Việt Nam Tổ Quốc tôi

Bản đồ địa hình Việt Nam. Được tạo với GMT từ dữ liệu GLOBE được phát hành công khai Topographic map of Vietnam. Created with GMT from publicly released GLOBE data

VIỆT NAM TỔ QUỐC TÔI
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim

VIỆT NAM HỌC Tổng quan văn hoá và kinh tế xã hội Việt Nam là tập tài liệu giảng dạy nghiên cứu Việt Nam Học: người Việt, tiếng Việt, nông nghiệp Việt Nam, văn hóa, kinh tế, xã hội, dư địa chí, du lịch sinh thái. Mục đích liên kết kiến thức nền Việt Nam Học, giúp việc tìm hiểu đất nước con người Việt Nam “vốn xưng nền văn hiến đã lâu; núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác” (Nguyễn Trãi, 1428) với phẩm chất văn hóa thân thiện, tốt đẹp.#vietnamhoc Việt Nam Tổ Quốc tôi; Nha Trang và A. Yersin. Dưỡng mầm xanh phương Nam; https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-to-quoc-toi

Hình 2: Bảy vùng sinh thái kinh tế nông nghiệp Việt Nam

VIỆT NAM MỘT THOÁNG NHÌN
Hoàng Tố Nguyên

Việt Nam là một đất nước yêu độc lập, tự do và hạnh phúc. Đất nước Việt Nam hình chữ S, nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, ở phía đông bán đảo Đông Dương, phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây giáp Lào, Campuchia, phía đông nam trông ra biển Đông và Thái Bình Dương. Việt Nam có diện tích 331.211,6 km², Dân số hiện tại của Việt Nam là 98.169.571 người vào ngày 01/07/2021 theo số liệu mới nhất từ Liên Hợp Quốc; Việt Nam đang đứng thứ 15 trên thế giới trong bảng xếp hạng dân số các nước và vùng lãnh thổ.Mật độ dân số của Việt Nam là 317 người/ km²; 37,34% dân số sống ở thành thị (36.346.227 người vào năm 2019) (Nguồn: https://danso.org/viet-nam/). Thủ đô là Hà Nội. Ba thành phố chính nổi tiếng nhất của Việt Nam là Hà Nội, Huế và thành phố Hồ Chí Minh. Bờ biển Việt Nam dài 3 260 km, biên giới đất liền dài 4 510 km. Trên đất liền, từ điểm cực Bắc đến điểm cực Nam (theo đường chim bay) dài 1 650km, từ điểm cực Đông sang điểm cực Tây nơi rộng nhất 600km (Bắc bộ), 400 km (Nam bộ), nơi hẹp nhất 50km (Quảng Bình). Kinh tuyến Việt Nam từ 102º 08′ đến 109º 28′ đông,Vĩ tuyến Việt Nam từ 8º 02′ – 23º 23′ bắc. Việt Nam là đầu mối giao thông từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương. Khí hậu Việt Nam là khí hậu của nước nhiệt đới gió mùa; Địa hình lãnh thổ Việt Nam phần đất liền bao gồm 3 phần 4 là đồi núi; Tài nguyên Việt Nam có những nguồn tài nguyên vô cùng phong phú như tài nguyên rừng, tài nguyên thủy hải sản, tài nguyên du lịch và nhiều loại khoáng sản đa dạng, nhưng trên hết, trước hết đó là tài nguyên con người hiền hòa, thân thiện, anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang, năng động, sáng tạo, sống có trách nhiệm với mái nhà chung Trái Đất, thích làm bạn với nhân dân thế giới.  Phân cấp hành chính Việt Nam hiện nay theo Điều 110 Hiến pháp 2013 [1] và Điều 2 Luật Tổ chức chính quyền địa phương[2] gồm 3 cấp hành chính là cấp tỉnh, cấp huyện cấp xã; ngoài ra còn có đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập. Việt Nam sau nhiều lần chia tách và nhập lại, tính đến nay, có 63 đơn vị hành chính cấp Tỉnh, bao gồm 5 thành phố trực thuộc trung ương (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ) và 58 tỉnh (tương ứng với chữ số được đánh dấu trên “bản đồ Hành chính Việt Nam“) và một thoáng nhìn toàn cảnh tại Bảy vùng sinh thái kinh tế nông nghiệp Việt Nam (hình 2 và 3).

Hình 3: Bản đồ Hành chính Việt Nam

Việt Nam Tổ quốc tôi  Nong Lam University in Ho Chi Minh Dạy và Học Cây Lương thực Việt Nam CNM365 Tình yêu cuộc sống đúc kết thông tin Việt Nam Đất nước Con người, Ngôn ngữ Nông nghiệp Du lịch Sinh thái, Lịch sử Địa lý Giáo dục Văn hóa, Kinh tế Xã hội Truyền Thông Ebook. Thông tin VIỆT NAM HỌC được trích dẫn từ Wikipedia tiếng Việt và các nguồn liên quan tới 20 tháng 4 năm 2023. https://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_Nam ; Việt Nam thông tin khái quát liên kết 13 đường dẫn liên thông #vietnamhoc https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-dat-nuoc-con-nguoi

VIỆT NAM ĐẤT NƯỚC CON NGƯỜI

Việt Nam tổ quốc tôi
Việt Nam tâm thế mới
Việt Nam con đường xanh
Việt Nam thông tin khái quát
Việt Nam đất nước con người

Nông nghiệp sinh thái Việt
Di sản thế giới tại Việt Nam
Du lịch sinh thái Việt
Vườn Quốc gia Việt Nam
Nông nghiệp công nghệ cao
Nông nghiệp Việt trăm năm
Ngôn ngữ văn hóa Việt
Dạo chơi non nước Việt

Việt Nam đất lành chim đậu

HOÀNG TỐ NGUYÊN TIẾNG TRUNG
黄素源 (越南) Hoàng Tố Nguyên Việt Nam
Dạy và học tiếng Trung trực tuyến
#htn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-to-nguyen-tieng-trung/ #cnm365 https://hoangkimvn.wordpress.com/tag/hoang-to-nguyen-tieng-trung.. Bài học mới mỗi ngày, mời đọc tại đây https://hoangkimvn.wordpress.com/tag/hoang-to-nguyen-tieng-trunghttps://hoangkimvn.wordpress.com

Việt Nam Hồ Chí Minh https://youtu.be/dP4iGQ98Qik trích dẫn Nhân dân là nguồn cội của mọi chiến thắng, Hồ Chí Minh tên Người là bài ca chiến thắng https://youtu.be/xsXbzvm-KK4, tích hợp tại Minh triết Hồ Chí Minh https://hoangkimlong.wordpress.com/category/minh-triet-ho-chi-minh/…

Chuyện đồng dao cho em https://youtu.be/pgELH5LXSxA Bảy quy luật cuộc sống thông tin tích hợp tại Chuyện đồng dao cho em https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-dong-dao-cho-em/

Luyện nghe hiểu tiếng Trung
Video link 10 9 2022 HTN Hanyuxuexi https://youtu.be/7fx24zswhFk
và mới cập nhật

VIỆT NAM HỌC 越南社会经济和文化概述
Hoang To Nguyen et al. 2022 #vietnamhoc #cnm365 #cltvn #Nongnghiepsinhthaiviet #Vuonquocgiavietnam #Disanthegioitaivietnam #Ngônnguvanhoaviet

Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là vietnamtoquoctoi.jpg

DẠY VÀ HỌC VIỆT NAM HỌC
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim

“Đi đâu cũng không bằng Tổ quốc mình. Nói gì, làm gì cũng không bằng dạy, học và làm cho đồng bào đất nước mình. Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương. Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc. Dạy và học thực tiễn trên chính Tổ quốc mình”.

Lời Thầy dặn thật thấm thía: “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời”. Trích “Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời” Hoàng Kim lời tâm đắc. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/day-va-hoc-ngay-moi

“Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Đường lối cách mạng của nước Việt Nam ngày nay thích hợp bền vững trong tình hình mới, thời đại mới, đã được Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đúc kết tinh hoa tại bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” xác định rõ đường lối, quan điểm, tầm nhìn chiến lược, cương lĩnh và kế hoạch hành động:“Đoàn kết ‘xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh’ như di nguyện của Bác Hồ kính yêu”; “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế (in đậm để nhấn mạnh HK); Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện“.

Xây dựng học liệu mở
VIỆT NAM HỌC TINH HOA 越南社会经济和文化概述 #HTN DẠY VÀ HỌC #VietNamhoc https://hoangkimvn.wordpress.com; #CNM365 https://cnm365.wordpress.com; Tình yêu cuộc sống https://hoangkimlong.wordpress.com, #CLTVN Cây Lương thực Viêt Nam https://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong; Ngôn ngữ văn hóa Trung Việt Anh một số thư mục nghiên cứu và giảng dạy

Hoang To Nguyen et al. 2022 #vietnamhoc; #HTN; Việt Nam tổ quốc tôi; Việt Nam thông tin khái quát; Việt Nam con đường xanh; Việt Nam dư địa chí; #Vietnamdudiachi; Việt Nam học tinh hoa; #Vietnamhoctinhhoa; #HoangThanhnendaila; #TiengVietlunglinhsang Việt Nam sáng tạo KHCN; Việt Nam tâm thế mới; Việt Nam đất nước con người; Việt Nam thời Nhà Trần; Di sản thế giới tại Việt Nam;#Disanthegioitaivietnam; #cnm365; #cltvn; Vườn Quốc gia Việt Nam; #Vuonquocgiavietnam; Nông nghiệp sinh thái Việt; #Nongnghiepsinhthaiviet; Nông nghiệp công nghệ cao; Nông nghiệp Việt trăm năm; Ngôn ngữ văn hóa Việt; #Ngônnguvanhoaviet; Tình yêu cuộc sống; Minh triết Hồ Chí Minh; #Minhtriethochiminh; Vị tướng của lòng dân; #Thungdung; #NhaTrantrongsuViet; Nhà Trần trong sử Việt; #Quoccongdaolamtuong; Quốc Công đạo làm tướng; #Tietcheducdungnhan; Tiết Chế đức dụng nhân; #Truclamtrannhantong; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; #Nguyentraiducthuyson; #Nguyentraikiettacthovan; Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Trạng Trình; Trạng Trình dưỡng sinh thi; #Anvuicutrangtrinh; An vui cụ Trạng Trình; Ngày xuân đọc Trạng Trình; #Nguyendutranghuyenthoai; Nguyễn Du trăng huyền thoại;; Nguyễn Du tiếng tri âm; Đào tiên Ngọc Quan Âm; Sớm thu đất ông Hoàng; Ta về với đồng xuân; Bài ca nhịp thời gian, Nông nghiệp sinh thái Việt; Quan niệm về hạnh phúc; Sông Đồng Nai yêu thương; Ông Rhodes chữ tiếng Việt

Bài mới #vietnamhoc #cnm365 #cltvn 17 tháng 9

#CNM365
VUI ĐI DƯỚI MẶT TRỜI
Hoàng Kim

Hãy lên đường đi em
Ban mai vừa mới rạng
Vui đi dưới mặt trời
Một niềm tin thắp lửa

Ta như ong làm mật
Cuộc đời đầy hương hoa
Thời an nhiên vẫy gọi
Vui khỏe đời cho ta.

Vui đi dưới mặt trời
Nắng dát vàng trên đồng xuân
Mưa ướt vệt bóng mây, tím sắc trời cuối hạ
Đất ước, cây trông, lòng nhớ …

Người tốt việc tốt trốn tìm đâu
trong giấc mơ tâm tưởng
Chuyện Bác Hồ ước ao dặn lại …
Ngôi nhà con hạnh phúc trăm năm
Bếp lửa ngọn đèn khuya
Vận mệnh cuộc đời cố gắng

Tình yêu là người thầy tốt hơn trách nhiệm
Đồng lòng đất cảm trời thương
Phúc hậu minh triết tận tâm
Cố gắng làm người có ích

Tháng năm tròn đầy vườn thiêng cổ tích
Mừng ban mai mỗi ngày tỉnh thức bình an
Chào ngày mới CNM365 Tình yêu cuộc sốn
Thảnh thơi vui cõi phúc được thanh nhàn.

Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là 2-nhatoi.jpg

HỌC MẶT TRỜI TỎA SÁNG
Phúc hậu và an nhiên
Hoàng Kim


Học mặt trời tỏa sáng
Phúc hậu và an nhiên
Biết kiên trì việc chính
Học nước chảy đá mòn
Vui đi dưới mặt trời

NHA TRANG VÀ A. YERSIN
Hoàng Kim


A Na bà chúa Ngọc
Nha Trang và A. Yersin
Ban mai đứng trước biển
Sắn Việt Đất Ông Hoàng
Hoa Đất của quê hương..

Nha Trang biển yến rừng trầm thiên đường nghỉ dưỡng du lịch biển đảo nổi tiếng Việt Nam , nơi ấy có di sản nổi tiếng A Na bà chúa Ngọc Nha Trang cũng là nơi an nghĩ và lưu dấu những cống hiến đặc biệt xuất sắc của nhà bác hoc thiên tài Yersin. Quần thể lăng mộ Yersin ở Suối Dầu và Viện Pasteur Thư viện Yersin công viên Yersin Nha Trang là trường hợp duy nhất Chính phủ Việt Nam cấp bằng chứng nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia cho một người nước ngoài. Dân làng Tân Xương Suối Dầu thờ Yersin làm Thành hoàng. Ngày mỗi ngày, công viên Yersin, Bảo tàng Yersin, mộ Yersin càng có nhiều lượt khách trong nước và quốc tế đến thăm để chiêm nghiệm bài học lớn tình yêu cuộc sống.

A. YERSIN Ở NHA TRANG

Alexandre Émile Jean Yersin là nhà bác học lỗi lạc người Pháp gốc Thụy Sĩ. Ông là bác sĩ y khoa, nhà vi khuẩn học, nhà thám hiểm, nhà nông học, nhà chăn nuôi, nhà điểu học, nhà dân tộc học, nhiếp ảnh gia, nhà nghiên cứu khí tượng, nhà văn, nhà dịch thuật, nhà nhân đạo và ân nhân được nhân dân Việt Nam tôn kính. Ông được trao tặng Bắc Đẩu Bội tinh, huân chương cao quý nhất của nước Pháp, Việt Nam long bội tinh, Viện sĩ Viện Hàn Lâm Khoa học, Viện Hàn lâm Y học, Viện Hàn lâm Khoa học các thuộc địa, Hội Bệnh học Hải ngoại, Hội Y học Nhiệt đới, Hội Thiên văn Pháp quốc. Yersin sinh ngày 22 tháng 9 năm 1863 tại làng Lavaux (hat Vaux) Aubonne, Thụy Sĩ, tổ tiên ông vốn là người Pháp di cư sang Thụy Sĩ, năm 1889 ông phục hồi quốc tịch Pháp. Alecxandre Yersin mất tại Nha Trang ngày 01 tháng 3 năm 1943.

Nha Trang gắn bó với Yersin như hình với bóng. Yersin sống chết với Nha Trang. Ông tới Việt Nam năm 1890, Ông thám hiểm tìm ra con đường bộ từ Nha Trang ven Biển Đông băng qua dãy Trường Sơn qua Stung Treng đi suốt dọc ha lưu sông Mekong đến Phnom Penh năm 1892 . Ông là người thám sát lần đầu Cao nguyên Lâm Viên năm 1893 giúp thiết lập nên thành phố nghỉ mát Đà Lạt. Yersin đã tìm ra trực khuẩn gây bệnh dịch hạch sau này được đặt theo tên ông Yersinia pestis năm 1894 và điều chế huyết thanh chữa trị. Yersin là người sáng lập Viện Pasteur Nha Trang năm 1895. Với tiền thưởng khoa học, Yersin mua một khu đất rộng 500 héc-ta ở Suối Dầu để làm nông nghiệp và chăn nuôi.

Nha Trang và Yersin có một mối nhân duyên thật kỳ lạ. Năm 1891, khi đặt chân đến Nha Trang, Yersin đã yêu mến vùng đất này, và quyết định lưu trú tại đây. Ông viết cho Émile Roux, “Hãy đến đây với tôi, ông sẽ biết ở đây thú vị như thế nào, thời tiết không nóng nhiều, cũng không lạnh lắm, một khung cảnh thanh bình tuyệt đối và nhiều công việc cần làm“. Tên gọi “Nha Trang” có hai giả thuyết, một giả thuyết cho rằng nó được hình thành do cách đọc của người Việt phỏng theo âm một địa danh Chăm vốn có trước là Ya Trang hay Ea Trang (có nghĩa là “sông Lau”, tiếng người Chăm, tức là gọi sông Cái chảy qua Nha Trang ngày nay, con sông này đổ ra biển đúng chỗ có nhiều cây lau). Từ tên sông, sau chỉ rộng ra vùng đất, từ năm 1653. Giả thiết khác cho rằng Nha Trang trước năm 1891 chưa có tên gọi trên bản đồ chỉ mới là một vịnh nước yên tĩnh đầy nắng nhưng khi Yersin đến ở và xây “nhà trắng” nổi bật trên những ngôi nhà làng chài lúp xúp trên dải cát trắng từ năm 1891, thì họ gọi là ”Nhà trắng” lâu dần phiên âm thành Nha trang. Giả thiết đầu tiên được các nhà nghiên cứu thống nhất hơn. Dẫu vậy giả thuyết thứ hai cũng được nhiều người ủng hộ.

Yersin lưu dấu nhiều ký ức sâu đậm tại Nha Trang. Di sản Yersin thật sự to lớn và bền vững với thời gian ở Việt Nam. Ông từ trần tại nhà riêng ở Nha Trang ngày 1 tháng 3 năm 1943, và để lại di chúc: “Tôi muốn được chôn ở Suối Dầu. Yêu cầu ông Bùi Quang Phương giữ tôi lại tại Nha Trang, đừng cho ai đem tôi đi nơi khác. Mọi tài sản còn lại xin tặng hết cho Viện Pasteur Nha Trang, và những người cộng sự lâu năm. Đám táng làm giản dị, không huy hoàng không điếu văn.” Noël Bernard, người đầu tiên viết tiểu sử Yersin đã nhận xét: “Chắc chắn rất hiếm có người ít tư lợi đến thế. Yersin tự xóa mờ mình đi để người khác được tự do sáng kiến, sự tự do mà chính bản thân ông hết sức gắn bó

Yersin cũng lưu dấu ở Đà Lạt, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Thủ Dầu Một. Tại Đà Lạt, thành phố tình yêu, nơi núi non tuyệt đẹp trên cao nguyên Lâm Viên, Yersin là người nước ngoài đầu tiên đã thám hiểm và khám phá ra Đà Lạt. Tên ông được lưu dấu tại Trường Lycée Yersin (Trường Cao đẳng Sư phạm), Trường Đại học Yersin và Công viên Yersin. Tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Thủ Dầu Một,  tên của Yersin được đặt  tên đường để vinh danh. Dẫu vậy, nơi chính của Người vẫn là ở Nha Trang.

Ông Yersin là người đầu tiên du nhập và phát triển cây cao su ở Việt Nam năm 1897. Ông tuyển chọn nhiều loại thực vật và động vật từ khắp nơi trên thế giới để nuôi trồng tại Suối Dầu, biến nó thành một cộng đồng nông nghiệp và khoa học với một trạm xá phục vụ cư dân trong vùng.

Ngoài việc du nhập và phát triển cây cao su, ông cũng cho trồng cây cà-phê Liberia, các loại cây thuốc, cây coca để sản xuất cô-ca-in sử dụng trong ngành dược. Ông làm vườn, trồng hoa, nuôi chim, nuôi ngựa bò, sản xuất huyết thanh chống dịch cho bò. Trung tâm thí nghiệm này về sau trở thành Viện Thú y đầu tiên ở Đông Dương. Ông là người thành lập và là hiệu trưởng đầu tiên của Trường Y Đông Dương (tiền thân của Đại học Y Hà Nội) năm 1902. Ông trồng thử nghiệm cây canh ki na để sản xuất thuốc ký ninh chữa bệnh sốt rét năm 1917. Ông Năm Yersin nghiên cứu khoa học, sống thung dung trọn đời với người dân và thiên nhiên trong lành ở Suối Dầu, Nha Trang, Khánh Hòa.

Mộ ông Năm Alexandre Yersin nằm trên một ngọn đồi nhỏ gần Trại chăn nuôi Suối Dầu thuộc xã Suối Cát, huyện Cam Lâm, cách Nha Trang 20 km về phía nam và cách Đà Lạt 191km. Vị trí ngôi mộ tính từ cột mốc cây số và bảng hiệu chỉ đường rất rõ trên đường Quốc lộ 1, vào khoảng 2 km nữa thì đến một ngọn đồi có mộ ông Năm. Ngọn đồi này nằm giữa khu đất 500 ha ở Suối Dầu mà ông Năm đã mua bằng tiền thưởng nghiên cứu khoa học của chính ông. Tôi thật sự kính phục và ngưỡng mộ ông Năm và biết ơn khu đất này vì giống sắn KM94 và một số giống sắn lai mới triển vọng được bảo tồn và phát triển từ đây (Tôi sẽ kể chi tiết ở phần dưới).

A. YERSIN VỚI VIỆT NAM

Ông Năm Yersin là một người dân Việt sống chết với Việt Nam như chính sự thật cuộc đời ông mà không chỉ là một nhà bác học lỗi lạc người Pháp gốc Thụy Sĩ . Ông Năm hiền lành tốt bụng là người thầy, nhà nhân đạo và ân nhân được nhân dân Việt Nam tôn kính. Suối Giầu Nha Trang  nơi ông an nghĩ trở thành nôi nuôi dưỡng hun đúc những thành quả lao động khoa học không chỉ của ông mà còn của lớp người sau. (Suối Dầu hay Suối Giầu .còn đó một ẩn ngữ vì bác Năm Yersin cũng là một nhà ngôn ngữ học thông tuệ và tên gọi này có từ thời ông. Thơ thiền Trần Nhân Tông có câu: “Sách Nhàn đọc dấu Thơ thiền Nhân Tông như có như không”.”Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu. Sách Nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim” . Giấu hay là Dấu là một ẩn ngữ trên 700 năm Giầu hay là Dầu cũng là một ẩn ngữ trên 100 năm nay.

Ông Năm Yersin không chỉ là bác sĩ y khoa, nhà vi khuẩn học, nhà bệnh học hàng đầu thế giới, mà còn là người thành lập và là Hiệu trưởng đầu tiên Trường Y Đông Dương từ năm 1902 (tiền thân của Đại học Y Hà Nội) . Ông Năm là người đầu tiên tìm ra bệnh bạch hầu và cách chữa trị năm 1888, người đầu tiên tìm ra bệnh dịch hạch và điều chế huyết thanh chữa trị, người đầu tiên thử nghiệm cây canh ki na để sản xuất thuốc ký ninh chữa bệnh sốt rét năm 1917.

Ông Năm Yersin không những là nhà thám hiểm đặc biệt xuất sắc, người làm cho Nha Trang có tên ‘nhà trắng ông Hoàng’ ở ven biển Nha Trang thuở xưa, người thám sát lần đầu Cao nguyên Lâm Viên năm 1893 giúp thiết lập nên thành phố nghỉ mát Đà Lạt mà còn là nhà thám hiểm người nước ngoài đầu tiên đã tìm ra con đường bộ từ Nha Trang ở ven Biển Đông đi băng qua dãy Trường Sơn tới Stung Treng và đi suốt dọc hạ lưu sông Mekong đến Phnom Penh vào năm 1892.

Ông Năm Yersin không những là nhà chăn nuôi thành lập Trại Chăn nuôi Suối Dầu đầu tiên để làm Trung tâm thí nghiệm sản xuất huyết thanh chống dịch cho bò ngựa, và nơi này về sau trở thành Viện Thú y đầu tiên ở Đông Dương, nay lại trở thành Viện Paster Khánh Hòa mà ông Năm Yersin còn là nhà điểu học, nhà dân tộc học, nhiếp ảnh gia, nhà thiên văn, nhà phong thủy tài danh đặc biệt xuất sắc về khí tượng nông nghiệp. Ông vừa là nhà văn và là nhà dịch thuật;

Ông Năm Yersin không những là một nhà bác học đặc biệt thông tuệ mà còn là một nhà nông học phúc hậu hiền triết yêu thiên nhiên con người cây cỏ muông thú và vạn vật. Ông sống thung dung tự do tự tại giữa thiên nhiên an lành. Ông là người nước ngoài duy nhất được Chính phủ Việt Nam cấp bằng chứng nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vì ông là nhà nhân đạo và ân nhân được người Việt tôn kính vì ông làm điều thiện việc lành mà cuộc đời ông như gương trong. Ông Năm Yersin là người đầu tiên du nhập và phát triển cây cao su ở Việt Nam năm 1897. Ông nhờ khu đất rộng 500 héc-ta của chính ông tự mua ở Suối Dầu để làm nông nghiệp và chăn nuôi mà ông cũng là người đầu tiên du nhập và tuyển chọn nhiều loại thực vật và động vật từ khắp nơi trên thế giới để nuôi trồng tại Suối Dầu, biến nó thành một cộng đồng nông nghiệp và khoa học với một trạm xá phục vụ cư dân trong vùng.

Sắn Việt ở Suối Dầu chuyện nhỏ bài học lớn. Ông Năm Yersin mất lâu rồi mà đất lành ông Năm vẫn tiếp tục nở hoa đất việc tốt điều thiện. Sắn Việt KM94 cùng nhiều giống sắn lai mới được bảo tồn tuyển chọn, nhân giống phát triển ở tỉnh Khánh Hòa từ năm 1993, từ một phần tư thế kỷ trước, tại đất lành Suối Dầu của ông Năm Yersin là nôi chọn và nhân giống cho miền Trung và sau đó đã phát triển rộng rãi ra khắp Việt Nam. Ông Năm Yersin sống và chết tại Việt Nam, sau nửa thế kỷ Hoa Người và Hoa Đất ấy tiếp tục nở hoa. Chúng ta có được nhiều nhà khoa học xanh đến đất lành Việt Nam cùng chung sức làm việc. Kazuo Kawano và Reinhardt Howeler là những người bạn tốt của nông dân trồng sắn châu Á và Việt Nam, mà tôi thực sự kính trọng yêu mến họ và tôi sẽ kể tiếp cho bạn nghe trong câu chuyện khác.

Di sản ông Năm Yersin ở Việt Nam thật kính trọng và ngưỡng mộ.

ĐẤT SUỐI DẦU A. YERSIN

Trại Chăn nuôi  Suối Dầu ở Suối Cát xã Cam Lâm, cách Nha Trang 20 km về phía nam và cách Đà Lạt 191 km. Nơi cột mốc cây số ven đường Quốc lộ 1 vẫn là tấm bảng hiệu khiêm nhường chỉ đường vào đất lành suối Dầu ông Năm Yersin. (Suối Dầu hay suối Giầu, giống như Đại Ngãi hay Đại Nghĩa, quê hương người anh hùng lao động Lương Định Của con đường lúa gạo Việt Nam ở Sóc Trăng). Trại Chăn nuôi Suối Dầu Cam Lâm chính nơi đây năm 1993 đã là nôi khảo nghiệm nhân giống sắn KM94 ra Khánh Hòa và các tỉnh miền Trung Việt Nam sau hơn nữa thế kỷ từ năm 1943 mà bác Năm Yersin mất. Chị Đinh Thị Dục, giám đốc Trung tâm Khuyến Nông và Khuyến Lâm Khánh Hòa đã phối hợp cùng chúng tôi công bố kết quả này tại sách sắn ”Chương trình sắn Việt Nam hướng đến năm 2000″ trang 239 – 243. Tôi tìm về di sản đất lành Suối Dầu ông Năm Yersin với biết bao xúc động cảm khái. Tôi lắng nghe các cây cao su già trăm tuổi, mía, đồng cỏ …và các ruộng sắn rì rào trò chuyện với gió núi, gió đồng quê gió biển. Chính nơi đây một phần tư thế kỷ trước tôi đã đến đây nhiều lần và thấu hiểu và chiêm nghiêm trên cõi đời này có nhiều điều uẩn khúc. Mục tiêu sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật có lời giải đúng và làm được việc.

Đất lành Suối Dầu A. Yersin đến nay tuy được bảo tồn nhưng vẫn chưa được đánh thức đúng tiềm năng. Hội Liên hiệp Phụ Nữ Thành phố Nha Trang chào mừng Khánh Hòa 350 năm đã có đầu tư giếng khoan nhưng phải đậy nắp vì sợ sự bảo quản máy bơm không an toàn và dường như điều này chưa thật đúng như tâm nguyện ông Năm Yersin là muốn nước giếng thơi ai cũng múc được. Giáo sư bác sĩ Nguyễn Chấn Hùng đã kể chuyện về quẻ Thủy Phong Tỉnh dạy về tinh thần của giếng trong sách Chu Dịch của cụ Sào Nam “Nước giếng trong không đậy, ai cần thì cứ múc. Giếng không sợ cạn. Càng múc nước lên càng trong, đầy mà không tràn. Không được đậy lại, phải để mọi người dùng”. Cụ Phan Bội Châu bàn về hào thượng quẻ Tỉnh:“Nước đã lên miệng giếng rồi, thời nên để cho tất thảy người dùng, chớ nên che trùm lại. Hễ ai muốn múc thời tùy ý múc. Quân tử đem tài đức ra gánh vác việc đời. Hễ lợi ích cho thiên hạ thời cứ làm, mà chẳng bao giờ tiếc công”.

Tôi và tiến sĩ Phan Công Kiên được mời tham gia Hội đồng Khoa học và Công nghệ Khánh Hòa đánh giá nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu xác định đối tượng và cơ cấu cây trồng phù hợp trên đất thoái hóa tại xã Cam Thịnh Tây, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa”. Tiến sĩ Phan Công Kiên là Phó Viện Trưởng Viện nghiên cứu Bông và Phát triển Nông nghiệp Nha Hố. Kiên mới đến khu mộ bác Năm lần đầu còn tôi thì đã đến đây nhiều lần từ nhiều năm trước. Chúng tôi sau khi họp xong đã dành được thời gian lên thăm và thắp hương tưởng nhớ bác Năm, và cùng đứng bên khu mộ với giếng nước thơi để tưởng nhớ Người. Tôi thầm mong một ngày nào đó sẽ có cơ hội đưa gia đình và các bé con cháu tôi về nơi đây để thấu hiểu Nha Trang và Yersin một bài học lớn. Bài học giấc mơ hạnh phúc…

Tôi thắp hương tưởng nhớ bác Năm Yersin theo lối gọi yêu mến của người dân Việt và bâng khuâng nhớ Người. Tôi thầm tự hỏi: dưới vòm trời này, đất lành này, núi biếc biển xanh này, so sánh con người phúc hậu, hiền lành, khiêm nhường đang nằm dưới ngôi mộ yên bình kia và những vĩ nhân lỗi lạc nhất của các nước lớn đến và ra đi khỏi Việt Nam, rốt cụộc thì ai hơn ai ? Ai đọng lại trong lòng dân Việt sâu bền hơn?

Biết bao danh nhân nước ngoài đến Việt Nam nhưng mấy ai được dân Việt tôn kính và quý trọng đến vậy? Ông Năm khiêm nhường như thế nhưng công đức và công bằng lịch sử lắng đọng như một ân nhân dân Việt . Tôi về nhà muộn, không dừng được những suy nghĩ về bác Năm. Tôi chợt đọc được cảm nhận xúc động của em Nguyễn Quang Huy quê Phú Yên và tôi không nỡ không thức dậy thắp ngọn đèn khuya để đối thoại thầm lặng với đêm thiêng. Nguyễn Quang Huy viết:

Em đọc Yersin, người chữa trị dịch hạch và thổ tả, vào những buổi sáng ở cao nguyên Lâm Viên, lòng vô cùng ngưỡng mộ về vị bác sĩ danh tiếng này. Từ một chuyên gia trong lĩnh vực vi trùng, lại bỏ áo bluse để trở thành một thủy thủ vì sau một chuyến công tác đã “lần đầu tiên thấy biển”. Rồi khi trở thành thủy thủ lại một lần nữa từ bỏ những con sóng để khám phá ra cao nguyên Lâm Viên vì “nhìn thấy những đám mây trên rặng núi của Khánh Vĩnh chưa có ai khám phá”. Thế rồi sau những chuyến phiêu lưu lại trở thành một chuyên gia nông học, chủ đồn điền để lại cho người Việt biết bao lợi ích vì những công hiến của mình. Từ đồn điền rộng 500ha ông lại lui vè với mảnh đất mấy mét vuông với tấm bia mộ khiêm tốn ở Suối Dầu, để lại cho đời hình ảnh về một con người phi thường, một người không có cha nhưng đã đi xa hơn những giới hạn mà những người cha có thể đạt tới.

Theo mô tả của Patrick Deville thì Yersin suốt đời theo đuổi cái hiện đại nhất, em lại nhớ tới lời dạy của thầy Hoàng Kim rằng trong nghiên cứu khoa học phải mang về những thông tin số liệu mới nhất của thế giới, giống tốt nhất để phục vụ cho bà con. Em ngưỡng mộ cách thiết kế bài giảng của Thầy, thể hiện được sự tôn trọng khoa học và yêu nghề lớn lao.

Em chưa đến được viện Passteur cũng như đến Suối Dầu thăm mộ của bác sĩ Yersin, nhưng em có cảm giác một sự đồng điệu ghê gớm với con người của thế kỉ trước này. Em cũng đã ghé thăm trường Lycée Yersin (đã đổi tên thành Cao Đẳng Sư Phạm) hay Đại học Yersin nhưng chưa tìm thấy dấu ấn nào. Mong rằng có dịp sẽ đến được Suối Dầu Nha Trang để thắp một nén nhang và tưởng nhớ về một con người vĩ đại.

Cảm ơn Thầy ạ.”

Ông Năm Yersin không phải là người Việt nhưng ông được mọi người Việt mọi thời yêu quý, tôn kính, ngưỡng mộ. Ông thật hạnh phúc.

Đất lành bác Năm Yersin như cuốn sách kỳ diệu “vừng ơi mở ra”.
Nha Trang và Yersin, đất lành chim đậu, người hiền đến ở.
Nơi đây an nhiên một CON NGƯỜI.

Hoàng Kim

Minh Nga về Hà Nội “Không phụ lòng người lá và cây trải qua chặng đường toàn 34-35 độ C Về đến Hà Nội vẫn xanh tươi . Cám ơn quà xứ Nam. Quyết định đi vội không mang đủ quà Hà Nội cho mọi người. Nhưng Hà Nội có quà gì nhỉ ngoài không khí ô nhiễm và trái cây toàn có tẩm thuốc bảo quản hu hu. Hy vọng trồng được cây, sợ khó đây !!”

“Hôm qua đến thăm gia đình bác Trực lúc 4:30 chiều, tiếp đó thì đến nhà bác Huyền. Được gặp đầy đủ các anh chị và các cháu. Em Minh và Nga kết thúc một chuyến đi rất thành công cho dù thời gian còn chật hẹp! Thật xúc động khi được gặp lại các anh chị em và các cháu ở đất phương Nam sau nhiều năm! Được thấy các anh chị em và các cháu mọi việc đều ổn, Các anh chị tuy tuổi đã cao, sức khỏe có yếu đi, nhưng tinh thần vẫn lạc quan, vui vẻ, em thực sự rất mừng. Một lần nữa cám ơn hai bác Kim+Thủy và toàn bộ các anh chị em và các cháu ở Đồng Nai đã chu đáo giúp chúng em thực hiện được chuyến thăm đầy ý nghĩa này! Mong chúc cho đại gia đình ta sức khỏe dồi dào, làm ăn ngày càng tấn tới và cuộc sống hạnh phúc! Mong sớm gặp lại toàn thể các anh chị em và các cháu!”

DƯỠNG MẦM XANH PHƯƠNG NAM
Bạch Ngọc Hoàng Kim
(kể chuyện ảnh, chương 10)

Nhớ Bắc nắng và gió sông Hồng
Việt Nam con đường xanh
Đất Nước ân tình Bắc Trung Nam
Non sông liền một dải
Thăng Long Đông Đô Hà Nội
Huế Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng
Tổ Quốc ấm gốc cội
Dưỡng mầm xanh phương Nam


xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/duong-mam-xanh-phuong-nam/

MỘT GIA ĐÌNH YÊU THƯƠNG
Bạch Ngọc Hoàng Kim

Hoàng Gia Ngọc Phương Nam
Một gia đình yêu thương
An Viên Ngọc Quan Âm
Hậu duệ của mặt trời
Đất Mẹ vùng di sản
Hà Nội mãi trong tim

Bảo tồn và phát triển
Bài học lớn muôn đời
Việt Nam tổ quốc tôi


xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/một gia đình yeu-thuong.
(bao gồm chín chương/ bài bảo tồn và phát triển hệ thống độc lập, liên kết phát triển)

ĐỒNG ĐỘI CÙNG THÁNG NĂM
Hoàng Trung Trực Hoàng Kim


“Mười sáu tuổi áo vải đầu trần Khoác ba lô lên đường nhập ngũ” Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu ‘vị tướng viết văn’ là đồng đội cùng tháng năm với anh trai Hoàng Trung Trực đời lính của Hoàng Kim, ‘lớp anh trước, lớp em sau, đều thành chiến sĩ chung câu quân hành”. “Vài suy nghĩ nhân kỉ niệm cách mạng tháng Tám” và Đến với bài thơ hay “Đọc vị tướng viết văn” là kỷ niệm ấm áp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/dong-doi-cung-thang-nam/

TRÒ CHUYỆN VỚI YẾN THANH
Hoàng Kim


Yến Thanh Lý Sư Sư từ bỏ vinh hoa, lánh mình phiêu dạt ‘đạo ẩn vô danh’ lui ở ẩn. Đó là hai nhân vật kỳ tài, ẩn ngữ tâm đắc nhất của Thủy Hử. Khải Yến Thanh Lương Sơn bạn học của chúng tôi gửi mẫu chuyện sau:

Khải Yến Thanh Lương Sơn: Dành cho anh/chị không sử dụng facebook. Do friend list có hơn một nửa không phải là người Việt Nam nên mới có việc thêm tiếng Anh vào tút (mệt).

Mưu sinh trong công viên. Trời vừa ngớt hạt… đã thấy người đàn ông bày vé số ra bán. Tôi đặc biệt ưa thích các nhân vật nhỏ xíu xuất hiện hoặc đang bước ra khỏi khung hình. Cảm giác thật lạ! Khó diễn tả. Như một hành trình của mỗi con người đối với cuộc đời của họ. Tôi chắc rằng, người xem chỉ nghĩ nhân vật áo xanh nhỏ bé xuất hiện trong khung hình chỉ là sự tình cờ. Nhưng đó lại là dụng công của người chụp đợi chờ người áo xanh xuất hiện và đang bước ra khỏi khung hình. Chụp bằng phone, độ phân giải không cao.

Make a living in the park. It just stopped raining… saw a man selling lottery tickets. I especially love the small characters that appear or are stepping out of the frame. It feels so strange! Difficult to describe. Like a journey of each person towards their life. I’m sure, viewers just think the little blue shirt character appearing in the frame is just a coincidence. But it was the intention of the photographer to wait for the person in the blue shirt to appear and step out of the frame. Please don’t pixel peep! iPhone 8.

Kim TT2 Bạn học. Tác giả chuyển tải rất tốt! Trời vừa ngớt mưa, đường vũng nước, 2 ghế đá, kẻ khó nghèo rời đi mưu sinh, người ngược bước tìm màu xanh hy vọng (áo xanh), cây đời vẫn xanh dù tường rào khép kín…Xin cảm iwn và chia sẻ vài cảm nhận cá nhân cùng tác giả. Tks

Bach Ngọc Hoang Kim truyện: Mưa lành với lúa xuân đón đọc TRÒ CHUYỆN VỚI YẾN THANH; Dưỡng mầm xanh phương Nam #ana Dưỡng mẹ hiền thiên nhiên (chuyện đời không thể quên)

Khai Yến Thanh Lương Sơn: https://tuoitre.vn/vi-sao-my-philippines-xich-lai-gan-nhau-20230414073935502.htm

Huỳnh Hồng Lớp Trưởng bạn quý:
Chuyện xưa kể lại. Khi các bạn nổi cơn đói bụng. Chu Du thường ngửa mặt lên trời. “Hoàng Kim, tôi ăn cả phần anh”. Khổng Minh thấy thố cơm đã sạch trơn, miệng tuy không nói ra, nhưng lòng thật ưu phiền. Chuyện này lập lại thường xuyên. Vậy mà giữ được bạn hiền với nhau. Lớp trưởng nhắc bạn lần sau. Đói bụng ăn trước, chừa nhau đúng phần. Sống sao phải phải phân phân, Cây đa cậy thần, thần cậy cây đa. P/s. Thời sinh viên trai trẻ, Hoàng Kim bận việc riêng (nuôi dạy cháu Trần Văn Minh lên ở chung ngoài Trại Trường tăng gia tự túc và kèm cháu học thi phổ thông) nên thường xuyên đi ăn trễ bữa, Các bạn mượn câu thơ của Hoàng Kim:”Trận chiến hôm qua bạn góp máu hồng/ Lớp học hôm nay bạn không trở lại/ Trách nhiệm trong mình nhân lên gấp bội/ Đồng đội ơi, tôi ăn cả phần anh” (Hoàng Kim @Huỳnh Hồng lớp trưởng ơi, mình đọc mà ứa nước mắt bạn ạ. NÓI ÍT mà không chút chú giải thì làm sao thấu hiểu được . Mời xem thêm Thầy bạn trong đời tôi https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-ban-trong-doi-toi

Kim Notes lắng ghi chú
(Những chuyện đời không quên)

TRÒ CHUYỆN VỚI YẾN THANH
Bạch Ngọc Hoàng Kim

Thế sự hiên ngang một chiến thần
Thượng đài bản lĩnh thật vô song
Anh hùng trí dũng Kỳ Lân vượt
Lãng Nhân thời vũ Tống Giang so
Hảo hàn Lý Quỳ nhường bạn quý
Chân tình Người Ngọc phước duyên cho
Tiểu Ất Yến Thanh cao ẩn sĩ
Sư Sư Thủy Hữ nhất lão sư


(*) Yến Thanh đánh Thẩm Nguyên https://youtu.be/1jHkJsP1t5s; Yến Thanh Lý Sư Sư https://youtu.be/1jHkJsP1t5s

Khải Yenthanh Luongson @ Kim Hoàng Dạ! Chết mất! Thơ hay quá… em chịu bác rồi. Cám ơn bác. Bác dụng công nhiều. Em cám ơn bác lần nữa vì 2 clip bác giới thiệu hay quá.

Bạch Ngọc Hoàng Kim truyện: Hồ Xuân Hương, Đà Lạt hình ảnh Yenthanh Luongson ; thơ và bài khảo luận Nguyễn Du Hồ Xuân Hương của HK tại Bạch Ngọc Kim Hoàng truyện https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-ho-xuan-huong; #vietnamhoc Việt Nam tổ quốc tôi trong nhân gian còn nhiều tích truyện hay, chúng ta chưa bảo tồn và phát triển đầy đủ đó thôi https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-to-quoc-toi/

TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim
#htn #ana #Thungdung#dayvahoc, #vietnamhoc, #đẹpvàhay, #cnm365#cltvn
; Đền Kim Liên Hà Nội, Tứ Trấn Đất Thăng Long (hình) Việt Nam con đường xanh Cách đánh của Việt Nam; Thế giới trong mắt ai ; Chỉ tình yêu ở lại ; Về với vùng cát đá ; Thầy giáo già trước biển; Mưa lành và lúa xuân; Lúa siêu xanh Việt Nam ; Tiến bộ giống sắn Việt Nam https://youtu.be/GEaSV3p3Nb8 ; Sắn Việt Nam ngày nay https://youtu.be/MBL_RtU3Tcw; Đồng đội cùng tháng năm; #cnm365 #cltvn 20 tháng 4 https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-20-thang-4/ ; https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tinh-thuc-cung-thang-nam/https://hoangkimvn.wordpress.com/tag/tinh-thuc-cung-thang-nam/

CNM365 Tình yêu cuộc sống https://hoangkimlong.wordpress.com; #tinhyeucuocsong #hoangkimlong,  #hoanggia; #AnnhiênBan mai chào ngày mới; Tỉnh thức cùng tháng năm; Lên Trúc Lâm Yên TửĐêm Yên Tử; An vui cụ Trạng Trình; Trăng rằm Ngọc Quan Âm; Pho tượng Ngọc Quan ÂmNhớ Viên Minh Hoa Lúa; Ai bảo chăn trâu là khổ?; A Na tìm được Ngọc; Hoàng Tố Nguyên tiếng TrungHoàng Long cây lương thực;  Hoàng Kim chuyện đời tôi; Chọn giống sắn Việt Nam; Thầy nghề nông chiến sĩ;  Kim Notes lắng ghi chú; Thầy bạn là lộc xuân;  Hoàng Ngọc Dộ khát vọng; Sóc Trăng Lương Định Của;  Thầy Quyền thâm canh lúaThầy Xuân canh tác lúa; Thầy Vũ trong lòng tôi; Thầy Luật lúa OMCS OM;  TTC Group Sen vào hè;  ĐHNN2 Hà Bắc nay và xưa; Lớp 10A TT ĐHNN2 Hà Bắc;   Sự chậm rãi minh triết; Họ im lặng như núiVăn chương ngọc cho đời; Chính Ngọ đoán Kinh Dịch; An nhiên; Một gia đình yêu thương; Nhớ Ông Bà Cậu Mợ; Kim Notes lắng ghi chú; Chung sức trên đường xuân; Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Quà xuân thật tuyệt vời; Xuân ấm áp tình thân; Chuyện đời không thể quên; Thời chuyển mùa nhớ bạn. Nước Nga và châu Âu; Giống sắn KM140 VIFOTEC; Bảo tồn và phát triển sắn; Vietnamese cassava today; Chuyện ngậm ngãi tìm trầm; Trần Khánh Dư Vạn Kiếp; Nhớ bài thi tuổi thơ; Trường học hướng ban mai; Thơ tặng mùa yêu thương; Bà Đen; Sholokhov người sông Đông Nhớ kỷ niệm một thời; A Na Bình Minh An; A Na bà chúa Ngọc; Truyện George Washington; Sắn Việt Nam và Kawano, Cassava and Vietnam: Now and Then. Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; Công viên Tao Đàn HCM; Đêm trắng và bình minh; Mạc triều trong sử Việt; Ngày mới Ngọc cho đời; Hoa Lúa giữa Đồng Xuân; Thăm thẳm trời sông Thương; Nha Trang và A. Yersin; Nha Trang thơm trầm hương; Nha Trang biển và em; Sắn lúa ở Phú Khánh; Ức Trai tâm tựa Ngọc; Xuân sớm Ngọc Phương Nam; Tháng ba hoa hồng trắng; Qua Mang Thít Vĩnh Long; Nơi một trời thương nhớ; Sông Kỳ Lộ Phú Yên; Sớm xuân kênh Thị Nghè; Nhà Trần trong sử Việt; Sơn Nam ông giá Nam Bộ ; Sơn Nam và Bùi Giáng; Thầy bạn là lộc xuân; Trăng rằm Ngọc Quan Âm ; An nhiên; Champasak ngã ba biên giới ; Điểm hẹn chốn đồng tâm; Lào hoa trắng nắng Mekong; Gia Cát Mã Tiền Khóa; Thành tâm với chính mình; Soi sáng lại chính mình ; Tím một trời yêu thương; Giấc mơ lành yêu thương; Ngôi sao mai chân trời; Công viên Tao Đàn HCM; Hậu duệ của mặt trời; Xuân sớm Ngọc Phương Nam; Đến với Tây Nguyên mới; Giống lúa siêu xanh GSR65; Giống lúa siêu xanh GSR90; Nguyễn Duy cát trắng bụi; Nguyễn Khải thầy văn ViệtSự chậm rãi minh triết; Chuyện ngậm ngãi tìm trầm; Họ im lặng như núiVăn chương ngọc cho đời; Chính Ngọ đoán Kinh Dịch; An nhiên; Một gia đình yêu thương; Kim Notes lắng ghi chú; Chung sức trên đường xuân; An vui cụ Trạng Trình; Quà xuân thật tuyệt vời; Chuyện đời không thể quên; Thời chuyển mùa nhớ bạn. Thế giới trong mắt ai. Hạnh Phúc khát khao xanh ; Phúc hậu thanh thận cần ; Càu hiếu nối bờ thương; Trân trọng Ngọc riêng mình; Ngày Quốc tế Hạnh phúc; Chim Phượng về làm tổ; Quốc Công đạo làm tướng; Ngồi tựa đỉnh non xanh; Thượng Đức thương nhìn lại; Tô Đông Pha Tây Hồ; Cây bồ đề nhà tôi ; Ngắm dấu chân thời gian; Gốc Bồ Đề vườn xưa ; Ấn Độ địa chỉ xanh; Linh Giang sông quê hương; Câu cá bên dòng Sêrêpôk; Chuyện đồng dao cho em ; Đến với Tây Nguyên mới ; Thanh nhàn vui tháng năm Lên Việt Bắc điểm hẹn ; Tiếng Việt lung linh sáng; Bài thơ Viên đá Thời gian; Kim Notes lắng ghi chú; Gia Cát Mã Tiền Khóa; Bài thơ Viên đá Thời gian;Tĩnh lặng cùng với Osho; Đi thuyền trên Trường Giang; Đến với Tây Nguyên mới; Lời thương; Địa chỉ xanh Ấn Độ; #Annhiên; Việt Nam con đường xanh.Nguyễn Hiến Lê sao sáng; Lời thương; Giấc mơ lành yêu thương; Thầy nghề nông chiến sĩ; Truyện Norodom Sihanouk; Tĩnh lặng cùng với Osho; Đi thuyền trên Trường Giang; Đến với Tây Nguyên mới; Bài thơ Viên đá Thời gian ; Chín điều lành hạnh phúc; Trở về nơi điểm hẹn; Hữu Ngọc văn hóa Việt; Trăng rằm đêm Thanh Minh; Quảng Bình đất Mẹ ơn Người; Lúa siêu xanh Việt Nam; Hoa Đất thương lời hiền; Đất Việt Nguyễn Đình Bông; Xanh một trời hi vọng; Về miền Tây yêu thương; Nơi một trời thương nhớ; Nông lịch tiết Thanh Minh; Tốt gỗ chẳng cần sơn; Ngày xuân đọc Trạng Trình; Nhớ thầy Trần Ngọc Ngoạn; Đợi anh ngày trở lại ; Vui quà tặng cuộc sống; Tuyệt vời lục bát Việt; Nhớ lời thề cỏ May; Sự thật tốt hơn ngàn lời nói ; Thế giới trong mắt ai; Nhà Trần trong sử Việt; Lời dặn của Thánh Trần; Bà Đen; Câu chuyện ảnh tháng Tư; Hoa Đất thương lời hiền; Đất Việt Nguyễn Đình Bông; Về Nghĩa Lĩnh Đền Hùng Nhà Trần trong sử Việt; Lời dặn của Thánh Trần; Bà Đen; Đền Trần chùa Thắng Nghiêm; Một gia đình yêu thương; Nguồn Son nối Phong Nha; Đại Lãnh nhạn quay về; Sớm mai qua Đại Lãnh; Cát đá đất miền Trung; Nhớ bạn nhớ châu Phi; Hương Huế nhớ Thầy Cô; Câu chuyện ảnh tháng Tư. Giấc mơ lành yêu thương; Bài thơ Viên đá Thời gian; Sông Mekong tin nổi bật; Ma Văn Kháng trong tôi; Nguyên Hùng bạn xứ Nghệ; Nhớ bạn nhớ châu Phi; Nhớ thầy Tôn Thất Trình; Bảo tồn và phát triển sắn; Nhớ Ông Bà Cậu Mợ; Chuyện đồng dao cho em; Giấc mơ lành yêu thương; Bài thơ Viên đá Thời gian; Gặp bạn giữa đồng xuân; Thầy nghề nông chiến sĩ; Thượng Đức thương nhìn lại; Đêm ngủ ở Hà Tân; Nguyên Hùng bạn xứ Nghệ; Nhớ bạn nhớ châu Phi;Ghana bờ biển vàng; Ai Cập bạn tôi ở đấy; Câu chuyện ảnh tháng Tư, Nhớ thầy Tôn Thất Trình; Chuyện thầy Tôn Thất Trình; Giống khoai lang Việt Nam; Về Trường để nhớ thương; Minh triết Thomas Jefferson; Chuyện cổ tích người lớn; Lời dặn của Thánh Trần; Đèo Ngang thăm thẳm nhớ; Một vùng trời nhân văn; Chẳng hiểu sao Ông Út lại chảy nước mắt? Văn chương ngọc cho đời, Những người Việt ở FAO; Tắm tiên Chư Yang Sin; Thầy bạn trong đời tôi; Bóng hạc chốn xa xôi; Nông nghiệp công nghệ cao; Chuyện thầy Tôn Thất Trình; Việt Nam con đường xanh; Chuyện cổ tích người lớn; Mưa bóng mây nắng đầy; Mưa lành và lúa xuân; Đồng đội cùng tháng năm; Một vùng trời nhân văn; Thầy bạn trong đời tôi; Đọc ’50 năm nhớ lại’; Chẳng hiểu sao Ông Út lại chảy nước mắt? Văn chương ngọc cho đời; Đèo Ngang thăm thẳm nhớ; Việt Nam con đường xanh; Giống sắn KM419 và KM440, Chọn giống sắn kháng CMD; Chọn giống sắn Việt Nam; Tắm tiên Chư Yang Sin; Nông nghiệp công nghệ cao; Mưa bóng mây nắng đầy; Chuyện thầy Tôn Thất Trình; Chuyện vua hề Sác lô; Việt Nam con đường xanh; Cây Lương thực Việt Nam; Hoàng Long cây lương thực; Hoàng Đình Quang bạn tôi, Hoàng Ngọc Dộ khát vọng; Hoàng Trung Trực đời lính; Chuyện thầy Hoan lúa lai; Thầy nghề nông chiến sĩ; Nắng và gió phương Nam; Về miền Tây yêu thương; Ngắm ‘ngõ nhà lão Hâm’; Đọc ’50 năm nhớ lại’; Con đường xanh yêu thương; Mưa xuân trong mắt ai; Hoa Mai với Thiền sư; Hoa Bình Minh Hoa Lúa; Hoa và Ong Hoa Người; Lev Tonstoy năm kiệt tác; Trò chuyện với Hoàng Kim ; Chỉ tình yêu ở lại, Thế giới trong mắt ai; Hoàng Thành ngọc cho đời, Hoàng Kim thơ cho con; Bình Minh An Ngày Mới; Thăm nhà cũ của Darwin; Nguyễn Ngọc Tư sầu riêng; Thầy Phạm Hồng Đức Phước; Trò chuyện với Thiền sư; Hoàng Long thơ về Mẹ; Hoàng Ngọc Dộ khát vọng; Hoàng Trung Trực đời lính; Hoàng Đình Quang bạn tôi; Nắng và gió phương Nam; Học với chữ Hán Nôm;Thung dung đời quên tuổi; Việt Nam học tinh hoa; Hà Nội mãi trong tim; Tô Đông Pha Tây Hồ; Trần Văn Trà bóng hạc; Nông lịch tiết Cốc vũ; Hoa Đất thương lời hiền;

Ngày 20 tháng 4 là ngày Cốc vũ (mưa rào) một của 24 tiết khí lịch nhà nông. Ngày 20 tháng 4 năm 2022 đền Kim Liên Hà Nội đích thân Chủ tịch UBND TP Hà Nội Chu Ngọc Anh: trao Bằng xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt. Ngày 20 tháng 4 năm 1862, Louis Pasteur và Claude Bernard làm xong thử nghiệm đầu tiên về cách khử trùng. Ngày 20 tháng 4 năm 1996, ngày mất Trần Văn Trà, Thượng tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam (sinh năm 1918) Ngày 20 tháng 4 năm 1972, Tàu Apollo 16 đến Mặt Trăng. Bài chọn lọc ngày 20 tháng 4 Việt Nam học tinh hoa; Hà Nội mãi trong tim; Tô Đông Pha Tây Hồ; Trần Văn Trà bóng hạc; Nông lịch tiết Cốc vũ; Hoa Đất thương lời hiền; Hoàng Thành ngọc cho đời, Hoàng Kim thơ cho con; Bình Minh An Ngày Mới; Thăm nhà cũ của Darwin; Nguyễn Ngọc Tư sầu riêng; Thầy Phạm Hồng Đức Phước; Trò chuyện với Thiền sư; Hoàng Long thơ về Mẹ; Hoàng Ngọc Dộ khát vọng; Hoàng Trung Trực đời lính; Hoàng Đình Quang bạn tôi; Nắng và gió phương Nam; Học với chữ Hán Nôm;Thung dung đời quên tuổi; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-20-thang-4/https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-20-thang-4/

VIỆT NAM HỌC TINH HOA
Hoàng Kim


Việt Nam ngời di sản
Hoàng Thành Trúc Lâm sáng
Hà Nội mãi trong tim
Tứ Trấn Đất Thăng Long

Đền Kim Liên Hà Nội Tứ Trấn Đất Thăng Long Việt Nam Học Tinh Hoa Theo truyền hình An Viên https://www.facebook.com/anvientvbchannel/videos/357366486357824/ Chủ tịch UBND TP Hà Nội Chu Ngọc Anh: Đích thân trao Bằng xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt đền Kim Liên ngày 20 tháng 4 năm 2022. “Thăng Long tứ trấn” hay “Tứ trấn Thăng Long” là cụm từ để chỉ 4 di tích tiêu biểu, trấn giữ bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc của kinh thành Thăng Long, là các đền: Bạch Mã, Voi Phục, Kim Liên và Trấn Vũ. Việt Nam Học Tinh Hoa https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-hoc-tinh-hoa tích hợp thông tin này tại chuyên mục Hà Nội mãi trong tim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ha-noi-mai-trong-tim#vietnamhoc; #cnm365 #cltvn #Thungdung

ĐỀN NGỌC SƠN HỒ GƯƠM
Minh Sơn Hoàng Bá Chuân

Tô điểm Hà Thành một hạt châu
Ấy hồ Lục Thủy tiếng từ lâu
Trăng vờn cổ thụ mây lồng nước
Tháp hướng trời xanh gió lộng cầu
Kiếm bạc hưng bang rùa vẫn ngậm
Bút son kiến quốc hạc đương chầu
Trùng trùng lá biếc hoa phơi gấm
Kìa tượng Vua Lê chót vót cao

1966
(Đã in trong tuyển tập Ngàn năm thương nhớ
NXB Hội Nhà Văn xuất bản năm 2004 nhân kỷ
niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội)

HÀ NỘI MÃI TRONG TIM
Hoàng Kim

Đền Ngọc Sơn Hồ Gươm
Hoàng Thành ngọc cho đời
Tháp Bút viết trời xanh
Trăng rằm sen Tây Hồ

Việt Nam ngời di sản
Hoàng Thành Trúc Lâm sáng
Hà Nội mãi trong tim
Tứ Trấn Đất Thăng Long

Việt Nam học tinh hoa

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/den-ngoc-son-ho-guom/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-thanh-ngoc-cho-doi/
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thap-but-viet-troi-xanh/
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/trang-ram-sen-tay-ho/

TÔ ĐÔNG PHA TÂY HỒ
Hoàng Kim


Tô Nguyễn đêm vui thú bạn hiền
Lúa sắn ngày chăm lo lớp trẻ
Thầy chiến sĩ trầm tích sử ký
Bạn nhà nông đúc kết tinh hoa.

Tôi vui chép chuyện “Tô Đông Pha Tây Hồ” kể chuyện thơ và đời Tô Đông Pha. Bạn đi du lịch Tây Hồ Hàng Châu niềm vui lớn là được chứng kiến công trình thủy lợi Tô Đông Pha. Ông là người hiền bị đưa về trấn nhậm chốn đất xa xôi, khó khăn này ( Tây Hồ Hàng Châu ví như đập thủy lợi đồng Cam Phú Yên, thay đổi sinh cảnh tạo nên vựa lúa miền Trung). Thuở xưa khi Tô Đông Pha đến Tây Hồ, thấy ruộng đồng xơ xác, tiêu điều, ông lập tức giúp dân tổ chức làm hồ trữ nước và làm mương tưới mát ruộng đồng. Tây Hồ ngày nay là di sản văn hóa thế giới. Đêm trăng, ngắm trăng rằm lồng lộng soi trên đầm sen và nhà thủy ta tĩnh lặng đẹp lạ lùng! Tô Đông Pha và Nguyễn Du đều là những những danh sĩ tinh hoa, nhà tư tưởng và đại thi hào đã để lại cho đời sự nghiệp lớn giáo dục văn hóa và những viên ngọc văn chương tuyệt kỹ. Tới Tây Hồ, thật kỳ thú được đi trên đê Tô, ngắm vầng trăng cổ tích. Câu thơ “Mưa” của người hiền lãng đãng đọng mãi ngàn năm: “Mây đen trút mực chưa nhòa núi, Mưa trắng gieo châu nhảy rộn thuyền. Trận gió bỗng đâu lôi cuốn sạch, Dưới lầu bát ngát nước in trời. (Mưa, thơ Tô Đông Pha, bản dịch của Nam Trân).

Tây Hồ là một hồ nước ngọt nổi tiếng phía tây thành phố Hàng Châu, thủ phủ tỉnh Chiết Giang, cách Thượng Hải 180 km về phía Tây Nam thuộc miền đông Trung Quốc. Tô Đông Pha (1037-1101) là nhà thơ văn có nhân cách cao quý thời Tống như vầng trăng cổ tích lồng lộng trên bầu trời nhân văn Trung Hoa và nhân loại. Thơ văn Tô Đông Pha và Tư trị thông giám của Tư Mã Quang là kiệt tác soi tỏ nhiều uẩn khúc của lịch sử. Mao Trạch Đông đã nghiền ngẫm rất kỹ các kiệt tác này, và đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần kiệt tác Tư trị thông giám của Tư Mã Quang cùng với Thơ và từ của Tô Đông Pha để tìm trong rối loạn của lịch sử đôi điều kinh bang tế thế (xem Cuộc cờ Thế kỷ của Diệp Vĩnh Liệt, người dịch Thái Nguyễn Bạch Liên 1996). Nguyễn Du trăng huyền thoại, bậc danh sĩ tinh hoa Việt Nam cũng để lại cho đời nhiều uẩn khúc lịch sử mơ hồ chưa thấu tỏ. Tô Đông Pha thơ ngoài ngàn năm, mỗi năm tôi thường đọc lại và suy ngẫm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/to-dong-pha-tay-ho

TÔ ĐÔNG PHA DANH SĨ TINH HOA

Tô Đông Pha tên thật là Tô Thức, tự là Tử Chiêm, hiệu Đông Pha cư sĩ, sinh ngày 8 tháng 1 năm 1037 tại Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, mất ngày 24 tháng 8 năm 1101 tại Thường Châu. Địa chỉ ngôi mô của Tô Đông Pha tại thôn Điếu Đài huyên Hiệp Thành, Nhữ Châu ngày nay. Tô Đông Pha là chính khách lỗi lạc, nhà tư tưởng, nhà văn, nhà thơ, nhà phật học, nhà thư pháp, họa sĩ, nhà dược học, người sành ăn nổi tiếng Trung Quốc thời Tống. Tô Đông Pha nhân cách cao quý, việc tốt truyền đời, tình yêu tuyệt vời, thơ văn kiệt tác, thư pháp lừng lẫy, miếng ngon nhớ lâu, vầng trăng cổ tích lồng lộng trên bầu trời nhân loại.

Tô Đông Pha là danh sĩ tinh hoa, một đời yêu thương, thơ ngoài ngàn năm, một trong mười đại văn hào nổi tiếng bậc nhất của Trung Quốc cổ và cận đại, bao gồm: Khuất Nguyên, Tô Đông Pha, Đỗ Phủ, Tư Mã Thiên, Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Thang Hiển Tổ, Lục Du, Tào Thực và Tào Tuyết Cần. Thơ và từ Tô Đông Pha được coi là chuẩn mực cổ văn Trung Hoa trong ‘Đường Tống bát đại gia’ gồm Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên đời Đường; Tô Đông Pha, Âu Dương Tu, Tô Tuân, Tô Triệt, Tăng Củng, Vương An Thạch thời Tống. Tô Đông Pha đã để lại cho đời một mẫu mực hiền tài nhân cách cao quý với kiệt tác văn hóa và văn chương đích thực, vầng trăng cổ tích thơ ngoài ngàn năm.

Tô Đông Pha cùng với Tư Mã Quang cựu tể tướng và sử gia danh tiếng là hai nhà tư tưởng nhân vật chính trị quan trọng kiệt xuất của thời Tống. Ông thuộc phái “cựu đảng” “phái coi trọng đạo đức, lẽ phải, kỷ cương”, đối lập hoàn toàn với phái “tân đảng” do Vương An Thạch chủ trương khởi xướng chính sách đổi mới “cường thịnh phát triển lớn mạnh quốc gia, bất chấp đạo lý”, Cuộc đời Tô Đông Pha chính vì vậy luôn bị cản trở dèm pha không suôn sẻ khi phái ‘tân đảng’ cầm quyền thao túng chính sách và dùng mọi quỷ kế để loại trừ đối thủ chính trị. Tô Đông Pha nổi tiếng là một nhà chính luận, các tác phẩm văn chương của ông đều đặc biệt sâu sắc, góp phần to lớn vào việc nâng cao dân trí, hiểu biết bách khoa thư, văn học du lịch Trung Quốc thế kỷ thứ 11. Thơ Tô Đông Pha nổi tiếng suốt lịch sử lâu dài, tầm ảnh hưởng rất rộng lớn tại Trung Quốc, Nhật Bản và các vùng lân cận, cũng được biết đến trong phần nói tiếng Anh trên thế giới thông qua các bản dịch của Arthur Waley và các người khác. Tô Đông Pha đạt mức tinh diệu về phật học, thư pháp, họa sĩ, dược lý, sành ăn, biểu tượng nghệ thuật. Ông được coi là nhân cách ưu việt của thế kỷ XI. Những kẻ xấu phải dùng những mưu ma chước quỷ chứ không thể hủy hoại được thanh danh ông. “Thịt lợn kho Tàu Tô Đông Pha” là món ăn ngon nổi tiếng tại Hàng Châu, được nhân dân vùng này mến mộ đặt tên để vinh danh ông.

Cuộc đời Tô Đông Pha gắn bó mật thiết với thời đại của ông. Nhà Tống là triều đại cai trị ở Trung Quốc trên 300 năm (960- 1279) khởi đầu từ Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn chấm dứt Ngũ Đại Thập Quốc thống nhất Trung Quốc năm 960, trãi 9 đời vua thời Bắc Tống (960 -1127) khi quân đội nhà Kim chinh phục miền Bắc Trung Hoa và chiếm kinh đô Biện Kinh vào năm 1127, với 9 đời vua thời Nam Tống (1127-1279), thì nhà Tống thay thế bởi nhà Nguyên. Tìm hiểm cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Tô Đông Pha cần phải thấu hiểu chi tiết bối cảnh lịch sử và những sự kiện quan trọng chi phối cuộc đời ông.

Tô Đông Pha (1037-1101) là danh sĩ tinh hoa có ba năm 1960-1963 làm quan dưới thời vua Tống Nhân Tông, bốn năm làm quan dưới thời vua Anh Tông (từ ngày 2 tháng 5 năm 1063 đến 5 tháng 1 năm 1067), mười tám năm làm quan dưới thời vua Tống Thần Tông (từ ngày 26 tháng 1 năm 1067 đến 30 tháng 3 năm 1085), mười lăm năm làm quan dưới thời vua Tống Triết Tông 1 tháng 4 năm 1085 đến 3 tháng 2 năm 1100, gần hai năm làm quan dưới thời vua Tống Huy Tông (từ 24 tháng 2 năm 1100 cho đến ngày 24 tháng 8 năm 1101) thì Tô Đông Pha mất khi ông 64 tuổi. Con đường chính trị của ông bị chi phối nhiều bởi các vị vua, các tể tướng và hệ thống chính trị mỗi thời. Di sản cuộc đời và văn chương của ông để lại là vầng trăng cổ tích soi tỏ bối cảnh chính trị xã hội biến động của 5 thời vua chúa nhà Bắc Tống trong lịch sử.

Bối cảnh nhà Bắc Tống thời Tô Đông Pha là lúc nhà Tống còn kiểm soát được phần lớn đất Trung Hoa, ngoại trừ mặt đông bắc bị nhà Liêu thường xuyên áp lực quấy nhiễu buộc nhà Tống phải cầu hòa tốn tiền bạc để đổi hòa bình và tăng tiền thuế lên 20 vạn, sử gọi là Trọng Hi tăng tệ; mặt tây bắc thì bộ tộc Đảng Hạng hưng thịnh lập nước Tây Hạ năm 1038, nhà Tống cũng phải cầu hòa và cũng phải nộp tiền bạc để đổi hòa bình hằng năm; mặt nam sau việc trỗi dậy của Nùng Trí Cao là sự thực hành chính sách gây hấn của Vương An Thạch đối với Việt Nam để mong tìn được một thắng lợi tinh thẩn . Con đường chính trị của ông ảnh hưởng nhiều bởi các vị vua, các tể tướng và hệ thống chính trị mỗi thời.

Tô Đông Pha sinh ra tại Mi Sơn, Mi Châu, nay là địa cấp thị Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên. Ông nội Tô Đông Pha tên là Tô Tự, cha ông là Tô Tuân tự là Minh Doãn (1009-1066), mẹ ông họ Trình (?-1057) và em trai là Tô Triệt, tự là Tử Do (1039-1112). Cả ba cha con ông đều là danh sĩ tinh hoa trong Đường Tống bát đại gia .

Đông Pha cưới vợ đầu là Vương Phất (1040-1065) nhỏ hơn ông ba tuổi năm 1055 khi ông 18 tuổi. Tô Đông Pha thuở nhỏ chơi thân với một cô em họ xinh đẹp, hiền hậu và thông minh, ông rất yêu quí nàng và nàng cũng rất yêu ông nhưng mẹ ông ngăn cản không cho cưới vì là bà con gần. Khi Tô Đông Pha 18 tuổi, học giỏi đủ sức đi thi thì cha mẹ ông lo cưới vợ cho ông ngay ở quê nhà (và cho cả em trai ông là Tô Triệt nữa) vì e rằng nếu ông lên kinh thi đỗ thì sẽ bị các danh gia vọng tộc đem mồi vinh hoa phú quí ra nhử để gả con gái cho. Hơn nữa nếu ba cha con đi thi thì cũng cần các cô con dâu ở gần để chăm sóc mẹ. Vương Phất vợ ông năm ấy mới mười lăm tuổi ngoan hiền và rất yêu quý chồng. Vương Phất từ trần năm 1065 khi nàng mới 26 tuổi, an táng tại Tứ Xuyên. Vương Phất để lại cho chồng một người con trai mới biết đi, tên là Tô Mại. Vương Phất trước khi mất có trối trăng với chồng là ông nên lấy em họ của nàng là Vương Nhuận Chi, vì cô rất giống nàng đẹp người đẹp nết để chăm sóc chồng và nuôi dạy Tô Mại. Tô Đông Pha thương tiếc khóc mà nhận lời. Đời ông sau này nhiều lần viết thơ về người vợ đã khuất.

Tô Đông Pha năm 1056-1057 đã từ biệt mẹ và vợ để cùng cha và em vượt núi sông Tứ Xuyên hiểm trở để đi suốt hai tháng về dự thi ở kinh đô Khai Phong tại tỉnh Hà Nam vùng đất Trung Nguyên trung và hạ lưu sông Hoàng Hà, cách Bắc Kinh 808 km. Khai Phong là thủ đô Trung Quốc thời Bắc Tống là một trong tám cố đô Trung Quốc gồm Bắc Kinh, Nam Kinh, Tràng An (Tây An), Lạc Dương, Khai Phong, An Dương và Trịnh Châu. Tô Đông Pha cùng cha và em đến Khai Phong tháng 5 năm 1056 và chờ kỳ thi cho đến mùa xuân năm sau. Âu Dương Tu làm chánh chủ khảo của kỳ thi ấy với chủ trương tìm người hiền tài giúp vua, thể lệ thi nghiêm ngặt và đích thân vua Tống Nhân Tông duyệt chọn đầu bài. Bài thứ nhất hỏi về hiểu biết chính trị và lịch sử cách thức trị quốc an dân, bài thứ hai là tinh hoa phép trị nước của Trung Hoa vận dụng tứ thư ngũ kinh các chuẩn mực kinh điển để luận giải và đưa ra các chính sách đối nội đối ngoại phù hợp thời đó, bài thứ ba là bài luận chính trị về giải pháp kinh bang tế thế. Đầu đề bài chính trị năm ấy là ” Luận về sự trung hậu rất mực trong phép thưởng phạt ?” (Hình thưởng trung hậu chi chí luận?). Hai anh em Tô Đông Pha Tô Triệt đều đỗ cao. Tô Tuân năm ấy không thi vì không muốn ganh đua với hai con. Mẹ Tô Đông Pha mất cuối năm 1057, ba cha con vội quay về cư tang và họ từ chối không nhận chức quan.

Cuối năm 1059 đầu năm 1060, Tô Đông Pha hết tang mẹ đã cùng cha và em mất 4 tháng vượt 2.000 cây số đường đồi núi và sông suối hiểm trở để quay trở lại kinh đô. Tô Đông Pha nhận một chức quan nhỏ là chủ bạ huyện Phúc Xương tỉnh Hà Nam . Năm 1061, ông nhậm chức Thiêm phán phủ Phượng Tường tỉnh Thiểm Tây. Năm ấy hạn nặng, ông và dân chống hạn cứu lúa màu suốt năm, ông làm bài “Kỉ vũ đình ký” cầu mưa lòng thành cảm động cả trời đất và lòng người rất nổi danh.

Cuộc đời Tô Đông Pha trãi qua năm đời vua Tống Nhân Tông, Tống Anh Tông, Tống Thần Tông, Tào Thái hậu, Tống Triết Tông của triều đình nhà Tống. Ông là người cùng thời với các Tể tướng Âu Dương Tu, Vương An Thạch, Hàn Kỳ, Tư Mã Quang, Tăng Bố với những danh tài Trình Di, Tăng Củng…. Tất cả năm vị hoàng đế, năm vị Tể tướng, các bậc danh tài đều thừa nhận trí tuệ tài hoa và kiến thức lỗi lạc của ông nhưng do có sự tranh chấp bè đảng trong triều đình (qua các sự kiện lớn “bắc ngự Liêu Hạ”, “biến pháp và đảng tranh”, khởi đầu “sự biến Tĩnh Khang” được thể hiện rõ trong sách “Tư trị thông giám“) nhất là vì cá tính của Tô Đông Pha rành mạch, công chính nên số phận của ông lên voi xuống chó, nhiều phen điêu đứng, bị hãm vào hoàn cảnh trớ trêu đến tuyệt vọng. Tô Đông Pha tuy vậy may mắn thoát chết và trong bước đường cùng khi bị biếm chức đày ải về vùng đất Tây Hồ Hàng Châu khô cằn thiếu nước tưới, dân đói khổ, ở xa kinh đô thì ông vẫn kịp thực hiện công trình nông nghiệp thủy lợi “đê Tô” di sản thế giới lưu lại cho dân cho đời. Tô Đông Pha trong lần làm quan ở vùng đất biên ải Giang Nam, thực chất là đi đày, suốt những năm tháng dằng dặc gần như trọn đời đầy chông gai ấy, ông vẫn luôn lạc quan minh triết với sự nghiệp sáng tác chưa bao giớ ngưng nghĩ. để lại cho đời những kiệt tác văn hóa, thơ ngoài ngàn năm.

TÔ ĐÔNG PHA VẦNG TRĂNG CỔ TÍCH

Tô Đông Pha là vầng trăng cổ tích lồng lộng trên bầu trời Trung Hoa và Thế giới. Cuộc đời và thơ văn ông là sử thi một thời, Thơ văn Tô Đông Pha và Tư trị thông giám của Tư Mã Quang là hai kiệt tác soi tỏ nhiều uẩn khúc của lịch sử. Nhiều uản khúc lịch sử văn hóa, chính trị xã hội có thể tìm thấy ở đây. .

Triều đại nhà Tống cai trị ở Trung Quốc từ năm 960 đến 1279, đến lúc nhà Nguyên thay thế. Từ Tống Thái Tổ quân chủ khai quốc đến Tống Thái Tông, đã căn bản thành công dẹp được loạn của thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc, thống nhất Trung Quốc. Năm Tô Đông Pha ra đời (1037) cũng là lúc Tây Hạ lập quốc, chiến tranh Tống Hạ bùng phát và kéo dài liên tục suốt cho đến khi Tô Đông Pha mất ít năm thì Bắc Tống mất quyền kiểm soát phía bắc cho người Nữ Chân nhà Kim, triều đình nhà Tống trở thành Nam Tống phải lui về phía nam sông Dương Tử (là sông Trường Giang chảy qua Trùng Khánh, Tam Hiệp, Vũ Hán, Nam Kinh và Thượng Hải ngày nay). Nam Tống lập kinh đô ở Lâm An (nay là Hàng Châu), là nơi có Tây Hồ, một thắng cảnh đẹp nổi tiếng của Hàng Châu, chốn thuở xưa khô cằn nghèo nàn mà Tô Đông Pha bị biếm đi trấn nhậm làm Thứ sử. Tô Đông Pha đã có công lớn với dân Hàng Châu trong việc chống hạn hán, nạo vét ao hồ và đắp đê, làm cầu để nay Tây Hồ trở thành di sản văn hóa thế giới được UNESCO công nhận năm 2011.

Tô Đông Pha là nhân chứng sống danh nhân văn hóa trãi suốt năm thời kỳ từ Liêu Hạ giao tranh đến thời kỳ Tống Nhân Tông – Hạ Cảnh Tông, sang thời kỳ Tống Anh Tông–Hạ Nghị Tông, tới thời kỳ Tống Thần Tông–Hạ Huệ Tông, trãi thời kỳ Tống Triết Tông–Hạ Sùng Tông, đến thời kỳ Tống Huy Tông–Hạ Sùng Tông thì Tô Đông Pha mất.

Thời Tô Đông Pha quân Tống nhiều lần thất bại trước Tây Hạ nên Tống Nhân Tông đã bổ nhiệm các danh thần Phạm Trọng Yêm, Phú Bật, Hàn Kì, Bao Chửng dùng “nghị hòa với tiền của đổi lấy quan hệ thân thiện và hòa bình với các nước nước láng giềng” nên đã hạn chế được sự khiêu khích gây hấn của Tây Hạ ở phía Bắc và bình định được cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao ở phía Nam nhưng cũng vì thế mà ‘các chú cứ phá’ làm quốc khố cạn kiệt. Đến thời của Tống Anh Tông, Tống Thần Tông, Tào thái hậu và Tống Triết Tông thì vua nhỏ kế vị, hoàng thái hậu tham chính, triều đình bè đảng, quan lại vô dụng, binh lính bất tài, đất đai bị ngoại bang thôn tính, thuế khóa tăng cao, đời sống dân khổ, dẫn tới khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi và bên ngoài thừa cơ lấn chiếm. Đây là thời kỳ Vương An Thạch chủ trương “biến pháp và đảng tranh” đối lập gay gắt với phe bảo thủ của Tư Mã Quang Chủ trương biến pháp của Vương An Thạch gồm các cải cách tài chính, quân sự, giáo dục (thanh miêu, miễn dịch, thị dịch, bảo giáp, bảo mã, cải cách chế độ thi cử, tuyển dụng quan lại) đã gặp thất bại. Vương An Thạch đưa ra các cải cách kinh tế, hành chính giáo dục thì bị Tư Mã Quang, Tô Đông Pha, Âu Dương Tu chỉ trích hấp tấp nóng vội hời hợt là “dục tốc bất đạt” trái kỷ cương phong tục cũ đã có thời Tam Hoàng Ngũ Đế, không thuận nhân tình. Vương An Thạch chủ trương đánh Đại Việt là một nước nhỏ yếu hơn để nhằm tìm kiếm một thắng lợi quân sự bên ngoài nâng cao sĩ khí dân chúng thì trái lại quân nhà Tống đã bị Lý Thường Kiệt và quân dân Đại Việt đánh bại. Tô Đông Pha nhiều lần bị hãm hại bị bị biếm chức nhưng ông luôn lạc quan, giữ công chính và trước tác không ngưng nghỉ.

Tô Đông Pha giỏi cả cổ văn lẫn thơ phú. Tác phẩm của ông có tổng cộng trên một triệu chữ, riêng về thi từ có khoảng 1700 bài hầu hết đều xuất sắc, đặc biệt nổi tiếng về thơ là Thủy điệu ca, Mưa, Uống rượu ở Tây Hồ, … cổ văn có Tiền Xích Bích phú, Hậu Xích Bích phú được coi là hai viên ngọc quý cổ văn Trung Hoa người đời rất ngưỡng mộ. Cổ văn của ông là “thiên hạ vô địch”, “hành vân, lưu thủy”.như mây trôi nước chảy. Đại văn hào Âu Dương Tu hôm nào nhận được một bài văn của ông thì vui sướng cả ngày. Vua Tống Thần Tông thường đọc bài của ông, có bữa ngự thiện quên cả gắp thức ăn. Vua mừng đến nỗi khi trở về hậu cung đã vui vẻ nói với hoàng hậu: “Ta đã chọn được hai vị hiền tài (là hai anh em ruột Tô Đông Pha và Tô Triệt) có trình độ làm Tể tướng cho con cháu sau này rồi”. Tô Đông Pha có nhân cách trung hậu, chuộng đạo Phật, yêu thương nhân dân, tính trung thực khoan hòa, không tham ô hối lộ; ông công tâm chính trực dám dâng vua lời nói thẳng nên sự nghiệp chính trị của ông đầy sóng gió bởi những kẻ mưu mô luôn tìm cách cản trở cách ly làm hại ông . Tô Đông Pha có cha là Tô Tuân, em là Tô Triệt cũng đều là những hiền tài hiếm có, danh sĩ lỗi lạc nhà thơ danh tiếng.

TÔ ĐÔNG PHA KIỆT TÁC VÀ GIAI THOẠI

Tô Đông Pha kiệt tác văn chương

Tô Đông Pha Tây Hồ có những kiệt tác nổi tiêng thế giới đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, được truyền tụng và nhiều người biết tiếng, nổi tiếng nhất là:

Uống rượu ở Tây Hồ lúc đầu trời tạnh, sau mưa
Tô Đông Pha

Dưới nắng long lanh màu nước biếc
Trong mưa huyền ảo vẻ non tươi
Tây hồ khá sánh cùng Tây tử
Nhạt phấn nồng son thảy tuyệt vời.

Người dịch: Nam Trân.Nguồn: http://www.thivien.net Trang thơ Tô Đông Pha, Thi Viện. Ảnh: Tây Hồ Hàng Châu là nơi Tô Đông Pha làm Thứ sử và ông có công lớn với dân trong việc chống hạn hán, nạo vét ao hồ và đắp đê làm cầu để ngày nay Tây Hồ trở thành di sản văn hóa thế giới được UNESCO công nhận năm 2011.

Mây đen trút mực chưa nhoà núi,
Mưa trắng gieo châu nhảy rộn thuyền.
Trận gió bỗng đâu lôi cuốn sạch,
Dưới lầu bát ngát nước in trời.
(Bản dịch của Nam Trân)

Mây đen nửa núi mực bôi lên,
Mưa trắng rơi châu trút xuống thuyền.
Cuốn đất gió đâu lùa thổi hết,
Dưới lầu, màu nước tựa thanh thiên.
(Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê; Nguồn: Tô Đông Pha, Nguyễn Hiến Lê, NXB Văn hoá-Thông tin, 2003

Che núi mây đen tựa mực trôi,
Như châu hạt trắng lựa thuyền rơi
.Ào ào gió cuốn mưa tan hết,
Dưới Vọng Hồ lâu lặng bóng trời.
*Làm vào ngày 27 tháng 6 ở lầu Vọng Hồ lúc đang say kỳ 1 (Bản dịch của Lê Xuân Khải)

六月二十七日望湖樓醉書其一
黑雲翻墨未遮山,
白雨跳珠亂入船。
捲地風來忽吹散,
望湖樓下水如天。

Hắc vân phiên mặc vị già sơn,Bạch vũ khiêu châu loạn nhập thuyền.Quyển địa phong lai hốt xuy tán,Vọng Hồ lâu hạ thuỷ như thiên.

Dịch nghĩa
Mây kéo đen như mực chưa che kín núi,
Giọt mưa trong như giọt châu nhẩy lung tung vào thuyền.
Bỗng nổi gió ào ào thổi tan hết,
Mặt nước dưới lầu Vọng Hồ lại phẳng như trời.
Mưa (video chỉ có giá trị minh họa)

Tô Đông Pha những kiệt tác khác

Tô Đông Pha giỏi cả về cổ văn lẫn thơ phú. Tác phẩm của ông có trên một triệu chữ, riêng về thi từ có khoảng 1700 bài (xem Trang thơ Tô Thức trên Thi Viện) cho nên việc lựa chọn những kiệt tác yêu thích là tùy thuộc sự yêu thích của từng người. Ngoài các bài Tô Đông Pha uống rượu ở Tây Hồ thì Hậu Xích Bích phú, Tiền Xích Bích phú là hai viên ngọc quý cổ văn Trung Hoa được người đời rất ngưỡng mộ. Tiếc rằng, cho đến nay vẫn chưa có bản dịch Tiếng Việt nào đủ tầm diễn đạt được tâm tình tài trí của thơ văn kiệt tác này của ông.

Thủy Điệu Ca cũng là một bài được nhiều người ngưỡng mô:

Thủy điệu ca

Minh nguyệt kỉ thời hữu?
Bả tửu vấn thanh thiên:
“Bất tri thiên thượng cung khuyết,
Kim tịch thị hà niên?”
Ngã dục thừa phong qui khứ,
Hựu củng huỳnh lâu ngọc vũ,
Cao xứ bất thăng hàn.
Khởi vũ lộng thanh ảnh,
Hà tự tại nhân gian!
Chuyển chu các,
Ðê ỷ hộ,
Chiếu vô miên,
Bất ưng hữu hận,
Hà sự trường hướng biệt thời viên?
Nhân hữu bi hoan li hợp,
Nguyệt hữu âm tình viên khuyết,
Thử sự cổ nan toàn.
Ðãn nguyện nhân trường cửu,
Thiên lý cộng thiền quyên.

Bản dịch

Mấy lúc có trăng thanh?

Cất chén hỏi trời xanh:
“Cung khuyết trên chính từng,
Ðêm nay là đêm nào?”
Ta muốn cưỡi gió bay lên vút,
Lại sợ lầu quỳnh cửa ngọc,
Trên cao kia lạnh buốt.
Ðứng dậy múa giỡn bóng,
Cách biệt với nhân gian!
Trăng quanh gác tía,
Cuối xuống cửa son,
Dòm kẻ thao thức,
Chẳng nên ân hận,
Sao cứ biệt li thì trăng tròn?
[3]
Ðời người vui buồn li hợp,
Trăng cũng đầy vơi mờ tỏ,
Xưa nay đâu có vạn toàn.
Chỉ nguyện đời ta trường cửu,
Bay ngàn dặm với thuyền quyên.
[4]

Bản dịch thơ Tô Đông Pha:’Mấy lúc có trăng thanh’ của cụ Nguyễn Hiến Lê.
Ảnh Hoàng Kim minh họa trăng rằm lúc 0g đêm thanh ở giao thời 20 4 2019

Giai thoại Tô Đông Pha chuyện hay nhớ mãi

”Chuyện vui về Tô Đông Pha”, “Chuyện tình của Tô Đông Pha” “Chuyện thơ của Tô Đông Pha” là ba giai thoại hay.

Chuyện vui về Tô Đông Pha

Tô Đông Pha là một nhà thơ nổi tiếng đời nhà Tống (1037-1101), ông rất quan tâm đến Phật giáo (truyện do Hoàng Kim sựu tầm tuyển chọn, biên soạn vản tiếng Việt).

Một ngày nọ, trong khi nghiên cứu kinh điển, Tô Đông Pha cảm thấy rằng ông đã tỉnh thức, thông tuệ, sáng suốt và không còn vướng mắc, không còn tư tưởng mông lung trong đầu óc nữa.

Ông vui thích và cao hứng, vội làm một bài thơ nói rằng ông vững chắc như một tảng đá, không thể bị lay chuyển bởi tám ngọn gió cám dỗ được mất, vu khống, tâng bốc, khen chê, sợ hãi, vui sướng (bát phong truy bất động): Ngay sau đó, ông đã gửi một sứ giả mang bài thơ cho người bạn của mình, một nhà sư sống ở phía bên kia sông, bởi vì ông muốn biết ngưòi bạn nghĩ gì. Nhà sư đã phê bình bài thơ là “ngớ ngẩn” và sau đó gửi trả lại.

Nhà thơ giận dữ và lấy thuyền đi gặp nhà sư. Khi đến bến, nhà thi sĩ đợi nhà sư. Ông chất vấn vị tu sĩ: “Tại sao sư lại nói rằng bài thơ của tôi là “ngớ ngẩn”?

Nhà sư mỉm cười và nói: “Trong bài thơ của ông bạn, ông nói rằng ông sẽ không bị lay chuyển bởi các thứ được mất, vu khống, tâng bốc, khen chê, sợ hãi, vui sướng. Tại sao bạn nổi giận chỉ vì một từ ?

(*) Bản dịch tiếng Pháp La Grande Epoque của Đại kỷ nguyên về câu chuyện Tô Đông Pha có thay đổi đôi chút cho dễ hiểu đối với độc gỉa phương Tây, cần truy cứu lại bản Hán văn và các bài viết 苏轼 của tiếng Trung, Su Shi, Su Dongpo của tiếng Anh, Tô Thức, Tô Đông Pha của tiếng Việt. Bài thơ “Mưa” rất nổi tiếng của Tô Đông Pha xem tiếp tại đây

Chuyện tình của Tô Đông Pha

Tác giả Huyền Viêm nguồn Việt Văn Mới http://newvietart.com/index4.67.html của anh Từ Vũ đã kể câu chuyện này như sau:

Tô Đông Pha tên thật là Tô Thức, tự là Tử Chiêm, sinh năm 1036 (1), người huyện My Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, đỗ tiến sĩ năm 1057 dưới đời vua Tống Nhân Tông, là một trong bát đại gia Đường Tống (2). Thơ văn ông nổi tiếng một thời, không ai sánh kịp. Ông lại có tài hội họa và viết chữ rất đẹp. Hoạn lộ long đong, nhiều lần bị biếm.

Ông Tô có một cô em họ xinh đẹp, hiền hậu và thông minh, ông yêu quí lắm và nàng cũng rất yêu ông nhưng không cưới được vì bà con gần quá nên mẹ ông ngăn cản. Ông ân hận suốt đời vì điều đó bởi đây là mối tình đầu của ông.Khi Tô Thức đã lớn, học giỏi, đủ sức đi thi thì cha mẹ lo cưới vợ cho ông (và cho cả em ông là Tô Triệt nữa) để có một nàng dâu ở trong miền vì e rằng nếu ông lên kinh thi đỗ thì sẽ bị các danh gia vọng tộc đem cái mồi vinh hoa phú quí ra nhử để gả con gái cho. Vợ ông họ Vương tên Phất, năm ấy ông mười tám tuổi và Vương Phất mười lăm.

Người bạn tình chung

Nàng Vương là người vợ hiền, rất quí yêu chồng, thường đứng nép sau màn nghe chồng nói chuyện với khách và khuyên chồng nên xa lánh người này người khác :
– Người ấy luôn đón trước ý nhà để nói cho nhà vui lòng, giao du với họ chỉ mất thì giờ.
Hoặc nhắc nhở chồng :
– Nhà nên coi chừng hạng người vồn vã quá, người tốt giao du với nhau tình thường lạt như nước lã ; nước lã không có mùi vị đậm đà nhưng không bao giờ làm cho ta chán.

Đông Pha thường khen vợ về sự khôn ngoan này (3).Năm 1065 Vương Phất từ trần lúc nàng mới 26 tuổi, an táng tại Tứ Xuyên. Tô Thức thương tiếc lắm. Nàng để lại cho chồng một người con trai mới biết đi, tên là Tô Mại.

Trước khi từ giã cõi đời, nàng Vương Phất trối trăng với chồng là nên tục huyền với Vương Nhuận Chi, em họ của nàng và rất giống nàng để chăm sóc ông và nuôi dạy Tô Mại. Ông khóc mà nhận lời.

Mười năm sau (tức năm Ất Mão 1075), ông Tô đang làm tri châu ở Mật Châu (Sơn Đông), cách Tứ Xuyên hàng ngàn dặm, đêm nằm mơ thấy người vợ đã khuất, lúc thức dậy làm bài từ điệu “Giang thành tử” trong đó có những câu :

Thập niên sinh tử lưỡng mang mang
Bất tư lường
Tự nan vong
Thiên lý cô phần
Vô xứ thoại thê lương
Túng sử tương phùng ưng bất thức
Trần mãn diện
Mấn như sương…

Nguyễn thị Bích Hải dịch :

Mười năm sống thác đôi nơi,
Nghĩ mà chi, vẫn khôn nguôi nhớ nàng.
Cô đơn phần mộ dặm ngàn,
Nói làm sao xiết muôn vàn thê lương.
Gặp nhau còn nhận ra chăng?
Mặt bụi nhuốm, tóc pha sương ngỡ ngàng…

Tô Thức là người đầu tiên làm từ điệu vong.

Bảy năm sau (1082), khi ông Tô xuôi dòng Trường giang, cùng bạn thưởng trăng trên sông dưới chân núi Xích Bích, từ của ông còn phảng phất nỗi thương xót ngậm ngùi :

Cố quốc thần du
Đa tình ưng tiếu ngã
Tảo sinh hoa phát…
(Niệm Nô Kiều)

(Hồn thả về chơi cố quận
Bạn tình chung có lẽ cười ta
Chưa chi đầu đã bạc…)

Bạn tình chung nơi cố quận hẳn là vong hồn nàng Vương Phất. Năm ấy ông mới 46 tuổi.

Đấu rượu cho chàng

Vợ mất ba năm, đoạn tang, năm 1068 Tô Thức theo lời vợ, tục huyền với cô em họ của Vương Phất là Vương Nhuận Chi, hai mươi tuổi. Không giỏi dắn đảm đang bằng chị nhưng nàng cũng rất quí yêu chồng, chăm sóc con của mình và con riêng của chồng (Tô Mại) rất chu đáo và suốt đời chia sẻ những khó khăn gian khổ với chồng.
Nàng là người hiền thục lại rất chiều chồng. Biết chồng thích rượu, lúc nào nàng cũng sắm sẵn một đấu rượu để khi chồng cần thì có ngay. Chuyện này Tô Thức kể lại trong bài “Hậu Xích Bích phú” như sau :

“Khách nói : Sẩm tối, tôi cất lưới được một con cá, miệng to vảy nhỏ, hình dáng tựa con lư ở Tùng Giang (4). Tìm đâu ra được rượu đây?
Tôi về bàn với nhà tôi. Nhà tôi đáp :“Thiếp có một đấu rượu, cất đã lâu, phòng lúc nhà bất thần dùng đến”. (Nguyên văn : Ngã hữu đấu tửu, tàng chi cữu hĩ. Dĩ đãi tử, bất thời chi nhu). Thế là xách rượu và cá, lại đi chơi dưới chân Xích Bích một lần nữa”.

Nhà phê bình văn học lỗi lạc của Trung Quốc là Kim Thánh Thán đời Thanh cũng có nhắc lại chuyện này trong lời phê bình cuốn “Mái Tây” (Tây sương ký) của Vương Thực Phủ. Ông viết :

“Mười năm chia tay bạn, chiều tối chợt bạn xuất hiện. Mở cửa, tay nắm chặt tay, chẳng kịp hỏi tới nhà mình bằng thuyền hay bằng ngựa. Cũng chẳng kịp mời ngồi ghế hay ngồi giường. Hàn huyên qua loa, vội chạy vào nhà trong, thấp giọng hỏi vợ rằng :

-“Mình liệu có đấu rượu của Tô Đông Pha không?

Vợ tươi cười rút cành trâm vàng đang cài trên đầu trao cho. Thế là đủ ba ngày cơm rượu…”

Bảy cái lò lửa

Theo “Dục hải từ hàng” thì Tô Thức có đến bảy người thiếp. Phật Ấn, bạn thân của Tô Thức, là một vị cao tăng có tài hùng biện đời Tống, một hôm đùa bảo Tô Thức rằng :

– Bác có nhiều thiếp thế, tặng cho tôi cô thứ bảy được không?

Ông Tô cười đáp :

– Sao lại không?

Tưởng chỉ là lời nói đùa, không ngờ chiều tối ông Tô cho xe đưa người thiếp đến.

Phật Ấn đón người thiếp vào nằm trong buồng rồi buông màn. Trước buồng đã đặt sẵn bảy cái hỏa lò, cái nào cũng đầy than đỏ rực. Ông bước qua từng cái một, cứ bước qua bước lại như thế suốt đêm. Đến sáng, ông cho xe đưa người thiếp về trả. Nghe kể lại đầu đuôi câu chuyện, Tô Thức chợt “ngộ” ra :

– Bảy cái hỏa lò rực lửa kia là chỉ bảy người thiếp của ta cũng như bảy cái hang lửa. Ông làm thế là tỏ ra mình đã vượt ra khỏi vòng sắc dục, còn ta thì sa ngã đắm đuối vào đấy. Chắc là ông muốn thức tỉnh ta đây.

Người vợ tri kỷ

Trong số các tì thiếp của mình, Tô Đông Pha yêu nhất nàng Triêu Vân. Nàng trẻ trung, xinh đẹp lại thông minh, giúp ông được nhiều việc. Lúc về với ông, nàng chưa biết chữ nhưng nhờ ông chuyên tâm dạy dỗ và nàng chăm chỉ học hành nên chẳng bao lâu nàng đã đọc thông viết thạo.

Cuộc gặp gỡ Triêu Vân là một sự may mắn lạ lùng. Khi bị biếm đến Hàng Châu, Tô Đông Pha thường hay ra chơi Tây Hồ, một thắng cảnh nổi tiếng tại tỉnh này. Ven bờ Tây Hồ, trong các vườn hoa ngào ngạt hương thơm có những trà thất nên thơ bên cạnh các hàng liễu rũ, đêm đêm vang lên tiếng đàn tiếng ca thánh thót, du dương của các nàng ca nhi xinh như mộng. Triêu Vân là một trong số các nàng ấy, bấy giờ mới hơn mười tuổi nhưng tài sắc của nàng nổi bật hẳn lên giữa đám ca nhi làm say lòng biết bao vương tôn công tử. Nàng có giọng ca rất lạ, khi trầm lắng như nghẹn ngào nức nở, khi mượt mà, bay bổng như ngọn gió mát lành trên mặt nước Tây Hồ. Những bài từ của Tô Đông Pha chỉ có nàng ca là hay hơn cả khiến cho bao trái tim như ngừng đập và ông Tô rung động bồi hồi. Tình yêu bắt nguồn từ đó.

Nàng Vương Nhuận Chi biết chuyện nhưng không hề ghen tức. Một lần nàng đến tìm gặp Triêu Vân rồi về nói với chồng :

– Cô gái xinh đẹp này rồi sẽ rất cần cho nhà sau này đấy. Thiếp sẽ mua Triêu Vân.

Và nàng Vương đã giữ lời. Ít lâu sau, Triêu Vân về với ông và nhanh chóng trở thành một đôi uyên ương tương đắc mặc dù tuổi tác khá chênh lệch: nàng kém ông những 27 tuổi ! Vương Nhuận Chi coi nàng như cô em gái bé bỏng, và khi đến Hàng Châu, nàng đã chính thức cưới Triêu Vân để làm thiếp cho chồng. Ông Tô rất mến phục nàng về việc ấy.

Đông Pha yêu Triêu Vân không chỉ vì nàng xinh đẹp, thông minh mà còn vì nàng là tri kỷ của ông, rất hiểu lòng ông, tâm đầu ý hợp. Vương Thế Trinh, người đời Minh, kể trong “Điệu hước biên” rằng : “Một hôm Đông Pha đi chầu vua về, ăn no, lấy tay xoa bụng đi lại trong dinh, hỏi những người theo hầu :

– Các ngươi hãy đoán xem cái gì trong này?

ẻ thì bảo toàn là văn chương cả, người thì thưa : nơi chứa ruột gan, kẻ thì cho là toàn cao lương mỹ vị. Đông Pha vẫn không hài lòng. Đến lượt mình, Triêu Vân cười đáp :
– Kẻ sĩ của triều đình nhưng ôm trong bụng toàn những thứ không hợp thời cả (nguyên văn : Triều sĩ nhất đỗ bì bất hợp thời nghi). Đông Pha thích chí cười ha hả”.

Ấy là nàng rất hiểu lòng ông. Bấy giờ phe tân đảng của Vương An Thạch, Chương Đôn, Lữ Huệ Khanh, Lý Định đang muốn dùng “biến pháp” để cải cách nền chính trị lạc hậu của nhà Tống, còn Đông Pha thì theo cựu đảng của Tư mã Quang chống lại biến pháp của Vương An Thạch nên nhiều phen bị phe tân đảng tâu vua giáng chức và đày ông tới những nơi cùng tịch, khổ sở thiếu thốn trăm bề.

Khi ông bị Chương Đôn lưu đày xuống Huệ Châu (Quảng Đông) chỉ có mình Triêu Vân theo hầu, các tì thiếp khác chịu cực không nổi nên bỏ đi cả rồi, nàng Vương Nhuận Chi đã mất. Có lần trò chuyện, Đông Pha nói với Triêu Vân :

– Mọi người ai cũng bảo ta có phúc hơn Bạch Cư Dị.

– Nhà nói thế là có ý gì?

– Khi Bạch Cư Dị bị giáng chức và bị biếm ra làm Tư mã Giang Châu, người thiếp yêu của ông đã bỏ đi lấy chồng, còn nàng thì luôn luôn theo sát bên ta đến tận chân trời góc bể vào những lúc hoạn nạn khó khăn nhất. Thế chẳng phải là ta có phúc hơn Bạch Cư Dị sao?

Triêu Vân khe khẽ cúi đầu, nước mắt rưng rưng.

Triêu Vân yêu quí chồng hơn hẳn hai bà trước, vui lòng chia sẻ với chồng những nỗi khổ cực gian nan nên ông rất quí nàng, thường làm thơ ca tụng. Ông bảo Triêu Vân là nàng tiên trên trời bị đọa xuống trần để trả nợ thay ông. Năm 1083 Triêu Vân sinh một đứa con trai nhưng không nuôi được. Đông Pha cho rằng vì mình thông minh và tài hoa quá nên thường hay gặp nạn, con cái thì hữu sinh vô dưỡng, bèn làm thơ tự mỉa mình:

Đãn nguyện tử tôn ngu thả độn,
Vô tai vô hại đáo công khanh.

(Chỉ mong con cháu ngu và xuẩn,
Bình an vô sự mà tới chức công khanh)

Một buổi chiều có gió heo may và sương thu lạnh, Đông Pha ngồi chơi với Triêu Vân. Ông bảo nàng cầm cốc rượu làm phách đánh nhịp, hát bài từ của ông theo điệu “Điệp luyến hoa”.

Triêu Vân vừa ca vừa khóc. Ông hỏi tại sao. Nàng chỉ vào hai câu :

Chi thượng liễu miên xuy hựu thiểu,
Thiên nhai hà xứ vô phương thảo.

(Tơ liễu trên cành phơ phất gió,
Nơi chân trời, chẳng nơi nào là không có cỏ thơm)

Ông cười lớn :

– Ta ngậm ngùi với mùa thu mà nàng thì khóc với mùa xuân ! (5).

Ở Huệ Châu chưa được bao lâu thì tể tướng Chương Đôn lại có lệnh đày ông Tô ra đảo Hải Nam, một hòn đảo bấy giờ chỉ có thổ dân man rợ và muốn ông chết ở đấy. Ông Tô muốn để gia đình ở lại Huệ Châu, chỉ một mình ra đảo nhưng Triêu Vân không chịu :

– Không ai chăm sóc chồng bằng vợ. Lúc chị Vương Nhuận Chi sắp mất, thiếp có hứa với chị là suốt đời cùng sống chết với nhà. Hãy để cho thiếp giữ trọn lời hứa, cho thiếp đi theo, thiếp sẵn sàng chịu mọi nỗi gian truân của kẻ đi đày.

Ông Tô rất xúc động, khôn ngăn đôi dòng lệ.

Nhưng chưa kịp ra đảo thì nàng đã ốm nặng rồi từ trần (1096). Một cơn sốt rét ác tính đã cướp đi mạng sống của nàng lúc mới 34 tuổi. Ông Tô gục xuống bên nàng để mặc cho dòng lệ tuôn trào như suối. Ông không chỉ khóc cho một người vợ mà còn khóc cho một người tri âm, tri kỷ không dễ gì gặp được trên đời.

Ông an táng nàng trước một rừng thông, cạnh một ngôi chùa và viết bài minh trên mộ chí :

“Thị thiếp của Đông Pha tiên sinh là Triêu Vân, tự Tử Hà, họ Vương thị, người Tiền Đường. Thông minh và thích việc nghĩa, thờ tiên sinh 23 năm, một mực trung và kính. Năm Thiệu Thánh thứ ba (1096), tháng bảy, ngày Nhâm Thìn, mất ở Huệ Châu, 34 tuổi. Tháng tám, ngày Canh Thân, táng trên Phong Hồ, phía đông nam chùa Thê Hiền. Sinh con tên Độn, chưa đầy năm đã yểu. Nàng thường theo tì khưu ni Nghĩa Xung học Phật pháp, cũng biết sơ qua đại ý. Lúc sắp chết, tụng bốn câu kệ trong kinh Kim Cương rồi tuyệt” (6).

Ông làm thơ khóc nàng, lời lẽ rất xót xa cảm động, ví nàng như đám mạ đã xanh nhưng chưa kịp trổ đòng đòng, người có tư chất tốt mà chết sớm, chưa làm được việc gì có ích. Đó là mệnh trời ư? (Miêu nhi bất tú khởi kỳ thiên !).

Từ đó cảnh già của ông ở đảo Hải Nam thật cô đơn buồn tẻ. Tháng giêng năm 1100, vua Triết Tông (7) băng lúc mới 24 tuổi. Vị hoàng tử duy nhất, con trai vua, chết lúc ba tháng tuổi. Vì thế ngôi vua lại về tay Huy Tông, chú của Triết Tông. Lên ngôi xong, công việc đầu tiên của Huy Tông là cách chức tể tướng Chương Đôn và đày đi Lôi Châu rồi cho phục chức tất cả các đại thần bị Chương Đôn đày ải, truy phong cho những người đã bị Chương Đôn sát hại.

Thế là Tô Đông Pha được ân xá, rời đảo Hải Nam để lên đường về bắc. Nhưng bấy giờ ông đã già yếu lắm rồi, nhất là sau nhiều năm bị đày ải. Chỉ một năm sau ông đã từ trần tại Thường Châu (1101) thọ 65 tuổi, kết thúc một cuộc đời tài hoa lận đận. *

(1) Có sách ghi 1037.
(2) Bát đại gia Đường Tống : tám văn thi hào lớn đời Đường Tống. Đời Đường có Hàn Dũ và Liễu Tông Nguyên. Đời Tống có Tô Tuân, Tô Thức, Tô Triệt, Tăng Củng, Âu Dương Tu và Vương An Thạch.
(3) Theo cuốn “Tô Đông Pha” của Nguyễn Hiến Lê (NXB An Giang 1990).
(4) Huyện Tùng giang, tỉnh Giang Tô có loại cá lư, ăn rất ngon.
(5-6) Theo cuốn “Tô Đông Pha – những phương trời viễn mộng” của Tuệ Sỹ (NXB Ca Dao Sài Gòn 1973).
(7) Vua Triết Tông là học trò của Tô Đông Pha. Chính nhà vua đã ký lệnh đày thầy học của mình xuống phương nam.

Chuyện thơ của Tô Đông Pha

Anh Vũ Phạm Chánh (trái) và Nguyễn Quốc Toàn (phải) bên tượng Tô Đông Pha ở Hàng Châu. Hai anh đều là các nhà Hán học và đều yêu thích Tô Đông Pha. Anh Vũ Phạm Chánh viết: “Tôi gửi bác Bu (NQT) một bài thơ của Tô Đông Pha có ý lạ lạ, mong bác bình cho thiên hạ thưởng thức. (Tôi chẳng biết bình thế nào?)

Tẩy nhi hí tác

Nhân giai dưỡng tử vọng thông minh.
Ngã bị thông minh ngộ nhất sinh.
Duy nguyện hài nhi ngu thả lỗ,
Vô tai vô nạn đáo công khanh.

Gs Nguyễn Khắc Phi dịch:

Nuôi con ai chẳng muốn thông minh
Ai ngỡ thông minh mãi hại mình
Chỉ muốn con ta ngu lẫn ngốc
An toàn mà hưởng lộc công khanh!

Anh Trương Việt Linh dịch:

Nuôi con ai cũng muốn thông minh
Đâu biết thông minh để luỵ mình
Chỉ ước con ta ngu lại ngốc
Thong dong an hưởng lộc công khanh

Anh Nguyễn Quốc Toàn (Bulukhin) bình:

Bác Chánh à

Xin nói trước, bu tui rất dốt thơ, nếu “bình loạn” có chỗ trật trệu thì mong bác Vũ Phạm Chánh thông cảm cho nhé.

1- Không hiểu sao Gs Nguyễn Khắc Phi và ông Trương Việt Linh chỉ dịch thơ chớ không dịch tựa đề: “Tẩy nhi hí tác”, (洗兒戲作). Ông Hung Trandang thì dịch là “Thơ vui nhân con đầy tháng” bài bác gửi bu lại ghi “Quan tâm đến đứa con”. Thực ra tẩy nhi (洗兒) là tắm cho trẻ con, hí tác (戲作) là làm cho vui. Có thể dịch thoát là “thơ vui khi tắm cho con”. Trong bốn chữ của tựa đề không có chữ nào đề cập đến con đầy tháng cả.

2- Muốn thơ vui (hí tác) thì ý tứ phải khác lạ, đôi khi nói ngược lại sự bình thường. Dân ca Việt Nam có bài nói ngược độc đáo: “Bao giờ cho đến tháng ba, ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng, hùm nằm cho lơn liếm lông, một chục quả hồng nuốt lão tám mươi, nắm xôi nuốt bé lên mười, con gà be rượu nuốt người lao đao”. Nhà thơ Tô Đông Pha cũng nói ngược nhưng không chỉ để cười …

Ai ngỡ thông minh mãi hại mình” là câu tổng kết cuộc đời 64 năm của ông. Sách Bát đại gia Đường Tống (1) kể lại năm 21 tuổi ông lên biện kinh thi tiến sỹ. Âu Dương Tu quan chánh chủ khảo khi đọc bài “Hình thưởng trung hậu chi chí luận” (2) của ông phải lấy làm kinh ngạc về tài năng của cậu học trò. Đến “Ký điện thí”(3) Âu tiên sinh nói với mọi người “Đọc văn chương của Tô Thức (tức Tô Đông Pha) ta bất giác toát cả mồ hôi! Thật là sảng khoái! Ta phải tránh né ông ta để ông ta vượt lên trên người khác”. Thông minh đến thế là tột đỉnh siêu việt. Nhưng khi ra làm một viên quan làng nhàng ông bị giáng chức hết lần này đến lần khác. Tô Đông Pha biết chắc cuộc Tân pháp của tể tướng Vương An Thạch sẽ thất bại thảm hại (4) và lên tiếng phản đối. Bọn ngự sử Hà Chính Thần, Lý Định, Thư Đảm đưa bài thơ Hàng Châu kí sự của ông cho Vương An Thạch đọc và xuyên tạc thêm: Tô Đông Pha giễu cợt triều đình xem thường hoàng thượng. Vua Tống Thần tông nhốt Tô Đông Pha vào ngục, bọn sai nha đánh đập ông tàn tệ. Sau này nghĩ lại vua tha chết nhưng đày ông đi Hoàng Châu (huyện Hoàng Cương tỉnh Hồ Bắc) làm anh dân thường. Không cửa nhà, không lương bổng, ăn không đủ no mặc không đủ ấm, đành ở nhờ trong một ngôi miếu. May mà gặp bạn tốt xin cho mười mẫu ruộng hoang ông phải tự mình cày cấy, gặt hái. Có lúc đói quá nhà thơ phải ăn cả hoa cúc tươi. Hoàn cảnh Tô Đông Phá đúng như Nguyễn Du nói trong truyền Kiều “Chữ tài liền với chữ tai một vần”

3- “Chỉ muốn con ta ngu lẫn ngốc, an toàn mà hưởng lộc công khanh”. Đọc hai câu này ta thấy ông nói ngược nhưng lại là sự thực của xã hội Bắc Tống. Chưa nói đám quan quyền dưới vua mà ngay cả một loạt vua bắc Tống từ Chân Tôn, Nhân Tôn… trở đi là những ông vua bạc nhược và ngu ngốc. Có lẽ trên thế giới này không có quốc gia nào triều cống ngược như nhà Tống bên Tàu. Biên giới Tống ở phía Tây bị rợ Liêu quấy nhiễu. Vua Tống nghĩ điều quân đến đánh thì tốn người hao của chi bằng cứ cho người Liêu mỗi năm 10 vạn lạng bạc và 20 vạn tấm lụa…nhưng rợ Liêu được đằng chân lân đằng đầu dần dà số bạc và số lụa gia tăng đến nỗi vua Tống chịu hết nỗi. Với rợ Tây Hạ tình trạng triều cống ngược cũng xẩy ra tương tự. Nền kinh tế nhà Tống bấy giờ suy sụp, Quốc khố rỗng không trong quyển sử Trung Quốc ( trang 316, 317) học giả Nguyễn Hiến Lê cho hay “bọn con buôn được dịp giàu thêm, chỉ có triều đình nghèo mạt. Nghèo tới nỗi vua Nhân Tôn (1023 – 1063), con vua Chân Tôn, phải cần kiệm từng chút . Một đêm đói, thèm món thịt dê mà phải nhịn “đỡ được một món tổn hao”. Có kẻ dâng ông 18 con hến bể tính cả phí tổn chuyên chở thì mỗi con giá một ngàn đồng (đồng tiền thời đó chắc đã phá giá) ông lắc đầu “Gắp một con mà hao một ngàn đồng ta chẳng kham nỗi”

Hỡi ôi, làm thiên tử (con trời) mà nghèo đến thế thì Tô Đông Pha có bảo ông là vua ngốc cũng đáng lắm.
——–
(1): Có hai quyển Bát đại gia Đường Tống. Quyển bu tui đang có của Hà Minh Phương biên soạn nxb Đồng Nai 1996. Quyển khác của Nguyễn Hiến Lê
(2) Dịch nghĩa: Luận về sự trung hậu trong phép thưởng phạt.
(3) Kỳ thi cuối cùng ở trong kinh do vua chủ trì
(4) Tân Pháp của Vương An Thạch bị thất bại thảm hại như tiên đoán của Tô Đông Pha, Vương bị cách chức Tể tướng.

Hoàng Kim xin có đôi lời trao đổi:

1. Bài bình của anh Nguyễn Quốc Toàn là rất hay và chuẩn. Sự trích dẫn bài thơ ‘Tẩy nhi hí tác’ nguồn trích dẫn từ trang thơ Tô Đông Pha tại Thi Viện.net. Đối chiếu với bài viết “Chuyện tình của Tô Đông Pha” tác giả Huyền Viêm nguồn Việt Văn Mới có dẫn hai câu thơ khác hơn bài này:

Đãn nguyện tử tôn ngu thả độn,
Vô tai vô hại đáo công khanh.


(Chỉ mong con cháu ngu và xuẩn,
Bình an vô sự mà tới chức công khanh)

so với:
Duy nguyện hài nhi ngu thả lỗ,
Vô tai vô nạn đáo công khanh.

(Chỉ muốn con ta ngu lẫn ngốc
An toàn mà hưởng lộc công khanh!
)
Trong bài minh của Tô Đông Pha viết trên mộ Triêu Vân có câu:
Sinh con tên Độn, nên dường như hai câu thơ này là đúng ý hơn

2. Tô Đông Pha là danh sĩ tinh hoa, một đời yêu thương, thơ ngoài ngàn năm, một trong mười đại văn hào nổi tiếng bậc nhất của Trung Quốc cổ và cận đại. Tô Đông Pha là chính khách lỗi lạc, nhà tư tưởng, nhà văn, nhà thơ, nhà phật học, nhà thư pháp, họa sĩ, nhà dược học, người sành ăn nổi tiếng Trung Quốc thời Tống. Tô Đông Pha có nhân cách cao quý, việc tốt truyền đời, tình yêu tuyệt vời, thơ văn kiệt tác, thư pháp lừng lẫy, là vầng trăng cổ tích lồng lộng trên bầu trời nhân loại.

3. Bài thơ “Tẩy nhi hí tác” của Tô Đông Pha là một kiệt tác hiếm thấy.

TRẦN VĂN TRÀ BÓNG HẠC
Hoàng Kim


Ngày 20 tháng 4 năm 1996 là ngày mất của Thượng tướng Trần Văn Trà (1919- 1996) “Ra đi hai bàn tay trắng. Trở về một dải giang san. “Trăng xưa, hạc cũ”, dòng sông lặng. Mây nước yên bình, thiên mã thăng”. Thượng tướng Trần Văn Trà đã viết về đại tướng Võ Nguyên Giáp thật minh triết và thật ám ảnh: “phải thật công khai, thật công phu, thật công bằng và thật công tâm khi nghiên cứu về Võ Nguyên Giáp”.“Suốt hai cuộc kháng chiến, tôi chưa hề thầy Bí thư Quân ủy Trung ương kiêm Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp mắc một sai lầm nào về chiến lược và chiến thuật quân sự; tôi chỉ thấy Anh Văn đi những nước cờ bậc thầy để vây hãm và tiến công quân địch”. Đó thật sự là một tổng kết rất sâu sắc của một danh tướng Việt Nam đối với TổngTư lệnh Võ Nguyên Giáp. Trần Văn Trà trăng xưa hạc cũ, là danh tướng tài năng gắn bó lâu dài nhất, bền bỉ nhất và xuất sắc nhất trong các vị tướng chiến trường miền Nam, mà tôi ngưỡng mộ.

Trần Văn Trà danh tướng Việt Nam

Thượng tướng Trần Văn Trà tên thật là Nguyễn Chấn còn có bí danh là Tư Chi, Tư Nguyễn, Ba Trà, sinh năm1919 tại xã Tịnh Long, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, mất ngày 20 tháng 4 năm 1996 tại thành phố Hồ Chí Minh, là danh tướng Việt Nam, tư lệnh chiến trường chính Nam Bộ trong chiến tranh Việt Nam (1955–1975) là giai đoạn thứ hai và là giai đoạn khốc liệt nhất của Chiến tranh trên chiến trường Đông Dương (1945–1979).

Ông xuất thân trong một gia đình làm nghề nông, thời trẻ học tiểu học tại Quảng Ngãi, năm 1936, ông tham gia Đoàn Thanh niên Dân chủ Huế khi còn đang học tại trường Kỹ nghệ thực hành Huế; năm 1938 gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Ông từng bị thực dân Pháp bắt giam hai lần. Ông giữ chức Ủy viên Kỳ bộ Việt Minh Nam Bộ từ sau Cách mạng tháng Tám, . Ông tham gia công tác quân sự, khi chiến tranh Đông Dương nổ ra tại Nam Bộ, giữ chức Chi đội trưởng (tương đương trung đoàn trưởng), Chi đội 14 Khu trưởng Khu 8, xứ ủy viên Nam Bộ (1946-1948); Tư lệnh kiêm Chính ủy Khu Sài Gòn – Chợ Lớn; Tư lệnh Khu 7 (1949-1950); Phó Tư lệnh Nam Bộ, Tư lệnh Phân khu Miền Đông Nam Bộ (1951- 1954). Năm 1955, ông tập kết ra Bắc, giữ chức Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam (1955-1962), Phó Chủ nhiệm Tổng cục Quân huấn (1958). Ông được phong quân hàm Trung tướng năm 1959,  Giám đốc Học viện quân chính và Chánh án Tòa án quân sự Trung ương (1961). Ông được cử làm Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam (1963-1967 và 1973-1975), Phó Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam (1968-1972), Phó Bí thư Quân ủy Quân giải phóng Miền Nam. Sau Hiệp định Paris 1973, ông làm Trưởng đoàn đại biểu quân sự Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tại Ban Liên hiệp đình chiến bốn bên ở Sài Gòn. Ông được phong quân hàm Thượng tướng năm 1974. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông giữ chức Chủ tịch Ủy ban Quân quản Sài Gòn – Gia Định, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7. Ông là ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (dự khuyết khóa 3, chính thức khóa 4).  Được thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng nhất, hạng ba, Huân chương Chiến thắng hạng nhất.Ông giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng từ năm 1978 đến năm 1982.

Năm 1982, ông cho in cuốn Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm, trong đó có ghi những nhận định chủ quan của nhiều lãnh đạo Đảng Lao động, khi đã đánh giá quá cao khả năng quân sự của mình và đánh giá quá thấp khả năng của quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa trước và trong dịp Tổng tấn công Tết Mậu Thân. Sách mới in đến tập 5 thì bị thu hồi do quan điểm không được coi là chính thống, nên các tập sau không được xuất bản. Ông làm Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam từ năm 1992. Những trước tác của Trần Văn Trà hiện có: Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm (gồm nhiều tập, mới in tập 5 thì bị thu hồi do quan điểm bị coi là không chính thống, nên các tập sau không được xuất bản) Gởi người đang sống (1996) Mùa thu lịch sử (1996) Cảm nhận về xuân Mậu Thân (1968) (1998)

Ông lập gia đình với tiến sĩ sinh hóa nguyên Phó Giám đốc Viện Pasteur Thành phố Hồ Chí Minh Lê Thị Thoa, con gái luật sư Lê Đình Chi (1912-1949), Trưởng ban Quân pháp Nam Bộ. Sau khi nghỉ hưu, ông viết hồi ký và tham gia nhiều hoạt động xã hội.

Ông qua đời ngày 20 tháng 4 năm 1996 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ngôi mộ Thượng tướng Trần Văn Trà có khắc thanh gươm Bác Hồ tín cẩn trao cho ông (10/1948, khi ông đang là trưởng đoàn bảo vệ tháp tùng các cán bộ Miền Nam ra Miền Bắc thăm Bác Hồ): – “Bác trao cho chú thanh gươm quý giá này, đưa về cho đồng bào Nam Bộ để diệt thù. Chú báo cáo với đồng bào rằng, trong lòng Bác, lòng Đảng lúc nào cũng ở bên cạnh đồng bào. Chúng ta đồng lòng vì nước, nhất định chúng ta sẽ thắng!”. Bài thơ của ông “Ra đi hai bàn tay trắng/ Trở về một dải giang san/ “Trăng xưa, hạc cũ”, dòng sông lặng/ Mây nước yên bình, thiên mã thăng” được khắc trên bệ đá dưới chân con ngựa bạch tạc bằng đá trắng nguyên khối đang trong tư thế chuẩn bị bay lên…

Tên ông được đặt cho một con phố ở khu đô thị Phú Mỹ Hưng, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh, và một con đường chính khác ở khu dân cư Hưng Phú, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ từ cuối năm 2015.

Mây nước yên bình, thiên mã thăng

Lê Văn có bài viết: “Võ Nguyên Giáp trong mắt Trần Văn Trà” tôi thật đồng cảm và đã trích dẫn nguyên văn để thỉnh thoảng đọc lại: “Báo chí cho hay, đến nay ở Việt Nam và trên thế giới đã có tới 120 cuốn sách, không kể vô số những bài báo, bài nghiên cứu về Võ Nguyên Giáp. Có một nghịch lý, hình như những sự kiện lịch sử, những yếu nhân lịch sử của Việt Nam lại được các tác giả nước ngoài nghiên cứu nhiều hơn, sâu hơn, đầy đủ hơn là các tác giả trong nước.  Vì sao vậy? Ta mà chưa hiểu hết ta. Và ta thường hay tự ca ngợi mình: “Ôi ta là ta mà ta vẫn cứ mê ta” (Chế Lan Viên).

Nhưng nghiên cứu về Võ Nguyên Giáp thì rõ ràng chưa đủ, càng không thể đầy đủ nếu chỉ căn cứ vào sách báo trong nước. Như nhiều người khác, tôi cũng có một số cuốn sách về Võ Nguyên Giáp, tỷ như Võ Nguyên Giáp của Geogres Boudarel, nhà sử học Pháp; Chiến thắng bằng mọi giá của Celcil B.Currey, một sử gia quân sự Hoa Kỳ; Võ Nguyên Giáp – một sự đánh giá của Peter MacDonald, sử gia quân sự người Anh và tất nhiên – còn nhiều cuốn sách khác của các tác giả trong nước.

Sách của các tác giả nước ngoài nhìn chung khách quan, có những phân tích, đánh giá rất sâu sắc con người, tài năng và sự nghiệp của tướng Giáp. Họ lưu ý đến nhiều vấn đề, nhiều chi tiết có khi rất nhỏ nhưng lại có ý nghĩa lớn. Họ quan tâm đủ mọi thứ. Tuy nhiên, chưa thể coi các cuốn sách ấy đã là đầy đủ, hoàn hảo về Võ Nguyên Giáp. Chắc rằng thời gian tới sẽ có rất nhiều công trình nghiên cứu về Võ Nguyên Giáp – nhất là khi ông đã về cõi vĩnh hằng.

Mong ước nghiên cứu đầy đủ, khách quan về Võ Nguyên Giáp là mong ước cháy bỏng của tướng Trần Văn Trà. Ông là một danh tướng cùng thời với Võ Nguyên Giáp, là cấp dưới của ông Giáp. Trần Văn Trà là Tư lệnh B2, địa bàn chiến lược quan trọng nhất trong cuộc chiến với người Mỹ. Sau khi Hiệp định Pari được ký kết, Trần Văn Trà được cử làm Trưởng đoàn quân sự của Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Ban Liêp hiệp quân sự bốn bên, Sài Gòn. Sau ngày 30.4.1975, có một thời gian ông là Chủ tịch Ủy ban quân quản thành phố Sài Gòn – Gia Định. Ba ông “họ Trần”: Trần Văn Giàu, Trần Văn Trà, Trần Bạch Đằng là ba nhân vật lừng danh một thời vang bóng tại Sài Gòn cũng như miền đất Nam Bộ.

Tác phẩm nổi tiếng của Trần Văn Trà: Những chặng đường lịch sử của B2 thành đồng, mới xuất bản được Tập 1: Hòa hay chiếntranh và Tập 5: Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm. Nghe nói, Lê Đức Thọ phán, cuốn sách ấy sai từ đầu đến cuối, sách bị thu hồi nhưng nay đã được in lại.

Tháng 3.1992, tướng Trà đồng ý trả lời phỏng vấn của Nhật Hoa Khanh – tác giả Gặp Tố Hữu tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng, về nhân vật lịch sử Võ Nguyên Giáp. Nhật Hoa Khanh – nhà nghiên cứu lịch sử VN hiện đại rất đặc sắc, đã công bố nhiều bài nghiên cứu rất có giá trị, hấp dẫn.

Bài trả lời phỏng vấn của Trần Văn Trà về Võ Nguyên Giáp có nhiều luận điểm cực kỳ sâu sắc, gợi lên cho giới nghiên cứu nhiều suy nghĩ. Võ Nguyên Giáp hiện lên trong mắt Trần Văn Trà đầy tài năng và nhân cách.

Nghiên cứu về Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Trà cho rằng “phải thật công khai, thật công phu, thật công bằng và thật công tâm” – bốn chữ “thật” rất đắt giá trong cách diễn đạt. Đã nghiên cứu về Võ Nguyên Giáp là phải “thật công khai”: công khai tư liệu, công khai quan điểm, công khai sự kiện; công khai trong nước, ngoài nước. “Thật công phu” vì với một trí tuệ bậc thầy, siêu việt như Võ Nguyên Giáp, nếu nghiên cứu một cách hời hợt, bề ngoài, không đi sâu vào bản chất, vào quy luật, không hiểu được những nước cờ quân sự thiên tài của ông, không rút ra được các bài học thì làm sao thuyết phục?

“Thật công bằng” nghe qua tưởng đơn giản nhưng khó làm sao! Ông Trần Bạch Đằng từng phát biểu: “Tất cả chúng ta đều có thắc mắc giống nhau: Kỷ niệm 30 năm chiến thắng Điên Biên Phủ mà không nhắc đến tên đồng chí Võ Nguyên Giáp. Lịch sử là lịch sử, nếu thiếu chân thật, sẽ ảnh hưởng đến đạo lý”. Rằng Điện Biên Phủ thắng lợi là nhờ cố vấn TQ. “Họ” không biết rằng, nếu nghe lời cố vấn TQ tấn công theo kiểu “biển người”, thất bại là chắc chắn và cuộc kháng chiến đã phải lùi lại mười năm. “Họ” còn nói, tổng tấn công năm 1975, đồng chí (…) là Bí thư Quân ủy Trung ương chứ không phải ông Giáp. Rồi cuốn Đại thắng mùa xuân của Văn Tiến Dũng nghe nói bị độc giả phản ứng, phải sửa tới 30 chỗ. Lịch sử rất công bằng. Cho nên, “thật công bằng” đi liền với “thật công tâm”.

Trần Văn Trà nhận định: “Suốt hai cuộc kháng chiến, tôi chưa hề thầy Bí thư Quân ủy Trung ương kiêm Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp mắc một sai lầm nào về chiến lược và chiến thuật quân sự; tôi chỉ thấy Anh Văn đi những nước cờ bậc thầy để vây hãm và tiến công quân địch”. Đó phải chăng là sự tổng kết rất sâu sắc của một danh tướng đối với Võ Nguyên Giáp.

Trần Văn Trà chỉ rõ, Võ Nguyên Giáp “là một Tổng tư lệnh biết đau với từng viết thương của mỗi người lính, biết tiếc từng giọt máu mỗi chiến binh”.

Đó cũng là quan điểm cốt tử trong tư tưởng quân sự Võ Nguyên Giáp: giành thắng lợi cao nhất đi đôi với tổn thất thấp nhất. Ông nói, phải sử dụng cái đầu của người lính chứ không phải thân thể họ. Nếu ông Giáp không ra lệnh hoãn cuộc tấn công, hàng loạt tướng lĩnh, chỉ huy ưu tú và bộ đội đã hy sinh ở Điện Biên. Cho nên, những tướng lĩnh và người lính coi ơn ấy là ơn cứu mạng vậy. Nếu để ông toàn quyền trong các chiến dịch Mậu Thân 68, Xuân hè 72 thì tình hình chắc đã khác. Trần Văn Trà nêu rõ: “nếu thực hiện cách đánh thận trọng hơn theo quan điểm của Anh Văn thì chắc chắn số lượng thương binh và tử sỹ sẽ ít hơn, số lượng chiến sỹ còn sống và còn khỏe sẽ nhiều hơn, chẳng những thế, chiến thắng sẽ lớn hơn nữa”.

Trần Văn Trà cũng nhận xét rất chính xác, rằng Võ Nguyên Giáp là con người bao dung, độ lượng. Đối với những người hiểu lầm hoặc cố tình hiểu lầm, ghen ghét, đố kỵ tài năng…Võ Nguyên Giáp vẫn tiếp tục cư xử một cách nhã nhặn và bình thản. Ông chỉ nói về cái tốt, cái đúng của đồng đội, chưa bao giờ thanh minh cho bản thân mình một vấn đề gì.

Một vấn đề rất lý thú nữa mà Trần Văn Trà nêu lên, đó là cách gọi Võ Nguyên Giáp như thế nào cho đúng nhất. Gọi “Đại tướng”không có gì sai nhưng không biểu hiện được vai trò đứng đầu toàn quân của Võ Nguyên Giáp và mối quan hệ rất khăng khít của ông đối với toàn quân. Nên gọi “Tổng tư lệnh” hoặc “Anh Văn”.

Gọi “Tổng tư lệnh” là cách gọi một cách trang trọng. Võ Nguyên Giáp là tư lệnh của các tư lệnh, chính ủy của các chính ủy. Ông đứng vững trên vị trí Tổng tư lệnh liên tục 30 năm, hạ đo ván 7 tướng lĩnh đứng đầu của Pháp và 3 tướng lĩnh đứng đầu của Hoa Kỳ, tài năng ấy thật phi thường, khó ai có thể so sánh. Cho nên, muốn gọi Võ Nguyên Giáp theo chức vị một cách trang trọng, “tôi cho rằng gọi Tổng tư lệnh đúng hơn cả” – tướng Trà kết luận.

Điều này hoàn toàn đúng. Càng đúng hơn vì bây giờ chúng ta thấy, VN có không ít Đại tướng, lại có cả Đại tướng chưa qua quân đội một ngày nào, nói chi đến chiến công. Ngày trước, ngay như Trần Văn Trà được phong Trung tướng năm 1959 và tới 15 năm sau ông mới được phong Thượng tướng.

Còn gọi Anh Văn là gọi một cách thân mật. Tất nhiên, không phải ai cũng có thể gọi Anh Văn, vì điều đó còn phụ thuộc vào tuổi tác, mối quan hệ công tác, quan hệ thân thuộc nữa. Gọi Anh Văn vừa nói lên vai trò Anh Cả của Võ Nguyên Giáp trong quân đội, vừa nói lên quan hệ vô cùng mật thiết của ông đối với toàn quân. Và chúng ta biết, Hồ Chí Minh thường gọi Võ Nguyên Giáp một cách trìu mến mà thâm thúy: chú Văn.

Chính vì tất cả những điều đó mà trong mắt Trần Văn Trà, Võ Nguyên Giáp giành được sự yêu mến gần như tuyệt đối của toàn quân, toàn dân. Đây là điều mà hẳn chúng ta ai cũng đồng ý và lấy làm tự hào.”

Tổng tiến công Mùa Xuân 1975: Đấu pháp chiến lược kết thúc chiến tranh có một không hai”. Nhiều tài liệu nghiên cứu và giãi mã từ hai phía đối với Chiến tranh Đông Dương và Chiến tranh Việt Nam, với những chuyên khảo nghiên cứu về Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Trà càng làm chúng ta thấu hiểu sâu sắc hơn.

Tôi trân trọng tích truyện Trần Văn Trà bóng hạc và giữ khoảng lặng tự đối thoại với chính mình, giữ lại viên ngọc quý tư liệu trong dòng chảy thao thiết của lịch sử dân tộc và nhân loại . Tướng Trần Văn Trà cùng tướng Lê Trọng Tấn là những danh tướng Việt Nam ngay sau đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tướng Trà với chiến dịch Phước Long, ra Bắc cùng chọn điểm quyết chiến Buôn Mê Thuột, mưu lược cô lập phòng tuyến Xuân Lộc, vượt đánh Dầu Giậy Trảng Bom. Tướng Trần Văn Trà làm trưởng đoàn đàm phán quân sự trong hội nghị bốn bên, ông có phong độ danh tướng với ứng biến tài năng xuất sắc Trăng xưa hạc cũ vằng vặc giữa trời như tấm gương soi.Thật thích được nghiên cứu và lắng đọng thấu hiểu..

NÔNG LỊCH TIẾT CỐC VŨ
Hoàng Kim


Tô Đông Pha Tây Hồ
Trần Văn Trà bóng hạc
Nông lịch tiết Cốc Vũ
Hoa Đất thương lời hiền

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nong-lich-tiet-coc-vu

NÔNG LỊCH TIẾT CỐC VŨ
Hoàng Kim

20-23/4 dương lịch là ngày cốc vũ (mưa rào)

Cây héo hon vì thiếu nước mưa.
Trời thương cốc vũ sướng hay chưa.
Mầm xanh lá nõn cành tươi mới.
Đất cảm mưa xuân ước được mùa.

*

Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
Di sản Việt Nam học mãi không cùng
Mình học để làm hai bốn tiết khí
Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.

Đất cảm trời thương lòng người gắn bó
Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
Bởi biết rằng năm tháng đó là em.

6 tháng Một bắt đầu rét nhẹ
21 tháng Một trời lạnh cắt da
4 tháng Hai ngày xuân mới đến
20 tháng Hai Thiên Địa Nhân hòa.

Đồng dao cho em khuyên em đừng tưởng
Câu chuyện mùa xuân thêm cho mồng Ba
Trải Cốc Vũ qua ngày Hạ Chí
Đại Thử rồi Sương Giáng thành hoa.

6 tháng Năm là ngày Hè đến
22 tháng Năm mưa nhỏ, vào mùa
5 tháng Sáu ngày Tua Rua mọc
21 tháng Sáu là chính giữa Hè.

7 tháng Bảy là ngày nắng nhẹ
23 tháng Bảy là tiết nóng oi
7 tháng Tám chớm thu rồi đó
23 tháng 8 trời đất mây mưa.

Qua Xử Thử đến tiết trời Bạch Lộ
Sau Mưa Ngâu đến Nắng nhạt đấy em.
Tiết Thu Phân khoảng 23 tháng 9
Đối lịch nhà nông em nhớ đừng quên.

Tiết Hàn Lộ nghĩa là trời mát mẻ
Kế tiếp theo là Sương Giáng (sương mù)
23 tháng 10 mù sa dày đặc
Thuyền cỏ mượn tên nhớ chuyện Khổng Minh.

23 tháng 11 là ngày tiểu tuyết
Việt Thường La Bàn Ví Dặm Ân Tình
8 tháng 12 là ngày đại tuyết
22 tháng 12 là chính giữa đông.

*

Khuyên em đừng quên nhất thì nhì thục
Di sản Việt Nam học mãi không cùng
Mình học để làm 24 tiết khí
Mộc mạc hát vần bài học đầu tiên.

Mùa vụ trồng cây, kinh nghiệm nghề nông
Xin em đừng quên điều ông bà dạy
Xuân Hạ Thu Đông hai bốn tiết khí
Khoa học thiên văn ẩn ngữ đời người.

Đất cảm trời thương, lòng người gắn bó
Dẫu khó vạn lần khéo liệu cũng xong
Mùa xuân tới tự tiết xuân sẽ đến
Bởi biết rằng năm tháng đó là em.

MƯA XUÂN TRONG MẮT AI
Hoàng Kim

Trời mưa rây rây hạt
Mình trồng hoa tiếp thôi
Mồ hôi và mưa quyện
Yêu thương thấm mát người.

Nắng mưa là thời trời
Tốt lành là thế đất
Phước đức bởi lòng người
An nhiên mưa gió thổi.

Lắng nghe Lương Phủ ngâm (*)
Ngắm nhìn non nước đổi
Thung dung giấc ngủ trưa
Tỉnh thức trồng tiếp nối …

“Ngược gió đi không nản
Rừng thông tuyết phủ dày
Ngọa Long cương đâu nhỉ
Đầy trời hoa tuyết bay !” (**)

Ghi chú:
(*) Lương Phủ Ngâm
(thơ Gia Cát Lượng )

Một đêm gió bấc lạnh,
vạn dặm mây mịt mù
Trên không tuyết bay loạn,
biến đổi cả giang sơn.

Ngửa mặt nhìn trời cao,
thấy như rồng đang đấu
Trùng trùng sư tử bay,
chớp mắt biến vũ trụ.

Cưỡi lừa qua cầu nhỏ,
một mình than mai gầy.

Nguyên văn

一夜北风寒,
万里彤云厚.
长空雪乱飘,
改尽江山旧.

仰面观太虚,
疑是玉龙斗.
纷纷鳞甲飞,
顷刻遍宇宙.

骑驴过小桥,
独叹梅花瘦!

Phiên âm: Nhất dạ bắc phong hàn,
vạn lý đồng vân hậu. Trường không tuyết loạn phiêu,
cải tận giang sơn cựu. Ngưỡng diện quan thái hư,
nghi thị ngọc long đấu. Phân phân lân giáp phi,
khoảnh khắc biến vũ trụ. Kỵ lư quá tiểu kiều,
độc thán mai hoa sấu! https://www.youtube.com/embed/Lp6XlsBm_Lw?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent

Mưa . Trời vẫn mưa và dần nặng hạt lên Tổ quốc ướt, anh khô làm sao nổi (thơ Nguyễn Lâm Cẩn). Trời mưa rây rây hạt Mình trồng hoa tiếp thôi Mồ hôi và mưa quyện Yêu thương thấm mát người. (thơ Hoàng Kim) https://hoangkimlong.wordpress.com/category/mua/

(**) Nhớ Đào Duy Từ
(Thơ Hoàng Kim)

HOA ĐẤT THƯƠNG LỜI HIỀN
Hoàng Kim

1

Ta vui đếm nhịp thời gian
Thung dung nhàn giữa gian nan đời thường.

Mẫu Phương Nam Tao Đàn
Đường Huyền Trân Công Chúa
Nam tiến của người Việt
Hoa Đất thương lời hiền

2

Người ta hoa đất
An nhàn vô sự là tiên
Thung dung cỏ hoa
Thế giới người hiền

Điền trúc măng ngon
Hôm qua chăm mai
Sớm nay hái nấm
Chiều về thu măng.

Thung dung thanh nhàn
Sống giữa thiên nhiên
Đọc bài cho em
Vui cùng bạn quý

Đọc sách dọn vườn
Lánh chốn bon chen
Thảnh thơi cuộc đời
Chơi cùng hoa cỏ.

Xưa lên non Yên Tử
Mang lộc trúc về Nam
Nay đến chốn thung dung
Vui nhởn nhơ hái nấm.

Ơn Thầy Ơn Bạn
Lộc xuân cuộc đời
Thung dung Hoa Lúa
Phúc hậu, an nhiên,

Minh triết, tận tâm
Hoa Người Hoa Đất
Làm ngọc cho đời
Đạo ẩn vô danh.

3

Mình là hoa của đất
Ươm mầm xanh cho đời.
Gieo yêu thương hi vọng
Gặt hái những niềm vui.

Thấm thoắt bao xuân qua
Cùng nhau từ thuở ấy
Lộc muộn ngày hôm nay
Nhớ buổi đầu gieo cấy.

Hàng trăm ngàn hec ta
Bội thu từ giống mới .
Nhìn bà con hân hoan
Đường trần vui quên mỏi.

4

Nhà Trần trong sử Việt
Lời dặn của Thánh Trần
Yên Tử Trần Nhân Tông
Chuyện cổ tích người lớn

Về với vùng văn hóa
Nhớ cụ Thái Kim Đỉnh
Nguyễn Du trăng huyền thoại
Trà sớm thương người hiền

Việt Nam con đường xanh

5

Sớm nào cũng dành nửa tiếng,
Thung dung hòa nhịp thời gian.
Thong thả chỉ thêu nên gấm,
An nhiên việc tốt cứ làm.
Thoáng chốc đường trần nhìn lại,
Thanh nhàn vô sụ là tiên

6

Điểm nhịp thời gian đầy bút mực
Thung dung năm tháng thảnh thơi nhàn
Đất cảm trời thương người mến đức
An nhiên thầy bạn quý bình an.

Ngày mới đầy yêu thương
Chuyện cũ chưa hề cũ
An nhiên nhàn nét bút
Thảnh thơi gieo đôi vần

xem tiếp Chuyện đồng dao cho em, Hoa Đất thương lời hiền, Phục sinh giữa tối sáng, Tỉnh lặng với chính mình, Vui đi dưới mặt trời, Vui bước tới thảnh thơi, Vui sống giữa thiên nhiên, Đọc “Ngụ ngôn thời @” Mười năm ở Bạc Liêu, Chuyện cổ tích người lớn

TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây   cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
Ban Mai; Chỉ tình yêu ở lại
Ngày hạnh phúc của em
Giúp bà con cải thiện mùa vụ
Kỷ yếu Khoa Nông Học 65 năm thành lập Khoa
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter