CIP Peru và khoai Việt

CIP PERU VÀ KHOAI VIỆT
Hoàng Kim

Khoai lang ở Việt Nam là cây lương thực thực phẩm quan trọng đứng hàng thứ tư sau lúa, ngô và sắn, với diện tích trồng hàng năm ngày nay (2015-2020) dao động 127-109 nghìn ha, năng suất bình quân 11,5-12,5 tấn/ ha, sản lượng dao động từ 1,33-1,43 triệu tấn củ tươi/ năm (Nguồn: GSO, 2020) Trồng giống khoai lang năng suất cao, chất lượng tốt, thực hiện hiệu quả chuỗi sản xuất cung ứng khép kín từ giống tốt đến mười kỹ thuật thâm canh đồng bộ sản xuất chế biến tiêu thụ. Khoai lang trên thế giới hiện là cây lương thực đứng hàng thứ bảy sau lúa mì, lúa nước, ngô, khoai tây, lúa mạch, và sắn. Toàn thế giới ngày nay có 118 nước trồng khoai lang với tổng diện tích 8,06 triệu ha, trong đó châu Phi chiếm 57,07%, châu Á khoảng 36,72%, châu Mỹ chiếm 4,3%. Việt Nam có năng suất khoai lang là tương đương với năng suất bình quân chung của Thế giới, và năng suất  khoai lang bình quân của châu Mỹ 12,15 tấn/ha, đạt gấp đôi năng suất khoai lang châu Phi là 5,65 tấn/ ha nhưng chỉ ở mức 56,1% so với năng suất khoai lang bình quân chung của châu Á là 20,53 tấn/ha. Sản lượng khoai lang thế giới có xu hướng giảm từ 142,67 triệu tấn năm 2000, xuống còn 90,95 triệu tấn năm 2020, do cạnh tranh cây trồng và hệ thống sản xuất chế biến tiêu thụ khoai lang chưa hiệu quả bằng sắn và các chuỗi sản xuất cung ứng nông sản khác. Châu Á cung cấp sản lượng khoai lang khoảng 66,0%, châu Phi cung cấp sản lượng khoảng 28,3%. Nguồn gen khoai lang lớn nhất toàn cầu là tại Trung tâm Khoai tây Quốc tế (Centro Internacional de la Papa – CIP) với tổng số 7007 mẫu giống khoai lang được duy trì từ năm 2005. Trong số này có 5.920 mẫu giống khoai lang trồng (Ipomoea batatas) và 1087 mẫu giống khoai lang loài hoang dại (Ipomoea trifida và các loài Ipomoea khác). Việc duy trì nguồn gen ở CIP được thực hiện trong ống nghiệm, trên đồng ruộng, bảo quản bằng hạt và được đánh giá theo tiêu chuẩn quốc tế. Khoai lang Trung Quốc có sản lượng, năng suất và diện tích trồng cao nhất thế giới nhưng chất lượng khoai lang không ngon bằng khoai lang Nhật và Mỹ khi trồng ở Việt Nam. Khoai lang Mỹ nổi tiếng về chất lượng cao, phổ biến các giống khoai lang có ruột củ màu cam đậm, dẻo và có hương vị thơm, thích hợp tsử dụng trong công nghiệp thực phẩm. Mỹ hiện đang tiếp tục thực hiện các nghiên cứu chọn giống khoai lang chất lượng cao giàu protein, vitamin A và có hương vị thơm; ứng dụng công nghệ gen, công nghệ tế bào trong tạo giống. Khoai lang Nhật cũng nổi tiếng về chất lượng cao với hướng chọn tạo giống khoai lang để sử dụng lá làm rau xanh, làm nước sinh tố và thực phẩm có màu tím hoặc màu cam đậm tự nhiên. Nhược điểm khoai lang Nhật, Mỹ, Trung Quốc khi trồng ở Việt Nam là thời gian sinh trưởng hầu hết đều dài trên 115 ngày, không thật thích hợp hiệu quả khi đưa vào các vụ trồng ở Việt Nam. Năm giống khoai lang phổ biến nhất Việt Nam hiện nay là HL518 Nhật đỏ, HL491 Nhật tím, Hoàng Long, Hưng Lộc 4, Bí Đà Lạt đều vận dụng nguồn gen quý của Nhật, Mỹ, Trung Quốc nhưng đều đã được Việt hóa, lai tạo, tuyển chọn, bồi dục theo định hướng và tiêu chuẩn giống khoai lang tốt Việt Nam (Hoàng Kim và đồng sự 2015, Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997). CIP Peru và CIP Philippines (vùng 7) là nôi hợp tác nghiên cứu đào tạo của khoai Việt. CIP Peru với khoai Việt, một thời để nhớ https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cip-peru-voi-khoai-viet/

KiminCIATColombia2003

NAM MỸ TRONG MẮT TÔI
Hoàng Kim


Rừng mưa ẩm Amazon; sắn khoai đậu ngô bí, Không gian thật trong lành; Tộc người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha ưu thế; Lịch sử, địa chính trị, văn hóa và sắc tộc; sân sau của Hoa Kỳ; Đồng thuận Washington; “Thủy triều hồng” ngày nay;Thế sự bàn cờ vây; Thế giới trong mắt ai;

Nam Mỹ và Việt Nam xa quá ! Tôi cơ may qua đó thầm nghĩ thật hiếm có, đời ít dịp trở lại. Thế nhưng, người đồng niên với tôi, con sư tử phương Đông thức dậy, lại đang liên kết “Thủy triều hồng“, làm sân sau Đồng thuận Washington nay không còn sự yên tĩnh nữa.

Kim Notes ghi chú ấn tượng Châu Mỹ chuyện không quên là ký ức lắng đọng, tôi xin được lưu lại cho chính mình và bạn; Vận mệnh và may mắn giúp cho ta cơ hội. Nhớ bạn nhớ châu Phi là minh chứng kỳ lạ cho lời nguyền từ Nam Mỹ, phúc lành sử thi linh cảm tạo duyên may; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nam-my-trong-mat-toi/

CHÂU MỸ CHUYỆN KHÔNG QUÊN
Hoàng Kim
Tôi đã nhiều lần tới châu Mỹ, tới cả Trung Mỹ, Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Đó là kinh nghiệm sống quý giá cho sự nghiên cứu và giảng dạy khoa học cây trồng, đặc biệt là cây lương thực. Tôi nhớ thầy Norman Boulaug và nhiều thầy bạn ở nơi ấy, nhớ đất. nhớ người. Tôi có thói quen chép lại ghi chú ngắn và ghi hình về kỷ niệm sau mỗi chuyến đi, lần này mới có dịp hệ thống lại. “Châu Mỹ chuyện không quên” lắng đọng trong lòng tôi những ký ức sâu sắc về công việc chuyên môn khoa học cây trồng, cây lương thực yêu thích, kết nối với đất nước, con người, bạn hữu, và nền văn hóa châu Mỹ. Tôi kể từ chuyến đi Mỹ lần đầu tiên năm 1988, cho tới nhiều lần về sau lắng đọng chuỗi trãi nghiệm thân thương với thầy bạn ở bên kia bờ đại dương. Ba nơi chính của châu Mỹ mà tôi may mắn được tới, đó là vùng vật liệu di truyền ở ba trung tâm khởi nguyên cây trồng toàn cầu của chúng tại Châu Mỹ gồm Trung tâm ngô và lúa mì quốc tế CIMMYT ở Mê hi cô. Trung tâm khoai lang và khoai tây quốc tế CIP ở Peru. Trung tâm Quốc tế Nông nghiệp Nhiệt đới CIAT về sắn, đậu thực phẩm, lúa gạo châu Mỹ ở Côlômbia. Những điểm đến này tương tự như Viện Nông nghiệp Nhiệt đời Quốc tế IITA ở Nigeria châu Phí, Viện Nghiên cứu Cây trồng Quốc tế cho vùng Nhiệt đới Bán khô cằn ICRISAT ở Ấn Độ, và Viện Lúa quốc tế IRRI ở Philippines. Những chốn ấy cũng thật thân thuộc với tôi. Tại đấy sách chuyên khảo cây trồng, tạp chí, trang web, video thật phong phú, sâu sắc và thật đáng ao ước. Cũng từ đấy mà tôi may mắn được đi thăm thú rộng ra các vùng lân cận theo điều kiện và hoàn cảnh của mỗi chuyến đi.

“Châu Mỹ chuyện không quên” là các bài học tình yêu cuộc sống trãi nghiệm cá nhân của các chuyến đi thực tế, với mục đích cung cấp các điểm nhấn tư liệu nông nghiệp sinh thái về cây lương thực châu Mỹ cho bạn đọc. Tác phẩm gồm 36 đường dẫn, tựa đề thơ ngũ ngôn, để dễ đọc dễ nhớ, ảnh chi tiết bấm link.

Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc. Lời Thầy dặn thung dung.

Châu Mỹ chuyện không quên
Hoàng Kim

Niềm tin và nghị lực
Về lại mái trường xưa
Hưng Lộc nôi yêu thương
Năm tháng ở trời Âu

Vòng qua Tây Bán Cầu
CIMMYT tươi rói kỷ niệm
Mexico ấn tượng lắng đọng
Lời Thầy dặn không quên

Ấn tượng Borlaug và Hemingway
Con đường di sản Lewis Clark
Sóng yêu thương vỗ mãi
Đối thoại nền văn hóa

Truyện George Washington
Minh triết Thomas Jefferson
Mark Twain nhà văn Mỹ
Đi để hiểu quê hương

500 năm nông nghiệp Brazil
Ngọc lục bảo Paulo Coelho
Rio phố núi và biển
Kiệt tác của tâm hồn

Giấc mơ thiêng cùng Goethe
Chuyện Henry Ford lên Trời
Bài đồng dao huyền thoại
Bảo tồn và phát triển

Sắn Việt Nam và Kawano
Sắn Việt Nam và Howeler
Một ngày với Hernán Ceballos
CIAT Colombia thật ấn tượng
Martin Fregene xa mà gần

Châu Mỹ chuyện không quên
CIP Peru với khoai Việt
Nam Mỹ trong mắt tôi
Nhiều bạn tôi ở đấy

Machu Picchu di sản thế giới
Mark Zuckerberg và Facebook
Lời vàng Albert Einstein
Bill Gates học để làm

Thomas Edison một huyền thoại
Toni Morrison nhà văn Mỹ
Walt Disney bạn trẻ thơ
Lúa Việt tới Châu Mỹ.

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chau-my-chuyen-khong-quen/

MaVanKhang
Giáo sư Nguyễn Lân Dũng già làng xóm Lá có bài viết “Cuốn tiểu thuyết ở tuổi 80” giới thiệu sách mới in “Người thợ mộc và tấm ván thiên” của nhà văn Ma Văn Kháng. Thầy Dũng viết: Lời tâm sự (của nhà văn Ma Văn Kháng) nghe xao xuyến quá: “Mình dồn hết sức lực vào cuốn này, cuốn tiểu thuyết cuối cùng của đời mình đấy, Lân Dũng yêu quý à!”. Tôi tin là sách hay, vì đây là sách lắng đọng tâm huyết một đời. “Người thợ mộc và tấm ván thiên” là tuyên ngôn văn học của nhà văn Ma Văn Kháng tiếp nối cuốn hồi ký “Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương” của chính tác giả. Văn là Người. Nhà văn Ma Văn Kháng là ai thì chúng ta đã thật kính trọng và hiểu ông rồi. Ma Văn Kháng thầy giáo Việt văn.

Ma Văn Kháng hơn nửa thế kỷ cầm bút

Nhà văn Ma Văn Kháng trên hành trình hơn nửa thế kỷ cầm bút của mình đã xuất bản 25 tập truyện, 16 tiểu thuyết và 1 cuốn hồi ký. Những tác phẩm nổi tiếng của ông “Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương”, “Mùa lá rụng trong vườn”, “Đồng bạc trắng hoa xòe”, “Trăng soi sân nhỏ”, “Đám cưới không có giấy giá thú”, “Gặp gỡ ở La Pan Tẩn”, “Một mình một ngựa”, “Bóng đêm”… và gần đây là “Người thợ mộc và tấm ván thiên” chắc chắn sẽ còn được đón nhận của nhiều thế hệ.

Ma Văn Kháng là tấm gương nghị lực đã dấn thân cho nghiệp văn để soi sáng cái đẹp của con người trong đời sống bình dị. Thật khâm phục một thầy giáo dạy văn cấp hai ở vùng núi Lào Cai suốt 20 năm mà đã để lại cho đời một văn nghiệp đồ sộ đến vậy.

Trần Đăng Khoa có lời thẩm văn tinh tế: “Ma Văn Kháng, một cây bút xuất sắc trong văn học đương đại Việt Nam. Ma Văn Kháng là một nhà văn lớn. Có thể xếp ông bên cạnh Nam Cao là cây bút vào hạng xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Tiếc là Nam Cao mắt sớm, nên không phong phú, đồ sộ bằng Ma Văn Kháng. Tuy nhiên Nam Cao viết đều tay hơn Ma Văn Kháng, hầu như ông không có cái nào non lép. Còn Ma Văn Kháng, bên cạnh những tác phẩm đặc sắc, ông vẫn có những cái không xứng tầm với ông. Nhưng chẳng sao. Bởi nếu chỉ chọn những cái hay, vứt hết những gì non lép đi, nếu chỉ tính số lượng những tác phẩm đặc sắc còn lại, Ma Văn Kháng vẫn đứng hàng đầu bảng. Ông là một trong vài nhà văn ứng viên Giải thưởng Hồ Chí Minh năm nay, trong số những ứng viên ấy, ông cũng là người xứng đáng nhất“.

Ông hiện đã lớn tuổi và bệnh tim, hãy quan tâm ông và phổ biến rộng hơn tấm gương dấn thân và tác phẩm chọn lọc của người Thầy này đến nhiều người đọc hơn nữa.

Ma Văn Kháng cuộc đời nghị lực

Nhà văn Ma Văn Kháng tên thật là Đinh Trọng Đoàn sinh ngày 1 tháng 12 năm 1936 tại làng cổ Kim Liên, Đống Đa, hiện sống và viết ở Hà Nội. Ông tham gia quân đội từ tuổi thiếu niên. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội, sau lên dạy học ở tỉnh Lào Cai, sống và gắn bó với đồng bào dân tộc miền núi hơn 20 năm. Ngày ấy, ông quen anh Ma Văn Nho, Phó chủ tịch huyện Bảo Thắng, Lào Cai. Anh Nho cũng là người Kinh, quê ở Hạ Hòa, Phú Thọ. Hai anh em cùng đi cơ sở, thực hiện ba cùng với nhân dân, vận động họ tăng gia sản xuất, đóng thuế, đi dân công, xóa mù chữ, vệ sinh phòng dịch bệnh… Ông kết nghĩa anh em với anh Nho và chuyển sang họ Ma. Từ đó Ma Văn Kháng là tên dùng hàng ngày trong công tác. Ký học bạ cho học sinh, ông cũng lấy tên này. Sau này, viết văn thì dùng luôn(1). Ông vào Đảng năm 1959 và lấy vợ năm 1962. Năm 1961 ông gừi truyện ngắn đầu tay Phố Cụt về báo Văn học (tiền thân của báo Văn nghệ) và được đăng. Nhờ có đà động viên ấy mà sau đó ông gửi liên tiếp nhiều truyện ngắn khác (2). Ông trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1974. Từ năm 1976 đến nay ông công tác tại Hà Nội, đã từng là Tổng biên tập, Phó Giám đốc Nhà Xuất bản Lao Động. Từ tháng 3 năm 1995 ông là Tổng biên tập tạp chí Văn học nước ngoài của Hội Nhà văn Việt Nam. Ông đã 8 lần đệ đơn xin thôi vị trí này. Ông đã được nhận giải thưởng loại B của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1986 cho quyển tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn, tặng thưởng của Hội đồng văn xuôi Hội Nhà văn Việt Nam 1995 cho tập truyện ngắn Trăng soi sân nhỏ (3)

Ma Văn Kháng tác phẩm chọn lọc

Nhà văn, nhà giáo Ma Văn Kháng trên hành trình hơn nửa thế kỷ cầm bút của mình đã xuất bản 25 tập truyện, 16 tiểu thuyết và 1 cuốn hồi ký “Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương”. Những tác phẩm nổi tiếng của ông phản ánh đời sống của đồng bào dân tộc miền núi như “Đồng bạc trắng hoa xoè”, “Vùng biên ải”, “Trăng soi sân nhỏ, “Gặp gỡ ở La Pan Tẩn”, “Một mình một ngựa”, “Bóng đêm”… là những viên ngọc sáng. Ông được mệnh danh là “nhà văn của núi rừng”. Ngoài ra, ông cũng rất thành công với đề tài gia đình như các tác phẩm “Mùa lá rụng trong vườn”, “Đám cưới không có giấy giá thú”. Tác phẩm của ông sẽ còn được đón nhận của nhiều thế hệ. Tại Tác phẩm đầu tay hay sự khởi đầu nghiệt ngã (4) có trích dẫn nhận định đời văn của Ma Văn Kháng. Ông cho biết đời văn của ông, ngoài 15 tiểu thuyết và 1 cuốn hồi ký, ông đã viết khoảng 200 truyện ngắn. Trong 25 tập truyện ngắn đã in thì chỉ có 18 tập ông coi là tác phẩm. Truyện ngắn đầu tay “Phố cụt” cho dù để lại trong ông nhiều ấn tượng và cảm xúc đẹp, nhưng nó là một truyện viết thường nên ông không đưa vào tập truyện ngắn nào của mình. Nó chỉ được in chung trong “Tủ sách mùa đầu” của Nhà xuất bản Phổ thông.

Một số tác phẩm tiêu biểu của Ma Văn Kháng

  • Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979)
  • Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982)
  • Vùng biên ải (tiểu thuyết,1983)
  • Trăng non (tiểu thuyết 1984)
  • Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết,1985)
  • Giấy trắng (tiểu thuyết)
  • Phép lạ thường ngày
  • Thầy Thế đi chợ bán trứng
  • Võ sỹ lên đài (1986)
  • Thanh minh trời trong sáng
  • Hoa gạo đỏ
  • Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986)
  • Đám cưới không giấy giá thú
  • Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988)
  • Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988)
  • Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989)
  • Đám cưới không giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989)
  • Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992)
  • Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992)
  • Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994)
  • Ngoại thành (truyện ngắn 1996)
  • Truyện ngắn Ma Văn Kháng(tuyển tập 1996)
  • Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997
  • Đầm sen (1997)
  • Một chiều giông gió (1998)
  • Ngược dòng nước lũ (1999)
  • Gặp gỡ ở La Pan Tẩn (2001)
  • Bến bờ
  • Một mình một ngựa (2009)
  • Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (2009)
    + Người thợ mộc và tấm ván thiên (2016)

Ma Văn Kháng trong tôi

Nhân trò chuyện với anh Chử Anh Đào và Văn Công Hùng, tôi có nói:  Hoàng Kim đã đọc văn Ma Văn Kháng và văn anh Chử Anh Đào từ rất lâu rồi, nhưng nay mới có dịp kết nối FB để đối diện con người thực ngoài đời và con người nhà văn trên văn hóa mạng. Tôi có viết bài MA VĂN KHÁNG THẦY GIÁO VIỆT VĂN, nay muốn diễn đạt giữa thầy giáo nhà văn Ma Văn Kháng và thầy giáo nhà văn Chử Anh Đào có những nét tương đồng: Họ đều là những người thầy cầm bút, họ đều rời chốn đô hội “đa số” về nơi tỉnh lặng “thiểu số” và số phận cho họ nhân xưng của một nhà văn dân tộc đúng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Và, điều sâu xa hơn, họ đều trân trọng nâng niu những giá trị gốc văn hóa bản địa của núi rừng Tây Bắc và Tây Nguyên cao vọi để làm cho giá trị đó tỏa sáng. Họ đừng nên so sánh với bất cứ ai, và nếu có một giải thưởng tôn vinh họ thì đó cũng chỉ là bình thường và lại là một câu chuyện khác.

Và cũng vậy, giống như câu chuyện Việt Nam Châu Phi hợp tác Nam Nam, thầy Võ Tòng Xuân, TS. Tô Văn Trường,  PGS.TS. Dương Văn Chín, GS. Nguyễn Tử Siêm … cùng biết bao người tiên phong đưa hạt ngọc Việt đến châu Phi. Công việc thầm lặng  “Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương”, “Người thợ mộc và tấm ván thiên” góp phần thức tỉnh một nhân cách, một định hướng.

Ma Văn Kháng là nhà văn lớn, viên ngọc sáng, đồng bạc trắng hoa xòe của núi rừng Tây Bắc. Mỗi nhà văn lớn ngoài cái tâm nhân cách, cái tầm tư tưởng, cái tài tình danh sĩ,  còn có cái hồn thiêng của một vùng đất, một nghề nghiệp mà họ yêu thiết tha như chính cuộc đời này. Ma Văn Kháng gắn bó với Tây Bắc như Nguyên Ngọc thân thiết với những ngọn núi kỳ vĩ của núi rừng Tây Nguyên, và như Nguyễn Ngọc Tư thương nhớ sâu xa cánh đồng bất tận của đất phương Nam vậy.

CNM365 TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
Bài ca thời gian
Run away with me.
KimYouTube
Omar Akram, Black night https://youtu.be/l6aUNWyA8us

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter