguyễn Du viết.
1804. Xong việc ngoại giao tiếp sứ, Nguyễn Du trở về Thường Tín, vợ mất để lại một con Nguyễn Tứ. Nguyễn Du cáo bệnh xin nghĩ một tháng về quê. Nguyễn Du tìm về Cổ Nguyệt Đường mong nối lại duyên xưa thì Hồ Xuân Hương đang làm lẽ Cai Tổng Cóc Nguyễn Công Hòa ở Vĩnh Yên, nàng đau ốm tâm sự như nàng Tiểu Thanh. Bên song cửa Nguyễn Du viết bài Độc Tiểu Thanh Ký gửi Hồ Xuân Hương và tự hỏi : Ba trăm năm lẽ nữa ai khóc người phẩm hạnh cao quý như nàng Tiểu Thanh. Đó là lý do bài Độc Tiểu Thanh Ký nằm cuối Thanh Hiên thi tập, và hai chữ tố như chỉ có nghĩa là người phẩm hạnh cao quý như thế (như nàng Tiểu Thanh).
1805 Nguyễn Du được thăng Đông Các học sĩ, hàm ngũ phẩm, tước Du Đức hầu vào nhậm chức ở kinh đô Phú Xuân. Chức vụ dâng sách cho vua Gia Long đọc mỗi ngày. Nguyễn Nể về quê bị Tri phủ Trần Văn Chiêu truy bức ông uất ức mà chết.
1807 Làm giám khảo trường thi Hương, Hải Dương.
1808 Mùa thu, xin về quê nghỉ.
1809 Đầu năm được bổ làm Quan Cai Bạ (Trấn thủ) doanh Quảng Bình, một trong bốn doanh đất kinh kỳ, hàm tứ phẩm.
1812 Cuối năm Nguyễn Du xin về quê xây mộ cho anh Nguyễn Nể, được hai tháng thì có chiếu chỉ triệu vào kinh.
1813 Thăng Cần Chánh điện học sĩ và được cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc. viết Bắc Hành tạp lục.
1815 Thăng Hữu Tham tri Bộ Lễ hàm Tam phẩm.
1816 Kết thúc vụ án Nguyễn Văn Thuyên. Trung Quân thống lĩnh toàn quân đội Nguyễn Văn Thành tự tử. Anh rễ Nguyễn Du, Tiến sĩ Vũ Trinh thầy dạy Nguyễn Thuyên bị giam hậu và đày đi Quảng Nam 12 năm. Vụ án Binh bộ Thượng Thư Đặng Trần Thường, vụ án Trần Phúc Hiển chồng Hồ Xuân Hương.
1818. Trần Phúc Hiển bị xử tử, Hiệp trấn Sơn Nam Thượng Trần Ngọc Quán, thi tướng Tao Đàn Cổ Nguyệt Đường chết, có lẽ tự tử.
1819 Được cử làm Đề Điệu Trường Thi Quảng Nam, Nguyễn Du dâng biểu cố từ được vua chuẩn y.
1820. Gia Long mất, Minh Mệnh lên ngôi cử Nguyễn Du làm Chánh sứ đi báo tang và xin thụ phong; Chưa kịp đi thì bị bệnh dịch mất ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn tức ngày 16-9-1820. Ngô Thời Vị làm Chánh sứ thay thế. Thi hài Nguyễn Du được an táng đồng Bầu Đá, xã An Ninh, huyện Quảng Điền Thừa Thiên. Năm 1924 con là Nguyễn Ngũ cải táng đưa về làng Tiên Điền.
ĐÍNH CHÁNH NHỮNG SƠ SÓT
Đọc sách anh Hoàng Khôi, tôi xin nhặt ra những sơ sót, và bổ túc thêm những chi tiết, mong rằng anh sẽ chữa lại, mài dũa thêm viên ngọc quý để trở thành một tác phẩm hoàn hảo tuyệt tác, nếu có thì giờ viết thành kịch bản truyện phim cũng nên.
Trang 14, Trấn Sơn Nam thời Lê, đến đời Gia Long được chia làm Sơn Nam Thượng đặt trị sở tại Châu Cầu. Sơn Nam Hạ đặt trị sở tại Nam Định. Sang năm 1831 đời Minh Mạng chia Sơn Nam Thượng gồm hai tỉnh Hà Nội và tỉnh Hưng Yên. Sơn Nam Hạ chia làm hai tỉnh Nam Định và Thái Bình.
Đời Gia Long, Bắc Thành có 11 trấn : gồm 5 nội trấn là Kinh Bắc, Sơn Tây, Hải Dương, Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ. 6 ngoại trấn là : Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hưng Hóa, Yên Quảng. Ngoài ra có hai đạo Thanh Bình (Ninh Bình) và Hoà Bình và phủ Hoài Đức gồm Thăng Long và vùng phụ cận. Do đó Ninh Bình và Thăng Long đời Gia Long về trước, không thuộc về Sơn Nam.
Trang 18. Bà Đặng Thị Thuyết (không phải Tuyết) sinh mẫu Nguyễn Điều, em bà chánh thất Đặng thị Dương. Bà Nguyễn Thị Xuân quê Bắc Ninh, sinh mẫu NguyễnTrứ, Nguyễn Nghi thay vì bà Hồ Thị Ngạn ( là sinh mẫu Nguyễn Nhưng, thay vì Nguyễn Nhung).
Mẹ Nguyễn Du là Trần Thị Tần, con người thuộc hạ làm chức Câu kế lo việc kế toán, quản gia cho cụ Nguyễn Nghiễm, quê làng Hoa Thiều họ này có hai người đỗ Tiến Sĩ, bà Tần là vợ thứ ba có con đông nhất (Nguyễn Trụ, Nguyễn Nể, Nguyễn Thị Diên, Nguyễn Du, Nguyễn Ức) . Do đó tôi nghĩ mẹ Nguyễn Du là người có thế lực trong gia đình, chứ không phải là mối tình qua đường, số phận người hầu, con mọn như anh Hoàng Khôi viết ? Theo phong tục ngày xưa bà chánh thất thường do cha mẹ hỏi cưới để làm dâu phụng thờ cha mẹ, cai quản gia trang nguyên quán, bà thứ hai do bà cả cưới cho chồng, thường là em hay họ hàng của mình để “làm bạn” cho mình. Bà ba là người được chồng lựa chọn, theo chồng đi khắp các nơi trấn nhậm và được chồng yêu thương nhất, có nhiều quyền hành nhất và có con đông nhất. Cụ Nguyễn Nghiễm có tám bà vợ và 21 người con. Thường các gia đình quan lớn ngày xưa, bà chánh thất giữ sổ sách kế toán và tiền bạc cho một gia trang khoảng 50 người, vừa các bà, con cái người hầu, người bảo vệ, tân khách, thầy dạy văn, dạy võ…. Trong trường hợp bà cả quê mùa không biết tính toán mới có người làm câu kế.
Trang 30. Nguyễn Du không thể về Hải An, Quỳnh Hải học với cha vợ là Đoàn Nguyễn Thục năm 1782, năm Nguyễn Du 16 tuổi vì ông Đoàn Nguyễn Thục sinh năm 1718 và mất năm 1775. Thời gian 1780- 1782 Nguyễn Khản bị phải vụ án Trịnh Tông, nên bị giam lỏng, chúa nghĩ tình bạn cũ tha không giết, do đó Nguyễn Khản không thể cưới vợ cho em, người trụ cột trong gia đình như thế, thì còn vui gì mà lấy vợ. Nguyễn Du về Hồng Lĩnh học với chú là Nguyễn Trọng. Trong bài thơ Tặng Thực Đình năm 1794 có câu : La Thành nhất biệt thập niên thâm. Một biệt La Thành đã chục năm. Nguyễn Du có bạn ở thành Nghệ An trước năm 1783, sau đó Nguyễn Du ra thi Hương trường Sơn Nam, Nam Định, đỗ Tam Trường (đỗ trường thi, phú, chiếu biểu và hỏng kỳ tứ trường thi văn sách). Năm 1783 Nguyễn Du không thể vừa trấn đóng Thái Nguyên, vừa ở quê vợ Quỳnh Hải ?
Trang 98 bài biệt Nguyễn Đại Lang hai câu Tống quân quy cố khâu, Ngã diệc phù Giang Hán (Tiễn anh về quê cũ, Tôi sang sông Hán đây) Nguyễn Du tiễn Nguyễn Đại Lang về quê cũ vùng Quế Lâm nơi cao sơn lưu thủy, vùng Việt Đông nơi quê hương người Choáng, (Tráng) người Việt cổ thời Việt Vương Câu Tiễn và Triệu Đà, ngày nay còn 15 triệu người vẫn còn giữ tiếng nói. Và cho biết mình sẽ sang sông Hán để đi Trường An. Giáo sư Nguyễn Huệ Chi dịch thành Tiễn anh về núi cũ, tôi cũng trẩy sang sông, bỏ sót mất địa danh Giang Hán.
Hai câu : Sinh tử giao tình tại, Tồn vong thổ tiết đồng cho biết Nguyễn Du có kết nghĩa sinh tử với Nguyễn Đại Lang, cùng khởi nghĩa bị bắt và được tha.
Trang 109, 114,115 hai bài Sơn Thôn và Sơn Cư Mạn Hứng tả cảnh Vân Nam nơi non sâu lớp lớp, Trưởng giả còn ăn mặc theo nhà Hán, ở trong núi (lịch theo Tây Tạng) không theo lịch nhà Tần. Phạm Tú Châu dịch áo mũ người già và lịch năm trong túi không đúng. Ông Quách Tấn dịch câu Nam khứ Trường An thiên lý dư (Phía Nam ngàn dậm cách Trường An), thành Ngoảnh lại trời Nam khuất Đế thành không đúng. Vì ông không nghĩ Vân Nam cách Trường An ngàn dậm. Nếu Trường An là Thăng Long hay Phú Xuân thì Nguyễn Du không thể ở cách hơn ngàn dậm phía Nam. Bài Thu Chí câu Tuyết ám cùng thôn hiểu giác ai (Tuyết xuống làng xa não tiếng tù) ông Phạm Khắc Khoan, Lê Thước dịch Cõi sớm làng xa tuyết phủ đầy, thiếu tiếng tù nghe ai oán, não ruột và tù và là một nhạc khí thường dùng ở Vân Nam. Cảnh tuyết này không thể ở vùng Quảng Tây được.
Trang 105, 106 bài Thôn dạ Nguyễn Du viết ở Hồng Lĩnh câu Niên niên kết đắc ngư tiều lữ – Ngư tiều là bạn quanh năm đó, Nguyễn Du đang đi giang hồ không thể kết bạn với ngư tiều quanh năm, bài Giang đầu tản bộ viết ở Quảng Bình câu Bất tài đa khủng tốc quan phi – Bất tài quan vẫn sợ đơn sai, không hợp với thời đi giang hồ, chưa làm quan.
Trang 111, 112 bài Pháo Đài: Nam Bắc xa thư khánh đại đồng – Nam Bắc mừng nay cuộc đại đồng, thống nhất Nam Bắc sau Trịnh, Nguyễn phân tranh, trong Nam Trung Tạp ngâm, Nguyễn Du làm lúc làm quan Cai Bạ (Trấn Thủ) ở doanh Quảng Bình, chép vào cảnh lúc Nguyễn Du đi giang hồ ở Trung Quốc không đúng.
Trang 116 bài , Thu dạ II Nguyễn Du trả lời họa bài Thu Vũ của Hồ Xuân Hương, Xuân Hương khóc khi nghe tin Nguyễn Du bị bệnh ba tháng cuối năm ở Hồng Lĩnh (Xem Phạm Trọng Chánh. Đi tìm Cổ Nguyệt Đường và mối tình Nguyễn Du – Hồ Xuân Hương site Vanhoanghean).
Trang 123 Nguyễn Du đọc Kinh Kim Cương nghìn lượt (Bài Phân Kinh Thạch đài), vì thời bấy giờ, Lê Quý Đôn có viết quyển Kinh Kim Cương chú giải, được trí thức Bắc Hà yêu chuộng, được nhà chùa Thăng Long khắc bản in. Lê Quý Đôn nhà bác học, là một thần tượng thời bấy giờ, khi mất được chúa Trịnh để tang bãi chầu ba ngày, việc hiếm có. Nguyễn Du tất có bên mình quyển Kinh của Lê Quý Đôn chú giải. Trên bước đường giang hồ đi Trung Quốc, Nguyễn Du đọc Kinh Kim Cương nghìn lượt, tức là ba năm, ngày đi du lịch tối về một ngôi chùa trên đường đi tụng kinh làm công quả, nhà chùa thết đãi món chay rau đậu. Đây là một chi tiết khá thú vị.
Trang 163, năm 1790, Nguyễn Du đọc Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân ở Hàng Châu, lúc đó Nguyễn Du mới 24 tuổi, chưa đến tuổi “tam thập nhi lập”.
Trang 170, Nguyễn Nể có hai lần đi sứ. Lần thứ nhất năm 1789 sứ bộ đầu tiên của Tây Sơn, Vũ Huy Tấn Chánh sứ, Nguyễn Nể làm Phó sứ. Vũ Huy Tấn đi sứ lần thứ nhất trở về, lại ở trong sứ đoàn đi sứ lần thứ hai năm 1790. Theo học giả Thái Văn Kiểm, Nguyễn Nể đi sứ đến năm 1791 mới về, (trong bài Nguyễn Du đi sứ, Việt Nam Gấm Hoa, Làng Văn Canada xb 1797 tr 101). Khi sứ thần nhà Thanh sang Thăng Long phong vương cùng năm, có cả Nguyễn Nể và Đoàn Nguyễn Tuấn tiếp rước, Đoàn giới thiệu với các sứ thần nhà Thanh: Quế Hiên Nguyễn Nể là đỉnh cao thi trận nước Nam. Lần thứ hai năm 1795 làm Chánh Sứ (Hành Khánh sứ) sang mừng lễ vua Càn Long truyền ngôi cho con là Gia Khánh. Có thể Nguyễn Nể có trong sứ bộ năm 1790 do Phan Huy Ích làm Chánh sứ, có Đoàn Nguyễn Tuấn, đoàn có 158 người, có ông vua Quang Trung giả do Phạm Công Trị đóng vai và hoàng tử Quang Thùy. Như thế Nguyễn Nể đi sứ ba lần chăng?
Nguyễn Công con Nguyễn Khản và Nguyễn Thiện con Nguyễn Điều có tham gia Sùng Chính Viện của Nguyễn Thiếp. Nguyễn Nhưng, đậu Tứ Trường đời Lê, đời Tây Sơn có ra làm Trấn Thủ Sơn Tây thay thế Nguyễn Công Tấn thân phụ Nguyễn Công Trứ năm 1801. Nhà Nguyễn lên ông ở ẩn làm nghề thuốc.
Trang 171 Hai bài thơ Đoàn Nguyễn Tuấn tựa : Chí Hoàng Châu thích Nguyễn khế văn tự Yên Kinh hồi tẩu bút tặng chi. Đến Hoàng Châu thì vừa vặn gặp người bạn văn chương họ Nguyễn từ Yên Kinh trở về bèn phóng bút làm thơ tặng. Bài tựa chứng tỏ Nguyễn Du đã lên Yên Kinh và trở về. Sự kiện vua Lê Chiêu Thống và các quan lại đi theo muốn nhà Thanh làm áp lực để xin đất Thái Nguyên, Tuyên Quang mà không xin đất Cao Bằng như nhà Mạc, chứng tỏ đã gặp cựu trấn thủ Thái Nguyên Nguyễn Đăng Tiến.
Trang 178, Bài Lưu Biệt Nguyễn Đại Lang, đặt Nguyễn Du chia tay cùng Nguyễn Đại Lang tại Hoàng Châu không đúng vì có địa danh Liễu Cao Lâm. Liễu Châu ở vùng rừng cao nguyên, nơi sản xuất gỗ nam mộc đóng hòm rất tốt, giữ thi thể rất lâu (Trung Quốc có câu : sống ở Hàng Châu, cưới vợ Tô Châu, ăn ở Quảng Châu và chết ở Liễu Châu). Từ Vân Nam vùng núi, về đến Liễu Châu vùng cao nguyên, đến Quế Lâm là đồng bằng. Trong thơ Nguyễn Du, Tây phong thường ám chỉ quân Tây Sơn: Vì quân Tây Sơn ra Bắc cho nên chúng ta lưu lạc nơi chốn rừng cao nguyên Liễu Châu, Tây phong qui tụ Liễu rừng cao. Ông Trương Chính trong Thơ Chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Văn Học 1965, vì không nghĩ đó là địa danh, nên cho rằng câu thơ không đúng cú pháp, ông chữa thành :Tây phong tiêu táp phất cao lâm, Gió Tây thổi qua ống tay áo phơ phất cành liễu. Ông Đào Duy Anh giữ nguyên nhưng dịch thành Rừng liễu ra về buổi gió Tây. Chữ ra về ngược lại với nghĩa chữ qui tụ.
Trang 181, Đoàn Nguyễn Thục mất năm 1775, 57 tuổi, năm 1790 Đoàn Nguyễn Thị Huệ 16 tuổi, mồ cô cha lúc một tuổi, có thể con thứ thiếp, được anh cả Đoàn Nguyễn Tuấn nuôi dưỡng và kết hôn cùng Nguyễn Du năm 1796, 21 tuổi.
Trang 214, cụ Đồ Diễn đã mất năm 1786, thọ 83 tuổi. Do đó năm 1790 -1793, ba năm mối tình Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, thì cụ Đồ Diễn không còn nữa. Hồ Xuân Hương nếu sinh năm 1772 lúc đó đã 18 – 21 tuổi với tài hay chữ có thể đã dạy trẻ học vỡ lòng. Văn bản Landes, Lê Quý chép thường tả Hồ Xuân Hương đi đâu cũng có 5, 7 đứa hầu gái, có lẽ là học trò. Làng Nghi Tàm sau khi cụ Đồ Diễn có Tử Minh tức Cả Tân học trò cụ Đồ Diễn dạy học, Tử Minh mất 40 tuổi năm 1811, Hồ Xuân Hương sau mười năm phong trần : Thập tải phong trần quán nhỉ linh, mười năm phong trần như ăn trộm bịt tai đi trộm chuông (lấy lẽ Cai Tổng Cóc, trở về mở hiệu sách, rồi đi buôn, vì tình bất an vùng Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ do loạn Đặng Trần Siêu, Võ Đình Lục thường chặn đường cướp bóc các thương nhân, nàng thôi đi buôn). Làng Nghi Tàm mời Xuân Hương thay Tử Minh dạy học. Học trò các lớp thi Hương sang học với ông nghè Phạm Quý Thích. Nguyễn Thị Hinh tức Bà Huyện Thanh Quan, sinh sống cùng làng Nghi Tàm, học với Hồ Xuân Hương sau đó học với Tiến Sĩ Phạm Quý Thích cùng thời với Phương Đình Nguyễn Văn Siêu.
Trang 234 : năm 1774 cụ Nguyễn Nghiễm cầm quân dẹp loạn vùng Hội An, điều này không đúng. Đó là cuộc chiến lớn chấm dứt Trịnh Nguyễn phân tranh sau hơn 200 năm. Nhân tại Phú Xuân, Trương Phúc Loan chuyên quyền, Tây Sơn nổi dậy đánh phá chiếm từ Bình Định tới Diên Khánh. Chúa Trịnh Sâm biết như vậy bèn sai đại tướng là Hoàng Ngũ Phúc, cùng Nguyễn Nghiễm làm Tả Tướng quân đem thủy bộ 3 vạn quân cùng Hoàng Phùng Cơ, Hoàng Đình Thể, Hoàng Đình Bảo vào đất Bố Chính để đánh họ Nguyễn, giả vào đánh Trương Phúc Loan. Các quan ở Phú Xuân bèn bắt Phúc Loan đem nộp. Nhà Trịnh thừa cơ chiếm lấy Phú Xuân, sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem sắc phong cho Nguyễn Nhạc trấn thủ đất Quảng Nam. Các chúa Nguyễn,Thái Thượng Vương và Tân Chính Vương bị Nguyễn Huệ đuổi bắt và giết chết, chỉ còn Nguyễn Ánh 17 tuổi chạy thoát. Trong trận này quân nhà Trịnh hàng ngàn người bị bệnh dịch. Cụ Nguyễn Nghiễm cũng nhiễm bệnh đưa về quê quán Tiên Điền dưỡng bệnh. Năm 1776 cụ mất tại quê nhà.
Trong tình hình đọc sách hiện tại trong nước và hải ngoại, mỗi người Việt Nam đọc không đến một quyển sách một năm, các nhà xuất bản tại hải ngoại chỉ sống nhờ sự hy sinh của tác giả, tự viết tự bỏ tiền in, không kể gì lời lỗ. Sách gửi đi các nơi không hy vọng gì thu tiền lại. Trong nước sách in được 1500 quyển như Nguyễn Du trên đường gió bụi anh Hoàng Khôi là thuộc loại khá. Đáng cho chúng ta khuyến khích. Phải chăng vì thiếu sách hay, các nhà văn ngày nay không đủ sức hấp dẫn lôi kéo người đọc chăng. Nghĩ lại ngày xưa thời Tự Lực Văn Đoàn, Thơ Mới, những năm 1930-1940 mỗi năm người đậu Tú Tài chỉ vài chục người, người biết chữ quốc ngữ có là bao nhiêu trên 25 triệu dân thế mà sách đã tạo ra những trào lưu văn học lớn mạnh. Ngày nay chúng ta có 90 triệu dân trong nước và 4 triệu người Việt hải ngoại, mà tình hình sách vở còn thua các nước nhược tiểu, nghĩ thật đáng buồn. Chúng ta không nâng cao được dân trí, mà dân trí lại thụt lùi. Được một nhà văn như anh Hoàng Khôi, hy sinh thức đêm thức hôm để viết sách, để mua vui một vài trống canh, tôi mừng và mong có nhiều người như anh Hoàng Khôi. Đừng để các thế hệ mai sau không còn biết viết văn, biết đọc mà chỉ còn biết bấm mấy câu vớ vẫn trên điện thoại di động.
Ban Quản lý di tích Nguyễn Du ( Hà Tĩnh) vừa tiếp nhận cuốn “Kim Túy Tình Từ” nhân dân ta thường gọi là “Truyện Kiều” dịch ra chữ Quốc ngữ in năm 1917 từ Họa sỹ Lê Anh Tuấn – Hội Viên Hội Mỹ thụật Việt Nam.
Vị thiền sư Linh Nhạc Phật Ý tại Tổ Đình chùa cổ Thủ Đức trong giấc mơ lạ “Nguyễn Du nửa đêm đọc lại” đã khuyên tôi viết Nguyễn Du trăng huyền thoại bằng cách lập “Nguyễn Du niên biểu luận” cuộc đời và thời thế Nguyễn Du để tìm hiểu về Người. Theo vị Thiền sư này thì dấu vết chứng cứ sự thật hàng năm của Nguyễn Du là chỉ dấu đáng tin cậy của thời ấy về những sự kiện trọng yếu của thời thế đã gợi ý chi phối thế xuất xử của Nguyễn Du bình sinh và hành trạng, để hậu thế chúng ta có thể hiểu đúng sự thật và huyền thoại về ông. Những sự kiện chính tại đàng Trong và đàng Ngoài với các nước liên quan trong hệ quy chiếu lấy chính Nguyễn Du và gia tộc của ông làm trung tâm sẽ là dẫn liệu thông tin thực sự có ích để thấu hiểu chính xác ẩn ngữ Truyện Kiều, lịch sử, văn hóa, con người, bối cảnh hình thành kiệt tác “300 năm nữa chốc mòng Biết ai thiên ha khóc cùng Tố Như” xem tiếp http://hoangkimlong.wordpress,com/category/nguyen-du-trang-huyen thoại
Tôi viết Nguyễn Du trăng huyền thoạicho những ai vốn thích Nguyễn Du và Truyện Kiều nhưng chỉ có sách Truyện Kiều và một ít bộ sách quý có liên quan mà chưa thể có thời gian đào sâu tìm hiểu về bộ kiệt tác văn chương Việt kỳ lạ này với những ẩn ngữ thời thế cuộc đời Nguyễn Du lắng đọng vào trang sách. Bạn đọc để đỡ tốn công, tôi xin có ít lời hướng dẫn cách đọc chùm 9 bài này như sau. Đầu tiên bạn nên đọc bảng Mục lục chín bài viết này và xác định mình cần đọc bài nào trong chín bài viết ấy sau đó bấm thẳng vào đường dẫn có tại trang ấy liên kết với chín bài; Thứ hai mời bạn đọc ngay bài bảy mục 2 va 3 đó là Chính sử và Bài tựa/ Gia phả với luận bàn. Muốn hiểu thêm Nguyễn Du trăng huyền thoại cần tìm đọc những sách và tác giả giới thiệu trong bài này và có sự định kỳ cập nhậti. Thứ ba Nguyễn Du là danh sĩ tinh hoa Việt Nam thời nhà Nguyễn Tổng luận Nguyễn Du và Truyện Kiều là sự suy ngẫm lắng đọng.
Nguyễn Du là danh sĩ tinh hoa Việt Nam thời nhà Nguyễn, là minh sư hiền tài lỗi lạc, là nhà thơ lớn danh nhân văn hóa thế giới, là một hình mẫu con người Việt Nam thuộc về văn hóa tương lai, là một tấm gương trong về phép ứng xử chí thiện, nhân đạo, minh triết giữa thời nhiễu loạn. Ông là tác giả của.Truyện Kiều và Bắc hành tạp lục bài học tâm tình Việt đã thấm sâu vào hồn Việt và lan tỏa khắp thế giới. Nguyễn Du sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766, nhằm ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tại phường Bích Câu, ở Thăng Long, Hà Nội, mất ngày 16 tháng 9 năm 1820 nhằm ngày 10 tháng tám năm Canh Thìn.
Tổng luận Nguyễn Du và Truyện Kiều tóm tắt như sau
1. Nguyễn Du không chỉ là nhà thơ lớn, danh nhân văn hóa thế giới mà còn là danh sĩ tinh hoa, đấng anh hùng hào kiệt minh sư hiền tài lỗi lạc.
2. Nguyễn Du rất mực nhân đạo và minh triết, ông nổi bật hơn tất cả những chính khách và danh nhân cùng thời. Nguyễn Du vượt lên vinh nhục bản thân giữa thời nhiễu loạn, vàng lầm trong cát để trao lại ngọc cho đời. “Nguyễn Du là người rất mực nhân đạo trong một thời đại ít nhân đạo” (Joocjo Budaren nhà văn Pháp). Ông chí thiện, nhân đạo, minh triết, mẫu hình con người văn hóa tương lai. Kiều Nguyễn Du là bài học lớn về tâm tình hồn Việt. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã thấm sâu vào hồn Việt và lan tỏa khắp thế giới.
3. Nguyễn Du quê hương và dòng họ cho thấy gia tộc họ Nguyễn Tiên Điền là dòng họ lớn đại quý tộc có thế lực mạnh “Triều đình riêng một góc trời/ Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”. Vị thế gia tộc Nguyễn Tiên Điền đến mức nhà Lê, họ Trịnh, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn đều tìm mọi cách liên kết, lôi kéo, mua chuộc, khống chế hoặc ra tay tàn độc để trấn phản. Nguyễn Du để lại kiệt tác Truyện Kiều là di sản muôn đời, kiệt tác Bắc hành tạp lục 132 bài, Nam trung tạp ngâm 16 bài và Thanh Hiên thi tập 78 bài, là phần sâu kín trong tâm trạng Nguyễn Du, tỏa sáng tầm vóc và bản lĩnh của một anh hùng quốc sĩ tinh hoa, chạm thấu những vấn đề sâu sắc nhất của tình yêu thương con người và nhân loại. Đặc biệt “Bắc Hành tạp lục” và Truyện Kiều là hai kiệt tác SÁCH NGOẠI GIAO NGUYỄN DU sử thi và tuyên ngôn ngoại giao nhân nghĩa làm rạng danh nước Việt được ghi trong chính sử nhà Nguyễn và và ngự chế Minh Mệnh tổng thuyết
4. Nguyễn Du niên biểu luận, cuộc đời và thời thế là bức tranh bi tráng của một bậc anh hùng hào kiệt nhân hậu, trọng nghĩa và tận lực vì lý tưởng. Nguyễn Du đã phải gánh chịu quá nhiều chuyện thương tâm và khổ đau cùng cực cho chính ông và gia đình ông bởi biến thiên của thời vận”Bắt phong trần phải phong trần.Cho thanh cao mới được phần thanh cao“. Nguyễn Du mười lăm năm tuổi thơ (1765-1780) mẹ mất sớm, ông có thiên tư thông tuệ, văn võ song toàn, văn tài nổi danh tam trường, võ quan giữ tước vị cao nơi trọng yếu; người thân gia đình ông giữ địa vị cao nhất trong triều Lê Trịnh và có nhiều người thân tín quản lý phần lớn những nơi trọng địa của Bắc Hà. Nguyễn Du mười lăm năm lưu lạc (1781- 1796)Thời Hồng Sơn Liệp Hộ (1797-1802) là giai đoạn đất nước nhiễu loạn Lê bại Trịnh vong, nội chiến, tranh đoạt và ngoại xâm. Nguyễn Du và gia đình ông đã chịu nhiều tổn thất nhưng ông kiên gan bền chí, tận tụy hết lòng vì nhà Lê “Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn. Để lời thệ hải minh sơn. Làm con trước phải đền ơn sinh thành“. Nguyễn Du thời Nhà Nguyễn (1802- 1820) ra làm quan triều Nguyễn giữ các chức vụ từ tri huyên, cai bạ, cần chánh điện đại hoc sĩ, chánh sứ đến hữu tham tri bộ lễ. Ông là nhà quản lý giỏi yêu nước thương dân, Nguyễn Du để lại Truyện Kiều và “Bắc Hành tạp lục” không chỉ là kiệt tác sử thi và tuyên ngôn ngoại giao nhân nghĩa làm rạng danh nước Việt mà còn là di sản lịch sử văn hóa mẫu mực của dân tộc Việt.
5. Minh triết ứng xử của Nguyễn Du là bậc hiền tài trước ngã ba đường đời là phải chí thiện và thuận theo tự nhiên “Tùy cơ, tùy vận, tùy thiên mệnh, tùy thời, tùy thế, lại tùy nghi” Nguyễn Du ký thác tâm sự vào Truyện Kiều là ẩn ngữ ước vọng đời người, tâm tình và tình yêu cuộc sống “Thiện căn cốt ở lòng ta, Chữ tâm kia mới thành ba chữ tài” .
6. Truyện Kiều có tầm ảnh hưởng rất sâu rộng đã trở thành hồn Việt, và là tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam được dịch ra hơn 20 thứ tiếng và trên 73 bản dịch. Giá trị tác phẩm Kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du có sự tương đồng với kiệt tác Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần.nhưng khác chiều kích văn hóa giáo dục và giá trị tác phẩm.
7. Nhân cách, tâm thế của con người Nguyễn Du đặt trong mối tương quan với Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh của thời đại Hậu Lê Trịnh – nhà Tây Sơn – đầu triều Nguyễn; khi so sánh với Tào Tuyết Cần là văn nhân tài tử của thời đại cuối nhà Minh đến đầu và giữa nhà Thanh thì vừa có sự tương đồng vừa có sự dị biệt to lớn.
8. Gia tộc của Nguyễn Quỳnh – Nguyễn Thiếp – Nguyễn Du tương đồng với gia tộc của Tào Tỷ – Tào Dần – Tào Tuyết Cần nhưng nền tảng đạo đức văn hóa khác nhau Nhấn mạnh điều này để thấy sự cần thiết nghiên cứu liên ngành lịch sử, văn hóa, con người tác gia, bởi điều đó chi phối rất sâu sắc đến giá trị của kiệt tác.
Cây Lương thực Việt Nam#CLTVN chủ yếu có lúa ngô, sắn, khoai. Ẩm thực Việt, nguồn thức ăn đồ uống Việt (Food & Drink) bao gồm gạo ngô, sắn, khoai, cây đậu đỗ thực phẩm, rau hoa quả, thịt, cá, … Dạy và học cây lương thực ngày nay ngày càng đòi hỏi sự hiểu biết chuyên sâu và có sự kết nối liên ngành, nâng cao sự liên kết hiệu quả sản xuất chế biến cung ứng tiêu thụ sản phẩm thành chuỗi giá trị ngành hàng. Mục tiêu nhằm.nâng cao giá trị chất lượng cuộc sống của người dân, tỏa sáng Việt Nam đất nước con người ra Thế giới về giống cây lương thực Việt, thương hiệu Việt, hiệu sách Việt, sinh thái nông nghiệp, ẩm thực, ngôn ngữ, lịch sử văn hóa Việt Nam.
Một số sản phẩm Cây Lương thực Việt Nam thương hiệu Nông Lâm được nghiên cứu phát triển, trồng phổ biến trong sản xuất những năm qua, là lời biết ơn chân thành của các tác giả với Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm 65 năm ngày thành lập (19/11/1955-19/11/2020), Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam đường tới IAS 100 năm (1925-2025) với thầy bạn và đông đảo nông dân. Bài viết này giới thiệu một số đúc kết tư liệu liên quan.dạy và học Cây Lương thực Việt Nam giúp bạn đọc tiện theo dõi. Cây Lương thực Việt Nam#CLTVN
PHÚ YÊN GIẢI PHÁP SÁNG TẠO VÀ CÔNG NGHÊ GIỐNG SẮN. Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long, Nguyễn Đình Phú, Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Văn Minh và đồng sự.
Giống sắn KM568, KM539, KM440 đang thể hiện sự vượt trội trên ruộng sắn La Hai, Đồng Xuân Phú Yên ngày 29 tháng 9 năm 2022. Đây là kết quả bước đầu của nội dung 1 Nâng cấp cải tiến giống sắn chủ lực thương mại KM419, KM440 bằng cách hồi giao với KM539, KM537, KM534, KM94 thuộc nhiệm vụ khoa học thực tiễn cấp bách:”Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên; xem tiếp Bảo tồn và phát triển sắn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/ và Giống sắn KM419 và KM440 https://hoangkimlong.wordpress.com/category/giong-san-km419-va-km440
Giống sắn KM568 trên ruông nông dân Phú Yên (giữa) rất sạch bệnh khảm lá virus (CMD) và bệnh chồi rồng CWBD, bên trái phía sau là giống sắn chủ lực sản xuất KM419 cũ nhiều và đồng đều nhưng nhiễm bệnh CMD mức 3,5; bên phải phía sau là giống chủ lực thương mại KM440 kháng bệnh CMD cấp 2 và CWBD cấp 1,5. Giống sắn KM568 là kết quả đề tài nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất của tỉnh Phú Yên.
Bảo tồn và phát triển sắn SẮN PHÚ YÊN GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TS. Nguyễn Thị Trúc Mai, TS. Hoàng Kim, TS. Hoàng Long
Báo cáo Phú Yên 28 12 2021 Hội nghị “Giới thiệu về các công nghệ trong sản xuất Nông Lâm Thủy sản”, tài liệu hội nghị và bài tham luận tại Phú Yên 31 12 2021 “Hội nghị Tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ giai đoạn 2016- 2020, định hướng phát triển ứng dụng KHCN & ĐMST giai đoạn 2021-2025” UBND Tỉnh Phú Yên,
Tóm tắt: Báo cáo này đề cập ba nội dung: 1) Những vấn đề cần chú ý trong sản xuất sắn hiện nay để nâng cao giá trị và sức cạnh tranh cây sắn; 2) Thành tựu và bài học sắn Việt Nam (2016-2021) trước và trong dịch bệnh sắn CMD và CWBD ; 3) Phú Yên bảo tồn và phát triển sắn bền vững
GIỐNGSẮN KM419 VÀ KM440 Nguyễn Thị Trúc Mai,Hoàng Kim,Hoàng Long và cộng sự.
2) Mười kỹ thuật thâm canh sắn được đúc kết thành quy trình canh tác thích hợp, hiệu quả đối với điều kiện sinh thái của địa phương (Hình 2) là giải pháp tổng hợp để nâng cao giá trị và sức cạnh tranh cây sắn. Mười kỹ thuật này bao gồm: 1) Sử dụng hom giống sắn tốt nhất của giống sắn thích hợp nhất; 2) Thời gian trồng tốt nhất và thời điểm thu hoạch tối ưu để đạt năng suất tinh bột tối đa và hiệu quả kinh tế; 3) Bón phân NPK kết hợp phân hữu cơ vi sinh và phân chuồng để cải thiện độ phì đất và tăng năng suất; 4) Khoảng cách trồng tối ưu cho giống sắn tốt nhất và thích hợp loại đất; 5) Ngăn chặn sâu bệnh hại bằng phòng trừ tổng hợp IPM; 6) Trồng xen sắn với lạc, cây họ đậu; trồng băng cây đậu phủ đất, luân canh thích hợp nhất tại địa phương; 7) Dùng thuốc diệt cỏ, tấm phủ đất để kiểm soát cỏ dại kết hợp bón thúc sớm và chuyển vụ; 8) Kỹ thuật làm đất trồng sắn thích hợp để kiểm soát xói mòn đất; 9) Phát triển hệ thống quản lý nước cho canh tác sắn; 10) Đào tạo huấn luyện bảo tồn phát triển sắn bền vững, sản xuất kết hợp sử dụng sắn; xây dưng chuỗi sản xuất tiêu thụ sắn hiệu quả thích hợp. Quy trình canh tác sắn này của Việt Nam đã được công bố tại Hội thảo Cây Có Củ Thế Giới tổ chức tại Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc ngày 18 tháng 1 năm 2016 (Le Huy Ham et al. 2016) [23] https://youtu.be/81aJ5-cGp28
3) Xây dựng vườn tạo dòngcủa 5 tổ hợp sắn lai ưu tú nhất của tiến bộ di truyền hiện nay trong nguồn gen giống sắn tuyển chọn Thế giới và Việt Nam (Hình 3) là giải pháp căn bản, trọng tâm, thường xuyên và lâu dài để xây dựng tiềm lực khoa học chọn giống sắn tại vùng sắn trọng điểm, đi đôi với việc đào tạo nguồn nhân lực, tạo sản phẩm nổi bật, nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của cây sắn ở mức quốc gia và khu vực.
5)Bảo tồn và phát triển hệ thống sản xuất tiêu thụ sắnthích hợp bền vững: Gắn vùng giống sắn tốt, có năng suất tinh bột cao, kháng các bệnh hại chính CMD, CWBD, với các doanh nghiệp nhà nông, phục vụ nông nghiệp; Liên kết hổ trợ nông dân tổ chức sản xuất kinh doanh sắn theo chuỗi giá trị sắn; Đa dạng hóa sinh kế, gắn cây sắn với các cây trồng và vật nuôi khác; Tăng cường năng lực liên kết tiếp thị; có các chính sách hỗ trợ cần thiết.
THÀNH TỰU VÀ BÀI HỌC SẮN VIỆT NAM
Cách mạng sắn Việt Namhttps://youtu.be/81aJ5-cGp28, là điểm sáng toàn cầu được vinh danh tại Hội thảo Cây Có Củ Thế Giới tổ chức tại Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc từ ngày 18 đến ngày 22 tháng 1 năm 2016. Sắn Việt Nam giai đoạn 2016-2021 tóm tắt đánh giá thực trạng sắn về điểm mạnh, điểm yều, cơ hội, thách thức (SWOT) trong bối cảnh dịch bệnh sắn CMD và CWBD, khái quát những điểm chính sau:
Bối cảnh dịch bệnh sắn CWBD và CMD
Dịch bệnh chồi rồng (CWBD) gây hại sắn Việt Nam rãi rác từ năm 2005-2008, và bùng phát thành dịch bệnh ở Quảng Ngãi năm 2009 (Báo Nhân Dân 2009) [1], Dịch bệnh này sau đó trở nên nghiêm trọng ở Việt Nam, chủ yếu trên giống sắn KM 94. Năm 2008, giống sắn KM94 là giống sắn chủ lực Việt Nam có diện tích thu hoạch chiếm 75, 54% tổng diện tích sắn Việt Nam (Hoang Kim Nguyen Van Bo et al. 2011) [10]. Đến năm 2016, tỷ trọng diện tích thu hoạch giống sắn KM94 chiếm 31,8 %, trong khi giống sắn KM419 chiếm 38%. (RTB Newsletter 2016. Assessment reveals that most cassava grown in Vietnam has a CIAT pedigree) [25]. Năm 2019, giống sắn KM419 chiếm trên 42% tổng diện tích sắn toàn Việt Nam. Nguyên nhân của sự chuyển dịch này là do giống sắn KM94 cây cao, mật độ trồng thưa (10.000 -11.000 cây/ ha), thời gian sinh trưởng dài, nhiễm nặng (cấp 4) bệnh chổi rồng. Giống sắn KM419, cây thấp, mật độ trồng dày (14.500 cây/ha), thời gian sinh trưởng ngắn, nhiễm nhẹ bệnh chổi rồng (cấp 1), năng suất tinh bột vượt KM94 khoảng 29%.
Bệnh virus khảm lá (CMD) gây hại ban đầu từ tỉnh Tây Ninh (2017) lan rộng trên 15 tỉnh thành Việt Nam (2018) và 18 tỉnh thành Việt Nam (2019) gây hại nghiêm trọng trên giống sắn HLS11. Chương trình sắn Quốc tế ACIAR, CIAT kết nối Mạng lưới sắn toàn cầu GCP21 và các chương trình sắn Quốc gia gồm Căm pu chia, Lào, Thái Lan, Việt Nam, tại Hội nghị sắn Quốc tế lần thứ IV, ngày 11-15 tháng 6 năm 2018 tại Benin, và Hội thảo sắn khu vực ngày 18 tháng 9 năm 2018 tại Phnôm Pênh, Campuchia và Tây Ninh Việt Nam đã báo cáo tình trạng dịch bệnh virus khảm lá sắn (CMD) gần đây ở Đông Nam Á và phối hợp chiến lược phòng trừ dịch bệnh CMD. Những kết quả giám sát dịch bệnh đã được đúc kết thông tin tại Hội thảo sắn Quốc tế tại Lào (2019), Ấn Độ (2021) xem tiếp Sắn Việt Nam ngày nayhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/san-viet-nam-ngay-nay
Thành tựusắn Việt Nam
Sắn Việt Nam ngày nay đã là một ngành xuất khẩu đầy triển vọng. Ở Việt Nam, sắn là cây lương thực với diện tích hơn nửa triệu ha và giá trị xuất khẩu hơn một tỷ đô la Mỹ mỗi năm. Cách mạng sắn Việt Namhttps://youtu.be/81aJ5-cGp28, với sự tham gia của hàng triệu nông dân trồng sắn Việt Nam, đã thực sự đạt được sự chuyển đổi to lớn cây sắn và ngành sắn về năng suất, sản lượng, giá trị sử dụng, hiệu quả kinh tế, thu nhập thực tế, sinh kế, việc làm và bội thu giá trị lao động sống ngành sắn cho hàng triệu người dân trên toàn quốc. Sắn Việt Nam ngày nay đã và đang tiếp tục làm cuộc cách mạng xanh mới.tiếp tục lan tỏa thành quả điển hình của sắn thế giới khi nhiều hộ nông dân tại nhiều vùng rộng lớn ở Tây Ninh đã tăng năng suất sắn trên 400%, từ 8,35 tấn/ ha năm 2000 lên trên 36,0 tấn/ ha. (FAO, 2013b). Năng suất sắn Việt Nam bình quân cả nước từ năm 2009 đến nay (2021) đã đạt trên gấp đôi so với năng suất sắn năm 2000. Điển hình tại Tây Ninh, từ năm 2011 năng suất sắn đã đạt bình quân 29,0 tấn/ ha trên diện tích thu hoạch 45,7 nghìn ha với sản lượng là 1,32 triệu tấn, so với năm 2000 năng suất sắn đạt bình quân 12,0 tấn/ ha trên diện tích thu hoạch 8,6 nghìn ha, sản lượng 9,6 nghìn tấn. Sắn lát và tinh bột sắn Việt Nam đã trở thành một trong mười mặt hàng xuất khẩu chính. Sắn Việt Nam đã thành nguồn sinh kế, cơ hội xóa đói giảm nghèo và làm giàu của nhiều hộ nông dân, hấp dẫn sự đầu tư của nhiều doanh nghiệp chế biến kinh doanh; Thông tin tại “Cassava conservation and sustainable development in Vietnam” (Hoàng Kim et al. 2018, 2015) [7], Trong sách: Sản xuất sắn bền vững ở châu Á đối với nhiều mục đích sử dụng và cho nhiều thị trường. Reihardt Howeler (biên tập) và nhiều tác giả, CIAT 2015. Sách Vàng nghề sắn)
Sắn Việt Nam ngày nay thành tựu nổi bật
Thành tựu sắn Việt Nam thể hiện trên 6 điểm chính :1) Giống sắn chủ lực và phổ biến ngày nay ở Việt Nam; 2) Quy trình canh tác sắn thích hợp tại mỗi điều kiện sinh thái nền tảng phát triển trên 3) Mười kỹ thuật thâm canh sắn;4) Hệ thống sản xuất chế biến tiêu thụ sắn; 5) Hệ thống giáo dục đào tạo và khuyến nông; 6) Hệ thống quản lý nhà nước, hổ trợ liên kết chuỗi giá trị ngành hàng sắn và xây dựng nông thôn mới
2)Mười kỹ thuật thâm canh sắn bảo tồn và phát triển sắn bền vững; Cây sắn Việt Nam ngày nay, giải pháp chủ yếu ngăn chặn lây lan dịch bệnh CWBD và CMD là phòng trừ tổng hợp: sử dụng giống sắn KM419, KM440, KM397, KM140, KM98-1, … ít nhiễm bệnh hơn so với KM94 và dùng nguồn giống sạch bệnh; vệ sinh đồng ruộng, tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời; diệt rầy lá, rầy thân, nhện đỏ, rệp sáp và các loại côn trùng lây lan bệnh; cần chăm sóc sắn tốt, bón phân và làm cỏ 3 lần để tăng sức đề kháng cho cây, bố trí mùa vụ thích hợp để hạn chế dịch hại; tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời khi bệnh xuất hiện. [11] https://hoangkimlong.wordpress.com/category/muoi-ky-thuat-tham-canh-san/
3)Hệ thống sản xuất chế biến tiêu thụ sắn Việt Nam ngày nay là khá tốt và năng động, có nhiều điển hình doanh nghiệp chế biến kinh doanh giỏi, hiệu quả;
4)Hệ thống giáo dục đào tạo và khuyến nông, dạy và học cây sắn đã tập huấn kỹ thuật, bổ sung tăng cường nguồn lực kỹ thuật, khoa học, công nghệ thích hợp cho ngành sắn.
5)Hệ thống quản lý nhà nước, hổ trợ liên kết chuỗi giá trị ngành hàng sắn, phát triển nông thôn mới,đã có sự liên kết chương trình sắn liên vùng, hợp tác quốc tế với sự sâu sát thực tiễn và hiệu quả. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã có công văn cấm sử dụng giống sắn HLS11 mẫn cảm bệnh virus khảm lá CMD; Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn, Cục Bảo vệ Thực vật số 1068/ BVTV TV ngày 3 tháng 5 năm 2019 đã xác định “V/v sử dụng giống sắn KM419 trong sản xuất” ghi rõ.“Việc hướng dẫn nông dân mua giống sắn KM419 sạch bệnh là giải pháp an toàn, kinh tế nhất so với thực trạng nhiễm bệnh khảm lá sắn hiện nay”. Chương trình sắn Quốc tế ACIAR CIAT cũng xác định giống sắn KM98-1 canh tác phổ biến nhất ở Lào.
Bài học một: 6 M. 1) Man Power Con người 2) Market Thị trường 3) Materials Giống mới, Công nghệ mới 4) Management Quản lý và Chính sách 5) Methods Phương pháp tổ chức thực hiện 6) Money Tiền.
Bài học hai: 10 T 1) Thử nghiệm (Trials); 2) Trình diễn (Demonstrations); 3) Tập huấn (Training); 4) Trao đổi (Exchange); 5)Thăm viếng (Farmer tours); 6) Tham quan hội nghị đầu bờ (Farmer field days); 7) Thông tin tuyên truyền (Information, propaganda; 8) Thi đua (Competition); 9) Tổng kết khen thưởng (Recognition, price and reward); 10) Thành lập mạng lưới nông dân giỏi (Establish good farmers’ network.
Bài học ba: 1F Nông dân tham gia nghiên cứu (Farmer Participatory Research – FPR)
Sắn Việt Nam ngày nay có thêm hai bài học nối tiếp
Bài học bốn “Nhận diện rủi ro bất cập”
1) Quản lý dịch bệnh hại và giống sắn. Giải pháp giám sát sự lây lan bệnh CMD lúc đầu còn lúng túng chậm trễ. Việc hủy bỏ giống HLS11.cây cao, vỏ củ nâu đỏ, bệnh CMD mức 5 rất nặng) vì sự lẫn giống đã giảm nhân giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao, cây thấp, vỏ củ xám trắng, nhiễm bệnh virus khảm lá CMD mức 2-3 (Hình 4, 5). Sản xuất sắn Tây Ninh lẫn giống sắn chưa có nguồn gốc lý lịch đặc điểm giống phù hợp và thiếu hồ sơ chọn tạo [2] trong khi các giống sắn KM440, KM140, đã có đủ hồ sơ gốc DUS và VCU (Hoang Kim et al. 2018; 2015 [7]; Trần Công Khanh [25], Hoàng Kim và đồng sự 2007, 2010 [27], Nguyễn Thị Trúc Mai 2017[11, 12,13, 14, 15], Nguyễn Bạch Mai 2018 [16] Hoàng Long [17,18,19])
2) Bảo vệ đất rừng, đất dốc trồng sắn và xử lý thực tiễn các vấn đề liên quan kỹ thuật canh tác sắn. Sách sắn “Quản lý bền vững sắn châu Á từ nghiên cứu đến thực hành” của tiến sĩ Reinhardt Howeler và tiến sĩ Tin Maung Aye, người dịch Hoàng Kim, Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Bạch Mai [ 20, 21] gồm 13 chương có chương 12 “Làm thế nào để chống xói mòn đất” đã đề cập chi tiết kỹ thuật canh tác trên đất dốc trồng sắn; chương 6 “Sâu bệnh hại sắn và cách phòng trừ” có hướng dẫn biện pháp phòng trừ tổng hợp đối với bệnh CWBD, CMD, trọng điểm là sử dụng hom giống sạch bệnh của giống kháng và giống chống chịu CWBD, CMD kết hợp sự tiêu hủy nguồn bệnh và kiểm dịch thực vật nghiêm ngặt . Sách này là cẩm nang nghề sắn “thay cho những lời khuyên tốt nhất hiện có về kỹ thuật canh tác sắn sau hơn 50 năm kinh nghiệm thực tiễn kết hợp nghiên cứu và làm việc với nông dân để thấu hiểu những thách thức thực tế cuộc sống và cơ hội mà họ phải đối mặt”.
3) Chế biến kinh doanh sắn Các nhà máy ethanol Việt Namđầu tư lớn và lỗ; Nhà máy ethanol hoạt động khó khăn. Trong khi trên thế giới ngày nay, cạnh tranh nhiên liệu thực phẩm thức ăn chăn nuôi và các tác động tiềm tàng đối với các hệ thống canh tác năng lượng – cây trồng quy mô nhỏ, đã có rất nhiều sáng tạo tiến bộ khoa học công nghệ mới (John Dixon, Reinhardt Howeleret al. 2021). Sắn Nigeria sản lượng 52,4 triệu tấn năng suất sắn chỉ đạt 14,02 tấn/ha (thấp hơn sắn Việt Nam) nhưng từ năm 2011 đã có thành tựu “bếp cồn sắn” cho toàn quốc, dành được lượng lớn xăng dầu cho xuất khẩu.
4) Quản lý vĩ mô ngành hàng sắn còn bất cập đặc biệt là trong dịch bệnh Covid19
Phú Yên là điểm sáng điển hình, nôi bảo tồn sắn và phát triển bền vững ở Việt Nam. Giống sắn KM419 là giống sắn chủ lực và KM440 là một trong những giống sắn triển vọng nhất của sắn Việt Nam ngày nay. Hai giống có năng suất tinh bột cao, ít bệnh, là lựa chọn của đông đảo nông dân sau áp lực nặng của bệnh khảm lá CMD và chổi rồng CWBD. https://youtu.be/XDM6i8vLHcI và https://youtu.be/kjWwyW0hkbU
Sắn là cây trồng chủ lực của tỉnh Phú Yên với lúa và mía. Sắn Phú Yên có lợi thế đầu tư tái cơ cấu theo hướng gia tăng giá trị, sản xuất tập trung, quy mô lớn và bền vững hiện nay với tầm nhìn đến năm 2030. Tỉnh Phú Yên có hai nhà máy sản xuất tinh bột sắn ở Sông Hinh và Đồng Xuân hiện đã nâng cấp lên trên 670 tấn tinh bột/ngày Xây dựng vùng nguyên liệu sắn ổn định đạt năng suất cao, bền vững là nhu cầu sống còn của nhà máy, sinh kế và thu nhập chính của nông dân, nguồn lợi của ngân sách.
Quan tâm tiến bộ kỹ thuật cây sắn là trọng tâm kinh tế và an sinh xã hội tại địa phương. Việc nghiên cứu tuyển chọn, ứng dụng giống sắn mới và áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác tiến bộ có ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan trọng tại tỉnh Phú Yên, tạo hướng đi mới để thay đổi cách thức tổ chức sản xuất nông nghiệp, tìm cơ hội trong thách thức cho nông sản chủ lực của tỉnh.
Hiện nay giống sắn KM419 là giống chủ lực trong cơ cấu bộ giống sắn của tỉnh Phú Yên..”Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên” là sự tiếp nối của đề tài “Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao và kỹ thuật thâm canh tại tỉnh Phú Yên“ đã thành công.. Đề tài đã đạt giải Nhất Hội thi sáng tạo kỹ thuật lần thứ 8 (2018-2019). Năm 2020 tiến sĩ Nguyễn Thị Trúc Mai, là tác giả trong nhóm nghiên cứu của đề tài, đã được tôn vinh “Nhà khoa học của nhà nông“, nhận Bằng khen và Cúp của Trung ương Hội Nông dân Việt Nam (Tạp chí Nông thôn mới 2021).
”Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên” là khâu đột phá cấp thiết và hiệu quả nhất (Kawano K (1995) [22] để tiếp nối sự bảo tồn và phát triển sắn bền vững.Nội dung nghiên cứu gồm 1) Cải tiến nâng cấp giống sắn chủ lực sản xuất KM419 (Thu hạt lai tạo dòng KM419 và C39, KM440, KM397, KM94; Xây dựng vườn tạo dòng 5 tổ hợp sắn lai ưu tú; Khảo sát tập đoàn 27 giống sắn tuyển chọn); Khảo nghiệm DUS giống sắn tác giả cho 7 giống sắn). 2) Tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao, chống chịu sâu bệnh hại chính, thích hợp điều kiện sản xuất của tỉnh Phú Yên (Khảo nghiệm cơ bản 7 giống sắn; Khảo nghiệm sản xuất 5 giống sắn) 3) Xây dựng mô hình trình diễn và thiết lập vùng giống sắn gốc các giống sắn tốt; Chuyển giao công nghệ mới về giống sắn, kỹ thuật chọn tạo giống sắn.
Giống lúa siêu xanh GSR65 Nguồn gốc giống: Giống lúa GSR65 có nguồn gốc từ giống lúa Huang Hua Zhang (HHZ) cải tiến HHZ5-DT11-SAL2-7, được lai tạo và nhập nội nguồn gen từ chương trình chọn tạo giống lúa siêu xanh (GSR) của Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) với Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc (CAAS). Giống lúa GSR65 được Mạng lưới Nghiên cứu Lúa Siêu Xanh Việt Nam tuyển chọn và phát triển thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu tại Việt Nam (Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long và ctv. 2018a, Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long và ctv. 2018b; Hoang Long et al. 2015). Giống lúa siêu xanh GSR 65 đã được tuyển chọn qua bảy vụ tại Phú Yên với sáu khảo nghiệm cơ bản (12 giống lúa trong ba vụ tại hai điểm); bốn khảo nghiệm sản xuất (5 giống lúa tuyển chọn trong hai vụ tại hai điểm), bốn trình diễn xây dựng mô hình sản xuất thử (trong hai vụ tại hai điểm). Giống lúa GSR65 đang được Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Yên chủ trì phối hợp với Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại Học Nông Lâm Huế, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Sóc Trăng, Viện Hàn Lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc lập hồ sơ công nhận giống lúa mới.
Đặc điểm giống: Giống lúa siêu xanh GSR65 năng suất cao chất lượng tốt thích hợp vùng thâm canh và vùng mặn, vùng hạn. Giống có thời gian sinh trưởng 95 – 100 ngày đối với lúa sạ và 100 – 105 ngày khi cấy. Giống có chiều cao cây 98 – 100 cm. Giống có 336 – 354 bông/m2, trọng lượng 1000 hạt khoảng 24 – 25g. Tỷ lệ gạo lật, tỷ lệ gạo xát và tỷ lệ gạo nguyên đều đạt tốt, chất lượng gạo loại 1. Giống GSR65 đạt mức protein cao trên 7%, có hàm lượng amylose trung bình, có mùi thơm và cơm ngon. Giống có đặc điểm nông sinh học tốt dạng hình lúa siêu xanh, bộ lá xanh lâu bền (điểm 1), thấp cây (điểm 1), cứng cây không đổ ngã (điểm 1), độ thoát cổ bông cao (điểm 1), dạng hạt gạo thon dài. Giống GSR65 kháng vừa rầy nâu, có phản ứng nhiễm vừa với bệnh đạo ôn hại lúa. Giống lúa GSR65 tại Phú Yên trong khảo nghiệm cơ bản đạt năng suất thực thu bình quân là 8,70 tấn/ ha vượt 30,12% so với đối chứng ML48 đạt 6,69 tấn/ha, trong mô hình trình diễn khảo nghiệm sản xuất thử đạt năng suất thực thu bình quân là 7,98 tấn/ ha vượt 11,92% so với đối chứng ML48 đạt 71,3 tạ/ha
Giống lúa siêu xanh GSR90 Nguồn gốc giống: Giống lúa GSR90 được lai tạo từ tổ hợp OM9921x GSR38 thực hiện tại Việt Nam (GSR38 có nguồn gốc là giống lúa Huang Hua Zhang (HHZ) cải tiến HHZ5-Y7-Y3 nhập nội từ chương trình chọn tạo giống lúa siêu xanh (GSR) của Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) với Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc (CAAS). Giống lúa GSR90 được Mạng lưới Nghiên cứu Lúa Siêu Xanh Việt Nam lai tạo, tuyển chọn và phát triển thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu tại Việt Nam (Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long và ctv. 2018a, Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long và ctv. 2018b; Hoang Long et al. 2015). Giống lúa siêu xanh GSR 90 đã được tuyển chọn qua bảy vụ tại Phú Yên với sáu khảo nghiệm cơ bản (12 giống lúa trong ba vụ tại hai điểm); bốn khảo nghiệm sản xuất (5 giống lúa tuyển chọn trong hai vụ tại hai điểm), bốn trình diễn xây dựng mô hình sản xuất thử (trong hai vụ tại hai điểm). Giống lúa GSR90 đang được Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Yên chủ trì phối hợp với Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửa Long, Trường Đại Học Nông Lâm Huế, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Sóc Trăng, Viện Hàn Lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc lập hồ sơ công nhận giống lúa mới tại Việt Nam.
Đặc điểm giống: Giống lúa siêu xanh GSR90 năng suất cao chất lượng tốt thích hợp vùng thâm canh và vùng mặn, vùng hạn. Giống có thời gian sinh trưởng khoảng 99 – 102 ngày đối với lúa sạ và 101 – 105 ngày khi cấy. Giống có chiều cao cây 103 – 105 cm. Giống có 309 – 351 bông/m2 trọng lượng 1000 hạt khoảng 28 – 29 g. Tỷ lệ gạo lật, tỷ lệ gạo xát và tỷ lệ gạo nguyên đều đạt tốt, chất lượng gạo loại 1. Giống GSR90 đạt mức protein cao trên 7%, có hàm lượng amylose trung bình, có mùi thơm và cơm ngon. Giống có đặc điểm nông sinh học tốt dạng hình lúa siêu xanh, bộ lá xanh lâu bền (điểm 1), thấp cây (điểm 1), cứng cây không đổ ngã (điểm 1), độ thoát cổ bông cao (điểm 1), dạng hạt gạo thon dài. Giống GSR90 ít sâu bệnh hại ngoài đồng ruộng, kháng vừa rầy nâu, có phản ứng nhiễm bệnh đạo ôn hại lúa. Giống lúa GSR90 tại Phú Yên trong khảo nghiệm cơ bản đạt năng suất thực thu bình quân là 8,36 tấn/ha vượt 25,01% so với đối chứng ML48 đạt 6,69 tấn/ha; trong mô hình trình diễn khảo nghiệm sản xuất thử đạt năng suất thực thu bình quân là 8,17 tấn/ ha vượt 14,58% so với đối chứng ML48 đạt 7,13 tấn/ha.
Thông tin tại: 1) Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Văn Minh, Đặng Văn Mạnh, Ngô Thị Bích Diễm, Lê Thanh Tùng, Hoàng Kim, Tian Qing Zheng, Zhikang Li. 2018. Nghiên cứu hai giống lúa siêu xanh GSR65, GSR90 năng suất cao, chất lượng tốt và quy trình kỹ thuật thâm canh lúa thích hợp tại cánh đồng Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên (Two Green Super Rice varieties GSR65, GSR90 with high productivity and quality and appropriate technical process of cultivation in the Tuy Hoa fields, Phu Yen province) Trong sách: Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Tạp chí Khoa học và Công nghệ. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, số 10, trang 47- 55; Science and Technology Journal of Agriculture & Rural Development , MARD, No 10, p. 47-55, ISSN0866-7020 ; 2) Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Phạm Thị Thỏa, Đàm Thanh Tồn, Hoàng Kim 2018. Tuyển chọn giống lúa siêu xanh năng suất cao chất lượng tốt thích ứng điều kiện biến đổi khí hậu ở tỉnh Phú Yên (Phần 2). Selection of Green Super Rice (GSR) with high yield, good qualities, and adaptation to climate condition in Phu Yen province (Part Two). Trong sách:Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển, JAD Tập 17 Số 4, 15-24 (2018) Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh pISSN 2615-9503 ∗ eISSN 2615949X ; 3) Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Phạm Thị Thỏa, Đàm Thanh Tồn, Hoàng Kim 2018. Tuyển chọn giống lúa siêu xanh năng suất cao chất lượng tốt thích ứng điều kiện biến đổi khí hậu ở tỉnh Phú Yên (Phần 1) Selection of Green Super Rice (GSR) with high yield, good qualities, and adaptation to climate condition in Phu Yen province (Part one). Trong sách: Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển, JAD Tập 17 Số 4, 15-24 (2018) Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh pISSN 2615-9503 ∗ eISSN 2615949X
Lúa Siêu Xanh Việt Nam giống tốt và kỹ thuật thâm canh là khâu trọng yếu, đầu tiên để cải tiến chuỗi giá trị sản phẩm lúa gạo Việt Nam, bảo tồn và phát triển bền vững ngành lúa gạo, thích ứng với biến đổi khí hậu, thích hợp với các vùng sinh thái nông nghiệp Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ Việt Nam khẳng định tầm nhìn, cơ chế, chính sách mới nhằm khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn tại Nghị định 57/2018 / ND-CP. Theo đó, trục sản phẩm chính nhắm đến các sản phẩm chính quốc gia, trong khi lúa gạo vẫn tiếp tục là ngành chính của nông nghiệp Việt Nam, giá đỡ của an sinh xã hội và phát triển kinh tế, là sinh kế chính của vùng nông thôn rộng lớn, lao động và việc làm. Chuỗi giá trị sản phẩm lúa gạo ở cấp tỉnh cần đủ lớn, liên kết các khu vực nguyên liệu thô với các thương hiệu, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao và đào tạo nguồn nhân lực. Mục tiêu hướng tới sự đáp ứng tốt nhất chất lượng cuộc sống của người lao động, đạt hiệu quả cao trong tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường, tiến bộ và công bằng xã hội. Mục đích của tài liệu này là nhằm cung cấp thông tin về các kết quả nghiên cứu đã được xác định rõ ràng để giúp người nông dân nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất lúa gạo đi đôi với việc bảo vệ đất đai và môi trường. Tài liệu được thiết kế như một cẩm nang nghề lúa gạo cần thiết cho các nhà nghiên cứu, cán bộ khuyến nông, cán bộ tổ chức phi chính phủ làm việc về phát triển nông nghiệp, cũng như các hộ nông dân trồng lúa quy mô nông hộ sản xuất lớn và nhỏ. Tài liệu nhằm cung cấp một thông tin tham khảo kỹ lưỡng về thực hành sản xuất lúa thân thiện môi trường. Từ việc trình bày ngắn gọn tầm quan trọng lúa gạo trên thế giới và Việt Nam; sản xuất tiêu thụ lúa gạo trên thế giới và Việt Nam; thành phần dinh dưỡng và giá trị kinh tế lúa gạo; nguồn gốc vùng phân bố và phân loại cây lúa; Sinh học cây lúa: Đặc điểm thực vật học cây lúa (rễ, thân, lá, hoa, hạt) Các giai đoạn sinh trưởng phát triển của cây lúa Đặc điểm sinh lý của ruộng lúa năng suất cao; Khí hậu và đất lúa, tầm quan trọng của nó trong khu vực để đề xuất chi tiết về quản lý đất nước và cây trồng, giống mới và kỹ thuật thâm canh lúa. Tài liệu mỏng này cung cấp một bằng chứng thực nghiệm mạnh mẽ của chính tác giả và đồng sự sau mười năm nghiên cứu ứng dụng lúa siêu xanh (Green Super Rice) vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp Việt Nam, với một số kết quả bước đầu đã được xác định để tiếp tục sự nghiên cứu, giảng dạy, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới, bảo tồn phát triển lúa siêu xanh Việt Nam cho thương hiệu gạo Việt. Kính chúc bà con nông dân những mùa thu hoạch bội thu.
Anh Nam Sinh Đoàn viết : “Ngoài đồng giống lúa không thuần, nhà nông lười khử giống bị lẫn, giống dại. Cộng với nhà lái mua vào để lẫn, hoặc cố tình pha lẫn lấy lời. Ai đời trộn lẫn hột dài với hột hơi tròn, gạo dẽo với gạo cứng cơm, gạo cũ với gạo mới, … Chính vì vậy mà nồi cơm nào cũng chỗ nhão chỗ khô, hạt mềm nhẽo cạnh hạt còn tim bột. (Chưa kể phun thêm hương liệu, chất chống mốc mọt,…thay đổi cả đặc tính hạt gạo khi đun nấu). Nhiều năm làm lúa với anh Hồ Quang Cua, mới có dịp học hỏi về việc làm giống, giữ đặc trạng của từng giống, cách thức trồng trọt – thu hoạch – tồn trữ – xay xát – lựa lọc – bao bì,…cả chục việc đòi hỏi phải chắc tay. Thế mà khi thí nghiệm trên bàn của nhóm chuyên gia còn lòi ra bao thứ khác: thời gian ngâm, tỉ lệ nước, thời gian đun và cách đun nấu, … Ví dụ, với cùng một thứ gạo, nhưng có dòng nở ít, thì chỉ 70-71% nước. Loại nào nở cơm thì ngâm trước 15 phút, loại nở búp chỉ cần mươi phút là được. Lại còn tùy loại gạo, để ăn xào với rau, gia vị cho có màu mùi như kiểu châu Âu thì nấu bằng nồi hơi như nồi hong. Để còn làm cơm xào, cơm chiên thì chớ ngâm nhiệt, tức là ngâm gạo, đun nước vừa nóng chừng 50 độ hãy cho gạo vào theo đúng tỉ lệ, mới đạt yêu cầu. Câu nói: Cơm lành canh ngọt tưởng dễ mà khó thay”. Tôi (Hoàng Kim) trả lời: Thưa anh, xin hãy nhìn tấm ảnh, từ hạt gạo đến bát cơm chỉ là một phần ngắn trong chuỗi “hoa lúa, bùn, hột lúa, cây lúa, hạt gạo, bát cơm”. Hai khâu khó nhất và nhọc nhằn nhất là hoa lúa và bùn. Mời đọc bài tiếp nối Từ Sắn Việt Nam đến Lúa Siêu Xanh; Lúa Siêu Xanh Việt Nam
Thích ứng cây trồng trước biến đổi khí hậu
Báo Nhân Dân: Biến đổi khí hậu (BĐKH) đang diễn ra ngày càng khốc liệt, đe dọa an ninh lương thực và có tác động toàn diện đến sự phát triển bền vững của đất nước. Để ứng phó, giảm nhẹ tác động tiêu cực của BĐKH lên sản xuất nông nghiệp, thích ứng cho cây trồng là biện pháp, hướng mở có ý nghĩa rất quan trọng và hiệu quả. (xem tiếp…)
Sau bảy năm (2012-2018) đánh giá và tuyển chọn giống lúa siêu xanh (GSR Green Super Rice) Việt Nam, ngày 24 tháng 5 năm 2018 tại Viện Khoa học Cây trồng, Viện Hàn lâm Nông nghiệp Trung Quốc (CAAS) tiến sĩ Hoàng Kim đã gặp Giáo sư tiến sĩ Zhikang Li và Phó Giáo sư tiến sĩ Tian-Qing Zheng trưởng dự án lúa toàn cầu IRRI CAAS để trao đổi kế hoạch hợp tác Lúa Siêu Xanh Việt Nam kết nối CAAS IRRI trong việc đánh giá mở rộng các giống lúa tốt thích nghi biến đổi khí hậu có chất lượng ngon, năng suất cao, ngắn ngày, chống chịu sâu bệnh chính, thích hợp vùng thâm canh vùng mặn vùng hạn và đào tạo nguồn lực giảng dạy nghiên cứu phát triển. Do tình hình dịch bệnh, nên các trao đổi lúa siêu xanh toàn cầu hướng về giải pháp trực tuyến và nổ lực mỗi bên là chính.
Bài này là tóm tắt thông tin Lúa siêu xanh Việt Nam.
Kim Dung là nhà văn có tầm ảnh hưởng lớn nhất của văn học Trung Quốc hiện đại . Ông là một trí tuệ lớn. Kim Dung thích ai nhất trong tác phẩm của chính ông? Kim Dung thích nhất nhân vật Hoàng Lão Tà, Quách Tương và Đoàn Dự. Ông tâm đắc nhất tác phẩm Thiên Long bát bộ và Lộc Đỉnh Ký. Tuyệt kỹ một đời không nhìn vào danh tiếng mà nhìn vào thực chất. Vô chiêu thắng hữu chiêu. Phim chuyển thể tác phẩm ông ưng ý nhất là “Thần điêu đại hiệp”.Kim Dung sinh ngày 10 tháng 3 năm 1924 nhằm ngày 6 tháng 2 năm Giáp Tý. Kim Dung mất buổi chiều 30 tháng 10 năm 2018 tại một bệnh viện ở Hong Kong do tuổi cao, hưởng thọ 94 tuổi. Kim Dung trong ngày mới; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/kim-dung-trong-ngay-moi/
Kim Dung sinh tại Haining, Gia Hưng, Trung Quốc, tên thật là Tra Lương Dung (Louis Cha Leung-yung) thường được biết đến với tên bút danh quen thuộc là Kim Dung (Jin Yong). Ông là một tiểu thuyết gia và nhà viết tiểu thuyết Trung Hoa đồng sáng lập Minh Báo là tờ báo hàng ngày của Hồng Kông từ năm 1959 và là tổng biên tập đầu tiên của tờ báo này. Ông là nhà văn danh tiếng châu Á và Thế giới , được coi là nhà văn nổi tiếng nhất Trung Quốc và Hồng Kông thời hiện tại Tên ông được đặt cho tiểu hành tinh 1998 CR2 được tìm thấy trùng với ngày sinh âm lịch của ông. Tháng 2 năm 2006, ông được độc giả bầu chọn là nhà văn được yêu thích nhất Trung Quốc. Kim Dung với kiệt tác nổi tiếng “Tuyết Sơn phi hồ” đã được Trung Quốc đưa vào sách giáo khoa môn ngữ văn từ ngày 1 tháng 9 năm 2007, thế chỗ cho “AQ chính truyện” của Lỗ Tấn là tác phẩm đã ngự trị văn đàn Trung Hoa từ nhiều năm nay. Hầu hết chuyên gia ngữ văn Trung Quốc đều cho rằng việc xem nhẹ cổ văn là sai lầm và không thể chấp nhận được cần kíp phải bảo lưu tinh hoa văn học cổ. Dòng văn học thông tục giải trí kiểu fast food tuy không thể thay thế dòng văn hóa kinh điển uyên thâm bác học chủ lưu nhưng vấn đề cốt lõi là cần phải thay đổi nhận thức lý do trào lưu văn hóa lớp trẻ yêu thích hiệu quả thực dụng. Vì vậy mô thức dạy và học kiểu mới cũng như thể chế thi cử cần đổi mới để nâng cao chất lượng văn hóa giáo dục hiện đại thích ứng với tình thế mới. Kim Dung trong ngày mới thể hiện trào lưu văn hóa đó cần phải nghiên cứu, học tập và vận dụng thích hợp.
Triết học Trung Hoa tinh hoa cổ điển tôn thờ những hình tượng điển hình Nghiêu Thuấn, Lão Trang, Khổng Tử, Khổng Minh, Quan Công là những khuôn mẫu tiêu biểu của nhân nghĩa lễ trí tín. Đến thời cách mạng Tân Hơi và thời kỳ đầu của cách mạng văn hóa Trung Quốc lại nghiêng về sự cười nhạo những đặc tính phổ biến căn bản làm kìm hãm sự thoát xác của đất nước Trung Hoa mới cần phải cách mạng sửa đổi. Đó là hình tượng “AQ chính truyện” và “Nhật ký người điên” của đại văn hào Lỗ Tấn xác định ‘tâm bệnh của người Trung Quốc” cần phải chữa trị thay thế là gì. Cho đến nay thì hình tượng của Hồ Phỉ trong “Tuyết Sơn phi hồ” và hình tượng của Vi Tiểu Bảo trong “Lộc Đỉnh Ký” của đại văn hào Kim Dung là sự ngấm ngầm hoặc công khai yêu thích rất phổ biến của giới trẻ Trung Quốc. Đó là những cảnh báo đặc biệt sâu sắc không dễ thấy về một sự chuyển đổi tâm lý và hình mẫu biểu tượng người Trung Quốc mới được văn học hóa.
KIM DUNG NHỮNG KIỆT TÁC LẮNG ĐỌNG
Kim Dung có 15 kiệt tác lắng đọng, nổi tiếng nhất là Thiên long bát bộ, Lộc Đỉnh ký, Tuyết Sơn phi hồ, Hiệp khách hành, Tiếu ngạo giang hồ, Anh hùng xạ điêu, Ỷ Thiên Đồ Long ký, Thần Điêu đại hiệp, Thư kiếm ân cừu lục, Bích huyết kiếm … đọc say mê như có ma lực. Những sách này đều đã được chuyển thể thành phim. Dịch giả Vũ Đức Sao Biển với “Kim Dung giữa đời tôi” đã cung cấp một tầm nhìn khái quát về các tác phẩm trên. Đỗ Long Vân với loạt bài Vô Kỵ giữa chúng ta hay là hiện tượng Kim Dung là một chuyên luận sâu sắc. Một loạt các dịch giả tài năng và nhà văn tên tuổi như Hàn Giang Nhạn, Vũ Đức Sao Biển, Cao Tự Thanh, Lê Khánh Trường, Đông Hải, Huỳnh Ngọc Chiến, Nguyễn Duy Chính, Bùi Giáng, Bửu Ý đã khai mở và giới thiệu sách hay của Kim Dung liên tục trong nhiều năm, Đặc biệt là Công ty sách phương Nam đã đưa Kim Dung đến rất gần gũi với người đọc Việt. Bạn Cà phê Sách Xóm Lá có bài “Tản mạn chuyện Kim Dung ” đọc rất thích với sự giao hòa và đồng cảm sâu sắc.
Kim Dung là nhà văn hóa sử thi bậc thầy. Ông đã lựa chọn sự kiện Tỉnh Khang ngày 9 tháng 1 năm 1127 là một biến cố lớn trong lịch sử nhà Tống Trung Quốc đánh dấu sự diệt vong của vương triều Bắc Tống sau đó kéo theo sự diệt vong của nhà Kim dẫn tới Trung Quốc được thống nhất dưới triều đại nhà Nguyên Mông (1271-1368). Ông xâu chuỗi lịch sử và soi thấu tiến trình hưng vong của trên 500 năm từ cuối triều Bắc Tống đến giữa nhà Thanh để viết nên 15 bộ tiểu thuyết lớn nói trên. Tầm nhìn sử thi Kim Dung soi sáng nhiều bài học lịch sử địa lý văn hóa.
Kim Dung, Vương Mông, Lâm Ngữ Đường và Mạc Ngôn là những diện mạo lớn của văn chương và ngôn ngữ văn hóa Trung Quốc đương đại . Nhà văn Trung Quốc mới bạn thích ai? Điều này tùy thuộc “gu” bạn đọc nhưng cũng tùy thuộc vào điều kiện, mức độ tiếp cận và cách xử lý thông tin. Tôi thích học để làm, học chuyên môn kết nối với lịch sử văn hóa nên thích sách Kim Dung hơn. Sách ông là một bách khoa thư về nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lịch sử văn hóa. “Sự đọc” có câu cách ngôn vận vào đây thật đúng: “Trong một thế giới có đủ bình tâm, người viết nhỏ hơn người đọc, người đọc nhỏ hơn quyển truyện họ đang đọc, và quyển truyện nhỏ hơn sự đọc. Người viết và người đọc rồi chết, truyện rồi quên. Sự đọc ở lại và làm nên một phần mênh mông trong định nghĩa của việc làm người“.
Bài viết này là sự tưởng nhớ Kim Dung trong ngày sinh và ngày ông về chốn vĩnh hằng.
KIM DUNG CUỘC ĐỜI VÀ TÁC PHẨM
Kim Dung tên thật là Tra Lương Dung (Cha Leung Yung), ông sinh vào ngày 10 tháng 3 năm 1924 tại trấn Viên Hoa, huyện Hải Ninh, địa cấp thị Gia Hưng, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, trong một gia tộc khoa bảng danh giá. Ông cố của Kim Dung là Tra Thận Hành, nhà thơ nổi tiếng đời nhà Thanh, ông nội là Tra Văn Thanh làm tri huyện Đan Dương tỉnh Giang Tô sau từ chức, đến đời con ông là Tra Xu Khanh thì bắt đầu sa sút. Cha của Kim Dung theo nghề buôn, ông có sáu đứa con. Kim Dung có một anh trai, hai em trai, hai em gái. Kim Dung là người anh lớn thứ hai trong số đó, ông có bốn con với hai trai và hai gái đều là con của người vợ thứ hai.
Kim Dung thuở nhỏ thông minh lanh lợi ham đọc sách và sớm có năng khiếu viết sách . Ông yêu thiên nhiên, thích nghe kể chuyện thần thoại, truyền thuyết, nhất là về những ngọn triều trên sông Tiền Đường. Đặc biệt ông rất mê đọc sách. Dòng họ Kim Dung có một nhà để sách gọi là “Tra thị tàng thư” nổi tiếng khắp vùng Chiết Tây, chứa rất nhiều sách cổ, những cuốn sách này làm bạn và ảnh hưởng tới cuộc đời của Kim Dung từ khi ông còn rất bé. Kim Dung sáu tuổi vào học tiểu học ở quê Hải Ninh. Ông rất chăm học, lại thêm mê đọc sách từ bé nên trở thành một học sinh giỏi của lớp. Thầy Trần Vị Đông dạy văn thuở nhỏ cho ông là người rất thương yêu tin tưởng Kim Dung, đă cùng ông biên tập tờ báo lớp. Một số bài làm văn của Kim Dung nhờ sự giới thiệu của thầy Đông đă được đăng lên Đông Nam nhật báo,một tờ báo nổi tiếng của Trung Quốc thời bấy giờ. Kim Dung năm tám tuổi lần đầu đọc tiểu thuyết võ hiệp, khi đọc bộ truyện Hoàng Giang nữ hiệp của Cố Minh Đạo, thì rất say mê, sau đó thường hứng thú sưu tầm tiểu thuyết thể loại này. Kim Dung năm 13 tuổi, xảy ra sự biến Lư Câu Kiều, được gửi đến học trường trung học Gia Hưng ở phía Đông tỉnh Chiết Giang. Ông tuy học xa nhà những ham đọc sách và vẫn đứng đầu lớp. Kim Dung viết cuốn sách đầu tiên lúc ông 15 tuổi là cuốn sách Dành cho người thi vào sơ trung, một cẩm nang luyện thi, được nhà sách chính quy xuất bản. Kim Dung khi học bậc Cao trung lại soạn sách Hướng dẫn thi vào cao trung. Hai cuốn sách này của Kim Dung in ra bán rất chạy, đem lại cho ông nhuận bút tốt .
Kim Dung thời học việc và khởi đầu nghiệp văn. Ông năm 16 tuổi đã viết truyện trào phúng Cuộc du hành của Alice có ý châm biếm ngài chủ nhiệm ban huấn đạo, người này rất tức giận, liền ép hiệu trưởng phải đuổi học ông. Tác phẩm Cuộc du hành của Alice
tuy gây tai hại cho Kim Dung nhưng đã cho thấy sức ảnh hưởng của một
tác phẩm văn chương làm mất mặt của một bộ phận người thực trong xả hội
bị văn chương đưa nguyên mẫu nhân vật ra dư luận làm trò cười ảnh hưởng
to lớn. Kim Dung sau đó chuyển đến học trường Cù Châu, nhưng tại trường
này cũng có những quy định rất bất công, thầy giáo có quyền lăng nhục
học sinh nhưng học sinh không được quyền phê bình thầy giáo. Kim Dung
đang học năm thứ hai tại trường đã viết bài Một sự ngông cuồng trẻ con
đăng lên Đông Nam nhật báo. Bài báo làm chấn động dư luận trong trường,
giới học sinh tranh nhau đọc và Ban Giám hiệu trường Cù Châu đành phải
bãi bỏ những quy định nọ. Một ký giả của Đông Nam nhật báo là Trần
Hướng Bình đã lặn lội tìm đến trường học để thỉnh giáo tác giả bài báo
do sự hâm mộ mà không biết tác giả chỉ là một học sinh. Năm 1941, chiến
tranh Thái Bình Dương bùng nổ, trường Cù Châu phải di dời, Ban Giám
hiệu trường quyết định cho học sinh lớp cuối tốt nghiệp sớm để bớt đi
gánh nặng. Kim Dung cũng nằm trong số đó. Sau ông thi vào học Luật quốc
tế tại học viện chính trị Trung ương ở Trùng Khánh. Thi đậu, nhưng để
đến được trường phải trải qua nhiều ngày đi bộ. Tại học viện chính trị
Trung ương, Kim Dung vẫn học rất giỏi, cuối năm nhất ông được tặng phần
thưởng cho sinh viên xuất sắc nhất. Thời kỳ này, ông ngoài tham gia
viết bình luận chính trị trên các báo, còn bắt tay vào làm cuốn Anh –
Hán tự điển và dịch một phần Kinh Thi sang tiếng Anh, hai công trình
này về sau dở dang. Ông học lên năm thứ ba thì tại trường bắt đầu nổi
lên các cuộc bạo loạn chính trị. Kim Dung có lần đã viết thư tố cáo một
vụ bê bối trong trường, và đây là lần thứ hai trong đời ông bị đuổi
học lúc ông 19 tuổi.
Kim Dung thời làm việc tại Thư viện Trung ương và nông trường Trương Tây.
Ông xin việc tại Thư viện Trung ương và mỗi ngày sống chung với sách
quý làm bạn hiền nên kiến thức lịch sử văn hóa Trung Quốc của ông nhờ
vậy được uyên thâm vững chắc lạ thường. Ông đọc nhiều cổ văn Trung Quốc
và thế giới, các tác phẩm văn chương danh tiếng như Ivanhoe của Walter
Scott, Ba người lính ngự lâm, Bá tước Monte-Cristo của Alexandre Dumas
(cha), những tác gia và tác phẩm nổi tiếng đã ảnh hưởng đến văn phong
của ông. Tại đây ông sáng lập Thái Bình Dương tạp chí, nhưng chỉ ra
được số đầu đến số thứ hai thì nhà xuất bản không chịu in nên tờ báo
đầu tiên của ông thất bại nhưng ông trãi nghiệm được sự biên tập và xuất
bản báo chí. Sau thất bại này, năm 1944 Kim Dung đến làm việc tại nông
trường Tương Tây rất hẻo lánh. Đến năm 1946, ông không chịu nổi sự cô
tịch nên xin thôi việc. Người chủ nông trường không cản được đành tiễn
ông bằng một bữa cơm thịnh soạn. Mùa hạ năm đó, ông trở về quê cũ Hải
Ninh, cha mẹ ông thấy ông không việc làm nên rất buồn. Điều ấy khiến ông
quyết tâm đi lập nghiệp.
Kim Dung thời làm báo. Năm 1946 Kim Dung từ biệt gia đình đến Hàng Châu làm phóng viên cho tờ Đông Nam nhật báo
theo lời giới thiệu của Trần Hướng Bình, người ngày xưa đã tìm đến
trường ông. Ông làm việc rất tốt, tỏ ra có tài thiên phú về viết báo.
Năm sau, theo lời mời của tạp chí Thời dữ triều, ông thôi việc ở Đông Nam nhật báo, sang Thượng Hải tiếp tục nghề viết và dịch thuật. Sau đó ít lâu ông lại rời toà soạn Thời dữ triều, xin vào làm phiên dịch của tờ Đại công báo.
Lúc này anh trai của Kim Dung là Tra Lương Giám đang làm giáo sư ở học
viện Pháp lý thuộc đại học Đông Ngô gần đó, ông liền xin vào học tiếp
về luật quốc tế. Năm 1948, Kim Dung được tòa soạn của tờ Đại công báo
cử sang làm việc dịch tin quốc tế cho trang phụ bản của báo này tại
Hồng Kông. Trước khi ra đi vài ngày, ông chạy đến nhà họ Đỗ để ngỏ lời
cầu hôn cô con gái 18 tuổi và được chấp nhận. Hôn lễ tổ chức trang trọng
tại Thượng Hải, người vợ đầu tiên Đỗ Trị Phân của ông rất xinh đẹp.
Năm 1950, gia đình của Kim Dung bị quy thành phần địa chủ trong cuộc Cải
cách ruộng đất ở Trung Quốc, cha ông bị đấu tố. Vợ ông Đỗ Trị Phân
không chịu sống ở Hồng Kông, đòi trở về gia đình bên mẹ và không chịu
về nhà chồng nữa. Năm 1951 họ quyết định ly hôn lúc ông 27 tuổi. Năm
1952, Kim Dung sang làm việc cho tờ Tân văn báo, phụ trách mục Chuyện trà buổi chiều,
chuyên mục này giúp ông phát huy khả năng viết văn của mình hơn, ông
rất thích, một phần vì khán giả cũng rất thích. Ông còn viết phê bình
điện ảnh. Từ đó dần đi sâu vào lĩnh vực này. Từ 1953, Kim Dung rời Tân Văn báo, bắt tay vào viết một số kịch bản phim như Lan hoa hoa, Tuyệt đại giai nhân, Tam luyến…
dưới bút danh Lâm Hoan. Những kịch bản này dựng lên được các diễn viên
nổi tiếng thời bấy giờ như Hạ Mộng, Thạch Tuệ, Trần Tứ Tứ… diễn xuất
và gặt hái được nhiều thành công đáng kể.
Kim Dung với 15 bộ tiểu thuyết lớn. Kim Dung từ ngày vào làm Tân Văn Báo, đã quen thân với Lương Vũ Sinh và La Phù được hai người ủng hộ và giúp đỡ. Kim Dung năm 1955 bắt đầu viết truyện võ hiệp Thư kiếm ân cừu lục,
đăng hàng ngày trên Hương Cảng tân báo lấy bút danh là Kim Dung chiết
tự từ chữ “Dung” tên thật của ông, nghĩa là “cái chuông lớn”. Kim Dung
và Lương Vũ Sinh sau tác phẩm này được dư luận chú ý và dần được xem như
hai người khai sinh ra Tân phái tiểu thuyết võ hiệp. Ông viết tiếp bộ Bích huyết kiếm
được hoan nghênh nhiệt liệt, từ đó ông chuyên tâm viết tiểu thuyết võ
hiệp và làm báo, không hoạt động điện ảnh nữa. Năm 1959, Kim Dung cùng
với Trầm Bảo Tân bạn học phổ thông sáng lập Minh Báo. Ông vừa
viết tiểu thuyết, vừa viết các bài xă luận. Qua các bài xă luận của
ông, Minh Báo càng ngày được biết đến và là một trong những tờ báo được
đánh giá cao nhất. Minh Báo đã theo ông lâu dài từ đấy cho đến khi ông
kết thúc sự nghiệp sáng tác. Năm 1972, Kim Dung sau khi viết cuốn tiểu
thuyết cuối cùng, đă chính thức nghỉ hưu.
Tác phẩm của Kim Dung
có tổng cộng 15 truyện trong đó có 14 tiểu thuyết và 1 truyện ngắn. Hầu
hết các tiểu thuyết đều được xuất bản trên các nhật báo. Ngoài
các tiểu thuyết võ hiệp, ông còn viết các truyện lịch sử Trung Quốc.
Ông đã được trao tặng nhiều huân chương danh dự. Kim Dung đã được trao
tặng huân chương OBE của Vương Quốc Anh năm 1981, và Bắc đẩu bội tinh
năm 1982, Commandeur de l’Ordre des Arts et des Lettres năm 2004 của
chính phủ Pháp.Ông cũng là
giáo sư danh dự của nhiều trường đại học như Bắc Kinh, Triết Giang, Nam
Khai, Hồng Kông, British Columbia cũng như là tiến sĩ danh dự của đại
học Cambridge.
Danh sách 15 tác phẩm tiêu biểu của Kim Dung như liệt kê dưới đây:
Tên truyện
Tên khác
Năm
sáng tác
Ghi chú
1
Thư kiếm ân cừu lục
1955
2
Bích huyết kiếm
1956
3
Xạ điêu anh hùng truyện
Anh hùng xạ điêu
1957
Xạ điêu tam bộ khúc I
4
Thần điêu hiệp lữ
Thần điêu đại hiệp
1959
Xạ điêu tam bộ khúc II
5
Tuyết sơn phi hồ
1959
6
Phi hồ ngoại truyện
Lãnh nguyệt bảo đao
1960
Tiền Tuyết sơn phi hồ
7
Bạch mã khiếu tây phong
1961
8
Uyên Ương đao
1961
9
Ỷ thiên Đồ long ký
Cô gái Đồ Long
1961
Xạ điêu tam bộ khúc III
10
Liên thành quyết
1963
11
Thiên long bát bộ
Lục mạch thần kiếm
1963
Tiền Xạ điêu tam bộ khúc
12
Hiệp khách hành
1965
13
Tiếu ngạo giang hồ
1967
14
Lộc Đỉnh ký
Lộc Đỉnh Công
1969 -1972
15
Việt nữ kiếm
1970,
truyện ngắn
Kim Dung 45 năm hiệu đính và nâng cấp tác phẩm.. Kim Dung từ năm 1973 bắt đầu biên tập chỉnh sửa các tác phẩm văn học của mình hoàn chỉnh và in thành sách năm 1979. Sau đó hầu hết các tác phẩm in sách đều được chuyển thể thành phim truyền hình. Năm 1973, Kim Dung tham gia giới chính trị Hồng Kông. Ông là thành viên của ủy ban phác thảo Đạo luật cơ bản Hồng Kông. Ông cũng là thành viên của Ủy ban chuẩn bị giám sát sự chuyển giao của Hồng Kông về chính phủ Trung Quốc. Kim Dung sau lần li hôn với người vợ đầu đã kết hôn lần thứ hai vào năm 1953 và có bốn người con với hai trai và hai gái. Sau cái chết đột ngột của con trai trưởng tháng 10 năm 1976, Kim Dung đã quyết định tìm hiểu nhiều vào các triết lý của tôn giáo. Kết quả, ông tự mình quy y Phật giáo hai năm sau đó. Năm 1993, ông thôi chức chủ bút, bán tất cả cổ phần trong Minh Báo lúc ông 70 tuổi. Năm 1999, ông đã phải chịu một cuộc tấn công giễu cợt của báo chí Trung Quốc phát hành tại Bắc Kinh chỉ trích tiểu thuyết của ông là kiếm hiệp “kinh nghiệm tồi tệ” của bạo lực vô nghĩa và tỏ tình kiểu nam nhi . Đó có thể là một nỗ lực để giảm nhẹ tình trạng tác phẩm bán chạy nhất của Kim Dung với người đọc của Trung Quốc lục địa. Chính quyền Đài Loan cấm các tác phẩm Kim Dung vì coi hình tượng văn học của ông là ủng hộ Đảng Cộng sản Trung Quốc. “Hiện tượng Kim Dung” với sự lên ngôi của Kim Dung được coi như là sự thắng thế của dòng văn học thông tục giải trí thực dụng kiểu fast food. Các tác phẩm của Kim Dung hiện giờ mặc dầu không bị cấm nữa nhưng vẫn còn nhiều tranh luận trái chiều. Cuối năm 2004, nhà xuất bản giáo dục nhân dân của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã đưa tác phẩm Thiên Long Bát Bộ vào sách giáo khoa lớp 12. Bộ Giáo dục Singapore cũng làm như vậy đối với các trường cấp 2, 3 sử dụng tiếng Trung Quốc. Tác phẩm của ông đã được chuyển thể thành hơn một trăm bộ phim, chương trình truyền hình, truyện tranh và trò chơi. Kim Dung đã nhúng sâu sắc phong cách và những quan tâm của ông vào truyền thông cảnh quan của Trung Quốc hiện đại. Năm 2010, Kim Dung đã giành được học vị tiến sĩ từ St John College, Cambridge, cho một luận án mang tên “The Imperial Succession in Tang China, 618-762” (Sự kế vị hoàng gia thời Đường Trung Quốc, 618-762). Học bổng Kim Dung “Nghiên cứu phương Đông” của Trường Đại học danh tiếng St Johns, College, Cambridge đã được khánh thành vào năm 2016 do sự tài trợ hào phóng của cựu sinh viên nổi tiếng Kim Dung. Ông mất chiều 30 tháng 10 năm 2018 tại một bệnh viện ở Hong Kong do tuổi cao, hưởng thọ 94 tuổi.
KIM DUNG TRONG NGÀY MỚI
Goodreads là một trang mạng xã hội tuyệt vời dành cho người đọc sách. “Không
cần phải suy nghĩ mình sẽ đọc gì, phải mua sách nào, hay cuốn nào đang
bán chạy. Bạn chỉ cần lướt qua: Những tựa sách hay nhất năm do cộng đồng
Goodreads bình chọn để tìm được câu trả lời”. Goodreads đã giới thiệu về Kim Dung như sau: “Kim
Dung, GBM, OBE (sinh ngày 06 tháng 2 năm 1924), tốt hơn được biết đến
với bút danh của ông Jin Yong (金庸, đôi khi đọc và / hoặc viết là “Chin
Yung”), là một nhà văn Trung Quốc. với ngôn ngữ hiện đại. Ông đồng sáng lập tờ Minh Báo hàng ngày Hồng Kông vào năm 1959 và ông là chủ bút đầu tiên của tờ báo này. Tiểu
thuyết Kim Dung là chất liệu tuyệt vời cho những bộ phim võ thuật với
tinh thần nghĩa hiệp được phát hành rộng rãi trong các khu vực nói tiếng
Hoa, bao gồm Trung Quốc đại lục, Hồng Kông, Đài Loan, Đông Nam Á và Hoa
Kỳ. 15
tác phẩm của Kim Dung viết từ năm 1955 đến năm 1972 đã giành được danh
tiếng ông là một nhà văn võ hiệp xuất sắc nhất. Kim Dung hiện là tác giả Trung Quốc có sách bán chạy nhất lúc còn sống, hơn 100 triệu bản sao tác phẩm của ông đã được bán trên toàn thế giới (không bao gồm lượng không rõ các bản in lậu). Công trình của Kim Dung đã được dịch sang tiếng Anh, Pháp, Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Mã Lai và Indonesia. Ông
có rất nhiều người hâm mộ nước ngoài, do có nhiều sự chuyển thể các tác
phẩm của ông sang ngôn ngử khác, vào phim nhựa, phim truyền hình,
truyện tranh và trò chơi video“.
Kim Dung ở Việt Nam.
Tác
phẩm Kim Dung trước năm 1975 chủ yếu được lưu hành ở miền Nam. Truyện
Kim Dung tạo nên cơn sốt rộng rãi đầu tiên là bản dịch của Từ Khánh
Phụng với Cô gái Đồ Long (dịch Ỷ thiên Đồ long ký), đăng trên báo Đồng Nai năm 1961. Trước đó, một số bản dịch cũ như Bích huyết kiếm của Từ Khánh Phụng (báo Đồng Nai), Anh hùng xạ điêu của Đồ Mập (báo Dân Việt), Thần điêu đại hiệp (Thần điêu hiệp lữ)
của Vũ Tài Lục và Hải Âu Tử (báo Mới) tuy có phát hành nhưng chỉ được
coi là truyện kiếm hiệp giải trí rẻ tiền. Dịch giả truyện Kim Dung tài
hoa nhất là Hàn Giang Nhạn với các bản dịch Tiếu ngạo giang hồ, Lộc Đỉnh ký…
với câu văn thanh thoát tự nhiên, sinh động đã làm cho loại sách kiếm
hiệp này được nhiều người đọc hơn. Một số nhà văn nổi tiếng thời đó
như Bùi Giáng, Bửu Ý, Nguyên Sa, Đỗ Long Vân đã tham gia bình luận Kim
Dung. Nguyên Sa đánh giá cao các tác phẩm Kim Dung.
Đỗ Long Vân có bài viết Vô Kỵ giữa chúng ta hay là hiện tượng Kim Dung rất ấn tượng. Cuốn Vô Kỵ giữa chúng ta hay là hiện tượng Kim Dung
cố tìm ra câu giải đáp cho cái gọi là “hiện tượng Kim Dung” ở khắp miền
Nam Việt Nam thời ấy. Tập sách phân tích sâu về võ công, nội lực, tính
cách nhân vật và những triết lý ẩn chứa trong tiểu thuyết võ hiệp Kim
Dung. Sách được xuất bản lần đầu tiên năm 1967 in tại nhà in Trình Bày,
Sài Gòn.
Bùi Giáng tỏ ra rất khâm phục Kim Dung và tâm đắc với
kiến giải của Đỗ Long Vân, ông nhắc tới cuốn sách này trong bài luận
kiếm hiệp của ông như là một đỉnh cao khó vươn tới. Bùi Giáng viết về Đỗ
Long Vân trong “Thi ca tư tưởng”: “Cuốn sách của ông bàn về Kim
Dung nằm trong vùng tư tưởng thâm viễn như cuốn Nho Giáo của Trần Trọng
Kim. Chẳng những giúp người Việt Nam hiểu tư tưởng lớn của thiên tài
Trung Hoa, mà còn khiến người Trung Hoa, người Đông Phương, Tây Phương
nói chung ngày sau sực tỉnh. Tầm quan trọng của cuốn sách kia quả thật
rộng rãi không cùng. Tôi có thể đưa ra vài nhận định khác của ông ở đôi
chi tiết. Nhưng không cần. Điều cốt yếu, ông đã nói xong, và những dư
vang vô số sẽ tỏa khắp mọi chốn. Và sẽ còn khiến người ta thể hội cái
mạch thẳm trong những tác phẩm của những thiên tài xưa nay, bất luận là
Đông Phương hay Tây Phương.Sách tôi bị cháy hết, nhưng tôi sẽ tìm riêng
cuốn “Trương Vô Kỵ Giữa Chúng Ta” để đọc lại nhiều lần”…
Sau
1975, các tác phẩm của Kim Dung bị nhà nước Việt Nam liệt vào danh sách
cấm cùng với các tác gia kiếm hiệp khác như Cổ Long, Trần Thanh Vân… với
lý do “văn hóa đồi trụy phản động”. Tuy nhiên, các bản sách cũ vẫn được
lén lút lưu giữ và được nhiều người truyền tay đọc. Trong cộng đồng
người Việt ở nước ngoài, dịch giả Nguyễn Duy Chính (một Tiến sĩ Quản trị
Kinh doanh, ngành Quản lý và Ứng dụng khoa học máy tính mê sử Việt)
được xem là người có các bản dịch với chất lượng dịch tốt, điển hình như
các bản dịch Thiên long bát bộ và Ỷ thiên Đồ long ký (lưu
truyền trên Internet). Nguyễn Duy Chính cũng viết một số khảo luận về
các yếu tố văn hóa Trung Hoa trong tác phẩm của Kim Dung và về triều đại
Quang Trung với lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XVIII.
Đầu
thập niên 1990, với chủ trương Đổi mới, chính quyền Việt Nam giảm bớt
sự cấm đoán gắt gao với văn hóa văn nghệ. Một số phim và sách võ hiệp cũ
được phát hành lại. Để dễ xin phép xuất bản, thoạt tiên sách không ghi
đúng tên tác giả mà lấy các bút danh khác như Nhất Giang, về sau mới ghi
đúng tên Kim Dung, Cổ Long. Nhà xuất bản Quảng Ngãi đã tích cực phát
hành lại sách võ hiệp cũ. Thêm vào đó, sự phát triển của Internet giúp
các bản dịch cũ lưu truyền rộng rãi, ban đầu dưới dạng scan từng trang
sách, sau đó là dạng văn bản do những người hâm mộ gõ lại.
Công ty
Văn hóa Phương Nam là công ty đầu tiên mua bản quyền dịch tác phẩm võ
hiệp của Kim Dung. Từ năm 1999, Phương Nam đã mua được bản quyền dịch
tác phẩm của Kim Dung, thông qua thương lượng trực tiếp với nhà văn. Từ
năm 2001, toàn bộ tác phẩm võ hiệp của Kim Dung lần lượt được dịch lại
và phát hành ở Việt Nam theo các bản hiệu đính mới nhất. Các dịch giả
gồm có Cao Tự Thanh, Vũ Đức Sao Biển, Lê Khánh Trường, Đông Hải, Hoàng
Ngọc (Huỳnh Ngọc Chiến).
Nhà văn Vũ Đức Sao Biển là tác giả của những bài khảo luận về Kim Dung, đăng trên tập san Kiến thức ngày nay, sau in thành bộ Kim Dung giữa đời tôi gồm 6 tập, có tựa đề Kiều Phong – Khát vọng của tự do Thiên hạ đệ nhất mỹ nhân Từ AQ đến Vi Tiểu Bảo Thanh kiếm và cây đàn Nhân vật Kim Dung nhìn qua lăng kính pháp luật. Những vụ án kinh điển trong tiểu thuyết Kim Dung
Tác phẩm luận
bàn về những bộ sách võ hiệp của Kim Dung từ những góc nhìn riêng sắc
sảo và thú vị đến phong cách xây dựng nhân vật của tác giả về những nhân
vật, những tình tiết đặc sắc trong bộ truyện: võ công, tình yêu, rượu,
âm nhạc đến pháp luật…
Nhà văn Vũ Đức Sao Biển đánh giá: “Kim
Dung là nhà văn lớn phương Đông thế kỷ XX. Về mặt trước tác, tác phẩm
của ông đồ sộ hơn bất cứ nhà văn nào khác. Bút pháp của ông lôi cuốn,
hấp dẫn người đọc một cách lạ lùng. Và hệ thống kiến thức của ông từ y
học đấn địa lý, lịch sử, võ thuật, tâm lý, bệnh học, tôn giáo… hoàn
chỉnh một cách vô song. Tiếc thay một nhà văn như vậy là chưa có tên
trong những nhà văn được nhận giải Nobel văn học. Nhưng dù gì đi nữa,
những nhà văn khác cũng đã học tập được từ Kim Dung nhiều kinh nghiệm
tiểu thuyết. Ông xứng đáng là nhà văn bậc thầy của những bậc thầy trong
thế kỷ chúng ta.”
Đọc “Kim Dung giữa đời tôi” với những khảo
luận thật sâu sắc, tinh tế của nhà văn Vũ Đức Sao Biển thấu hiểu Kim
Dung làm ta liên tưởng tới nhận xét của Pam Brown:”Ta đọc sâu sắc hơn,
nhớ chính xác hơn, thưởng thức sự việc với niềm thích thú hơn nếu ta có
được một người bạn cùng chia sẻ“. (We read more deeply, remember
more clearly, enjoy events with greater pleasure if we have a friend to
share with. * Pam Brown, from “Essays Friendship”) . GSTS. Nguyễn Tử
Siêm viết: Đây là tâm sự của nhà hoạt động thi ca người Úc đã có nhiều giải thưởng danh giá. Pam Brown là nữ thi sĩ, bà cảm nhận tình bạn thật tinh tế. Mình thích cái cách biểu thị giản dị và chân thành này.
Đọc Kim Dung trong ngày mới thật thú vị
Kim
Dung là một trí tuệ lớn. Ông không chỉ là nhà văn ảnh hưởng nhất đến
văn học Trung Quốc đương đại mà còn ảnh hưởng sâu rộng tâm thức nhiều
người Việt và các nước, ông cảnh báo nhiều bài học sâu sắc, gợi mật ngữ
không dễ thấy.Kim, Vương, Lâm, Mạc bạn thích ai? Trong
nền văn học Trung Quốc hiện đại, tôi thích nhất Kim Dung, kế đến là
Vương Mông, Lâm Ngữ Đường và Mạc Ngôn.
Vương
Mông là giáo sư danh dự rất được kính trọng ở Trung Quốc hiện nay. Khối
lượng tác phẩm khổng lồ của ông trên 10 triệu chữ gồm tiểu thuyết, bình
luận, tản văn, thơ mới và thơ cổ thể, tạp văn được dịch ra hơn 20 thứ
tiếng trên khắp thế giới. Vương Mông đã trãi nghiệm thực tiễn đầy sống
gió, chông gai của cuộc đời và minh triết cuộc sống đã giúp ông về đích
thắng lợi. Ông đúc kết trong tác phẩm tinh hoa nhân loại “Triết lý nhân
sinh của tôi” (Phạm Tú Châu dịch, Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn, Công ty Văn
hóa và Truyền thông Nhã Nam 2009). Đó là cẩm nang về cách sống thung
dung phúc hậu.
Lâm Ngữ Đường là nhà
văn nổi tiếng của Trung Quốc. Ông được xem là người có công lớn trong
việc giới thiệu văn hóa Trung Quốc ra thế giới qua những tác phẩm viết
bằng tiếng Anh, bàn về nghệ thuật, văn hóa và nhân sinh quan của người
Trung Quốc. Lâm Ngữ Đường sinh ở vùng rừng núi thị trấn Ban Tử thuộc
Chương Châu, tỉnh Phúc Kiến, đông nam Trung Quốc. Số phận của ông sớm
được giáo huấn bằng đức tin Cơ Đốc sau đó đến với Khổng giáo và Phật
giáo và cuối đời lại trở về với Kinh Thánh. Ông sang Mỹ học chương trình
bán phần tiến sĩ ở Đại học Harvard lấy bằng tiến sĩ ngôn ngữ ở Đức về
dạy văn chương Anh ở Bắc Kinh sau năm 1928 sang Mỹ dịch sách viết sách
sáng chế, sau đó về làm Viện trưởng Đại học ở Singapo, cuối đời cùng vợ
con về sống và viết về văn hóa ẩm thực ở Đài Loan từ năm 1965 cho đến
lúc mất năm 1976. Đời ông là một vòng tròn viên mãn của một trí tuệ lớn
biết dồn tâm huyết cả đời người để đưa văn hóa Trung Quốc ra thế giới.
Mạc Ngôn nhà văn Trung Quốc đã đoạt giải Nobel Văn học năm 2012. Đó là lần đầu tiên văn học Trung Quốc chạm tay tới giải thưởng Văn học danh giá nhất thế giới sau lịch sử 111 năm phát sinh giải thưởng này .Ba tác phẩm nổi bật của Mạc Ngôn là “Báu vật của đời”, “Cao lương đỏ” và “Cây tỏi nổi giận”. Dịch giả Trần Đình Hiến cho rằng hai đặc điểm chính giúp tác phẩm Mạc Ngôn giành giải Nobel đó là nội hàm văn hóa bản địa và tính nhân loại cao. Bài viết của nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên “Sự sinh, sự chết và sự sống ” giúp ta tiếp cận “Báu vật của đời”. Tôi cũng thích Mạc Ngôn, Vương Mông và Lâm Ngữ Đường nhưng Kim Dung ảnh hưởng sâu đậm hơn.
VTV2 tối nay đang chiếu tiếp “Thiên Long bát bộ” sau trận đấu nổi tiếng nhất ở Thiếu Lâm Tự trên núi Thiếu Thất. Tên sách và phim vì sao gọi là Thiên Long bát bộ?. Thiên long là đâu và bát bộ là gì? Nhân vật nào thích nhất trong Thiên Long bát bộ và vì sao?
Tôi đưa ra chủ kiến của riêng mình:
Thiên Long là ngọn núi thiêng của tuyệt kỹ Nhất dương chỉ và Cửu Ân Chân Kinh. Bát bộ gồm bộ thứ nhất là Nhất dương chỉ’ “nếu chưa thuần thục thì chỉ nên chỉ tay một ngón đừng ham chỉ tay năm ngón mà hại vào thân”. Bộ thứ hai là lăng ba vi bộ, gặp địch quá mạnh thì cần nhanh “tam thập lục kế tẩu vi thượng sách” đủ sức bảo toàn thân mà quần thảo với chúng. Bộ thứ ba là Hấp tinh đại pháp hút kiệt tinh lực tinh hoa của địch. Bộ thứ tư là hấp thụ kháng thể để không bị tiêu diệt bởi bò cạp, rết độc, dơi độc như Covid19 hiện nay. Bộ thứ năm là hóa giải quan hệ nữ nhân như ví dụ của Đoàn Dự, Mộ Dung Phục và Hư Trúc. Bộ thứ sáu là quan hệ thầy trò như Đoàn Dự, Hư Trúc với các bậc Thầy cao thủ. Bộ thứ bảy là quan hệ với bạn quý như Đoàn Dự với Kiều Phong và Hư Trúc. Bộ thứ tám là “vô chiêu thắng hữu chiêu” lấy xử lý thực tiễn làm thước đo chân lý, như Đoàn Dự với Quốc sư Thổ Phồn Cưu Ma Trí . Đoàn Dự là nhân vật yêu thích nhất . Kiến giải là tùy theo hạnh ngộ và sự yêu thích của từng người . xem thêm Chuyện cổ tích người lớn
Kim Dung thích ai nhất trong tác phẩm của chính ông?
Kim Dung thích nhất nhân vật Hoàng Lão Tà, Quách Tương và Đoàn Dự. Ông tâm đắc nhất tác phẩm Thiên Long bát bộ và Lộc Đỉnh Ký. Tuyệt kỹ một đời không nhìn vào danh tiếng mà nhìn vào thực chất. Vô chiêu thắng hữu chiêu. Phim chuyển thể tác phẩm ông ưng ý nhất là “Thần điêu đại hiệp”.
CÂU CHUYỆN ẢNH THÁNG BẢY Hoàng Kim Chúc mừng ngày Hạnh Phúc hai cháu và đại gia đình thầy Phạm Văn Hiền và thông gia. Vui gặp nhiều người thân quen, thầy Tuyến Bùi Cách, anh Cựu, Trúc Mai, Tran Huien Huien, …. Chùm ảnh bạn Tu Phan Van thật đẹp. Thân chúc mọi người vui khỏe.
Cụ Nguyễn Ngọc Trìu là một danh nhân (Cụ mất ngày 9/7/2016, đưa tang ngày 14/7/2016) Cụ Nguyễn Ngọc Trìu là một nhân cách lớn như nhà văn Nguyễn Tuân nhận xét: “Trìu làm lãnh đạo nhưng trước hết là một Con Người”. Hình trên là Bộ Trưởng Nguyễn Ngọc Trìu đến Trung tâm Hưng Lộc năm 1987 thăm thành tựu tiến bộ kỹ thuật “trồng ngô lai xen đậu ở vùng Đông Nam Bộ” và mô hình “nghiên cứu phát triển đậu rồng ở các tỉnh phía Nam”. Hai công trình này do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam giới thiệu, đã được Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn công nhận là tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp và được phát triển rộng rãi trong sản xuất, vang bóng một thời..
Cụ Nguyễn Ngọc Trìu là một chính khách lớn, có cuộc đời và sự nghiệp dường như là cụ Nguyễn Công Trứ của thời đại Hồ Chí Minh. Mọi người khi nhắc đến Cụ đều nhớ ngay đến vị Chủ tịch tỉnh Thái Bình sinh ở Tây Giang, Tiền Hải đã làm rạng ngời “quê hương 5 tấn”, nhớ ông Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp trí tuệ, xông xáo và rất biết lắng nghe, sau này làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng phụ trách mảng Nông Lâm Ngư nghiệp và Đặc phái viên của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đối với vùng Nam Bộ. Cụ Trìu cũng là Chủ tịch Hội những người làm vườn Việt Nam, nơi tâm nguyện của ông được bạn thơ Thợ Rèn mến tặng’ “Danh vọng hão huyền như mây khói . Làm vườn cây trái để ngàn năm” .Cụ Nguyễn Ngọc Trìu là một nhân cách lớn như nhà văn Nguyễn Tuân nhận xét: “Trìu làm lãnh đạo nhưng trước hết là một Con Người”.
(*) Chuyện vui chép trong ghi chú: Nhớ kỷ niệm một thời là hôm trước Viện trưởng Trần Thế Thông đưa Bộ trưởng Nguyễn Ngọc Trìu lên thăm Hưng Lộc thì. ngay hôm sau, Pham Sy Tan và Đặng Kim Sơn lại cùng thầy Quyen Mai Van và ông Carangal lên Trung tâm Hưng Lộc trao đổi và bàn chuyện hợp tác phát triển Chương trình Hệ thống Canh tác Việt Nam. (Hình trên là GSTS V. R. Carangal IRRI, người áo đỏ, bìa trái, đang trao đổi trên đồng ruộng với GSTS Mai Văn Quyền IAS, thứ hai phải qua,, TS. Đặng Kim Sơn CLRRI & IPSARD, TS. Phạm Sĩ Tân, CLRRI và TS Hoàng Kim cùng bàn về sự hợp tác IRRI và Việt Nam trong chương trình liên kết nghiên cứu phát triển hệ thống canh tác). Tôi khi đó đã kể lại câu chuyện về ‘xếp’ Thông và cụ Trìu vừa lên thăm hôm qua, và trả lời Sơn, kể chuyện “Ấn tượng Borlaug và Hemingway” với sự đồng cảm thật sâu sắc. “Norman Borlaug nhà khoa học xanh”, “Lời Thầy dặn” thật thấm thía “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời”. Nhớ kỷ niệm một thời không thể nào quên. Đặng Kim Sơn hỏi : Cậu ấn tượng nhất chuyên gì trong chuyến đi học CIMMYT mới đây? Tôi cười nói :”Ấn tượng Borlaug và Hemingway” “Năm tháng ở CIMMYT” . Chuyện “Norman Borlaug nhà khoa học xanh” thầy tới thăm tôi ở nhà riêng là không thể quên. Tôi đọc bốn câu thơ cho thầy Quyen Mai Van, với các bạn Đặng Kim Sơn, Pham Sy Tan cùng nghe và, bất ngờ giáo sư V R Carangal rút bút ra ghi và nói lời đồng cảm.
Cụ Nguyễn Ngọc Trìu cũng có đến thăm bạn học của tôi là Đinh Thế Lữ (Hoàng Kim với Pham Sy Tan học chung một lớp Trồng trọt 4, chung giường tầng giường dưới giường trên. Tôi học chung lớp Đinh Thế Lữ lớp Trồng trọt 10 sau khi bộ đội sáu năm và cùng chung lớp tiến sĩ với Đặng Kim Sơn, Mai Thành Phụng….Hình ảnh 3 từ trái qua phải: ô Nguyễn Quốc Tuấn PCT nguyên Viên trưởng Cây lương thực. Ô Ngô Thế Dân CT nguyên Thứ trưởng TT Bộ NN & PTNT, Bà Thanh, Ô Nguyễn Ngọc Trìu nguyên Bộ trưởng NN. PCT Hội đồng Bộ Trưởng (Phó Thủ Tướng CP). Ô Lữ. O Bùi Sỹ Tiếu PCT TT nguyên Bí thư TƯ Thái Bình Phó Trưởng Ban TW Đảng) Cụ Nguyễn Ngọc Trìu trước là Chủ tịch Hội Làm Vườn, sau mới đến GS Ngô Thế Dân. Nguồn: https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nho-cu-nguyen-ngoc-triu/
THẦY BẠN TRONG ĐỜI TÔI Hoàng Kim “Thung dung cùng với cỏ hoa. Thỏa thuê đèn sách, nhẩn nha dọn vườn”. Cám ơn Trung Trung đã sửa lại câu thơ trên hay hơn và sâu sắc hơn “Thỏa thuê cùng với cỏ hoa.Thung dung đèn sách nhẫn nha dọn vườn”, mình đã sửa lại. Đó là triết lý nhân sinh “Ta về sống giữa thiên nhiên” của một đội ngũ các nhà khoa học xanh người thầy chiến sĩ đã chấp nhận trọn đời sống với ruộng đồng và chén cơm ngon của người dân. Tình yêu cuộc sống thể hiện trong ý tứ ‘thung dung’ đứng đầu câu thơ, lựa chọn cỏ hoa, thiên nhiên, chân quê làm khởi nghiệp. Sự nghiệp ấy gắn liền với cả một đời, một nghề, để sau này nhìn lại. “Xuân đi trăm hoa rụng, Xuân đến trăm hoa cười” ẩn chứa triết lý sâu sắc hơn là “Xuân đến trăm hoa cười, xuân đi trăm hoa rụng”. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491- 1585) “Thanh nhàn vô sự là tiên” trong bài thơ nôm “Chín mươi” có câu: “Chín mươi thì kể xuân đà muộn Xuân ấy qua thì xuân khác còn”. Tăng Quốc Phiên chống quân Thái Bình Thiên Quốc “càng đánh càng thua” nhưng trong bản tấu chương gửi vua thì ông đã quyết ý đổi lại là “càng thua càng đánh”. Việc “đánh thua” thì vẫn vậy nhưng ý tứ của câu sau mạnh hơn hẵn câu trước. Cám ơn bạn về ý THUNG DUNG, mình đưa ý này lên đầu dòng nhé. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-ban-trong-doi-toi/
“Người trước chẳng thấy ai. Người sau thì chưa thấy. Gẫm trời đất thật vô cùng. Riêng lòng đau mà lệ chảy” Đăng U Châu Đài Ca (Bài ca lên đài U Châu) thơ Đường Trần Tử Ngang (661 – 702), người dịch Tương Như .là tác phẩm văn chương đặc biệt nổi tiếng, thơ ngoài ngàn năm của một bậc kỳ tài. Trong văn chương Việt, khi đọc Mãn Giác thơ “Hoa Mai”, Trần Khánh Dư “Bán than”, Đặng Dung thơ Cảm hoài, Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn; Nguyễn Du trăng huyền thoại, ta đều cảm nhận thấy sự ung dung, an nhiên tự tại, thấu suốt lẽ sinh tử… và đều có nỗi buồn man mác.Một người tốt muốn dấn thân nhưng còn bao điều kiện cần phải cố gắng vượt lên hoàn cảnh và vận mệnh. Đấy có thể là điều để hiểu thơ Trần Tử Ngang chăng? xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ngam-tho-ngoai-ngan-nam/
Trần Tử Ngang cuộc đời và sự nghiệp
Trần Tử Ngang (661 – 702) là nhà thơ có địa vị trọng yếu trên thi đàn thời Sơ Đường. Ảnh hưởng của ông rất lớn đối với thi ca thời Thịnh Ðường cũng như phong trào vận động cổ văn thời Trung Ðường. Ông có tên tự là Bá Ngọc, người đất Xạ Hồng, phủ Từ Châu (hiện là tỉnh Tứ Xuyên ). Ông đậu tiến sĩ lúc 24 tuổi năm 684 (đời Đường Trung Tông) làm đại quan trong triều Võ Tắc Thiên với chức Lan đài chính tự sau đó đổi làm chức Tả thập di.
Phong cách thơ của ông xuất chúng, ngụ ý sâu xa. Trần Tử Ngang thời niên thiếu gia đình tương đối giàu có, coi nhẹ tiền bạc, khẳng khái. Sau khi trưởng thành, ông quyết tâm học, giỏi viết văn; đồng thời quan tâm quốc sự , quyết lập công tích về chính trị. Ông thường dâng sớ điều trần về đại kế quốc gia nhưng không được Vũ hậu nghe theo. Vũ hậu là người mưu lược, cương nghị, quyền biến, tâm cơ. Bà không từ một thủ đoạn nào để mua chuộc, lôi kéo hoặc thẳng tay triệt hạ những người tài giỏi thuộc vây cánh của đối phương nhằm thâu tóm quyền lực, Dưới thời của bà những người tài không thuộc bè phái thường bị nguy hiểm.
Giai thoại đập đàn của Trần Tử Ngang
Trần Tử Ngang có giai thoại nổi tiếng về việc đập đàn. Lần đầu tiên đến Trường An, ông không được một ai biết đến. Ông liền bỏ ra một ngàn quan tiền, mua một cây đàn hồ cầm rất quí, rồi mời mọi người đến dự tiệc, nghe nhạc.
Khi moi người tề tựu đông đủ và háo hức chờ nghe nhạc. Ông đứng lên nói: “Tôi là Trần Tử Ngang người đất Thục, có trăm quyển văn, rong ruổi kinh sư, mà địa vị vẫn tầm thường giữa nơi bụi bậm, không ai biết đến. Nhạc này là của kẻ thơ hèn đâu đáng lưu tâm?”
Nói đoạn, ông đập tan cây đàn hồ cầm rất quý trước sự sững sờ, kinh ngạc của nhiều người. Kế đó, ông đem các cuốn văn ra tặng cho cử tọa. Trong một ngày danh tiếng của ông chấn động khắp kinh thành, mọi người ai ai cũng đều biết tiếng.
Năm 24 tuổi, Trần Tử Ngang với văn tài xuất chúng đã thi đậu tiến sĩ và được Võ hậu hết sức nể phục tài năng. Luận về thơ, ông nói: “Làm thơ là để gởi tấm lòng vào thiên cổ chứ đâu phải để lưu danh nhất thời”.
Quả nhiên, những tuyệt phẩm thơ của Trần Tủ Ngang mười ba thế kỷ sau, đến nay vẫn còn tốn hao không biết bao nhiêu giấy mực của nhiều người. Trung Quốc hiện có nhiều địa chỉ web về Trần Tử Ngang , bạn có thể tìm trên Google tại từ khóa 陳子昂 (Trần Tử Ngang).
Trần Tử Ngang thơ ngoài ngàn năm
Bài ca lên đài U Châu Trần Tử Ngang thơ ngoài ngàn năm “ Ngưòi trước chẳng thấy ai / Người sau thì chưa thấy / Gẫm trời đất thật vô cùng / Riêng lòng đau mà lệ chảy ”. Tương Như dịch
Đăng U Châu Đài Ca
Tiền bất kiến cổ nhân, Hậu bất kiến lai giả. Niệm thiên địa chi du du, Ðộc sảng nhiên nhi thế hạ.
Trần Tử Ngang * U châu : nay là Bắc Kinh
Dịch nghĩa :
Bài ca lên đài U Châu
Trông lại trước không thấy người xưa ; nhìn về sau, không thấy kẽ mới đến. Nghĩ nổi trời đất lâu dài man mác, một mình bùi ngùi rơi lệ.
Bài ca lên đài U Châu
Ngoảnh lại trước, người xưa vắng vẻ Trông về sau, quạnh quẽ người sau Ngẫm hay trời đất dài lâu Mình ta rơi hạt lệ sầu chứa chan.
Trần Trọng San dịch
Trước chẳng thấy người xưa, Sau chẳng thấy ai cả. Ngẫm trời đất thăm thẳm sao! Riêng xót xa lệ lã chã.
Trần Trọng Kim dịch
Bài ca lên đài U Châu
Trước không gặp được người xưa Sau không gặp được kẻ chưa ra đời Mênh mang ngẫm lẽ đất trời Một mình để giọt lệ rơi bùi ngùi
Cao Nguyên dịch
Suy ngẫm về thơ Trần Tử Ngang
Lên núi cao ngắm biển trời để thấu hiểu sự mênh mang vô cùng của trời đất, lẽ huyền vi của tạo hóa, sự thịnh suy được mất của các triều đại, sự biến dịch của nhân quả, sự ngắn ngủi hữu hạn của kiếp người. Điều đó đã được nhiều người trãi nghiệm…
Chúng ta đọc thêm hai bài thơ nữa của Trần Tử Ngang để hiểu rõ hơn về ông:
Kế khâu lãm cổ
Nam đăng Kệ Thạch quán, Dao vọng Hoàng Kim đài. Khâu lăng tận kiều mộc Chiêu Vương an tại tai Bá đồ trướng dĩ hĩ, Khu mã phục quy lai.
Gò Kế xem cảnh năm xưa
Trèo lên Kệ Thạch quán nam, Xa xa trông ngóng Hoàng Kim có đài. Cây cao phủ hết quanh đồi. Vua Chiêu ngày trước nay thời nơi nao? Cơ đồ bá chủ còn đâu! Nhớ ai đánh ngựa ta âu lại về.
Tản Đà dịch
Nhị cú tam niên đắc Nhất ngâm song lệ lưu Tri âm bất tương thức Quy ngọa cố sơn thu (Trần Tử Ngang)
Ba năm làm được hai câu Ngâm lên một bận dòng châu tuôn trào Tri âm chẳng hiểu lòng nhau Xin về núi cũ nằm khào nhớ thu (Vũ Đức Sao Biển dịch)
Hai câu thơ ba năm làm mới được Ngâm lên rồi bất giác lệ tuôn rơi Hỡi tri âm, lòng nhau sao không hiểu Chốn non xưa về ngắm mây trời. (gamai dịch lại)
Tôi duyên may năm 17 tuổi được Lên đỉnh đèo Ngang ngắm biển ; Thăm đèo Ngang gặp bác Xuân Thủy; Qua đèo chợt gặp mai đầu suối; sớm tiếp xúc với Đèo Ngang và những tuyệt phẩm thơ cổ. Nơi cổng Trời “Hoành sơn cổ lũy” đèo Ngang gánh hai đầu đất nước, tôi đã từng trầm tư cảm khái về “Bài ca lên đài U Châu” của Trần Tử Ngang và bài thơ thần của Hồ Chí Minh viết lúc 5 tuổi (mà sau này linh ứng với “vũng Chùa, biển Đông, đường lưỡi bò”):”Biển là ao lớn/ Thuyền là con bò/ Bò ăn gió no/ Lội trên mặt nước/ Em nhìn thấy trước/ Anh trông thấy sau/ Ta lớn mau mau/ Vượt qua ao lớn.” Chợt dưng, tôi thấu hiểu sự ứng xử thung dung, sâu sắc của Võ Đại tướng “Chốn non xưa về ngắm mây trời“, là trí tuệ bậc Thầy.
Chào ngày mới yêu thương HK Khoác thêm tấm áo trời se lạnh Đông tàn xuân tới đó rồi em Phúc hậu mỗi ngày chăm việc thiện Yêu thương xa cách hóa gần thêm.
Minh triết sống thung dung phúc hậu, yêu thương, an nhiên tự tại, thấu suốt lẽ sinh tử là cốt lõi tỉnh thức để hiểu sử thi, thơ ngoài ngàn năm và đạt tới sự giác ngộ.
Sách “Văn đàn bảo giám” một pho sách quý của Trần Trung Viên sưu tập văn chương của 226 tác giả, trong đó 66 vị được ghi vào mục tiểu sử các bực thi hào Việt Nam. Sách do, Nhà Xuất Bản Văn học ấn hành năm 1999. Tác giả Trần Khánh Dư có bài thơ Bán than được chọn đăng tại trang 24 kèm tiểu sử .Hình ảnh (*) và nội dung nguyên văn như sau:
BÁN THAN Trần Khánh Dư
Một gánh kiền khôn quẩy tếch ngàn Hỏi chi bán đó, dạ rằng than Ít nhiều miễn được đồng tiền tốt, Hơn thiệt nài bao gốc củi tàn Ở với lửa hương cho vẹn kiếp Thử xem sắt đá có bền gan Nghĩ mình lem luốc toan nghề khác Nhưng sợ trời kia lắm kẻ hàn.
(*) “Trần Khánh Dư là tôn thất nhà Trần, phải cách chức ra ở Chí Linh (Hải Dương), đốt củi bán than Sau giặc Nguyên sang xâm, vua Trần Nhân Tôn cho đánh giặc nên bậc danh tướng” .
Bài thơ hay, xúc động, ám ảnh. Tôi đã mang theo đời mình “Chuyện bây giờ mới kể” suốt 50 năm qua. Hôm nay ngày mới, nhân việc đã sáng tỏ hơn nhiều điều uẩn khúc lịch sử qua tìm tòi khảo cứu, nay Trà sớm với bạn hiền. Tôi đọc lại và suy ngẫm chiến công Trận Vân Đồn, cuộc đời Trần Khánh Dư lừng lẫy với thời gian. Đây là đòn chiến dịch quyết định chế thắng của Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư là tướng thủy trực tiếp chỉ huy đánh đắm đoàn chiến thuyền chở mười bảy vạn thạch lương của Trương Văn Hổ tại sông Mang. Trận Vân Đồn với một loạt chiến dịch khác do Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn là tổng chỉ huy cùng hai vua với quân dân thời Trần đã đem lại.chiến thắng vang dội trong Chiến tranh Nguyên Mông–Đại Việt lần 3. Tác phẩm “Bán than” văn chương ngọc cho đời của Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư (124–1340) là kiệt tác soi tỏ cuộc đời nhân huệ kỳ tài, tình duyên và vận mệnh của ông.
Một ngày thu năm 1970, thầy Nguyễn Khoa Tịnh dạy văn sử của Trường cấp ba Bắc Quảng Trạch từ mờ sớm đã đi xe đạp sang nhà anh em tôi. Thầy nói: “Thầy Dộ, (xem Hoàng Ngọc Dộ khát vọng) thầy đọc dùm cho bài thơ này. Trần Khánh Dư là bậc danh tướng không phải là người tham lam, lem luốc. Thơ “Bán than” là con người ông. Trần Khánh Dư văn chương đây. Ông ấy nhất đình hàm oan. Ông là thiên tử nghĩa nam của vua Trần Thánh Tông, lại là cháu nội trưởng tộc của thống soái quốc sư Trần Thủ Độ, con trai trưởng của thượng tướng Trần Phó Duyệt, là tướng trấn thủ đất hương hỏa Nhà Trần tại xứ Chí Linh. Trần Khánh Dư phải tội thông dâm với Thiên Thụy công chúa là chị gái ruột của vua Trần Nhân Tông, vợ của Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn con trai trưởng của Trần Quốc Tuấn. Tướng Trần Khánh Dư trấn thủ Vân Đồn vùng đất cổ họng của chiến địa Bắc Hà, Sự việc đời ông lưu lại ‘Bán than” thế này chắc chắn là có uẩn khúc”.
Thấy quái mà không quái
Thầy Hoàng Ngọc Dộ (là anh Hai của Hoàng Kim) cũng năm 1970 đã tiếp lời “Thấy quái không thấy quái”. Tui cũng tâm đắc như vậy! Ba vua sáng thời đầu nhà Trần đó là Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trân Nhân Tông, đều là bậc minh quân, tâm trong, trí sáng, giỏi tri tâm thuật, lại được vợ chồng Trần Hưng Đạo Thiên Thành công chúa biết tiết chế đức dụng nhân‘ gạt hiềm nghi động trời ‘nắm được lòng dạ của bậc anh hùng” nên thời đầu nhà Trần mới được như vậy. Ba vua giỏi dùng được các cặp ‘song kiếm hợp bích’ kỳ tài muôn đời như Trần Thủ Độ với Trần Thị Dung; Trần Quốc Tuấn với Thiên Thành Công chúa; Trần Quốc Nghiễn với Thiên Thụy Công chúa với Trần Khánh Dư đúng là ông vua bếp; và cả Phạm Ngũ Lão với Anh Nguyên quận chúa nữa. Tui cũng tin là Trần Khánh Dư bị hàm oan, nhưng ông không màng chuyện thị phi này vì có minh quân với người tri kỷ thấu hiểu ông rồi Công đức ấy là thiên thu, phước lớn muôn đời rồi.
TRẦN KHÁNH DƯ VẸN KIẾP
“Ở với lửa hương cho vẹn kiếp. Mà xem sắt đá có bền gan”.Trần Khánh Dư bình sinh là người thế nào? Trần Khánh Dư, hiệu là Nhân Huệ vương, là một chính khách, nhà quân sự Đại Việt dưới thời đại nhà Trần.Đền thờ chính của ông tại Đền Gốm ở khu dân cư Linh Giàng, phường Cổ Thành (TP Chí Linh) ảnh http://baohaiduong.vn/di-tich/nhan-hue-vuong-tran-khanh-du-va-2-di-tich-143251.Đền thờ khác của ông ở trại An Trung, Hà Nam nơi ông khai hoang lập ấp, bỏ tiền nhà ra giúp vốn cho dân, hướng dẫn dân trồng cây cói và làm nghề dệt cói Ông mất năm 1340, hưởng thọ 100 tuổi, trãi 5 đời vua..Nơi mất và lửa hương ông quanh năm tại đền thờ trên nền nhà xưa của ông. Nơi đó có bức đại tự “Uống nước nhớ nguồn” và đôi câu đối “Nhân Huệ Vương mở mới bến sông, đồng ruộng tốt tươi nay vẫn đó Họ Bùi Nguyễn theo nền nối chí, cửa nhà đông đúc trước còn đây” Hoàng Kim viết bài “Trần Khánh Dư vẹn kiếp” nhân đọc “Trần Khánh Dư” của Lưu Sơn Minh là Sách hay thầy bạn quý,Tiếng vọng của thời gian với sự đồng cảm “Năm tháng đó là em” :Trần Khánh Dư vẹn kiếp” https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tran-khanh-du-ven-kiep
Trần Khánh Dư sinh ngày 13 tháng 3 năm 1240, tại thị xã Chí Linh; mất ngày 23 tháng 4 năm 1340, tại trại An Trung, xã Dương Hòa, lộ Lý Nhân, Hà Nam. Cha của ông là thượng tướng Nhân Thành Hầu Trần Phó Duyệt. Mẹ của ông là Trần Thái Anh (?). Ông nội của ông là Thống quốc thái sư Trần Thủ Độ. Phố Trần Khánh Dư ngày nay có ở Hà Nội, Nam Định: Hải Phòng; Huế; Nha Trang;:Hồ Chí Minh; Đà Lạt; Rạch Giá Kiên Giang; Cần Thơ.
Trần Khánh Dư là danh tướng ngay từ lúc còn trẻ đã lập đại công hiển hách từ trận thắng Nguyên Mông lần đầu, và tiếp đó ông chế thắng quân Man, được vua Trần Thành Tông phong tước Thiên tử nghĩa nam, với chức vụ Phiêu kỵ tướng quân,theo sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú. Ông mắc trọng tội thông dâm với công chúa Thiên Thụy, con gái của vua Trần Thánh Tông, vợ của Trần Quốc Nghiễn (con trai của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn). Sự việc xảy ra trước năm 1282 bị bại lộ, bị phạt đánh 100 trượng nhưng thoát chết, vì vua và Quốc Công đều mến tài nên ông may được sống.
Trần Khánh Dư là người “bán than’ có bài thơ nổi tiếng và Cuộc gặp gỡ với vua Trần Nhân Tông, được trọng dụng trở lại, để có chiến công hiển hách, đốt sạch thuyền quân lương của Trương Văn Hổ, tạo trận thắng quyết định của Nhà Trần trong chuỗi thắng trận giặc Nguyên Mông lần thư ba. Ông là Phó Đô Thống tướng chỉ huy quân đánh biển do đích thân Hưng Đạo Vương kiến nghị hai vua cất nhắc. Ông cũng là người viết Bài tựa sách Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư của Trần Quốc Tuấn.
Sách “Văn đàn bảo giám” một pho sách quý của Trần Trung Viên sưu tập, Nhà Xuất Bản Văn học 1999 (hình) , 2004 và nhiều lần tái bản khác. Sách này dày 1035 trang, do Nhà Xuất bản Văn học ấn hành quý II năm 1999. Ở trang đầu tiên có ghi: Dương Bá Trạc: đề tựa Tản Đà: đề tựa 1934 Trần Tuấn Khải: duyệt lại Nam ký: Hán Việt văn biểu Hư Chu: Sắp xếp lại năm 1998 Lời nhà xuất bản cho biết: Sách được in lần đầu từ năm 1926 đến năm 1938 mới trọn bộ. Và đã in lại mấy lần kể cả ở miền Nam trước thời giải phóng. Trong sách có viết về Tiểu sử Trần Khánh Dư “Trần Khánh Dư là tôn thất nhà Trần, phải cách chức ra ở Chí Linh (Hải Dương), đốt củi bán than Sau giặc Nguyên sang xâm, vua Trần Nhân Tôn cho đánh giặc nên bậc danh tướng” Sách này (Văn đàn bảo giám) tại trang 24 có bài thơ Bán thanTrần Khánh Dư như sau: Một gánh kiền khôn quẩy tếch ngàn Hỏi chi bán đó, dạ rằng than Ít nhiều miễn được đồng tiền tốt, Hơn thiệt nài bao gốc củi tàn Ở với lửa hương cho vẹn kiếp Thử xem sắt đá có bền gan Nghĩ mình lem luốc toan nghề khác Nhưng sợ trời kia lắm kẻ hàn Sách Văn đàn bảo giám liệt kê 226 tác giả, trong đó 66 vị được ghi vào mục Tiểu sử các bực thi hào Việt Nam Chín người đầu danh sách này tuần tự là Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tôn, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Đoàn Thị Điểm, Phạm Thái, Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du. Trần Khánh Dư bán than được xếp ở thứ hạng 65.
Danh tướng Trần Khánh Dư trên Wikipedia tiếng Việt đã ghi chép về ông tại mục từ Trần Khánh Du 陳慶餘, (13 tháng 3, 1240 – 23 tháng 4, 1340), hiệu là Nhân Huệ vương (仁惠王), là một chính khách, nhà quân sự Đại Việt dưới thời đại nhà Trần.Ông nổi bật với việc giữ chức Phó đô tướng quân trong kháng chiến chống Nguyên lần 2 và 3, tiêu diệt đoàn thuyền lương quân Nguyên ở Vân Đồn năm 1288, tham gia chinh phục Chiêm Thành năm 1312 nhưng bị sử sách phê phán vì tính tham lam, thô bỉ thể hiện qua câu nói “Tướng là chim ưng, dân lính là vịt, dùng vịt để nuôi chim ưng thì có gì là lạ?”
Tài liệu này nhằm góp phần tìm hiểu làm sáng tỏ Trần Khánh Dư vẹn kiếp qua bốn ghi chú nhỏ: 1) Ăn cháo nói càn khôn 2) Chuyện bây giờ mới kể; 3) Tự do ngời tâm đức; 4) Văn chương ngọc cho đời.
Cụ Nguyễn Quốc Toàn, thiền sư giữa đời thường, (xem Chuyện cụ Nguyễn Quốc Toàn) và anh Rúc Hung, chuyên gia ngôn ngữ văn hóa “ăn cháo nói càn khôn” (xem thư tịch anh Ruc Hung), đưa chuyện “Bán than” “Trần Khánh Dư” ra bàn luận. Hoàng Kim vào góp chuyện:
Hai ông ăn cháo nói chuyện càn khôn (1) Bánh đúc Chợ Đồn cháo ngon Đồng Hới Minh sư Hưng Đạo thấu hiểu Khánh Dư Nhớ chuyện Vân Tiên yêu thương Lão Quán Binh thư yếu lược chọn tướng cực tài (2) Bát quái tùy thời lời dẫn kiệt tác (3) Lửa hương vẹn kiếp sắt đá bền gan (4) Đá Đứng sông thiêng (5) Linh Giang Minh Lệ
Mời quý thầy bạn theo đường dẫn Ăn cháo nói càn khôn để rõ thêm các ghi chú mà Hoàng Kim trao đổi https://hoangkimlong.wordpress.com/category/an-chao-noi-can-khon/. Cụ Nguyễn Quốc Toàn ngày 9 tháng 3 năm 2021 trong bài·”Với Hoàng Kim” đã trao đổi rằng Cụ nhận xét về bài thơ “Chuyện đồng dao cho em” “Ăn cháo nói càn khôn” : 1) Theo từ điển tiếng Việt: “Đồng dao là lời bài hát dân gian truyền miệng của trẻ em, thường kèm một trò chơi nhất định”. Bài thơ của Hoàng kim nói đến những địa danh ở Quảng Bình, những nhân vật lịch sử thời Trần, Bát quái trong kinh dịch, những món ngon ở Ba Đồn, Đồng Hới… nên không thể gọi là đồng dao cho trẻ em được.- Chưa rõ Hoàng Kim dựa vào tứ thơ nào để triển khai thành bài thơ “Chuyện đồng dao cho em”. Ý thơ nhảy từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác không liên quan gì nhau. Đang “Bánh đúc chợ Đồn cháo ngon Đồng Hới” liền ngay với “Minh sư Hưng Đạo thấu hiểu Khánh Dư”. Tác giả có sự thăng hoa cảm xúc về quê nhà, về lịch sử đất nước, về những danh nhân…nhưng ngần ấy ý tưởng không thể nói hết trong 64 từ (của bài thơ) nên mới dồn nén câu chữ đến như vậy chăng ?? 3- Cũng do phải dồn nén nên tác giả đã dùng 5 chú thích cho 8 câu thơ. Tổng cộng số chữ chú thích là 3712, gấp 58 lần số chữ của bài thơ. Đây là sự lạ.Tương truyền giáo sư Hà Văn Tấn chú thích sách Dư điạ chí của Nguyễn Trãi bằng số chữ của bản gốc, tưởng đã kinh khủng. Nhà thơ Hoàng Kim lại còn gấp 58 lần thì cổ kim đông tây hiếm ai chú thích với tỷ lệ như vậy. 4)- Tuy nhiên cái sự lạ của Hoàng Kim làm bu thấy lý thú, nhất là hai câu đầu:. “Hai ông ăn cháo nói chuyện càn khôn Bánh đúc chợ Đồn cháo ngon Đồng Hới” Hai câu thơ tả chân mà đượm vẻ hài hước.. Đúng là bulukhin (là cụ Nguyễn Quốc Toàn) được bạn Ruc Hung chiêu đãi cháo “ba trong một” tuyệt ngon ở Đồng Hới. Ăn cháo và bàn chuyện trên trời (càn) cùng chuyện dưới đất (khôn). Hoàng Kim thưa với cụ Nguyễn Quốc Toàn rằng: Thơ Đồng dao là thể thơ có nhịp đồng dao, với vần điệu vui tai, ẩn chứa giá trị giáo dục bình dân mà sâu sắc Nhiều minh sư khéo vận dụng lối diễn đạt này qua các tích cổ dân gian. Chuyện đồng dao cho emTrần Khánh Dư vẹn kiếp “Ở với lửa hương cho vẹn kiếp. Thử xem sắt đá có bền gan” là một công án thực sự tuyệt vời, và ngay cả học sinh giỏi văn thời ấy và thời nay cũng rất khó kiến giải xác đáng nếu không có được một kiến văn và sự trãi nghiệm sâu sắc.Sách “Văn đàn bảo giám” giới thiệu bối cảnh bài thơ vỏn vẹn có bốn dòng “Tiểu sử Trần Khánh Dư” ghi “Trần Khánh Dư là tôn thất nhà Trần, phải cách chức ra ở Chí Linh (Hải Dương), đốt củi bán than. Sau giặc Nguyên sang xâm, vua Trần Nhân Tôn cho đánh giặc nên bậc danh tướng”. Tích truyện ngắn như vậy, nhưng văn sử Việt đến nay đã tốn biết bao giấy mực để nhận thức cho đúng sự thật. Bài thơ “Bán than” không dễ dàng phân tích và bình luận: “Một gánh càn khôn quẩy tếch ngàn,/Hỏi chi bán đó, gửi rằng than /Ít nhiều miễn được đồng tiền tốt,/Hơn thiệt nài bao gốc củi tàn./ Ở với lửa hương cho vẹn kiếp, /Thử xem sắt đá có bền gan./Nghĩ mình lem luốc toan nghề khác,/Nhưng sợ trời kia lắm kẻ hàn”
Anh Nguyễn Đình Diệm có bài “Chí lớn” đối họa “Bán than”
Thân mang chí lớn hướng xuôi ngàn Đốn củi chui hầm đốt lửa than Tiết nghĩa nung lòng đừng đễ nát Tinh anh náu dạ chớ hư tàn Lửa hương chung phận cho tròn kiếp Sắt đá xem phần có chắc gan Lem luốc trông mình toan bỏ nghiệp Nhưng lo đông buốt kẻ cơ hàn. Hương Thềm Mây 15.5.2021
Bác Hồ chủ thuyết Việt Nam Dân Chủ Công Hòa Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc là rất hay ! Thầy Nguyễn Khoa Tịnh trò chuyện với thầy Hoàng Ngọc Dộ là anh hai tôi. Tuyên ngôn Độc lập nước Mỹ năm 1776 nhấn mạnh quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc. Học thuyết Tam dân của Tôn Trung Sơn “Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”, đồng quan điểm ấy. Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích Chủ nghĩa Tam dân là gì ? “ Định nghĩa theo cách đơn giản nhất, Chủ nghĩa Tam dân là chủ nghĩa cứu nước “ Chủ nghĩa Tam dân đưa Trung Quốc tới một địa vị quốc tế bình dẳng, địa vị chính trị bình đẳng, địa vị kinh tế bình đẳng, làm cho Trung Quốc mãi mãi tồn tại trên thế giới “.
Tại sao Trần Khánh Dư “bán than” hay vậy? Bởi chính là tư tưởng tự do cao nhất trong sự thể hiện khí phách nam nhi và bản lĩnh của mình. Kẻ sĩ tinh hoa là người dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm; biết suy tính sâu xa. Thầy Nguyễn Khoa Tịnh bình thơ ‘Bán than”
Bình quyền nam nữ khơi dậy được trí tuệ và tài năng phái đẹp của một nửa nhân loại. Tại sao chỉ nói đến Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Nhiễm, Trần Khánh Dư , Phạm Ngũ Lão là khai quốc công thần mà không nói đến công đức Trần Thị Dung, Thiên Thành công chúa Quốc Mẫu, Thiên Thụy công chúa, Anh Nguyên công chúa. Chính họ là một nửa của những chiến công hiển hách nhất thời Trần. Thầy Hoàng Ngọc Dộ tiếp lời thầy Nguyễn Khoa Tịnh. xem tiết https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tu-do-ngoi-tam-duc/
“Thông qua các tài liệu chính sử và văn bia, thần phả, thần tích, chúng ta được biết, Trần Thủ Độ là người có bản lĩnh chính trị và cá tính khác thường. Ông xử lý việc gì cũng thẳng thắn, quả quyết theo ý chí của mình, ít khi để cho tình cảm sai khiến. Ông là người luôn đặt lợi ích của dòng họ Đông A lên trên. Có thể nói ông là nhân vật trụ cột, là người thực hiện thành công ý tưởng đoạt ngôi vua triều Lý về tay triều Trần mà Trần Tự Khánh trước đây thường ấp ủ nhưng không thực hiện được vì ông mất sớm (1223). Trần Thủ Độ là một đại công thần, là người sáng lập và trực tiếp lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước những năm đầu thời kỳ nhà Trần. Trong suốt 40 năm (1226-1264), cuộc đời và sự nghiệp của ông gắn liền với nghiệp đế của họ Trần, với quá trình khôi phục và phát triển kinh tế xã hội Việt Nam từ đống tro tàn của triều Lý vào thế kỷ XIII.
Chiến công oanh liệt đánh bại quân xâm lược Mông Cổ lần thứ nhất (1258) và câu nói bất hủ, khảng khái, thể hiện ý chí của người anh hùng: “Đầu thần chưa rơi, xin bệ hạ đừng lo” của ông, đã để lại trong dân tộc Việt Nam một hình tượng Trần Thủ Độ anh hùng, bất khuất, tài năng, quả cảm. Đánh giá về ông xưa nay vẫn có nhiều cách nhìn nhận khác nhau; nhưng không thể phủ nhận được công lao to lớn của ông với Vương triều Trần và nhà nước Đại Việt.
Trần Thủ Độ sinh năm Giáp Dần (1194), ở Lưu Gia, Tinh Cương, hương Đa Cương (nay là làng Lưu Xá, xã Canh Tân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).
Theo nguồn tư liệu điền dã của cụ Dương Quảng Châu, thì thân sinh của Trần Thủ Độ là Trần Hoằng Nghị. Đáng tiếc các tư liệu điền dã đó chưa đủ cơ sở để chứng minh một cách khoa học, chính xác về thân phụ của Trần Thủ Độ. Chính sử đều ghi ông mồ côi cha mẹ từ bé và ở với bác là Trần Lý chứ không ghi rõ bố mẹ ông là ai.
Thực tế khảo sát điền dã ở làng Mẹo (Thái Phương, Hưng Hà), chúng ta đã thấy rõ đền đình ở đây thờ lục vị thần hoàng (những vị thần hoàng này không có ai là họ Trần như một số người lầm tưởng); và cũng không thờ vị nào tên là Trần Hoằng Nghị được tôn là thần hoàng hay phúc thần của làng. Nhân vật được thờ ở làng Xuân La và Phương La là “Trang Nghị Đại Vương”. Đây là nhân vật mà một số nhà nghiên cứu cho rằng đó là Trần Hoằng Nghị, nhưng theo thần phả, thần tích ở đình làng Xuân La thì Trang Nghị Đại Vương là một Thiên thần (con thần sấm) được vua Đường Trung Quốc và Cao Biền phong cho chứ không phải là một nhân thần.
Thực tế, nếu một người có công với dân với nước như Trần Hoằng Nghị: Khai hoang, lập ấp, dạy dân làm nghề, mở chợ, buôn bán và lại là thân sinh của Trần Thủ Độ (?) thì chắc hẳn triều đình phong kiến ngày xưa chí ít cũng phải phong cho ông làm một chức gì đó hoặc tôn ông làm thần hoàng và thờ ở đình làng. Ngay cả Trần Thủ Độ cũng không được thờ ở làng ứng Mão xa xưa thì quả là điều vô lý vì nó trái với đạo lý uống nước nhớ nguồn của người Việt Nam. Từ đó có thể nói rằng, đền Nhà Ông và Trần Hoằng Nghị không liên quan đến Trần Thủ Độ. Ông sinh ra ở Lưu Xá chứ không phải ở làng Mẹo như một số người lầm tưởng.
“Đại Việt sử ký toàn thư” từng ghi nhận thời Trần có hai người được vua cho lập sinh từ thờ khi vẫn còn sống là Trần Thủ Độ và Trần Quốc Tuấn. Vậy chẳng lẽ bố Trần Thủ Độ lại không được thờ phụng hoặc được truy phong, chí ít cũng là thần hoàng của một làng (?). Trong khi đó ở Hưng Hà hiện có năm làng thờ Trần Thủ Độ nhưng không phải là ở làng Mẹo mà là ở tổng Tống Xuyên xưa (nay gồm các xã Thái Hưng, Liên Hiệp thuộc Hưng Hà, Thái Bình).
Điều đó rõ ràng không phải nhà Trần quên Trần Hoằng Nghị mà thực ra không có nhân vật này. Thực tế chỉ có vị Thiên thần Trang Nghị Đại Vương được thờ ở xã Thái Phương mà thôi. Vì thế, không thể nói khi chưa đủ chứng cứ để khẳng định có nhân vật Trần Hoằng Nghị và càng không thể nói ông là thân sinh của Trần Thủ Độ được. Giáo sư Vũ Khiêu trong tổng kết cuộc hội thảo về Trần Hoằng Nghị tại Hà Nội năm 2007, khi đánh giá về việc ai là thân sinh của Trần Thủ Độ, đã nói: “Đây là vấn đề tồn nghi cần phải tìm hiểu các tư liệu ở các địa phương trong nước và ngoài nước. Tiến hành hội thảo nhiều lần mới đi đến kết luận chính xác được”.
Thực tế bố mẹ Trần Thủ Độ là ai, đến nay qua bảy, tám trăm năm vẫn chưa ai giải đáp được (kể cả Lê Văn Hưu – sử gia thời Trần; Phan Phu Tiên và Ngô Sĩ Liên – thời Lê).
Chính sử khẳng định Trần Lý ở Lưu Gia trang và chính sử cũng cho biết Trần Lý nuôi Trần Thủ Độ từ nhỏ. Từ đó có thể nói Trần Thủ Độ sinh ra ở đất Lưu Xá (Hưng Hà, Thái Bình). Cuộc đời Trần Thủ Độ là cuộc đời của một con người tài ba, thao lược cả về chính trị, quân sự và kinh tế… Có thể nói sau khi Trần Tự Khánh chết (1223), Trần Thủ Độ là người kế tục một cách xuất sắc sự nghiệp toan tính giành ngôi từ vương triều nhà Lý về tay nhà Trần. Đỉnh cao của toan tính này là “màn kịch” nhường ngôi vua của Lý Chiêu Hoàng cho chồng là Trần Cảnh vào cuối thời Lý (1225); mở đầu cho giai đoạn nắm quyền cai trị nước Đại Việt của Vương triều Trần. Khi còn sống, Trần Thủ Độ là người nắm thực quyền và là linh hồn của Vương triều Trần. Sử chép: “Thủ Độ tuy làm Tể tướng, nhưng mọi việc không việc gì là không để ý tới”. Thực tế khi Trần Cảnh bị ép lấy chị dâu (vợ Trần Liễu), bỏ lên Yên Tử nhưng cuối cùng cũng phải quay về kinh thành trước sự cứng rắn và khôn khéo của Trần Thủ Độ: “Vua ở đâu thì kinh thành ở đó”. Với tư tưởng có dựng được nước mạnh mới giữ được nước bền, Trần Thủ Độ tiến hành từng bước đổi mới đất nước Đại Việt.
Trần Thủ Độ là người không chỉ có mưu lược trong việc dựng nước và giữ nước mà ông còn là một người có đầu óc tổ chức, phát triển kinh tế đất nước. Các tư liệu lịch sử về việc đổi mới kinh tế thời Trần (khi Trần Thủ Độ còn sống) không có nhiều, nhưng qua các tài liệu hiện còn lưu giữ, ta có thể thấy rằng khi thực sự nắm quyền điều hành đất nước, Trần Thủ Độ và Vương triều Trần đã nhận thấy sự yếu kém về kinh tế của nhà nước Đại Việt dưới thời Lý Huệ Tông. Vì thế ông đã tiến hành cho phép chuyển công hữu thành tư hữu.
Cụ thể, “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi: “Tháng Sáu bán ruộng công, mỗi diện 5 quan tiền (diện tương đương với mẫu bây giờ), cho phép nhân dân mua làm ruộng tư”.
Sau khi đã nắm thực quyền trong tay, Thủ Độ đã tấu với vua không chỉ bán ruộng cho những người nông dân không tấc đất cắm dùi mà ông còn củng cố đê điều, đắp đê ngăn nước mặn, đào sông khai thông đường thuỷ, bộ. “Đại Việt sử ký toàn thư” viết: “Tháng 3, sai các lộ đắp đê giữ nước sông, gọi là đê Đỉnh Nhĩ (Quai Bạc), đắp suốt từ đầu nguồn đến bờ biển để giữ nước lụt khỏi tràn ngập. Đặt chức Hà đê Chánh phó sứ để trông coi. Chỗ đắp thì đo xem đắp mất bao nhiêu ruộng đất của dân, theo giá trả lại tiền. Đắp đê Đỉnh Nhĩ bắt đầu từ đấy”(1). Qua các tài liệu lịch sử triều đại thì các công trình thuỷ lợi dẫn nước, tiêu nước sản xuất nông nghiệp ở thời nhà Trần phát triển rất cao.
Trần Thủ Độ huy động không chỉ sức dân mà còn lệnh cho binh lính phải tham gia làm thuỷ lợi. “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi: “Tân Mão năm thứ 7 (1231), (Tống Thiên Định năm thứ 4), mùa xuân, tháng giêng, sai Nội Minh Tự là Nguyễn Bang Cốc (hoạn quan) trông coi các binh hữu đường phủ, đào vét các kênh trầm và hào từ phủ Thanh Hoá đến cõi Nam Diễn Châu”(2). Được sự tấu trình của Trần Độ, Trần Cảnh xuống chiếu cho cả nước Đại Việt dùng tiền “tinh bạch”, mỗi tiền là 60 đồng (tiền nộp cho nhà nước là tiền thượng cung thì mỗi tiền là 70 đồng).
“Năm Bính Thìn (1236), mùa xuân, tháng giêng, định lệ cấp lương bổng cho các quan văn võ trong triều và các quan ở cung điện, lăng miếu, chia tiền thuế ban cấp theo thứ bậc” (Sđd). Không những thế, Trần Thủ Độ còn bỏ tiền đánh thuế bằng hiện vật, thu thuế bằng tiền mặt. Một sự đổi mới chính sách thuế theo sở hữu ruộng đất cũng là một việc làm hơn hẳn các triều đại trước. Nó thể hiện tư duy phát triển kinh tế rất cao của Trần Thủ Độ: “Nhân dân có ruộng đất thì nộp tiền thóc, người không có ruộng đất thì miễn cả… (riêng tô vẫn thu bằng thóc)” (Sđd).
“Tháng Chín, xuống chiếu cho các ty xét án được lấy tiền bình bạc” hoặc “duyệt sổ đinh” để thu thuế và cũng là để điều động xây dựng kinh tế, thành lập ra 61 phường ở kinh thành để quản lý việc giao thương. Rõ ràng, dưới sự quản lý và chỉ đạo của Trần Thủ Độ, kinh tế Đại Việt đã phát triển mạnh mẽ, việc buôn bán giao lưu bằng đường bộ, đường sông rất thuận lợi, không những thế ông còn chú trọng mở các thương cảng ven sông, biển để đẩy mạnh việc giao lưu buôn bán hàng hoá trong nước và ngoài nước.
Không chỉ chú trọng phát triển kinh tế mà ông còn chủ trương phát triển Nho học. Trần Thủ Độ tâu vua cho xây Quốc Tử Giám, đẩy mạnh việc thi cử để tuyển chọn hiền tài cho đất nước: “Tháng 2 (1232), thi thái học sinh. Đỗ đệ nhất giáp là Trương Hanh, Lưu Diễm, đệ nhị giáp là Đặng Diễn, Trịnh Phẫu, đệ tam giáp là Trần Chu Phổ”(1).
“Đinh Mùi năm thứ 16 (1247), mùa xuân, tháng 2, mở khoa thi chọn học trò. Cho Nguyễn Hiền đỗ trạng nguyên, Lê Văn Hưu đỗ bảng nhãn, Đặng Ma La đỗ thám hoa, lấy đỗ thái học sinh 48 người”(2). Chính nhờ sự chú ý và coi trọng (hiền tài là nguyên khí quốc gia) nên thời nhà Trần đã xuất hiện rất nhiều hiền tài phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đặc biệt là trong ba cuộc chiến tranh chống Nguyên Mông, các nhân sĩ, tướng lĩnh Đại Việt, tuổi trẻ tài cao đã góp phần làm vẻ vang cho lịch sử dân tộc như: Nguyễn Hiền, Đặng Ma La, Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải v.v…
Trần Thủ Độ còn hoạch định: “Chép công việc của quốc triều làm Bộ Quốc triều thường lễ, 10 quyển” (Sđd).
Ông đề ra khung bậc, thể thức của luật hình. Tạo đường cho Bộ Quốc triều hình luật ra đời để tiện việc nắm tình hình đất nước, quản lý chặt chẽ hơn. Trần Thủ Độ chia nước thành 12 lộ, mỗi lộ đặt chức chánh phủ xứ. Trần Thủ Độ còn duyệt định hộ khẩu trong cả nước, đặt các chức quan đại tư xã cùng các chức xã chính, xã quan. Không chỉ là người đề ra các tư tưởng pháp trị, mà ông còn để lại cho đời sau tấm gương về tính thẳng thắn, nghiêm túc trong việc thi hành luật. Đối với ông, luật pháp không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, bất cứ ai, dù là đối tượng nào, ở vị trí nào đi chăng nữa, nếu vi phạm lụât pháp đều bị xử lý theo đúng quốc luật đã ban hành. Nặng hay nhẹ tuỳ thuộc vào hành vi vi phạm luật của người đó.
“Đại Việt sử ký toàn thư” chép: “Thủ Độ tuy không có học vấn nhưng tài lược hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tôn lấy được thiên hạ đều là mưu sức của Trần Thủ Độ cả, cho nên nhà nước phải nhờ cậy”… (tr.478).
Tài năng nhìn người của ông được thể hiện ở việc “khi vua Trần Thái tông muốn cho người anh của Thủ Độ là An Quốc làm tướng, Thủ Độ nói: “An Quốc là anh thần, nếu là người hiền thì thần xin nghỉ việc, nếu cho là thần hiền hơn An Quốc thì không nên cử An Quốc”… vua bèn thôi”(1). Phải chăng, Trần Thủ Độ đã sớm nhìn ra tính cách hai mặt của anh trai mình? Sự thật sau này An Quốc đã cùng với vợ (tương truyền là một công chúa nhà Lý) nổi loạn chống lại nhà Trần ở Quắc Hương, Vụ Bản, Nam Định. Cuộc nổi loạn đã bị chính Trần Thủ Độ dẹp tan. Phải khẳng định rằng ông là người có bản lĩnh chính trị và cá tính đặc biệt trong lịch sử Việt Nam. Ông làm việc gì cũng dứt khoát, xử lý quyết đoán theo ý chí của mình, ít để cho người khác sai khiến.
Ông luôn là người đi tiên phong trong cuộc đấu tranh giành ngôi vua từ tay nhà Lý chuyển sang nhà Trần cũng như các cuộc chiến đấu chống lại các phe phái như Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn hoặc trong kháng chiến chống Nguyên Mông. Đối với ông hoặc là chết cả họ hoặc là được cả thiên hạ! Bất cứ việc gì có lợi cho dòng tộc nhà Trần thì ông đều quyết làm bằng được. Ông là người đa mưu túc trí, khi đánh dẹp các thế lực chống đối, ông thấy thắng thì đánh, thấy cần hòa hoãn để đợi thời cơ thì tiến hành đàm phán. Thậm chí gả cả em gái vua cho Nguyễn Nộn hoặc phong vương cho Nguyễn Nộn và Đoàn Thượng (Đông Hải Đại Vương). Không những thế, ông còn bày mưu chia rẽ, gây mâu thuẫn để Nguyễn Nộn tiến đánh và giết Đoàn Thượng, nhằm mượn tay người để giảm bớt lực lượng chống đối mình.
Khi giặc Nguyên xâm lược Đại việt lần thứ nhất, ông là linh hồn của cuộc kháng chiến với câu nói bất hủ “Đầu tôi chưa rơi xuống đất thì bệ hạ không cần lo ngại gì cả”(1). Ông là người ngồi trong màn trướng mà định việc thiên hạ; chỉ đạo các tướng Lê Tần, Trần Khánh Dư, Trần Phó Duyệt và kể cả Trần Hưng Đạo (lúc đó còn trẻ) ra trận. Ngay chính cả vua Trần Thái Tông, thái tử Trần Hoảng… cũng đều vác gươm đánh giặc. Trần Thủ Độ là nhà chính trị, kinh tế, quân sự toàn tài.
Ông một lòng trung thành với triều đình nhà Trần. Đối với ông, Vương triều Trần là tất cả. Ngay cả việc ép vợ Trần Liễu gả cho Trần Cảnh ông cũng dám làm. Không phải ông không nghĩ tới việc Trần Liễu có hay không có động thái phản ứng; mà điều ông quan tâm nhất là tương lai của ngai vàng triều đình do ông tốn bao công sức xây dựng lên, liệu có người nối dõi hay không. Ông quả là một công thần hiếm có của Vương triều Trần – Đại Việt và là một người anh hùng của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ thứ XIII. Sử chép: “Giáp Tý năm thứ 7 (1264), Tống cảnh định năm thứ 5, Nguyên chí nguyên năm thứ 1, mùa xuân, tháng giêng, Thái sư Trần Thủ Độ chết (tuổi 71), truy tặng Thượng phụ Thái sư Trung Vũ Đại Vương”.
(trích) ” Vậy Trần Khánh Dư được sách sử ghi lại như thế nào? Rất ít tài liệu ghi chép về chuyện thiếu thời của Trần Khánh Dư. Năm sinh của ông cũng không rõ, chỉ biết ông quê ở Chí Linh (Hải Dương), là con trai của thượng tướng Trần Phó Duyệt. Ông có tài mưu lược, dùng binh, uyên thâm văn sử, song cũng nhiều tật.
Mắc tội thông dâm với công chúa
Trong Lịch triều hiến chương loại chí, nhà sử học Phan Huy Chú viết Trần Khánh Dư là người tôn thất nên được phong tước Nhân Huệ vương. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất (năm 1258), ông thường thừa cơ đánh úp và giành thắng lợi. Trần Khánh Dư được vua Trần Thánh Tông khen trí dũng, phong làm Thiên tử nghĩa nam (tức con nuôi của vua).
“Sau khi đánh người Man ở núi, đại thắng, Trần Khánh Dư lại được phong Phiêu Kỵ đại tướng quân. Chức Phiêu Kỵ nếu không phải là hoàng tử thì không được phong, vì ông là con nuôi vua nên mới được. Ông được vua yêu, từ tước hầu mấy lần được phong lên Thượng vị hầu áo tía, rồi cất lên làm phán thủ”, sách Lịch triều hiến chương loại chí chép.
Thời gian làm quan trong triều, Trần Khánh Dư đã mắc trọng tội. Ông thông dâm với công chúa Thiên Thụy, con gái của vua Trần Thánh Tông, vợ của Trần Quốc Nghiễn (con trai của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn). Sự việc xảy ra trước năm 1282 bị bại lộ, Trần Khánh Dư bị bắt, theo luật thời bấy giờ phải bị xử tội chết, tịch thu hết tài sản.
Vua Trần Thánh Tông rơi vào tình thế khó xử. Không xử Trần Khánh Dư tội chết thì luật pháp không nghiêm và gây ra nỗi hận thù cho Trần Quốc Nghiễn. Vua phải nể mặt Hưng Đạo Vương, nhưng cũng không thể giết người con nuôi vừa có tài, vừa có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Cuối cùng, vua cho dùng cực hình, phạt Khánh Dư 100 trượng, đánh tại Hồ Tây.
Theo luật bấy giờ, đánh 100 roi không chết là thiên mệnh cho sống. Vì vậy, vua Thánh Tông đã ngầm ra lệnh cho quan sai nha đánh chúc gậy xuống khiến Khánh Dư đau nhưng không chết. Như vậy, mọi người đều công nhận ông sống là do “thiên mệnh soi sáng”. Cách của vua coi như thành công, hợp lòng người.
Mặc dù không chết, Trần Khánh Dư vẫn bị tịch thu hết tài sản, phế truất binh quyền. Ông về quê cha ở Chí Linh làm nghề bán than kiếm sống.
Cuộc gặp gỡ với vua Trần Nhân Tông và chiến công hiển hách
Tháng 10/1282, khi nhà Trần tổ chức hội nghị Bình Than, vua Trần Nhân Tông gặp Khánh Dư (khi đó Trần Thánh Tông là Thái Thượng hoàng). Theo Đại Việt sử ký toàn thư, lúc thuyền của vua đỗ ở bến Bình Than thì bắt gặp một thuyền lớn chở than củi, người lái thuyền đội nón lá, mặc áo ngắn. Vua đoán là Khánh Dư, sai người chèo thuyền đuổi theo.
Đến cửa Đại Than, quân hiệu gọi “Ông lái ơi có lệnh vua gọi”. Khánh Dư trả lời “Lão là người buôn bán, có việc gì mà vua gọi”. Quân hiệu trở về tâu lại sự việc thì vua chắc chắn đó là Nhân Huệ vương bởi “người thường tất không dám nói thế”, liền sai nội thị đi gọi.
“Nam nhi mà đến thế là cùng cực lắm rồi”, vua nói khi Khánh Dư đến gặp rồi xuống chiếu tha tội cho ông, ban áo ngự, cho ngồi ở hàng dưới các vương, hàng trên công hầu. Trần Khánh Dư bàn việc nước, nhiều điều hợp ý vua.
Khi quân Nguyên Mông xâm lược Đại Việt lần thứ ba (năm 1287), thủy quân Nguyên đánh vào Vân Đồn (Quảng Ninh ngày nay), Hưng Đạo Vương giao hết công việc biên thùy cho phó tướng Vân Đồn lúc đó là Trần Khánh Dư.
Khánh Dư để thất thủ, Thượng hoàng Trần Thánh Tông hay tin liền sai trung sứ đến xiềng ông giải về kinh. Khánh Dư nói với trung sứ: “Lấy quân pháp mà xử, tôi cam chịu tội, nhưng xin khất vài ba ngày để tôi mưu lập công rồi về chịu tội búa rìu cũng chưa muộn”.
Khánh Dư biết thủy quân của giặc đã qua, thuyền vận tải lương thực chắc chắn theo sau nên thu thập tàn quân đợi chúng. Khi thuyền vận tải lương thực đến, ông đánh bại, bắt được rất nhiều quân lương, khí giới, tù binh của giặc.
Cho rằng chỗ trông cậy của quân Nguyên là lương thảo và khí giới, nay bị quân Đại Việt bắt, vua tha tội cũ cho Trần Khánh Dư, đồng thời thả tù binh về doanh trại quân Nguyên Mông để báo tin. Điều này buộc quân giặc rút lui.
Sách Danh tướng Việt Nam viết, ngoài tài dùng binh, Trần Khánh Dư còn uyên thâm văn sử. Ông viết bài tựa cho cuốn sách nghệ thuật quân sự “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Đoạn mở đầu, ông viết: “Người giỏi cầm quân thì không bày trận, người giỏi bày trận thì không phải đánh, người giỏi đánh thì không thua, người khéo thua thì không chết”.
Lợi dụng chức quyền để buôn bán
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Trần Khánh Dư trấn giữ Vân Đồn, người dân ở đó lấy buôn bán làm kế sinh nhai. Mọi thức ăn uống, may mặc dựa vào khách buôn phương Bắc, quần áo, đồ dùng đều theo tục của người Bắc.
Khánh Dư duyệt quân trang thấy vậy liền ra lệnh: “Quân trấn giữ Vân Đồn để ngăn phòng giặc Hồ, không thể đội nón của phương Bắc, sợ khi vội vàng khó lòng phân biệt. Phải đội nón Ma Lôi (tên một hương ở Hồng Lộ chuyên nghề làm nón), ai trái tất phải phạt”.
Thực tế trước đó Khánh Dư đã ngầm sai người nhà mua nón Ma Lôi. Thuyền chở nón đã đến đậu trong cảng. Lệnh vừa ban ra, ông lại ngầm sai người phao tin “hôm qua thấy trước vùng biển có thuyền chở nón Ma Lôi đến đậu”. Nhận được tin, người dân tranh nhau mua nón. Ban đầu mua không tới một tiền, sau một chiếc nón đổi một tấm vải. Số vải thu được tới hàng nghìn tấm.
Thơ của một người khách phương Bắc có câu “Vân Đồn gà chó hết thảy đều kinh sợ” là mượn ý sợ uy danh của Khánh Dư, thực là châm biếm ông. Vua cho Khánh Dư là tướng tài, lập được nhiều công lao nên không hỏi đến việc này.
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết Trần Khánh Dư có công lao đánh quân Nguyên Mông, nhưng “có tính tham lam, phàm giữ chức trấn thủ ở nơi nào, người trong hạt đều oán ghét”.
Trần Khánh Dư mất năm 1340. Ngày nay, ở bến Đình thuộc xã Quan Lạn (Vân Đồn, Quảng Ninh), người dân vẫn tổ chức lễ hội Quan Lạn, nhằm kỷ niệm chiến thắng Vân Đồn của Trần Khánh Dư.
Nhìn nhận về Trần Khánh Dư, nhà sử học hiện đại Nguyễn Khắc Thuần đã bàn trong Việt sử giai thoại: “Biết được tài của Khánh Dư là vua Trần mà biết được tật của Khánh Dư có lẽ cũng chỉ có vua Trần. Tài thì dùng, tật thì trị… Tiếc thay, Khánh Dư chẳng bỏ được lỗi lầm. Hóa ra, khai sinh danh tướng Trần Khánh Dư là vua Trần, còn khai tử uy danh Trần Khánh Dư lại chính là Trần Khánh Dư”.
Nguyễn Khắc Thuần cũng khẳng định: “Nhờ tài cao mà lập được công lớn nhưng cũng bởi đức mỏng mà để tiếng xấu với đời. Nhân Huệ vương Khánh Dư quả có lý lịch khác thường vậy. Sau Khánh Dư còn nói Tướng là chim ưng, quân dân là vịt, lấy vịt để nuôi chim ưng thì có gì lạ. Sợ thay”!
VĂN CHƯƠNG NGỌC CHO ĐỜI
Thơ “Thơ “Bán than” tôi nghe chuyện lần đầu năm 1970 từ đấy cho đến nay 51 năm (1970- 2021). Thầy Nguyễn Khoa Tịnh và anh hai Hoàng Ngọc Dộ của tôi đến nay đều đã mất. Câu chuyện tuổi thơ tôi còn đó với cuộc đời ngày càng thấm thía hơn “Ở với lửa hương cho vẹn kiếp. Thử xem sắt đá có bền gan”. Trần Khánh Dư bán than sự nghị luận đến nay vẫn chưa có được bộ phim tuyệt hay như phim “Khúc Nhạc Thanh Bình” của Trung Quốc dày công dàn dựng về đời vua Tống Nhân Tông. Những uẩn khúc lịch sử thời Tống Nguyên và Lý Trần đối mặt những công án kỳ lạ. Lớp trẻ nước họ làm được sao nước mình chưa làm được? Vì thiếu sáng tạo và công nghệ với sự thiếu đúc kết dữ liệu sử thi ‘chân thiện mỹ’ chuẩn và hiệu quả. Sự cấp thiết phải thấu hiểu sử thi, sáng tạo và công nghệ số hóa, dạy và học thật kỹ và vận dụng thực hành thật tốt những bài học vô giá của dân tộc, tổ tiên, ông bà, cha mẹ và chính mình, thì mới có thể bảo tồn và phát triển tốt di sản tinh hoa, giúp lớp trẻ vươn tới.
Thầy Nguyễn Khoa Tịnh là người Thầy đã tặng tôi bài thơ “Em ơi can đảm lên” khuôn vàng thước ngọc của tôi. Thầy Hoàng Ngọc Dộ khát vọng, Hoàng Trung Trực đời lính, Hoàng Thị Huyên chị tôi, Hoàng Thị Huyền thương chị là những bài học thân thiết đời tôi. Sách Binh Thư Yếu Lược mà thầy Nguyễn Khoa Tịnh tặng tôi từ thuở ấy, tôi đã mang theo cho tới ngày nay, sau bao nhiêu đổi thay về nơi ở, nhà ở và tôi tự hứa lòng mình luôn đọc lại và suy ngẫm, và mang theo trọn đời. Điều chính yếu của dân tộc, gia tộc là phải sớm ý thức được sự bảo tồn và phát triển, biết chắt lọc tinh hoa giáo hóa dân trí để lưu lại. Đọc lại và suy ngẫm bài học lịch sử văn hóa
Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ văn chương giống và khác nhau thế nào? Thầy Nguyễn Khoa Tịnh và thầy Hoàng Ngọc Dộ trước đây, có nói với tôi: “Những người như Trần Quốc Tuấn, Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư thời Trần đều là những danh tướng lừng lẫy một thời, ra tướng võ, vào tướng văn, nhưng ba người trước đều là nhân tướng, xử thế chuẩn mực, tiết độ. Trần Khánh Dư là một bậc danh tướng, hoặc như Nguyễn Công Trứ sau này cũng đều là trí tướng, nhung họ có khác ba người kia một chút, và họ đều ưu thời. Loại người sau cũng là kỳ tài nhưng phải có minh quân,kỳ tướng mới dùng được. Nhà thơ Hải Như Ngọc Tỉnh (là thân phụ và thân mẫu của anh Hanh Vu ) cũng đã nhận xét vậy nhưng Cụ gộp hai dòng ưu thời này vào làm một và cụ nhấn mạnh sự phân biệt dòng văn chương ưu thời và dòng văn chương xu thời. Dòng văn chương Xu thời quá phổ biến trong mọi xã hội. Dòng văn chương Ưu thời có hai dạng loại của Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ, như Khang Hi và Vi Tiểu Bảo. “Có tác phẩm văn chương đạt giá trị nhân văn đặc biệt tinh khiết sâu xa như món ăn trong thờ cúng, thức ăn khác dẫu rất ngon nhưng khi có một con ruồi nhỡ rơi vào và tuy đã được vớt đi nhưng cảm giác lúc ăn sẽ không bằng thức ăn hoàn toàn tinh khiết. Dòng văn chương ưu thời thứ nhất tinh khiết như vậy”.. Nguyễn Du là biểu tượng dòng văn chương ưu thời thứ nhất. Nguyễn Công Trứ là biểu tượng dòng văn chương ưu thời thứ hai. Còn dòng văn chương xu thời thì quá phổ biến trong mọi xã hội, đó là dòng văn chương thứ ba.
Tôi yêu Kiều Nguyễn Du.
Phan Lan Hoa ngày 11 tháng 10 năm 2012 có bài viết “Em xin làm lẽ Nguyễn Công Trứ” Tôi thảng thốt giật mình vì bài luận, nên vui đùa cầu thân kết bạn: ” Vô nhà đã thấy THƯƠNG, Vì Dặm ân TÌNH, thuyền quyên ứ hự VUI làm thiếp. Ra ngõ rồi thêm NHỚ, Linh Giang ơn NGHĨA, anh hùng khấp khởi SƯỚNG gặp em.” Nhà văn thầy giáo Nguyễn Thế Quang, tác giả hai cuốn tiểu thuyết lịch sử “Nguyễn Du” và “Thông reo ngàn Hống” đã khuyến khích tôi viết chuyên khảo “Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ”. Chín năm qua, tôi viết Kim Notes lắng ghi chú để tìm sự thật Nguyễn Du niên biểu luận trong hệ thống thông tin chọn lọc “Nguyễn Du trăng huyền thoại” (*) trong đó có bài 4 “Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ” nay xin được hiến tặng bạn đọc.https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-nguyen-cong-tru/
CON ĐƯỜNG LÚA GẠO VIỆT NAM Chúc mừng Viện Cây Lương thực và Cây Thực phẩm. Hoàng Kim
‘Nhất bác Của nhì chuyên gia thứ ba chỉ đạo‘. Nửa thế kỷ nóng hổi bài HỌC LÀM NGƯỜI LAO ĐỘNG TỐT. Thật xúc động trước bài viết của anh Phạm Xuân Liêm và nhận xét tâm đắc của anh Vinh Đào Quang … “Để chỉ độ vất vả của công việc của kỹ sư nông nghiệp người ta nói : Nhất ông Của, nhì chuyên gia, thứ ba chỉ đạo. Tức là cán bộ thuộc các đoàn chỉ đạo của bộ là nhàn nhất ( lúc đó còn HTX mà, xã viên còn nhàn nữa là.) Đoàn chuyên gia TQ thì vất vả hơn vì các chuyên gia đa phần là nông dân, giỏi thực hành nên cán bộ Việt Nam cũng phải thực hành theo . Còn Viên ông Của thì vất vả nhất, làm theo định mức, nếu việc không có định mức thì phải làm đủ 8 h, theo kẻng. Mình đã viết về việc này trên báo Nông nghiệp. “. LƯƠNG ĐỊNH CỦA, CON ĐƯỜNG LÚA GẠO VIỆT NAM bài học lớn trong câu chuyện nhỏ.
Lương Định Của con đường lúa gạo mời bạn xem hình một hình hai. “Người Viện Cây Lương Thực và Cây Thực phẩm mời bạn xem hình ba, hình bốn, hình năm nói về TS. Đổ Khắc Thịnh (Khacthinh Do), TS Phạm Xuân Tùng (Pham Xuan Tung), TS. Phạm Sĩ Tân (Pham Sy Tan) và TS. Phạm Xuân Liêm (Phạm Xuân Liêm) những con người “chân chất, quê quê và được việc” tỏa ra từ Viện Cây Lương Thực và Cây Thực phẩm .
TS. Đổ Khắc Thịnh chuyên gia chọn giống lúa hàng đầu của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam là tác giả của nhiều giống lúa và kỹ thuật thâm canh lúa nổi bật nhất là giống lúa đột biến VNĐ95-20 danh tiếng một thời thuộc tốp 5 giống lúa xuất khẩu phổ biến nhất Việt Nam. TS Phạm Xuân Tùng chuyên gia chọn giống và thâm canh khoai tây rau hoa Trung tâm Nghiên cứu Khoai tây, Rau và Hoa Đà Lạt thuộc Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam với 9 công trình đúc kết trong kỷ yếu khoa học 1975- 2015 của Viện,
TS Phạm Sĩ Tân Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long chuyên gia khoa học đất và phân bón, tác giả hính của cụm công trình xây dựng và đúc kết các quy trình thâm canh lúa cao sản ngắn ngày vùng đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh phía Nam, điểm sáng từ nghiên cứu đến thực hành thâm canh lúa ở Viện Lúa thao thức biết bao trái tim tâm huyết của những con người tận tụy thầm lặng dấn thân cho hạt ngọc Việt.
TS, Phạm Xuân Liêm là trưởng đoàn chuyên gia nông nghiệp Việt Nam tại Venezuela. TS. Phạm Xuân Liêm và TS. Nguyễn Xuân Dũng, TS. Vũ Tiết Sơn và TS. Đoàn Văn Thành … đoàn chuyên gia lúa Việt Nam ở Venezuela đã phối hợp chặt chẽ với các Nhà khoa học Viện Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc gia INIA và bà con nông dân Venezuela đạt thành công cao của “Mô hình sản xuất lúa tại Venezuela theo kinh nghiệm trồng lúa nước Việt Nam”. “Dự hội nghị có Thống đốc bang Guarico, Đại sứ Cuba và Đại sứ Việt Nam tại VE, Chủ tịch cơ quan đối tác dự án FONDAS, gần 100 nông dân, cán bộ kỹ thuật NN và quan chức địa phương. Thay cho lời kết là ý liến đánh giá của những người tham dự hội nghị “Cánh đồng lúa đẹp chưa từng thấy trong vùng”. Đây là bài học tuyệt vời bước đầu của sự hợp tác Nam Nam toả rộng Con đường Lúa Gạo Việt Nam đến với chén cơm ngon của người dân ở nhiều vùng đất trồng lúa của thế giới. Chúc mừng lúa Việt tới Venezuela
Tôi thật tự hào được bảo tồn lan tỏa những bài học quý giá của những thầy bạn quý
NGƯỜI VIỆN CÂY: THỬ LÝ GIẢI VỀ SỰ KHÁC BIỆT (Nhân kỷ niệm 50 năm thành lập Viện 1968-2018)
Chả cứ là Người Viện Cây dễ dàng nhận ra nhau (dù ít biết nhau hay không cùng thế hệ) mà người ngoài (ở các viện nghiên cứu nông nghiệp khác) cũng nhận thấy Người Viện Cây lương thực-Cây thực phẩm có cái gì đấy khác biệt. Có người đã mô tả cái “chất” khác biệt của người Viện Cây là ” CHÂN CHẤT, QUÊ QUÊ và ĐƯỢC ViỆC”. Những ngày này ở Viện, chắc đang tưng bừng chuẩn bị cho Lễ kỷ niệm 50 năm thành lập, được tổ chức vào 30/11. Ở xa, cứ lan man nghĩ về Viện, nơi tôi đã ở và làm việc 21 năm ( từ 10/1975-10/1996), tự hỏi vì sao Người Viện Cây lại có cái “chất” khác biệt ấy. Mấy dòng này, thử lý giải về cái “chất” của Người Viện Cây, như để ôn lại những kỷ niệm vui buồn với các bác, anh/ chị và các bạn đồng nghiệp già, cũng là tâm sự với các đồng nghiệp trẻ ở Viện Cây trong dịp lễ hội này. *** Về di truyền, Người Viện Cây chắc “kiểu gen” không có gì đặc biệt so với các đồng nghiệp ở các Viện NN khác. Thế thì, sự khác biệt con người ở đây chỉ có thể là do điều kiện “môi trường” (hoàn cảnh sinh sống, chế độ làm việc) mà hình thành nên vậy (?). 1. Hoàn cảnh Sinh sống: Người Viện Cây hầu hết nội trú tại viện, không ở nhà tập thể thì ở khu dành cho gia đình, trừ số ít người có quê trong phạm vi bán kính không quá 10 km thì làm buổi đi về (thời kỳ phương tiện đi lại chủ yếu bằng xe đạp). Nội trú ở một vùng đậm chất quê “quần cộc chân chì, không Tứ Kỳ thì Gia Lộc”, thành thử tứ thời mùa vụ, suốt 24/7 là sinh hoạt làm việc gần nhau, từ đó mà rất hiểu nhau, gần gũi, thân mật và đồng cảm. Có lẽ, cái “CHÂN CHẤT, QUÊ QUÊ” do vậy mà có. Đã không ở Viện hơn 20 năm, nhưng nghĩ đến những người cùng thời ở đó, tôi vẫn nhớ như in dáng dấp, tinh cách và thậm chí “trích ngang” của từng người. Nhớ về những người đã từng cùng sống và làm việc, có hẳn một seri chuyện kể ” Viện Cây: chuyện bây giờ mới kể”. Chuyện vui, chuyện đẹp có, mà chuyện buồn, chuyện “xấu xí” cũng có nên chỉ gặp nhau thì kể thôi, không viết ra được. 2. Chế độ Làm việc: Còn nhớ ngày mới về Viện, được nghe các anh chị khoá trước truyền miệng “Thứ nhất Chỉ đạo, thứ nhì Chuyên gia, thứ ba Ông Của” để nói về sự gian khổ của nơi được phân công công tác lúc ra trường. Được giải thích là: “ – “Chỉ đạo”: là được phân công xuống “nằm điểm” chỉ đạo sản xuất, 3 cùng với nông dân (cùng ăn, cùng ở, cùng làm). Khỏi phải nói, vào thời kỳ “bao cấp”, xuống HTX cùng làm với dân thì không kể hết sự gian khổ, khó khăn. Dân luôn đùm bọc cán bộ, nhưng lúc đói kém, 15 kg gạo và dăm lạng đường tiêu chuẩn hàng tháng, vài bộ quần áo cũ, cái màn không lành lặn … phải chia sẻ cùng gia chủ là điều đương nhiên. Chỉ đạo, nhưng không phải ” chỉ tay năm ngón” mà phải “miệng nói, tay làm” dân mới làm theo. Không chịu được gian khổ, không thạo việc đồng áng chỉ có nước “đứt”! – ” Chuyên gia” : ấy là sự phân công cùng làm việc với chuyên gia NN Trung Quốc. Cầm cái “cuốc con gà” (cuốc do TQ sản xuất) to và nặng quá cỡ sức người Việt, cuốc đủ “8 giờ vàng ngọc” với chuyên gia ( họ to con hơn và ăn tiêu chuẩn tốt hơn) thì thôi rồi là … cực. Tầm 10h sáng, khi mẩu bánh mì buổi sáng trong bụng đã “đốt” hết calo cuối cùng, chỉ nâng “con gà” lên ngang mặt đã thắt cả ruột gan, khỏi bàn! (Không biết có ai còn giữ được cái “cuốc con gà” ngày ấy ?). – ” Ông Của”: là được phân công về Viện CLT-CTP do Bác sĩ nông học Lương Định Của (cách gọi lúc bấy giờ) làm viện trưởng. Nơi đây, bài học của kỹ sư tập sự, thực hành của học viên Trường công nhân kỹ thuật (bên cạnh viện) là “Bài ca lao động vinh quang” nhưng thấm đẫm mồ hôi (và cả nước mắt) không bao giờ quên ( Bài 1 là bài trên sân/ đóng bao rê thóc nổi gân mặt mày/ Bài 2 là bài đi cày/ Ruộng sâu, trâu chạy mặt mày nổi gân …). Chuyện kể rằng, Bác Của đã từng nói với cán bộ Viện, đại ý ” muốn nghiên cứu về cây nào, trước tiên phải học cách trồng cây đó như người nông dân thực thụ”. Bấy giờ, lao động vất vả quá nên không thấy được ý nghĩa của phương pháp tập sự này, thậm chí chúng tôi còn đề nghị gay gắt bãi bỏ thời gian tập sự đặc biệt đó với Ban Giám đốc viện ( lúc Ks tập sự khoá chúng tôi được triệu tập họp với bác Nguyễn Lộc-Phó Viện trưởng). Sau này trong quá trình làm việc, mới thấy hết sự cần thiết và quý báu của thời gian tập sự “nổi tiêng” một thời của Viện Cây (1 năm với khoá 1975 chúng tôi, các khoá anh/ chị trước không ngắn hơn 2 năm). Đã tập sự ở Viện, mọi công việc từ tỷ mẩn nghiên cứu trong phòng đến các việc đồng áng lao động trực tiếp đều làm được thành thạo, người nào sáng ý còn học được cách quản lý sản xuất, quản công lao động -là vốn liếng cần thiết cho những người sau này trở thành người lãnh đạo, người quản lý. Cái chất “ĐƯỢC VIỆC” của Người Viện Cây, có lẽ từ đó mà có. *** Đã 50 năm- nửa thế kỷ, đủ để làm nên “những cuộc bể dâu”, hay có khi thấy “vật đổi sao dời”, Viện Cây ngày ấy đã thay đổi rất nhiều đến ngỡ ngàng với người lâu lâu mới trở lại Viện. Có thể thấy được sự thay đổi này qua những tấm ảnh còn lưu lại trong phòng truyền thống của Viện, hay trong ký ức của những người đã ở Viện. Nhưng cái “chất” Người Viện Cây có thay đổi hay không (?), thì chỉ những người của các thế hệ trước, trong đó có chúng tôi mới cảm nhận được. (PXL, từ Venezuela, 28/11/2018)
Thái Tông, Hưng Đạo, Nhân Tông là ba đỉnh cao vọi của trí tuệ. Vua Nhân Tông khi lên đỉnh Yên Tử có hỏi về đỉnh cao của dãy núi kia là gì thì vua được trả lời đó là dãy núi Yên Phụ của vòng cung Đông Triều trấn Bắc. Đức vua Nhân Tông đã lạy Yên Phụ và chọn Yên Tử nơi Cư trần lạc đạo làm chốn an nghĩ của mình. Câu chuyện Trần Thái Tông và Trần Quốc Tuấn là câu chuyện minh quân và thiên tài lưu dấu thật lạ lùng và sâu sắc nơi đất Việt; xem tiếp. Vạn Kiếp binh thư truyềnhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/van-kiep-binh-thu-truyen
Vua Trần Thái Tông (1218-1277) người sáng nghiệp nhà Trần có câu nói nổi tiếng trong lịch sử: “Nếu chỉ để lời nói suông cho đời sau, sao bằng đem thân mình đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã”. Vua Trần Thái Tông là bậc minh quân tài trí được sử gia so sánh với Đường Thái Tông Lý Thế Dân là một trong những vị vua giỏi nhất Trung Hoa thời trước đó. “Sáng nghiệp Việt, Đường hai Thái Tông/ Đường xưng: Trinh Quán, Việt: Nguyên Phong/ Kiến Thành bị giết, An Sinh sống/ Miếu hiệu tuy đồng, đức chẳng đồng”.
Đường Thái Tông Lý Thế Dân ngày 4 tháng 9 năm 626 đã lên ngôi hoàng đế nhà Đường nước Trung Quốc sau sự biến Huyền Vũ môn. Đường Thái Tông thiết lập nên sự cường thịnh của nhà Đường phát triển về kinh tế và hùng mạnh về quân sự nhất thế giới thời ấy, nhưng so đức độ với Trần Thái Tông vua Việt Nam thì vua Việt được người đời thích hơn.
An Sinh Vương Trần Liễu là người chống đối Trần Thái Tông và hận thù giữa họ sâu đến nỗi Trần Liễu còn di nguyện cho Trần Quốc Tuấn sau này nhất thiết phải đoạt lại ngôi vua. Nhưng vua Trần Thái Tông không chỉ tha cho An Sinh Vương Trần Liễu mà còn tha cho ngay cả Trần Quốc Tuấn là người đã gây ra câu chuyện tầy đình.
Tình yêu thương của Trần Quốc Tuấn và Thiên Thành công chúa là một câu chuyện thật quái dị và phi thường ! Tình yêu đó thật lớn lao nhưng sự việc quá liều lĩnh, khí phách và đặc biệt nguy hiểm. Trần Quốc Tuấn đã dám lẻn vào cung của Nhân Đạo Vương ngủ với người mình yêu ngay trong đêm tân hôn của Thiên Thành công chúa kết duyên với Nhân Đạo Vương mà không sợ cái chết “to gan cướp vợ người” trong lúc Trung Thành Vương con trai của Nhân Đạo Vương đang bận đãi khách chưa kịp động phòng. Công chúa Thiên Thành con gái của vua Trần Thái Tông thì đã dám trao thân cho Trần Quốc Tuấn là người mình yêu, tự chọn cái chết mà bất chấp lệnh vua cha gả con và làm đám cưới với Trung Thành Vương là con trai của vị quan đầu triều Trần Nhân Đạo Vương.
Vua Trần Thái Tông đã không làm ngơ để Quốc Tuấn bị giết. Vua chủ động kết nối lương duyên ngay cho Thiên Thành Quốc Tuấn bất chấp lẽ thường. Câu chuyện vua Trần Thái Tông không những không giết Trần Quốc Tuấn, con trai của Trần Liễu là kẻ tử thù đang rất hận mình và chính người con đó đang “cố tình phạm tội ngông cuồng trái nhân tình” . Vua chủ động tác thành cho Thiên Thành và Quốc Tuấn nên đôi vợ chồng đã kết lương duyên hóa giải mọi điều, thu phục được tấm lòng của bậc anh hùng Trần Quốc Tuấn, một phép thử đổi bằng chính tính mạng mình. Vua minh quân Trần Thái Tông đã giữ lại được cho non sông Việt một bậc kỳ tài hiếm có muôn thuở. Trần Quốc Tuấn là người sau này làm Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương nhà chính trị quân sự ngoại giao kiệt xuất nhất trong lịch sử Việt Nam, tư lệnh tối cao của Việt Nam thời nhà Trần, đã ba lần đánh thắng đội quân Nguyên Mông đế quốc hùng mạnh nhất thế giới thưở đó. Người là một trong mười vị danh tướng nổi tiếng thế giới mọi thời đại.
Chuyện lạ thật hiếm có !
Tượng Trần Quốc Tuấn ở chùa cổ Thắng Nghiêm, ảnh Hoàng Kim
Chùa cổ Thắng Nghiêm là nơi Đức Thánh Trần thuở nhỏ đã theo công chúa Thụy Bà về đây để tìm minh sư học phép Chọn người, Đạo làm tướng, viết kiệt tác Binh thư Yếu lược. Mẹ tôi họ Trần. Tôi về dâng hương Đức Thánh Trần tại đền Tổ. Lắng đọng trong tôi Lời dặn lại của Đức Thánh Trần.
Trần Hưng Đạo sinh năm 1232, mất ngày 20 tháng 8 âm lịch năm 1300, ông là con thứ ba của An Sinh Vương Trần Liễu, gọi Trần Thái Tông bằng chú ruột, mẹ ông là Thiện Đạo quốc mẫu, một người tôn thất họ Trần. Ông sinh tại kinh đô Thăng Long, quê quán thôn Tức Mặc, phường Lộc Vượng, TP Nam Định ngày nay. Ông khi lên 5 tuổi năm 1237 làm con nuôi cô ruột là Thụy Bà công chúa, vì cha ông là Trần Liễu chống lại triều đình (Trần Thủ Độ). Đại Việt sử ký toàn thư mô tả ông là người có dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, nhờ được những người tài giỏi đến giảng dạy nên ông sớm trở thành kỳ tài xuất chúng văn võ song toàn, thông hiểu sâu sắc huyền cơ tạo hóa, phép biến dịch và cách dùng binh.
Vua Trần Thái Tông tên thật là Trần Cảnh, sinh ngày 16 tháng 6 năm 1218 mất ngày 1 tháng 4 năm 1277, là vị hoàng đế đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, lên ngôi ngày 5 tháng 5 năm 1225 mở đầu nhà Trần trong sử Việt. Ông ở ngôi hơn 32 năm (1225 – 1258), làm Thái thượng hoàng trong 19 năm. Trần Cảnh sinh ra dưới thời kỳ nhà Lý còn tại vị, ông cùng tuổi với vị Nữ hoàng nhà Lý lúc bấy giờ là Lý Chiêu Hoàng. Ông được Chiêu Hoàng yêu mến, hay gọi vào vui đùa, Trần Cảnh khi ấy không nói năng gì nhưng khi về đều nói lại với chú họ là Trung Vũ Vương Trần Thủ Độ. Nhà Lý loạn cung đình thuở ấy đã tới đỉnh điểm. Vua Lý tuy có hai con gái thông minh, hiền hậu và rất giỏi nhưng không có con trai nối dõi, trong khi hoàng tộc nhà Lý lắm kẻ mưu mô kém đức dòm ngó ngôi báu. Nước Đại Việt thuở đó bên ngoài thì họa ngoại xâm từ đế quốc Nguyên Mông đang rình rập rất gần, bên trong thì biến loạn bùng nổ liên tục nhiều sự kiện rất nguy hiểm. Trần Thủ Độ nắm thực quyền chốn cung đình, nhận thấy Trần Cảnh cháu mình cực kỳ thông minh đỉnh ngộ, thiên tư tuyệt vời, xứng đáng là một minh quân tuyệt thế, lại được Lý Chiêu Hoàng rất yêu mến quý trọng nên ông đã dám đám đặt cược việc làm vua của cháu với họa diệt tộc Trần để sắp đặt hôn nhân Trần Cảnh với Lý Chiêu Hoàng. Sự kiện khai sáng nhà Trần chấm dứt triều đại nhà Lý đã tồn tại hơn 200 năm xảy ra vào ngày 31 tháng 12 năm 1225.
Lý Chiêu Hoàng tức Lý hoàng hậu vợ Trần Thái Tông trớ trêu thay sinh con nhưng con bị chết yểu ngay sau khi sinh, cho nên Trần Thái Tông không có người kế vị chính danh phận, trong lúc sự chống đối và chỉ trích cay độc của tôn thất nhà Lý do Hoàng Thái hậu cầm đầu lại đẩy lên cao trào rất nặng nề. Nhiều kẻ tôn thất mượn tiếng có con trai nối dõi dòm ngó cướp ngôi vua. Thuận Thiên công chúa là vợ của Trần Liễu khi ấy đang mang thai Trần Quốc Khang được 3 tháng. Thái sư Trần Thủ Độ năm 1237 nắm thực quyền phụ chính đã ép cha của Trần Quốc Tuấn là Trần Liễu phải nhường vợ là Thuận Thiên công chúa (chị của Lý Chiêu Hoàng) thay làm Chính cung Hoàng hậu cho Trần Thái Tông, đồng thời giáng Lý hoàng hậu xuống làm công chúa. Việc này khiến Trần Liễu căm phẫn chống đối và vua Trần Thái Tông bỏ lên tu ở núi Yên Tử.
Vua Trần Thái Tông sau này đã chứng ngộ vận nước lâm nguy không thể không xử lý thời biến khi cường địch bên ngoài câu kết nội gián bên trong để cướp nước ta. Vua Trần Thái Tông đã đặt vận mệnh “non sông đất nước Việt trên hết”, chấp nhận quay trở về. Vua Trần Thái Tông đã chấp nhận sự dấn thân “Nếu chỉ để lời nói suông cho đời sau, sao bằng đem thân mình đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã”, thuận sự kiến nghị của Triều đình.
Vua Trần Thái Tông sau này truyền ngôi cho Thái tử Trần Hoảng là con đích (hàng thứ hai sau Trần Quốc Khang vốn là con Trần Liễu, anh em cùng cha khác mẹ với Trần Quốc Tuấn) vào ngày 24 tháng 2 năm 1258 để làm Thái thượng hoàng. Trần Thái Tông được tôn làm Hiển Nghiêu Thánh Thọ Thái Thượng Hoàng Đế. Trần Hoảng lên ngôi vua hiệu Trần Thánh Tông. Tước vị và thông lệ Thái thượng hoàng của nhà Trần từ đấy đã trở thành truyền thống, vừa rèn luyện cho vị Hoàng đế mới cai trị đất nước vừa tránh được việc tranh giành ngôi báu giữa các con do sự chính danh phận đã sớm được định đoạt.
Trần Liễu gửi con là Trần Quốc Tuấn cho Thụy Bà công chúa tu tập tại chùa Thắng Nghiêm tìm minh sư luyện rèn văn võ. Sau đó Trần Liễu dấy binh làm loạn ở sông Cái, cuối cùng bị thất thế, phải xin đầu hàng. Trần Thủ Độ toan chém nhưng Trần Thái Tông liều chết đưa thân mình ra ngăn cản buộc lòng Thủ Độ phải tự mình buông bảo kiếm xuống sông. Trần Liễu được tha tội nhưng quân lính theo ông làm phản đều bị giết hết và vua Thái Tông đổi ông làm An Sinh vương ở vùng đất Yên Phụ, Yên Tử thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay.
Trần Quốc Tuấn từ 5 tuổi đã được minh sư rèn luyện trở thành một vị nhân tướng lỗi lạc phi phàm lúc ông trở về kinh đã sớm được Trần Thái Tông phát hiện quý trọng đức độ tài năng trong số con cháu vương thất. Qua sự biến Trần Quốc Tuấn yêu thương công chúa Thiên Thành, là con gái của vua Trần Thái Tông, nhân lễ hội trăng rằm nửa đêm đã lẻn vào chỗ ở của công chúa và thông dâm với nàng. Thời nhà Trần đã có quy định, để tránh ngôi vua truyền ra ngoài, chỉ có người trong tộc mới được lấy nhau nên kết hôn cùng huyết thống là điều không lạ và chuyện “quái” ấy cũng ‘quái” như việc Trần Thái Tông lấy vợ Trần Liễu.
Lại oái oăm thay, người Trần Quốc Tuấn yêu say đắm là công chúa Thiên Thành, mà vua Trần Thái Tông năm 1251 đã đính ước gả cô cho Trung Thành Vương là con trai của Nhân Đạo Vương. Vua Thái Tông đã nhận sính lễ, thông báo với quần thần và đang tiệc cưới. Trần Quốc Tuấn nửa đêm trăng rằm đột nhập vào phòng riêng công chúa ở phủ Trung Thành Vương và đôi trai gái trẻ đồng lòng đến với nhau. Quốc Tuấn nói với công chúa Thiên Thành sai thị nữ đi gặp Công chúa Thụy Bà cấp báo với vua ngay trong đêm đó. Vua hỏi có việc gì, Thụy Bà trả lời:“Không ngờ Quốc Tuấn ngông cuồng càn rỡ, đang đêm lẻn vào chỗ Thiên Thành, Nhân Đạo đã bắt giữ hắn rồi, e sẽ bị hại, xin bệ hạ rủ lòng thương, sai người đến cứu”. Trần Thái Tông vội sai người đến dinh Nhân Đạo vương, vào chỗ Thiên Thành, thì thấy Trần Quốc Tuấn đã ở đấy. Hôm sau, Thụy Bà công chúa dâng 10 mâm vàng sống đến chỗ Trần Thái Tông xin làm lễ cưới Thiên Thành công chúa cho Trần Quốc Tuấn. Thái Tông bắt đắc dĩ phải gả công chúa cho ông và lấy 2000 khoảnh ruộng ở phủ Ứng Thiên để hoàn lại sính vật cho Trung Thành vương. Tháng 4 năm đó, Trần Liễu ốm nặng. Lúc sắp mất, Trần Liễu cầm tay Trần Quốc Tuấn, trăng trối rằng: “Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được”. Trần Quốc Tuấn ghi để trong lòng, nhưng không cho là phải.
Câu chuyện Trần Quốc Tuấn yêu thương công chúa Thiên Thành và đã dám lấy tính mạng của mình làm liều như thể “cố tình phạm tội ngông cuồng trái nhân tình”, nhưng mấy ai thấu hiểu đó là sự lưa chọn sinh tử, phép thử tối cao cuối cùng của vị nhân tướng trước khi trao sinh mệnh đời mình cho Người tin yêu mình trong thực tiễn. Đó là phép biến Dịch của “Đạo làm tướng” “Chọn người”.
Trần Thái Tông và Trần Quốc Tuấn trong câu chuyện đêm trăng rằm để hiểu sâu hơn chiến công nhà Trần ba lần đánh thắng quân Nguyên, những trang binh thư kiệt tác muôn đời, và ba đỉnh cao vọi của trí tuệ nhân loại.
Lời dặn của Thánh Trần là “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”. Đọc lại thật sâu sắc. Tôn tử binh pháp thiên thứ nhất, trang đầu là “Tính toán”. Tôn Tử nói: Chiến tranh là việc lớn quốc gia, là việc sống chết của nhân dân, là sự mất còn của một nước, không thể không xem xét cẩn thận. Cho nên phải cân nhắc năm yếu tố, phải tính toán, so đo mà tìm hiểu thực tình của đôi bên: Thứ nhất là đạo nghĩa; thứ hai là thời trời; thứ ba là địa lợi; thứ tư là chủ tướng; thứ năm là pháp chế. Chỉ nói đến trí thức tinh hoa, tinh thần ái quốc và sức mạnh toàn dân thì chỉ mới tính toán so đo thứ nhất là đạo nghĩa. Chỉ nói đến tài năng và tôn vinh cụ thể một con người như Napoleon chẳng hạn thì chỉ mới tính toán so đo thứ tư là chủ tướng. Chính vì vãy Napoleon khi thua trận bị nhốt ngoài đảo mới thốt lên: Tiếc thay trước đây ta chưa đọc sách này (Tôn Tử binh pháp) và Cụ Hồ trước khi thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã nghiền ngẫm dịch Tôn Tử binh pháp, học lại thật kỹ Lịch sử Việt Nam và chọn nơi khởi binh ở làng Quốc Tuấn. .
Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn mất ngày 20 tháng 8 âm lịch năm 1300. Người được dân Việt tôn kính gọi là Đức Thánh Trần và thường dâng lễ tạ ơn sớm từ 20 tháng 8 dương lịch đến ngày lễ chính. Vua Trần Anh Tông lúc Đức Thánh Trần sắp lâm chung có ân cần ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: “Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?”. Đức Thánh Trần trả lời: “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy”. Nguyên văn: “Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã (vườn không nhà trống), đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy” * (Đại Việt sử ký toàn thư tập 2 trang 76 -77).
Trần Hưng Đạo giành chiến thắng trước quân Nguyên trên sông Bạch Đằng, kết thúc chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3 vào ngày 9 tháng 4 năm 1288, tức 8 tháng 3 năm Mậu Tý. Sau ba lần thắng giặc, đất nước thanh bình, ông lui về Vạn Kiếp và mất ngày 20 tháng 8 năm 1300 tại vườn An Lạc. Đền Kiếp Bạc ( Hải Dương) là nơi đền thờ chính của đức Thánh Trần.
Chùa Thắng Nghiêm (Hà Nội) nơi Trần Hưng Đạo lúc nhỏ tu học, là nơi Người hiển thánh.
Đức Thánh Trần gương soi kim cổ
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là nhà chính trị, quân sự, nhà văn kiệt xuất thời nhà Trần. Chiến công kiệt xuất đánh bại quân đội nhà Nguyên năm 1285 và 1287 đã đưa Đức Thánh Trần thành đại danh tướng lừng lẫy nhất của thế giới và Việt Nam. “CHỌN TƯỚNG” là một chương trong Binh thư Yếu lược của Trần Quốc Tuấn, kiệt tác súc tích và sâu sắc lạ lùng.
“Người quân tử tiến thoái quả quyết, xem người thì thanh thản vui tươi, chí thì ở trừ tàn bạo, đó là khí độ của người tướng quốc. Thấy ác không giận, thấy lành không mừng, nhan sắc không thay đổi, đó là lượng của người thiên tử.
Được sự thắng nhỏ, gặp sự thua nhỏ, mà mừng lo hình ra nét mặt, hễ thấy động thì động, thấy tĩnh thì tĩnh, nhát mà không tính toán gì, cất chân thì thần sắc không định, mà hay lấy lời nói để thắng người, đó là tướng ngu vậy.
Bảy phép để biết người:
1. Hỏi bằng lời nói xem trả lời có rõ ràng không 2. Lấy lời cật vấn đến kỳ cùng để xem cách ứng biến của họ. 3. Cho gián điệp thử xem có trung thành không. 4. Hỏi rõ ràng tường tất để xem đức hạnh thế nào. 5. Lấy của mà thử để xem có thanh liêm không 6. Lấy sắc đẹp mà thử để xem có đứng đắn không. 7. Lấy việc khó khăn mà thử để xem có dũng cảm không. 8. Đem rượu cho họ uống say để xem có giữ được thái độ không.
Tướng ngu có tám điều tệ:
1. Lòng tham mà không chán 2. Ghen người hiền, ghét người tài 3. Tin lời dèm pha, thích lời nịnh hót 4. Xét người mà không xét mình 5. Do dự không quả quyết 6. Say đắm rượu và sắc đẹp 7. Thích xảo trá mà lòng nhút nhát 8. Nói lời viễn vông mà không giữ lễ
Gia Cát Lượng sách Tướng Uyển chỉ bảy phép biết người.
Biết tính tình của người, chẳng gì khó bằng xem xét, lành dữ tuy khác nhau, tính tình và vẻ mặt chẳng phải một: có kẻ thì ôn hoà, hiền lành nhưng làm việc trộm cắp;có kẻ bề ngoài thì cung kính nhưng trong bụng thì vô lễ, dối trá; có kẻ bề ngoài thì mạnh dạn nhưng trong bụng thì khiếp sợ;có kẻ làm việc tận lực nhưng bụng không trung thành;
Bảy phép sau đây để biết người
1. Hỏi việc phải trái để dò chí hướng; 2. Lấy lời cật vấn để biết ứng biến; 3. Đem mưu kế hỏi để lường kiến thức; 4. Giao chuyện hiểm nguy để soi dũng cảm; 5. Mời rượu cho uống say để xét tính tình; 6. Đưa lợi gái thử để rõ thanh liêm chính trực; 7. Đem việc cậy nhờ để xét sự trung thành, tin thật.
Tám hạng tướng và bậc đại tướng
Nhân tướng là người dùng đức để đem đường cho người, dùng lễ để xếp việc cho họ, hiểu thấu sự đói rét của người dưới, biết rõ khó nhọc của đồng sự, đó là nhân tướng.
Nghĩa tướng là người làm việc không cẩu thả, thấy lợi mà không tham, biết chết vinh hơn sống nhục.
Lễ tướng là người có địa vị cao quý mà không kiêu căng, công hơn người mà không cậy, tài năng mà biết hạ mình, cứng cỏi mà biết nhẫn nhịn.
Trí tướng là người gặp biến bất ngờ mà chí không đổi, ứng phó linh hoạt với việc khó khăn, có thể đổi họa thành phúc, gặp cơn nguy biến mà sắp đặt thành thắng thế.
Tín tướng là người thưởng phạt nghiêm minh công bằng, khen thưởng không chậm trễ và không bỏ sót, trừng phạt không buông tha cho kẻ cao quý. Bộ tướng thủ hạ của đại tướng phải chọn người tay chân lẹ làng, võ nghệ tuyệt luân, giỏi đánh gần, ứng biến di chuyển mau lẹ, để bảo vệ an toàn cao nhất cho chủ soái. Kỵ tướng là người có thể vượt núi non cheo leo, từng trải việc nguy hiểm, cưỡi ngựa bắn tên mau lẹ như chim bay, tới thì đi trước, lui thì về sau. Mãnh tướng là người khí thế vượt hẳn ba quân, dám coi thường địch mạnh, gặp đánh nhỏ vẫn luôn cẩn trọng, gặp đánh lớn thì can đảm quả quyết.
Bậc đại tướng là người bao trùm và vượt hẳn tám hạng tướng kể trên, gặp hiền tài thì tôn trọng lắng nghe, biết tỏ ý mình không theo kịp người, biết nghe lời can ngăn như thuận theo dòng nước, lòng rộng rãi nhưng chí cương quyết, giản dị và nhiều mưu kế.”
Ôi, đọc lại “Binh Thư Yếu lược” “Hịch Tướng Sĩ Văn” gương soi kim cổ, lắng nghe cuộc sống, để biết sửa mình; xem tiếp… Lời dặn của Thánh Trần;
Chí Minh với lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1961, ảnh tư liệu của PCT)
Cụ Mạnh viết về Bác Hồ ở Chương 7 “Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh” thật hay. Tôi thường đọc lại. Nghề văn sử thời nay, chép đầy ắp tư liệu hay và thật như vậy, là thật giỏi và khéo lắm. Cậu Cương ngọc trai bé của ông tôi trong Hoàng Gia Cương theo dòng thời gian cuối sách có ghi: “Văn muốn đạt tài hoa, tâm cần sáng, tứ cần sâu, năng gạn đục khơi trong văn mới tuyệt. Nghệ mong nên tuyệt tác, trí phải minh, công phải trọng, biết tầm sư học đạo nghệ càng tinh“; “CHÍ khí một hiền MINH, vạch lối, dẫn đường, gây nghiệp lớn hồi sinh đất nước. NGUYÊN vẹn từng trụ GIÁP, xua Tây, trừ Mỹ, lập công đầu bảo vệ non sông”.
Lần thứ nhất sau Cách mạng tháng Tám. Sau cuộc khởi nghĩa tháng tám năm 1945, bố tôi đưa cả gia đình từ Thái Bình về thị xã Bắc Ninh. Tôi tiếp tục học cấp 2 ở trường Hàn Thuyên.
Một hôm được tin Hồ chủ tịch về Bắc Ninh. Tôi và mấy bạn học được nhà trường cử đi đón. Mỗi đứa được phát một lá cờ nhỏ bằng giấy, hễ Hồ chủ tịch đến thì vẫy cờ và hô khẩu hiệu chào mừng.
Chúng tôi đứng xếp hàng trước cửa phòng thông tin xã, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh tới.
Ðợi một lúc thì có một chiếc xe ô tô con đỗ ngay mép đường, trước cửa phòng thông tin. Tôi thấy có hai anh cảnh vệ vọt ra trước, cầm lăm lăm tiểu liên, nhẩy lên đứng trên hai cái trụ của bức tường hoa thấp trước phòng thông tin. Hai anh lia mũi súng sang trái, sang phải, vẻ mặt căng thẳng.
Hồ Chí Minh bước ra sau. Quần áo Kaki. Giầy vải. Cầm batoong. Người gầy đen. Râu tóc cũng đen. Ông đứng lại ngay sát chúng tôi, nhưng không để ý gì đến bọn trẻ con này cả, tuy chúng tôi ra sức phất cờ và hô, “Hồ chủ tịch muôn năm !”
Ðứng lại một lát, liếc nhìn chung quanh một chút, mặt đầy cảnh giác, rồi ông đi rất nhanh vào phòng thông tin. Lưng rất thẳng, gầy nhưng cứng cáp, cử chỉ lanh lẹn – ấn tượng của tôi về Hồ chí Minh là như thế.
Hồi đó, ở Bắc Ninh, Việt Nam Quốc dân đảng hoạt đông khá mạnh. Ðã có những cuộc đụng độ vũ trang giữa lính Quốc dân đảng và Vệ quốc đoàn ở Thị Cầu. Chắc vì thế nên ông Hồ và các vệ sĩ của ông rất cảnh giác.
Lần thứ hai tôi được thấy Hồ chủ tịch là vào khoảng 1961, 1962 gì đó, hồi tôi công tác ở trường Ðại học sư phạm Vinh.
Ông Hồ vào Vinh. Người ta tổ chức cho ông gặp đồng bào ở một cái sân vận động của thị xã.
Họ dựng một cái kỳ đài bằng tre- có vẻ thô sơ thôi. Ông Hồ đứng trên đó với một số cán bộ tỉnh. Lúc hô khẩu hiệu, ông cùng vung tay hô như mọi người:
_ Ðảng Lao Ðộng Việt Nam muôn năm !
_ Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà muôn năm !
Ông Hồ vung tay rất cao.
Nhưng đến khẩu hiệu thứ ba:
_ Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm !
Ông Hồ cũng vung tay lên, nhưng chợt nhận ra họ hoan hô mình, vội rụt tay xuống.
Tôi theo dõi không bỏ sót một cử chỉ nào của ông cụ hôm ấy.
Ông Hồ bắt đầu nói chuyện với đồng bào.
Hồ Chí Minh không hề tỏ ra là người hùng biện. Nói chậm, ngắn, không lưu loát. Có chuyện lỡ miệng nói hớ, vội lảng sang ý khác. Tôi nhớ ông đang nói dở một câu tục ngữ, “Thanh cậy thế, Nghệ cậy..”thì vội ngừng lại và lảng sang ý khác. Có lẽ ông không muốn làm mất lòng người Nghệ Tĩnh chăng, vả lại, “cậy thần “là cậy thần nào, thần Hồ Chí Minh à? Tôi chắc ông nghĩ thế nên không nói tiếp câu ấy nữa.
Năm 1969, tôi chuyển ra công tác ở trường Ðại học Sư phạm Hà nội. Các anh Huỳnh Lý, Nguyễn Trác, Hoàng Dung thay nhau làm tổ trưởng tổ Văn học Việt Nam hiện đại. Các anh đều rất quan tâm đến việc nghiên cứu thơ văn Hồ Chí Minh nên thường tổ chức cho chúng tôi gặp những người hiểu biết về Hồ Chí Minh như Hoàng Văn Hoan, Lê Quảng Ba, Họa sĩ Diệp Minh Châu, Vũ Kỳ. Nhờ gặp các vị này, tôi được biết nhiều chuyện cụ thể về ông Hồ, trước hết là chung quanh sự kiện ông Hồ bị bắt ở Quảng Tây, Trung Quốc và viết Nhật Ký Trong Tù.
Ông Hồ về Pắc Bó đầu năm 1941 ngày 28/1. Tháng 8/1942 ông trở lại Trung Quốc để vận động các cơ sở cách mạng bên ấy ủng hộ Việt Minh và mua vũ khí về cho Việt Minh.
Ông Lê Quảng Ba cùng đi với ông Hồ. Ðến một địa điểm nào đó thuộc Quảng Tây thì gặp núi lở, một tảng đá văng vào chân Lê Quảng Ba. Ba bị đau, cố đi một cách khó khăn. Ðể động viên người đồng hành với mình, ông Hồ vừa đi vừa kể Chinh Phụ Ngâm. Vừa kể vừa giảng. Té ra xa nước ba mươi năm Hồ Chí Minh vẫn thuộc lòng Chinh Phụ Ngâm.
Nhưng Lê Quảng Ba càng đi càng đau. Ðến Tĩnh Tây thì phải nghỉ lại tại một cơ sở cách mạng. Hôm sau, ông Hồ tiếp tục lên đường. Cùng đi với ông có một thanh niên Trung Quốc tên Dương Ðào- tất nhiên cũng là một cơ sở cách mạng. Ðến xã Túc Vinh, huyện Ðức Bảo, tỉnh Quảng Tây thì bị bọn Hương cảnh Trung Quốc bắt (Ngày 27- 8- 1942)
Không phải ông Hồ không có giấy tờ hợp lệ. Hồ Chí Minh không thể sơ xuất như thế được. Hồ Chí Minh bị bắt vì khám trong người, cảnh sát Tàu phát hiện có rất nhiều đôla. Nghe nói hồi ở Pắc Bó, có người đã thấy ông phơi đôla cho khỏi ẩm mốc. Bây giờ qua Trung Quốc, ông đem đôla đi để mua vũ khí cho Việt Minh.
Nhưng cảnh sát Tàu cho là Hán gian, là gián điệp của Nhật lúc bấy giờ đang đánh Trung Quốc. Chỉ có gián điệp mới có đôla thôi chứ, người dân Trung Quốc bình thường làm gì có lắm ngoại tệ thế ! Ðiều này tác giả Ngục Trung Nhật Ký cũng đã nói rõ trong thơ của mình:
Ta người ngay thẳng, lòng trong trắng Lại bị tình nghi là Hán gian (Ðường đời hiểm trở)
Hôm nay xiềng xích thay dây trói Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung Tuy bị tình nghi là gián điệp Mà như khanh tướng vẻ ung dung (Ði Nam Ninh)
Các vị lãnh đạo Ðảng lúc bấy giờ ở Cao Bằng như Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt nghe tin cụ Hồ bị bắt, hoảng quá, cho người sang Tàu dò hỏi xem nó giam ở đâu, nhưng không tìm được. Qua mấy tháng bặt tin tức, các vị bèn quyết định lật bài ngửa: điện cho Mạc Tư Khoa và cho Tưởng Giới Thạch nói rõ đó là Nguyễn Ái Quốc, thủ lĩnh Việt Minh, đề nghị thả ra.
Biết không phải là Hán gian, các nhà chức trách Trung Hoa bèn chuyển Hồ Chí Minh sang chế độ nhà tù khác. Trong Nhật Ký Trong Tù, bài Bốn Tháng có thể coi là bản tổng kết giai đoạn đầu của thời gian 14 tháng ở tù vô cùng cực khổ của ông Hồ, “Sống khác loài người vừa bốn tháng. Tiều tụy còn hơn mười năm trời.”
Chuyển sang chế độ nhà tù mới, ông Hồ được tắm rửa, ăn uống khá hơn, thỉnh thoảng được đi dạo quanh nhà lao, đặc biệt được cung cấp rất nhiều sách báo. Tưởng Giới Thạch còn tặng ông một cuốn sách của mình. Ðiều này ông Trần Dân Tiên đã có nói nhưng không giải thích lý do vì sao. Ðiều đáng chú ý là, Nhật Ký Trong Tù có tất cả 113 bài tuyệt cú thì bài Bốn Tháng Rồi là bài thứ 103. Nghĩa là 10 tháng sau, tác giả chỉ làm thêm ba chục bài nữa thôi. Vì sao vậy? Vì Hồ Chí Minh chỉ làm văn chương khi tuyệt đối không có điều kiện làm chính trị, làm cách mạng. Mười tháng sau này, có điều kiện chuẩn bị cho cách mạng, lập tức ông dồn sức vào đấy: đọc sách báo, dịch tác phẩm “Tam dân chủ nghĩa “của Tôn Trung Sơn, đọc sách của Tưởng Giới Thạch tặng “Trung quốc đích mệnh vận”
Nguyên bản Nhật Ký Trong Tù đâu chỉ có thơ, ở cuối tập Nhật Ký còn có tới 20 trang ghi kín tin tức thời sự lấy từ các báo chí được cung cấp gọi là Ðộc báo lan.
Mới biết, viết bài Mở đầu (Khai Quyển) Nhật Ký Trong Tù, Hồ Chí Minh đã nói thật lòng mình:
Ngâm thơ ta vốn không ham Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây Ngày dài ngâm ngợi cho khuây Vưà ngâm vừa đợi đến ngày tự do
Hồ Chí Minh được bọn Tàu Tưởng thả về nước không phải ngẫu nhiên, chắc ông phải khôn khéo thương lượng với chúng và với cánh Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam như thế nào đó, nó mới thả cho về nước.
Hôm tiễn cụ Hồ về nước, Hầu Chí Minh (Trong Nhật Ký Trong Tù, Hồ chí Minh gọi là Hầu chủ nhiệm (Chủ nhiệm cục chính trị đệ tứ chiến khu) cùng với Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam có tổ chức một cuộc liên hoan hẳn hoi (tháng 12- 1943). Trong liên hoan, họ có thử tài nhau bằng thách đối.
Nguyễn Hải Thần đưa ra một vế đối khá độc hiểm:
“Hầu Chí Minh, Hồ Chí Minh, lưỡng vị đồng chí, chí giai minh “
Ông Hồ xin đối :
“Nhĩ cách mệnh, ngã cách mệnh, đại gia cách mệnh, mệnh tất cách “
Mọi người tán thưởng. Hầu Chí Minh ca ngợi “Ðối hay lắm “.Còn Nguyễn Hải Thần thì cung kính nói, “Hồ tiên sinh tài trí mẫn tiệp, bội phục, bội phục “
Trong cuộc liên hoan, ông Hồ còn góp vui một tiết mục rất đặc biệt: nhảy điêụ Nga-la-tư, một điệu vũ dân gian rất khoẻ của Nga.
Trong Nhật Ký Trong Tù và hồi ký Vưà Ði Ðường Vừa Kể Chuyện, ông Hồ có nói, khi mới ra tù, “chân mềm như bún “, đi không được, phải tập leo núi rất khó nhọc, phải bò, phải lết mãi mới đi được. Vậy sao lại có thể nhảy điệu Nga- la – tư?
Suy ra ta có thể hiểu như thế này: từ khi biết ông Hồ là ông Hồ, không phải Hán gian, nhà chức trách Trung quốc cho ông được hưởng chế độ quản thúc. Nghĩa là chỉ không được ra khỏi vùng quản thúc thôi, còn thì có thể ra ngoài nhà tù để leo núi, tập đi, tập luyện mắt. (Cho nên mới có chuyện ở Liễu Châu, ông Hồ đi tắm sông, gặp tướng Tàu Trương Phát Khuê. Khoảng giữa tháng 9- 1943, sau một thời gian tập luyện, cuối cùng ông Hồ chẳng những đi vững mà còn trèo được núi. Ông cao hứng làm một bài thơ chữ Hán:
Vân ủng trùng sơn sơn ủng vân Giang tâm như kính tịnh vô trần Bồi hồi độc lộ Tây phong lĩnh Nam vọng trùng dương ức cố nhân (Vừa đi đường, vừa kể chuyện)
Bài thơ này cụ Hồ đã bí mật gửi về cho các đồng chí của mình ở Cao Bằng (Viết lên mép trắng của một tờ Quảng Tây nhật báo). Võ Nguyên Giáp trong tập hồi ký Những Chặng Ðường Lịch Sử cho biết, “Bữa đó tôi về cơ quan hội báo tình hình thì thấy anh Ðồng, anh Vũ Anh và anh Lã đang xem xét quanh một tờ báo. Các anh chuyển tờ báo và hỏi tíu tít:
_ Anh xem có đúng là chữ của Bác không?
Ðó là một tờ báo ở Trung quốc mới gửi về, trên mép trắng có mấy hàng chữ Hán viết tay. Tôi nhận ra ngay đúng là chữ của Bác. Bác viết, “Chúc chư huynh ở nhà mạnh khoẻ và cố gắng công tác, ở bên này bình an.
Phiá dưới lại có một bài thơ “
Như thế bài thơ này đã được làm từ khá lâu (9- 1943) trước cuộc liên hoan tiễn chân nói trên 3 tháng (12- 1943)
Sau này, Tô Hoài còn cho biết, trong cuộc liên hoan tiễn cụ Hồ về nước, hôm ấy còn có mặt nhà thơ Quang Dũng nữa. Lúc này Quang Dũng đang đi theo Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Hải Thần.
Về tập Nhật Ký Trong Tù, có người nói ông Hồ đánh mất ngay sau khi ra khỏi tù. Thực ra không phải.
Ngày 16- 9- 1943, ông Hồ được trả lại tự do, cuốn Nhật Ký Trong Tù vẫn được ông giữ cẩn thận.
Ngày 14 – 9 – 1955, ông đưa tác phẩm này cho ông Nguyễn Việt, trưởng ban tổ chức triển lãm cải cách ruộng đất tại phố Bích Câu. Ông Hồ nói, “Tôi có quyển sổ tay cách đây mười mấy năm còn giữ được đến bây giờ, các cô, các chú xem có triển lãm được thì dùng. “Nguyễn Việt đưa vào triển lãm, bày ở phòng “Ngọn đuốc soi đường của Ðảng Cộng sản Ðông Dương “.
Nhật Ký Trong Tù hiện được lưu trữ ở Bảo tàng cách mạng Việt Nam.
Vào năm 1970, 1971 gì đó, anh Huỳnh Lý được biết Họa sĩ Diệp Minh Châu từng sống với Hồ chủ tịch sáu tháng ở Việt Bắc thời kháng chiến chống Pháp, nên tổ chức cho chúng tôi gặp họa sĩ ở nhà riêng.
Hai vợ chồng cùng là họa sĩ và điêu khắc. Nhà cửa hết sức bề bộn, có thể nói là tanh bành. Ðất sét, thạch cao vung vãi. Nước đổ lênh láng trên nền nhà. Khắp nơi lăn lóc những đầu người: đầu Nguyên Hồng, đầu Nguyễn Tuân…bằng đất sét.
Cách trò chuyện của Diệp Minh Châu cũng vậy. Chuyện nọ xọ chuyện kia, có lúc lại tạt ngang giới thiệu tranh của vợ.
Ở đây tôi chỉ lọc ra những gì anh nói về Hồ Chí Minh.
Diệp Minh Châu ở với Hồ chủ tịch sáu tháng ở chiến khu Việt Bắc trước khi ra nước ngoài học tiếp về hội họa, điêu khắc. Hằng ngày, anh cùng ăn với Hồ chủ tịch.
Có một bữa, đến giờ ăn rồi mà mãi không thấy ông Hồ ra. Diệp Minh Châu ngồi đợi. Cuối cùng ông cũng ra, nhưng lại châm điếu thuốc hút, nghĩa là chưa ăn ngay. Thấy Châu ngồi đợi, ông bảo, “Chú cứ ăn trước đi “Tất nhiên Châu không dám, vẫn đợi. Một lát, ông Hồ nói thủng thẳng với họa sĩ, “Về sau chú làm nghề gì thì làm nhé, đừng làm chủ tịch nước, khổ lắm ! “
Diệp Minh Châu không bình luận gì. Tôi cho rằng, Hồ Chí Minh vừa qua một cuộc họp trung ương, chắc có điều gì không thuyết phục nổi các đồng chí của mình: người ta đang sùng bái Staline, Mao Trạch Ðông, không chịu nghe Hồ Chí Minh, chắc thế. (Staline vốn không coi Hồ Chí Minh là cộng sản chuyên chính. Ông Phạm Văn Ðồng có lần nói với anh Hoàng Tuệ (khi hai người cùng công tác ở Liên xô): năm 1950, Staline triệu Hồ Chí Minh sang gặp, ông ta không gọi Hồ Chí Minh là đồng chí (tavarich).
Ở rừng Việt Bắc vào những đêm trăng đẹp, ông Hồ thường rủ Diệp Minh Châu ra suối câu cá. Vưà câu vưà trò chuyện. Có lần ông nói về Nhật Ký Trong Tù : “Hồi ấy bị giam trong tù buồn quá, phải nghĩ ra cách gì để giải trí. Có ba cách: một là nằm ngửa đếm ngói trên mái nhà, đếm hết lại phân loại ngói lành, ngói vỡ. Hai là săn rệp ở những khe ván sàn xà lim. Ba là làm thơ “. Thì ra đối với ông Hồ, làm thơ cũng chỉ là một trò giải trí như đếm ngói và săn rệp vậy thôi. Thảo nào có ai hỏi ông về Nhật Ký Trong Tù như một tập thơ, ông đều từ chối không trả lời, vì coi đó chẳng phải thơ phú gì và bản thân ông cũng không phải nhà thơ. Chẳng qua ở tù buồn quá, không biết làm gì, thì ghép vần chơi, thế thôi (Trong cuốn sách Vừa đi đường vừa kể chuyện,ông đã nói như thế).
Năm 1965, Mỹ cho không quân ra đánh phá miền Bắc. Cầu Hàm Rồng, Thanh Hoá, là một trọng điểm oanh tạc của chúng. Anh chị em dân quân Nam Ngạn, Hàm Rồng, phối hợp cùng với pháo binh tải đạn và bắn máy bay giặc. Nổi lên có hai nữ dân quân được tuyên dương công trạng xuất sắc: Ngô Thị Tuyển và Nguyễn Thị Hằng.
Năm ấy, tôi phụ trách một đoàn sinh viên Ðại học Sư phạm Vinh ra thực tập ở trường Lam Sơn, Thanh Hoá, sơ tán ở ngoại ô thị xã. Tôi đưa mấy sinh viên Văn ra gặp Nguyễn Thị Hằng ở nhà riêng. Hằng là một cô gái quê mà rất trắng trẻo, cao ráo. Cô cho xem bức hình chụp mặc quân phục trông rất đẹp đẽ,oai phong. Cô khoe vưà được ra Hà Nội gặp Bác Hồ. Lần đầu tiên ra Hà Nội, đi đâu cũng có một anh cảnh vệ hay công an đưa đi. Hành trình qua rất nhiều chặng. Ðến mỗi chặng, anh dẫn đường lại bảo, cô ngồi đây, Bác xuống bây giờ.
Một lát ông Hồ tới. Ông không vội hỏi han gì về thành tích chiến đấu của Hằng. Câu hỏi đầu tiên của vị chủ tịch nước là, “Cháu có buồn đi tiểu, Bác chỉ chỗ cho mà đi.”
Câu chuyện của Nguyễn Thị Hằng về Chủ tịch Hồ Chí Minh hôm đó, tôi nhớ nhất chi tiết này. Chi tiết rất nhỏ nhưng nói rất nhiều về con người Hồ Chí Minh.
Tôi nghĩ đến câu nói của một nhân vật của Dostoievsky trong cuốn “Anh em nhà Karamadôp “: “Tôi càng yêu nhân loại nói chung thì lại càng ít yêu con người nói riêng, tức tách bạch ra từng người riêng rẽ. Những lúc mơ ước, nhiều lúc tôi đã có dự định say mê phụng sự nhân loại (..) thế nhưng tôi lại không thể sống chung với bất kỳ ai trong một căn phòng.”. Ðó là loại người mà Dostoievsky gọi là chỉ có “tình yêu mơ mộng “chứ không có tình yêu thực sự.
Ông Hồ một mặt yêu nhân loại rộng lớn, mặt khác, quan tâm rất cụ thể thiết thực đến những con người cụ thể quanh mình.
Anh Trần Việt Phương có kể một câu chuyện khác cũng tương tự về ông Hồ. Trước căn nhà sàn của chủ tịch luôn có một anh bộ đội đứng gác. Thương anh lính trẻ đứng gác lâu chắc đói bụng, ông cụ đem một quả chuối xuống cho anh ta ăn. Anh lính không dám ăn, vì như thế là vi phạm luật nhà binh. Ông Hồ nói, “Vậy để bác gác cho cháu ăn, không sợ “.
Hồ Chí Minh có điều này cũng rất quý: trong cách ứng xử với mọi người, tỏ ra rất lịch sự, nghĩa là rất tôn trọng con người. Hồi kháng chiến chống Pháp, Họa sĩ Dương Bích Liên được cử đến ở với ông Hồ để vẽ. Sau một thời gian, Tố Hữu đến xem tranh, cho là không đạt. (Chắc là Duơng Bích Liên thích vẽ Hồ chí Minh trong sinh hoạt đời thường, không thể hiện được tư thế lãnh tụ chăng?). Tố Hữu quyết định cho Dương Bích Liên thôi việc và mời đi luôn. Khi ông Hồ biết chuyện này thì Duơng Bích Liên đã đi rồi. Hồ chí Minh không bằng lòng với cách đối xử như thế. Ông cho người đuổi theo mời họa sĩ trở lại để có lời với anh và đưa tiễn đàng hoàng.
Tôi nghĩ Hồ Chí Minh thực bụng, không hề coi mình là ông thánh, nghĩa là chỉ muốn được là người với những nhu cầu như của mọi người bình thường. Cũng có thể trong tư cách nhà chính trị lại khác. Vì nhu cầu chính trị, có khi Hồ chí Minh cũng phải “diễn “những điều trái với bản chất của mình. Vì thế tôi nói, thực bụng ông Hồ không thích làm thánh nhân chút nào. Thí dụ, mệt cũng muốn nghỉ. Tố Hữu có lần đi với ông, thấy một khẩu hiệu trên tường: “Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm ! “, ông nói, “Hồ Chí Minh chỉ muốn nằm ! “
Ông Hồ cũng thích hút thuốc lá. Và chỉ quen hút thuốc lá ngoại, thuốc lá Mỹ. Ông đã bị chi bộ phê bình và bắt hút thuốc lá nội. Sau thấy ông ho quá, lại cho hút thuốc ngoại như cũ. Anh Hoàng Tuệ kể với tôi chuyện này: hồi kháng chiến chống Pháp, đi công tác ban đêm, tình cờ anh đi cùng với một đoàn người chở thuốc lá ngoại từ vùng tề cho cụ Hồ, có bộ đội đi kèm để bảo vệ.
Họa sĩ Dương Bích Liên, hồi cùng ở với ông Hồ ở Việt Bắc, thấy ông thường hút thuốc lá ngoại, uống rượu Tây và uống sữa tươi. (Người ta nuôi một con bò để lấy sưã cho ông.)
Theo Trần Đăng Ninh (Tô Hoài kể lại), ông Hồ ở phủ chủ tịch, thỉnh thoảng lại đóng bộ complet, cravate, chống ba toong đi dạo một lúc trong khuôn viên cho đỡ nhớ- hẳn là nhớ sinh hoạt hồi ở Paris.
Hà Huy Giáp : một hôm linh mục Phạm Bá Trực gặp ông Hồ, bảo ông là surnature (phi thường). Ông Hồ nói,”Chúng mình là contrenature (bất bình thường)”.
Hà Huy Giáp có một thời gian ở gần Hồ chủ tịch. Ông kể lại chuyện hồi năm 1950, ông mới lấy vợ được một năm thì bị điều ra công tác tại Việt Bắc và ở với cụ Hồ. Ông hỏi ông Hồ, “Sao Bác không lấy vợ mà chịu được?”Ông Hồ nói, “Mình cũng như các chú thôi, từ rốn trở xuống là 18 tuổi. Từ rốn đến cổ là 40 tuổi. Từ cổ đến đầu là 60 tuổi, Kinh nghiệm của dân ta là lao động suốt ngày, mệt thì ngủ luôn. Không có việc gì thì đổ trấu ra xay. Buồn ngủ hãy ngủ. Tỉnh ngủ, dậy liền, đừng có nằm mãi trong chăn. Ðừng mặc đồ láng, mềm, mỏng. Nên mặc quần aó vải. Có cán bộ lên công tác ở Việt Bắc, rỗi việc, ngồi tán gẫu. Bác bảo cởi lạt sàn nhà ra, sau đó lại bảo buộc lại. Ðể khỏi “nhàn cư vi bất thiện”.
Các anh Huỳnh Lý, Nguyễn Trác và Hoàng Dung còn tổ chức cho chúng tôi gặp ông Vũ Kỳ, thư ký riêng của cụ Hồ.
Cuộc gặp Vũ Kỳ không giúp tôi biết gì thêm về Hồ Chí Minh, ấn tượng để lại chỉ là hình ảnh của chính Vũ Kỳ. Ông bắt chước tác phong của cụ Hồ từ cách ăn mặc, cách nói năng. Có cái áo Tôn Trung Sơn khoác ngoài không mặc lại vắt lên vai. Ði guốc. Câu đầu tiên ông hỏi chúng tôi, “Các đồng chí có bao nhiêu nữ?”.
Anh Nguyễn Khải có lần gặp Vũ Kỳ cũng có nhận xét y như thế : để râu dài, áo cánh lụa. Ði guốc. Cầm quạt phe phẩy…
Tôi nghĩ bụng, đã là gia nhân thì bao giờ cũng là gia nhân. Gia nhân của người thường hay gia nhân của vua chúa thì cũng thế.
Về chuyện làm thơ của Hồ Chí Minh, tôi vẫn cho rằng ông Hồ có ý thức sáng tác hai loại : một là loại thơ tuyên truyền thường dùng lối ca vè, cốt minh họa đường lối chính trị. Những bài thơ chúc tết, mừng xuân cũng thuộc loại này. Thơ này không sáng tác theo quy luật nghệ thuật. Hai là loại thơ nghệ thuật diễn đạt tình cảm, cảm xúc thẩm mỹ. Loại này ông cốt làm để giải trí sau những giờ làm việc căng thẳng, hoặc ở trong nhà tù, khi hoàn toàn không có cách gì để làm việc cho cách mạng.
Nhiều thằng ngu hoặc cố tình không hiểu đã cố tình phê phán tôi về sự phân biệt này: thơ Bác Hồ, thơ nào chả là thơ nghệ thuật và thơ Bác là thơ cách mạng sao lại bảo là để giải trí.
Tôi cho rằng chính cụ Hồ có ý thức phân biệt như vậy.
Người ta thường kể chuyện này để ca ngợi đức tính giản dị, khiêm tốn của cụ Hồ khi làm những bài thơ tuyên truyền, cụ Hồ thường chuyển cho nhiều người xem, kể cả chú liên lạc, để nhờ góp ý sữa chữa cho thật dễ hiểu, dễ nhớ đối với mọi người. Thế là thơ tuyên truyền chứ còn gì nữa. Tuyên truyền thì cốt nhất là mọi người đều dễ hiểu, dễ nhớ, thế thôi. Nghệ thuật gì mà.
Cụ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH là Nhà văn, Nhà giáo Nhân dân , Giáo sư Việt Nam, sinh ngày 18/ 3/1931 tại xã Cự Khối, huyện Gia Lâm, TP. Hà Nội; Giảng viên Bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại – Khoa Ngữ văn – ĐHSP Hà Nội; đã từ trần hồi 17 giờ 10′, ngày 9/2/2018, hưởng thọ 89 tuổi. Ông trọn đời là gương sáng, tiêu biểu của bản lĩnh kẻ sĩ, nhân cách trí thức và một nghệ sĩ tài hoa. Cụ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH thời tuổi trẻ từng học trường Bưởi (sau này là Trường Chu Văn An – Hà Nội). Năm 1960, sau khi tốt nghiệp Khoa Ngữ văn – trường ĐHSP Hà Nội (một trong những khóa đầu), thầy vào công tác tại Khoa Ngữ văn – ĐHSP Vinh, thời gian khoảng 5 năm; rồi sau đó chuyển ra làm việc và gắn bó suốt 40 năm (của cả quãng đời còn lại) tại Khoa Ngữ văn – ĐHSP Hà Nội.
GS Nguyễn Đăng Mạnh là một trong số những nhà nghiên cứu, nhà phê bình văn học hàng đầu trong lịch sử nghiên cứu, phê bình văn học Việt Nam. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã góp phần đặt nền móng lý thuyết và thực hành phương pháp luận nghiên cứu tác gia văn học ở Việt Nam, góp phần phát hiện và làm nổi bật giá trị thẩm mỹ của nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh và nhiều tác gia văn học Việt Nam hiện đại trong đó có Nam Cao, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng… Với những công trình nghiên cứu khoa học: “Mấy vấn đề phương pháp tìm hiểu, phân tích thơ Hồ Chí Minh”; “Chân dung văn học tập I”; “Văn và dạy học văn”, “Nhà văn tư tưởng và phong cách”, “Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn”, “Văn học Việt Nam hiện đại Những gương mặt tiêu biểu”, “Nhà văn Việt Nam hiện đại Chân dung phong cách”…,
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh cuộc đời và sự nghiệp gắn bó với giảng đường Khoa Ngữ văn – ĐHSP Vinh, Khoa Ngữ văn – ĐHSP Hà Nội. Những tập bài giảng, giáo trình Văn học Việt Nam thầy trực tiếp viết, tham gia, chủ trì biên soạn đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Nhiều thế hệ sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh dưới sự dìu dắt của thầy đã trở thành những nhà giáo, nhà nghiên cứu, nhà thơ, nhà văn nổi tiếng. Giáo sư NGUYỄN ĐĂNG MẠNH có cuốn Hồi ký nổi tiếng “Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh” <http://www.vinadia.org/hoi-ky-nguyen-dang-manh/> (Trích lời viếng của nhà giáo nhà báo Lê Quang Vinh nguyên là học trò học năm thứ ba của cụ Nguyễn Đăng Mạnh)..
MINH TRIẾT HỒ CHÍ MINH Hoàng Kim
Tôi viết minh triết Hồ Chí Minh theo chính kiến và nhận thức của riêng mình. Ngày 2 tháng 9 là ngày Quốc Khánh Việt Nam, ngày khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng là ngày mất của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 19 tháng 5 là ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là ngày thành lập Việt Minh, ngày khai sinh đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Chuỗi năm sự kiện lớn này trong lịch sử như ngôi sao vàng năm cánh, như năm ngón tay trên một bàn tay, đóng mốc son ngày 2 tháng 9 và ngày 19 tháng 5 vào lịch sử Việt Nam và Thế Giới đối với nền độc lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và thống nhất Tổ quốc Việt Nam. Hồ Chí Minh trọn đời minh triết. Việt Nam Hồ Chí Minh là biểu tượng Việt; Hồ Chí Minh nói đi đôi với làm mẫu mực đạo đức có lý có tình; Hồ Chí Minh rất ít trích dẫn, thực tiễn, quyền biến, năng động ; Hồ Chí Minh kiên quyết khôn khéo trong tổ chức tuyên truyền cách mạng, giỏi thu phục tập hợp hiền tài. Nước Việt Nam mới khi hình thành vì sao không có được giải pháp hợp tác giữa Hồ Chí Minh với Bảo Đại, Ngô Đình Diêm, Nguyễn Trường Tam, Phạm Quỳnh, Phan Văn Giáo … Vì sao chưa thuyết phục được Nguyễn Hải Thần, Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn,… ? Đó đều là các nhân vật lịch lịch sử lớn chi phối sâu sắc đối với thời cuộc. Bài học lịch sử là khối vàng ròng giá trị to lớn cần thấu hiểu và cắt nghĩa cho đúng. Sự thật lịch sử đang sáng tỏ dần. Đọc lại và suy ngẫm.
1. VIỆT NAM HỒ CHÍ MINH LÀ BIỂU TƯỢNG VIỆT
Bác Hồ là biểu tượng của thế giới người hiền, là tinh hoa văn hóa Việt gốc và văn hóa tương lai. Minh triết Hồ Chí Minh là ưu tiên đạo đức, cải tiến lề lối làm việc ‘cần kiệm liêm chính’. Đó là thước đo đầu tiên và quan trọng nhất để đào tạo, rèn luyện và trọng dụng cán bộ. Mục tiêu, quốc kế và chiến lược vàng cho Việt Nam mới là : “Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc”. “Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ. Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy. Nếu không làm được việc cho dân thì dân không cần đến nữa”. (Hồ Chí Minh, tập 4. trang 283). “”Nay, tôi chỉ có một tin tưởng vào Dân tộc độc lập. Nếu (tôi) cần có đảng phái thì sẽ là Đảng dân tộc Việt Nam. Đảng đó sẽ chỉ có một mục đích làm cho dân tộc ta hoàn toàn độc lập. Đảng viên của đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô ra ngoài“.(Báo Cứu Quốc số 147 ngày 21.1 1946). Minh triết Hồ Chí Minh, bài học mới thấm thía trong câu chuyện cũ
Giáo sư Trần Văn Giàu trong bài viết Nhân cách lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luận về bảy phẩm chất nhân cách mà cũng là minh triết của Bác Hồ được con dân nước Việt và thế giới ngợi ca. Đó là : Ưu tiên đạo đức, Tận tụy quên mình, Kiên trì bất khuất, Khiêm tốn giản dị, Hài hòa kết hợp, Thương, quý người, nâng đỡ con người, thấu tình đạt lý, Yêu thiên nhiên, hòa hợp với thiên nhiên. Giáo sư Trần Văn Giàu kết luận: “Xin mượn ý của một nhà báo ở châu Đại Dương để tạm kết chủ đề luận về nhân cách Hồ Chủ tịch: Người ta không thể trở thành một Cụ Hồ Chí Minh, nhưng ở Cụ Hồ, mỗi người có thể học một số điều làm cho mình trở thành tốt hơn”.
Bác sĩ Vũ Đình Tụng đã kể câu chuyện Bức thư huyết lệ trong hàng vạn chuyện đời thường về Bác Hồ, xin được trích nguyên văn.
” 8 giờ đêm – một đêm tháng Chạp năm 1946 – bác sĩ Vũ Đình Tụng phải mổ một trường hợp chiến thương quá đặc biệt và rất đau lòng: một chiến sĩ “sao vuông” rất trẻ, tuy vết thương nặng, đạn xé tung cả một khúc ruột mà miệng vẫn mỉm cười, cái nụ cười quá quen thuộc và thân thương đối với bác sĩ. Anh tự vệ Thủ đô ấy, người chiến sĩ gan góc ấy lại chính là Vũ Văn Thành, con trai út của bác sĩ.
Suốt ngày hôm ấy, tôi đã phải mổ cưa gắp đạn và khâu vết thương cho hàng chục chiến sĩ nhưng đến trường hợp con tôi, thần kinh tôi căng lên một cách kinh khủng. Mấy người giúp việc khuyên tôi nên nghỉ tay, nhưng tôi vẫn cố kìm mình để giữ bình tĩnh gắp mảnh đạn cuối cùng trong thân thể người con. Xong việc, tôi loạng choạng rời khỏi bàn mổ.
Các bác sĩ và những người giúp việc đã cố gắng nhiều, nhưng vết thương do quân thù gây ra quá nặng đã cướp đi mất Thành, con trai của tôi, anh của Thành là Vũ Đình Tín, tự vệ chiến đấu cũng vừa bị mất sau ngày Tổng khởi nghĩa, tôi đau đớn đến bàng hoàng.
Một buổi chiều trời rét lắm, sau đêm Nôen cuối cùng ở bệnh viện Bạch Mai, bị bom đạn tàn phá, vào lúc tôi mổ xong một ca thương binh nhẹ thì bác sĩ Trần Duy Hưng, lúc bấy giờ giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội vụ trân trọng trao cho tôi một bức thiếp của Hồ Chủ tịch. Tôi cảm động quá. Mới đầu tôi cứ ngỡ là một mệnh lệnh mới của Người. Nhưng thật không ngờ, đó lại là một bức thư riêng đầy tình cảm lớn lao của Bác chia đau thương với gia đình tôi. Khi đó, Bác gọi tôi là “Ngài”.
“Thưa Ngài, Tôi được báo cáo rằng: con giai Ngài đã oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc.
Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột.
Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước – Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ quốc sống mãi, tinh thần họ luôn luôn sống với non sông Việt Nam.
Họ là con thảo của Đức Chúa, họ đã thực hiện cái khẩu hiệu: Thượng đế và Tổ quốc. Những thanh niên đó là anh hùng dân tộc. Đồng bào và Tổ quốc sẽ không bao giờ quên ơn họ.
Ngài đã đem món quà quý báu nhất là con của mình, sẵn sàng hiến cho Tổ quốc. Từ đây, chắc Ngài sẽ thêm ra sức giúp việc kháng chiến để bảo vệ nước nhà thì linh hồn cháu ở trên trời cũng bằng lòng và sung sướng.
Tôi thay mặt Chính phủ cảm ơn Ngài, và gửi Ngài lời chào thân ái và quyết thắng. Tháng 1-1947 Hồ Chí Minh”
Đọc xong bức thư, tôi thấy bàng hoàng. Bác bận trăm công nghìn việc, thế mà Bác vẫn nghĩ đến tôi, một gia đình đang có cái tang đau lòng như hàng vạn gia đình khác.
Tôi thấy nỗi đau thương và sự hy sinh của gia đình mình trở thành nhỏ bé trong cái tình thương mênh mông và sự hy sinh cao cả của Bác đối với cả dân tộc. Tôi nhủ mình sẽ phải làm tốt công việc để xứng đáng với sự hy sinh của các con và khỏi phụ lòng Bác.
Sau đó, tôi theo Bác lên Việt Bắc – căn cứ thần thánh của cách mạng Việt Nam. Từ một người thầy thuốc của xã hội cũ, một giáo dân ngoan đạo, tôi đã trở thành một người thầy thuốc tốt, một Bộ trưởng Bộ Thương binh xã hội của nước Việt Nam mới.
Vũ Đình Tụng kể, Lê Thân ghi, theo báo Nghệ An, tháng 9-1994
Tổ chức UNESCO tại kỳ họp Đại hội đồng lần thứ 24 ở Paris năm 1987 đã tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa“ do các đóng góp quan trọng và nhiều mặt của Người trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, nghệ thuật, và Người đã dành cả cuộc đời mình cho sự giải phóng nhân dân Việt Nam, đóng góp cho cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của các dân tộc.
19 tháng 5 là ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là ngày thành lập Việt Minh và khai sinh đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Hành trình đến tự do hạnh phúc của dân tộc Việt đã trãi qua giành độc lập dân tộc và đấu tranh thống nhất Tổ quốc trong cuộc trường chinh thế kỷ . Minh triết của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đã hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp đấu trang giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc quy non sông vào một mối. Những việc khác Bác có Di chúc để lại cho đời sau. Công lao và những biến đổi phần sau không thể và không nên quy hết về Người. Có một số uẩn khúc đời người cần có đủ tư liệu mới đánh giá đầy đủ.
Bác Hồ có bài thơ “Chơi chữ” rất lạ vào những ngày đầu khởi lập nước Việt Nam mới.Đó là một kỳ thư, kinh Dịch độc đáo, một luận giải sứ mệnh và tự đánh giá của Bác:
Chơi chữ Hồ Chí Minh (Bản dịch của Nam Trân):
Người thoát khỏi tù ra dựng nước, Qua cơn hoạn nạn, rõ lòng ngay; Người biết lo âu, ưu điểm lớn, Nhà lao mở cửa, ắt rồng bay!
Nguyên tác: Tù nhân xuất khứ hoặc vi quốc, Hoạn quá đầu thì thuỷ kiến trung; Nhân hữu ưu sầu ưu điểm đại, Lung khai trúc sản, xuất chân long.
折字 Chiết tự Chơi chữ 囚人出去或為國 患過頭時始見 忠 人有憂愁優點大 籠開竹閂出真龍
Chiết tự là một hình thức phân tích chữ Hán ra từng bộ phận để thành những chữ mới, có ý nghĩa khác với ý nghĩa ban đầu. Theo lối chiết tự, bài thơ này còn có nghĩa đen như sau: chữ tù (囚) bỏ chữ nhân (人), cho chữ hoặc (或) vào, thành chữ quốc (國). Chữ hoạn (患) bớt phần trên đi thành chữ trung (忠). Thêm bộ nhân (人) đứng vào chữ ưu (憂) trong “ưu sầu” thành chữ ưu (優) trong “ưu điểm”. Chữ lung (籠) bỏ bộ trúc đầu (竹) thành chữ long (龍).
Anh Phan Chí Thắng có bài thơ viên đá thời gian “Ảnh ngày 19 /5 36 năm trước”
Vườn cây che mát nhà sàn Mặt ao in bóng dịu dàng trời mây Người như còn sống nơi đây Mắt cười ấm áp đủ đầy yêu thương Huệ thơm ngan ngát tỏa hương Bước chân khẽ vọng con đường Bác qua Nước non đất Việt là nhà Biển xa núi thẳm đều là chốn quê:
Bác thật sự Ưu tiên đạo đức, Tận tụy quên mình, Kiên trì bất khuất, Khiêm tốn giản dị, Hài hòa kết hợp, Thương, quý người, nâng đỡ con người, thấu tình đạt lý, Yêu thiên nhiên, hòa hợp với thiên nhiên. Hải Như thơ về Người và Ghi chép của Sơn Tùng, tôi thường đọc lại
2. BÁC HỒ NÓI ĐI ĐÔI VỚI LÀM CÓ LÝ CÓ TÌNH MẪU MỰC ĐẠO ĐỨC
Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng chuyên nghiệp, mẫu mực về đạo đức cách mạng, là tấm gương sáng về tự học suốt đời. Người nói: “Học ở đâu? Học ở trường, học trong sách vở, học lẫn nhau và học ở dân“. Người luôn nói và làm đi đôi., học không biết mỏi, dạy không biết chán.
Bác viết: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo của Jêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Jêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có ưu điểm chung đó sao? Họ đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu hạnh phúc cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, tôi tin rằng họ nhất định sống chung với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm một người học trò nhỏ của các vị ấy..” Trích “Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng”, NXB Khoa học xã hội, H.1996, trang 152. (Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng).
Nói và làm của Hồ Chí Minh điều gì cũng minh triết và thiết thực. Từ bài “Tâm địa thực dân” viết ở Pháp năm 1919 đến “Tuyên ngôn độc lập” năm 1945. Từ “Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” năm 1945 đến “Lời kêu gọi sau khi hội nghị Giơnevơ thành công” năm 1954. Từ “Lời phát biểu trong buổi đón tiếp Ủy ban Quốc tế” năm 1954 sau cuộc chiến tranh Đông Dương tàn khốc và dai dẳng 8,9 năm đến “Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh” công bố năm 1969 lúc cuộc chiến tranh Việt Nam đang ở giai đoạn dữ dội và ác liệt nhất. Việc làm nào, lời nói nào của Bác Hồ đều là nói đi đôi với làm, là khuôn vàng thước ngọc của đạo đức cách mạng “cần, liêm, chính, chí công vô tư“. Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ Quốc, tự do và hạnh phúc của dân. Người viết: “Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước được độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” Tư tưởng xuyên suốt của Người là “Việc gì lợi cho dân , ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân ta phải hết sức tránh” “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”
Hồ Chí Minh có nhiều bài chuyên bàn về đạo đức và đạo đức cách mạng. Đó là các bài “Đạo đức công dân” (1-1955), Đạo đức cách mạng (6-1955; 12-1958), “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (2-1969). Người chủ trương phát triển văn hóa gắn liền với đời sống mới, kêu gọi thực hành đời sống mới trong mọi lĩnh vực, mọi tầng lớp và trong từng con người. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: ” Đời sống mới không phải là cái gì cũ cũng bỏ hết không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ. Cái gì cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý…; Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm …; Cái gì mới mà hay thì ta phải làm”
3. BÁC HỒ THỰC TIỄN QUYỀN BIẾN RẤT ÍT TRÍCH DẪN
Ông Trường Chinh nói với ông Hà Đăng khi chiêm nghiệm về phong cách văn chương của chủ tịch Hồ Chí Minh: Bác Hồ rất ít trích dẫn. Lúc đầu tôi cũng cho là ngẫu nhiên. Về sau, hỏi trực tiếp, Bác nói: Mác, Ang ghen, Lê Nin nói rất đúng. Nhưng hoàn cảnh Mác, Ang ghen, Lê Nin hoàn toàn khác hoàn cảnh của chúng ta. Vậy nên muốn nói gì, trước hết phải hiểu cho thật rõ điều mà các vị ấy muốn nói, nói cho phù hợp với hoàn cảnh của mình, cho dân mình dễ hiểu. Do đó, Bác viết bằng sự suy nghĩ của mình. Bác rất ít trích dẫn”. (Hà Đăng 2002. Trường Chinh, người anh cả trong làng báo. Trong sách: Trường Chinh, một nhân cách lớn, một nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam. Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, trang 320). Ông Trường Chinh là một trong những người làm việc lâu nhất, thường xuyên nhất với Bác. Những chắt lọc và nhận xét trên đây chắc chắn là điều cần cho chúng ta suy ngẫm.
“Bác viết bằng sự suy nghĩ của mình. Bác rất ít trích dẫn” đó là phong cách văn chương của Hồ Chí Minh. Những người thông hiểu lịch sử, văn hóa, hiểu sâu các điển cố văn chương, chuyện hay tích cổ sẽ có thể chỉ ra vô số những điều trùng khớp của những lời hay ý đẹp từ xa xưa đã được Bác vận dụng một cách hợp lý hợp tình trong thời đại mới. Bác là người chú trọng ngôn ngữ giản dị, ngắn gọn, dễ hiểu, có tính thuyết phục cao, có nhịp điệu. Một thí dụ nhỏ như câu: “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào/ Học tập tốt, lao động tốt/ Đoàn kết tốt, kỹ luật tốt/ Giữ gìn vệ sinh thật tốt/ Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm” là câu sáu chữ có nhịp điệu như câu thơ cổ.
Bác Hồ nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Suốt đời Bác làm hai việc chính là kiến tạo Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) thành một mặt trận rộng rãi “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công thành công, đại thành công” thực hiện “kế sách một chữ đồng” giành độc lập dân tộc và mở đường thống nhất Việt Nam; xem tiếphttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/minh-triet-ho-chi-minh/
CHUYỆN CỔ TÍCH NGƯỜI LỚN Hoàng Kim
CậuHoàng Thúc Tấn viết: Cậu xem bài viết về Cao Biền trong sử Việtcủa cháu thật sự là điều mới lạ đối với cậu. Nếu thực sự Cao Biền như cháu đã khảo cứu thì lịch sử nước ta hoàn toàn khác. Có đoạn nói mộ Cao Biền ở Tuy Hoà thì thời nhà Đường nước ta mới chỉ vẻn vẹn một phần của Bắc bộ. Cậu xem một số bài khảo cứu của cháu qua Faebook và rất vui và lý thú khi đọc. Cậu Tấn”
Kim Hoàng trả lời: Cháu nhớ cậu cùng các cậu mợ kính yêu và người thân của các cháu. Cháu thật xúc động khi hình dung người cậu trên 85 tuổi đã viết cho cháu những lời chân tình này. Cháu về quê thắp hương cho người thân ‘Hoàng gia Mạc tộc’ và thấu hiểu sâu sắc ‘Cao cát Mạc sơn’ nhưng cháu chưa thể viết rõ hơn. Cháu xin lưu tại đây đường dẫn bài ‘Cao Biền trong sử Việt”
1.Quốc Công đạo làm tướngTiết Chế đức dụng nhân Cháu trích chép kính cậu một ghi chú trong bài Vạn Kiếp tông bí truyền thư (萬劫宗秘傳書) của Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương, tác phẩm này còn gọi là Vạn Kiếp binh thư đã thất truyền. Bài tựa của Trần Khánh Dư trong cuốn sách này đã giải thích bí truyền đại sư là người thế nào:
“Phàm người khéo cầm quân thì không cần bày trận, khéo bày trận thì không cần giao chiến, khéo giao chiến thì không thể thất bại, khéo thất bại thì không thương vong. Xưa kia, Cao Dao làm chức sĩ sư mà mọi người không dám trái mệnh, Văn Vương và Vũ Vương nhà Chu là bậc thầy về văn và về võ, ngấm ngầm sửa đức để khuynh loát quyền bính của nhà Thương mà lấy nghiệp vương. Đó đều có thể gọi là những người giỏi cầm quân, không cần bày trận vậy. Vua Thuấn múa lá mộc và lông trĩ mà họ Hữu Miêu tự mình tìm đến, Tôn Vũ nước Ngô đem mỹ nhân trong cung thử tập trận mà phía tây phá nước Sở hùng cường, phía Bắc ra uy với nước Tần nước Tấn, nổi tiếng khắp chư hầu. Đó đều có thể gọi là những người giỏi bày trận, không cần giao chiến vậy. Cho đến Mã Ngập nước Tấn dựa vào bát trận đồ chuyển đánh nghìn dặm, phá được Thụ Cơ Năng mà lấy lại Lương Châu. Thế gọi là người giỏi giao chiến không bao giờ thất bại vậy.Cho nên, trận nghĩa là bày ra, là khéo léo. Ngày xưa, vua Hiên Viên lập ra phép “tỉnh điền” để đặt binh chế, Gia Cát Lượng xếp đá bên sông để làm bát trận, Vệ công sửa lại làm trận Lục Hoa, Hoàn Ôn định ra trận Xà Thế, trước sau đều có trận đồ nổi tiếng, trình bày tuần tự, thành phép tắc rõ ràng. Nhưng người đương thời ít ai thông hiểu, muôn vàn đầu mối nhìn vào dường như rối loạn, chưa từng nắm được lẽ biến dịch bên trong. Ví như những phép tắc và suy luận của Lý Thuyên, người sau không ai hiểu nghĩa là gì. Vì thế, Quốc công ta bèn so sánh, kê cứu trận đồ và binh pháp của các nhà, tổng hợp lại thành một bộ sách. Tuy chép cả những điều chi tiết, nhưng người sử dụng thì nên bỏ bớt những chỗ rườm, tóm lấy thực chất. Rồi lấy năm hành ứng với nhau, chín cung câu với nhau, phối hợp cương và nhu, xoay vần chẵn và lẽ, không làm hỗn loạn âm dương và thần sát, phương lợi và sao tốt, hung thần và ác tướng, ba cát và năm hung, việc nào việc ấy thực phân minh rõ rệt. Quốc công lại còn thêm bớt với chiến thuật của thời Tam đại, nhờ đó trăm trận trăm thắng. Cho nên đương thời phía bắc làm cho Hung Nô phải sợ, phía tây làm cho Lâm Ấp phải kinh. Rồi ông đem sách này dạy bảo con em làm gia truyền, không tiết lộ cho người ngoài biết. Lại có lời dặn rằng: “Sau này con cháu và bề tôi phò tá của ta có học được bí thuật này thì nên lấy đầu óc sáng suốt, linh hoạt mà thực hành và sắp đặt nó, chứ không nên lấy đầu óc cứng nhắc, tối tăm mà cất giữ và lưu truyền. Nếu trái điều đó thì sẽ mang vạ vào thân, lại hại lây đến cả con cháu. Đó gọi là tiết lậu cơ trời vậy.” Bài tựa của Trần Khánh Dư cho Vạn Kiếp tông bí truyền thư, nay còn nhưng sách Binh thư yếu lược mà người đời ngờ rằng bản thật đã bị cướp và thất lạc. Đời sau chỉ có chân truyền lời này. Trần Khánh Dư “Bán than” hậu duệ của mặt trời, lưu lại cho đời bài thơ Trần Khánh Dư vẹn kiếp “Ở với lửa hương cho vẹn kiếp. Thử xem sắt đá có bền gan”
2. Mạc triều trong sử Việt. Hoàng chi Mạc tộc và Cao Bằng . Tỉnh Cao Bằng có làng Đà Quận ở xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, từ thời Mạc đến nay hàng năm đều có Lễ hội chùa Đà Quận từ ngày 9 âm lịch đến rằm Nguyên tiêu tháng Giêng hàng năm để tảo mộ tổ tiên và dâng hương tưởng nhớ. Cao Bằng là đất sau cùng của nhà Mạc tiếp tục tồn tại hơn 100 năm sau khi nhà Mạc không còn triển vọng phục quốc mới nhập vào đất nhà Hậu Lê. Làng Đà Quận là làng dân Mạc theo hương linh Đà Quận Công Mạc Ngọc Liễn. Nhà Mạc tuân theo di nguyện của Mạc Ngọc Liễn danh tướng thái phó vua Mạc là không bao giờ vì dòng họ mình mà nồi da xáo thịt đưa ngoại viện vào giày xéo non sông. Mạc tộc lúc kế cùng lực kiệt đã đổi họ Mạc thành họ khác và lưu tán khắp mọi nơi trong cả nước, trong đó có Hoàng chi Mạc tộc Làng Minh Lệ và cho đến nay có Hoàng chi Mạc tộc đất phương Nam cũng là những người con xa xứ. Những ngày đầu xuân nay (2022) sau 430 năm (tính từ năm 1592 Cao Bằng thất thủ vì sự công phá của nhà Lê Trịnh), Việt sử ghi nhớ di nguyện tổ tiên, ‘Lời dặn sau cùng của Mạc Ngọc Liễn’ tại quốc sử Việt đối chiếu qua các thời viết về Mạc triều trong sử Việt: “Nay khí vận nhà Mạc đã hết, họ Lê lại trung hưng, đó là số trời. Dân ta là người vô tội mà khiến để phải mắc nạn binh đao, ai nỡ lòng nào! Chúng ta nên lánh ra ở nước khác, nuôi dưỡng uy lực, chịu khuất đợi thời, chờ khi nào mệnh trời trở lại mới làm được, chứ không thể lấy lực chọi với lực. Khi hai con hổ tranh nhau, tất phải có một con bị thương, không có ích gì cho công việc. Nếu thấy quân họ đến đây thì chúng ta nên tránh đi, chớ có đánh nhau với họ, cốt phòng thủ cẩn thận là chính; lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng”. Tác giả Trần Gia Phụng trong bài viết: “Những cuộc đổi họ lớn trong lịch sử” có đoạn bình luận về lời trăng trối của ông: “Đây không phải lời nói suông trong cảnh trà dư tửu hậu, nhưng đây là tâm huyết của một con người sắp nằm xuống trong cơn hoạn nạn cùng cực vì mất nước. Suốt trong lịch sử Việt Nam, chúng ta thường được nghe những lời nói của Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng, Đặng Dung, hào hùng như vó ngựa tổ tiên, nhưng ít khi được đọc những dặn dò như Mạc Ngọc Liễn – nhân bản, đầy tình tự dân tộc không khác gì lời ru êm ái trong những câu ca dao mộc mạc”.
3. Chuyện cổ tích người lớn“Người trồng cây hạnh người chơi, Ta trồng cây đức để đời về sau”. Điều lạ lùng hơn cả trongNam tiến của người Việt là liên minh Nguyễn Hoàng Mạc Cảnh Huống, Nguyễn Phúc Nguyên Mạc Thị, với câu chuyện hoàng tử thứ chín của hoàng đế Mạc triều lưu lạc trong dân gian, quan hệ tới những người Cụ Hồ, Cụ Đồng chọn kế cận bên mình, là những uẩn khúc lịch sử nay chưa thể viết rõ. Trong 8 đời chúa Nguyễn, chưa thấy ông nào làm điều gì thất đức. Ông nào cũng chăm lo làm cho dân giàu nước mạnh. Lịch sử cuộc nam tiến đi từ Phú Yên đến Cà Mau-Châu Đốc chứng minh điều đó. Hậu thế đã được thừa hưởng biết bao phúc lợi từ sự nghiệp nam tiến đó! Có 3 ông chúa mang danh hiệu khác người: Chúa Sãi, chúa Hiền, chúa Ngãi. Nghe nôm na và thân tình biết mấy. Nếu cai trị mà không được dân thương mến và biết ơn thì làm chi có những cách gọi kém vương giả nhưng giàu tình cảm như thế? Có đến 4 ông chúa, ngoài tên và vương hiệu, lại tự xưng là đạo nhân, như Thiên Túng đạo nhân (chúa Minh Nguyễn Phúc Chu), Vân Tuyền đạo nhân (chúa Ninh Nguyễn Phúc Thụ) hay Từ Tế đạo nhân (Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát), Khánh Phủ đạo nhân (Định Vương Nguyễn Phúc Thuần). Đó cũng là một nét đặc biệt. Nhiều ông chúa xây chùa (chúa Tiên lập chùa Thiên Mụ, Long Hưng, Bảo Châu, Kính Thiên; chúa Hiền lập chùa Túy Vân) hay trùng tu chùa, đúc chuông, thỉnh sư giảng Pháp (chúa Minh). Có lẽ nhờ biết tu nhân tích đức mà Đức năng thắng số, Số bất cập đức nên tai qua nạn khỏi, như câu tục ngữ mà ông bà xưa thường nói để dạy khôn cho con cháu: Trời hại mới lo, người hại như phấn nhồi. Đó là nói nôm na, cho có vẻ chính xác và minh triết hơn thì đấy chính là nhân quả nghiệp báo”.
Kim Dung là nhà văn có tầm ảnh hưởng lớn nhất của văn học Trung Quốc hiện đại . Ông là một trí tuệ lớn. Kim Dung sinh ngày 10 tháng 3 năm 1924 nhằm ngày 6 tháng 2 năm Giáp Tý. Kim Dung mất buổi chiều 30 tháng 10 năm 2018 tại một bệnh viện ở Hong Kong do tuổi cao, hưởng thọ 94 tuổi.
Kim Dung sinh tại Haining, Gia Hưng, Trung Quốc, tên thật là Tra Lương Dung (Louis Cha Leung-yung) thường được biết đến với tên bút danh quen thuộc là Kim Dung (Jin Yong). Ông là một tiểu thuyết gia và nhà viết tiểu thuyết Trung Hoa đồng sáng lập Minh Báo là tờ báo hàng ngày của Hồng Kông từ năm 1959 và là tổng biên tập đầu tiên của tờ báo này. Ông là nhà văn danh tiếng châu Á và Thế giới , được coi là nhà văn nổi tiếng nhất Trung Quốc và Hồng Kông thời hiện tại Tên ông được đặt cho tiểu hành tinh 1998 CR2 được tìm thấy trùng với ngày sinh âm lịch của ông. Tháng 2 năm 2006, ông được độc giả bầu chọn là nhà văn được yêu thích nhất Trung Quốc. Kim Dung với kiệt tác nổi tiếng “Tuyết Sơn phi hồ” đã được Trung Quốc đưa vào sách giáo khoa môn ngữ văn từ ngày 1 tháng 9 năm 2007, thế chỗ cho “AQ chính truyện” của Lỗ Tấn là tác phẩm đã ngự trị văn đàn Trung Hoa từ nhiều năm nay. Hầu hết chuyên gia ngữ văn Trung Quốc đều cho rằng việc xem nhẹ cổ văn là sai lầm và không thể chấp nhận được cần kíp phải bảo lưu tinh hoa văn học cổ. Dòng văn học thông tục giải trí kiểu fast food tuy không thể thay thế dòng văn hóa kinh điển uyên thâm bác học chủ lưu nhưng vấn đề cốt lõi là cần phải thay đổi nhận thức lý do trào lưu văn hóa lớp trẻ yêu thích hiệu quả thực dụng. Vì vậy mô thức dạy và học kiểu mới cũng như thể chế thi cử cần đổi mới để nâng cao chất lượng văn hóa giáo dục hiện đại thích ứng với tình thế mới. Kim Dung trong ngày mới thể hiện trào lưu văn hóa đó cần phải nghiên cứu, học tập và vận dụng thích hợp.
Triết học Trung Hoa tinh hoa cổ điển tôn thờ những hình tượng điển hình Nghiêu Thuấn, Lão Trang, Khổng Tử, Khổng Minh, Quan Công là những khuôn mẫu tiêu biểu của nhân nghĩa lễ trí tín. Đến thời cách mạng Tân Hơi và thời kỳ đầu của cách mạng văn hóa Trung Quốc lại nghiêng về sự cười nhạo những đặc tính phổ biến căn bản làm kìm hãm sự thoát xác của đất nước Trung Hoa mới cần phải cách mạng sửa đổi. Đó là hình tượng “AQ chính truyện” và “Nhật ký người điên” của đại văn hào Lỗ Tấn xác định ‘tâm bệnh của người Trung Quốc” cần phải chữa trị thay thế là gì. Cho đến nay thì hình tượng của Hồ Phỉ trong “Tuyết Sơn phi hồ” và hình tượng của Vi Tiểu Bảo trong “Lộc Đỉnh Ký” của đại văn hào Kim Dung là sự ngấm ngầm hoặc công khai yêu thích rất phổ biến của giới trẻ Trung Quốc. Đó là những cảnh báo đặc biệt sâu sắc không dễ thấy về một sự chuyển đổi tâm lý và hình mẫu biểu tượng người Trung Quốc mới được văn học hóa; xem tiếpKim Dung trong ngày mớihttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/kim-dung-trong-ngay-moi/
CHUYỆN CỔ TÍCH NGƯỜI LỚN Kim Hoàng
Lưu Bị trong mắt ai “Người như vậy, dù có rơi xuống 18 tầng địa ngục cũng sẽ từ từ trèo lên, chỉ cần có ý chí thì không gì là không thể.” Dường như đây là bài hay nhất của Lương Ngọc Trắng tiên sinh mà Hoàng Kim duyên may đọc được. Gia Cát Mã Tiền Khóa người vốn chẳng tầm thường mà cúc cung tận tụy đến chết https://youtu.be/Vd5sN2VKrP0; La Quán Trung có cảm phục đặc biệt Lưu Bị mới xét kỹ chữ nhân hòa của kẻ dệt chiếu như vậy sánh cùng Tào Tháo Tôn Quyên trong thế lớn Tam Quốc. Tào Tháo tài trí gian hùng với Lưu Bị Không Minh khác biệt quy tắc, quan niệm sống nhân nghĩa, cam kết phục hưng triều đình nhà Hán mà hành xử thật khác biệt đấy thôi, và gia thế nhân quả thấy rõ https://youtu.be/P-EXgwIfBfE. Bài này bình giảng thật cô đọng và hay xin được sao chép về https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-co-tich-nguoi-lon/
Khổng Tử nói: “Cái gọi là cá ướp muối chính là chỉ người đàn ông đến 40 tuổi rồi mà vẫn không có thành tựu gì”. Muốn nói đàn ông 40 tuổi mà vẫn không thành công thì cuộc đời của anh ta coi như bỏ.
Thật không may, Lưu Bị chính là một trong những con cá ướp muối đó.
Lưu bị ở tuổi 40 không có gì trong tay, tiền đồ mơ hồ, giả sử thời gian dừng lại ở khoảnh khắc này, ông sẽ chỉ là một phần tử an phận với tài năng bình bình, đáng xấu hổ.
Đối mặt với rất nhiều thất bại và khó khăn, ông không bao giờ cảm thấy rằng thời gian đã quá muộn, không bao giờ mất tự tin, không bao giờ tự kiêu và cũng không bao giờ nản lòng, luôn giữ cho mình cái tâm ban đầu, nghèo vật chất nhưng luôn giàu về mặt tinh thần.
Người như vậy, dù có rơi xuống 18 tầng địa ngục cũng sẽ từ từ trèo lên, chỉ cần có ý chí thì không gì là không thể.
ĐỌC LẠI VÀ SUY NGẪM Hoàng Kim “Trên mặt đất không có đường, cứ đi mãi rồi thành đường. Nhưng người ta cũng lại nói: khi mặt đất đã có đường, nhưng cứ đi mãi cũng không thành đường.Hãy viết một bài văn 800 chữ bàn về con đường và cách đi. Không dùng thể loại thơ”. Quá hay! Cảm ơn Trần Đăng Khoa, một trích dẫn khéo. Chỉ riêng đề tài ‘Bình sinh Mao Trạch Đông” và “Bình sinh Tập Cận Bình” là đề tài còn phải chiêm nghiệm. Trung Quốc một suy ngẫm; Xin được chép trích dẫn này về Chuyện cổ tích người lớn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-co-tich-nguoi-lon/
Ở Việt Nam, chúng tôi khuyên nông dân nên trồng các loại giống sạch KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 để khảo nghiệm DUS và VCU. Sắn ở Việt Nam: Bảo tồn và Phát triển: Đến nay, các giống sắn KM419 và KM440 là phổ biến, sau cả CMD và CWBD, xem thêm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/
PHAN KHÔI ‘NẮNG ĐƯỢC THÌ CỨ NẮNG’ Hoàng Kim
Bài thơ của cù Phan Khôi ‘Nắng được thì cứ nắng’ là một kiệt tác tứ tuyệt : “Nắng chiều đẹp có đẹp. Tiếc tài gần chạng vạng. Mặc dù gần chạng vạng. Nắng được thì cứ nắng “.Cụ Phan Khôi sinh ngày 6 tháng 10 năm 1887 mất ngày 16 tháng 1 năm 1959 là nhà báo, học giả nổi tiếng Việt Nam “ngự sử văn đàn Việt “. Đọc thơ cụ , tôi chợt nhớ bài thơ cụ Hoàng Thừa Ngạn, bố vợ Khổng Minh Gia Cát Lượng: “Một đêm gió lạnh lùng, Muôn dặm mây đỏ ối. Bời bời hoa tuyết bay, Nước non hình sắc đổi, Ngẩng mặt trông trên trời, Tưởng là rồng ngọc chọi, Vây mai tua tủa bay, Một lát khắp bốn cõi, Cưỡi lừa qua cầu con, Than vì mai gầy cỗi.”
BẾN ĐỢI VÀ SÔNG THƯƠNG Hoàng Kim
thăm cô cháu xinh đẹp tài hoa Nguyễn Tuyết Hạnh của nhà triết học. Tôi bần thần về bài thơ hay “Bến Đợi”. Ông ngoại ấy có có cháu ngoại ấy, thật tuyệt vời. Tôi lưu lại Bến Đợi và bài sáng tác Sông Thương họa vần, với bài thơ “Giấc mơ lành yêu thương” Tất nhiện ảnh thơ này chỉ là ý nghĩa tượng trưng.
Nhà Tống là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này dài 319 năm .(Tương ứng với thời nhà Lý của Đại Việt. Nhà Lý là hoàng triều Đại Việt bắt đầu khi Lý Công Uẩn lên ngôi vào tháng 10 âm lịch năm 1009 sau khi giành được quyền lực từ tay nhà Tiền Lê. Triều đại này trải qua 9 vị hoàng đế và chấm dứt khi Lý Chiêu Hoàng, lúc đó mới có 7 tuổi, bị ép thoái vị để nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh vào năm 1225, tổng cộng là 216 năm). Nhà Tống Trung Quốc được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi kết thúc thời kỳ Ngũ đại Thập quốc. Nhà Tống trong suốt thời gian tồn tại thường xuyên xung đột với các quốc gia phương bắc là Liêu, Tây Hạ và Kim. Cuối cùng, Nhà Tống đã bị chinh phục bởi nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo, chứ không phải là Kim, Liêu, Tây Hạ, là những lân bang. Diện tích nhà Tổng thuở lập quốc là 800.000 km2, nhỏ hơn diện tích kế thừa thời Đường là 10.760.000 km2, nhưng đến năm 980 thì nhà Tống là lớn nhất đạt 3.100.000 km2, và lúc nhà Tống đổi thời sang nhà Nguyên thì diện tích đất Tống lúc đó là 1.800.000 km2 . Và, nhà Tống bị chinh phục là bởi nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo. Đọc “Lời nguyền trăm năm” của Đỗ Thái hậu đã nói với vua Tống Thái Tổ mà người sau là Mạnh Tử đã đúc kết tinh hoa: “Người nhân nghĩa không ai đánh nổi !”: Đỗ Thái hậu nói “Hoàng thượng biết vì sao Hậu Chu mất không? Là vì họ đưa một đứa trẻ 7 tuổi lên làm vua”, Đỗ Thái hậu lại thúc giục vua nên lập em trai để kế vị, tránh vào vết xe đổ của Hậu Chu. “Liên thủ ai và chống ai phải tùy vào thế và lực nhưng ĐỨC NHÂN VÀ NỘI LỰC MỚI LÀ NGƯỜI THẮNG SAU CÙNG”. Sau Tổng Thái Tổ là võ quan duy nhất thì các vua nhà Tống sau đều là các trí vương, nhân vương, biết tùy thời mà hành xử. Vua Tống Nhân Tông đã liên thủ và cân bằng quyền lực với các ‘nữ lưu Nghiêu Thuấn ‘ là Tào Thái hậu, Cao Thái hậu nên đã giúp ổn định được nhà Tống chính thể lâu dài như vậy. “Tư Trị Thông Giám” như “Đông Chu Liệt Quốc” là sách hay cần đọc. Phim “Khúc nhạc thanh bình” đúc kết giỏi.
Lãnh thổ nhà Tống năm 1111.
THẠCH LAM NGỌC ĐỜI NAY Hoàng Kim đọc lại chuyện Thạch Lam ngọc đời nay, nhớ tháng bảy mưa ngâu. Thạch Lam mất lúc 32 tuổi ngày 27 (28?) tháng 6 năm 1942 Thạch Lam tốt tính, biết vừa đủ (tường minh vừa phải) nói viết điều gì cũng lương thiện chừng mực. Ông sống nhân cách, gần gũi người dân nghèo khổ, tiếc là mất quá sớm. Gió đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Ngày mới (1939), Hạt ngọc (1940), Quyển sách (1440), Theo giòng (1941), Sợi tóc (1942), Hà Nội băm sáu phố phường (1943) là tám tác phẩm Thạch Lam gửi lại cho đời. Nguyễn Tường, là một dòng họ lớn vinh quang và bi kịch, Cụ ông Nguyễn Tường Vân là Binh bộ Thượng thư của vua Gia Long. Chữ Tường là bởi vua Gia Long đi đến chân núi Phước Tường, Hội An thì hỏi mọi người núi này là núi gì, ông trả lời “Thưa Chúa đây là núi Phước Tường”. Vua Gia Long nói với ông Nguyễn Tường Vân đi bên cạnh là hầu cận rất thân “Phước là họ ta nhưng Tường thì ta ban cho nhà ngươi”. Từ đó trở đi thì mới là họ Nguyễn Tường, trước thì chỉ Nguyễn không thôi. Thạch Lam tâm niệm: “văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn”. Văn là người. Nhân cách, cuộc đời và di sản văn chương Thạch Lam là hạt ngọc đời nay về cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Chuyện cổ tích người lớn sưu tầm và biên tập Thạch Lam ngọc đời nay. (*) Theo các tư liệu thu thập chính trên Bách khoa toàn thư Mở Wikipedia Tiếng Việt cập nhật thông tin đến 27 tháng 7 năm 2021 để đời không nỡ quên. Hoàng Kim tra cứu, đối chiếu, chỉnh lý và ghi chép
Quảng Tây ngày nay, với thủ phủ Nam Ninh là nơi diễn ra Hội thảo Cây Có Củ Toàn Cầu (*), https://youtu.be/81aJ5-cGp28 diện mạo thành phố khác rất xa so với Quảng Tây trước đây, nơi tôi đã có nhiều lần đến đó và có nhiều người bạn gắn bó tại đấy. Văn hóa lịch sử khoa học và công nghệ toàn cầu giao hội ở điểm đến Nam Ninh. Quảng Tây nay so sánh với Ung Khâm Liêm xưa là một góc nhìn thú vị. Bài này tôi không viết về nông nghiệp mà muốn lưu lại một chút cảm nhận về lịch sử.
Du lịch sinh thái Quảng Tây ngày nay là khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, với Nam Ninh, Khâm Châu, Hợp Phố đã biết bao thay đổi, so với đất Ung Khâm Liêm xưa Tôi đến Quảng Tây nhiều lần, đã từng du thuyền ở Quế Lâm, leo núi cao và cùng ăn cơm người dân tộc Choang, thăm khu di chỉ khảo cổ Tây Sa Pha nơi khai quật được các loại rìu đá, dao đá, những công cụ nguyên thủy của người cổ Bách Việt (*), nơi câu thơ “châu về Hợp Phố” vẫn còn văng vẳng bên lòng. Nam Ninh thủ phủ của Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, nay là nơi tổ chức Hội thảo Cây Có Củ Toàn Cầu, xưa là trọng điểm của chiến dịch đánh Tống 1075-1076 do danh tướng nhà Lý là Lý Thường Kiệt phát động nhằm tấn công quân Tống ở ba châu Ung Khâm Liêm, chặn đứng âm mưu của Vương An Thạch chủ trương Nam tiến tìm kiếm chiến thắng bên ngoài để giải tỏa những căng thẳng trong nước. Tôi nhớ Tô Đông Pha bị đày ải ở Thiểm Tây, Hàng Châu, biên viễn Giang Nam, suốt đời lận đận vì chống lại biến pháp không bền vững của Vương An Thạch. Tuy ông bị đối xử không công bằng nhưng người yêu thương ông, túi thơ, kiếm bút, công trình thủy lợi Hàng Châu di sản văn hóa thế giới mà ông lưu lại vẫn như trăng rằm lồng lộng giữa trời. Tôi nhớ câu thơ Nguyễn Du: “Giang sơn vui thú yên hà. Mai là bạn cũ, hạc là người quen“. Tôi nhớ Hồ Chí Minh “Đi đường mới biết gian lao, Núi cao rồi lại núi cao trập trùng; Núi cao lên đến tận cùng, Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non“. Và tôi nhớ câu thơ cảm khái của chính mình ‘Lên non thiêng Yên Tử’ “Non sông bao cảnh đổi. Kế sách một chữ Đồng. Lồng lộng gương trời buổi sáng. Trong ngần thăm thẳm mênh mông“.
(*) VTV4 ngày 30 tháng 12 năm 2019 có video yêu thích https://youtu.be/dQEDfUqTmOETam Đảo: Nơi thời gian ngừng lại – Người Kinh tại Quảng Tây, Trung Quốc giữ văn hoá, ngôn ngữ Việt. (Xin bạn đừng lầm địa danh dãy núi Tam Đảo, thuộc Đông Hưng Quảng Tây, Trung Quốc với Tam Đảo là một dãy núi đá ở vùng đông bắc Việt Nam nằm trên địa bàn ba tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang và Thái Nguyên, Khu du lịch Tam Đảo nằm trên dãy núi Tam Đảo thuộc huyện Tam Đảo tỉnh Vĩnh Phúc Việt Nam ) “Người Kinh – Tam Đảo từ Đồ Sơn – Hải Phòng sang Tam Đảo – Đông Hưng (trước kia là Phúc Yên) từ thời Lê, đến trước thời Tự Đức nhà Nguyễn vẫn là lãnh thổ Việt Nam, sau này theo Hiệp ước Pháp – Thanh (1895) họ trở thành người nước khác trên chính quê hương mình. Ở giữa tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc có 3 ngôi làng rất đặc biệt. Người dân của những ngôi làng này chính là những người gốc Việt di cư từ Đồ Sơn, Hải Phòng sang từ hơn 500 năm trước. Giữa nhịp sống hối hả, người dân nơi đây vẫn giữ nguyên được nếp sống truyền thống của tổ tiên. Họ nói tiếng Việt cổ, giữ gìn chữ Nôm và thậm chí vẫn hát giao duyên bằng tiếng Việt. Làng Vu Đầu cùng với hai ngôi làng khác là Sơn Tâm và Vạn Vỹ ở cạnh nhau hợp thành Tam Đảo chính là nơi mà người Kinh – một trong ba dân tộc thiểu số ít người nhất của Trung Quốc đang sinh sống. Giờ đây, trên mảnh đất Tam Đảo mà người Kinh sinh sống, không chỉ có những cụ già yêu văn hóa dân tộc mà thế hệ trẻ đã làm tốt vai trò kế thừa di sản văn hóa cội nguồn từ ngàn đời xưa. Tình yêu với gốc rễ, cội nguồn Việt đã được lưu lại mãi ở nơi đây, ngưng đọng lại không chỉ trong không gian văn hóa cổ truyền rất đặc trưng, mà còn thấm sâu vào trong lời ăn, tiếng nói, câu ca của cả một cộng đồng“. xem tiếp Chuyện cổ tích người lớn Quảng Tây nay và xưa , https://hoangkimlong.wordpress.com/category/quang-tay-nay-va-xua/
Đền thờ Triệu Đà ở xóm Đồng Xâm Hồng Thái Kiến Xương Thái Bình
NHÀ TRIỆU TRONG SỬ VIỆT Hoàng Kim
Việt Nam Sử Lược của tác giả Trần Trọng Kim viết vào năm 1919 qua bản in lần thứ nhất năm 1921 đã viết rằng: Triều đại nhà Triệu nước Nam Việt kéo dài 96 năm (từ năm 207 đến năm 111 trước Tây lịch) gồm năm đời vua: Triệu Vũ Vương trị vì 70 năm (207-137 trước Tây lịch); Triệu Văn Vương trị vì 12 năm (137-125 trước Tây lịch), Triệu Minh Vương trị ví 12 năm (125 – 113 trước Tây lịch); Triệu Ai Vương trị vì một năm (113 trước Tây lịch); Triệu Dương Vương trị vì khoảng hơn một năm (113-111 trước Tây lịch). Nước Nam Việt năm 111 trước công nguyên thời Hán Vũ Đế đã bị nước Tàu chiếm lấy, đổi tên là Giao Chỉ bộ, chia làm 9 quận và đặt quan cai trị như các châu quận bên Tàu vậy.
“Lịch sử nước ta” tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tại sách Hồ Chí Minh tuyển tập tập 1 (1919-1945), Nhà Xuất Bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002, trang 594, đã viết như sau:
“Dân ta phải biết sử ta Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam Kể năm hơn bốn ngàn năm, Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hòa. HỒNG BÀNG là tổ nước ta Nước ta lúc ấy gọi là VĂN LANG Thiếu niên ta rất vẻ vang, Trẻ em PHÙ ĐỔNG tiếng vang muôn đời, Tuổi tuy chưa đến chín mười, Ra tay cứu nước dẹp loài vô lương. AN DƯƠNG VƯƠNG thế HÙNG VƯƠNG, Quốc danh ÂU LẠC cầm quyền trị dân. Nước Tàu cậy thế đông người Kéo quân áp bưc giống nòi Việt Nam, Quân Tàu nhiều kẻ tham lam, Dân ta há dễ chịu làm tôi ngươi? HAI BÀ TRƯNG có đại tài Phất cờ khởi nghĩa giết người tà gian, Ra tay khôi phục giang san, Tiếng thơm dài tạc đá vàng nước ta” (1)
(1) Hồ Chí Minh tuyển tập tập 1 (1919-1945), Nhà Xuất Bản chính trị quốc gia , Hà Nội 2002, trang 594.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không đánh giá Nhà Triệu hẳn Bác Hồ có chủ ý (điều đó, nặng nhẹ và sự cân nhắc ví như Bác Hồ đánh giá: “Nguyễn Huệ là KẺ phi thường/ Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm giặc Tàu/ Ông đà chí cả mưu cao/ Dân ta lại biết cùng nhau một lòng” (Hồ Chí Minh, sách đã dẫn, trang 598).
Đạị cáo Bình Ngô của tác giả Nguyễn Trãi, thay lời Lê Lợi tuyên cáo với quốc dân, chứng cứ tồn tại tới ngày nay trên Văn bia Vĩnh Lăng, ghi rõ:
“Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác Từ TRIỆU, ĐINH, LÝ, TRẦN bao đời xây nền độc lập Cùng HÁN, ĐƯỜNG, TÔNG, NGUYÊN mỗi bên hùng cứ một phương Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau Song hào kiệt thời nào cũng có”…
“Càn khôn bĩ rồi lại thái Nhật nguyệt hối rồi lại minh Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu Muôn thuở nền thái bình vững chắc Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ“
Ngày 9 tháng 3 năm 141 TCN Hán Vũ Đế Lưu Triệt lên ngôi. Nam Việt bị nhập vào nhà Hán Ngàn năm sau vết nhục sạch làu. Nhật nguyệt hối rồi minh’ Trăng che trời đêm rồi sáng Nguyễn Trãi ngàn năm linh cảm Ngày 9 tháng 3 thật lạ lùng !
Triệu Đà tích xưa còn đó Nam Việt nhập vào nhà Hán Sử xưa Triệu Đinh Lý Trần Đối Hàn Đường Tống Nguyên Sách nay Đinh Lê Lý Trần thay cho Triệu Đinh Lý Trần Ngàn năm vết nhục sạch làu. Chính sử còn, sự thật đâu ?
Soi gương kim cổ Tích truyện xưa Ghi lại đôi lời Trăng che mặt trời Nhật thực hôm nay.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945 Nhật đảo chính Pháp Ngày 9 tháng 3 năm 2016 Nhật thực Việt Nam Ngày 9 tháng 3 lúc 10: 45 trăng che mặt trời CNM365 ta chọn lại vài hình hay để ngắm … Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn Ức Trai ngàn năm linh cảm.
Triệu Đà là người thế nào? Sử Ký Tư Mã Thiên ghi: Triệu Đà hỏi Lục Sinh: – Tôi so với Tiêu Hà (tể tướng) Tào Tham (tướng quốc) Hàn Tín (tướng giỏi nhất thời Tần Hán Sở tranh hùng; chữ trong ngoặc là ghi chú của Hoàng Kim). (Lục Sinh trả lời) – Nhà vua có vẻ giỏi hơn. Lại hỏi: – Tôi so với Hoàng đế ai giỏi hơn? Lục Sinh đáp: Hoàng đế (Hán Cao Tổ) nổi lên từ ấp Phong, quận Bái, trừ nhà Tần bạo ngược, giết nước Sở mạnh, vì thiên hạ hưng lợi trừ hại, nối cơ nghiệp của Tam Hoàng, Ngũ Đế, thống trị Trung Quốc. Người Trung Quốc đông kể hàng ức, đất vuông vạn dặm, ở nơi giàu có nhất trong thiên hạ, người đông, xe cộ, vạn vật giàu có, phong phú quyền chính do một nhà cai quản, từ khi đất trời tách bạch nhau cho đến nay chưa hề có ai được như vậy. Nay dân của nhà vua chẳng qua vài chục vạn, đều là man di, cô độc, ở giữa nơi núi non , biển cả, cũng ví như một quận của Hán, nhà vua làm sao lại so sánh mình với Hán được. Úy Đà cười vang nói: Ta không nổi lên ở Trung Quốc cho nên làm vua ở đây thôi. Nếu ta ở Trung Quốc thì việc gì lại không được như Hán. Bèn rất thích Lục Sinh, giữ lại uống rượu mấy tháng nói: – Trong nước Việt không có ai đáng nói chuyện với tôi, khi ông đến đây, tôi ngày ngày được nghe những điều chưa được nghe. Triệu Đà cho Lục Sinh một cái túi ngọc đáng giá ngàn vàng, lại cho một món quà khác cũng đáng giá ngàn vàng. (Sau này) Trong thời Hiếu Huệ hoàng đế Lữ thái hậu cầm quyền chính (…) Lục Sinh tự xét không thể nào can được bèn cáo bệnh xin thôi, về nhà (…) Đến khi giết họ Lữ lập Hiếu Văn Đế, Lục Sinh cũng có công. Hiếu Văn Đế lên ngôi muốn sai người đi Nam Việt, bọn Trần thừa tướng bèn cữ Lục Sinh làm thái trung đại phu qua đi sứ Triệu Đà, bảo Úy Đà bỏ xe hoàng ốc, đừng gọi mệnh lệnh của mình là “chế”, cho ông ta theo đúng nghi lễ của chư hầu. Những việc ấy Lục Giả đều làm được như ý muốn của nhà vua. Việc này chép trong phần về Nam Việt. Lục Sinh rốt cục chết trọn tuổi trời.
Lịch Sinh, Lục Giả liệt truyện trong sử ký Tư Mã Thiên, đừng lầm Lịch Sinh (Lịch Tự Cơ người làng Cao Dương huyện Trần Lưu) du thuyết danh tiếng đã dùng cách thuyết phục mà lấy được bảy mươi thành của Tề để Hoài Âm Hầu đánh úp nước Tề và Lịch Sinh bị vua Tề đem nấu. chớ lẫn Lục Giả (là người nước Sở làm môn khách theo Cao Tổ) nổi tiếng có tài biện luận chết trọn tuổi trời, hai lần đi sứ sang Nam Việt, Sinh Giả lẫn lộn, chép chung một bài là có chủ ý . Thái sử công chép vậy hẳn là có ý và có ẩn ngữ như chuyện Hoài Âm Hầu và như chính cuộc đời ông. Thái Sử Công phản đối chủ trương diệt Hung Nô giết Lý Lăng, bị thiến; viết Lữ Hậu bản kỷ chê chủ trương bình Nam Việt, giết Hàn Tín nhưng chép sử ký dưới triều vua Hán Vũ Đế đã nhục hình ông. Sách còn lưu được cho đời, không thẹn với lòng, quả là thật giỏi và thông tuệ .Đọc sử ký Tư Mã Thiên thời Hán Vũ Đế Lưu Triệt phải biết đọc giữa hai hàng chữ và biết thấu hiểu. “Giã bảo là Sinh, Sinh cũng Giả. Không làm ra Có, Có rồi Không”
1. Hai đời vua kế tục vua Hùng là An Dương Vương Thục Phán, kế tục An Dương Vương là Triệu Vũ Đế- Triệu Đà.Hai vị vua này từ trước đến đời nhà Lê xếp triều chính thống ở nước ta. Sử gia triều Nguyễn có đặt nghi vấn nhưng vẫn xếp vào triều chính thống. Học giả Đào Duy Anh 1957 cho Triệu Đà xâm lược ngược với Trần Trọng Kim trước đó 1929 cho là triều yêu nước. Đến nay vẫn còn tranh cãi. Người soạn thấy rằng đã là sự kiện quan trọng nên không thể bỏ qua. Người soạn thiên về ý kiến của các sử gia đời trước vì thời đại họ ở gần hơn, nhiều tư liệu họ nắm được nhưng nay thất lạc do nhà Minh đã cho gom tất cả sách vở nước ta đem đốt hết nhằm xoá bỏ dấu tích cội nguồn lịch sử dân tộc Việt để dễ dàng đồng hoá. Mặt khác dựa vào sử sách thì An Dương Vương chỉ hợp nhất hai bộ tộc Âu Việt và Lạc Việt vốn cùng một gốc Âu Cơ- Lạc Long Quân , nên không thể nói An Dương Vương xâm lược mà là cuộc sáp nhập nội bộ. Cũng không thấy mô tả cuộc chiến giữa An Dương Vương và vua Hùng, có thể là sự bàn giao hoà bình.Sử Hán có thừa nhận tướng Đồ Thư của Tần Thuỷ Hoàng có xâm lược và bị đánh bại tại Tây Âu, tức vùng đất Quảng Tây, vốn là quê hương của tộc Âu Việt chứ chưa xâm phạm đến vùng Lạc Việt của Văn Lang. Mặt khác Triệu Đà tuy có đi lính và làm tướng nhà Tần nhưng chỉ đóng quân Phiên Ngung Quảng Đông vùng của xứ Bách Việt ngoài phạm vi lục quốc của Trung Hoa. Khi Hán – Sở đánh Tần, rồi Hán – Sở tranh hùng ông cũng án binh bất động. Việc này Nguyễn Du có nhắc tới trong bài Triệu Vũ Đế cố cảnh, khi ông đi sứ Trung Hoa ghi trong Bắc Hành Thi Tập. Việc Triệu Đà chiếm nước Âu Lạc cũng tương tự An Dương vương chiếm Văn Lang, thực chất là tranh chấp nội bộ của xứ Bách Việt. Cũng chẳng có bằng chứng Triệu Đà giết An Dương Vương. Có thể An Dương Vương không có con trai nối ngôi, lúc đó vua đã trên 72 tuổi, già yếu nên nhượng, vì sau đó không có cuộc khởi nghĩa nào chống Triệu Đà.(khác với nhà Hán khi xâm lược Nam Việt, triều đình và xứ Âu Lạc cũ kháng chiến kéo dài hơn 6 tháng) Sau sáp nhập, Triệu Đà mới thành lập nước Nam Việt và đóng đô ở Phiên Ngung. Chính sách cai trị của Triệu Đà là ổn định hành chánh, giữ nguyên người Âu Lạc quản lý đất của mình, khai khẩn vùng đất hoang Việt Thường phía nam Âu Lạc, mở rộng ngoại thương, chăm lo dân giàu nước mạnh, nhà Hán không dám xâm lược. Hán sử cũng ghi nhận thời nhà Triệu không có loạn lạc.Triệu Đà xưng Triệu Vũ Đế. Đế là danh xưng của người đứng đầu một quốc gia không lệ thuộc nước khác. Truyền thống nước Tàu chỉ có một đế, còn lại chỉ phong vương. Đến nay khai quật cho thấy con dấu đời cháu ông vẫn là Văn Đế, cho thấy Hán sử ghi ông dâng thư tạ tội xin thần phục chưa thể tin, mà nếu có chỉ là biện pháp ngoại giao. Sử sách nhà Triệu bị nhà Hán đốt hết để che giấu lịch sử nhưng ấn tích còn đó. Khi nhà Hán làm khó không cho dân hai nước giao thương, ông chủ động tiến quân cảnh cáo nhà Hán. Nhà Hán phải xuống nước năn nỉ rút quân và mở lại giao thương. Nước Nam Việt độc lập gần 100 năm. Ông cũng kết thông gia với vua Mân Việt cũng là xứ Bách Việt trước, không thuộc Trung Quốc thời đó, nằm ở Bắc nước Nam Việt. Điều này tương tự liên minh với Âu Lạc nhưng Triệu Đà không có hành vi xâm lăng Mân Việt. Riêng ý kiến người biên soạn: Dù tranh cãi gì chăng nữa thì từ thời điểm Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Hoa, sau đó đến nhà Hán giành ngôi nhà Tần, trước năm 111 TCN vùng đất Lĩnh Nam- Bách Việt không thuộc Trung Hoa. Thừa nhận An Dương Vương mà loại Triệu Đà là mâu thuẫn trong việc xếp triều. Dù Triệu Đà gốc người phía Bắc, nhưng triều đình là người Bách Việt. Ông theo phong tục người Việt tức ông đã Việt hoá như nhà Tiền Lý, nhà Trần và hàng loạt danh nhân khác sau này. Dân tộc Việt là những người cùng sống trong cùng lãnh thổ một quốc gia, cùng sử dụng tiếng Việt, cùng lo chống ngoại xâm và xây dựng đất nước. Những ý kiến cho Triệu Đà có tham vọng cát cứ là áp đặt, không có cơ sở khoa học lịch sử. Cát cứ là khái niệm chiếm giữ một phần lãnh thổ của một quốc gia đã có trước. Ví dụ loạn 12 sứ quân nước ta mới gọi là cát cứ, vì trước đó các phần lãnh thổ bị chiếm giữ riêng đã là của một quốc gia dưới sự quản lý của Ngô Quyền. Ý kiến cho Triệu Đà theo phong tục Việt để mị dân cũng là suy diễn áp đặt, vì không ai có thể biết lòng người, chỉ nhìn vào hành vi mà đánh giá mới khách quan. Cố ý tách Nam Việt ra khỏi lịch sử Việt là trái với tiêu chí trung thực. Cố ý viện dẫn xuất thân của một công dân mà bỏ qua công lao của người đó là trái với tiêu chí nhân văn. Cả hai đời vua đều lo chống ngoại xâm phương Bắc: Tần và Hán, ngay cả Hán sử cũng đã ghi nhận.
2. Bài học:( dành cho trẻ em)
Luận sử sách ắt nhiều ý kiến Đây lấy theo quan điểm thông thường Nhà Thục kế tục Hùng Vương Nhà Triệu tiếp nối một đường chung lo Đất nước được dân no binh đủ Bởi lăm le binh sự ải ngoài Phải khi sáp nhập đổi ngôi Thuận lòng dân thuận thế thời phải thay Khác với kẻ dài tay ăn cướp Trải ngàn năm Bắc thuộc sau này Thục – Triệu xét có công dày Tâm can riêng giữ đất này thiên thu (1) Nước Âu -Lạc xem như chính sử Nam Việt xưa sao cứ phân vân ? Triệu Đà vốn lính nhà Tần Phiên Ngung đô chọn lại gần bắc phương !? Song xét Triệu xưng vương khởi phát(2) Ấy là khi Tần mạt Hán hưng Không vì chúa cũ gian hùng Không tin Tây Bắc thương vùng Lĩnh Nam Hợp sức chống lòng tham vô đáy Ngăn chận ngày máu chảy lệ rơi Tiếc thay hậu duệ suy đồi Trăm năm gầy dựng để rồi trắng tay Trần sử gia trọng ngài tài đức (3) Tôn Triệu Đà chính bậc minh quân Sống trên trăm tuổi xa gần (4) Lân bang kính nể thần dân tôn sùng Xét Thục- Triệu đều cùng một chí Đem Dũng – Nhân ngăn trị bạo tàn Kế thừa tinh tuý Văn Lang Xếp triều chính thống nối hàng: phục thay
3. Chú: ( dành cho trẻ em)
(1) Thục Phán người Âu Việt, quê hương Âu Cơ kế nhiệm vua Hùng tộc Lạc Việt của nhà nước Văn Lang, cải tên nước thành Âu-Lạc.
(2) Triệu Đà nhập Âu Lạc vào vùng Bách Việt rồi mới xưng đế đặt tên Nước Nam Việt. Cả hai triều trị nước khác xa chính sách nô dịch của phương Bắc sau này.
(3) Lê Văn Hưu sử gia chính sử đầu tiên của Việt Nam thời Trần, chủ biên bộ Đại Việt sử ký, là bộ sử đầu tiên của nước ta. Quan điểm không phân biệt nguồn gốc xuất thân, tiêu chí tài đức, lo cho dân cho nước.
(4) Triệu Đà thọ 103 tuổi, trị vì 70 năm, làm vua không tài đức không thể sống và cầm quyền lâu như vậy. Xưa nay chính sử thế gian chưa từng có một người thứ hai.
(5) “Triệu Đà mất 137 TCN, Tư Mã Thiên lúc đó mới 8 tuổi( sinh năm 145 TCN). Nghĩa là tài liệu ông viết thì do đời trước để lại. Mặc dù ông nổi tiếng là sử gia trung thực, nhưng trong trường hợp nhà Triệu có thật là trung thực khi sao chép lại tài liệu?. Nếu tài liệu giả thì sao? (Hoàng Kim đồng tình với phản biện này vì Lữ Hậu và Hán Vũ Đế tàn độc, gian hùng, nhân cách khác Hán Cao Tổ và Hán Văn Đế về đức nhân trong ứng xử đối với các nước láng giềng) Ví dụ lá thư Triệu Đà tạ tội và chịu thần phục. Chủ yếu ta hiểu rằng ông dựa vào báo cáo của Lục Giả 2 lần đi sứ. Báo cáo của sứ có trung thực không cũng là một vấn đề.Vấn đề chính là Tư Mã Thiên đã không trưng một sử liệu nào từ phia nhà Triệu. Ta có thể hiểu sử sách nhà Triệu đã bị đốt bỏ. Bao nhiêu năm ta cũng chỉ dựa vào sử ký Tư Mã Thiên và Hậu Hán Thư để ghi lại để đánh dấu sự kiện thời nhà Triệu và nhiều người tin theo thuyết Triệu Đà chịu thần phục.Thế nhưng đến năm 1983 khai quật mộ Triệu Văn Đế thì những di vật đó mới cho ta sự đánh giá khách quan về trình độ văn minh của Nam Việt gắn liền với văn hoá Âu Lạc , ví dụ mũi tên đồng, thạp Đông Sơn…Đặc biệt là ấn Văn Đế Hành Tỉ. Ấn làm ra là để đóng vào công văn của vua để làm chứng. Có công văn là có chữ viết. Đồng thời chữ ĐẾ dù là công văn trong nước cũng không được lưu hành nếu đã thần phục.Từ đó gây đau đầu cho các sử gia tin vào thuyết cũ. Đến nay các vị đó cũng chưa có lý giải thỏa đáng. Cứ xếp Nam Việt không quan hệ gì với các triều vua Việt Nam là xong! Thừa nhận có Bách Việt, đất đai người Việt xưa rộng lớn thì ngày nay thậm chí tương lai cũng không bao giờ đòi được lại. Nhưng lịch sử là một trong khoa học về quá khứ, cái gì đã từng tồn tại thì phải ghi nhận. Huống chi thừa nhận có Nam Việt của người Việt thì giải quyết hàng loạt vấn đề về nguồn gốc lịch sử, tập tục, ngôn ngữ … độ chính xác cao hơn .Quan điểm của Lê Nghị như đã trình bày: trên cơ sở tích hợp sử liệu, truyền thuyết cả hai nước, khảo cổ học, ngôn ngữ học, văn hoá học, di truyền học phân tử…thì: các sử gia quân chủ nước ta sáng suốt hơn Đào Duy Anh và học trò của ông.”
Chuyện cổ tích người lớn NHƯỢNG TỐNG SÁCH YÊN BA Hoàng Kim “Nếu giọt nước rơi xuống hồ, nó sẽ biến mất; Nhưng nếu rơi xuống lá sen, nó sẽ tỏa sáng như một viên ngọc. Đời người cũng như giọt nước rơi, ở cùng ai mới là điều quan trọng”. Nguyễn Triệu Luật, Nhượng Tống; Hồ Biểu Chánh, Thạch Lam, Từ Ngọc, Hữu Ngọc … đều là những danh sĩ giỏi văn sử thời loạn. Nhượng Tống sách Yên Ba vui thích tìm đọc. Cảm ơn FB Truong Huy San có bài giới thiệu “Một biên khảo rất giá trị của Yên Ba, lần đầu tiên cho biết khá đầy đủ sự nghiệp & con người Nhượng Tống”
MỘT BIÊN KHẢO RẤT GIÁ TRỊ CỦA YÊN BA, LẦN ĐẦU TIÊN CHO BIẾT KHÁ ĐẦY ĐỦ SỰ NGHIỆP & CON NGƯỜI NHƯỢNG TỐNG
Chúng ta biết rất ít về Nhượng Tống và Đại tá nhà báo Yen Ba đã khắc phục thiếu sót ấy bằng cách công bố một cuốn biên khảo dày 300 trang, giúp ta thấy tầm vóc của nhà văn hóa, nhà cách mạng Hoàng Phạm Trân – Nhượng Tống.
Nhượng Tống, tác giả của tiểu thuyết Lan Hữu, là một trong 3 người sáng lập Nam Đồng Thư Xã, nơi tập hợp các văn nhân, chí sĩ, sáng tác và truyền bá những tác phẩm cổ vũ lòng yêu nước. Nhượng Tống cũng là người Việt Nam đầu tiên dịch Sử Ký Tư Mã Thiên, dịch Lam Sơn Thực Lục, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư…
Vốn là một người chủ trương bất bạo động, lập ra Nam Đồng Thư Xã với mục tiêu ban đầu là khai dân trí, ít lâu sau, cùng Nguyễn Thái Học, lập Việt Nam Quốc Dân Đảng, lại phải “phục tùng đa số”, chủ trương bạo động, đặt “thành nhân” trên cả “thành công.” Cũng như lịch sử Dân tộc ta ở giai đoạn ấy, cuộc đời ông đúng như tên của cuốn sách, Bi Kịch Con Người Giữa Những Xung Đột Của Thế Kỷ XX. Nhượng Tống từng là đại biểu Quốc hội (đặc cách) khóa I rồi bị (không thể xác quyết được là ai) ám sát ngày 8- 9- 1949.
Không chỉ tìm thấy nhiều tài liệu quý trong các thư tịch cũ, Yên Ba còn may mắn gặp được người con gái duy nhất của Nhượng Tống, bà Hoàng Lương Minh Viễn. Không chỉ tái hiện khá chân thực và đầy đủ chân dung, sự nghiệp và “ý thức hệ” của Nhượng Tống, bằng phương pháp khảo cứu khoa học nhất, Yên Ba giúp đính chính nhiều sai sót trong sử liệu như ngày thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng, ngày ra tù (Côn Đảo), ngày bị ám sát… của Nhượng Tống.
Đọc Nhượng Tống của Yên Ba thì cũng nên tìm lại Nguyễn Thái Học của Nhượng Tống (cũng do Nhã Nam xuất bản). Sách cho thấy tình hình đảng phái của người Việt trước năm 1945 và, cho thấy, trước khi “kháng chiến toàn quốc” với người Pháp, cuộc chiến của người Việt khác nhau về ý thức hệ cũng đã tàn khốc lắm.
PS: Sau khi nghỉ hưu ở báo QĐND, đại tá Yên Ba trở thành một trong những tác giả có nhiều sách bán chạy nhất. Nhượng Tống, tôi cho, là tác phẩm quan trọng nhất của ông [Không có sách nào Yên Ba giới thiệu mình là đại tá nên tôi nhất quyết cứ phải lôi cái đại tá của ông ra đây].
Một ngày năm 2013 tại Mỹ, thiền sư Thích Nhất Hạnh dặn tôi: “Gặp người Việt ở đây, con đừng giới thiệu là nhà báo từ Việt Nam sang nhé”.
Tôi theo chân Thiền sư cùng 300 đệ tử của thầy trong chuyến hoằng dương đạo Phật dọc nước Mỹ năm đó. Những ngày cuối, đoàn dừng chân tại tu viện Lộc Uyển thuộc tiểu bang California. Tại đây, thiền sư tổ chức hai khóa tu cho cộng đồng người Mỹ và người Việt. Sư ông dặn tôi thế, bởi e tôi có thể gặp sự phản ứng tiêu cực của một số người.
Khóa tu diễn ra trong 5 ngày. Cả ngàn người tham dự với đủ lứa tuổi, ngành nghề. Ai đến đây dường như cũng đang ôm ấp những nỗi khổ, niềm đau.
Có những nỗi đau bắt nguồn từ đời sống đương đại như đổ vỡ gia đình, làm ăn thất bại. Song có những tổn thương dằng dai từ mấy chục năm trước, trên những chiếc thuyền lênh đênh vượt biển.
Có người chứng kiến con thuyền chở vợ và mấy đứa con bị sóng nhận chìm vào lòng đại dương. Có người không thể quên cảnh hải tặc giết chồng mình, cướp tiền vàng, vứt xác xuống biển rồi bị chúng thay nhau hãm hiếp. Khi đến nước Mỹ, họ bị mang thai rồi sinh con. Bi kịch ở chỗ, càng lớn, khuôn mặt đứa con lại càng giống kẻ đã hãm hiếp mình. Người mẹ nào không thương đứa con rứt ruột đẻ đau. Nhưng nhìn mặt con là họ lại nhớ đến mặt tên hải tặc. Cả đời, trái tim người mẹ ấy cứ giằng xé.
Nhiều người đã trị liệu, chuyển hóa được nỗi đau khi kết thúc khóa tu. Nhưng cũng có người không thể thoát khỏi ngục tù quá khứ, nhất là từng có địa vị, chức sắc, quyền lợi, sự ấm êm. Họ không thể chấp nhận được sự thật và trở nên hận thù. Thiền sư cho rằng, họ là nạn nhân của khối khổ đau trong chính mình.
Do đặc thù công việc, trong nhiều chuyến đi châu Âu kéo dài 1-2 tháng, tôi gặp gỡ đông đảo người Việt tại đây, không ít người di cư khỏi Việt Nam từ những năm 1954, 1975. Lần đầu gặp tôi, một số tỏ rõ kỳ thị, lạnh lùng, thậm chí miệt thị ra mặt. Có người còn tỏ vẻ rất cảnh giác như tôi là kẻ nguy hiểm.
Điều đó không khiến tôi ngạc nhiên hay bị tổn thương. Bởi tôi hiểu họ. Nhưng điều khiến tôi bất ngờ là một số người không hề biết gì về đất nước, con người Việt Nam đương đại. Trong suy nghĩ của họ, Việt Nam vẫn còn nghèo nàn, đói khát, lạc hậu như hơn 50 năm về trước. Bởi từ ngày rời Việt Nam, họ chưa một lần trở về, thậm chí cắt đứt mọi liên lạc.
Sau vài lần tiếp xúc, thấy tôi không xin xỏ, lợi dụng, kích động hay làm phiền ai, thiện chí làm việc lợi lạc cho cộng đồng, họ bắt đầu mở lòng. Tôi lắng nghe họ thật kỹ, không phán xét. Những biến cố đau thương dù sao cũng đã qua, chỉ giây phút hiện tại mới đích thực là của mình. Nếu cho phép quá khứ giam hãm, ta mãi sống trong ngục tù khổ đau, không thể hạnh phúc trong hiện tại. Và vì thế, cũng không có tương lai thanh thản.
Chiến tranh đã qua đi 46 năm, nhưng vẫn còn những nỗi đau. Đất nước đã thống nhất mà đâu đó lòng người còn ly tán. Làm thế nào để có được hòa hợp, thống nhất lòng người? Làm thế nào để người Việt khắp năm châu ôm lấy nhau như đồng bào?
Mọi đường lối, chính sách, hành xử của nhà nước và mỗi người hôm nay sẽ dẫn tới hàn gắn nếu bắt nguồn từ cái tâm chân thành, không phân biệt.
Thời Lý – Trần, từ vua quan đến dân thường đã thực tập từ bi, đưa Lý – Trần trở thành triều đại thuần từ nhất trong lịch sử dân tộc. Sau khi chiến thắng quân Nguyên – Mông, quan quân đệ trình vua Trần Thánh Tông một hòm tài liệu, trong có chứa những lá thư liên lạc với giặc của vài nha lại. Thay vì mở hòm để xem kẻ nào đã phản bội, vua tự tay châm lửa đốt trước mặt bá quan để thống nhất lòng trăm họ. Bởi theo ông, chúng ta đã đánh lui quân thù, giành được độc lập, mục đích tối thượng là đoàn kết dân tộc.
Năm 2008, khi về Việt Nam lần thứ hai, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã xin phép nhà nước tổ chức ba đại trai đàn chẩn tế cầu siêu bình đẳng, giải oan cho cả người Bắc, người Nam ở hai bên chiến tuyến. Người Việt cùng chắp tay cầu nguyện cho 6 triệu sinh mạng đã mất bởi chiến tranh. Hành động đó giúp thả trôi bớt hận thù trong quá khứ, vun đắp sự lòng người.
Thống nhất lòng người hôm nay có thể coi là sự nghiệp chung của nhà nước và mọi người, mọi giới. Trong hành trình hòa hợp dân tộc này, tất cả chúng ta đều là đại sứ.
Thụy Khuê viết: “Hồ Biểu Chánh (1885-1958) Nhà văn khai sáng nền tiểu thuyết hiện đại Việt Nam” http://thuykhue.free.fr/stt/h/hobieuchanh1.html “Trong hơn nửa thế kỷ sáng tác, Hồ Biểu Chánh đã để lại 64 cuốn tiểu thuyết, 23 cuốn nghiên cứu văn học, 13 tuồng hát, 7 đoản thiên, 3 truyện ngắn, 2 truyện dịch, 2 tác phẩm văn vần, 5 tập tuỳ bút phê bình, 6 ký ức và 8 bài diễn văn. Một di sản văn hóa đồ sộ mà cho đến nay, dường như chưa có công trình khoa học nào thực sự nghiên cứu toàn bộ. Chính văn chương Hồ Biểu Chánh cũng còn xa lạ với số đông người đọc, nhất là độc giả miền Bắc.”
Vì sao Hồ Biểu Chánh với số đông người đọc còn xa lạ vậy? “Đại nghĩa diệt thân” của Nhà văn Hồ BIểu Chánh, hình như đã góp phần giải thích điều đó. Dân Việt vốn thích thái độ rõ ràng, đàng hoàng, chánh nghĩa của Phan Văn Trị thể hiện qua chùm thơ tài hoa đáp trả lại 10 bài thơ của Tôn Thọ Tường, Văn thơ ấy đã lôi cuốn được đông đảo sĩ phu Nam Kỳ vào cuộc như Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt, Lê Quang Chiểu, và phê phán khinh miệt những trí thức khôn ngoan, tùy thời, chủ hòa với Pháp “Đừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ, Lòng ta sắt đá, há lung lay”
Dẫu vậy, “Nhà văn khai sáng nền tiểu thuyết hiện đại Việt Nam” là rất nên đọc kỹ lại. Hồ Biểu Chánh 1884–1958), tên thiệt là Hồ Văn Trung , tự Biểu Chánh , hiệu Thứ Tiên; là một nhà văn tiên phong của miền Nam. Ông có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ, quan đốc phủ nhưng thanh thận cần, chí thú văn chương giáo dân, rất ít việc xấu.
“Sử Việt cho cháu” của tác giả Lê Nghị thật tuyệt vời, Tôi thật tâm đắc “học sử là rút ra kinh nghiệm giữ nước và dựng nước của cha ông. Vì vậy những kinh nghiệm thành công lẫn thất bại, thịnh và suy đều cần phải đề cập để rút ra bài học cho hôm nay”.
Kỷ niệm chuyến thăm đền Đô – Bắc Ninh cuối tháng 3-2018.Thăng Long
– Hà Nội là trái tim của cả nước, nên thăng trầm của vùng đất này liên quan tới vận mệnh của tổ quốc. Nói về thời quân chủ, nếu như Lý Thái Tổ đã mở đường cho Đại Việt vươn lên tầm cao của một thời lịch sử 170 năm, thì 50 năm cuối đời Lý đất nước lại rơi vào vòng tăm tối.
Ai cũng biết rằng học sử là rút ra kinh nghiệm giữ nước và dựng nước của cha ông. Vì vậy những kinh nghiệm thành công lẫn thất bại, thịnh và suy đều cần phải đề cập để rút ra bài học cho hôm nay.
Mặt khác, giáo trình sử cho trẻ em thường thiên về các chiến thắng quân sự. Chủ đề văn hoá gắn liền với vận mệnh dân tộc ít được nhấn mạnh và làm rõ trong các bài sử cho trẻ em.
Vì vậy trong tập một chúng tôi đã bổ sung để các em làm quen với vai trò văn hoá trong lịch sử thông qua các bài: phong tục, tập quán ( bài 2) Tinh hoa văn hoá Văn Lang chiến thắng mưu Hán hoá( bài 15); Bài học tự hào và tự mãn( bài 21); Văn hoá bản làng góp phần giữ nước và giành độc lập (bài 22). Trong tập hai, chúng tôi cũng đề cập trong bài Công ơn Lý Thái Tổ (bài 5) và bài này, chiếm hơn 1/4 số bài học, để nhắc nhở thêm ngoài các nguyên nhân khác thì văn hoá đóng vai trò quyết định sự tồn tại một dân tộc, cũng như lẽ phế hưng của một triều đại.
Trong phạm vi của trang mạng, phần tham khảo trợ giảng dành cho người lớn gắn liền với bài này khá dài, nên sẽ trích đăng sau. Dưới đây là trích phần bài học dành cho trẻ em, chú giải vừa tầm, để các em có khái niệm và liên hệ ngày nay.
SỬ VIỆT CHO CHÁU Tập 2: Một thuở vàng son Bài 7: LUẬN VỀ SỰ SUY VONG CỦA TRIỀU LÝ. Biên soạn: Lê Nghị Ảnh: sưu tầm Bài học: (dành cho trẻ em)
Lý Cao Tông đam mê tửu sắc (1) Sống bê tha bỏ mặc triều nghi Mua quan bán chức kể gì Chùa chiền ố tạp, biên thuỳ lục lâm
Triều bè phái chia năm xẻ bảy Bọn quyền thần đầy dẫy mưu mô Đã không vun đắp cơ đồ Tranh quyền góp của mặc cho dân lành
Sưu thuế nặng dân đành gánh vác Đất sung công chia chác lẫn nhau Đạp trên nước mắt làm giàu Còn đâu luật pháp còn đâu công bằng
Đức Phật dạy quả- nhân, tế độ (2) Đời tiên vương lấy đó làm gương Sống sao nhân ái nhún nhường Bầu ơi giàn một phải thương bí cùng
Sau lệch hướng đền trùng tháp lập Đua cao to, sư gặp khắp nơi Chùa nuôi bao kẻ chây lười Cạo đầu chỉ để sướng đời xác thân
Đạo cũng rẽ năm phần bảy nẻo Giảng kệ kinh miệng dẻo thì hơn Dâm tà pha lẫn dị đoan Báo cơn mạt pháp Thế Tôn phải sầu
Vua đời sau thay nhau chết yểu Bởi vợ chồng theo kiểu quân vương Tuổi non vội nếm sắc hương Nối dòng không thấy, thấy đường diệt vong
May trời không phụ lòng dân Việt Hải Ấp sinh tuấn kiệt một nhà Họ Trần tiếp quản quốc gia (2) Đúng khi Mông Đế trên đà nam chinh
*
Luận cuối đời nội tình nhà Lý Cũng suy ra cai trị đời sau Không lo nước mạnh dân giàu Chỉ mong hưởng thụ đủ màu trần gian
Công khố rỗng, mua quan bán chức Kẻ hèn tài kém đức cầm cân Mị lừa thần thánh, ngu dân Công xưa lớn mấy cũng cần phải thay.
Chú: (dành cho trẻ em):
(1) Sau 170 thịnh trị ,khoảng 50 năm cuối, từ đời Lý Cao Tông, vua 2 tuổi lên ngôi, thái hậu không đoan chính, làm gương xấu cho vua sớm đam mê tửu sắc. Vua lớn lên ham chơi bời, xa hoa, công quỹ thiếu, chết năm 37 tuổi. Con cháu từ Lý Thần Tông mất dưới 40, chết yểu vì ân ái, hoang dâm quá sớm. Hậu cung, thái giám, nội thị lộng quyền. Hủ Nho xâm nhập, đạo Phật suy vi, người đi tu gần ngang người lao động, chùa chiền ô uế. Đạo Phật, tư tưởng lãnh đạo tinh thần của đất nước thời đó hỗn loạn.
(2) quả- nhân: nguyên lý quả nào do nhân nấy, nhắc nhở hành vi trong cuộc sống. Tế độ: giúp đỡ người khác.(3)Họ Trần thuộc Hải Ấp, Hưng Ấp (Thái Bình nay). Bắt đầu là Trần Tự Khánh, tiếp Trần Thủ Độ đã dàn xếp Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, khôi phục lại đất nước trước họa xâm lăng của Đế quốc Mông Cổ.So sánh quy mô chùa Trấn Quốc, Một Cột ở Hà Nội với Chùa Bái Đính ( Ninh Bình) tượng Di Lặc lớn nhất Đông Nam Á( An Giang)
15-Tao nghe họ nói mầy kén vợ lắm, thiệt có như vậy hay không? Châu Trần 27/03/2021MKR
– Bà Hương quản kêu con Quyên lại mà nói rằng: -Ông ngoại mầy chịu để mầy ở dưới nầy với bà rồi đó. Ðể sáng mai bà dắt đi chợ Vũng Liêm bà mua đồ về may quần áo cho mà bận. Bữa nào có nhớ ông ngoại, thì bà biểu thằng Tý nó dắt đi về thăm, không sao đâu mà sợ.
Con Quyên nửa muốn ở đây cho gần anh nó, mà nửa sợ bỏ ông ngoại ở nhà một mình quạnh hiu, nên nó lặng thinh, không biết sao mà nói. Hương thị Tào thấy như vậy mới nói rằng: -Bà thương cháu, bà muốn như vậy, thôi cháu ở đây với bà. Ông cũng để thằng Tý nó ở luôn với cháu. Có nó đó, không sao đâu mà cháu sợ. Lâu lâu ông xuống ông thăm, hay là cháu có nhớ thì xin phép với bà về trển chơi. Cháu chịu hôn?
Con Quyên gặc đầu, mà ứa nước mắt.
***
Bà Hương quản cầm Hương thị Tào ở chơi. Đến chiều thằng Tý về, bà kêu mà hỏi nó thì nó cũng chịu ở nữa. Nó nói rằng: -Tôi ở với bà hoài, ở tới lớn rồi sẽ về.
Hương tào Thị thấy bà Hương quản gắn bó quá, mà hai đứa cháu cũng thuận theo, không biết nói sao cho được nên phải cho hai đứa nhỏ ở.
***
Từ đây con Quyên được bà Hương quản yêu mến, nên phận nó sung sướng vô cùng. Còn thằng Tý, tuy là ở đợ, song nó được ở chung với em nó một nhà, nên nó chẳng việc chi làm buồn lo nữa, duy nó thương ông ngoại già cả vào ra quạnh hiu, sớm tối một mình mà thôi.
***
Bà Hương quản thiệt là tử tế. Con Quyên mới chịu ở với bà bữa trước, thì qua bữa sau bà mua cho nó một đôi bông tai nhỏ, một cái lược cài, một cái khăn lụa màu bông hường. Bà biểu thợ bạc đo tay mà làm cho nó một chiếc vòng trơn với một chiếc đồng bánh ú. Bà lại mua một cây lãnh, một xấp lụa đem về, lãnh thì bà cắt may quần, còn lụa thì bà may áo dài, áo vắn đủ thứ cho nó bận. Bà không cho nó làm việc chi khác trong nhà, bà dặn nó ngày như đêm phải ở xẩn bẩn bên bà, đặng bà sai nó têm trầu, rót nước, thay ống nhổ, cạo bình vôi cho bà mà thôi. Tối thì nó nói chuyện thỏ thẻ cho bà nghe, trưa thì nó nhổ tóc ngứa cho bà ngủ.
***
Tuy con Quyên chưa đủ trí khôn, song nó thấy bà Hương quản thương yêu nó, cho nó mặc quần lãnh áo lụa, cho nó đeo vòng vàng, cho nó bánh nó ăn, cho nó mền nó ngủ, thì nó cảm ân nghĩa của bà, nó quyết ráng sức làm cho vừa lòng bà, bà dặn việc gì thì nó làm y lời, chẳng hề dám để sai sót.
***
Bà Hương quản ít con, không có cháu, nên bà thấy con Quyên ngộ nghĩnh bà thương, nghĩ chẳng lạ gì. Mà bà thương nó, khác hơn thương mấy đứa ở trong nhà. Bà nuôi nó mới được năm bảy tháng, thì bà cho nó ăn một mâm, ngủ một mùng với bà. Đi đâu bà cũng dắt nó theo, ở nhà thì bà không rời nó một giây phút. Người lạ họ không biết gốc tích con nhỏ, ai thấy cách bà đối đãi với nó như vậy thì cũng tưởng nó là con cháu ruột của bà. Cô Hai Phiên, là con gái của bà, về thăm ngó thấy bà nuôi con Quyên, cô cũng vui lòng, cô không ngăn cản chi hết.
***
Thằng Tý với con Quyên được ở chung một nhà rồi, mà lại ở nhằm nhà nhơn đức, thì chúng rất sung sướng. Bữa nào bà Hương quản cho con Quyên hoặc bánh, hoặc trái cây, thì nó ăn phân nửa mà thôi, còn phân nửa nó ca củm giấu để dành đặng tối nó lén cho anh nó ăn. Trong một vài tháng Hương thị Tào xuống thăm hai cháu một lần, mà hễ lâu xuống thì sắp nhỏ xin phép bà Hương quản rồi dắt nhau về mà thăm ông.
***
Tuy hồi mới để cho con Quyên ở, Hương thị Tào không chịu lấy tiền, song cách ít tháng sau bà Hương quản đưa năm chục đồng bạc, bà nài nỉ ép quá, nên Hương thị Tào phải lấy. Thằng Tý mỗi năm bà Hương quản trả thêm tiền công cho nó năm ba đồng hoài, mà trả bao nhiêu nó cũng giao hết cho ông ngoại nó, chớ nó không chịu lấy mà xài đồng nào. Nó ở cho tới nó được hai mươi tuổi. Ông ngoại nó già yếu nên đau hoài. Nó thấy vậy mới xin bà Hương quản cho nó thôi, đặng nó về nhà nuôi dưỡng ông ngoại nó. Bà Hương quản mướn nó ở trong nhà trọn tám năm bà biết tánh nó thiệt thà siêng năng, không chơi bời, không gian giảo, nên bà cho nó thôi, mà bà còn cho nó mướn năm chục công đất và bà giúp cho nó mượn năm chục đồng bạc để làm vốn mà làm ruộng ấy.
***
Hương thị Tào nhờ cháu ở đợ mấy năm, ông lấy tiền nên ông hết túng rối, mà chừng thằng Tý trở về, ông lại có dư trong nhà được ba bốn chục đồng bạc. Ông đưa hết số bạc ấy cho cháu. Thằng Tý không lấy, ông không chịu, túng thế nó phải lấy mà nhập với năm chục đồng bạc của bà Hương quản cho mượn đó để mướn công phát công cấy. Thằng Tý ở trong nhà làm ruộng được tám năm, nó thông thạo nghề ấy lắm. Năm đầu nhờ trúng mùa, nhờ chủ ruộng cho mướn rẻ, mà lại nhờ lúa phát giá nữa, nên nó có dư được vài trăm đồng bạc. Nó đem trả năm chục đồng bạc lại cho bà Hương quản. Bà muốn cho nó mượn nữa, mà vì nó nói nó có vốn đủ rồi, nó không chịu lấy, nên bà phải thâu mà cất.
***
Nó làm ruộng mới vài mùa, mà đã dư tiền, mua được một đôi trâu. Nó thấy ông ngoại nó đã già yếu, lại buôn bán nhỏ nhỏ không lời bao nhiêu, nên nó dẹp quán, rồi hỏi đất của bà Hương quản ở đầu dưới xóm Giồng Ké, dở nhà về đó cất rộng hơn mà ở, đặng có chỗ cầm trâu, đạp lúa. Người ở trong làng trong xóm thấy thằng Tý nhỏ tuổi mà biết lo làm ăn, lại có bà Hương quản đỡ đầu, chắc trong ít năm nó sẽ làm giàu được, nên ai cũng muốn gả con, hoặc gả em cho nó. Chẳng hiểu vì cớ nào hễ nó nghe ai nói tới chuyện cưới vợ, thì nó xụ mặt châu mày rồi bỏ đi chỗ khác.
***
Có một bữa nó xuống thăm bà Hương quản với con Quyên, bà Hương quản thình lình hỏi nó rằng:-Tý, tao nghe họ nói mầy kén vợ lắm, con ai mầy cũng chê hết thảy, thiệt có như vậy hay không? -Thưa bà tôi có dám chê ai đâu. -Không chê, sao mà đã hai mươi ba, hai mươi bốn tuổi rồi lại chưa chịu cưới vợ? -Thưa, tại tôi không muốn vợ, để ở như vầy đặng nuôi ông ngoại tôi.
***
-Vậy chớ có vợ rồi mầy nuôi ông ngoại mầy không được hay sao? -Thưa, cũng được. Mà đàn bà con gái đời nầy kì cục lắm, cưới họ về mà mang khốn chớ có ích gì. -Sao vậy? -Tôi thấy vợ của họ ăn no xách đít đi chơi hoài, rồi còn sanh sứa lấy trai nữa, hễ họ nói nó chửi tướt lên đầu, tôi ghê quá nên tôi không thèm cưới vợ. Bà Hương quản nói:-Thằng nầy nó nói kì quá! Ðàn bà con gái có đứa nên đứa hư, chớ hư hết hay sao. Mầy lựa đứa thiệt thà mà cưới, ai biểu cưới đồ tầm bậy làm chi. -Thưa, biết ai tử tế mà lựa. -Thiếu gì. Ðể thủng thẳng tao kiếm cho.
***
Thằng Tý đáp:-Thôi, đừng có kiếm, bà. -Sao vậy? -Tôi không muốn có vợ, khó lòng lắm. -Mầy tu hay sao? -Thưa, không phải tôi tu, tôi sợ có vợ rồi lộn xộn lắm, nên tôi không dám. -É! Nói bậy nà! Lộn xộn cái gì? Ðể tao kiếm chỗ tử tế rồi tao nói giùm cho. Ðừng có cãi. Phải cưới vợ đặng nó lo cơm nước cho mà ăn chớ. Thằng Tý nó nghe bà Hương quản rầy, nó không dám cãi, nhưng mà bộ nó coi không vui.
Châu Trần- Trần Ái Châu Tham khảo: Cha con nghĩa nặng- Nhà văn Hồ Biểu Chánh
Mười năm ở Bạc Liêu là sách hay của Lưu Huy Chiêm, Chương 169 và Chương 126 của sách này tôi chọn chép về, cùng tích hợp chung vào trong Chuyện cổ tích người lớn, Phục sinh giữa tối sáng tiếp theo Trang văn Hồ Biểu Chánh do Quản Trị Mekongrice Châu Trần- Trần Ái Châu tuyển chọn và giới thiệu.
MƯỜI NĂM Ở BẠC LIÊU Lưu Huy Chiêm [Chương 169]
* 1 Tôi sinh ra ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Tỉnh Thái Bình đất chật người đông. Người nhà quê rất ít xê dịch, mấy khi đi ra khỏi lũy tre làng. Cha mẹ tôi là nông dân. Vì thời cuộc, cha tôi nho học nửa vời. Người trọng chữ nghĩa. Nhà tôi ngày ấy, cái chữ là vàng. Chẳng biết sách thánh hiền Ngũ kinh hay Tứ thư chỉ dậy thế nào mà cha tôi thường nói : Nhân bất học bất tri lý – Người bảo học theo nghĩa rộng, sách vở chỉ là một trong muôn. Không chịu học hỏi, đầu óc tăm tối không thể làm người. Nhà mình khác, sao lại đi so bì hơn thiệt với nhà ấy, quân ấy, với nhà người ta. Rất sâu sắc và ý nghĩa.
2 Vợ tôi sinh ra ở thị xã. Thị xã Bạc Liêu, thị xã nhỏ, tỉnh lẻ gần tận cùng với Mũi Cà Mau. Có thời nhập chung với Cà Mau. Cha mẹ vợ tôi từng lênh đênh sông nước từ Cổ Cò, Tổng Cán, Lịch Hội Thượng ra cửa Trần Đề (Sóc Trăng) xuôi nam, hay nam tiến vào tới kênh xáng Bạc Liêu – Cà Mau. Đời buôn bán thương hồ chẳng ăn ai, mười mấy năm vẫn vậy. Chi bằng cắm sào, dỡ ghe lên bờ dựng nhà, định cư cho con cái đi học lấy cái chữ, cái nghĩa, cái đức. Các cụ xưa gọi là để chữ cho con. Để nhà để của, để ruộng để đất không bằng để chữ cho con. Tiền nhân đi mở đất xưa, hồn ở đâu bây giờ,…!
3 Khi tôi vào đại học Thuỷ lợi Hà Nội thì vợ tôi rời khỏi đại học Cần Thơ. Vợ tôi dở dang năm thứ nhất vì sau 30.4.1975, khoa luật của chế độ Việt Nam Cộng hòa không phù hợp, đã đành. Và, do đó không thể tồn tại với chính thể mới Việt Nam dân chủ cộng hòa mà sau này đổi thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cánh cửa đại học khép lại. Cô nữ sinh chia tay áo dài, dù một thời Anh văn hội Việt – Mỹ.
4 Tôi vào Bạc Liêu một thời gian thì sở Thuỷ lợi cấp giấy giới thiệu đi học tiếng Anh ban đêm miễn phí. Đấy là thời kỳ đất nước bắt đầu đổi mới, trở dạ, đau đẻ, chuyển mình. Vợ tôi trước đó một thời gian từng đi học tiếng Nga. Thời mới tiếp thu Miền Nam, cùng với Miền Bắc cả nước học tiếng Nga, bỏ tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Trung Quốc, vợ tôi nằm trong số đó. Thiếu giáo viên, ở thị xã Bạc Liêu có anh bộ đội tên lửa thời chiến, học ở Nga về cũng đứng bục giảng, dạy vỡ lòng tiếng Nga cho lớp người như vợ tôi là vậy.
5 Duyên kỳ ngộ, chúng tôi gặp nhau. Năm trước hơn năm sau ngày cưới thì con trai duy nhất của chúng tôi chào đời. Tuổi ấu thơ con được cả nhà yêu thương. Bà nội, bà ngoại coi sóc từng chút. Mẹ không dư nhưng đủ sữa lành cho con đến 10 tháng tuổi. Ba hứa cho con uống sữa Kalium đến tuổi lên 10. Đủ tuổi mẫu giáo thì mẹ đưa con đi học mẫu giáo. Cấp 1, 2, 3 tuần tự nhi tiến mà không học thêm ở nhà thầy cô. Chỉ học thêm hai môn Vi tính, Anh văn do trung tâm có chút uy tín tổ chức ở Mạc Đĩnh Chi. Đấy cũng là hai môn lúc bấy giờ nhà trường phổ thông bố trí ít tiết và ngó lơ, thiếu cả trang thiết bị phụ trợ. Cần nói thêm, trường Mạc Đĩnh Chi cách nhà 4 km. Con tự đi xe đạp mà không cần đưa đón, dù đêm tối trời tạnh hay mưa. Ba chỉ dặn con đi sớm, ngồi bàn đầu. Chỗ nào chưa hiểu thì giơ tay hỏi. Đừng giấu dốt. Đừng sợ thầy cô chê cười. Ngược lại, thầy cô rất yêu mến trò ngoan hiếu học. Tôi quan niệm đi học để có kiến thức. Để vượt lên chính mình. Nên ưu tiên những môn mình thích và vượt trội. Con có nhu cầu thật sự, hai cha con ra cửa hàng Vi tính Phú Lâm, khênh chiếc máy cũ là hàng xài rồi (secondhand) monitor (màn hình) cong về nhà. Con bắt đầu tự chủ, tập làm quen với thế giới văn minh. Tập cầm chìa khóa mở cửa, bước vào đời với khung trời hoàn toàn mới lạ, cực kỳ kỳ thú ! Và, bây giờ thì con không còn lang thang trong “thế giới ảo” nữa. Con đã bước những bước chân vững vàng nơi thế giới thực. Hoàn toàn thực. Xung quanh con là bạn bè đủ màu da thứ tóc. Họ và con đều dùng tiếng Anh khi làm việc và giao tiếp. Ra siêu thị thì dùng tiếng bản địa nhiều hơn. Rất ít có cơ hội nói tiếng mẹ đẻ trừ khi con gọi Facetime, Messenger, Zalo,… về nhà.
6 Tính từ ông bà nội, ngoại đến con là thế hệ thứ 3. Nhà ta vẫn giữ cái chữ là vàng. Viết viết ngắn vậy thôi. Như một cuộc dạo chơi. Thắng thua vô nghĩa lý. Nhẹ nhàng áng mây trôi. … (PMS, Q8, chiều 27.3.2021)
MƯỜI NĂM Ở BẠC LIÊU Lưu Huy Chiêm [Chương 126] * 1 – Cuối những năm 80, đầu vài năm 1990s của thế kỉ trước, nghĩa là thời kỳ còn tranh tối tranh sáng giữa Duy Tân và đại Thủ Cựu thì đã xuất hiện một làn sóng muốn làm ăn lớn mà chưa hẳn là đã gieo mầm đục nước béo cò. Tiếc là những thành phần ấy hầu hết là những con chim non chưa vỡ bụng cứt đã đòi bay. Mà bay thật cao, bay thật xa. Giấc mơ là những tập đoàn thương hiệu Samsung, Huyndai, Kia, Daewoo, LG, của Hàn Quốc. Tôi cảm thấy bất an mà viết Chuyện Thật Như Đùa, Chuyện Đùa Như Thật đăng trên trang nhất báo Nông nghiệp Việt Nam.
2 – Nội dung câu chuyện xây dựng xoay quanh chân dung một ông giám đốc công ty sản xuất kinh doanh đa ngành. Đa ngành, đa nghề với cái tên dài lê thê kiểu như nhiều bảng hiệu trưng ra mặt tiền lúc bấy giờ là “Công Ty Chăn Nuôi Thú y Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu Dịch Vụ Đại, Trung, Tiểu Gia Súc, Gia Cầm Và Nông Lâm Thuỷ Hải Sản Tỉnh XYZ” chẳng hạn. Ông giám đốc trong câu chuyện của tôi xuất thân nông dân, thủa còn thiếu niên mà dám vác con dao chặt dừa chém rớt đầu một viên quan Tây mũi lõ, tóc quăn, răng trắng ởn. Từ thành tích vô tiền khoáng hậu ấy, ông thừa thắng xông lên trong kháng chiến trường kỳ. Sau sự kiện 1975, từ trong rừng ra, ông trở thành giám đốc công ty sản xuất kinh doanh đa ngành, đa nghề cũng vô tiền khoáng hậu, kiểu săn vịt trời, liều lĩnh như thế. Chẳng cần kể thêm thì bạn đọc cũng hiểu cái kết của câu chuyện thế nào (!?).
3 – Báo ra được ít hôm thì bạn tôi, anh Trần Đình Diện, giáo viên dạy toán cùng trường với chị Nữ, nói với tôi đại ý : Chị Nữ buồn lắm. Chị ấy bảo, Chiêm Lưu Huy viết như thế là viết về anh Năm Hiếu. Anh Năm Hiếu mà bạn tôi nói đây là chồng chị Nữ. Hiện tại ông Năm Hiếu đang làm giám đốc công ty chăn nuôi tỉnh. Tôi giật mình, có phần âu lo vì làm phật lòng một đồng nghiệp tốt, dù tôi sáng tác văn chương mà không hề nghĩ tới nhân vật của mình giống ông Năm Hiếu. May là lúc bấy giờ, tình bạn của Trần Đình Diện với tôi như Bá Nha – Tử Kỳ. Bá Nha của tôi đã dẫn chứng với chị Nữ, rằng anh Năm Hiếu là học sinh Miền Nam tập kết ra bắc, học đại học nông nghiệp rồi về làm giám đốc. Anh ấy có giết thằng Tây nào đâu. Công ty chăn nuôi tuy cũng kinh doanh đa ngành nhưng đâu có lấn sân thuỷ hải sản với đất lâm nghiệp vv và… Nhờ đó mà giữa tôi với chị Nữ không còn lấn cấn chuyện ấy nữa. Ít nhất là cũng bớt căng thẳng phần nào.
4 – Chị Nữ quê Nghệ Tĩnh, cũng kỹ sư nông nghiệp. Chị theo chồng là ông Năm Hiếu về Minh Hải và làm giáo viên khoa chăn nuôi thú y ở trường Trung học nông lâm ngư nghiệp tỉnh. Chị tham gia công tác nữ công của trường. Nữ công, gọi là cho có đủ thành phần, ban bệ cùng với đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, công đoàn Việt Nam chứ không có nội dung hoạt động thực chất gì đáng kể. Thời gian rảnh chị rất thích đọc sách báo. Vợ chồng ông Năm Hiếu mua nhà ngoài phố mà không ở trong khu tập thể hay nhận đất cất nhà như bao nhiêu cán bộ tập kết ra bắc trở về nam lúc bấy giờ. Nhà ông Năm Hiếu, nói là nhà ngoài phố nhưng lại ở trong con hẻm nhỏ, ngoằn ngoèo. Nhà xây trên cấp 4 một chút. Được cái khá rộng rãi mà thôi. Ông Năm Hiếu vẫn đi làm xa bằng chiếc xe cub 78 cũ. Chiếc xe mới sơn lại màu đỏ. Chị Nữ thì tay cắp cặp bài giảng, tay cầm nón lá, đi bộ tới trường ở gần nhà. Anh Trần Đình Diện nói với tôi, mấy đứa con của chị Nữ với ông Năm Hiếu học giỏi và được giáo dục rất có nền nếp. Tôi cũng thấy chúng không đua đòi như mấy con nhà khác. Thêm nữa, chúng tôi có nhiều ý tưởng tương đồng thì lý do gì tôi lấy ông Năm Hiếu ra làm nhân vật để chị Nữ cho là xấu xí trên báo chí. Tôi quyết định tìm cơ hội tới nhà riêng chị Nữ để củng cố và khẳng định thêm tình thân thiện…
5 – Thời gian thấm thoắt thoi đưa, bất hạnh thay, đến bây giờ thì mọi chuyện mới chứng minh lời cảnh báo về lo lắng, bất an của tôi cách nay 30 năm trên báo chí là sự thật. Bao nhiêu bạc vàng tan chảy theo quả đấm thép cùng con tàu Vinashin, Vinalines khi chưa nhổ neo đã mắc kẹt, thủng đáy nơi sông, biển cạn. Tập Đoàn Dầu khí, Tập Đoàn Than khoáng sản, các ông lớn Ngân hàng vv và vv… đều chết không có đất chôn hay hoặc là muốn chết mà không chết được vì kinh doanh đa ngành, trái nghề. Chết vì tham vọng cũng có mà chết vì thiếu hiểu biết cũng có. Đấy là chưa kể tham nhũng và lợi ích nhóm. Tiếc thay ! Bao nhiêu nguồn lực và cơ hội buổi ban đầu không cánh mà bay…!
(Saigon, chiều muộn 29.3.2019)
Chuyện cổ tích người lớn THƯA THẦY, THẦY NHỚ EM KHÔNG? Tác giả khuyết danh, Chu Diệp sưu tầm và trích dịch; Nguyên tác: “Vous souvenez-vous de moi, professeur?”
Lời giới thiệu của anh Trần Văn Hảo, Cựu SV Nông Nghiệp (Đại Gia Đình NÔNG LÂM MỤC SÚC): Cùng các anh chị Chiều nay, đọc số báo Ngọn Đuốc Xuân Tân Sửu do thầy Thái Công Tụng chuyển cho, gặp bài này. Có lẽ một số anh chị đã đọc (với tựa đề khác) nhưng nội dung thì giống nhau, theo tôi thì rất hay, ý nghĩa. Xin chuyển đến quý anh chị trong những ngày đầu xuân. Làm ơn bỏ qua nếu thấy phiền và không cần thiết. Cảm ơn
Một cụ già ngồi trên băng ghế công viên thì có một chàng tuổi trẻ đến gần và hỏi ông: – Thầy có nhớ em không, thưa thầy?
Ông lão trả lời: Không!
Chàng trai nói với ông lão rằng anh là học sinh cũ của ông.
Ông cựu giáo sư: À! Anh thế nào và hiện đang làm gì?
Chàng trai trả lời: – Dạ, em cũng trở thành giáo sư.
Ông già nói: – À, thật tốt để biết việc đó, vậy thì cũng giống tôi.
– Dạ, giống như thầy. Trong thực tế, em đã trở thành giáo sư là nhờ thầy, thầy đã truyền cảm hứng cho em để được như thầy.
Ông lão tò mò hỏi chàng trai trẻ từ khi nào anh ta quyết định trở thành thầy giáo?
Chàng trai liền kể cho ông ta câu chuyện như sau:
– Một ngày nọ, một người bạn của em, cũng là một học sinh, đến lớp với một chiếc đồng hồ đẹp và mới toanh! Nhưng em muốn có chiếc đồng hồ đó và quyết định đánh cắp nó. Sau đó, bạn em nhận thấy đồng hồ của anh ta bị mất và ngay lập tức phàn nàn với thầy. Thầy liền lên tiếng: – Một chiếc đồng hồ đã bị đánh cắp trong lớp học của tôi ngày hôm nay. Ai lấy trộm thì phải trả lại! Em đã không trả lại vì em muốn chiếc đồng hồ này … biết bao!
Sau đó, thầy đóng cửa phòng học, yêu cầu cả lớp đứng dậy và bắt đầu lục xét mọi người cho đến khi tìm thấy chiếc đồng hồ. Nhưng, thầy yêu cầu tất cả học sinh nhắm mắt lại, và mọi người đã nghe lời, khi thầy lục soát túi của em, thầy tìm thấy chiếc đồng hồ và lấy nó ra. Thầy tiếp tục lục lọi trong túi của mọi người cho khi hoàn tất, thầy nói: – Hãy mở mắt ra! Tôi đã tìm thấy chiếc đồng hồ rồi! Thầy đã không nói với em bất cứ điều gì và thầy không bao giờ lặp lại câu chuyện này một lần nữa. Thầy cũng không bao giờ nói ai lấy trộm đồng hồ. Ngày đó thầy đã cứu nhân phẩm của em. Đó cũng là ngày đáng xấu hổ nhất trong cuộc đời em! Thầy không bao giờ nói bất cứ điều gì với em, thầy đã không la mắng em hay chú ý đến em để giảng giải cho em bài học về đạo đức, nhưng thầy đã thành công… khai sáng cho em. Nhờ thầy, em đã hiểu thế nào là một nhà giáo dục và giá trị của một giáo viên. Thầy có nhớ cái giai đoạn đó không, thưa thầy?
Vị cựu giáo sư trả lời: – Thầy nhớ việc chiếc đồng hồ bị đánh cắp đó, rồi thầy đã lục xét túi của mọi người, nhưng thầy không nhớ ra em, vì thầy cũng đã nhắm mắt … trong khi lục xét!
Đây là tinh túy của một nhà giáo dục. Nếu để sửa đổi, thầy phải làm nhục người khác tức là thầy không biết cách dạy học, cũng không phải là một nhà giáo dục. Xin hãy suy nghĩ nhé!
(Nguyên tác: “Vous souvenez-vous de moi, professeur?” Tác giả khuyết danh – Chu Diệp sưu tầm và trích dịch)
Chuyện cổ tích người lớn PHIÊN CHỢ TẾT CUỐI CÙNG Hoàng Đình Quang
Cho đến tận bây giờ, đã hơn ba mươi năm qua rồi nhưng không hiểu sao tôi vẫn cứ đinh ninh rằng tiết đại hàn phải rơi vào ngày hai mươi sáu tháng Chạp, dù rằng lịch thiên văn không hẳn năm nào cũng vậy. Đó là một ngày gió rét xẻo da cắt thịt, mưa phùn giăng như bột muối trắng trời, còn con đường đất đỏ chen lẫn đá cuội từ nhà tôi ra chợ Ba Hàng lép nhép bùn. Ngày hai mươi sáu tháng Chạp, có thể gọi là hăm sáu Tết được rồi, là ngày mà chợ Ba Hàng họp phiên cuối cùng trong năm. Phiên này ai mua gì, bán gì thì cũng cố mà mua mà bán cho bằng hết, bằng đủ… Đúng ra thì còn một phiên nữa họp vào ngày hăm chín, nhưng là chợ xép (phiên của chợ Đồn Sơn Cốt chuyển ra) lại cận quá rồi, năm nào tháng thiếu, hai chín bắt làm ba mươi, ai bí quá chạy ra mua nắm mùi, củ su hào, tí dầu, tí mắm mà thôi!
Hàng năm, buổi học cuối cùng của chúng tôi là vào ngày hăm nhăm, sau đó khuân bàn ghế gửi để nghỉ Tết. Tối hôm ấy tôi cuộn tròn mình vào cái chăn chiên vùi trong ổ rơm thơm thơm mùi mày lúa mà háo hức chờ cho mau sáng. Tôi nhẩm tính… mình có năm hào trong túi. Với tôi, năm hào cho một phiên chợ là thật to. Ở vành cối xay kia là đôi giày cao cổ tuy đã rách lỗ chỗ và lại cỡ 40 quá to so với đôi chân tuổi mười ba của tôi, nhưng còn tốt chán. Tôi đã tìm được nó ở doanh trại bộ đội trong lúc nhặt pin và cất kỹ chỉ để dùng vào sáng mai, phiên chợ Tết. Năm hào, dứt khoát là tôi phải mua được một cái ong-bun, hết hai hào rưỡi. Có ong-bun, tôi sẽ có một cái đèn pin tự chế bằng ống nứa và nửa quả bóng bàn bởi vì tôi đã có khá nhiều pin nhặt của bộ đội họ vứt đi. Còn lại mua gì tính sau sẽ mua lấy mấy bao diêm bởi vì khẩu súng bắn diêm của tôi chắc chắn là vô địch. Nó được tôi tự chế bằng một cái van xe đạp cũ. Sau khi gỡ bỏ cái hạt gạo, tôi nhét một que diêm vào bít lại, nhồi tiếp thuốc diêm vào bên trong dùng một cái đinh mười phân mài tù đầu đi làm chầy kích nổ. Tất cả được bố trí trên một khẩu súng lục và một đoạn dây cao-su sau khi bật lẫy cò đã đẩy mạnh cái đinh. Diêm bị kích mạnh, cháy cực nhanh tạo ra tiếng nổ không thua gì một phát súng trường!
Trong lúc đang lơ mơ nghĩ về ngày mai hạnh phúc của mình, tình cờ tôi đè phải cái gì nho nhỏ, tròn tròn trong túi áo. À, chiều nay thằng Phúc Trều vừa cho tôi một cái ong-bun đã bị cháy, đứt dây tóc. Nó bày cho tôi cách đánh tráo của bà hàng xén. Tôi thấy cũng hay hay nhưng liệu có an toàn không? Thôi được, để mai hẵng hay. Tôi cọ quậy lần cuối cùng và quyết tâm nhắm mắt!
Đang lơ mơ thì có người kéo chăn làm tôi giật mình dụi mắt, vừa bực lại vừa sợ. Sợ là sợ bố tôi sai đi đâu vào giờ này thì chỉ có mà chết. Nhưng tôi nhìn thấy bố vẫn đang ngồi chẻ lạt giang cạnh bếp. Tiếng con gái thì thào.
– Hoàng ngủ rồi à? Này, chị bảo, này…
Chị Tằm! Tưởng ai, mà sao chị tìm tôi đêm hôm thế này, lại ăn mặc phong phanh thế kia? Chị ngồi sát vào tôi thì thầm:
– Mai em có đi chợ không? – Tôi gật đầu. – Có à? Thế chị bảo này nhá. Sáng mai em ra đón ngõ cho chị, chị bán đắt hàng mau hết. Đến trưa chị cho hai hào mà mua pháo…
Tôi nhỏm dậy, gió lùa hiu hiu vào mặt, vào cổ làm tôi rụt đầu lại:- Chị bán gì? Lại bòng à? Nhỡ sáng mai u em không gọi, em ngủ quên thì sao?
– Quên là quên thế nào? – Chị kéo dài hai tiếng “thế nào” một cách âu yếm.- Hay là chị ngủ đây với em, sáng mai cùng dậy!
– Không được, chị còn phải về xay nốt nắm gạo. Em có sang ngủ với chị thì sang…
– Rét lắm, em chả đi đâu. Sáng mai em dậy trước chị cho mà xem…Tôi lăn đùng ra ổ rơm, nhắm mắt, mặc kệ chị Tằm. Thật ra tôi cũng thích sang ngủ với chị Tằm. Ngủ với chị ấm lắm. Có hôm chị còn ôm chặt lấy tôi, lúc chị phải dậy nấu cám tôi còn cố kéo chị nằm với tôi một lúc. Nhưng từ hôm anh Tước chê tôi là quân ngủ với đàn bà, rằng “Một hơi đàn bà bằng ba đống dấm”, tôi đâm ngượng, nên chỉ hôm nào rét lắm hoặc đi chơi về khuya sợ không dám gọi bố thì tôi mới sang ngủ với chị Tằm.
Chị Tằm là con gái bác Khuê. Tôi gọi là bác nhưng bác Khuê không có họ hàng gì với nhà tôi. Gia đình bác hồi tản cư chạy Tây từ mãi dưới Hà Đông lên. Sau hòa bình, gia đình bác không về quê nữa mà ở lại chung với nhà tôi trên miếng đất ông bà nội để lại cho bố tôi. Họ nhà tôi nhỏ, bố tôi lại vốn quý người nên coi hai bác như anh chị. Hai bác cũng đối xử với nhà tôi như vậy, mỗi khi nhà tôi có giỗ Tết, bác Khuê gái cũng đội gạo, đem tiền đến đóng như các cô chú tôi. Hai bác chỉ có mỗi chị Tằm, năm ấy chị mười bảy…
Tôi cũng biết tôi là thằng ngỗ ngược. Bố tôi mấy lần dọa khiền cho tôi một trận, nhưng chưa làm được, chỉ vì tôi không ăn trộm, ăn cắp của ai, lại học giỏi. Tôi chỉ học ở lớp, còn về nhà hầu như chẳng mấy khi phải học, chiều nào cũng làm cặp quang sọt đi gắp phân, tối đến ít khi phải dùng đến đèn dầu. Thế mà vẫn lên lớp, vẫn được khen, được cha mẹ khối đứa hàng xóm coi tôi là tấm gương cho chúng. Vậy thì chuyện đi ngủ đỗ hàng xóm là chuyện quá thường, bố tôi còn ba thằng con trai nữa, tha hồ mà quát!
Nghe tiếng guốc của chị ra đến đầu hè tôi biết chị Tằm đã về. Tôi mỉm cười, nghĩ bụng: Chịu khó dậy sớm đón ngõ, sờ tay vào gánh bòng của chị Tằm, được hai hào. Thế là vốn liếng của ta có bảy hào rồi, cũng khơ khớ…
Tôi thấy người lớn vẫn hay hát: Phổ Yên có phố Ba Hàng Có Chiêu đãi sở, có nàng Lệ Thanh
Nghe bảo từ hồi xưa, cả dãy phố huyện bây giờ chỉ có một hàng nước, một hàng xén và một hàng cắt tóc, nên người ta gọi là phố Ba Hàng, sau thành tên hành chính. Chiêu đãi sở là cái “sở chiêu đãi” người nhà, thường là vợ của các anh bộ đội thuộc sư đoàn 312. Còn nàng Lệ Thanh là bà Thanh Khoèo, bán quán nước, có anh con trai tên Đắc, làm chân quét chợ Ba Hàng, nên gọi là Đắc Vỏ.
Sáng sớm hôm sau, tiết đại hàn, trời đã gió rét lại mưa phùn nhưng tôi vẫn dậy rất sớm. Sau khi ra đón ngõ và sờ vào gánh bòng của chị Tằm, tôi lẽo đẽo theo chị ra chợ. Tôi dận đôi giày lịch bịch to đùng lòi ra cái ống chân như chân hét, có lẽ giống cái thằng người gỗ Pinôkiô trong truyện tôi đọc ké được ở nhà bà Phán Lan. Trông tôi, ai cũng phải bật cười, nhưng vì rét quá, nhiều bà không há miệng ra được mà chỉ nhủi cái gì đó vào lưng, vào đít tôi mà đi. Từ nhà tôi ra chợ cũng xa, gần ba cây số. Nhìn chị Tằm gánh bòng sao mà điệu thế! Không biết vía tôi thế nào mà chị vừa đặt gánh xuống là có người nhao nhao hỏi mua. Hai hào một quả, người chọn, người moi những quả dưới thúng làm bòng lăn cả ra đất, tôi cũng hăng hái nhặt hộ chị. Có người mua chưa kịp trả tiền, tôi sấn đến đòi ngay, sợ mất. Mãi đến lúc chỉ còn hơn chục quả vẹo, tôi để mặc chị Tằm, lỉnh vào chợ.
Đang chen lấn, thấy hàng bánh chưng, bụng tôi bỗng đói ngấu, tôi liều mình đĩnh đạc mua hẳn một cái, đứng dựa cột lều ăn ngay. Cái bánh chỉ mới hết có hai hào, còn ba hào vẫn mua được ong-bun kia mà! Đi một lúc, vì tin rằng thế nào chị Tằm cũng cho hai hào nên tôi mua một hào kẹo dồi nhai tóp tép. Khi tôi quay ra tìm chị Tằm thì chả thấy chị đâu nữa. Tôi lo quá, còn có hai hào làm sao mua nổi cái ong-bun, nó những hai hào rưỡi kia? Tôi tự trách mình, hai tay thọc túi quần vân vê tờ giấy bạc hai hào mầu xanh nhàu nhò. Bỗng tôi chạm phải cái bóng đèn pin đã đứt dây tóc mà Phúc Trều cho tôi hôm qua, tôi tìm đến bà hàng xén. Đầu tóc bù xù, áo mặc chồng chất hai ba bốn cái, dưới chân là đôi giày to xù, mồm há hoang hoác… trông tôi có vẻ một thằng nhóc du thủ du thực lắm. Chẳng thế mà bà hàng xén tuy bận túi bụi nhưng vẫn liếc tôi cảnh giác. Tôi mân mê cái bóng đèn đến mức chảy nước trong túi áo rồi đánh bạo:
– Bà cho cháu xem cái ong-bun…Vừa nói tay tôi vừa thọc vào cái hộp đựng bóng đèn, cầm một cái giả vờ giơ lên trời soi xem dây tóc, nhưng thực ra theo lời dạy của thằng Phúc, tôi đã đánh tráo cái bóng đứt dây, rồi chìa ra cho bà hàng xén:
– Cháu trả bà ạ, cháu muốn mua một cái ba von tám… mà chỉ có hai von năm thôi!
Đáng lẽ tôi nên bỏ đi ngay nhưng những bao diêm Thống Nhất hấp dẫn tôi quá làm tôi cứ đứng ngây ra. Bà hàng xén nhìn tôi rồi giật mình cầm cái bóng đèn pin mà tôi vừa bỏ vào hộp, miệng chu chéo:
Cũng đáng lẽ tôi phải thản nhiên mắng lại bà ta vu oan giá họa thì tôi lại co cẳng chạy. Được vài bước, tôi bị ngáng ngã. Một bàn tay hộ pháp nhấc tôi dậy, và một khuôn mặt dữ tợn ghé sát mặt tôi”: Đắc Vỏ! Lần đầu tiên tôi giáp mặt anh ta, nhưng tiếng đồn về Đắc Vỏ thì tôi đã nghe từ lâu, toàn những chuyện hãi hùng. Trong dư luận người lớn lúc bấy giờ quét chợ là một nghề hèn hạ, nhưng anh ta có quyền hành lớn lắm. Ai vào chợ cũng phải nộp cho Đắc Vỏ một sản vật gì đó: Cà chua, khoai, sắn, lạc, vừng… đó là những thứ nông dân đem vào bán. Còn những tư thương chuyên nghiệp có môn bài thì anh ta là người bảo vệ thường xuyên và đắc lực của họ. Chợ họp năm ngày hai phiên, những ngày không họp chợ, Đắc Vỏ quét dọn khu chợ và bảo vệ cho những cái lều không bị phá hoại.
Không nói không rằng, Đắc Vỏ véo tai tôi lôi xềnh xệch về phía cổng chợ. Trời lạnh, một bên tai tôi không thấy đau nhưng tưởng như đã rụng ra.
Chợ Tết đông như nêm cối, tôi cố trì lại nhưng không được, lòng hoang mang, chỉ sợ tin này mà đến tai bố thì tôi chết đòn. Bỗng tôi nghe tiếng chị Tằm:
– Anh Đắc! Buông thằng bé ra… – Cùng với tiếng thét là tiếng “báp”. Cái đòn gánh trên tay chị Tằm vừa giáng vào vai Đắc Vỏ. Anh ta quay lại, và tôi cũng nhìn thấy đôi mắt long lanh, đôi gò má đỏ bừng của chị vì tức giận:
– Anh làm gì thằng bé?-
Ơ, cái nhà cô này… Nó… Nó ăn cắp… – Đắc Vỏ ấp úng.
– Nó là em tôi, nó không bao giờ ăn cắp. Anh có bằng chứng gì không?- Tôi nghe bà Bóp nói…Chị Tằm giằng lấy tôi từ tay Đắc Vỏ, kéo đến trước mặt bà hàng xén:
– Đâu? Bà bảo nó ăn cắp cái gì của bà, nói cho tôi nghe nào!
Bà hàng xén cũng bị bất ngờ:
– Tôi nghi nó đánh tráo cái ong-bun…
– Nghi thôi à? Nghi mà dám đổ riệt cho nó, không sợ thụt lưỡi à? Nào bán cho nó mấy cái, nhà tôi thiếu gì tiền! Em chọn đi, bao nhiêu chị trả…
Tôi đứng ngẩn người:-
Đừng mua của bà này, chị ạ. Sang hàng khác… Mà em cũng chẳng cần mua nữa!
Chị Tằm dắt tay tôi đi, còn quay lại lườm Đắc Vỏ: – Nhớ mặt con này nhá, lần sau đừng có mà vớ vẩn! Ăn không của người ta quả bòng không nhớ à?
Đắc Vỏ xoa vai cười nhăn nhở.
Tự dưng tôi muốn khóc quá, cứ nấc lên từng nhịp, cũng có lẽ cái bánh chưng làm tôi nóng cổ. Chị Tằm dẫn tôi đến dãy hàng quà, bảo tôi ăn bún riêu, nhưng tôi không ăn, thành ra chị cũng thôi. Chị bảo tôi trông quang thúng cho chị đi mua mấy thứ hàng Tết. Lúc sau chị quay lại, tôi chìa cái ong-bun cho chị xem. Chị hỏi:
– Em mua lúc nào thế?
– Em tráo của bà Bóp đ ấy!- Thảo nào! – Chị cười.
– Em tôi cũng không vừa, lần sau đừng làm như thế nữa nhé. Không có tiền bảo chị, chị cho…
Gần trưa, hai chị em sắp gánh ra về. Qua cổng chợ, đến dãy mấy ông phó máy, chị bảo tôi ở ngoài, chị vào đứng nhìn những cái coóc-xê treo lủng lẳng trên dây. Chị chọn đi chọn lại mấy cái ướm thử lên ngực… Tôi ngoảnh mặt đi vì sợ phải nhìn vào cái vật kỳ dị ấy của đàn bà. Những miếng vải may chần ba bốn lớp, cuộn lại nhọn hoắt như những cái bù đài, mà những hôm ngủ chung với chị, thỉnh thoảng lại cọ vào lưng tôi, cưng cứng. Tôi không muốn hỏi, nhưng miệng vẫn cứ bật ra:
– Chị mua cái gì thế?
Chị Tằm lườm tôi, mặt đỏ bừng lên:
– Có nói em cũng chẳng biết!
– Em mà không biết! – Tôi cãi lại.
– Thế chị có áo mới chưa?
Chị hứ một tiếng rồi cất cái gói giấy xuống đáy thúng, cất đòn gánh, ve vẩy ra về.Đêm ấy về nhà, nằm một mình buồn và lạnh quá, tôi sẵn cái đèn pin tự chế và đôi giày thủng cỡ bốn mươi, tôi chạy sang chui vào chăn với chị Tằm. Không chờ chị ôm, tôi ghì lấy lưng chị, đầy vẻ biết ơn và thương mến.
Tôi không ngờ đó là phiên chợ Tết cuối cùng. Bởi vì năm sau, chiến tranh nổ ra, chợ họp sơ tán và thưa thớt. Ngày hòa bình, chợ Ba Hàng về trung tâm thị trấn, họp quanh năm, không còn kể phiên, kể lượt. Sẽ chẳng bao giờ còn những phiên chợ Tết như thế nữa. Chị Tằm ơi!…
______________ (*). Ong-bun: Tiếng Pháp: Ampoule: bóng đèn. (**). Hét: Loại chim giống con cò, cẳng chân dài. Có câu ngạn ngữ: Muốn ăn hét thì phải đào giun.
Trúc Lâm Yên Tử một rừng tre Nghê Việt tùy thời biến hóa ghê … Tre xanh, tre bạc, tre măng ngọt … Đất thấp trời cao chợt hóa … RỒNG
(*) Tre Rồng sông Kỳ Lộ là giống tre xanh Trúc Lâm quý, măng ngon, cây chắc thẳng dài , ít pheo, trồng đa dụng có hiệu quả kinh tế, Bài thơ này họa đối thơ cậu Cương Hoàng Gia cùng với Huỳnh Đường
RỒNG TRE Hoàng Gia Cương Gặp ảnh đề thơ
Một gốc tre khô cũng hóa rồng Cũng râu, cũng vuốt, cũng đuôi cong … Rồng bay, rồng lượn, rồng khoe mẽ … Tấm tắc người khen thế mới … LONG!
Sông Kỳ Lộ Phú Yên Dài trăm hai cây số Từ Biển Hồ Gia Lai Thượng nguồn sông Bà Đài Sông La Hiên Cà Tơn Bến Phú Giang, Phú Hải Phú Mỡ huyện Đồng Xuân Thôn Kỳ Lộ Cây Dừng Tre Rồng sông Kỳ Lộ Huyền thoại vua Chí Lới Vực Ông nối thác Dài
Sông Cái thác Rọ Heo Vùng Hòn Ông vua Lới Suối nước nóng Triêm Đức Thôn Thạnh Đức Xuân Quang Sông Trà Bương sông Con Tiếp nước sông Kỳ Lộ Chốn Lương Sơn Tá Quốc Lương Văn Chánh thành hoàng Sông Cô tới La Hai Sông Cái hòa tiếp nước
Đồng Xuân cầu La Hai Hợp thủy sông Kỳ Lộ Tới Mỹ Long chia nhánh Một ra vịnh Xuân Đài Một vào đầm Ô Loan Suối Đá xã An Hiệp Chảy ra đầm Ô Loan Suối Đá Đen An Phú Chảy ra biển Long Thủy.
Chuyện cổ tích người lớn CHỌN GIỐNG SẮN KHÁNG BỆNH CMD Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long và đồng sự
Bệnh virus khảm lá CMD từ ban đầu Tây Ninh (2017) lan rộng trên 15 tỉnh thành Việt Nam (2018-2020), là thách thức của các nhà khoa học. “V/v sử dụng giống sắn KM419 trong sản xuất” đã được Bộ NNPTNT xác định (5/2019) vì KM419 có năng suất tinh bột cao nhất hiện nay ở Việt Nam với diện tích trồng phổ biến nhất hiện nay (với KM94) tại Việt Nam và Campuchia. KM419 mẫn cảm trung bình với bệnh CMD với bệnh chổi rồng (CWBD) hơn là các giống sắn mới khác trong điều kiện áp lực 2 bệnh này ở Việt Nam hiện nay là rất cao.
Giải pháp chọn giống sắn Việt Nam tiếp nối hiệu quả là sử dụng giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao sạch bệnh tiếp tục lai tạo với các giống sắn kháng bệnh CMD đã có. Bài viết CHỌN GIỐNG SẮN VIỆT NAM đúc kết tóm tắt thông tin đã có và định hướng cho sự nổ lực Trúc Mai, Hoang Long, BM Nguyễn, Nguyen Van Nam, Nhan Pham, Hung Nguyenviet, Hoàng Kim, Jonathan Newby … đang lai hữu tính và bồi dục nâng cao tính kháng cho các giống sắn KM419, KM440, KM397, tốt nhất hiện nay
Chúc mừng tiến bộ mới của đề tài qua thông tin này.Thật tuyệt vời nguồn gen kháng bệnh CMD. Hai câu hỏi đối với bạn 1) Giống sắn kháng bệnh CMD trong hình trên là giống sắn gì và quan hệ nguồn gốc di truyền như thế nào đối với giống sắn “KM419 siêu bột cọng đỏ”? 2) Giống sắn này có điểm mới gì về đặc tính nông sinh học trong sự so sánh năng suất bột với giống sắn thương mại chủ lực KM419 và KM94 hiện nay chiếm díện tích trồng 42% và 31% diện tích sắn Việt Nam ?
Ông Alexandre de Rhodes là người phát minh ra chữ viết tiếng Việt, báu vật vô giá muôn đời của dân tộc Việt Nam, mặc dù những người Bồ Đào Nha tiên phong trong lĩnh vực Việt ngữ học. Ông Alexandre de Rhodes là người gốc Do Thái, sinh ngày 15 tháng 3 năm 1591 tại Avignon trong gia đình một nhà buôn tơ lụa, mất ngày 5 tháng 11 năm 1660 tại một nghĩa trang ngoại ô của thành phố Esfahan, Iran. Ông là nhà ngôn ngữ học thông thạo nhiều thứ tiếng nên đã “lần ra, nhận biết, phân biệt và ghi lại bằng ký hiệu thích hợp những âm thanh khác nhau, đôi khi rất gần gũi, vì thế dễ đánh lừa, trong tiếng Việt”. Ông cũng là một trong những linh mục dòng Tên đầu tiên đến Việt Nam truyền đạo công giáo từ năm 1626. Đến nay đã trên 391 năm khai sinh tiếng Việt và sau 72 năm ngày chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập năm 1945 và vận động toàn dân học đọc, học viết tiếng nước ta theo vần quốc ngữ, sau 42 năm sau ngày Việt Nam thống nhất 1975. Nay có lẽ đã hợp thời để chúng ta gạn đục khơi trong, lưu danh ông Alexandre de Rhodes trên viên đá tưởng nhớ đặt tại công viên Tao Đàn với bảo lưu tên đường Alexandre de Rhodes (trước là đường Paracels, sau là đường Colombert, sau là Alexandre de Rhodes; đổi lại Thái Văn Lung và đến năm 1993 ông Võ Văn Kiệt cho đổi lại tên đường Alexandre de Rhodes) để ghi nhớ công lao của người đã phát minh ra chữ Quốc ngữ.
Alexandre de Rhodes và chữ Quốc ngữ
Theo tiến sĩ Alain Guillemin, Viện Nghiên cứu Xã hội học Địa Trung Hải, Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Pháp, bản dịch của Ngô Tự Lập đăng tại Viet- Studies 2011 (1), Alexandre de Rhodes đến Hội An khoảng tháng 3 năm 1626. Sau đó đã cùng giáo sĩ dòng Tên Pedro Marques đến Thanh Hóa để giúp đỡ giáo sĩ dòng Tên người Ý Giuliano Baldinotti vốn gặp khó khăn trong việc học tiếng địa phương. Việc giảng đạo này chẳng bao lâu bị gián đoạn vì tin đồn rằng họ làm gián điệp. Alexandre de Rhodes bị chúa Trịnh Tráng quản thúc tại Hà Nội vào tháng Giêng 1630, sau đó bị trục xuất vào tháng 5 năm 1630. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes không thể quay lại Nam Kỳ, vì có thể bị nghi là gián điệp của Đàng Ngoài, nên đã trở lại Macao, nơi ông đã dạy thần học gần 10 năm trước. Trong khoảng thời gian 1640 -1645, ông đã dẫn đầu bốn chuyến đi đến Nam Kỳ, hầu hết các chuyến đi này đều trong sự bí mật vì sự thù ghét của chính quyền địa phương. Ông đã bị trục xuất khỏi Nam Kỳ ngày 3 tháng 7 năm 1645, sau đó đến Macao dạy tiếng Việt cho những người kế nhiệm là Carlo della Roca và Metello Sacano trước khi về lại nước Ý.
Khái quát bối cảnh Việt Nam thời đó: Theo Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim (2), ở Đằng Ngoài, năm đinh mão 1627, chúa Trịnh Tráng nhân khi nhà Minh đang chống nhau với nhà Thanh, họ Mạc ở Cao Bằng thì về hàng, nên đã kiếm cớ xuất quân đánh chúa Nguyễn ở phương Nam lần thứ nhất. Đến năm 1630 chúa Trịnh Tráng xuất quân đánh chúa Nguyễn Phúc Nguyên lần thứ hai, sau khi chúa Nguyễn theo kế Đào Duy Từ, trả lại sắc phong cho vua Lê, chiếm nam sông Giang, đắp lũy Trường Dục để chống quân Trịnh. Ở Đằng Trong, các chúa Nguyễn đã bình định xong Chiêm Thành, đang bảo hộ Chân Lạp. Vùng đất Nam bộ lúc đó nằm trong sự tranh chấp Xiêm – Nguyễn. Nước Xiêm La (Thái Lan ngày nay) vua Phra Naroi dòng dõi nhà Ayouthia đang chiếm cứ phần lớn đất Chân Lạp, đã dùng một người Hi Lạp làm tướng. Người này xin vua Thái giao thiệp với nước Pháp, do đó năm 1620 sứ thần của Xiêm La đã sang bái yết vua Pháp Louis XIV ở điện Versailes. Các giáo sĩ người Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha cũng đang tranh giành ảnh hưởng theo ý đồ chính trị của mỗi nước thực dân tìm kiếm thuộc địa. Nhiều thế lực thực dân phương Tây và phong kiến phương Đông chăm chú nhiều đến vùng đất phương Nam ( Hoàng Kim chú dẫn).
Tại Roma, Alexandre de Rhodes báo cáo tinh hình cho Vatican, đề xuất hỗ trợ thành lập hội truyền giáo và vận động bổ nhiệm giám mục địa phương cho Đằng Ngoài và Đằng Trong. Ông rời Roma ngày 11 tháng 9 năm 1652 đến Thụy Sĩ và Pháp để tìm người và kinh phí cần thiết cho sự truyền giáo ở Việt Nam. Tại đây, ông đã gặp giáo sĩ dòng Tên Jean Bagot, vị cha cố có quan hệ rất rộng trong giới cầm quyền và là người đã từng làm lễ xưng tội cho vua Louis XIV. Ông tuyển mộ trong số các môn đệ của Cha Bagot một số tình nguyện viên đi Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Đặc biệt trong đó có François Pallu, người sẽ là một trong ba khâm mạng Tòa thánh được Giáo Hoàng bổ nhiệm năm 1658 cho các sứ mệnh ở châu Á. Đây cũng là hành động khởi đầu cho việc thành lập Hội truyền giáo hải ngoại Paris (MEP). Ông cũng xin được kinh phí cho Hội Ái hữu (SS), Do sự bất hòa giữa Giáo Hoàng, vua Bồ Đào Nha và các tổ chức truyền đạo nên ông bị thất sủng và được gửi đến Ba Tư vào tháng 11 năm 1654 và qua đời tại đây vào tháng 11 năm 1660.
Alexandre de Rhodes thông thạo nhiều thứ tiếng. Ông biết 12-13 thứ tiếng: ngoài tiếng Pháp và tiếng mẹ đẻ Provencal Ông thông thạo tiếng Latinh, Hy Lạp, Italia, Do Thái, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Canarin, Trung Quốc, Nhật Bản, Ba Tư và tiếng Việt. Ông rất khiêm tốn và ham học hỏi. Ông nói “Thú thật là khi tôi đến Nam Kỳ và nghe tiếng nói của người bản địa, đặc biệt là phụ nữ, tôi cảm thấy như nghe tiếng chim hót líu lo và tôi mất hết hy vọng có ngày học được thứ tiếng ấy”. “Tôi ghi lòng tạc dạ việc này: Tôi học hàng ngày chăm chỉ hệt như trước đây học thần học ở Roma,…sau bốn tháng, tôi đã có thể nghe hiểu những lời xưng tội, sau sáu tháng, có thể giảng đạo bằng tiếng Nam Kỳ,…”. Chính vì thế ông đã ” lần ra, nhận biết, phân biệt và ghi lại bằng ký hiệu thích hợp những âm thanh khác nhau, đôi khi rất gần gũi, vì thế dễ đánh lừa…” của ngôn ngữ người Việt.
Hai cuốn sách của ông xuất bản ở Roma năm 1651 (Dictionarium Anamiticum Lusitanum et Latinum” và “Catechismus Pro iis qui volunt suscipere Batismum) là hai tác phẩm nền tảng, không thể thay thế, đặt cơ sở cho việc ký âm tiếng Việt bằng chữ cái Latinh và ngoài ra còn cho chúng ta biết được hình trạng tiếng Việt thế kỷ XVII cùng sự tiến hóa của nó. Một cuốn sách khác của ông (cuốn “Linguae Annamiticae seu Tunchinensis Brevis Declaratio”) có phần tóm tắt ngữ pháp 31 trang ở cuối, đã “đưa ra một tổng quan vắn tắt để bàn đến vấn đề từ loại trong tiếng Việt.” bao gồm: Chữ và âm tiết trong tiếng An Nam (Chương 1); Dấu thanh và các dấu của các nguyên âm (Chương 2); Danh từ, tính từ và phó từ (chương 3); Đại từ (Chương 4); Các đại từ khác (chương 5); Động từ (Chương 6); Các thành tố bất biến trong tiếng Việt (Chương 7); Một số thành tố của cú pháp (Chương 8). Đây là đóng góp đặc sắc của ông, không thể thay thế.
Giáo sĩ Lèopold Cadière, người rất am hiểu vấn đề đã viết về ông: “Mọi điều liên quan đến tiếng An Nam, phương ngữ Bắc Bộ và phương ngữ Nam Kỳ đều không phải là bí mật đối với ông… Ông còn cho chúng ta biết về thực trạng của tiếng An Nam cổ, những phong tục, tập quán ngày nay không còn và những thông tin mà chúng ta không thể tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác… Thêm nữa, về nghĩa của các từ, cuốn sách là một sự đảm bảo tuyệt đối, những khái niệm ngữ pháp ông thêm vào cuốn từ điển cho thấy ông hiểu biết sâu sắc về cấu trúc đôi khi rất phức tạp và tinh tế của cú pháp An Nam” (Cadière, 1915, tr. 238-39 được trích dẫn bởi Alain Guillemin ). Alexandre de Rhodes bám rất sát thực tiễn ngôn ngữ của người Việt trong các tầng lớp xã hội khác nhau và đã phát triển hệ thống chữ Việt dùng chữ cái trên cơ sở kế thừa nhiều công trình trước đó, trong đó có cả di sản tiếng Nôm. Trên thực tế sự sáng tạo chữ Quốc ngữ là tinh hoa trí tuệ của rất nhiều người mà công đầu là Alexandre de Rhodes.
Hồ Chí Minh và sự truyền bá chữ Quốc ngữ
Sau Tuyên ngôn độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ đã nêu ra “Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa“: “Môt là, nhân dân đang ĐÓI. Vấn đề thứ hai, nạn DỐT. Vấn đề thứ ba TỔNG TUYỂN CỬ. Vấn đề thứ tư giáo dục lại nhân dân bằng cách thực hiện CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH. Vấn đề thứ năm: bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò, CẤM HÚT THUỐC PHIỆN. Vấn đề thứ sáu: tuyên bố TÍN NGƯỠNG TỰ DO và lương giáo đoàn kết” (3). Trong nhiệm vụ cấp bách thứ hai, Bác chỉ rõ: “Nạn dốt là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta. Hơn chín mươi phần trăm đồng bào chúng ta mù chữ. Nhưng chỉ cần ba tháng là đủ để học đọc, học viết tiếng nước ta theo vần quốc ngữ. Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch đế chống nạn mù chữ ”
Tiếng Việt và chữ quốc ngữ là lợi khí quốc gia giúp cho một dân tộc nhỏ yếu vùng lên làm chủ vận mệnh của mình, đào tạo nên hàng triệu người dân thường gánh vác việc nước. Điều này đã thể hiện rõ trong Võ Nguyên Giáp một cuộc đời khi ông trả lời Alanh-Rut xi ô :”Học thuyết quân sự cổ điển, khoa học quân sự truyền thống dạy rằng muốn giành thắng lợi, phải biết tập trung cùng một lúc ưu thế quân số và ưu thế kỹ thuật. Ông có thể thấy điều đó ở Na-pô-lê-ông. Thế nhưng chúng tôi lại ở vào tình thế phải lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh. Chúng tôi phải chấp nhận, nếu không Tổ quốc chúng tôi sẽ bị thôn tính. Vậy đương đầu như thế nào? Đó là chiến tranh toàn dân. Chiến tranh toàn dân là bí quyết của sự chiến thắng của chúng tôi…”
Trên thế giới có lẽ hiếm có nước nào xóa nạn mù chữ toàn dân nhanh đến như vậy, hiếm có một dân tộc nào vùng dậy mạnh mẽ như vậy, nên đã làm cho một danh tướng của đối phương đã phải thốt lên “một quân đội có thể đánh bại một quân đội. Một quân đội không thể đánh thắng một dân tộc.” 390 năm sau phát minh chữ quốc ngữ, trên 70 năm sau bài học lớn về bài học lớn chủ tịch Hồ Chí Minh và sự truyền bá chữ Quốc ngữ, đến nay vẫn nóng hổi tính thời sự. Chữ Quốc ngữ đúng là lợi khí quốc gia “Sinh tử phù” mà dân tộc Việt Nam không bị đồng hóa, mất gốc. Trên ý nghĩa đó, chúng ta nên gạn đục khơi trong, trả lại sự công bằng cho người đã có công phát minh chữ viết tiếng Việt.
Ghi ơn người phát minh chữ Quốc ngữ ?
Tháng 5 năm 1941, chính quyền thực dân dựng một đài tưởng niệm tại một góc nhỏ phía Đông Bắc hồ Hoàn Kiếm. Đó là một tấm bia đá cao 1,7m, rộng 1,1m, dày 0,2m, trên có khắc, bằng các thứ chữ Quốc ngữ, Hán và Pháp, công đức của linh mục dòng Tên Alexandre de Rhodes. Tin này được tờ «Tân Tri», số 13 tháng 6 năm 1941, thông báo như sau: “…Ông Alexandre de Rhodes đã sống lại với dân Hà Thành trong lễ khánh thành đài kỷ niệm ông. Buổi lễ được tổ chức trong bầu không khí trang nghiêm và cảm động…Ngày nay, chữ Quốc ngữ được coi là rường cột của tiếng ta, đó là lý do vì sao chúng ta không thể không cảm ơn chân thành người đã phát minh ra nó, ông Alexandre de Rhodes.”
Những năm tháng chiến tranh, khi đất nước chưa có độc lập và thống nhất toàn vẹn, tấm bia đá đã bị gỡ bỏ như là việc chối bỏ sự lợi dụng khai hóa văn minh để áp đặt sự thống trị của dân tộc này đối với dân tộc khác. Đến những năm 1980, tại khoảng không gian tưởng niệm dành cho Alexandre de Rhodes mọc lên một tượng đài cách mạng trắng tinh khôi tuyệt đẹp, tôn vinh những người yêu nước: ba pho tượng người chiến sĩ cỡ lớn, một trong số đó là phụ nữ. Trên bệ, có dòng chữ: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.” . Đó đã là điều khẳng định lý tưởng: “Không có gí quý hơn độc lập, tự do”
Tổ Quốc Việt Nam hồi sinh bởi hàng triệu con dân Việt đã “xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ”. Năm 1993, Giáo sư Nguyễn Lân đã nhắc đến đài tưởng niệm giáo sĩ người Pháp. Theo ông, đáng lẽ không nên gỡ bỏ đài kỷ niệm ấy. “Hành động này cho thấy một nhận thức thiển cận, sự thiếu hiểu biết về lịch sử và, dù sao đi chăng nữa, cũng không xứng đáng với truyền thống của dân tộc ta. Alexandre de Rhodes, chẳng phải là ông đã làm việc cho người Việt Nam hay sao? Chữ Quốc ngữ, thứ chữ dễ học hơn nhiều so với chữ tượng hình, đã giúp phần lớn dân chúng tiếp cận tri thức và thông tin… Và nhà truyền giáo cũng là một nhà nhân văn chủ nghĩa, gần gũi với dân chúng”.
Đã có những người con đất Việt kính cẩn nghiêng mình trước mộ Alecxandre de Rhode yên nghỉ lặng lẽ ở xứ người tại nơi yên nghỉ của ông trong một nghĩa trang nằm ở ngoại ô của thành phố Esfahan, Iran; ảnh Trần Văn Trường VYC Travel;Antontruongthang
Còn đó tại Nhà thờ Mằng Lăng ở Tuy An, Phú Yên lưu dấu bản chữ viết tiếng Việt đầu tiên xác tín ghi công của Alecxandre de Rhode.
Gíao sư Nguyễn Tử Siêm ngày 12 tháng 11 năm. 2018 trên trang face book đã kể về Chuyện ‘xé rào’ một đêm: TRẢ LẠI TÊN PHỐ A. DE RHODES (trích dẫn dưới đây) Chuyện này có liên quan đến hai nhân vật đáng kính: cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt và nhà khoa học Hoàng Xuân Hãn. Công lao của Alexandre de Rhodes, người góp công sáng lập chữ Quốc ngữ, sớm hay muộn cũng sẽ được tôn vinh xứng đáng; song sự nhạy bén, linh hoạt vượt qua các rào cản hành chính để làm một việc đáng làm của ông Võ Văn Kiệt thì thật thú vị và cảm động.
Câu chuyện tiếng Việt và sự truyền giáo của ông Alexandre de Rhodes thật ra còn có ẩn khúc lịch sử. Tiến sĩ Trần Thanh Ái tại bài viết “Alexandre de Rhodes có nói như thế không?” (bài đã đăng trên tạp chí Xưa và Nay, số tháng 5 năm 2019) và công bố trên Nghiên cứu Lịch sử ngày 5 tháng 8 năm 2019, được trích dẫn dưới đây. Kết luận của tiến sĩ Trần Thanh Ái là: “Ông Alexandre de Rhodes không hề viết câu “Đây là một vị trí cần được chiếm lấy và chiếm được vị trí này thì thương gia Âu châu sẽ tìm được một nguồn lợi nhuận và tài nguyên phong phú” trong các tác phẩm của ông. Sự nhầm lẫn tai hại này bắt đầu từ A. Thomazi khi ông đã biến một suy luận của người đời sau thành phát biểu của Alexandre de Rhodes. Nguy hiểm hơn nữa, từ sự nhầm lẫn này mà đã có người suy diễn đến việc Pháp chiếm Côn Đảo hai trăm năm sau”.
Công Viên Tao Đàn tại thành phố Hồ Chí Minh có những viên đá vô danh cạnh đền Hùng. Tôi mong ước UBND thành phố Hồ Chí Minh và ngành hữu quan chọn một cụm đá trong số này để ghi danh lưu dấu tỏ lòng biết ơn ông Alexandre de Rhodes người phát minh chữ viết tiếng Việt .
Viên đá thời gian là sự dâng hiến lặng lẽ của người phát minh chữ viết tiếng Việt
1) Alain Guillemin 2011. ALEXANDRE DE RHODES CÓ PHÁT MINH RA CHỮ QUỐC NGỮ? TS. Viện Nghiên cứu Xã hội học Địa Trung Hải, Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Pháp. Bản dịch của Ngô Tự Lập . Viet-Studies.info
2) Hồ Chí Minh 1945. Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hồ Chí Minh tuyển tập, tập 2. Nhà Xuất bản Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, năm 2002 trang 1-3
3) Trần Trọng Kim 1921. Việt Nam sử lược. Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin, 1999, trang 318-320.
Chuyện ‘xé rào’ một đêm TRẢ LẠI TÊN PHỐ A. DE RHODES GS. Nguyễn Tử Siêm
Chuyện này có liên quan đến hai nhân vật đáng kính: cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt và nhà khoa học Hoàng Xuân Hãn. Công lao của Alexandre de Rhodes – người góp công sáng lập chữ Quốc ngữ – sớm hay muộn cũng sẽ được tôn vinh xứng đáng; song sự nhạy bén, linh hoạt vượt qua các rào cản hành chính để làm một việc đáng làm của ông Võ Văn Kiệt thì thật thú vị và cảm động. Câu chuyện sưu tầm được như sau.
Hồi ông Võ Văn Kiệt còn đương chức, ông có chuyến thăm chính thức nước Pháp. Ngoài các chương trình làm việc với phía Pháp, ông có đến thăm và gặp gỡ với phái đoàn ngoại giao Việt Nam tại Đại sứ quán Việt Nam ở Paris. Tại đây, ông được thông báo là Đại sứ quán có sắp xếp một cuộc gặp mặt giữa ông với ông Hoàng Xuân Hãn – một học giả người Việt sinh sống ở Pháp đã mấy chục năm – tại trụ sở Đại sứ quán.
Ông Kiệt hỏi những người tổ chức cuộc gặp: “Hoàng Xuân Hãn là ai?”. Sau khi được giới thiệu về thân thế và sự nghiệp của học giả Hoàng Xuân Hãn, ông Kiệt nói: “Vậy thì tôi sẽ đến thăm học giả Hoàng Xuân Hãn tại tư gia của ông ấy, chứ không phải là chúng ta mời ông ấy đến đây gặp tôi”. Sau đó thì ông Kiệt hủy lịch hẹn gặp học giả Hoàng Xuân Hãn tại Đại sứ quán và kêu bố trí xe để ông đi thăm ông Hoàng Xuân Hãn.
Khi đến nơi, ông Kiệt nói với ông Hoàng Xuân Hãn là ông đến thăm gia đình học giả và sẽ im lặng và lắng nghe ông Hoàng Xuân Hãn nói bất kỳ chuyện gì. Chuyên gia Phạm Văn Hạng, cho biết khi kể đến đoạn này ông Kiệt cười và nói rằng: “Tôi biết nói với ông Hãn chuyện gì đây, nên tốt nhất là lắng nghe ông ấy nói”.
Và ông Hãn đã nói với ông Kiệt rất nhiều chuyện, với tư cách là một học giả Việt kiều góp ý với một vị lãnh đạo của Việt Nam về đất nước, học thuật và thời cuộc. Sau cùng, học giả Hoàng Xuân Hãn đề nghị Việt Nam nên đặt tên đường Alexandre de Rhodes để ghi nhận công lao của vị giáo sĩ người Pháp này trong việc phát triển và hoàn thiện chữ Quốc ngữ. Ông Võ Văn Kiệt nhận lời.
Khi về nước, ông Võ Văn Kiệt hỏi những người có trách nhiệm trong chính quyền TPHCM về việc đặt tên đường Alexandre de Rhodes. Họ trả lời là thời các chính quyền cũ đã có con đường mang tên Alexandre de Rhodes nằm gần dinh Độc Lập, nhưng sau được đổi tên.
Ông Kiệt hỏi: “Bây giờ muốn đổi tên đường này trở lại thành đường Alexandre de Rhodes có được không”?. Họ nói: “Việc đặt tên đường phải qua nhiều thủ tục: lập hồ sơ để Hội đồng đặt tên đường của thành phố xét duyệt, rồi phải trình HĐND TPHCM thông qua, rất mất thời gian. Alexandre de Rhodes là một giáo sĩ người Pháp hoạt động cách đây mấy trăm năm nên sẽ khó khăn hơn trong việc xét duyệt và thông qua.
Ông Kiệt hỏi tiếp: “Vậy làm một cái bảng tên đường ghi tên Alexandre de Rhodes giống như các bảng tên đường khác mất bao lâu?”. Họ nói: “Chỉ 1 buổi là xong”. Ông hỏi tiếp: “Vậy tháo cái bảng tên đường cũ ra, lắp bảng tên đường mới vào thì mất bao lâu?”. Họ nói: “Chừng mươi phút”.
Ông Kiệt bảo: “Vậy hãy cho làm bảng tên đường mang tên Alexandre de Rhodes và chuẩn bị ốc vít đầy đủ”. Sau đó, ông lệnh cho những người thừa hành đang đêm cho lắp bảng tên đường Alexandre de Rhodes vào con đường trước đây đã mang tên vị giáo sĩ này.
Đến sáng hôm sau, người dân đã thấy tên đường Alexandre de Rhodes được phục hồi lại rồi. Một công việc ‘xé rào’ thật có ý nghĩa nhiều mặt.
(NTS 12.11.2018)./.
PS: Sự ra đời và phổ biến của chữ quốc có công sức của nhiều người: Các giáo sỹ Bồ Đào Nha, Pháp, Ý, các cộng tác viên người Việt, các học giả người Việt: Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục…, các chí sỹ của phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục: Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, Trần Quý Cáp, Trần Cao Vân, Lương văn Can, Nguyễn Quyền, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng… các thành viên chủ chốt của Hội Truyền Bá Chữ Quốc Ngữ: Nguyễn Văn Tố, Hoàng Xuân Hãn, Bùi Kỷ, Vũ Đình Hòe, Nguyễn Hữu Đang…. Họ đã là những nhân tố tích cực cho việc mở mang dân trí, phổ biến các tư tưởng tiến bộ cho toàn dân dẫn đến độc lập dân tộc và thông nhất đất nước Việt Nam (theo GS Nguyễn Đăng Hưng). (NTS 12.11.2018)./.
Ảnh 1: A. de Rhodes (1591-1660). 2. Từ điển Việt-Bồ-Latin, Rome, 1651. 3. Hoàng Xuân Hãn (1908-1996). 4. Tên phố ở TP HCM.
7) Tiến sĩ Trần Thanh Ái ngày 5 tháng 8 năm 2019 đã công bố kết quả “Alexandre de Rhodes có nói như thế không?” trên Nghiên cứu Lịch sử (bài đã đăng trên tạp chí Xưa và Nay, số tháng 5 năm 2019) trích dẫn toàn văn dưới đây
Alexandre de Rhodes có nói như thế không?
TS Trần Thanh Ái
Từ một câu trích dẫn không rõ ràng…
Năm 1993, Vương Đình Chữ có bài viết “Một ngộ nhận về Alexandre de Rhodes”, đăng trên Công Giáo và Dân tộc số 901 ngày 4/4/1993, (trang 18-19) và năm 2006 Nguyễn Đình Đầu có bài báo “Dân ta phải biết sử ta”, đăng trên Công giáo và Dân tộc, số 1582 ngày 9/11/2006, (trang 35) đề cập đến một câu trích sau đây:
“Đây là một vị trí cần được chiếm lấy và chiếm được vị trí này thì thương gia Âu châu sẽ tìm được một nguồn lợi nhuận và tài nguyên phong phú”
Câu trích này được tìm thấy ở trang 304 quyển Lịch sử Việt Nam, tập 1, do Ủy ban KHXH Việt Nam xuất bản tại Hà nội năm 1971, với ghi chú là trích từ quyển Divers voyages et missions en Chine et autres royaumes de l’Orient (Những cuộc hành trình và truyền giáo ở Trung Quốc và các vương quốc khác ở phương Đông) của Alexandre de Rhodes, Paris, 1653, tr. 109-110. Câu trích dẫn và nhất là thông tin trong ghi chú trên đây đã khiến nhiều nhà nghiên cứu sử học cho rằng Alexandre de Rhodes có ý đồ thực dân. Để làm sáng tỏ vấn đề, Nguyễn Đình Đầu đã tìm đọc hai trang 109-110 của tài liệu trên và cả bản tiếng Việt Hành trình và truyền đạo do Hồng Nhuệ dịch[1], và đi đến kết luận là “không hề thấy câu nói sặc mùi đế quốc thực dân ấy, ngoại trừ những lời lẽ và thái độ quý mến dân tộc và trọng kính chính quyền cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài của xứ ta đương thời”. Từ đó đến nay chưa thấy bài viết nào làm sáng tỏ nguồn gốc câu trích dẫn trên đây. Gần đây, khi có được các bản tiếng Pháp in lần đầu năm 1653, lần thứ hai năm 1666 và cả bản in năm 1854 của quyển sách nói trên, chúng tôi cũng đã bỏ công tìm tòi đối chiếu, nhưng tuyệt nhiên không tìm ra một dòng nào có ý tương tự như câu trích dẫn bên trên.
Vậy từ đâu mà có câu trích dẫn đó? Có phải câu đó là của Alexandre de Rhodes không? Nếu phải thì nó nằm ở tài liệu nào? Còn nếu không phải của Alexandre de Rhodes thì nó được trích dẫn từ đâu?
Đến những suy luận võ đoán
Roland J. cho rằng đoạn “được gọi là trích dẫn đó” chỉ là một sự sáng tạo (invention) của Thomazi mà thôi (1998, tr.42), hay nói khác hơn, đó là một sự bịa đặt! Nếu chấp nhận cách diễn giải của Roland J. thì vô hình trung cho rằng tác giả này đã cố tình vu khống Alexandre de Rhodes ! Đó là điều vô cùng tồi tệ đối với các nhà khoa học ! Vì không thể dễ dãi đồng tình với Roland J., chúng tôi nghĩ rằng cần phải làm sáng tỏ nguồn gốc của câu trích dẫn trên.
Năm 2012, trong một tham luận trình bày tại hội thảo khoa học Côn Đảo – 150 năm đấu tranh xây dựng và phát triển (1862-2012), có đoạn sau đây:
“Hơn 25 năm sống ở nước ta, lúc vào Nam, lúc ra Bắc, ông [A. de Rhodes] đã mang về Pháp một tấm bản đồ đầu tiên về xứ này và cho in tại Lyon cuốn Từ điển Việt – Bồ – La, Hành trình truyền đạo và lịch sử xứ Đàng Ngoài, trong đó ông đã nhận định: « Ở đây, có một chỗ cần chiếm lấy và đặt cơ sở tại đó, thương nhân châu Âu có thể tìm thấy một nguồn lợi phong phú tiền lời và của cải » [5]. « Chỗ cần chiếm lấy » ấy chính là Côn Đảo.” (Lục Minh Tuấn – Thái Vĩnh Trân, 2012, tr.125).
Chú thích [5] của hai tác giả trên đây cho ta biết là đoạn văn đứng trước được trích từ trang 7 của một tư liệu mang ký hiệu VT 306 ABC, do Khoa Lịch sử trường Đại học KHXH&NV biên dịch, có tên là Cuộc chinh phục xứ Đông Dương, của tác giả A. Thomazi. Đó là bản dịch của quyển La conquête de l’Indochine của A. Thomazi, do Payot xuất bản lần đầu tại Paris năm 1934. Nguyên văn của câu trên như sau: “Il y a là, écrivait-il, une place à prendre, et, en s’y établissant, des marchands d’Europe pourraient y trouver une source féconde de profits et de richesse.”
Để làm sáng tỏ ngữ cảnh của câu trên, chúng tôi chép lại cả đoạn văn gồm câu đứng trước và câu đứng sau :
En Annam comme au Siam, les premiers Français que l’on vit furent des missionnaires. Le Père Alexandre de Rhodes aborda en Cochinchine en 1624, passa vingt-cinq ans dans ce pays et au Tonkin ; il en rapporta la première carte du pays, un dictionnaire annamite – latin – portugais, une histoire du Tonkin, et signala les possibilités qui s’offraient au commerce. « Il y a là, écrivait-il, une place à prendre, et, en s’y établissant, des marchands d’Europe pourraient y trouver une source féconde de profits et de richesse. » De nombreux prêtres, puis des agents de la Compagnie des Indes, confirmèrent ses dires. (Thomazi A., 1934, tr.13)
Nghĩa của đoạn văn này như sau:
Ở An Nam cũng như ở Xiêm [ngày nay là Thái Lan], những người Pháp đầu tiên mà người ta gặp là các nhà truyền giáo. Cha Alexandre de Rhodes đến Đàng Trong năm 1624, sống 25 năm ở đó và ở Đàng Ngoài; từ đây ông đã mang về [Pháp] tấm bản đồ đầu tiên của nước này, một từ điển Việt – La tinh – Bồ Đào Nha[2], một quyển lịch sử xứ Đàng Ngoài, và đã lưu ý đến những khả năng mở ra cho việc thương mãi. “Ở đó, ông viết, có một chỗ cần chiếm, và khi đặt cơ sở tại đó, thương nhân châu Âu có thể tìm thấy một nguồn lợi phong phú gồm lợi nhuận và tài nguyên.” Nhiều linh mục và kế đến là các đại diện của Công ty Đông Ấn đều khẳng định nhận xét của ông.
Trong ngữ cảnh trên, với cụm từ “écrivait-il” (“ông viết”) được đặt chen vào câu trích dẫn trong ngoặc kép “…”, và nhất là hai từ “ses dires” (“lời nói, câu nói của ông”) thì người đọc hiểu là Thomazi thông báo rằng lời nói trực tiếp này là của Alexandre de Rhodes. Tuy nhiên tác giả không hề ghi chú câu trên được trích dẫn từ tài liệu nào, trang nào[3]. Roland J. thì cho biết rằng Thomazi có ghi chú đoạn trên đây được trích từ quyển Divers voyages et missions du P. Alexandre de Rhodes en la Chine,& autres Royaumes de l’Orient kèm theo số trang (tr.42, ghi chú 77)
Đâu là sự thật ?
Truy tìm các tài liệu xuất bản trước năm 1934 (năm Thomazi xuất bản quyển La conquête de l’Indochine), chúng tôi bắt gặp đoạn văn sau đây trong quyển Les commencements de l’Indo-Chine française của A. Septans xuất bản năm 1887 (Nxb Challamel Ainé):
« En parlant du Tong-Kin, le P. Alexandre de Rhodes traite longuement du commerce. Pour lui, le Tong-Kin, par sa situation, son voisinage avec la Chine, se prête merveilleusement aux entreprises et peut devenir le siège de transactions importantes. Les Chinois y venaient en grand nombre, ils y apportaient des porcelaines, des toiles peintes et en tiraient des soieries et du bois d’aloès. Les Japonais s’y livraient autrefois à un trafic considérable, mais depuis vingt-cinq ans, ils avaient cessé de paraître dans le pays, il y avait ainsi une place à prendre et, en s’y établissant, des marchands d’Europe pouvaient y trouver une source féconde de profits et de richesses (2). » (tr.48)
(Khi nói về xứ Đàng Ngoài, cha Alexandre de Rhodes đề cập nhiều đến thương mãi. Đối với ông, xứ Đàng Ngoài vô cùng thuận lợi cho việc kinh doanh và có thể trở thành địa điểm giao dịch quan trọng. Đông đảo người Trung Hoa đến đó, họ mang đến đồ gốm sứ, vải hoa và mua tơ lụa và gỗ trầm hương. Trước kia, người Nhật đến đây buôn bán rất lớn, nhưng từ 25 năm, họ đã ngừng đến xứ này, vì thế có một chỗ cần chiếm lấy và, khi đã đặt chân đến đây, các thương nhân châu Âu có thể tìm thấy một nguồn phong phú gồm lợi nhuận và tài nguyên)
Đoạn văn này được Septans ghi ở phần chú thích số 2 (trang 48) là idem., bên dưới chú thích 1 là “Castonnet-Desfossés, déjà cité”, tức là muốn nói đến tài liệu “Les relations de la France avec le Tong-kin et la Cochinchine” (Quan hệ của Pháp với xứ Đàng Ngoài và Đàng Trong) của Castonnet-Desfossés đăng trong Bulletin de la société académique indochinoise de France, số 2, 1883.
Trong bài viết của Castonnet-Desfossés, đoạn văn trên đây nằm ở trang 81. Đó không phải là trích dẫn của Alexandre de Rhodes, mà là của chính tác giả. Sau khi đã tóm tắt ý chính của chương XVI có tựa là “Du Traffiq, & des Marchandises des Tunquìnois” (từ trang 56-58) của quyển Histoire du Royavme de Tvnqvin của Alexandre de Rhodes, là phần nói về việc thương mãi của xứ Đàng ngoài vào những năm 1627-1646, Castonnet-Desfossés đã đi đến suy luận đó là “một chỗ cần chiếm lấy”. Cũng theo chiều hướng suy luận ấy, độc giả còn đọc được một câu tương tự của Castonnet-Desfossés khi nói về các bản tường trình của linh mục Tissanier[4] sau khi đã lưu trú tại xứ Đàng Ngoài 3 năm, từ 1658 đến 1660 :
“Pour le P. Tissanier, le Tong-Kin est un pays d’avenir et doit, tôt ou tard, attirer l’attention des Européens. La fertilité de son sol, les cours d’eau qui l’arrosent et facilitent les communications, le voisinage de la Chine annonçaient que cette contrée serait un jour des plus florissantes et deviendrait dans la suite le siège d’un commerce actif. Si l’on s’en rapporte au P. Tissanier, l’établissement des Européens dans ce pays n’était qu’une affaire de temps” (tr.82).
“Đối với cha Tissanier, xứ Đàng Ngoài là một xứ sở của tương lai, và sớm hay muộn, sẽ thu hút sự chú ý của người châu Âu. Đất đai phì nhiêu, sông ngòi thuận tiện cho việc lưu thông, vị trí gần gũi với Trung Hoa báo trước rằng tương lai vùng này sẽ là một vùng trù phú và sẽ trở thành một trung tâm thương mại nhộn nhịp. Nếu ta tin lời cha Tissanier, việc người châu Âu đặt chân đến xứ này chỉ là vấn đề thời gian” (tr.82).
Như vậy “sự cố trích dẫn” này xuất phát từ Thomazi : ông đã nhầm lẫn khi đọc được trong quyển Les commencements de l’Indo-Chine française (Paris, Nxb Challamel Ainé) của A. Septans một trích dẫn từ bài viết của Castonnet-Desfossés, rồi vội gán cho Alexandre de Rhodes bằng cách thêm vào các chữ “écrivait-il” và “ses dires”. Sự nhầm lẫn này cũng còn bắt nguồn từ cách trình bày kém rõ ràng của Septans : sau khi viết câu “Son Histoire duTonkin a été publiée en latin à Lyon en 1652” (Quyển Lịch sử xứ Đàng Ngoài
[của Alexandre de Rhodes]
đã được xuất bản bằng tiếng la tinh ở Lyon năm 1652), Septans liền ghi câu trích của Castonnet-Desfossés khiến người đọc dễ nhầm lẫn đó là của Alexandre de Rhodes !
Cũng cần nói thêm là quyển Lịch sử xứ Đàng Ngoài của Alexandre de Rhodes không hề đề cập đến Côn Đảo như hai tác giả Lục Minh Tuấn – Thái Vĩnh Trân đã suy luận .“Chỗ cần chiếm lấy ấy chính là Côn Đảo” như trong tham luận đã nói bên trên. Như đã giới thiệu bên trên, chẳng những đoạn trích dẫn đang bàn không phải do Alexandre De Rhodes viết, mà nó cũng không có liên quan đến Côn Đảo, tên Poulo Condore hay Pulo Condor không hề xuất hiện trong bất cứ quyển sách nào của de Rhodes, và quyển Histoire dv Royavme de Tvnqvin chỉ nói về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và tôn giáo của Đàng Ngoài mà thôi.
Tóm lại, Alexandre de Rhodes không hề viết câu “Đây là một vị trí cần được chiếm lấy và chiếm được vị trí này thì thương gia Âu châu sẽ tìm được một nguồn lợi nhuận và tài nguyên phong phú” trong các tác phẩm của ông. Sự nhầm lẫn tai hại này bắt đầu từ A. Thomazi khi ông đã biến một suy luận của người đời sau thành phát biểu của Alexandre de Rhodes. Nguy hiểm hơn nữa, từ sự nhầm lẫn này mà đã có người suy diễn đến việc Pháp chiếm Côn Đảo hai trăm năm sau.
(bài đã đăng trên tạp chí Xưa và Nay, số tháng 5 năm 2019)
Tài liệu tham khảo
Castonnet-Desfossés H., 1883: Les relations de la France avec le Tong-kin et la Cochinchine, d’après les documents inédits des Archives du ministère de la Marine et des Colonies et des Archives du Dépôt des cartes et plans de la marine, trong Bulletin de la société académique indo-chinoise de France, số 2, 1882-1883.
Lục Minh Tuấn – Thái Vĩnh Trân, 2012. Về nhận thức của người Pháp đối với Côn Đảo trước năm 1862, trong Côn Đảo 150 năm đấu tranh xây dựng và phát triểm (1862 – 2012) (Kỷ yếu hội thảo khoa học. Hà Nội, Nxb Chính trị quốc gia – Sự Thật.
de Rhodes A. 1651. Histoire dv Royavme de Tvnqvin, bản dịch tiếng Pháp của Henry Albi. Lyon, Chez Iean Baptiste Devenet.
Roland J. 1998. Le Portugal et la romanisation de la langue vietnamienne. Faut-il réécrire l’histoire? đăng trong tạp chí Revue françaised’histoire d’outre-mer, quyển 85, số 318, quý 1 năm 1998.
Septans A. 1887. Les commencements de l’Indo-Chine française. Paris, Nxb Challamel Ainé.
Thomazi A. 1934. La conquête de l’Indochine. Paris: Payot.
Chú thích:
[1] Bản tiếng Việt do Hồng Nhuệ dịch quyển Divers voyages et missions du P. Alexandre de Rhodes en la Chine,& autres Royaumes de l’Orient, Uỷ ban Đoàn kết Công giáo Tp Hồ Chí Minh xuất bản, 1994.
[2] Thomazi viết sai: tên từ điển bằng tiếng la-tinh là Dictionarivm Annamiticvm Lvsitanvm, et Latinvm, xuất bản tại La Mã năm 1651. Tài liệu bằng tiếng Việt thường gọi là Từ điển Việt – Bồ – La.
[3] Quyển La conquête de l’Indochine của Thomazi mà chúng tôi tham khảo do Nhà xuất bản Payot (Paris) xuất bản năm 1934 không có ghi chú nào về tài liệu được trích dẫn.
[4]Relation du voyage du P. Joseph Tissanier, Edme Martin xuất bản năm 1663.
8) Thư ngỏ của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân sau khi bị khủng bố tinh thần vì phản đối vinh danh Đờ Rốt (Trích dẫn bởi Ngô Mạnh HùngTheo dõi 26 tháng 12, 2019):
“NẾU NHẦM LẪN THÌ XIN LỖI VÀ IM LẶNG”
Thân gởi GS. Nguyễn Đăng Hưng, Viện trưởng Viện Vinh danh Chữ Quốc Ngữ và Bảo tồn tiếng Việt, trường Đại học Duy Tân, Tp. Đà Nẵng
Anh Hưng thân, Sau khi anh thấy tên tôi trong bản kiến nghị do một nhóm thầy giáo và các nhà nghiên cứu Văn hóa Lịch sử ở Huế, Hà Nội và TP HCM gởi cho lãnh đạo Thành phố Đà Nẵng, đề nghị không nên lấy tên hai vị Linh mục Francisco de Pina (Pi-na) và Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) đặt tên cho hai con đường mới ở Thành phố Đà Nẵng, anh đã gọi điện thoại cho tôi bảo tôi “sai” rồi và vào ngày 28-11-2019, anh và ông Nguyễn Huy Cường nào đó còn gởi thư cho tôi với nhan đề “Nếu nhầm lẫn thì xin lỗi và im lặng”.
Anh Nguyễn Đăng Hưng, Với hơn nửa thế kỷ cầm bút, tham gia phản biện hàng chục đề tài với nhiều thể loại, nhiều cấp khác nhau nhưng chưa bao giờ tôi nhận được những lời cảnh báo “sốc” đến như vậy. Thông thường mỗi khi gặp một trường hợp phản biện tôi luôn phản biện lại ngay để bảo vệ ý tưởng của mình. Nhưng đối với lá thư của anh (và ông Nguyễn Huy Cường nào đó), một người bạn thân nhau từ hơn ¼ thế kỷ qua, tôi “im lặng” nhưng không xin lỗi. Xin lỗi ai? Và xin lỗi cái gì?
Với tư cách là một người cầm bút thân thiết với Thành phố Đà Nẵng, năm 1998, tôi đã từng phản biện giúp ông Nguyễn Bá Thanh, lúc đó là Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố Đà Nẵng xóa bỏ tên ông Nguyễn Hiển Dĩnh đã đặt cho con đường song song với đường 2 Tháng 9 ở Đà Nẵng ngày nay, nên tôi đã không ngần ngại tham gia vào Bản kiến nghị nói trên. Và lãnh đạo Thành phố Đà Nẵng đã có thư phản hồi cám ơn những người có tên trong “Bản Kiến nghị” và đồng ý (hứa) “chưa đặt tên đường hai vị linh mục lần nầy”. Như vậy, Bản Kiến Nghị của chúng tôi có kết quả. Việc kiến nghị như thế đã xong rồi. Nếu sau nầy, Thành phố Đà Nẵng bỏ qua lời hứa với chúng tôi, họ lại dùng tên hai vị linh mục ấy đặt tên đường thì chúng tôi mới cung cấp thêm thông tin và kiến nghị tiếp). Chúng tôi phải lo công việc khác của mình chứ! Vì thế, tôi không biết tôi nhầm chuyện gì và phải xin lỗi ai? Sở dĩ cho đến nay tôi im lặng không phải vì lời cảnh báo rất sốc của các anh mà chính vì những lý do sau đây:
– Con cháu trong gia đình anh Cả tôi, gia đình tôi, gia đình em trai tôi, gia đình em gái tôi đều có người làm dâu trong các gia đình Thiên Chúa giáo. Bây giờ lật lại nói chuyện hay, chuyện không hay của các linh mục Thiên Chúa giáo thật không nên chút nào;
– Những trang đen trong lịch sử dân tộc tưởng đã giao cho lịch sử để bây giờ sống trong hiện tại, tự nhiên các anh bươi chuyện Đắc Lộ ra, không khéo lại “tóa lọa lọa” gây mất đoàn kết dân tộc trong lúc giặc Tàu đang rập rình cướp đất, cướp đảo ngoài Biển Đông, giữ được im lặng chuyện Đắc Lộ là phải;
– Bỏ một đời nghiên cứu, học hỏi, trải nghiệm, được học, được gặp gỡ tiếp xúc trao đổi với các bậc thức giả hàng đầu về văn hóa lịch sử, trong đó có nhiều vị là tín đồ Thiên Chúa giáo, nói đâu có tài liệu kèm theo đó,… lẽ nào lại quên hết để đi đôi co với những người mới đầu hôm sáng mai điếc không sợ súng lên mặt dạy đời sao?
Nhưng rồi do hoàn cảnh thúc ép, tôi cũng chỉ có thể giữ im lặng cho đến đây thôi. Tôi viết lá thư nầy gởi đến anh không có ý đề cập đến 6 vấn đề chúng tôi đã nêu lên trong bản Kiến nghị gởi cho Thành phố Đà Nẵng mà chỉ trao đổi với người bạn vừa nhận chức Viện trưởng Viện Vinh danh Chữ Quốc ngữ và Bảo tồn tiếng Việt, Đại học Duy Tân thôi.
Anh Hưng ơi! Anh có mời tôi xem cuốn phim “Chuyến đi Iran thăm mộ Đắc Lộ” của anh trên Net. Tôi đã xem và giới thiệu với các bạn tôi cùng xem. Cảm tưởng đầu tiên của tôi là các anh đã làm rõ được nơi an nghỉ cuối cùng của một vị linh mục có tên trong lịch sử CQN, có công lớn trong việc truyền Đạo Thiên Chúa vào VN. Một người nổi tiếng như thế mà các Giáo hoàng Vatican bỏ rơi ông ở một nơi hiu quạnh như thế thật bất nhẫn. Và không hiểu có biết bao linh mục, giáo dân giàu có mà xưa nay đã có ai đến viếng mộ ông Đắc Lộ chưa (?). Bài diễn văn của anh trong buổi lễ có nhiều chuyện không đúng nhưng đó là chuyện của anh tôi không nhắc lại ở đây.
1. Nhưng tôi thật bất ngờ trong diễn văn anh cho biết các anh đã khắc một tấm bia ghi ơn đặt ở ngôi mộ linh mục Đắc Lộ với nội dung “CHỮ QUỐC NGỮ CÒN, TIẾNG VIỆT CÒN, NƯỚC VIỆT NAM CÒN”. Như vậy ngày nay tiếng Việt còn, nước Việt Nam còn là nhờ CQN của linh mục Đắc Lộ. Một khám phá vô tiền khoáng hậu. Như vậy bảo vệ CQN của linh mục Đắc Lộ là bảo vệ Việt Nam. CQN của Đắc Lộ có một nhiệm vụ thiêng liêng như thế cho nên anh mới dành cả tuổi già của mình làm “Viện trưởng Viện Vinh danh Chữ Quốc Ngữ….”. Các nước Lào, Căm-pu-chia, Thái Lan, Miến Điện, Trung Quốc Nhật Bản, Hàn Quốc không dùng chữ nước họ được la tinh hóa như CQN VN, không rõ được thế lực nào đã bảo vệ mà các nước ấy đều sốn ngon lành như ngày nay. Có hai việc cần nhắc ông Viện trưởng sau đây:
1.1. Anh đã cóp và sửa ý tưởng khắc ở khu lăng mộ cụ Phạn Quỳnh ở ấp Bình An, phường Trường An, TP Huế – địa điểm có dấu tích Cung điện Đan Dương thân thiết của tôi trên 1/3 thế kỷ qua. Nguyên văn của cụ Phạm Quỳnh trên bia đá là: “Truyện Kiều còn tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn”. Anh sửa lại “CHỮ QUỐC NGỮ CÒN, TIẾNG VIỆT CÒN, NƯỚC VIỆT NAM CÒN” và khắc lên đá Non Nước đem qua dựng bên mộ linh mục Đắc Lộ ở Iran. Thực hiện việc làm nầy anh mắc hai lỗi trọng: 1. Lỗi ăn cắp ý tưởng của người khác sửa lại làm ý tưởng của anh; 2. Theo anh nước Việt Nam ngày nay còn là nhờ CQN của linh mục Đắc Lộ. Điều đó có nghĩa anh xóa hết công lao xương máu của bao thế hệ trường kỳ kháng chiến từ Ngày thất thủ Kinh đô vua Hàm Nghi xuất bôn với Phong trào cần vương (1885) cho đến ngày thông nhất đất nước (1975) – ròng rã suốt 90 năm. Người ngoại quốc đọc tấm bia làm ô nhục dân tộc VN đó họ sẽ nghĩ như thế nào? Với tư cách là môt công dân VN; tôi đề nghị anh nhờ người hủy tấm bia đá đó kẻo xấu hổ lắm;
1.2. Anh không phân biệt được “tiếng” và chữ viết. Có ai đó gọi tên anh, người học chữ Hán và chữ Nôm ghi ngay 登興, người học CQN ghi “Đăng Hưng”. Tiếng của một dân tộc không thay đổi, luôn tồn tại và phát triển, nó có âm điệu, có nhạc (nhất là tiếng VN), còn chữ chỉ là hệ thống các ký hiệu để ghi lại ngôn ngữ theo dạng văn bản. Tiếng không thay đổi, chữ viết có thể thay đổi qua thời gian như chữ Hán, chữ Nôm, chữ CQN của ta vậy. Trong ngành bưu điện hay ngành truyền tin quân đội trước đây người ta còn dùng ký hiệu điện báo móoc (morse) nữa.
Tiếng nói mới là tâm hồn dân tộc. Cả một kho tàng ca dao tục ngữ, dân ca khắp ba miền truyền khẩu qua bao đời nay có chữ chiếc gì đâu. Tôi không ngờ anh không phân biệt được hai lãnh vực “tiếng” và “chữ” nên mới đem Tình Ca của Phạm Duy “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời…” ra hát bên mộ giáo sĩ Đắc Lộ – tác giả Tự điển Việt Bồ La. Con nít mới ra đời được nghe lời ru của mẹ từ ca dao, dân ca chứ làm gì có chuyện trẻ con còn nằm trong nôi đã biết CQN của linh mục Đắc Lộ của anh? Nếu Phạm Duy biết chuyện nầy sớm có lẽ nhạc sĩ không cho phép tôi đưa anh đến thăm Phạm Duy năm ấy.
2. Trong buổi lễ nhớ ơn Đắc Lộ, các anh đã tôn vinh sách Phép Giảng Tám Ngày của linh mục Đắc Lộ. Nội dung ngày thứ tư, Đắc Lộ đã mạ lỵ, xúc phạm hết sức thô bạo:
– Ngày Thứ tư, Đạo bụt: “giáo ngoài và giáo trong” (tr.101 và 102). Gọi Phật bằng nó, thóa mạ, miệt thị Đạo Phật là đạo gian, đạo dối trá, đạo Phật dày đặc những truyện giả, xiêu dối thế gian nên phạm tội lỗi, đạo Phật là đạo “rợ mọi”, theo đạo Phật là quỷ quái, ai theo đạo Phật là ngu, thờ Phật là đứa gian, ai tin Phật, không tin chúa là phạm mọi tội.v.v.
– Ngày Thứ tư, mục “Những sự dối trá của Thích Ca về linh hồn ta”. (Tr.110-111). Phê phán tục cúng ông bà tổ tiên của Việt Nam.
– Ngày Thứ tư, mục “Những điều lầm lỗi trong việc thờ cúng cha mẹ” (Tr.112, 113). Cúng cha mẹ chết là có lỗi.
Anh tôn vinh Phép Giảng Tám Ngày, tức là anh tôn vinh cho quan điểm trịch thượng bất kính ngạo mạng của linh mục Đắc Lộ đối với giáo chủ của các tôn giáo khác. Trong Phép Giảng Tám Ngày có 9 lần Đắc Lộ nói đến “Thích Ca”, 3 lần dùng chữ “rợ mọi” đối với Đạo Bụt (Đạo Phật), 20 lần nói đến “đạo bụt” với tính cách miệt thị, dạy con chiên gọi những người thờ Bụt (Phật) là “giáo ngoài”, con chiên gọi người khác đạo là “ngoại giáo”.
Anh tôn vinh Phép Giảng Tám Ngày, xóa bỏ hoàn toàn đời sống văn hóa tâm linh Việt Nam của linh mục Đắc Lộ. Từ nay, anh có thể không vào bất cứ nơi nào thờ Phật Thích Ca trên thế giới nầy nữa, nhưng lẽ nào anh đập bàn thờ tổ tiên, không giỗ chạp cúng bái cha mẹ nữa được sao? Anh không biết Cộng đồng Vatican 2 (từ 1962 đến 1965) đã cho phục hồi việc thờ cúng ông bà cha mẹ của giáo dân ở VN rồi sao?
Trong HTKH Mừng 400 năm Dòng Tên, …có hai báo cáo, báo cáo thứ hai mang tựa đề “Cái nhìn về các tôn giáo theo sách giáo lý (Cathechismus Phép Giảng Tám Ngày) của cha Đắc Lộ” của linh mục. Anton Nguyễn Cao Siêu S.J. trình bày. Tác giả đã kết luận tham luận “Phép Giảng Tám Ngày” là một cuốn sách giáo lý nhằm dạy cho những ai muốn chịu phép rửa tội mà vào đạo thánh Đức Chúa Trời. Đối với Đắc Lộ, chỉ Kitô giáo mới là đạo thật, giúp con người được ơn tha tội và có sự sống vĩnh hằng. Chính từ xác tín này mà Đắc Lộ nhìn các tôn giáo trên đất An Nam: Đạo thờ ông bà của người Việt, cũng như đạo Nho, đạo Lão, đạo Phật. Khi giảng cho người dự tòng, Đắc Lộ muốn đề cao cái hay của đạo mới, nên nhấn mạnh đến những điều mà Ông cho là không đúng, không hay nơi các tôn giáo khác. Hơn nữa, cái nhìn của Đắc Lộ, một thừa sai Tây phương ở thế kỷ 17, cũng chịu ảnh hưởng của nền thần học thời đó về ơn cứu độ. Đối với chúng ta hôm nay, cái nhìn này có những giới hạn và sai sót, cả trong nội dung lẫn cách trình bày. Chúng ta phải đợi Công Đồng Chung Vaticanô II mới có được cái nhìn tích cực hơn về các tôn giáo ngoài Kitô giáo”.
Như vậy, từ Công đồng Vatican 2 (từ 1962 đến 1965), cách đây trên nửa thế kỷ TCG đã chính thức nhận sai lầm của Đắc Lộ trong Phép Giảng Tám Ngày đối với Việt Nam, sao giờ nầy anh còn tôn vinh Phép Giảng Tám Ngày say sưa đến vậy? Anh có biết nhiều linh mục Thiên Chúa giáo học Phật Thiền Chánh Niệm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh vừa giảng ở các Nhà thờ, vừa làm Giáo thọ ở Trung tâm Phật giáo Làng Mai, Pháp quốc không?
3. Anh tôn vinh cuốn Tự điển Việt Bồ La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum) của linh mục Đắc Lộ. Như anh đã biết phần Việt Bồ là sản phẩm của những người đi trước linh mục Đắc Lộ như Gaspar do Amaral, Antonio Barbosa, Francisco de Pina – những bậc thầy của linh mục Đắc Lộ. Phần La tinh Đắc Lộ thêm vào theo lệnh của Vatican. Tự điển Việt Bồ La là công cụ trang bị cho các Thừa sai Thiên Chúa giáo người Bồ, người sử dụng tiếng La tinh đi truyền giáo ở VN, để cải đạo người VN theo Phép Giảng Tám Ngày.
Ngoài các Linh mục người Việt, những ai trong xã hội VN xưa nay đã biết, đã sử dụng cuốn Tự điển ấy? Sử dụng vào việc gì? Một công cụ giúp cho các Thừa sai Thiên Chúa giáo đánh vào văn hóa, vào đời sống tâm linh của người Việt Nam, tại sao ta phải cám ơn người làm ra công cụ ấy? Đời thuở nào một người có văn hóa đi cám ơn người đã chế tác ra “bom” rải thảm lên nền văn hóa của dân tộc mình như thế? Anh sẽ trả lời con cháu anh như thế nào? Phải chăng như anh đang rao giảng lâu nay vì linh mục Đắc Lộ đã có công “tạo tác chữ quốc ngữ” như lời anh khắc trên bia dựng ở mộ Giáo sĩ Đắc Lộ bên Iran?
3.1. Xét về mặt đạo đức của người biên soạn sách, người làm tự điển của linh mục Đắc Lộ), chúng tôi đã viết trong Kiến nghị gởi Thành phố Đà Nẵng đề ngày 23-10-2019. Nay tôi mách thêm cho ông Viện trưởng Viện Vinh danh Chữ Quốc ngữ cái giá trị đích thực của cái công cụ truyền giáo bằng CQN của linh mục Đắc Lộ hồi ấy như sau:
* GS.TS. Nguyễn Văn Trung – một người tu xuất, nguyên Khoa trưởng ĐH Văn khoa đầu tiên của Viện Đại học Huế, tác giả cuốn sách Chủ Nghĩa Thực Dân Pháp Ở Việt Nam – Thực Chất Và Huyền Thoại (Nam Sơn, Sài Gòn, 1963), người rất nổi tiếng trước năm 1975 ở miền Nam, ông đã tham khảo hai cuốn sách của Toàn quyền Đông Dương (1891-1894) de Lanesan:
– L’Expansion coloniale de la France: étude économique, politique et géographique sur les établissements français d’outre-mer (1886) (Sự mở rộng thuộc địa của Pháp: Nghiên cứu kinh tế, chính trị và địa lý về định cư ở nước ngoài của Pháp (1886).
– L’Indo-Chine française, étude politique, économique et adminis -trative sur la Cochinchine, le Cambodge, l’Annam et le Tonkin (1889) (Đông Pháp, nghiên cứu chính trị, kinh tế và hành chính ở Nam Kỳ, Campuchia, Annam và Bắc Kỳ (1889); Trong mục Thái độ đối xử với người bản xứ, về phương diện tôn trọng người, của cải, tôn giáo, phong tục, tập quán xã hội (tr.114), tác giả Nguyễn Văn Trung viết:
“Theo Lanessan, các vị thừa-sai Công-giáo thường nhắm quần –chúng, dân quê, bần cùng nghèo khổ, hoặc kẻ trộm cướp để giảng đạo. Nói cách khác, người công-giáo thường thuộc thành phần những giai cấp thấp hèn nhất trong xã-hội. Những người này thường được tập-hợp lại thành làng xóm riêng, tách khỏi đoàn-thể dân-tộc. Lý do cô lập các làng theo đạo ở tại các thừa sai sợ người theo đạo giao-thiệp với người Lương có thể quay lại những phong-tục lễ-nghi ngoại đạo. Cũng vì lý-do sợ đó mà họ đã tạo ra chữ quốc-ngữ, chủ-đích là để giáo dân khi biết đọc chữ quốc-ngữ, thì chỉ biết đọc sách báo đạo mà thôi, trái lại để cho họ học chữ nho, sợ họ có thể thông cảm lại với tư tưởng ngoại-giáo. Thành ra việc sáng lập chữ Quốc-ngữ phải chăng nhằm một mục đích “ngu dân” ly- khai với văn-hóa dân tộc?”.
3.2. CQN của linh mục Đắc Lộ là một công cụ truyền giáo “nhằm quần – chúng, dân quê, bần cùng nghèo khổ, hoặc kẻ trộm cướp để giảng đạo”, ngoài ra không có ảnh hưởng, không có tác động gì đối với dân chúng ngoại đạo Thiên Chúa, đối với tầng lớp Nho sĩ, tầng lớp quan lại của hai xứ Đàng Trong và Đàng Ngoài (dù hai xứ nầy đối nghịch nhau).
Cả hai Đàng đều trục xuất Đắc Lộ ra khỏi nước Nam. Nghiên cứu Lịch Sử Văn học Công Giáo Việt Nam của Võ Long Tê khẳng định: Từ khi có Phép Giảng Tám Ngày và Tự điển Việt Bồ La (1651) cho đến ngày Việt Nam hoàn toàn bị mất vào tay thực dân Pháp (1885 – Thất Thủ Kinh Đô), trên hơn 200 năm ấy không thấy có bất cứ một tác phẩm văn học nào bằng CQN của linh mục Đắc Lộ trong đời sống người dân Việt cả. (Nếu có cũng chỉ phổ biến trong các nhà thờ mà thôi). Các tác giả Việt Nam, trong thời gian hơn 200 năm ấy, không hề biết trong các nhà thờ Thiên Chúa giáo lớn ở VN đang có Phép Giảng Tám Ngày và Tự điển Việt Bồ La bằng CQN của linh mục Đắc Lộ.
Các tác giả Việt Nam cứ tiếp tục sử dụng chữ Hán Nôm của cha ông mình đã sử dụng, sáng tác nên các tác phẩm bất hủ trong cổ Văn học sử Việt Nam như Truyện Hoa Tiên, Tụng Tây Hồ Phú, Sãi Vãi, Hoài Nam Khúc, Ai Tư Vãn, Nhị Độ Mai, Cung Oán Ngâm Khúc, Chinh Phụ Ngâm v.v.. Đặc biệt, Truyện Kiều của Nguyễn Du. Nếu VN không mất nước, không bị thực dân Pháp và Thiên Chúa giáo bắt buộc phải bỏ chữ Hán, bỏ chữ Nôm, thay vào đó bằng CQN thì Đắc Lộ và các sách của ông ấy cũng cùng chung số phận bị lãng quên như các Tự điển La tinh hóa chữ Nhật, chữ Tàu không còn ai nhắc đến nữa.
3.3. Vì sao các nước Nhật Bản, Trung Quốc loại bỏ chữ la-tinh hóa mà VN thì vẫn giữ chữ Việt la-tinh hóa cho đến ngày nay? Để trả lời câu hỏi nầy, Giáo sư Cao Huy Thuần – Giáo sư Đại học ở Pháp, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu về Liên Hiệp Âu Châu tại Đại học Amiens. Năm 1990, với sự bảo trợ của Đại học Yale, ông đã xuất bản Luận án Tiến sĩ Quốc gia Pháp: Les missionnaires et la politique coloniale francaise au Viêt Nam (1857 1914). Tại Chương IX: Văn thư và tin tức tình báo của Giám mục Puginier (gởi cho thực dân Pháp) (tr. 276-303)…. Có chú thích “Notes sur la question du Tong-King,” Mars 1884. Archives du ministers de la F.O.M., AOO (30) ou N.F.54.
Tác giả Cao Huy Thuần chuyển ngữ văn bản của Giám mục Puginier qua CQN như sau: “Điều thứ hai phải làm, chính là bãi bỏ chữ Nho và thay thế, lúc đầu, bằng tiếng Việt Nam viết theo kiểu người Âu, gọi là Quốc ngữ, rồi sau đó, bằng tiếng Pháp. Không có cách nào hữu hiệu hơn cách này để tiêu diệt tinh thần đạo Nho và uy thế to lớn của nhà Nho trong dân chúng. Thật vậy, nếu không còn dạy và dùng chữ Nho nữa trong các văn kiện chính thức, thì toàn bộ kiến thức của các nhà Nho nào có ích lợi gì? Và nếu người Việt Nam không còn biết đọc các sách cổ viết bằng chữ Nho hoặc chữ Nôm, họ đã chẳng dần dần bị dẫn đến chỗ không biết được chính văn hóa, văn minh dân tộc họ đó sao? Khi ấy triết học Nho giáo, nền tảng của tổ chức chính trị và xã hội trong nước, chẳng bị chết dần chết mòn sao?”
“Nhưng công việc này phải tiến hành từ từ, tiệm tiến, đừng nói gì cả vì ngại va chạm đến dân chúng đã quen dùng ngôn ngữ và chữ Nho, và vì lý do chính trị, để tránh làm mích lòng Trung Quốc”.
“Từ lâu, tôi chủ trương dạy tiếng Pháp và dùng mẫu tự Âu châu để viết tiếng An Nam, nhưng khốn thay, tôi không được ủng hộ trong việc thực hiện kế hoạch mà tôi đã đề nghị sáu lần. Tuy nhiên, tôi vui sướng thấy từ hai năm nay, chúng ta làm việc tích cực cho mục tiêu này; ngoài trường dạy tiếng Pháp của Phái bộ truyền giáo, là trường đầu tiên được thành lập ngày 8 tháng 12 năm 1884, chính phủ còn lập nhiều trường khác từ ngày 5 tháng 4 năm 1885”.
“Cần phải dạy càng sớm càng tốt cho người An Nam viết và đọc được tiếng họ bằng mẫu tự Âu châu, việc này dễ hơn tiện hơn nhiều so với việc dùng chữ Nho. Rồi vài năm sau, nên bắt buộc mọi giấy tờ chính thức, thay vì viết chữ Nho như trước, phải được viết bằng tiếng trong nước, và mọi viên chức phải được dạy ít nhất để biết đọc và viết tiếng An Nam bằng mẫu tự Âu châu. Trong thời gian đó việc dạy tiếng Pháp sẽ tiến triển hơn và chúng ta chuẩn bị một thế hệ sẽ cung cấp các viên chức có học ngôn ngữ chúng ta. Thế là, có lẽ trong vòng 20 hoặc 25 năm, chúng ta có thể bắt buộc mọi giấy tờ đều phải được làm bằng tiếng Pháp và, do đó, chữ Nho sẽ dần dần bị bỏ rơi mà không cần phải cấm học”.
“Khi đạt được thành tựu to lớn đó, chúng ta lấy đi một phần lớn ảnh hưởng của Trung Quốc tại An Nam, và đảng nhà Nho An Nam, rất căn thù sự thiết lập thế lực Pháp, cũng dần dần bị tiêu diệt”.
“Vấn để này có tầm quan trọng rất lớn, và sau việc thiết lập Gia-tô giáo, tôi xem việc phế bỏ chữ Nho và việc thay thế nó dần bằng tiếng An Nam trước rồi kế đến bằng tiếng Pháp, là một phương cách rất chính trị, rất tiện lợi và rất hiệu nghiệm để lập lên ở Bắc Kỳ một nước Pháp nhỏ của Viễn Đông”.
Như vậy CQN của linh mục Đắc Lộ không những là một công cụ xóa bỏ nền văn hóa Việt Nam mà còn thủ tiêu luôn cả tinh thần ý chí chống Pháp để bảo vệ đất nước của người Việt Nam. Người làm ra CQN và áp đặt buộc người Việt Nam phải học là kẻ thù của dân tộc VN, làm sao anh lại có thể làm ngược lại là tôn vinh Đắc Lộ và Tự điển Việt Bồ La của ông ta? Thực dân Pháp đã thực hiện đúng quy trình của Puginier đưa ra. Lúc đầu, bắt dân học CQN rồi sau đó bước qua học tiếng Pháp dứt hẵn với chữ Nho và chữ Nôm, dứt hẵn với lịch sử, văn hóa Việt Nam.
4. Thực dân Pháp thực hiện mưu đồ của Giám mục Puginier bắt dân ta học CQN của Đắc Lộ. Học CQN để quên đi quá khứ, quên đi lịch sử, để cải đạo, phục vụ cho thực dân Pháp rồi dần dần trở thành công bộc của thực dân Pháp. Nhà Nho Trần Tế Xương đã phản ảnh tình hình lúc đó qua bài thơ ngắn sau đây:
“Nào có nghĩa gì cái chữ Nho Ông nghè ông cống cũng nằm co Chi bằng đi học làm thầy phán Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò”
Các chí sĩ yêu nước VN, các nhà văn hóa VN thấy rõ cái nhục đó, đứng vào cái thế bị cai trị, không còn cách chọn lựa nào khác họ đã vận dụng ngay cái công cụ phục vụ Thiên Chúa Giáo và thực dân Pháp biến thành công cụ dạy bảo cho dân VN biết được tội ác của giặc, biến cái công cụ thô sơ, hẹp hòi của địch thành một vũ khí sắc bén, vừa để đánh trả địch, vừa để xây dựng ngôi nhà văn hóa của mình. Xây dựng ngôi nhà văn hóa đó không những bằng gỗ giải hạ lấy được của giặc mà chủ yếu bằng gạch đá của cha ông để lại (chữ Nho) cộng với tri thức của thời đại không qua con đường CQN.
Thực dân Pháp nghe lời Giám mục Puginier loại bỏ chữ Hán, chữ Nôm, nhưng chính trong giai đoạn nầy xuất hiện nhiều người Việt giỏi Hán Nôm. Giỏi Hán Nôm không phải để trở thành khoa bảng như ngày xưa mà thực tế để xây dựng văn hóa Việt Nam. Người Pháp không ngờ các trí thức Hán Nôm (như cụ Đào Thái Hanh ở Sa-đéc, tác giả Ái Châu Danh Thắng, rất giỏi Hán Nôm và cũng là người giỏi tiếng Pháp) và ngược lại những trí thức rất giỏi tiếng Pháp và cũng rất sành Hán Nôm (như cụ Phạm Quỳnh, cụ Hoàng Xuân Hãn).
Tôi không nghiên cứu ngữ học Việt Nam, chỉ với tư cách là một người cầm bút tôi nghĩ trong tiếng nói và chữ viết tiếng Việt hiện nay có ít nhất từ 70% đến 80% là chữ Hán Việt (chữ Nho), còn lại 30% hay 20% chữ thuần , trong đó có CQN do Giáo sĩ Đắc Lộ chép của các vị Thừa sai người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và chữ thuần Việt xuất phát từ các địa phương khác mà thời các vị Thừa sai người Bồ, người Tây Ban Nha chưa biết. 70% đến 80% dùng chữ Hán Việt (chữ Nho) là gì? Là các chữ do người VN sử dụng (chữ Nho) theo nghĩa của người Việt, hoặc sử dụng những từ mới do các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc mới phát minh sau nầy. 70% đến 80% chữ Việt dùng Hán Việt trong các lãnh vực Khoa học (Toán học, Vật Lý, Hóa học, Sinh học, Y học, Địa chất học.v.v.), trong lĩnh vực Luật học, trong lĩnh vực Triết học, Kiến trúc, Xây dựng, Nghệ thuật, Thương mại .v.v.. Và ngay bây giờ trong lĩnh vực Công nghệ 4.0.
Ta nói “trí tuệ nhân tạo” có từ nào là thuần Việt đâu? Tôi không nghiên cứu ngữ học tôi không biết hết, nhưng qua quá trình học vấn hạn hẹp của tôi: Tôi đã học khoa học nhờ Danh Từ Khoa Học của Hoàng Xuân Hãn, nghiên cứu Luật học nhờ từ điển Luật của Vũ Văn Mẫu, học Triết học bằng Danh từ Triết học của Nguyễn Văn Trung. Gia tài CQN ngày nay của VN do biết bao người đóng góp xây dựng nên. Tại sao ông Viện trưởng Viện Vinh danh Chữ Quốc ngữ chỉ vinh danh các Giáo sĩ Pi-na và Đắc Lộ không mà thôi?
Và, chắc anh cũng biết, sau ngày Cách mạng Tháng 8/1945 thành công, cuộc diễu hành mừng Cách mạng ở Hà Nội, bộ đội Việt Minh mặc binh phục của Pháp, đeo súng Pháp. Đến ngày Toàn quốc kháng chiến, vũ khí chống Pháp hầu hết cũng đều của Pháp. Vậy có khi nào ta đặt vấn đề tôn vinh cám ơn những người đã làm ra những vũ khí và binh phục cho ta chống Pháp không? Chắc chắn là không.
Anh là nhà vật lý chắc anh biết Giáo sư Tiến sĩ Trần Chung Ngọc (1931–2014) là một học giả người Mỹ gốc Việt. Ông tốt nghiệp bằng Tiến sĩ vật lý tại Đại học Wisconsin – Madison, Hoa Kỳ, ông từng giảng dạy tại trường ĐH Khoa học Sài Gòn và các cơ sở giáo dục của VNCH đồng thời có thời gian nhập ngũ làm sĩ quan trong quân đội VNCH, Trần Chung Ngọc sang định cư tại Hoa Kỳ, tiếp tục nghiên cứu vật lý, nghiên cứu các vấn đề lịch sử, văn hóa, tôn giáo Việt Nam. Năm 1994, ông kết luận bài viết Alexandre de Rhodes: Công hay Tội ? như sau:
“Một tên giặc tới nhà chúng ta, tạo ra một thứ vũ khí để dễ bề quyến rũ con em nhẹ dạ theo chúng phản lại tổ tiên, chúng ta dùng vũ khí đó để mở mang đầu óc của tất cả những người trong gia đình nhờ đó mà gia đình chúng ta bảo vệ được truyền thống luân lý đạo đức của gia đình, bảo toàn gia sản của tổ tiên khỏi bị cướp đi, vậy chúng ta nên nhớ ơn những người trong gia đình có sáng kiến dùng ngay vũ khí của địch để đánh địch hay là chúng ta nên nhớ ơn kẻ đã mang vũ khí đến nhà chúng ta để cướp đi của cải và gây bất hòa trong gia đình chúng ta? Tôi hy vọng vấn đề công và tội của Alexandre de Rhodes nay đã sáng tỏ”.
Anh có thể không đồng ý với nhận định của TS Trần Chung Ngọc, nhưng ít ra anh cũng biết được rằng trong xã hội VN hiện nay, không phải ai cũng nghĩ về linh mục Đắc Lộ và CQN của ông như anh. Anh có quyền vinh danh lịnh mục Đắc Lộ, anh có quyền vinh danh Phép Giảng Tám Ngày nhưng anh không được nhân danh dân tộc VN vinh danh nhừng người anh đang phấn đấu vinh danh như anh đã khắc lên bia đá “ CHỮ QUỐC NGỮ CÒN, TIẾNG VIỆT CÒN, NƯỚC VIỆT NAM CÒN”.
5. Vừa rồi anh nói trên Net: “Đà Nẵng không đặt thì ở Quảng Nam sẽ đặt tên đường hai vị”. Anh là Viện trưởng Viện Vinh danh Chữ Quốc ngữ và Bảo tồn tiếng Việt, trường Đại học Duy Tân chứ đâu phải HĐND tỉnh Quảng Nam mà có thể khẳng định như vậy? Mà nếu là tỉnh Quảng Nam đi nữa thì tỉnh Quảng Nam đâu có thể vượt qua được chủ trương của nhà nước Việt Nam: “Điều 10, Khoản 5 về Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng như sau:
“Những nhân vật lịch sử còn có ý kiến đánh giá khác nhau hoặc chưa rõ ràng về mặt lịch sử thì chưa xem xét đặt tên cho đường, phố và công trình công cộng”.
Alexandre de Rhodes là một người có công với Vatican mà có tội với dân tộc Việt, rắc rối như thế làm sao HĐND tỉnh Quảng Nam có thể chọn ông để đặt tên đường được chứ! Nhà thơ, ca sĩ Nguyễn Đăng Hưng mới lãng mạn như thế chứ không phải ông Giáo sư Vật lý phá vỡ ở Bỉ!
6. Có lẽ anh đã cảm thấy bị hố nên anh lại viết lại trên FB rằng “Đặt tên đường hay không đâu quan trọng, bởi trong tâm tưởng người Việt, với nết nghĩ “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” vẫn có Alexandre de Rhodes, bởi chữ quốc ngữ từ ông hiện hữu đang được dùng mỗi ngày”.
Anh lại sai nữa rồi. “Đặt tên đường hay không đâu quan trọng” thế thì anh – một trong những người cổ vũ cho TP. Đà Nẵng lấy tên hai linh mục Francisco de Pina và Alexandre de Rhodes đặt tên đường phố làm gì để gây nên cuộc tranh luận gây mất đoàn kết đang diễn ra như hiện nay? Anh dẫn đoàn đi Iran vinh danh Đắc Lộ, vinh danh Phép Giảng Tám Ngày, việc Quảng Nam tổ chức Hội thảo CQN, chuyện Quảng Nam thiết kế xây dựng công viên Dinh trấn Thanh Chiêm CQN có ai chính thức phản đối gì đâu. Anh viết: “Bởi trong tâm tưởng người Việt, với nết nghĩ “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” vẫn có Alexandre de Rhodes bởi chữ quốc ngữ từ ông hiện hữu đang được dùng mỗi ngày”. Nhận thức của anh trên đây có hai điều sai:
6.1. Giáo sĩ Đắc Lộ có làm ra CQN đâu, ông ta chỉ là người cóp của các Thừa sai Gaspar do Amaral, Antonio Barbosa, Francisco de Pina. Cóp xong rồi hủy hết tất cả di cảo mà ông đã sử dụng của các tác giả từng là ân nhân, là thầy của ông để dành cái quyền làm chủ CQN độc nhất là Alexandre de Rhodes? Khối di cảo đó rất lớn mới giúp cho Alexandre de Rhodes khai thác làm nên công trình Tự điển Việt Bồ La, làm sao có thể mất được? Tại sao anh không lên án Alexandre de Rhodes về hành vi hủy di cảo CQN của những người đi trước như đã đề cập mà chỉ vinh danh Alexandre de Rhodes là sao?
Anh sống ở TP HCM lâu chắc anh biết học giả An Chi. An Chi đã giải thích công việc anh đang theo đuổi là: “Cái tâm lý đòi dân ta phải mang ơn A.de Rhode chẳng qua là hậu quả của sự nhồi sọ mà bọn thực dân Pháp đã thực hiện trong thời kỳ chúng còn cai trị dân ta, nước ta. Ngoài ra, còn có thể có cả những nguyên nhân khác thuộc tâm thức riêng, và cả…tín ngưỡng riêng nữa”. “Người ta thì làm cuốn tự điển để tạo điều kiện thuận lợi cho việc truyền đạo của người ta mà mình thì cứ nằng nặc đòi người Việt Nam phải ghi công ông cố đạo Alexandre de Rhode, thậm chí có người mà lòng biết ơn cụ cố còn làm tượng nặng đến 43 tấn”. (Theo antg.cand.com.vn)
6.2. Anh xem thử CQN trong đời sống với công nghệ 4.0 hiện nay có bao nhiêu phần trăm CQN có trong Tự điển Việt Bồ La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum) của Đắc Lộ? Có ít nhất 70% đến 80% từ Hán Việt (chữ Nho). Ví dụ “Công trình nghiên cứu chữ quốc ngữ” (cụm từ 1) của anh gồm 7 từ, chỉ có 1 từ (chữ) Việt và có đến 6 từ do cha ông chúng ta đã sử dụng Hán Việt (chữ Nho), 6 từ nầy không thể có trong Tự điển Việt Bồ La của Đắc Lộ. “Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng tham gia Hội thảo Khoa học về Chữ Quốc Ngữ” (cụm từ 2) có 15 từ, chỉ có 2 từ Việt (về, chữ) còn có đến 13 từ Hán Việt (chữ Nho).
Chữ viết trong đời sống của chúng ta hiện nay như thế đấy. Tại sao anh không nhớ những người làm ra 6 từ trong cụm từ 1 và 13 từ trong cụm từ 2 ấy mà chỉ nhớ người chép mấy từ “chữ”, “về chữ” trong Tự điển của Đắc Lộ mà thôi? Anh có biết sách Danh Từ Khoa Học của cụ Hoàng Xuân Hãn ra đời năm 1942, đã được Hội Khuyến Học Nam Kỳ tặng thưởng từ năm 1943 không? Quyển sách “Danh từ khoa học” của cụ Hoàng Xuân Hãn viết năm 1942 bàn về việc “nhập khẩu” thuật ngữ khoa học, ở đó có các chỉ dẫn hữu ích để chọn cách tạo ra từ ngữ mới khi dịch.
Nếu trước đây không có Danh Từ Khoa Học của Hoàng Xuân Hãn anh có học Toán, học khoa học bằng tiếng Việt được không? Anh có biết Cái học ban đầu đưa anh lên lấy bằng Tiến sĩ vật lý sao anh không nhớ? Cái quả CQN ngày nay chúng ta đang sử dụng là một công trình góp công góp sức của biết bao người qua hàng trăm năm, các nhà Nho không tên tuổi, các ông Trương Vĩnh Ký với Gia Định Báo, Huỳnh Tịnh Của với Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Đông Kinh Nghĩa Thục, Nhóm Đông Dương Tạp Chí, Nguyễn Văn Vĩnh, Nhóm Nam Phong Tạp Chí, Phạm Quỳnh, Phan Kế Bính, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Tường Tam với Tự Lực Văn Đoàn, Hồ Chí Minh, Phong trào Bình Dân Học Vụ, Phạm Văn Đồng, Nhóm Giáo sư trường Khải Định (sau năm 1956 lấy lại tên Quốc Học) và trí thức Huế (như Tạ Quang Bửu, Đào Duy Anh, Nguyễn Huy Bảo, Đoàn Nồng, Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Thúc Hào, Phạm Đình Ái, Nguyễn Dương Đôn.v.v.), Nguyễn Bạt Tụy, Trương Văn Chình, Lê Ngọc Trụ, Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Trung,.v.v. Anh chỉ vinh danh Đắc Lộ – người làm ra công cụ truyền giáo là vô ơn bội nghĩa với những người đã góp công xây dựng nên CQN cho dân tộc ngày nay.
7. Có lẽ đến hôm nay anh đã được đọc nhiều bài viết về linh mục Đắc Lộ và Lịch sử CQN của ông mà trước khi nhận chức Viện trưởng Viện Vinh danh Chữ Quốc Ngữ và Bảo tồn tiếng Việt, trường Đại học Duy Tân anh chưa đọc. Và chắc anh cũng không ngờ chuyện linh mục Đắc Lộ trước đây nó đã dữ dội đến như vậy và đang diễn ra trên mạng xã hội rầm rộ đến như vậy.
Có người gọi tôi: “Ông X. ơi, chuyện Đắc Lộ tôi tưởng đã giấu được rồi để lo chuyện thời sự, ai ngờ ông Giáo sư Việt kiều Bỉ Nguyễn Đăng Hưng xới lại, phát hiện thêm được nhiều thông tin thú vị quá: Chuyện ông Đắc Lộ xin nước Pháp cấp cho ông nhiều binh sĩ để ông lên đường chinh phục toàn cõi phương Đông, chuyện Lời thề của các giáo sĩ Dòng Tên trước Giáo Hoàng ghê quá. Nhiều giáo dân không thể tưởng tượng được các vị Thừa sai Thiên Chúa giáo truyền bá đạo Chúa vào VN bằng cuốn Phép Giảng Tám Ngày kinh khủng đến như thế!”. Chắc cũng đã có người gọi điện thoại thông tin đó đến anh phải không?
Anh Hưng ơi! Thật tình tôi không muốn nói chuyện nầy: Đã và sẽ, không những người ta đưa ra nhiều thông tin mới (hoặc cũ nhưng ít người biết) về linh mục Đắc Lộ và CQN của ông mà còn lôi ra nhiều thứ nữa như những trường hợp Thực dân Pháp và Thiên Chúa giáo cấu kết với nhau chiếm đất, cướp chùa, phá tượng Phật Việt Nam, về Trần Lục (Cha Sáu) kéo 5.000 giáo dân triệt hạ căn cứ chống Pháp ở Ba Đình, lôi ra các tên tuổi làm gián điệp cho Pháp và đặc biệt là nhắc lại lịch sử Giáo Sĩ Thừa Sai Và Chính Sách Thuộc Địa Của Pháp Tại Việt Nam (1857-1914) v.v.. Và tôi tin chắc với phương tiện in ấn dễ dàng và mạng xã hội phổ cập hiện nay, trong tương lai sẽ còn nhiều tham luận, nhiều tranh luận, nhiều sách của những người ủng hộ việc vinh danh linh mục Đắc Lộ của anh và những người hạch tội linh mục Đắc Lộ.
Việc vinh danh linh mục Đắc Lộ hay lên án ông cho đến nay không có gì mới. Chỉ xuất hiện những người viết mới thôi. Điều mà những người tử tế trách anh là anh không nắm rõ vấn đề, anh vinh danh linh mục Đắc Lộ hay ho đâu chưa thấy mà lộ ra bao chuyện không hay về Đắc Lộ và những gì liên quan đến ông. Anh không để cho ông nằm yên bên Iran mà lôi ông về VN làm chi để cho thiên hạ nhắc lại những điều không hay dành cho ông đã diễn ra trước đây và đang được bổ sung hiện nay. Từ nay cho đến nhiều đời sau nữa, tên GS Nguyễn Đăng Hưng – Viện trưởng Viện Vinh danh Chữ Quốc Ngữ và Bảo tồn tiếng Việt, trường Đại học Duy Tân, Tp. Đà Nẵng luôn gắn với linh mục Đắc Lộ. Không biết nên buồn hay nên vui anh Hưng hè?
Chuyện linh mục Đắc Lộ và CQN của ông (chứ không phải CQN của VN ngày nay) còn có thể trao đổi tiếp nhưng dù sao cũng phải tạm dừng ở đây. Nếu anh thấy chưa thỏa đáng lại sẽ trao đổi tiếp.
Tôi gởi lại anh lá thư anh đã vội gởi cho tôi: “Nếu nhầm lẫn thì xin lỗi và im lặng”. Tôi gởi lại để anh thấy tôi hay anh nên thực hiện nội dung lá thư ấy. Tôi chờ quyết định của anh.
Ảnh: Đại ân nhân nào? Dân tộc nào tạ ơn? Một nhóm lưu vong và một nhúm vong nô trong nước không được tiếm danh dân tộc!
9) Kết luận: Sự gạn đục khơi trong nên lưu danh ông Alexandre de Rhodes trên viên tảng đá tưởng nhớ đặt tại công viên Tao Đàn và bảo lưu tên đường Alexandre de Rhodes (là đường Paracels, sau là đường Colombert, sau đổi là Alexandre de Rhodes; đổi là đường Thái Văn Lung và đến năm 1993 ông Võ Văn Kiệt cho đổi lại tên Alexandre de Rhodes) để ghi nhớ công lao đối với người đã phát minh ra chữ Quốc ngữ.
Khu Trung tâm Hoàng Thành Thăng Long là Di sản văn hóa Thế giới UNESCO năm 2010. Những giá trị nổi bật toàn cầu của khu di sản này được ghi nhận với ba đặc điểm nổi bật : Chiều dài lịch sử văn hóa suốt 13 thế kỷ; tính liên tục của một di sản với tư cách là một trung tâm quyền lực; và các tầng di tích di vật đa dạng phong phú. Đối chiếu dấu tích di sản khu Trung tâm Hoàng Thành Thăng Long thời Lê với Thăng Long thời Gia Long (ảnh VHA), tôi đồng tình với nghiên cứu lịch sử của Võ Hương An: “Trong niên hiệu Gia Long 嘉隆, thông qua việc đổi ý nghĩa chữ Long trong cái tên Thăng Long cho phù hợp với niên hiệu, vua Gia Long đã muốn đưa ra một tuyên ngôn ngắn gọn: tôi là người đầu tiên trong lịch sử đã đi từ Gia Định thành đến Thăng Long thành để hoàn thành cuộc thống nhất nước Việt sau bao nhiêu năm bị chia xẻ“.
Nguyên văn bài nghiên cứu của Võ Hương An
Thăng Long và Gia Long Võ Hương An
Tình cờ, đọc thấy những dòng này trên Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
Hà Nội
Năm 1802, khi nhà Nguyễn chuyển kinh đô về Huế, nó lại được đổi tên thành Thăng Long, nhưng lần này chữ “Long” (隆) biểu hiện cho sự thịnh vượng, chứ không phải là rồng, với lý do rằng rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây thì không được dùng chữ “Long” là “rồng” (Trần Huy Liệu (chủ biên), Lịch sử thủ đô Hà Nội, H. 1960, tr 81). (http://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0_N%E1%BB%99i#T.C3.AAn_g.E1.BB.8Di)
Tôi không có trong tay tác phẩm của Gs Trần Huy Liệu, và mặc dầu ông đã thành danh từ lâu trong ngành Sử học, nhưng tôi không dám tin kiến giải đó.
Một chút lịch sử
Phải đi ngược cả ngàn năm trước mới gặp tổ tiên của Hà Nội ngày nay. Mùa thu năm Canh Tuất (1010), vua Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) dời đô từ Hoa Lư ( thuộc Ninh Bình) ra thành Đại La, vì đất Hoa Lư chật hẹp, khó mở mang, và “Trẫm nay mở xem địa đồ, Đại La thành, kinh đô cũ của Cao Biền, ở trung tâm đất nước [lúc bấy giờ], có hình thể như rồng bò hổ phục, bốn phương sum họp, người và vật đông nhiều, thực là chỗ kinh đô quí nhất của đế vương. Trẫm muốn nhân chỗ địa lợi ấy đóng làm kinh đô…
Khi “Thuyền ngự đến bên thành, có con rồng hiện ra . Nhà vua sai đổi tên thành Thăng Long.” (Cương mục I, tr.285)
Từ đó, trải qua các triều Lý, Trần, Lê, Lê-Trịnh, suốt mấy trăm năm, tất cả đều chọn Thăng Long làm kinh đô. Sau khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ dứt Lê-Trịnh, ông đã không đóng đóng đô ở Thăng Long mà chỉ chọn Phú Xuân. Thăng Long được đổi gọi là Bắc thành.
Sau khi Nguyễn Vương tái chiếm Phú Xuân vào tháng 6/1801, đuổi vua Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản) và triều đình Tây Sơn chạy ra Bắc, các quan dâng biểu khuyên Nguyễn Vương lên ngôi và đổi niên hiệu; Ngày 1 tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802), vua cho lập đàn tại đồng làng An Ninh, làm lễ tế cáo trời đất; hôm sau, mồng 2 tháng 5, làm lễ kính cáo tổ tiên và chính thức ban bố niên hiệu Gia Long 嘉隆 (tốt đẹp hưng thịnh). Nhà Nguyễn gọi ngày 2 tháng 5 là ngày Hưng quốc khánh niệm, ngày quốc khánh của nước Việt Nam, Đại Nam, cho đến năm 1945.
Tháng 7 năm 1802, vua Gia Long thu phục Thăng Long, chấm dứt triều Tây Sơn. Vua đặt chức Tổng trấn Bắc thành, lấy thành Thăng Long làm lỵ sở để trông coi việc cai trị 11 trấn của miền Bắc.
Mùa hè năm Gia Long thứ 4 (1805) vua ra lệnh đổi tên Thăng Long 升龍 thành Thăng Long 升隆, nghĩa là đổi nghĩa của chữ Long. Các dịch giả Khâm định Việt sử thông giám cương mục (gọi tắt Cương mục) của Viện Sử Học, khi dịch đến chữ Thăng Long đã cẩn thận chú thích (1) Chữ “Thăng Long” đời Lý là “Rồng lên”, khác với nghĩa chữ “Thăng Long” thời Gia Long là “Thịnh vượng”.
Quả ý nghĩa đúng như thế. Nhưng câu hỏi đặt ra ở đây là: nhà vua thay đổi chữ long từ 龍 ra 隆 là vì sao?
-Vì rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây thì không được dùng chữ “Long” là “rồng” như Gs Trần Huy Liệu đã giải thích chăng?
-Hay là vì kiêng húy? Hay gì khác?
Nhà Nguyễn và vấn đề kiêng húy
Húy, là tên người chết, phải tránh đi, không được nhắc đến. Đó là tập tục cổ truyền của người Việt, đi đến chỗ cưỡng hành ở cấp quốc gia đối với nhà cầm quyền.
Với Nhà Nguyễn, mỗi triều vua đều có công bố những chữ húy và chỉ thị rõ ràng về cách tránh. Vừa lên ngôi, năm Minh Mạng nguyên niên (1820) vua đã có lệnh cấm về các chữ huý. Qua năm Minh Mạng thứ 6 (1825) lệnh này được lặp lại và nói rõ, nếu ai vi phạm sẽ chiếu luật vi chế, xử tội nặng nhẹ tuỳ trường hợp. Những chữ này được xếp vào loại quốc huý, nghĩa là cả nước phải kiêng.
– Có 5 chữ húy khi đọc thì phải tránh ra tiếng khác, khi làm việc thì phải dùng chữ khác. Đó là Noãn (= nhật 日+ viên 爰) đổi thành úc 澳 ; Chủng (= hòa 禾 + trọng 重) đổi thành thực 植 ; Ánh (= nhật 日+ ương 央) đổi thành chiếu 照 (ba chữ này là tên vua Gia Long) ; Hiệu (= nhật 日+giao 交) đổi thành hạo 恔 ; Đởm, Đảm 膽 (= nhục 月 + nhiêm 髯) đổi thành chữ phủ 腑 (hai chữ sau này là tên vua Minh Mạng).
-Có 4 chữ huý khi đọc, phải tránh ra tiếng khác, khi viết văn, phải thêm nét vào, không được dùng để đặt tên đất, tên người. Đó là Hoàn 環 đổi thành viên 圓 ; Luân (= nhật 日+luân侖), đổi thành diệu 曜 ; Lan 蘭 đổi thành hương 香; và Đang 璫 đổi thành đương.
– Có 11 chữ huý, đồng âm khi làm văn không cấm nhưng trong dân gian nếu có ai đặt tên trùng với những chữ sau đây thì phải đổi và không được đặt tên người: Kim 衿 (Nguyễn Kim), Hoàng 湟 ( chúa Tiên Nguyễn Hoàng), Nguyên 源 (chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên), Lan 澜 (chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan), Tần 瀕 ( chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần), Thái(Trăn) 溱 (Chúa Ngãi Nguyễn Phúc Thái), Chu 洙 ( chúa Minh Nguyễn Phúc Chu), Thụ (Trú) 澍 ( chúa Ninh Nguyễn Phúc Thụ), Khoát 濶 (Võ vương Nguyễn Phúc Khoát), Hiểu 曉 (Thế tử Hiểu), Thuần 淳 (Định vương Nguyễn Phúc Thuần).
Quốc Sử Quán khi chép sử không được phép ghi tên thật mà phài ghi theo lối chiết tự. Ví dụ : vua Gia Long tên là Ánh 映 thì sẽ chép húy của ngài bên tả có chữ nhật日bên hữu có chữ ương 央 ; người đọc tự mình ghép chữ sẽ biết ngay đó là chữ gì.
Càng về sau chữ huý ngày càng nhiều. Kể từ đời Thiệu Trị (1841-1847) trở đi — sau khi vua Minh Mạng ban bành Ngự chế mạng danh thi, chọn 20 tên viết với bộ nhật để làm tên chính thức cho người làm vua, khắc vào sách vàng — thì một vua Nhà Nguyễn có năm tên :
Danh tự : tên tự, tục danh, tên do cha mẹ đặt khi sinh ra;
Ngự danh : tên chính thức khi lên làm vua, lấy trong Kim sách ;
Niên hiệu : tên của triều đại ;
Thuỵ hiệu : tên đặt sau khi chết , dùng để khấn vái khi cúng tế;
Miếu hiệu : danh hiệu để thờ trong miếu và gọi trong sử.
Danh tự và ngự danh đều là trọng huý, phải tránh dùng và tránh gọi. Khi có vua mới, Bộ Lễ có nhiệm vụ rà soát tất cả các địa danh trong nước, hễ thấy nơi nào trùng với danh tự và ngự danh phải xin đổi ngay. Ví dụ : vua Thiệu Trị có tên khi sanh ra là Dung, vua Minh Mạng cho tên mới là Tông, và có ngự danh là Tuyền, làm vua lấy niên hiệu Thiệu Trị. Vậy là cửa Tư Dung ở Thừa Thiên phải đổi làm cửa Tư Hiền, các danh xưng nào có chữ Tông đều phải đổi lại thành Tôn (Lê Thánh Tôn, Tôn Nhơn Phủ), ngay cả cái ấn Trị Lịch Minh Thời Chi Bửu đúc bằng bạc từ đời Gia Long, rồi đúc lại bằng vàng đời Minh Mạng, dùng để đóng trên các cuốn lịch do Khâm Thiên Giám soạn và ban hành hàng năm, cũng phải bỏ, đúc ấn mới, đặt tên là Đại Nam Hiệp Kỷ Lịch Chi Bửu để thay thế, vì ấn cũ có chữ Trị, phạm húy Thiệu Trị.
Để tránh phạm huý, nhiều chữ đã được gọi khác đi. Ví dụ Hoa đổi thành Bông, tỉnh Thanh Hoa được đổi làm Thanh Hoá, cầu Đông Hoa đổi làm cầu Đông Ba vì kiêng tên bà Hồ Thị Hoa là thân mẫu của vua Thiệu Trị. Hồng đọc là Hường, Nhậm đọc là Nhiệmvì vua Tự Đức có tên là Hồng Nhậm. Ngự danh của vua Tự Đức là Thì nên thì phải đọc thành thời. Do sự bắt buộc phải kiêng húy này mà từ đời Tự Đức (1847-1883) trở về sau người Việt đã phải dùng chữ thời gian thay vì nói thì gian như trước kia ; và cũng từ đó tên Ngô Thì Nhiệm trở thành Ngô Thời Nhậm, v.v.
Sở dĩ người viết phải dài dòng về việc kiêng huý dưới triều Nguyễn là để bạn đọc thấy rõ việc kiêng húy đối với triều đại này quan trọng biết chừng nào, vậy mà vua Gia Long đã sửa chữ Long trong Thăng Long với cách viết chữ Long y như niên hiệu của vua. Vua đã không kiêng, không bảo người ta kiêng, lại còn “đồ” cho đậm nét thêm. Là sao?
Là sao? Sẽ trả lời sau, nhưng điều tôi có thể hiểu được là: vua đã không cần kiêng húy thì sá gì việc vì rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây thì không được dùng chữ “Long” là “rồng” như Gs Trần Huy Liệu đã giải thích. Vì vậy, tôi không nghĩ lời giải thích kia là hợp lý.
Tâm tư và ước vọng gởi trong cái tên
Cha mẹ nào khi đặt tên cho con cũng muốn đặt vào đấy một chút niềm tin và hy vọng nào đó dù có khi đặt tên là Út với một quyết tâm hạn chế sinh đẻ nhưng lại “lỡ việc” mà sinh ra Út-1, Út-2 hay Út-nữa! Các nhà Nho xưa, khi chọn tên tự và hiệu cho mình cũng trầm tư nhiều lắm. Phan Bội Châu bôn ba nơi hải ngoại mấy chục năm, một đời lo việc nước, lòng vẫn canh cánh nhớ về tổ quốc nên lấy hiệu Sào Nam, bởi chim Việt đậu cành Nam (Việt điểu sào nam chi). Huống chi là vua, người tự nhận thừa mệnh trời chăn đắt muôn dân. Biết bao là tâm tư và ước vọng muốn gởi vào đó. Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phước, Hàm Nghi, Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân, Khải Định, Bảo Đại, mỗi niên hiệu là một tuyên ngôn, một kỳ vọng, một sự cô đọng ý nghĩa của biết bao sách vở thánh hiền.
Trong sự hiểu biết hạn hẹp của người viết, chưa tìm thấy một tài liệu chính thức nào của triều đại giải thích về ý nghĩa của mỗi niên hiệu. Chỉ có một lần, sau lễ đăng quang của vua Khải Định vào ngày 18/5/1916, ông Đặng Ngọc Oánh, Tham tri Bộ Lại, Tổng lý Viện Cơ mật, có viết một bài tường thuật tỉ mỉ lễ đăng quang này, trong đó kể chi tiết việc vua chọn niên hiệu. Theo đó, ngay hôm Phụng Hóa Công Bửu Đảo nhập cung (16/5/1916), các quan Nội Các đã lo tìm những chữ có ý nghĩa tốt, liệt kê ra và trình lên để tân quân lựa chọn làm niên hiệu của triều đại mới. Một bản sao cũng được gởi đến Hội đồng Thượng thư để các vị ấy xem xét. Ngay hôm đó Nội Các báo cho Hội đồng Thượng thư biết rằng trong danh sách dâng lên, hai chữ Khải Trung đã được chiếu cố, nhưng tân quân dùng bút son khoanh tròn chữ Khải, gạch bỏ chữ Trung, và thay vào đó bằng chữ Định . Như vậy, ý của tân quân là muốn chọn hai chữ Khải Định 啟 定 — có nghĩa là khởi đầu một thời thanh bình và ổn định của đất nước — để làm niên hiệu. Tác giả Đặng Ngọc Oánh cũng dẫn hai câu trong sách xưa để cho biết hai chữ khải định xuất xứ từ đâu. (Đặng Ngọc Oánh, tr.7)
Thử đọc lại chiếu ban bố niên hiệu Gia Long:
“Ta nghe kinh Xuân Thu trọng nghĩa nhất thống là để chính danh nghĩa khi mở đầu. Từ Tiên Thái Vương ta [chúa Tiên Nguyễn Hoàng] dựng nền ở miền Nam, thần truyền thánh nối đã 200 năm. Gần đây Tây Sơn nổi loạn, vận nhà Lê đã hết, hơn vài mươi năm trong nước không có chính thống. Ta phải xiêu dạt một nơi, rất lo nghĩ về miếu xã và sinh dân. Nằm gai nếm mất , mong sao cho được yên vui. Năm Canh tý [1780] ta mới ở thành Gia Định, được các tướng sĩ suy tôn, đã lên ngôi vương để giữ lòng người. Duy đô cũ chưa phục, nên còn theo niên hiệu cũ. Nay ơn trời giúp đở, các thánh để phúc, bờ cõi cũ đã lấy lại, cơ nghiệp xưa đã trở về, các quan văn võ tại triều dâng sớ chương khuyên ta lên ngôi hoàng đế và đổi niên hiệu. Nhưng ta nghĩ rằng giồng giặc chưa trừ xong, đất nước chưa thống nhất, không nên vội lên ngôi tôn. Duy cứ theo niên hiệu đã qua [niên hiệu của nhà Lê] mà thi hành những lệnh đổi mới thì không phải là nêu rõ được khuôn phép. Vậy nên chuẩn lời xin đặt niên hiệu, định lấy ngày mồng 1 tháng 5 năm nay kính cáo trời đất, ngày hôm sau kính cáo liệt thánh [các chúa Nguyễn], chép niên hiệu là Gia Long, để thống nhất kỷ cương, làm mới tai mắt…” (Thực lục I,2002, tr.491)
Rõ ràng tờ chiếu không có một giải thích nào về lý do chọn hai chữ Gia Long, ngoại trừ cái nghĩa thông thường giàu đẹp hưng thịnh mà trong một đất nước lấy chữ Hán làm văn tự chính thức thì hầu hết ai cũng có thể hiểu được.
Vua Gia Long là một người có khí độ khác người. Không kể cái đức kiên trì chiến đấu ròng rã 25 năm, trải qua bao hiểm nguy và gian khổ để phục hồi cho được cơ nghiệp của tổ tiên, vua còn có nhiều suy nghĩ và quyết định không giống thói thường. Ví dụ không cho tổ chức sinh nhật rườm rà. Ngày xưa tuổi thọ ngắn ngủi, vì vậy vua nào đến tuổi 40 tuổi hay 50 cũng tổ chức Tứ tuần đại khánh, Ngũ tuần đại khánh với biết bao huy hoàng tốn kém để ăn mừng tuổi thọ, nhưng vua Gia Long thì không; các quan năn nỉ xin làm cũng từ chối, bảo làm như sinh nhật thường lệ. Năm vua 40 tuổi (1801) thì đang còn bận đánh nhau với Tây Sơn, chưa yên tâm để hưởng thụ, điều này dễ hiểu. Nhưng khi vua được 50 tuổi (1811) thì đất nước đã thống nhất, Tây Sơn đã hoàn toàn tuyệt diệt, vua đã chính thức lên ngôi hoàng đế năm 1806, vậy mà cũng không; có vẻ như không thích sự xa xỉ, nhọc sức dân. Một ví dụ khác, khi vua mất, táng chung một chỗ với hoàng hậu, hai ngôi mộ nằm sờ sờ, đơn giản, giữa thanh thiên bạch nhật, chẳng giấu diếm ngụy trang gì cả v.v.
Bên cạnh những quyết định khác người đó, ít ra vào buổi đầu của triều đại, cũng có ba việc vua Gia Long đã hành sử theo một cung cách giống nhau cho ta thấy lối tính toán lâu xa và ăn chắc của nhà vua mà chẳng bao giờ vua hé môi một lời giải thích. Chẳng hạn Đông cung Cảnh mất năm 1801 nhưng mãi đến năm 1816 mới lập Hoàng tử Đởm lên làm Đông cung, dù triều thần đề nghị nhiều lần (1). Vua dư biết triều thần đang chia làm hai phe, phe ủng hộ cháu đích tôn của vua (Hoàng tôn Mỹ Đường, con Đông cung Cảnh) làm Thái tử, và phe ủng hộ Hoàng tử Đởm (vua Minh Mạng). Một sự quyết định vội vàng khi chưa nắm vững tình hình có thể gây biến loạn trong triều. Lại một ví dụ khác, vua ban bố niên hiệu từ năm 1802 mà mãi đến năm 1806 mới lên ngôi hoàng đế. Để chi lâu vậy? Hãy xem từ 1802 đến 1806, đã có những thành tựu gì từ bên trong đến bên ngoài thì biết ngay vua chuẩn bị mọi điều kiện chu đáo như thế nào. Năm 1804, nhận sắc phong cùa Nhà Thanh, rồi đặt quốc hiệu Việt Nam, lo xây các miếu để thờ tổ tiên, xây cung Trường Thọ cho Hoàng Thái hậu, xây điện Cần Chánh để làm việc, xây hoàng thành, cung thành. Qua năm 1805 xây điện Thái Hòa, xây Công thự văn, Công thự võ cho các quan có nơi hội họp làm việc. Khi trong ngoài đâu vào đấy thì lễ đăng quang diễn ra vào năm 1806 là phải.
Cũng một cung cách như thế khi vua tiến hành đổi Thăng Long 升龍 thành Thăng Long 升隆.
Đừng nghĩ đơn giản rằng với uy quyền của vua thì đổi một chữ nào có quan trọng gì. Đàng sau chữ Thăng Long là cả một chuỗi dài lịch sử hàng mấy trăm năm cùa bao triều đại, một dấu ấn khó phai trong lòng người dân Bắc hà. Đổi thì có lẽ vua muốn đổi từ 1802 kia cho phù hợp với niên hiệu của vua nhưng chưa đến lúc nên phải nấn ná một thời gian.
Sao lại nói rằng cho phù hợp với niên hiệu của vua? Xin hãy để ý đến chữ Gia 嘉 trong niên hiệu Gia Long. Chữ Gia này và Gia Định 嘉定 cùng một cách viết, một ý nghĩa. Như đã nói, bao hàm trong cái tên hay danh hiệu là một tâm tư và ước vọng, là một tuyên ngôn cô đọng. Tái chiếm được Phú Xuân vào năm 1801 tuy là một thành công lớn trên bước đường phục hưng cơ nghiệp tổ tiên nhưng đó chỉ mới đi được 2/3 đoạn đường trên toàn bộ con đường ước vọng của Nguyễn Vương trong một đất nước mà người chủ lâu năm là Nhà Lê đã hết thời. Vương muốn rằng Vương phải là người đầu tiên thống nhất nước Việt, khởi đi từ Gia Định thành tới Thăng Long thành, nên mới cố tình lấy chữ đầu của Gia Định ghép với chữ cuối của Thăng Long để thành hai chữ Gia Long làm niên hiệu.
Nhưng Gia mà đi với Long có nghĩa là rồng, bề ngoài, chỉ nghe cái thanh âm cũng tàm tạm được, nhưng đi vô chữ nghĩa thì chưa ổn. Vì thế, nấn ná đến năm 1805 mới đổi Long là rồng thành Long là hưng thịnh cho thật thích hợp hoàn hảo. Vua chỉ ra lệnh đổi chữ Long sau khi cho xây lại thành Thăng Long to rộng hơn vào năm 1803 trên địa phận huyện Thọ Xương phủ Hoài Đức, lại xây mới 5 cửa ô vào năm 1804 với tên mới, chưa kể bên trong xây kỳ đài, dựng hành cung, làm nhà tả hữu vu,v.v , nghĩa là một Thăng Long mới từ vật chất (xây mới) đến tinh thần (đổi ý nghĩa chữ long) nhưng vẫn không làm mất dấu ấn lịch sử.
Nói tóm lại, trong niên hiệu Gia Long 嘉隆, thông qua việc đổi ý nghĩa chữ Long trong cái tên Thăng Long cho phù hợp với niên hiệu, vua Gia Long đã muốn đưa ra một tuyên ngôn ngắn gọn: tôi là người đầu tiên trong lịch sử đã đi từ Gia Định thành đến Thăng Long thành để hoàn thành cuộc thống nhất nước Việt sau bao nhiêu năm bị chia xẻ.
– Đại Nam Thực Lục I, (gọi tắt Thực lục) bản dịch của Viện Sử Học, nxb Giáo Dục, Hà Nội, 2002
– Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục (gọi tắt Cương mục) bản dịch của Viện Sử Học, nxb Giáo Dục, Hà Nội, 1998
– Đặng Ngọc Oánh, L’Intronisation de l’Empereur Khải Định, Bulletin des Amis du Vieux Hue, No1, 1916, tr.7
Chú thích:
1) Xem Võ Hương-An, Vụ án Mỹ Đường, Tuyển tập Nhớ Huế, California, 2007
CHUYỆN CỔ TÍCH NGƯỜI LỚN Hoàng Kim
CNM365 Một góc nhìn sự thật CNM365 là sự tâm huyết. Cảm ơn nhà nghiên cứu lịch sử Thụy Khuê và nữ sĩ Chử Thu Hằng, người viết và người lưu giữ tư liệu “Tôi không đánh giá gì cả, bởi vì người viết sử chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là trình bầy sự kiện lịch sử. Việc đánh giá là của người đọc. Độc giả đọc một đoạn sử viết về một nhân vật hay một giai đoạn lịch sử, rồi tự rút ra những suy nghĩ hay đánh giá về nhân vật hay giai đoạn lịch sử ấy, và đánh giá luôn cách viết của người soạn sử. Vần đề quan trọng của chúng ta hiện nay, là lầm việc “viết sử” với việc “đánh giá”. Vì thế, trong các cuộc phỏng vấn, người ta không hỏi những nhà được mệnh danh là sử gia ông biết gì về nhân vật hay giai đoạn lịch sử này, mà thường hỏi ông “đánh giá” gì về nhân vật lịch sử này, về giai đoạn kia. Và vị “sử gia” được hỏi cứ thao thao bất tuyệt “đánh giá” về một vấn đề mà đôi khi ông ta không biết.”. CNM365 một góc nhìn sự thật . Tôi thích lưu lại tinh hoa tâm đắc và suy ngẫm của chính mình. Tôi thích góc nhìn “Khen và chê” của anh Phan Chí Thắng. Văn chương của mình và ảnh đẹp cần gạn lọc để lưu lại. Viết văn và chọn chơi ảnh là khó. Anh Ngô Minh “Quà tặng xứ mưa” “Hồn tôi đã hóa con đò ấy” đã kịp lưu lại cho đời những kỷ niệm đẹp. Đó là chuyện đáng suy ngẫm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-co-tich-nguoi-lon/ và http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-30-thang-9/
Tài liệu dẫn
KHEN VÀ CHÊ Phan Chí Thắng
Nhiều khi ta phải khen (ca ngợi) hoặc chê (phê phán) một người, một ai đó.
Khen chê đòi hỏi kỹ năng và nhân cách.
Con người có hai phẩm chất chính là tài năng và nhân cách. Ở mỗi người hai thứ này nhiều ít tỷ lệ khác nhau.
Với người có tài nhưng nhân cách kém ta chỉ ca ngợi tài năng, không nhắc gì đến nhân cách, âu cũng là một kiểu chê người ấy thiếu nhân cách vậy.
Tương tự, người tử tế tốt tính nhưng tài năng không bao nhiêu thì ta ca ngợi nhân cách người đó, không nhắc đến tài năng.
Với người có tài có đức thì:
1. Khen vì người ấy tốt với mình – mình là tiểu nhân. 2. Khen vì người ấy tốt với nhiều người – mình là trung nhân. 3. Khen vì người ấy có nhiều đóng góp cho xã hội, cho đất nước – mình mới là cao nhân.
Khen quá mức sẽ thành nịnh bợ, chê quá mức sẽ thành bôi xấu. Người quân tử không bao giờ làm vậy.
Chê cũng có 3 cấp độ: 1. Chê tật xấu của người khác – mình là người nhỏ nhen. 2. Chê những thất bại của người khác – mình quá tầm thường. 3. Chê những kẻ làm hại cho dân cho nước – mình là người biết điều.
Không khen không chê là mũ ni che tai, nhưng khen chê cũng phải trúng vì khi ta khen chê ai đó ta sẽ bộc lộ với mọi người ta là ai.
“Tôi không đánh giá gì cả, bởi vì người viết sử chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là trình bầy sự kiện lịch sử. Việc đánh giá là của người đọc. Độc giả đọc một đoạn sử viết về một nhân vật hay một giai đoạn lịch sử, rồi tự rút ra những suy nghĩ hay đánh giá về nhân vật hay giai đoạn lịch sử ấy, và đánh giá luôn cách viết của người soạn sử. Vần đề quan trọng của chúng ta hiện nay, là lầm việc “viết sử” với việc “đánh giá”. Vì thế, trong các cuộc phỏng vấn, người ta không hỏi những nhà được mệnh danh là sử gia ông biết gì về nhân vật hay giai đoạn lịch sử này, mà thường hỏi ông “đánh giá” gì về nhân vật lịch sử này, về giai đoạn kia. Và vị “sử g