Lưu dấu chân thời gian

Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là hau-due-cua-mat-troi-5.jpg

LƯU DẤU CHÂN THỜI GIAN
Hoàng Kim


Hậu duệ của mặt trời
Lưu dấu chân thời gian
Dấu đời thành seo biển
Đi như một dòng sông
“Mọi lý thuyết đều xám
Chỉ cây đời tươi xanh
” (*)

Linh Giang sông quê hương
Lời thề trên sông Hóa
Đèo Ngang thăm thẳm nhớ
Nguồn Son nối Phong Nha

Trúc Lâm Trần Nhân Tông
Nguyễn Du trăng huyền thoại
Sóc Trăng Lương Định Của
#Thungdung cụ Trạng Trình

Một gia đình yêu thương
Bảo tồn và phát triển
Ngày mới Ngọc cho đời
Bài đồng dao huyền thoại

(*) Goethe, trích dẫn tại Giấc mơ thiêng cùng Goethe ; Lưu dấu chân thời gian (ảnh RUCHUNG)

Báo Nông nghiệp Việt Nam đã phát trực tiếp ngày 7/6/2022. https://www.facebook.com/NongNghiepVietNamOnline/videos/751269766299798

TRỰC TIẾP: Phiên chất vấn của Quốc hội về nông nghiệp và phát triển nông thôn

Chiều 7/6/2022, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan lần đầu tiên đăng đàn trả lời chất vấn trước Quốc hội.

Nhóm vấn đề chất vấn thứ nhất thuộc lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn gồm:

– Công tác tổ chức sản xuất gắn với thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; phối hợp xây dựng cơ chế, chính sách xúc tiến thương mại, đàm phán mở cửa, phát triển thị trường nông sản.

– Giải pháp ổn định thị trường, kiểm soát sự biến động giá của một số mặt hàng nông sản, thủy sản, thức ăn chăn nuôi, vật tư nông nghiệp.

– Việc cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, thu hút đầu tư kinh doanh trong trong lĩnh vực nông nghiệp, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp, nâng cao giá trị sản phẩm, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm phát triển bền vững. (xem video)

ảnh trang bìa và trang 2 sách Ông cháu kể chuyện Phan Chí Thắng. Hoàng Kim lời bình Bảo tồn và phát triển/ Hậu duệ của mặt trời/ Bài thơ Viên đá Thời gian/ Chuyện đời Phan Chí Thắng Mỗi dòng là mỗi đường dẫn, kết nối tại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/di-nhu-mot-dong-song

MỘT GIA ĐÌNH YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim


Ngày dâng hương tưởng nhớ, xem tiếp Một gia đình yêu thương https://hoangkimlong.wordpress.com/category/mot-gia-dinh-yeu-thuong/

Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là co-mot-ngay-nhu-the.jpg

BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN
Hoàng Kim


Bảo tồn và phát triển
Một gia đình yêu thương
Có một ngày như thế
Cuộc đời thành trang văn

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/mot-gia-dinh-yeu-thuong/#Thungdung Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tho-tu-tuyet-hoang-kim/

Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là co-mot-ngay-nhu-the-1.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là co-mot-ngay-nhu-the-2.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là co-mot-ngay-nhu-the-3.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là bao-ton-va-phat-trien-1.jpg

Bảo tồn và phát triển thích hợp bền vững là bài học cuộc sống lắng đọng đặc biệt quý giá. Hình ảnh trên đây là minh chứng cho các câu chuyện Một gia đình yêu thương; Một nếp nhà văn hóa; Đối thoại nền văn hóa; Cuộc đời thành trang văn

Cụ Nguyễn Trãi có câu “Nên thợ, nên thầy nhờ có học/ No ăn, no mặc bởi hay làm” Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm thì viết rằng: ”Đạo trời đất là Trung Tân. Vẹn toàn điều Thiện là Trung, không vẹn toàn điều Thiện thì không phải là Trung. Tân là cái bến, biết chỗ dừng lại là bến chính, không biết chỗ dừng lại là bến mê… Nghĩa chữ Trung chính là ở chỗ Chí Thiện. Trung Tân quán bi ký, 1543). Đạo ở mình ta lấy đạo trung/ Chớ cho đục, chớ cho trong (Thơ chữ Nôm, Bài số 104) Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn, người đến chốn lao xao (Thơ chữ Nôm, Bài số 79). Nơi vắng vẻ theo ý Cụ là không ham những chốn “lao xao” thanh tịnh để sáng chí , thanh đạm để đến xa. Cụ Hồ Chí Minh dạy rằng “Muốn cải tiến kỹ thuật phải biết kỹ thuật. Muốn cải tiến tổ chức lao động, cũng phải biết phương pháp tổ chức và có kinh nghiệm tổ chức” Bảo tồn và phát triển thích hợp bền vững là đường sống.

Di truyền và biến đổi Châu Mỹ chuyện không quên, là nội dung chính của bài viết này. Tôi trầm tư nghĩ về người Mỹ di truyền và biến đổi khi thăm người da đỏ ở Mexico, khảo sát cây ngô nguồn gốc di truyển và sự tiến hóa, so sánh bữa ăn thường ngày của người dân nông thôn Mexico và Obregon California bản địa truyền thống với người dân ở các phố xá sầm uất hiện nay khi tôi may mắn được đi dọc suốt các bang miền Tây nước Mỹ. Sự bảo tồn và phát triển, điều gì được giữ lại và điều gì đang biến đổi phát triển?. Mệnh trời (thiên mệnh, số trời) ở đâu?. Ai nhân danh công lý để hủy diệt cái xưa củ, cái lạc hậu yếu kém, cái không thích hợp? Luật nhân quả, luật di truyền và biến đổi, bảo tồn và phát triển thích hợp bền vững là gi? Điều lạ là chẳng phải tôi ở ngành di truyền chọn giống nông học quan tâm câu chuyện “Người da đỏ ở Mexico” mà các em tôi là giáo sư Nguyễn Hữu Minh và phó giáo sư tiến sĩ Nguyễn Chiến Thắng ở ngành xã hội học và kinh tế học của khoa học nhân văn, nguyên là cựu sinh viên Georgetown University thuộc Washington, United States, cùng với Nga Lê, Anh và Tim, và hầu như cả nhà, ai cũng đều rất quan tâm điều đó. “Người da đỏ ở Seattle“, “Vị thần Inca bị quên lãng” là điểm nhấn được bảo tồn để quay lại.

Machu Picchu, di sản thế giới UNESCO ở Peru, nơi được Tổ chức New7Wonders chọn là một trong 7 kỳ quan thế giới mới. Đó là di sản nền văn minh Inca, người da đỏ Inca  và thần Mặt trời. Đấy thực sự là một kho báu vĩ đại tâm linh khoa học kỳ bí chưa thể giải thích được. Đền thờ thần Mặt trời tựa lưng vào tựa lưng vào “Cổ Sơn” cột chống trời, “Thành phố đã mất của người Inca, theo cổ ngữ của người Inca; Đó là một khu tàn tích Inca thời tiền Columbo trong tình trạng bảo tồn tốt ở độ cao 2.430 m trên một quả núi có chóp nhọn tại thung lũng Urubamba ở Peru, khoảng 70 km phía tây bắc Cusco. Tất cả các chuyến đi tới Machu Picchu đều xuất phát từ Cusco. Tại thủ đô Lima có một đường bay nội địa dẫn tới Cusco. CIP rất gần trung tâm Lima và sân bay quốc tế nên rỗi hai ngày là bạn có thể đi thăm được.

Minh triết Thomas Jefferson tôi đọc kỹ lại chủ thuyết của ông và suy ngẫm trong sự so sánh với Viện Goethe, Viện Khổng Tử, với học thuyết tiến hóa của Darwin, và kể cả với cái gọi là học thuyết “không gian sinh tồn” đầy tranh cãi Điều gì là quy luật của tạo hóa? Điều gì là tương đồng, điều gì là tương phản và điều gì là dị biệt trong các học thuyết di truyền và biến đổi ?. Tỉnh lặng để thấu hiểu tiếng vọng thời gian. Thomas Jefferson là vị tổng thống thứ ba của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, ông là người sáng lập ra Đảng Dân chủ và Cộng hòa Hoa Kỳ, là nhà tư tưởng, lập pháp hàng đầu của nước Mỹ, một nhà triết học chính trị theo chủ nghĩa tự do nhiệt thành có ảnh hưởng lớn nhất thời cận đại Vị trí của ông chỉ đứng sau George Washington người có công lớn khai sinh ra nước Mỹ,. Di sản lớn nhất của Thomas Jefferson là tác giả của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ, của Đạo Luật Virginia về Tự Do Tôn Giáo và Người Cha của Đại Học Virginia’.

Nhân chủng học Người Mỹ trở thành đề tài nóng trong sự tiếp cận đa ngành tìm hiểu người Mỹ hiện đại. Người Mỹ di truyền và biến đổi, con đường di sản còn nhiều điều cần học và bàn luận. Người Mỹ ở nước Mỹ có lẽ được nghiên cứu về dân tộc học kỹ hơn hết so với nhiều nước trên thế giới. Dân số nước Mỹ năm 2016 ước khoảng 323,14 triệu người. Hoa Kỳ là một quốc gia đa chủng tộc, nơi sinh sống của nhiều người có nhiều nguồn gốc quốc gia và chủng tộc khác nhau. Vì vậy, Hoa Kỳ là một quốc gia đa văn hóa, nơi có rất nhiều truyền thống và giá trị đa dạng khác nhau. Nền văn hóa phương Tây khởi đầu từ của những người định cư Hà Lan, Anh, Đức Ái Nhĩ Lan, Ý, Ba Lan Pháp, Scotland hòa máu với dòng văn hóa bản địa sắc tộc Mỹ trở thành dòng chủ đạo.

Người Mỹ gốc Phi và nền văn hóa đặc sắc Mỹ gốc châu Phi, phát triển trên truyền thống của những người nô lệ Trung Phi ngày nay khi được hòa trộn với văn hóa bản địa sắc tộc Mỹ đã có ảnh hưởng sâu rộng đến nền văn hóa dòng chính của Mỹ. Sự bành trướng lãnh thổ của Hoa Kỳ về miền Tây đã hội nhập vùng Louisiana và vùng Tây Nam Spenish Territory ngôn ngữ Tây Ban Nha và văn hóa Mexico đến gần hơn với Hoa Kỳ. Làn sóng di dân ồ ạt từ Đông Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latin tới nước Mỹ suốt những thập kỷ qua đã hòa trộn lan tỏa nấu chảy các nền văn hóa để có dòng chủ lưu và các đặc điểm văn hóa riêng biệt của tổ tiên mình. Người Mỹ còn có hơn 4 triệu người sống ở ngoại quốc, chủ yếu ở Canada, Mexico và châu Mỹ Latinh.

So sánh các nhóm sắc tộc và chủng tộc của người Mỹ và người Mexico cho thấy: Tại México người lai giữa người da trắng và người da đỏ ước 60-75%, người da đỏ bản địa chiếm tỉ lệ 12 – 30% dân số; người da trắng đến từ Tây Ban Nha, Mỹ, Canada, Pháp, Ý, Bồ Đào Nha, Đức, Ba Lan, Nga,…chiếm tỉ lệ 9 – 25 %; người da vàng đến từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Philippines, Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ … và người da đen đến từ châu Phi chiếm tỷ lệ ít hơn.

Tại Mỹ những số liệu chi tiết tôi chưa có cơ hội khảo sát sâu hơn nhưng sự sử dụng ngôn ngữ của người Mỹ đã cho thấy: Các ngôn ngữ (2007) Tiếng Anh (1 ngôn ngữ) 225,5 triệu; Tiếng Tây Ban Nha bao gồm tiếng Creole 34,5 triệu; Tiếng Hoa 2,5 triệu; Tiếng Pháp bao gồm tiếng Creole 2,0 triệu; Tiếng Tagalog 1,5 triệu; Tiếng Việt 1,2 triệu; Tiếng Đức 1,1 triệu; Tiếng Triều Tiên 1,1 triệu. Cập nhật thông tin về sắc tộc và ngôn ngữ sẽ rất thú vị trong sự nghiên cứu di truyền và biến đổi.

Tiến sĩ Hannibal Multar, là người Mỹ gốc Do Thái Jesusalem, chuyên gia CIMMYT dẫn tôi đi thăm thăm nguồn gốc cây ngô ở thung lũng Oaxaca ở Tây Nam Mexico và cộng đồng người da đỏ ở Teotihuacan thành phố thời tiền Colombo, di sản thế giới 1987 tại Mexico, thăm kim tự tháp cổ Monte Alban trung tâm của nền văn minh Zapotec, di sản thế giới năm 1987 ở tiểu bang Oaxaca phía nam Mexico. Chuyến đi tôi tóm tắt ở bài Mexico ấn tượng lắng đọng.

Cây ngô có tên khoa học là Zea mays L. do nhà thực vật học Thụy Điển Linnaeus đặt tên theo hệ thống tên kép Hy Lạp – La tinh: Zea là một từ của Hy Lạp để chỉ cây ngũ cốc và mays là từ “Maya”, tên một bộ tộc da đỏ ở vùng Trung Mỹ. Cây ngô có nguồn gốc ở Trung Mỹ, trồng nhiều nhất ở Châu Mỹ, nước trồng nhiều nhất là Hoa Kỳ, sản lượng ngô năm 2014 khoảng 353 triệu tấn/năm. Cây ngô hiện đại đã là kết quả thuần dưỡng từ cỏ ngô Teosinte thung lũng sông Balsas, ở nam Mexico từ 5.500 tới 10.000 TCN. Dấu tích bắp ngô khảo cổ tìm thấy sớm nhất khoảng năm 4.250 TCN tại hang Guila Naquitz trong thung lũng Oaxaca ở tây nam Mexico. Oaxaca là một trong 31 tiểu bang của Mexico được bao bọc bởi các bang Guerrero về phía tây, Puebla về phía tây bắc, Veracruz về phía bắc, Chiapas về phía đông và đường bờ biểnThái Bình Dương ở phía nam. Cây ngô tại Trung Mỹ sau đó được lan dần ra các khu vực xung quanh trở thành cây lương thực quan trọng nhất của châu Mỹ trước khi Cristop Colông tìm ra châu Mỹ. Đến cuối thế kỉ 15, cây ngô được người Tây Ban Nha đưa về trồng ở vùng Địa Trung Hải, Italia, Pháp… sau đó người Bồ Đào Nha đưa sang Trung Quốc, Nhật Bản…ở Châu Á và đến thế kỉ 16 mới đưa sang các nước châu Phi (José Antonio Serratos Hernández 2009). Ở Việt Nam cây ngô có nguồn gốc từ Trung Quốc. Đầu đời Khang Hi, năm 1685, Trần Thế Vinh đi sứ nhà Thanh lấy được giống ngô đem về nước (Lê Quý Đôn “Vân Đài loại ngữ” ). Ngô được trồng ở hạt Sơn Tây, làm lương thực chính, sau đó lan rộng ra cả nước. Cây ngô từ nguồn gốc ban đầu ở Mexico nay vùng phân bố phổ biến khắp toàn cầu với sản lượng đứng đầu cây lương thực cây thực phẩm và thức ăn gia súc. Tổng sản lượng ngô toàn cầu năm 2014 là 1.016,74 triệu tấn, kế tiếp là lúa nước 745,71 triệu tấn, lúa mì 713,18 triệu tấn. (Hoàng Kim chủ biên 2017).

Mexico là nôi cội nguồn của cây ngô. Người dân México cho đến nay mặc dẫu đã nhiều thay đổi nhưng bữa ăn truyền thống vẫn dùng ngô làm món ăn chính. Ngô được ăn chung với các loài rau đậu, ớt, cà chua, lúa mì. México là nơi ra đời có nhiều loại bánh ngô có nhân thịt hoặc trộn rau, bánh ngô phomat, bánh ngô cay, thực phẩm đồ uống phổ biến là sữa ngô và rượu tequila được chế từ lá cây Agave Azul Tequilana, một loài thực vật bản địa ở Mexico, có độ cồn từ 38–40%, cá biệt có loại có độ cồn lên tới 43–46%. Ngày nay việc sử dụng gạo cũng rất phổ biến tai México để làm lương thực, ngoài ra còn có thịt bò, thịt lợn, thịt gà, rượu nho, tỏi, đu đủ, dứa, ớt cay, khoai lang, đậu, lạc, chocolate … thế nhưng món ăn ngô vẫn chủ đạo trong đời sống thường ngày.

Tôi liên tưởng câu chuyện “Thăm ngôi nhà cũ của Darwin”. Charles Robert Darwin (12 tháng 2, 1809 – 9 tháng 4, 1882) là một nhà nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực tự nhiên học người Anh. Tại ngôi nhà cũ bình dị Down House ở Anh, Darwin đã làm việc về thuyết tiến hóa bởi chọn lọc tự nhiên và nhiều thí nghiệm khác. Ông đã phát hiện và chứng minh rằng mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên.“Nguồn gốc các loài” của Charles Darwin, xuất bản lần đầu tiên ngày 24 tháng 11, năm 1859 là ấn phẩm khoa học tiêu biểu và là tác phẩm nòng cốt của ngành sinh học tiến hóa. Tôi đến thăm ngôi nhà xưa của ông trước đây ở Anh ngắm nhìn đôi mắt nhà tự nhiên học người Anh Charles Darwin soi thấu nguồn gốc muôn loài, và thật ngưỡng mộ sức khái quát của ông trong sự đúc kết “Nguồn gốc các loài”. Triết lý của Charles Darwin thật sâu sắc. “Mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên.

Ý tưởng thật lạ này của sinh học tiến hóa.cứ đeo bám tôi suốt nhiều năm khi tôi so sánh cơ hội đến “Thăm nhà cũ của Darwin”, được du học ở Tiệp Khắc kỷ niệm một thời, trãi nghiệm Niềm tin và nghị lực; Giấc mơ thiêng cùng Goethe “Viện Di truyền Mendel Tiệp Khắc”, Praha Goethe và lâu đài cổ, Niềm tin và nghị lực; Nước Nga và châu Âu; Đến Neva nhớ Pie Đại Đế, Qua Waterloo nhớ Scott; Học để làm ở Ấn Độ, có thời gian làm việc với Những người bạn Nga của Viện Vavilop, được đến Brazil và nhiều nước Nam Mỹ, thấu hiểu Châu Mỹ chuyện không quên tài liệu quý 500 năm nông nghiệp Brazil, may mắn tiếp cận trang vàng của những người thầy lớn có tầm nhìn rộng và sức khái quát cao. Tôi may mắn được gắn bó đời mình với Trường tôi nôi yêu thương Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, và IAS đường tới trăm năm; Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam, Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc. Hôm nay có ba sự kiện lớn xúc động, chợt nhớ về việc thăm người da đỏ ở Mexico ở Oregon miền Tây nước Mỹ và thăm cây ngô nguồn gốc phát sinh và đa dạng di truyền ở Mexico. Tôi lẩn thẩn nhớ về học thuyết tiến hóa và liên tưởng tới sự tương quan giữa cây Ngô di truyền và biến đổi với người Mỹ di truyền và biến đổi. chỉ tiếc là mình vẫn đang dạo chơi trong thực tiễn và ký ức vụn mà chưa lý giải hệ thống câu chuyện bảo tồn và phát triển.

Bảo tồn và phát triển thích hợp bền vững là bài học cuộc sống lắng đọng đặc biệt trân quý . Di truyền và biến đổi; Châu Mỹ chuyện không quên; Một gia đình yêu thương; Một nếp nhà văn hóa Bảo tồn và phát triển https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien/

CUỘC ĐỜI THÀNH TRANG VĂN
Hoàng Kim


Có một ngày như thế
Cuộc đời thành trang văn
Hoàng Lê bảy năm trước
Mừng ngày mới tháng năm.

xem tiếp Câu chuyện ảnh tháng năm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cuoc-doi-thanh-trang-van/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ba-den/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/co-mot-ngay-nhu-the/

BÀ ĐEN
Hoàng Kim

Người đi tìm Ngọc phương Nam
Nhớ bầu sữa Mẹ muôn vàn yêu thương
Bà Đen Dầu Tiếng Tây Ninh
Khoai mì đậu phộng nên danh ơn Người .

xem tiếp Bà Đen https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ba-den/ Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tho-tu-tuyet-hoang-kim/

Bà Đen ở Tây Ninh (ảnh Phan Văn Tự)

BÀ ĐEN Ở TÂY NINH

Tỉnh Tây Ninh có núi Bà Đen. Báo Nông nghiệp Việt Nam có video tuyệt đẹp giới thiệu về danh thắng này https://www.facebook.com/NongNghiepVietNamOnline/videos/276320777967406. #vietnamhoc#cnm365#cltvn đã tích hợp. Tỉnh Tây Ninh là nôi nuôi dưỡng và phát triển các giống khoai mì KM94, SM937-26, KM98-1, KM98-5, KM140, KM419 là các giống khoai mì chủ lực tạo nên danh tiếng toàn cầu “Cách mạng sắn Việt Nam”. Tỉnh Tây Ninh cũng là nôi nuôi dưỡng và phát triển các giống đậu phộng HL25, Lì và Giấy chọn lọc, đậu xanh HL89-E3, đậu rồng và các loại đậu đỗ thực phẩm, đóng góp hiệu quả cho sản xuất nông nghiệp; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ba-den/

BÀ ĐEN Ở ĐỒNG NAI

Tỉnh Đồng Nai cũng có Bà Đen nhưng không phải núi mà là một bà già đã quy tiên ngày 18 tháng 5 Giáp Ngọ. Chuyện Bà Đen Đồng Nai là chuyện của một người rất nghèo, rất rất nghèo. Bà không có của, chỉ có con. Ông Vichtor Huygo lúc chết muốn được đi xe tang kẻ khó. Bà Đen suốt đời là kẻ khó, đến chết mới được đi xe tang. Nhớ ngày vía Bà Đen, xin được chép lại câu chuyện Bà Đen đất phương Nam. Minh triết sống phúc hậu có Bài giảng đầu tiên của Phật.là việc thấu hiểu sự khổ, nguyên nhân, kết quả và giải pháp. Phật chủ trương bình đẳng giữa con người có máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn, hết thảy các pháp là vô ngã. Mục đích là vô ngã là sự chấm dứt đau khổ phiền muộn để đạt sự chứng ngộ bất tử. Sự chứng ngộ phải trong thực tế. Bà Đen là sự chứng ngộ sự khổ của một con người. Bà Đen đã đến với thế giới loài người 73 năm, gánh mọi sự khổ mà không buồn giận và rời Cõi Người ngày 18 tháng 5 Giáp Ngọ, 2014.

Ả LÀ AI ĐỜI NÀY?

Kính thưa hương hồn Bà Đen.
Kính thưa bà con lối xóm.

Hôm nay chúng ta tiễn đưa Bà Đen – người Chị, người Mẹ, người Bà của các cháu – về Trời. Tôi là em con chú con bác với Bà Đen, gọi ả cu Đen là chị dâu. Tôi xin được tỏ đôi lời thưa cùng bà con trước hương hồn của Ả.

Bà Đen (ả cu Đen, ả Trần, ả mẹt Hợi là tên cúng cơm, tục danh, tên thường goi) tên thật là Trần Thị Đen, sinh năm 1942 (Nhâm Ngọ), trú quán tại làng Minh Lệ, xóm Bắc, nhà ở cạnh ngôi đình cổ làng Minh Lệ. Theo thần phả, đình Minh Lệ được xây dựng năm 1464, là nơi thờ bốn vị đức Thành Hoàng bản thổ của bốn dòng họ lớn Hoàng, Trần, Trương, Nguyễn. Làng Minh Lệ là đất Kim Quy vùng Hạ Yên Trạch, tương truyền là nơi ngã ngưa của Trung Lang Thượng Tướng Quân Trương Đức Trọng, nay là xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Binh. Bà Đen mất ngày 15 tháng 6 năm 2014 nhằm ngày 18 tháng 5 Giáp Ngọ tại xã Hưng Thịnh huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, hưởng thọ 73 tuổi.

Chồng bà Đen là ông Nguyễn Minh Dức sinh năm 1939 (Kỹ Mẹo) mất năm 2006 ngày 20 tháng 10 âm lịch (Bính Tuất) tại xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.

Ông Bà Hoàng Minh Dức và Trần Thị Đen có bảy người con, năm trai, hai gái, đó là: Hợi, Hiếu, Thiểu, Thân, Thứ, Thống, Thiết.

Vợ chồng ông bà nghèo khó, lương thiện. Bà Đen là người tuyệt nhiên chưa bao giờ nóng giận, chưa hề làm mất lòng ai. Bà chưa khi nào phàn nàn trách cứ ai. Trước mọi vinh nhục, buồn vui, đói no, xấu tốt, bà đều luôn bình thản chỉ cười. Bà không tài sản, vô tâm, ngẫn ngơ: Đường Trần ta lại rong chơi. Vui thêm chút nữa buồn thôi lại về.

CON NGƯỜI ĐẾN ĐI

Bà Đen đã đến Trái Đất này 73 năm và đã đi tới chốn vĩnh hằng.

Bà Đen không để lại tài sản ruộng nương, tiền bạc.
Bà Đen không lưu lại danh vọng, sự nghiệp.
Bà Đen không căn dặn bất cứ điều gì.

Bà Đen di sản chỉ có CON NGƯỜI và CÂY XANH Bồ Đề, Sanh, Sung, Mai, Bưởi …do con cháu bà trồng tại nơi bà sống những năm cuối đời tại Hưng Thịnh, Đồng Nai.

Thân xác của Bà, một số con bà bàn hỏa táng, một số bà con muốn chôn cất. Cuối cùng, bà được an táng tại Nghĩa trang Hưng Bình theo ý nguyện của các con thuận theo lời bàn của nhiều người để phù hợp cho con cháu sau này.

NÉN TÂM HƯƠNG ĐƯA TIỂN

Kính thưa hương hồn Bà Đen, kính thưa bà con lối xóm.

Chúng ta thành kính tiễn đưa một con người.

Nhà văn Vichto Huygo có câu nói nổi tiếng: “Tôi muốn đi xe tang của kẻ khó“.

Bà Đen là kẻ khó, nay được đi xe tang.

Kính thắp nén tâm hương đưa tiễn.

Kính đề nghị mọi người dành một phút tưởng niệm.

Thay mặt gia đình tang quyến, xin trân trọng biết ơn.

Bạch Ngọc
Hoàng Kim

BÀ HOÀNG ĐẤT PHƯƠNG NAM
Hoàng Kim


Những trang đời lắng đọng
Văn chương Ngọc cho đời
Xanh một trời hi vọng
Vui đi dưới mặt trời

Câu chuyện ảnh tháng Năm
Minh triết sống phúc hậu
Một gia đình yêu thương
Hậu duệ của mặt trời

Bà Hoàng Đất Phương Nam

xem tiếp Câu chuyện ảnh tháng Năm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cuoc-doi-thanh-trang-van/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ba-den/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/co-mot-ngay-nhu-the/

MẸ ĐI THANH THẢN CHÚNG CON NHỚ NGƯỜI
Thơ anh Hoàng Trung Trực

Mẹ đi về chốn vĩnh hằng
Quên đi bao nỗi nhọc nhằn Mẹ ơi
Thế là Mẹ đã xa rồi
Vành khăn tang thấm nghĩa đời chúng con

Tháng ngày lời Mẹ chẳng còn
Mẹ đi thanh thản, chúng con nhớ người
Gần trăm năm sống với đời
Biết bao gian khổ cuộc đời Mẹ lo

Có ngày cơm chẳng đủ no
Vầng trăng trí tuệ Mẹ lo chu toàn
Cho con khôn lớn bình an
Vượt lên số mệnh, hiên ngang với đời

Kiến thức khoa học sáng ngời
Hiền tài giúp nước, giúp đời Mẹ ơi!

VIẾNG MỘ CHA MẸ
Thơ anh Hoàng Trung Trực

Dưới lớp đất này là mẹ là cha
Là khởi phát đời con từ bé bỏng
Là lời mẹ ru dịu dàng cánh võng
Là gươm đao cha một thuở đau đời

Hành trang cho con đi bốn phương trời
Là nghĩa khí của cha, là nhân từ của mẹ
Vẫn bầu sữa tinh thần không ngừng không nghỉ
Để hành trang cho con đi tiếp cuộc đời

Cuộc đời con bươn chãi bốn phương trời
Nay về lại nơi cội nguồn sinh trưởng
Dâng nén hương mà lòng hồi tưởng
Thuở thiếu thời dưới lồng cánh mẹ cha

“Ước hẹn anh em một lời nguyền
Thù nhà đâu sá kể truân chiên
Bao giờ đền được ơn trung hiếu
Suối vàng nhắm mắt mới nằm yên”.

MỘT GIA ĐÌNH YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim

Tổ tiên công đức muôn đời thịnh
Con cháu thảo hiền vạn kiếp vinh
Hà Nội Đồng Nai hai bầu sữa
Hoàng Trần Lê Nguyễn một con đường
Cậu Mẹ chở che tròn Nam Bắc
Anh Em thân thiết suốt tháng năm
Làng Minh Lệ quê tôi Hoa Đất
Quảng Bình đất Mẹ ơn Người

MỪNG ĐÓN CẬU MẸ
Thơ em Nguyễn Hữu Khánh


Lòng Cậu Mẹ mênh mông như trời rộng
Phủ ấm cháu con suốt cả một đời
Và ngay cả khi Cậu Mẹ đã về Trời 🙏

Tròn 10 năm Cậu vân du * cùng Mẹ
Trong tâm tưởng con Cậu Mẹ vẫn về đây
Về với cháu con trong những dịp sum vầy
Như hôm nay, ngày gia đình họp mặt.

Trong vấn vít khói hương trầm thơm ngát
Con thấy Cậu vui, mắt miệng cùng cười
Bỏm bẻm nhai trầu như thường thấy trong đời
Mẹ ngồi đó nhìn cháu con trìu mến.

Con lại thấy ký ức xưa hiện đến
Chủ nhật cả nhà bên nồi canh chua đầu cá thật “to”
“Đặc sản” nhà mình thường là đầu, thủ, chân giò
Những thực phẩm ít gia đình muốn lấy
Nhưng nhà mình đông con, biết sao, đành vậy
Lấy loại nhiều xương khối lượng được nhân đôi
Nhọc nhằn nuôi 4 con khôn lớn thành người.

Khó khăn vượt qua rồi
Mong Cậu Mẹ giờ chỉ còn thanh thản tiếng cười
Nhà mình vững vàng hơn
Luôn mừng đón Cậu Mẹ về thăm
Các cháu con gắng học giỏi, làm chăm
Để thêm nhiều niềm vui dâng Cậu Mẹ.

Làn khói trầm vẫn vờn bay nhè nhẹ
Tỏa hương thơm ngan ngát trong nhà./.

* Vân du tiên cảnh cõi VĨNH HẰNG
Giỗ Cậu lần 10 – 10/10/2020 AL
Giỗ Mẹ Liên 4 -7 AL (nhằm ngày 11/8/2021)
Giỗ Mẹ Giản (chị ruột mẹ Liên) ngày 3 -1 Tết AL (Canh Thìn 1963)
Giỗ Cụ (chồng mẹ Giản) bị bom Mỹ giết hại ngày 29 -8 Mậu Thân AL (1968)

Một gia đình yêu thương. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/mot-gia-dinh-yeu-thuong/ Ngày nhớ Mẹ kính yêu, con hội thảo quốc tế trực tuyến, thông tin và Nhớ Mẹ https://hoangkimvn.wordpress.com/2021/08/11/day-va-hoc-11-thang-8/

Nam Nguyen đang cảm thấy biết ơn cùng Nguyen Chien Thang10 người khác.

Mẹ tôi …. Nếu trên thế gian này có những người Phụ nữ sinh ra là để hy sinh tất cả cho Chồng, cho Con – thì một trong số đó là Mẹ tôi. Sự hy sinh vô bờ bến và không đòi hỏi, không điều kiện gì cả với Chồng, với các con. Chúng tôi lớn lên dưới sự chở che của Mẹ, không bị thúc ép về học hành, không bị yêu cầu phải là con ngoan, trò giỏi. Trong sự bao dung không lời của Mẹ, chúng tôi đọc được, hiểu được mình phải lớn lên, phải trưởng thành như những người có ích là việc đương nhiên. Mẹ dạy chúng tôi tính nhẫn nại, sự quan tâm đến người khác, tinh thần trách nhiệm với công việc, với mọi người xung quanh …. Tôi nhớ mãi thời những năm 70-80 thế kỷ trước, mặc dù để lo cho 4 cậu con trai tuổi ăn, tuổi ngủ là vô cùng vất vả. Nhưng Mẹ vẫn vui vẻ đón tiếp các cháu họ hàng từ quê hương ra học tập / công tác ở Hà Nội (Quê tôi ở Quảng Bình). Giữa Hà Nội (Hồ Đống Đa), mà cả nhà phải trồng rau muống & chăm lợn để có thêm thực phẩm cho GIa đình, nhưng Mẹ chưa bao giờ phàn nàn khi đón tiếp các cháu, con ở xa về. Nhà tôi luôn là trạm đón tiếp nhiệt tình & trung tâm của Họ hàng tại Hà Nội. Không ngần ngại khi chia sẽ cân gạo, gói quà cho hàng xóm, láng giềng xung quanh. Chúng tôi tự hào khi Bà con chòm xóm trường Nguyễn Ai Quốc X đều thể hiện sự yêu quý mỗi khi nói về Bà. Các cháu họ hàng thì luôn yêu quý, kính trọng Bà. Có thể chính vì vậy, mà cuộc sống của 4 AE tôi cũng được hanh thông hơn. Cổ nhân có câu “Phúc Đức tại Mẫu”, chắc là vậy.Mẹ tôi có mong ước lớn là có được 1 cô con gái, nhưng may mắn thay 😀, đứa em sau tôi lại là … con trai. Chú Thắng, để sau này tôi còn có thằng em để huấn luyện đánh nhau. Vì oánh lại các ông Anh là không lại được. Mẹ luôn để AE tôi tự xử, tự sắp đặt trật tự quyền lực trong 4 AE. Và chúng tôi đã sống vui, sống khỏe trong hòa bình mà không cần sự can thiệp của Bố Mẹ. Chúng tôi rất ân hận vì không được là con gái để chăm sóc Mẹ chu đáo hơn. Đặc biệt, mỗi khi Mẹ ốm là 4 ông con lộc ngộc cứ đi vòng quanh hỏi han, chứ không chải tóc, bóp chân bóp tay cho Mẹ như con gái được. Để bù đắp cho Mẹ, mấy AE tôi quyết định chỉ cần Bác cả đẻ con trai (nối dõi tông đường), còn 3 AE mỗi thằng 2 cô con gái cho Mẹ vui lòng 😘 Chúng tôi biết rằng dù lớn đến đâu, ở cương vị nào trong xã hội, thì đối với Mẹ chúng tôi vẫn luôn bé nhỏ như ngày nào….Với các con dâu, Mẹ tôi đối xử bình đẳng và luôn bênh các con dâu so với con trai. Có thể Văn hoá ứng xử mỗi nhà mỗi khác, nhưng Mẹ tôi luôn lấy sự ấm cúng làm trọng, nên Bà không bao giờ bắt bẻ con dâu. Cái gì bỏ qua được là bỏ qua. Lấy cái lớn làm trọng. Mặt khác, có lẽ Mẹ tôi đã thấy trước là khi Mẹ nằm xuống thì với bản tính hiền lành, bao dung AE chúng tôi cũng nhường quyền quản lý gia đình cho Vợ…. 😀Mẹ tôi khi thanh niên là 53 kg. Mà sau khi sinh, chăm sóc 4 đứa con trưởng thành và về già thì còn có 36 kg. Hình ảnh Bà lúc gần 80 tuổi, bỏm bẻm nhai trầu. quan sát chỉ đạo chị giúp việc chăm sóc Chồng cứ đọng mãi trong tôi. Thỉnh thoảng Bà còn ra ngồi quán Bia hơi ở Chợ Thái Hà nhâm nhi cốc Bia. Bà chỉ uống 1 cốc thôi. Hỏi thì Bà nói để xem XH có gì thay đổi, mới không. Có lẽ tôi hay đi nhậu với bạn bè cũng là do….. di truyền Xin được kính cẩn thắp nén nhang nhớ về Mẹ nhân ngày Giỗ thứ 17 giữa mùa Covid !(4/7/2004-4/7/2021)

hoangkimhonoi
nguyenhuuminh1

TIỄN EM VÀO TRẬN ĐÁNH
Hoàng Kim
gửi Chiến Thắng

Tiễn em vào trận đánh
Tím một trời yêu thương
Chợt gặp mai đầu suối
Đêm mai là trăng rằm

Ngày mới lời yêu thương
Người vịn trời chấp sói
Ngôi sao mai chân trời
Giấc mơ lành yêu thương

Tiễn em vào trận đánh

MỘT NẾP NHÀ VĂN HÓA
Hoàng Kim

Một gia đình yêu thương
Một nếp nhà văn hóa
Một niềm vui ngày mới
Thung dung giữa đời thường
Ngày của em thật đẹp
Minh triết Hồ Chí Minh

GIẤC MƠ LÀNH YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim

nhắm mắt lại đi em
để thấy rõ giấc mơ hạnh phúc
trời thanh thản xanh
đêm nồng nàn thở
ta có nhau trong cuộc đời này
nghe hương tinh khôi đọng mật
quyến rũ em và khát khao anh
mùi ngây ngất đằm sâu nỗi nhớ
một tiếng chuông ngân
thon thả đầu ghềnh

nhắm mắt lại đi em
hạnh phúc đâu chỉ là đích đến
hạnh phúc là con đường trãi nghiệm
vỗ về, chờ đợi, nhớ thương

nhắm mắt lại đi em
trong giấc mơ của anh
có em và rừng thiêng cổ tích
có suối nước trong veo như ngọc
có vườn trúc và ngôi nhà tranh
có một đàn trẻ thơ tung tăng
heo gà chó mèo ngựa trâu
nhởn nhơ trên đồng cỏ
tươi xanh.

nhắm mắt lại đi em,
tận hưởng thú an lành.

LINH GIANG
Hoàng Kim

Nhà mình gần ngã ba sông
Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình
Linh Giang sông núi hữu tình
Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con.

“Chèo thuyền qua bến sông Son
Để con khỏi chộ nước non thêm buồn”
Câu thơ quặn thắt đời con
Mẹ Cha mất sớm con còn trẻ thơ.

Ra đi từ bấy đến chừ
Lặn trong sương khói bến đò sông quê
Ngày xuân giữ vẹn lời thề
Non sông mở cõi, tụ về trời Nam.

NhoMeCha

CẦU TRỜI NỐI MẸ CHA XƯA
Hoàng Kim

Cầu trời nối mẹ cha xưa
Mưa dày thấm đất nắng thưa thấu trời
Lời thương giao cảm lòng người
Ngày Cha Mẹ suốt trọn đời trong con.

NẾP NHÀ ĐẸP VĂN HÓA
Hoàng Kim


“Nhân hậu thói nhà in một nếp / Chân chính bao nhiêu phúc bấy nhiêu”/ Một gia đình yêu thương/ Nếp nhà đẹp văn hóa/ Hoa Đất thương lời hiền / Nhà Trần trong sử Việt / Mạc triều trong sử Việt/ Nhớ Ông Bà Cậu Mợ / Trăng rằm sen Tây Hồ/ Trăng rằm vui chơi giăng. Nếp nhà là thói quen của một gia đình. Nguyễn Trãi có câu “Nên thợ, nên thầy nhờ có học/ No ăn, no mặc bởi hay làm”. Làm và Học là hoạt động sống cơ bản của con người để đáp ứng nhu cầu tối thiểu ăn mặc, yêu đương, nhà ở, đi lại, chăm sóc sức khỏe và chất lượng cuộc sống. Nếp nhà xét cho cùng là sự bảo tồn phát triển tự do của mỗi cá nhân gia đình và dòng họ. Soi thấu gia tộc là soi vào văn hóa lịch sử của sự kế thừa, phát triển và biến đổi.

Danghuong

Lời dặn của Thánh Trần

Tâm cơ của nếp nhà. Vạn Kiếp tông bí truyền thư của Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương, tác phẩm này còn gọi là Vạn Kiếp binh thư đã thất truyền.Bài tựa của Trần Khánh Dư trong cuốn sách này giải thích bí truyền đại sư là người thế nào: “Phàm người khéo cầm quân thì không cần bày trận, khéo bày trận thì không cần giao chiến, khéo giao chiến thì không thể thất bại, khéo thất bại thì không thương vong. Xưa kia, Cao Dao làm chức sĩ sư mà mọi người không dám trái mệnh, Văn Vương và Vũ Vương nhà Chu là bậc thầy về văn và về võ, ngấm ngầm sửa đức để khuynh loát quyền bính của nhà Thương mà lấy nghiệp vương. Đó đều có thể gọi là những người giỏi cầm quân, không cần bày trận vậy. Vua Thuấn múa lá mộc và lông trĩ mà họ Hữu Miêu tự mình tìm đến, Tôn Vũ nước Ngô đem mỹ nhân trong cung thử tập trận mà phía tây phá nước Sở hùng cường, phía Bắc ra uy với nước Tần nước Tấn, nổi tiếng khắp chư hầu. Đó đều có thể gọi là những người giỏi bày trận, không cần giao chiến vậy. Cho đến Mã Ngập nước Tấn dựa vào bát trận đồ chuyển đánh nghìn dặm, phá được Thụ Cơ Năng mà lấy lại Lương Châu. Thế gọi là người giỏi giao chiến không bao giờ thất bại vậy.Cho nên, trận nghĩa là bày ra, là khéo léo. Ngày xưa, vua Hiên Viên lập ra phép “tỉnh điền” để đặt binh chế, Gia Cát Lượng xếp đá bên sông để làm bát trận, Vệ công sửa lại làm trận Lục Hoa, Hoàn Ôn định ra trận Xà Thế, trước sau đều có trận đồ nổi tiếng, trình bày tuần tự, thành phép tắc rõ ràng. Nhưng người đương thời ít ai thông hiểu, muôn vàn đầu mối nhìn vào dường như rối loạn, chưa từng nắm được lẽ biến dịch bên trong. Ví như những phép tắc và suy luận của Lý Thuyên, người sau không ai hiểu nghĩa là gì. Vì thế, Quốc công ta bèn so sánh, kê cứu trận đồ và binh pháp của các nhà, tổng hợp lại thành một bộ sách. Tuy chép cả những điều chi tiết, nhưng người sử dụng thì nên bỏ bớt những chỗ rườm, tóm lấy thực chất. Rồi lấy năm hành ứng với nhau, chín cung câu với nhau, phối hợp cương và nhu, xoay vần chẵn và lẽ, không làm hỗn loạn âm dương và thần sát, phương lợi và sao tốt, hung thần và ác tướng, ba cát và năm hung, việc nào việc ấy thực phân minh rõ rệt. Quốc công lại còn thêm bớt với chiến thuật của thời Tam đại, nhờ đó trăm trận trăm thắng. Cho nên đương thời phía bắc làm cho Hung Nô phải sợ, phía tây làm cho Lâm Ấp phải kinh. Rồi ông đem sách này dạy bảo con em làm gia truyền, không tiết lộ cho người ngoài biết. Lại có lời dặn rằng: “Sau này con cháu và bề tôi phò tá của ta có học được bí thuật này thì nên lấy đầu óc sáng suốt, linh hoạt mà thực hành và sắp đặt nó, chứ không nên lấy đầu óc cứng nhắc, tối tăm mà cất giữ và lưu truyền. Nếu trái điều đó thì sẽ mang vạ vào thân, lại hại lây đến cả con cháu. Đó gọi là tiết lậu cơ trời vậy.” Bài tựa của Trần Khánh Dư cho Vạn Kiếp tông bí truyền thư, còn như sách Binh thư yếu lược mà người đời ngờ rằng bản thật đã bị cướp và thất lạc, đời sau chỉ có chân truyền lời này. Chùa Thắng Nghiêm (Hà Nội) nơi Trần Hưng Đạo lúc nhỏ tu học, là nơi Người hiển thánh. Ôi, đọc lại “Binh Thư Yếu lược” “Hịch Tướng Sĩ Văn” và Vạn Kiếp tông bí truyền thư, soi gương kim cổ, lắng nghe cuộc sống, đọc lại lời răn dạy nếp nhà là để biết sửa lỗi mình; Lời dặn của Thánh Trần

Ngày xuân đọc Trạng Trình

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm nói về phép xử thế của bậc hiền minh thuở thời thế nhiễu loạn, vàng lầm trong cát: ”Đạo trời đất là Trung Tân, vẹn toàn điều Thiện là Trung, không vẹn toàn điều Thiện thì không phải là Trung. Tân là cái bến, biết chỗ dừng lại là bến chính, không biết chỗ dừng lại là bến mê. Nghĩa chữ Trung chính là ở chỗ Chí Thiện.Trung Tân quán bi ký, 1543). Đạo ở mình ta lấy đạo trung/ Chớ cho đục, chớ cho trong (Thơ chữ Nôm, Bài số 104) Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn, người đến chốn lao xao (Thơ chữ Nôm, Bài số 79). Làm việc thiện không phải vì công tích mà ở tấm lòng. Nay vừa sau cơn loạn lạc thì chẳng những thân người ta bị chìm đắm, mà tâm người ta càng thêm chìm đắm. Các bậc sĩ đệ nên khuyến khích nhau bằng điều thiện, để làm cho mọi người dấy nên lòng thiện mà tạo nên miền đất tốt lành. (Diên Thọ kiều bi ký, 1568) An nhàn, vô sự là tiên (Sấm ký)”. Người đời sau luận chuyện Lão Tử ‘dạy’ Khổng Tử: “Ngươi cứ nhìn vào trời đất mà hiểu Đạo của ta. Kìa, có trời thì có đất, có núi thì có sông, có cao thì có thấp, có dài thì có ngắn, có cương thì có nhu, có rỗng thì có đặc, có sáng thì có tối, có thẳng thì có cong… Mọi thứ đang dịch chuyển trong sự biến hóa vô cùng. Tự nhiên tự do nhưng có trật tự và cái lí của nó. Cao thì xa, thấp thì gần, dài thì yếu, ngắn thì mạnh, cương thì gãy, nhu thì dẻo, rỗng thì âm to, đặc thì câm. Mọi thứ trong trời đất gắn kết được nhờ khác biệt, không có chuyện giống nhau mà hợp lại được với nhau“. xem tiếp Ngày xuân đọc Trạng Trình

Phúc hậu thói nhà in một nếp

Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, thanh thản, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm. Hoàng Kim đúc kết tóm tắt về nếp nhà đẹp văn hóa xây dựng gia đình hạnh phúc, cần có phúc ấm gia đình với trí tuệ phúc hậu, minh triết, tận tâm, làm việc tự ý cẩn thận, lời nói là năng lực, im lặng là trí tuệ.  Cụ Hoàng Giáp Nguyễn Khắc Niêm (trong sách Hoàng Niêm đất Hương Sơn, Nhà Xuất bản Thuận Hoá, năm 2007) là cha ruột của những người con danh tiếng GS Nguyễn Khắc Dương, GS Nhà văn hoá Nguyễn Khắc Viện, GS Nguyễn Khắc Phi, Nhà văn Nguyễn Khắc Phê, nhà giáo Nguyễn Thị Dư Khánh, qua bài viết “Cụ Hoàng Giáp dạy con” của Vu Gia đã chúng ta thấy nét đẹp văn hóa của một gia đình hạnh phúc. GS. Hoàng Ngọc Hiến có bài bình giảng rất hay về nếp nhà Nên thợ, nên thầy” “No ăn, no mặc”. Ông Lê Quang Nhung ở Bến Tre có bài “Giữ lại nếp nhà” đã trao đổi thật thấm thía “Nếp nhà là cái ở sâu trong trái tim ta, là gốc rễ của con người nhưng do mải mê với cuộc sống, nhiều khi ta quên mất. Rất đồng tình với ai đó: Xã hội là nơi cho cá nhân phát triển, còn gia đình là nơi cá nhân hình thành tính cách, tâm hồn, tư duy, tài năng, đạo đức của con người. Vì vậy, xây dựng môi trường văn hóa từ gia đình phải là một mắc xích quan trọng trong quá trình giáo dục tính cách, tình cảm, tâm hồn, đạo đức, đặc biệt là cho giới trẻ. Tu được thân mới “tề gia”, rồi đến “trị quốc”, sau cùng là “bình thiên hạ”. Sắp xếp theo trình tự như vậy cũng có cái lý của người xưa.” Nhà văn Nguyễn Khải có bài viết “Nếp nhà” nói rõ quan niệm gia đình hạnh phúc qua lời kể của một bà cụ phúc hậu “Theo bà cụ, thời bây giờ có được vài trăm cây vàng không phải là khó, cũng không phải là lâu, nhưng có được một gia đình hạnh phúc phải mất vài đời người, phải được giáo dục vài đời. Hạnh phúc không bao giờ là món quà tặng bất ngờ, không thể đi tìm, mà cũng không nên cầu xin”. Bài này là suy nghiệm cá nhân về nếp nhà đẹp văn hóa

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là hoangthuccanh-29-6-1987.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là hoang-thuccanh-2.jpg

Hoàng Kim kính mừng thọ cậu Hoàng Thúc Cảnh vượt một trăm tuổi, cháu xin kể một mẫu chuyện nhỏ ân tình đã tạo nên sự đoàn tụ của Hoàng Gia như ngày nay : Năm 1977, cậu Hoàng Thúc Cảnh đã lên Đồn Lương, Việt Yên, Hà Bắc của Trường Đại học Nông nghiệp II Hà Bắc gặp thầy Hoàng Sỹ Oánh là Hiệu trưởng đầu tiên của Trường và nói: “Xin quý Thầy cho cháu Kim được chuyển trường vào Đại học Nông nghiệp 4 thành phố Hồ Chí Minh. Cháu Kim mồ côi cha mẹ từ nhỏ, cha bị bom Mỹ giết hại. Anh Trực của cháu trận mạc từ rất sớm và Kim đã xung phong nhập ngũ năm 1971 từ Trường Thầy. Cháu học giỏi lại trãi chiến đấu, nay được quý thầy quy hoạch học tập đào tạo ở Trường là thật mừng, nhưng mong quý Thầy chiếu cố hoàn cảnh của cháu thật thương tâm, trước đây cơm ngày một bữa suốt năm năm, nay anh em lưu tán. Gia đình ao ước lớn nhất là được tụ họp sau chiến tranh. Anh biết rõ tánh tôi ở gần gũi Bác Hồ và cụ Đồng, trọng tánh của các cụ mà chưa hề phiền lụy ai, nhưng riêng việc này nhờ anh chiếu cố cho cháu xin chuyển trường“. Thầy Đỗ Ánh Phó Hiệu trưởng và thầy Võ Hùng Trưởng Khoa Nông học đều cảm động và đồng tình. Hoàng Kim được chuyển trường khiến sau này cả gia đình chúng tôi có được cơ hội đoàn tụ đất phương Nam đó là nhờ đức nhân hậu, lòng yêu thương và tầm nhìn sáng suốt.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 2017-10-12_nepnhavanetdepvanhoa3.jpg

Bát tuần tự vịnh
Minh Sơn Hoàng Bá Chuân


Bát tuần đã trãi việc đời nhiều
Chân chính bao nhiêu phúc bấy nhiêu
Nhân hậu thói nhà in một nếp
Trung kiên việc nước đủ trăm chiều
Lòng son phơi phới vầng trăng dọi
Tóc bạc phơ phơ ngọn gió phiêu
Hôm sớm sân Lai (*) thêm sắc mới
Sum vầy con cháu tiếng vui reo !

Mai trắng tóc người cũng trắng trong
Đường trần lên thấu đỉnh cao phong
Hoàng gia Mạc tộc ngời tâm đức
Lối hẹp đường cong chẳng thẹn lòng

Mạc triều trong sử Việt.

Năm 1592 Cao Bằng thất thủ vì sự công phá của nhà Lê Trịnh. Hậu duệ nhà Mạc ngày nay sau 429 năm ghi nhớ lời dặn trăng trối sau cùng của Mạc Ngọc Liễn’ tại quốc sử Việt “Nay khí vận nhà Mạc đã hết, họ Lê lại trung hưng, đó là số trời. Dân ta là người vô tội mà khiến để phải mắc nạn binh đao, ai nỡ lòng nào! Chúng ta nên lánh ra ở nước khác, nuôi dưỡng uy lực, chịu khuất đợi thời, chờ khi nào mệnh trời trở lại mới làm được, chứ không thể lấy lực chọi với lực. Khi hai con hổ tranh nhau, tất phải có một con bị thương, không có ích gì cho công việc. Nếu thấy quân họ đến đây thì chúng ta nên tránh đi, chớ có đánh nhau với họ, cốt phòng thủ cẩn thận là chính; lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng”. Tác giả Trần Gia Phụng trong bài viết: “Những cuộc đổi họ lớn trong lịch sử” nhận xét “Đây không phải lời nói suông trong cảnh trà dư tửu hậu, nhưng đây là tâm huyết của một con người sắp nằm xuống trong cơn hoạn nạn cùng cực vì mất nước. Suốt trong lịch sử Việt Nam, chúng ta thường được nghe những lời nói của Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng, Đặng Dung, hào hùng như vó ngựa tổ tiên, nhưng ít khi được đọc những dặn dò như Mạc Ngọc Liễn – nhân bản, đầy tình tự dân tộc không khác gì lời ru êm ái trong những câu ca dao mộc mạc”. Tỉnh Cao Bằng ngày nay có làng Đà Quận ở xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, từ thời Mạc đến nay hàng năm đều có Lễ hội chùa Đà Quận từ ngày 9 âm lịch đến rằm Nguyên tiêu tháng Giêng hàng năm để tảo mộ tổ tiên và dâng hương tưởng nhớ. Cao Bằng là đất sau cùng của nhà Mạc tiếp tục tồn tại hơn 100 năm sau khi nhà Mạc không còn triển vọng phục quốc mới nhập vào đất nhà Hậu Lê. Làng Đà Quận là làng dân Mạc theo hương linh Đà Quận Công Mạc Ngọc Liễn. Nhà Mạc tuân theo di nguyện của Mạc Ngọc Liễn danh tướng thái phó vua Mạc là không bao giờ vì dòng họ mình mà nồi da xáo thịt đưa ngoại viện vào giày xéo non sông. Mạc tộc lúc kế cùng lực kiệt đã đổi họ Mạc thành họ khác và lưu tán khắp mọi nơi trong cả nước, trong đó có Hoàng chi Mạc tộc Làng Minh Lệ và cho đến nay có Hoàng chi Mạc tộc đất phương Nam cũng là những người con xa xứ.

Chuyện cổ tích người lớn

Nam tiến của người Việt là liên minh giữa chúa Nguyễn Hoàng với Mạc Cảnh Huống, giữa chúa Nguyễn Phúc Nguyên và hoàng hậu Mạc Thị là những uẩn khúc lịch sử chưa thể viết rõ. “Người trồng cây hạnh người chơi, Ta trồng cây đức để đời về sau” Trong 8 đời chúa Nguyễn, không thấy ông nào làm điều gì thất đức. Ông nào cũng lo làm cho dân giàu nước mạnh. Lịch sử cuộc Nam tiến đi từ Phú Yên đến Cà Mau-Châu Đốc chứng minh điều đó. Hậu thế đã được thừa hưởng biết bao phúc lợi từ sự nghiệp Nam tiến đó..Có 3 ông chúa mang danh hiệu khác người: Chúa Sãi, chúa Hiền, chúa Ngãi. Nghe nôm na và thân tình biết mấy. Nếu cai trị mà không được dân thương mến và biết ơn  thì làm chi có những cách gọi kém vương giả nhưng giàu tình cảm như thế? Có đến 4 ông chúa, ngoài tên và vương hiệu, lại tự xưng là đạo nhân, như Thiên Túng đạo nhân (chúa Minh Nguyễn Phúc Chu), Vân Tuyền đạo nhân (chúa Ninh Nguyễn Phúc Thụ) hay Từ Tế đạo nhân (Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát), Khánh Phủ đạo nhân (Định Vương Nguyễn Phúc Thuần). Đó cũng là một nét đặc biệt. Nhiều ông chúa xây chùa (chúa Tiên lập chùa Thiên Mụ, Long Hưng, Bảo Châu, Kính Thiên; chúa Hiền lập chùa Túy Vân) hay  trùng tu chùa, đúc chuông, thỉnh sư giảng Pháp (chúa Minh).  Có lẽ nhờ biết tu nhân tích đức mà Đức năng thắng số, Số bất cập đức nên  tai qua nạn khỏi, như câu tục ngữ mà ông bà xưa thường nói để dạy khôn cho con cháu: Trời hại mới lo, người hại như phấn nhồi. Đó là nói nôm na, cho có vẻ chính xác và minh triết hơn thì đấy chính là nhân quả nghiệp báo”.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 1b-cac-cau-cua-bakim.jpg

Hoàng chi Mạc tộc làng Minh Lệ

Cụ Hoàng Bá Chuân, bố của bảy người con trai ở câu chuyện “Cuộc đoàn tụ bất ngờ của 5 anh em ngày giải phóng thủ đô“ là em ruột của bà ngoại tôi .Cậu ruột mẹ tôi, cụ Hoàng Bá Chuân, là dòng chính Hoàng chi Mạc tộc trong câu chuyện nêu trên. Cụ thường giáo huấn con cháu về nếp nhà phúc hậu văn hóa, và đã trao lại di thư: “Nhà tôi sinh được bảy người con/ Quyết chí chung tình với nước non/ Kháng chiến năm con đi khắp nước/ Lớn lên trai bé sẽ xung phong…” Cậu Cương ngọc trai bé của ông tôi, sau này cũng vào bộ đội Trung đoàn Thủ Đô (E102) Sư đoàn Quân Tiên phong (F308). Cậu Cương dần dà theo trọn đời nghề làm kỹ thuật vô tuyến điện nhưng cái nghiệp lắng đọng lại là thơ, theo dòng thời gian thao thức một tầm nhìn nhân văn sâu sắc, tài hoa, với một gia đình hạnh phúc, nếp nhà phúc hậu và văn chương đích thực. Hoàng chi Mạc tộc Làng Minh Lệ có một thuở đã lạc vào tai ách “Phố cụt”. Thật may mắn trước “Phố cụt” đã có “Phố khuya” để kịp bình tâm suy ngẫm, và sau “Phố cụt” “cùng tắc biến” là “Phố nối” hóa giải “Phố cụt”, tiếp “Phố cong Tam Đảo” và xuống đến đời thường “Đi trên phố nhỏ” bình yên của một vòng tròn nhân quả. Tôi đã tâm đắc để viết nên bài thơ “Thời gian lắng đọng người hiền.” trong buổi sáng cuối thu cà phê sáng với CNM365

Đi tìm lịch sử bị quên lãng

Nam tiến của người Việt có sự liên minh giữa chúa Nguyễn Hoàng với viên phúc tướng Mạc Cảnh Huống, giữa chúa Nguyễn Phúc Nguyên và hoàng hậu Mạc Thị là những uẩn khúc lịch sử chưa thể viết rõ. Lại.nhớ đến Vua Hàm Nghi và ông Nguyễn Thạc và chuyện Bà Đen Bài ca thời gian. Lịch sử Việt do sự chi phối của những yếu tố tất nhiên và ngẫu nhiên mà tạo nên bước ngoặt quyết định, đó âu là duyên nghiệp số phận của dân tộc liên quan cá nhân. Vua Hàm Nghi  tên thật là  Nguyễn Phúc Ưng Lịch hay là Nguyễn Phúc Minh, sinh ngày  3 tháng 8 năm 1871 mất ngày  4 tháng 1 năm 1943, niên hiêu là Hàm Nghi từ khi làm vua  ngày  2 tháng 8 năm 1884 cho đến khi bị đày sang xứ Algérie ở Bắc Phi  ngày 25 tháng 11 năm 1888. Vua là vị Hoàng đế thứ 8 của nhà Nguyễn. Việt Nam ngày nay xem ba vị vua Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân là các vua yêu nước chống Pháp  trong thời kỳ Pháp thuộc. ông Trương Thạc là người Việt Nam duy nhất cuối cùng bên linh cữu vua Hàm Nghi. Ông Trương Thạc là chồng của mệ Phong họ Trần, chị gái đầu của bà ngoại tôi. Hoàng chi Mạc tộc làng Minh Lệ quan hệ Võ Nguyên Giáp ẩn số Chính Trung và chuyện dài nếp nhà đẹp văn hóa.Thời gian lắng đọng người hiền.

Hoàng Gia Cương thơ hiền

Hoàng Gia Cương là tác giả của chùm thơ (chữ tin đậm mà Hoàng Kim trích dẫn trên đây). Cụ có các tác phẩm chính: Thơ 1) Lặng lẽ thời gian, Nxb Thanh Niên 1997, 2) Lắng đọng Nxb Hội nhà văn, 2001, 3) Trong cõi vô biên Nxb Hội nhà văn 2005, 4) Trãi nghiệm với thời gian Nxb Hội nhà văn 2010, 5) Theo dòng thời gian Nxb Văn Học 2013; Truyện ký 6) Cổ tích cho mai sau Nxb QĐND 2006. Tác phẩm thơ văn của Hoàng Gia Cương có mặt trên 30 tuyển tập, tập thơ văn in chung. Anh Bu Lu Khin Nguyễn Quốc Toàn viết: “Trong số thơ của Hoàng Gia Cương bu tui thích nhất bài “Phố Cụt”. Cái cụt của con đường là biểu trưng cho cái bê tắc, cái cụt lủn của khát vọng của con người. Người ta bám vào ba cái phao cứu sinh là Phật, Chúa, và Tư bản luận của Mác nhưng tất cả cũng chỉ là cơn gió bay qua “Gió nồm rồi gió heo may. Lạc vào phố cụt Bụi bay mù trời!”. Gia đình Hoàng gia Mạc tộc “thập tam thế hậu” nhờ phúc ấm tổ tông và nếp nhà nét đẹp văn hóa mà có được sự hanh thông hạnh phúc tiếp nối.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là mung-em-lam-nguoi-thay-nhc3a2n-van.jpg

Thời gian lắng đọng người hiền
Hoàng Kim

Bình minh Yên Tử  đầu tiên
Ánh Trăng khuya rọi khắp miền thế gian
Hoàng Gia thi tứ nồng nàn
Tình yêu cuộc sống muôn vàn yêu thương.

Câu thơ lắng đọng đời thường,
Mạ ơi xúc động lời thương dặn dò,
Cha tôi là một nhà Nho,
Tìm về nguồn cội, Chớm thu … tuyệt vời !

Cội nguồn Lũng Động, Cổ Trai,
Khí thiêng cõi Bắc nhớ nơi sinh thành,
Vua Thái tổ Mạc Đăng Dung,
Hoàng chi dòng đích lưu cùng nước non.

Phố Cụt, Phố nối, Phố cong,
Đi trong phố nhỏ một vòng nhân gian
Rùa ơi tôn bậc trí nhân
Để nền Văn hiến ngàn năm không nhòa.

Sáu mươi năm Mạ đi xa,
Mạ ơi tiếng vọng không là niềm riêng.

Thời gian lắng đọng người hiền.
Đông tàn xuân tới, bình minh rạng ngời.

Họ Trần Mẹ và Dì

Họ Trần làng Minh Lệ gia đình chúng tôi, ông ngoại họ Trần lấy bà ngoại họ Hoàng của gia tộc nêu trên sinh được ba người con. Mẹ tôi là gái đầu đi ở cho nhà địa chủ từ nhỏ. Mẹ tôi sinh ba trai và hai gái. Cậu ‘Trần Qua’ là con trai thứ nhưng mất từ rất nhỏ. Dì tôi là gái út thoát li làm cách mạng từ rất sớm. Dì sinh bốn người con trai. Mẹ tôi mất sớm đúng ngày mồng Ba Tết Nguyên Đán năm 1964. Cha nói trong nước mắt: ‘Các con gọi chồng dì bằng cậu, bởi hiếm có ai chăm sóc chị dâu tận tụy như dượng của các con’. Cha bị bom Mỹ giết hại ngày 29 tháng 8 âm lịch năm 1968. Chúng con lớn lên dưới lồng cánh cưu mang của Dì Cậu và đại gia đình Trần Hoàng Nguyễn..Trong vận mệnh của Tổ Quốc và Gia Đình, cha và cậu đã từng cầm súng, bảy con trai của mẹ và dì có năm đứa đã từng cầm súng

HOÀNG GIA NGỌC PHƯƠNG NAM

Gia đình tôi Hoàng gia phương Nam có bốn tộc Hoàng, Trần, Lê, Nguyễn. Bố tôi với bác tôi và người em gái bố đều rất nghèo. Bác tôi là thầy đồ nho dạy học chữ Tàu thuở tiếng Tây lên ngôi nên nhà sa sút. Cô tôi đi ở và lấy chồng Phong Nha Kẻ Bàng. Bố tôi lấy mẹ tôi cũng là người đi ở cho địa chủ và nghề của bố là chuyên chèo đò khuya chợ Mới chợ Troóc từ ngã ba nguồn Son tới Phong Nha và kịp về làm nông để nhận công điểm hợp tác xã. Bố chết bom năm 1968. Trần là họ mẹ, gốc gác họ Trần có từ thời vua Trần Dụ Tông chết trận khi đánh Chiêm Thành thì vợ vua không về Bắc nữa mà ở lại thành tộc Trần. Năm gia tộc ở Làng Minh Lệ là Trần, Hoàng, Trương, Nguyễn và Hoàng chi Mạc tộc. Cũng có thêm chi tiết của Mạc Cảnh Huống và Mạc Thị Gái nhưng sự kiểm chứng nguồn gốc Trần, Hoàng còn cần thêm thời gian. Lê là họ chị dâu cả của gia đình tôi là dân xứ biển ngoại hải Quảng Thuận gần Ba Đồn. Nguyễn là họ vợ tôi và họ của chồng chị gái Hoàng Thị Huyền. “Chúng tôi sinh thành ở Quảng Bình… Nhà mình ở ngã ba sông. Rào Nan chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình. Nay thì đoàn tụ đất phương Nam. Gia đình chúng tôi đi như một dòng sông, gìn giữ nếp nhà chân chính nhân hậu

hoangtranlenguyendatphuongnam

Hoàng Ngọc Dộ khát vọng

Hoàng Ngọc Dộ (1937-1994) là thầy giáo quê ở xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch (nay là thị xã Ba Đồn), tỉnh Quảng Bình. Mẹ mất sớm. Nhà nghèo. Cha bị bom Mỹ giết hại. Thầy đã nổ lực nuôi dạy các em vượt qua gian khổ, nghèo đói và chiến tranh để vươn lên trở thành những gia đình thành đạt và hạnh phúc. Gương nghị lực vượt khó hiếm thấy, ăn ngày một bữa suốt năm năm, nuôi hai em vào đại học với sự cưu mang của thầy bạn và xã hội đã một thời lay động sâu xa tình cảm thầy trò Trường Cấp Ba Bắc Quảng Trạch (Quảng Bình). Thầy mất sớm, hiện còn lưu lại gần 100 bài thơ. Lời thơ trong sáng, xúc động, ám ảnh, có giá trị khích lệ những em học sinh nhà nghèo, hiếu học. Một số bài tiêu biểu có trên Thi Viện trang thơ Hoàng Ngọc Dộ khát vọng

Hoàng Trung Trực đời lính

HOÀNG GIA thơ & biên khảo, lưu truyền trong gia đình và quyến thuộc, là kỷ niệm sâu sắc một thời của gia đình và kinh nghiệm sống lắng đọng. Tập 1 gồm ba phần ‘Hoàng Ngọc Dộ khát vọng’, Hoàng Trung Trực đời lính‘ ‘CNM365 Tình yêu cuộc sống’.’Hoàng Trung Trực đời lính‘’ gồm chín bài: 1) Lời nói đầu; 2) Viếng mộ cha mẹ; 3) Nhớ bạn, 4) Mảnh đạn trong người; 5) Bền chí 6) Trò chuyện với thiền sư 7) Trạng Trình; 8) ‘Dấu chân người lính‘ 9) Một số bài thơ khác và các ghi chú. Hoàng Trung Trực đời lính‘ là phần khốc liệt nhất của các người lính đã chấp nhận sự hi sinh thân mình cho độc lập tự do và thống nhất Tổ Quốc. Trang thơ gắn liền với sự thân thiết của nhiều đồng đội đã ngã xuống, sự đau đời mảnh đạn trong người và sự thung dung mẫu mực đời thường của người con trung hiếu sau chiến tranh; Bài ‘Nếp nhà đẹp văn hóa’ giới thiệu bài Trang Trình

Trạng Trình
Hoàng Trung Trực

Hiền nhân tiền bối xưa nay
Xem thường danh vọng chẳng say tham tiền
Chẳng màng quan chức uy quyền
Không hề nghĩ đến thuyết truyền duy tâm
Đức hiền lưu giữ ngàn năm
Vì Dân vì Nước khó khăn chẳng sờn
Hoàn thành sứ mạng giang sơn
Lui về ở ẩn sáng thơm muôn đời
Tầm nhìn hơn hẳn bao người
Trở thành Sấm Trạng thức thời gương soi.

.xem tiếp Hoàng Trung Trực đời lính

CNM365 Tình yêu cuộc sống

Vieng mo Cha Me
caumothanthamhoanggia

SỚM XUÂN ĐI TẢO MỘ
Hoàng Kim

Sớm xuân đi tảo mộ
Hoa vàng đua sắc hương
Chùm khế hoa tím ngát
Thung dung vui đời thường.


VIẾNG MỘ CHA MẸ
thơ Hoàng Trung Trực

Dưới lớp đất này là mẹ là cha
Là khởi phát đời con từ bé bỏng
Là lời mẹ ru dịu dàng cánh võng
Là binh đao cha một thuở đau đời

Hành trang cho con đi bốn phương trời
Là nghĩa khí của cha, là nhân từ của mẹ
Vẫn bầu sữa tinh thần không ngừng không nghỉ
Để hành trang cho con đi tiếp cuộc đời

Cuộc đời con bươn chãi bốn phương trời
Nay về lại nơi cội nguồn sinh trưởng
Dâng nén hương mà lòng hồi tưởng
Thuở thiếu thời dưới lồng cánh mẹ cha

“Ước hẹn anh em một lời nguyền
Thù nhà đâu sá kể truân chiên
Bao giờ đền được ơn trung hiếu
Suối vàng nhắm mắt mới nằm yên”.

Bài thơ này trích trong tập thơ DẤU CHÂN NGƯỜI LÍNH năm nay bổ sung thêm hình ảnh và tư liệu mới. ‘Dấu chân người lính’ thơ Hoàng Trung Trực ghi lại kỷ niệm một thời của người lính chấp nhận sự hi sinh thân mình cho độc lập tự do và thống nhất của Tổ Quốc. Trang thơ gắn với sự thân thiết của nhiều đồng đội đã ngã xuống, sự đau đời mảnh đạn trong người và sự mẫu mực thầm lặng, ung dung đời thường của người con trung hiếu sau chiến tranh. Bài thơ “Viếng mộ cha me” đã thay lời muốn nói cho nhiều người lính trở về sau chiến tranh,

SỚM XUÂN ĐI TẢO MỘ. Mai vàng đua sắc hương. Chùm khế hoa tím ngát. Thung dung vui đời thường. (Hoàng Kim với Trần Công Khanh ở Đồng Nai)

TRẦN QUANG KHẢI THƠ THẦN
Hoàng Kim

Ngày 6 tháng 6 năm 1285, Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải (1241-1294) sáng tác bài thơ “ Tụng giá hoàn kinh sư “ nổi tiếng : “Chương Dương cướp giáo giặc, Hàm Tử bắt quân thù. Thái bình nên gắng sức, Non nước ấy ngàn thu.

Tụng giá hoàn kinh sư nguyên văn chữ Hán 從 駕 還 京 奪 槊 章 陽 渡 擒 胡 鹹 子 關 太 平 宜 努 力 萬 古 此 江 山 phiên âm Hán Việt Đoạt sáo Chương Dương độ Cầm Hồ Hàm Tử quan Thái bình tu trí lực Vạn cổ thử giang san là một bài thơ do thượng tướng thái sư Trần Quang Khải (1241-1294) viết sau khi quân dân nhà Trần chiến thắng quân Nguyên lần thứ hai. Bài thơ‎ nói về cảm xúc một vị tướng trên đường theo xa giá vua Trần Nhân Tông và Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông trở về kinh đô, đồng thời ca ngợi đội quân nhà Trần trong việc bảo vệ non sông đất nước. Hiện có ba bản dịch, bản trên là của Trần Trọng Kim, bản khác của Ngô Tất Tố. và Trinh Đường] Bài thơ hiện đang được đưa vào chương trình sách giáo khoa lớp 7, tập một.

Trần Quang Khải thơ thần là sử thi tổng kết bài học Nhà Trần trong sử Việt có giá trị to lớn đặc biệt sâu sắc.

TẾT ĐOAN NGỌ HOÀNG GIA
Hoàng Kim
Ngày giỗ của cụ ông TRẦN TƯƠU (còn gọi là cụ cố Giản) và cụ bà HOÀNG THỊ QUYNH làng Minh Lệ thuộc HOÀNG GIA MẠC TỘC đất phương Nam, nhằm ngày Tết Đoan Ngọ.

NGUỒN GỐC TẾT ĐOAN NGỌ
Bảo tồn và phát triển truyền thống văn hóa Việt

Nguồn gốc và ý nghĩa

-Tết Đoan Ngọ hay còn được gọi là tết Đoan Dương, được tổ chức vào giờ Ngọ, ngày mùng 5 tháng 5 Âm lịch hằng năm. Đây là một ngày tết truyền thống tại một số quốc gia Đông Á như Việt Nam, Triều Tiên, Đài Loan, Nhật Bản và Trung Quốc. “Đoan” có nghĩa là mở đầu, “Ngọ” là khoảng thời gian từ 11 giờ sáng đến 1 giờ chiều, ăn tết Đoan Ngọ là ăn vào buổi trưa. Đoan Ngọ tức là lúc mặt trời bắt đầu ngắn nhất, ở gần trời đất nhất. Ở Việt Nam, tết Đoan Ngọ còn được gọi với cái tên khá dân dã đó chính là “tết giết sâu bọ”. Hiểu đơn giản, đây chính là ngày phát động bắt sâu bọ, tiêu diệt bớt các loài sâu bệnh gây hại cho cây trồng.

Theo truyền thuyết kể lại, một ngày sau khi thu hoạch, nông dân ăn mừng vì trúng mùa nhưng sâu bọ năm ấy lại kéo dày ăn mất cây trái, thực phẩm đã thu hoạch. Mọi người đau đầu không biết làm cách nào để có thể giải được nạn sâu bọ này, bỗng nhiên có một ông lão từ xa đi tới tự xưng là Đôi Truân. Ông chỉ cho dân chúng mỗi nhà lập một đàn cúng gồm đơn giản có bánh tro, trái cây, sau đó ra trước nhà mình vận động thể dục. Nhân dân làm theo chỉ một lúc sau, sâu bọ đàn lũ té ngã rã rượi.

Lão ông còn bảo thêm:

– Sâu bọ hằng năm vào ngày này rất hung hăng, mỗi năm vào đúng ngày này cứ làm theo những gì ta đã dặn thì sẽ trị được chúng.

Dân chúng biết ơn định cảm tạ thì ông lão đã đi đâu mất. Để tưởng nhớ việc này, dân chúng đặt cho ngày này là ngày “Tết diệt sâu bọ”, có người gọi nó là “Tết Đoan ngọ” vì giờ cúng thường vào giữa giờ Ngọ.

Tết Đoan Ngọ và những phong tục của người Việt Nam

– Trong văn hóa Việt thì ngày mùng 5 tháng Năm âm lịch lại là ngày giỗ Quốc mẫu Âu Cơ!

Trong dân gian đã lưu truyền câu ca dao:

” Tháng năm ngày tết Đoan Dương
Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang’

Ở vùng miền Đông Nam Bộ thì ngày mùng 5 tháng Năm còn được gọi là ngày “Vía Bà”, thờ Linh sơn Thánh Mẫu trên núi Bà Đen

Ở Đồng Tháp nói riêng và các tỉnh miền Tây Nam Bộ nói chung, ngày mùng 5 tháng Năm âm lịch còn gọi là ngày “nước quay”, vì cứ theo lệ hàng năm, nước sông Mê Kông từ thượng nguồn đổ về đến nước ta thì trở thành màu đỏ đục và có nhiều xoáy nước. Và năm nào cũng vậy, ngày này được coi là ngày bắt đầu của những mùa lũ hàng năm.

-Tết Đoan Ngọ là dịp người ta thường ăn tết ở nhà với gia đình. Buổi sáng sớm ngày Tết Đoan Ngọ mọi người ăn bánh tro, chè hạt sen, trái cây, và rượu nếp để giết sâu bọ, bệnh tật trong người. Thường lệ người ta ăn rượu nếp ngay sau khi ngủ dậy.

Người ta cúng lễ cho một tiết mới, mừng sự trong sáng và quang đãng.

Nhiều người tắm nước lá mùi để phòng bệnh và tẩy trừ “sâu bọ”. Nhiều địa phương ở ven biển đúng giờ ngọ đi tắm biển. Tại vì ngày này, theo quan niệm dân gian, khí dương mạnh nhất trong năm, người ta cúng lễ để cầu an. Cũng theo quan niệm đó, các loại cây lá hái trong thời gian này có tác dụng chữa bệnh tốt nhất nên các thầy thuốc thường lên núi hái thuốc.

Vào dịp Tết Đoan ngọ, ai bị cảm cúm nên dùng năm loại lá là bạch đàn, xương rồng, ngũ trảo, dâu tằm ăn và sả nấu nước xông để bớt bệnh. Người ta cũng tìm mua cành xương rồng bỏ trong nhà để đuổi tà ma.

Tết Đoan Ngọ là ngày tưởng nhớ hai cụ Trần & Hoàng trong gia đình chúng tôi

(HK ghi chép ngày mất của cụ Ông theo đúng gia phả của gia tộc chúng tôi, để ghi nhớ ngày vía Ông Bà, đúng ngày Tết Đoan Ngọ ) .

Những điều cần lưu ý trong Tết Đoan Ngọ

THÁNG NĂM NGÀY TẾT ĐOAN DƯƠNG (*)
Hoàng Kim

Giỗ Ông Ngoại ngày mùng Năm
Trùng ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang
Tháng năm ngày Tết Đoan Dương
Giờ cúng chính Ngọ vào thường giữa trưa

(*) ảnh VietNamNet, thơ Hoàng Kim; xem thêm Một gia đình yêu thương https://hoangkimlong.wordpress.com/category/mot-gia-dinh-yeu-thuong/

Chuyên mục

Chaongaymoi

PDF và Video yêu thích
Mùa xuân đầu tiên (Văn Cao) -Thanh Thúy
Quê Hương saxophone hay nhất của Trần Mạnh Tuấn
Ban Mai; Chỉ tình yêu ở lại
Trường tôi nôi yêu thương
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter

Advertisement