Lên Việt Bắc điểm hẹn

LÊN VIỆT BẮC ĐIỂM HẸN
Bạch Ngọc Kim Hoàng

Ai lên Việt Bắc ta về với
Nhớ chuyển đi dài núi thẳm sâu
Điểm hẹn ước mong ngày trở lại
Sương khói thời gian tóc đối màu …

Đèo Pa Đin Việt Bắc ảnh Phan Văn Tự, thơ Hoàng Kim, xúc động nhớ đồng đội cũ, xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/len-viet-bac-diem-hen

LÊN VIỆT BẮC ĐIỂM HẸN
Bạch Ngọc Hoàng Kim

Việt Nam tổ quốc tôi yêu
Non sông gấm vóc bao điều mến thương
Hồng Hà kết nối Cửu Long
Nham Biền, Tam Đảo, Trường Sơn ghi lòng
Sông Đà* Việt Bắc biên cương
Trường thành chắn Bắc con đường Vạn Xuân
Ngườm Ngao, Bản Giốc, Ka Long
Kỳ Cùng, Kỳ Lộ, Hoàng Linh tuyệt vời
.

* Sông Đà ảnh Võ Công Hậu Trần Hường , thông tin tích hợp tại Bài học quý mỗi ngày https://youtu.be/OL0AKhXkaFEhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/len-viet-bac-diem-hen#Thungdung#dayvahoc, #vietnamhoc; #đẹpvàhay #cnm365 #cltvn 30 tháng 3 https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-30-thang-3/

LÊN VIỆT BẮC ĐIỂM HẸN
Hoàng Kim


Về Việt Bắc nhớ Người
Chợt gặp mai đầu suối
Bài ca nhịp thời gian
Người vịn trời chấp sói

Lên Việt Bắc điểm hẹn
Thăm thẳm trời sông Thương
Quang Dũng thơ gọi nắng
Ban mai ngọc riêng mình

Dạo chơi non nước Việt
#Thungdung #khátkhaoxanh

VỀ VIỆt BẮC NHỚ NGƯỜI
Hoàng Kim

Đền thiêng trên Nghĩa Lĩnh 

Giếng ngọc dưới trời Nam 
Chén cơm truyền con cháu 
Vạn cổ thử giang san.

1 xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ve-viet-bac-nho-nguoi/

Quadeochotgapmaidausuoi

CHỢT GẶP MAI ĐẦU SUỐI
Hoàng Kim

Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh/ Đường về vó ngựa dẫm mây xanh/ Qua đèo chợt gặp mai đầu suối/ Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành“. Tôi biết bài thơ kỳ lạ này của Bác Hồ đăng trên báo khoảng năm 1970 do một chuyện ngẫu nhiên tình cờ nên nhớ mãi. Bài thơ kỳ lạ vì ẩn chứa nhiều triết lý sâu sắc không dễ thấy, vì nó là thơ của Bác Hồ mà ít thấy sách báo nào nhắc đến gần nửa thế kỷ qua.Thuở ấy, tôi mười bảy tuổi, đã cùng người anh trai Hoàng Ngọc Dộ ra thăm đèo Ngang. Chúng tôi vừa đi xe đạp vừa đi bộ từ chân núi lên đến đỉnh đèo. Gần cột mốc địa giới hai tỉnh trên đỉnh đường xuyên sơn, cạnh khe suối ven đỉnh dốc sườn đèo có cây mai rừng rất đẹp. Chúng tôi đang thưởng ngoạn thì chợt gặp xe của Bộ trưởng Xuân Thủy và  bí thư tỉnh ủy Quảng Bình Nguyễn Tư Thoan vừa tới. Họ đã xuống xe ngắm nhìn trời, biển, hoa, núi và bộ trưởng Xuân Thuỷ đã bình bài thơ trên.

Bộ trưởng Xuân Thủy là nhà ngoại giao có kiến thức rộng, bạn thơ của Hồ Chí Minh, giỏi dịch thơ chữ Hán. Ông cũng là người đã dịch bài thơ “Nguyên tiêu” nổi tiếng, nên khi tôi tình cờ được nghe lời bình phẩm trực tiếp của ông về bài thơ trên thì tôi đã nhớ rất lâu. Tôi cũng hiểu nghĩa rõ ràng cụm từ “Trung Nam Hải” từ dịp ấy.

Ba mươi năm sau, khi anh Gia Dũng sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu bài thơ “Tìm bạn không gặp” trong tập thơ “Ngàn năm thương nhớ” tuyển thơ một nghìn năm Thăng Long, Hà Nội. Bài thơ “Tầm hữu vị ngộ” của Bác do nhà Hán học nổi tiếng Phan Văn Các diễn nghĩa và dịch thơ. Nội dung tuy vẫn thế nhưng bản dịch mới lời dịch sát nghĩa chữ Hán hơn so với bản tự dịch thoáng ý của chính Bác và có khác MỘT chữ so với bài mà tôi được nghe bình trước đây. Đó là từ “nghìn dặm” được thay bằng từ “trăm dặm” (“bách lý tầm quân vị ngộ quân” thay vì “thiên lý tầm quân vị ngộ quân”). Bản dịch mới có lời ghi chú, nghe nói là của Bác. Bài thơ viết năm 1950 nhưng cảm xúc thực sự của Người khi thăng hoa bài thơ nổi tiếng này thì nay vẫn còn để ngỏ.

Hồ Chí Minh tầm hữu vị ngộ

Thiên lý tầm quân vị ngộ quân,
Mã đề đạp toái lĩnh đầu vân.
Quy lại ngẫu quá sơn mai thụ,
Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân.

尋友未遇

千里尋君未遇君,
馬蹄踏碎嶺頭雲。
歸來偶過山梅樹,
每朵黃花一點春。

Nghìn Trăm dặm tìm anh chẳng gặp anh,
Đường về vó ngựa dẫm mây xanh.
Qua đèo chợt gặp mai đầu suối
Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành.

(Bản tự dịch của Hồ Chí Minh, theo Xuân Thủy)

“Trăm dặm tìm không gặp cố nhân
Mây đèo dẫm vỡ ngựa dồn chân
Đường về chợt gặp cây mai núi
Mỗi đoá hoa vàng một nét xuân”
(Bản dịch thơ của Phan Văn Các)

Bác ra nước ngoài từ đầu năm 1950 đến đầu tháng Tư mới về nước theo hồi ức “Chiến đấu trong vòng vây” của đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bác lúc đó đã sáu mươi tuổi, bí mật đi đến Bắc Kinh gặp chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông rồi đi luôn sang Matxcơva gặp đồng chí Stalin. Bác cũng đi tìm gặp đại tướng Trần Canh khi chuẩn bị chiến dịch Biên giới. Trong cơn lốc của các sự kiện, Bác khẳng định: “ Tổng phản công của ta sẽ là một giai đoạn lâu dài. Rồi đây, có sự chi viện của Liên Xô và Trung Quốc về vật chất, vũ khí, trang bị, ta sẽ đỡ khó khăn hơn, nhưng giành được thắng lợi là phải do sức nỗ lực của chính bản thân ta quyết định”.

“Nghìn dặm” hay “trăm dặm”? “gặp bạn” hay “không gặp” hoặc “gặp nhưng không gặp về cách làm”? Ngữ nghĩa của câu thơ “Bách lý tầm quân vị ngộ quân” khác hẳn với “thiên lý tầm quân vị ngộ quân” và không đơn giản dịch là “Tìm bạn không gặp”. Dường như Bác đang đề cập một vấn đề rất lớn của định hướng chiến lược đối ngoại. Nhiều sự kiện lịch sử hiện tại đã được giải mã nhưng còn nhiều ẩn ý sâu sắc trong thơ Bác cần được tiếp tục tìm hiểu, khám phá thêm. Những năm tháng khó khăn của cách mạng Việt Nam “chiến đấu trong vòng vây”; Những tổn thất và sai lầm trong cải cách ruộng đất do sự thúc ép từ phía Liên Xô và sự vận dụng không phù hợp kinh nghiệm của Trung Quốc; Quan hệ của nước nhỏ đối với các nước lớn. Nhiều điều tinh tế ẩn chứa trong thơ Bác.

Ý tứ trong bài thơ của Bác rất gần với với một bài thơ cổ của Trung Quốc thời nhà Tống: “Tận nhật tầm xuân bất kiến xuân/ Mang hài đạp phá lãnh đầu vân/ Quy lai khước phá mai hoa hạ/ Xuân tại chi đầu vị thập phân”. Bài thơ tả một ni cô mang hài trèo đèo vượt núi cực khổ tìm xuân suốt ngày mà vẫn chẳng gặp xuân. Đến khi trở về mới thấy xuân đang hiện trên những cành mai trong vườn nhà.

Bác Hồ cũng vượt vòng vây phong tỏa, chịu nhiều gian khổ suốt bốn tháng ròng để tìm sự ủng hộ quốc tế cho cách mạng Việt Nam đang “chiến đấu trong vòng vây”. Trên đường về, qua đèo, Bác chợt gặp cây mai đầu suối và Bác đã ngộ ra được những vấn đề sâu sắc của phương pháp cách mạng. Đối diện với mặt trời đỏ “đông phương hồng, mặt trời lên” là mặt TRĂNG hiền hoà (rằm xuân lồng lộng trăng soi) và gốc MAI vàng cổ thụ bên SUỐI nguồn tươi mát (bên suối một nhành mai). Trăng, suối, hoa mai là những cụm từ quan trọng trong thơ Bác. Nó là triết lý ứng xử tuyệt vời của một nước nhỏ đối với các nước lớn trong quan hệ quốc tế phức tạp. Trời càng sáng, trăng càng trong, nước càng mát, mai càng nở rộ.

Hồ Chí Minh Thướng Sơn

“Thướng sơn”; là bài thơ Ngôn chí đặc sắc của Hồ Chí Minh viết ở Lũng Dẻ năm 1942, in tại: Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, 1990, trang 14. Bài thơ ẩn ngữ lấy ý chủ đạo “nhành mai” đối “mặt trời hồng“. “bên suối một nhành mai.”

Thướng sơn

Lục nguyệt nhị thập tứ,
Thướng đáo thử sơn lai.
Cử đầu hồng nhật cận,
Đối ngạn nhất chi mai.

上山





Dịch nghĩa

Ngày hai mươi bốn tháng sáu,
Lên đến núi này.
Ngẩng đầu thấy mặt trời đỏ gần lại,
Bờ bên kia có một nhành mai.

Dịch thơ

Hai mươi tư tháng sáu,
Lên ngọn núi này chơi.
Ngẩng đầu: mặt trời đỏ,
Bên suối một nhành mai.
(Bản dịch của Tố Hữu)

Hăm tư tháng sáu hôm nay
Trèo lên trên đỉnh núi này dạo chơi
Ngẩng lên đỏ chói mặt trời
Bên kia khe một nhành mai xanh rờn
(Bản dịch của Xuân Thủy)

Ngày 24 tháng 6 là ngày gì trong lịch sử? Ngày 24 tháng 6 năm 1812 là ngày đại quân của Hoàng đế Pháp Napoléon Bonaparte vượt sông Neman, khởi đầu xâm chiếm Đế quốc Nga. Ngày 24 tháng 6 năm 1942 là ngày khởi đầu của chiến dịch Voronezh đại quân Đức Quốc Xã Adolf Hitler tấn công Voronezh, thành phố có tầm quan trọng chiến lược đặc biệt quan trọng bên bờ sông Đông, (là nguyên quán của Nikolai Fyodorovich Vatutin tư lệnh Phương diện quân Tây Nam, lực lượng phòng thủ chính của Liên Xô trong Chiến dịch phòng thủ Valuiki – Rossosh năm 1942). Về sau Adolf Hitler cho rằng hai ngày chậm trễ trong chiến dịch này đã làm Tập đoàn quân thiết giáp số 4 không kịp đến, làm giảm sức công phá và để cho Liên Xô kịp phòng thủ cứu nguy Stalingrad, thay đổi cục diện chiến tranh. Ngày 24 tháng 6 năm 1942 tại Lũng Dẻ, Hồ Chí Minh lên núi.

“Thướng sơn” và “Tầm hữu vị ngộ” là ẩn ngữ, câu thơ lưu lạc giữa đời thường. Hồ Chí Minh là người chuộng kinh Dịch và rất tinh tế, thường có những ứng xử ngẫu nhiên phù hợp với quy luật tất nhiên. Hồ Chí Minh trọn đời minh triết viết và nói thường có ẩn ý. Như 19 tháng 5 là ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là ngày thành lập Việt Minh, cũng là ngày khai sinh  đường Hồ Chí Minh trong lịch sử. Chuỗi ba sự kiện lớn này đóng mốc son ngày 19 tháng 5 vào lịch sử Việt Nam và thế giới đối với nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sự nghiệp thống nhất Tổ quốc Việt Nam.

“Thướng sơn” (lên núi) là lên non thiêng ‘chống gậy lên non xem trận địa”, để xác định đúng tình thế, thời cơ và phương pháp cách mạng “tùy cơ, tùy vận, tùy thiên mệnh, tùy thời, tùy thế lại tùy nghi” là minh triết Hồ Chí Minh.”Đi đường mới biết gian lao. Núi cao rồi lại núi cao chập chùng . Núi cao lên đến tận cùng. thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” (Đi đường, Hồ Chí Minh) Lên núi là để xem thế trận biến ảo khôn lường dự báo kêết quả thắng thua của Chiến tranh thế giới thứ hai. Tôn Trung Sơn thời Trung Hoa Dân Quốc, đưa ra đại kế “Liên Nga, thân Cộng, ủng hộ Công Nông, Tam Dân chủ thuyết” Uông Tinh Vệ nối nghiệp Tôn Trung Sơn cùng Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch.là “tam hùng”. Uông Tinh Vệ trước tả sau hữu, kết giao người Nhật và trở thành Hán gian vì Uông Tinh Vệ cho rằng Đức Nhật Ý sẽ thắng Nga Mỹ Anh Trung Hoa Dân Quốc.

Hồ Chí Minh nguyên tiêu

Nhân nói thêm dịch bài thơ “Nguyên tiêu” Hồ Chí Minh, kiệt tác trong “100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ 20” thì bản dịch thơ của Xuân Thủy được nhiều người yêu thích hơn cả. Tuy vậy nghe nói là Cụ Hồ đã hỏi vui Bộ trưởng Xuân Thủy rằng câu thơ “Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên” (sông xuân, nước xuân tiếp trời xuân) khi dịch là “Sông xuân nước lẫn bầu trời thêm xuân” thì ba chữ xuân sao chỉ còn lại hai chữ xuân? Đó cũng là sự tinh tế (như Bộ trưởng Xuân Thủy làm Bộ trưởng không Bộ vậy).

Rằm Tháng Giêng
Hồ Chí Minh

Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

(Bản dịch thơ của Xuân Thuỷ)

Nguyên tác




滿

Nguyên tiêu

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên.
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.

Dịch nghĩa

Đêm nay, rằm tháng giêng, trăng vừa tròn,
Nước sông xuân tiếp liền với màu trời xuân.
Giữa nơi khói sóng thăm thẳm, bàn bạc việc quân,
Nửa đêm trở về, thuyền chở đầy ánh trăng.

Tháng 2 năm 1948.

Nguồn:
1. Hồ Chí Minh – Thơ, NXB Văn học, Hà Nội, 1975
2. Hồ Chí Minh toàn tập (tập 5), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000

Nhành mai trong thơ Bác

Bài thơ “Tầm hữu vị ngộ” Hồ Chí Minh câu thơ nguyên tác cuối bài là  “Mỗi đóa hoàng hoa nhất điểm xuân”. Giáo sư tiến sĩ Hán học Phan Văn Các, nguyên Viện trưởng Viện Hán Nôm đã dịch là “Mỗi đóa hoa vàng một nét xuân”. So câu chữ là rất chuẩn và rất sát nghĩa. Thế nhưng, tôi lại nghe cố bộ trưởng nhà thơ Xuân Thủy, người đã dịch kiệt tác bài thơ “Nguyên tiêu” ra tiếng Việt, nói năm 1970 thì “Ông Cụ” đã tự mình dịch câu thơ trên là “đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành”.

Câu thơ “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” của Thiền sư Mãn Giác (Lý Trường,1051-1096) theo Minh Đức Triều Tâm Ảnh được dẫn lại và phân tích sâu thêm của Nguyễn Khôi, thì đáng chú ý nhất và khó dịch nhất là “nhất chi mai”.

Nhiều người dịch “nhất chi mai” là “một nhành mai, một nhánh mai, một cành mai”, thật ra phải hiểu “nhất chi mai” còn có nghĩa là “một đóa mai” mới thấu hiểu hết nghĩa thâm thúy. Một đóa là đủ cho cái tối thiểu, là đủ đại biểu cho mùa xuân, như một câu thơ có trước đó của Thiền sư Tề Kỷ (864-937) bạn của Thi sĩ Trịnh Cốc (849-911) đời nhà Đường đã sáng tác bài:

TẢO MAI

Vạn mộc đống dục chiết
Cô căn noãn độc hồi
Tiền thôn thâm tuyết lý
Tạc dạ nhất chi khai.
Phong đệ u hương khứ
Cầm khuy tố diễm lai
Minh niên như ưng luật
Tiên phát ánh xuân đài.

MAI NỞ SỚM

Vạn cây băng giá chết
Một cội ấm mọc ra
Đầu xóm trong tuyết đặc
Một cành đêm nở hoa.
Gió xa đem hương ẩn
Chim ngắm hoa trắng ngà
Năm tới như đúng tiết
Mừng Xuân sáng ánh tà.

Chuyện kể rằng: Khi thiền sư Sư Tề Kỷ, sau khi viết xong, vốn tính khiêm tốn đã đem sang nhờ Thi sĩ Trịnh Cốc “góp ý kiến”, Trịnh Cốc đọc nhanh, rồi nói “sổ chi” phi “tảo” dã, vị nhược “nhất chi” giai (“mấy cành” chưa phải là sớm, chưa hay bằng “một cành”). Thiền sư Sư Tề Kỷ bèn sửa thành “Tạc dạ nhất chi khai”(một cành đêm nở hoa) bất hủ.

Bài thơ của Mãn Giác so với Tề Kỷ thì tương tự, nhưng có phần thâm viễn hơn. Với ý muốn nhắn gửi với đời về lẽ chuyển dịch vô thường không dao động đến tâm an nhiên của ta (theo Trần Tuấn Kiệt); Còn theo Ngộ Không thì nên hiểu: ở đây “xuân tàn” là trầm luân, “hoa lạc tận” là hư vô, giữa mê và Ngộ, phân ra hữu và vô, có và không. “nhất chi mai” chính là giác ngộ với trong sinh có diệt, trong diệt có sinh.”

“Mỗi đóa hoàng hoa nhất điểm xuân” là “nhành mai” điểm nhấn tinh tế trong thơ Bác. Tại đây, Hồ Chí Minh chỉ rõ là “đóa” cụ thể là “một đóa mai” (nhất chi mai) nhưng Hồ Chí Minh tài tình chỉ rõ là “hoàng hoa” “đóa mai vàng” rất phù hợp và thông dụng ở Việt Nam, khác với mơ, mận, mai trắng, có nhiều ở xứ lạnh nhưng ít thông dụng ở xứ ấm như Việt Nam. Hồ Chí Minh lại viết ba chữ “nhất điểm xuân” đồng nghĩa nhưng khác sự diễn đạt với “nhất chi mai”, lời dịch nghĩa lại thoáng nghĩa “đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành” thuần Việt hoàn toàn và khẳng định chân lý “toàn thể mới làm nên mùa xuân đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công thành công đại thành công.

Qua đèo chợt gặp mai đầu suối là tuyệt phẩm. “đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành” là câu thơ kiệt tác của Hồ Chí Minh.

Bên suối một nhành mai


Ảnh nhành mai của anh Phan Chí tại đỉnh núi Lũng Cú thể hiện được tứ thơ “Thướng sơn” của Hồ Chí Minh, Lũng Dẻ năm 1942. Nguyên tác “Thướng sơn. Lục nguyệt nhị thập tứ, Thướng đáo thử sơn lai. Cử đầu hồng nhật cận, Đối ngạn nhất chi mai”. Lên núi. Hai mươi tư tháng sáu, Lên ngọn núi này chơi. Ngẩng đầu: mặt trời đỏ, Bên suối một nhành mai. (Bản dịch của Tố Hữu). Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, 1990, trang 14. “Lên núi” ẩn ngữ “nhành mai” đối “mặt trời hồng“.

上山





(Bản chữ Hán trên Thi Viện của Đào Trung Kiên)

Bài thơ “Thướng sơn” này Hồ Chí Minh viết ở đỉnh núi Lũng Dẻ năm 1942, ngay trước bài “Thế lộ nan” với những câu cuối “Xử thế nguyên lai phi dị dị, Nhi kim xử thế cánh nan nan”. “Xử thế từ xưa không phải dễ, Mà nay, xử thế khó khăn hơn”. Bài thơ “Thế lộ nan” được Hồ Chí Minh viết cuối năm 1942, sau khi Bác xuống núi, tìm đường sang Tỉnh Tây (Quảng Tây) Trung Quốc và bị bắt. “Thướng sơn” là một bài thơ ẩn ngữ sâu sắc. Để thấu hiểu bài thơ ẩn ngữ này, xin lược khảo một ít chú dẫn trong bài thơ.

Trước hết, tôi xin có Bài thơ Viên đá Thời gian ghi chú ảnh.đẹp và Bài đồng dao huyền thoại

Bác Phan Chí thật tài
Lên Việt Bắc điểm hẹn
https://youtu.be/iyLEH0Ri8Y0
Thướng Sơn tỏ Quyết Thắng
Bên suối một nhành mai
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/len-viet-bac-diem-hen

Tổng thống Putin là người rất kính trọng Chủ tịch Hồ Chí Minh và đã viết những lời xúc động khi đến thăm Nhà sàn của Bác ở Hà Nội, với sau này là cảm xúc sâu xa Nước Nga với Việt Nam Hồ Chí Minh https://youtu.be/qeG3VjvsHwI

Tác giả của hình ảnh xuất sắc “Bên suối (thủy, nước) một nhành mai” là Phan Chí Thắng.

Em trai Phan Chí Quyết của anh Phan Chí Thắng cũng là một nhiếp ảnh gia có nghề với tác phẩm “Nơi tình yêu bắt đầu” rất đẹp và trường liên tưởng thật rộng.

Noi tinh yeu bat dau

Nơi tình yêu bắt đầu, ảnh Phan Chí Quyết

Lão Hâm Phan Chí Thắng có nhiều bài viết hạy. Bài mới hôm nay là “TRỜI CÒN ĐỂ CÓ HÔM NAY…” tôi chép chung bài này để thỉnh thoảng đọc lại đõ mất công tìm kiếm:

Việt Nam hai lần bỏ phiếu trắng, gần nhất là 25 tháng 2 năm 2023 tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc về vấn đề Ukraine – Nga cùng với Trung Quốc, Ấn Độ một lần nữa bỏ phiếu trắng trong nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc lên án Nga xâm lược Ukraine và kêu gọi chấm dứt cuộc xung đột Nga – Ukraine trong bối cảnh tròn một năm chiến sự mà Mỹ đóng vai trò chủ đạo để LHQ thông qua nghị quyết này.

Trước đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có chuyến thăm chính thức Trung Quốc từ ngày 30-10 đến 1-11 năm ngoái theo lời mời của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình ngay sau Đại hội 20 Đảng CSTQ, là khách cấp thượng đỉnh đầu tiên sang Bắc Kinh bắt tay và uống trà mừng Tập Cận Bình tái đắc cử Tổng Bí thư nhiệm kỳ ba. Đây là sự kiện đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam và Trung Quốc, được dư luận hai nước và quốc tế rất quan tâm.

Nhiều người không khỏi lo ngại Mỹ sẽ “bực mình” và sẽ bớt thắm thiết, chưa nói là sẽ tẩy chay Việt Nam vì Mỹ đang ra sức chống Trung Quốc về mọi mặt trong đó có vấn đề Biển Đông rất nóng đối với Việt Nam.

Nhưng Tổng thống Joe Biden không nghĩ thế, các chính khách và giới nghiên cứu Mỹ không nghĩ thế. Họ hiểu thế kẹt của Việt Nam, để Việt Nam bớt lệ thuộc TQ về ngoại giao và kinh tế, Mỹ cần hợp tác với Việt Nam hơn nữa, giúp Việt Nam tự cường và giữ vững độc lập. Tất nhiên đó cũng là quyền lợi của Mỹ, nhằm hạn chế sự trỗi dậy của TQ đang nhăm nhe chiếm ngôi bá chủ của Mỹ.

Tối 29-3, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có cuộc điện đàm với Tổng thống Mỹ Joe Biden đúng vào dịp hai nước kỷ niệm 10 năm thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện. Nội dung cuộc điện đàm xin các bạn đọc báo, nó dài dòng và toàn diện đến nỗi tôi nghĩ chắc ông J. Biden và ông Nguyễn Phú Trọng chuyển ý kiến cho nhau qua đường ngoại giao còn nói qua điện thoại thì ngắn gọn thôi và chủ yếu là nhắc lại lời mời sang thăm nhau chính thức, chi tiết này bị báo chí Việt Nam viết thoáng qua.

Hai nhà lãnh đạo đã gặp trực tiếp vào năm 2015 khi Tổng bí thư VN có chuyến thăm chính thức Mỹ nhân dịp tròn 20 năm thiết lập quan hệ. Ông Biden khi đó đang là Phó của Tổng thống Barack Obama.

Trong chuyến thăm đó, đáng lẽ Bộ trưởng Ngoại giao John Forbes Kerry chủ trì đón Tổng bí thư đến Bộ Ngoại giao Mỹ dự tiệc trưa nhưng ông này đạp xe ngã gãy chân, ông Biden thay thế, để khép lại bài diễn văn dài khoảng 10 phút ông đã mượn hai câu thơ trong truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du:

Trời còn để có hôm nay
Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời”

8 năm trôi qua, ông J. Biden hy vọng gặp lại ông Nguyễn Phú Trọng trên tinh thần “tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời”. Không biết lần này Tổng thống Mỹ sẽ lẩy câu Kiều nào?

Ông Trọng đi Mỹ mới là quan trọng chứ Tổng thống Mỹ sang Việt Nam thì đã nhiều.

Tôi dự đoán bác Trọng sẽ đi Mỹ sau Hội nghị TƯ vào giữa năm nay và sẽ có “quà” cho Tổng thống Mỹ.

Cũng nên nhanh nhanh một chút chứ cụ này 78 cụ kia 80 rồi!

Không phải chỉ là điện đàm xã giao, trước đó có đoàn 50 doanh nghiệp Mỹ, toàn những tập đoàn và công ty lớn hàng đầu của Mỹ sang Việt Nam tìm cơ hội làm ăn.

Chính trị và ngoại giao luôn uyển chuyển. Chẳng riêng Việt Nam, Mỹ cũng biết cách “ngoại giao cây tre”.

Đỉnh Lũng Cú là điểm cao nhất của cực Bắc Việt Nam.

Cột cờ Lũng Cú hiện nay nằm trên đỉnh Lũng Cú có độ cao khoảng 1.700m so với mực nước biển. Xã Lũng Cú thuộc huyện Đồng Văn, nằm trên đỉnh cao nguyên Đồng Văn thuộc tỉnh Hà Giang, Việt Nam, cách thị xã Hà Giang khoảng 200 km, là điểm cực bắc của Việt Nam. Lũng Cú chóp nón cao nhất còn hai điểm thấp nhất theo kinh độ là Tây Trang, Điện Biên và Sa Vĩ, Móng Cái. Cột cờ Lũng Cú được xây dựng đầu tiên từ thời Lý Thường Kiệt và ban đầu chỉ làm bằng cây sa mộc. Cột mốc biên cương này được xây dựng lại từ thời Pháp thuộc, năm 1887. Những năm sau đó như 1992, 2000 và đặc biệt năm 2002 cột cờ tiếp tục được trùng tu hoặc xây dựng lại nhiều lần với kích thước, quy mô lớn dần theo thời gian, trong đó năm 2002 cột cờ được dựng với độ cao khoảng 20m, chân và bệ cột có hình lục lăng và dưới chân cột là 6 phù điêu họa tiết bề mặt trống đồng Đông Sơn. Trên đỉnh cột là cán cờ cao 9m cắm quốc kỳ Việt Nam có có chiều dài 9m, chiều rộng 6m và tổng diện tích rộng 54m2, tượng trưng cho 54 dân tộc cùng chung sống trên đất nước Việt Nam. Cảnh quan dưới chân cột cờ là núi non trùng điệp xen kẽ bởi những khoảnh ruộng bậc thang tạo nên vẻ đẹp hoang dã, đặc trưng của vùng Tây Bắc địa đầu của Việt Nam.

Lũng Dẻ, xóm Bản Chang, xã Trương Lương (Hoà An), cách thành phố Cao Bằng 40 km. Đó là nơi diễn ra nhiều sự kiện lịch sử cách mạng như: Nơi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đến ở và làm việc; thành lập Khu Việt Minh Thiện Thuật; thành lập Đại đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân.

Lũng Dẻ khác Lũng Cú nhưng có nhiều điểm ẩn ý tương đồng, sẽ được trao đổi trong một chuyên luận tiếp.

Hồ Chí Minh trong những năm 1941- 1945

Hồ Chí Minh trở về Cao Bằng (Việt Nam) vào ngày 28 tháng 1 năm 1941, từ Tĩnh Tây (Quảng Tây, Trung Quốc), hành lý là một chiếc va li nhỏ đan bằng mây tre để đựng quần áo và một chiếc máy chữ xách tay. Trước đó, đầu tháng 1 năm 1941, Hoàng Văn Thụ, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng từ Việt Nam sang Tĩnh Tây gặp Hồ Chí Minh để báo cáo kết quả xây dựng và củng cố an toàn khu Cao Bằng và đề nghị Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh là người sâu sắc lịch sử và kinh Dịch hẳn ghi nhớ lời của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm nói với sứ giả của vua Mạc “Cao Bằng tuy thiểu, khả diên sổ thế” và Bác cũng nhận định rằng Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng nên quyết định trở về nước sau 30 năm bôn ba ở nước ngoài. Nhà thơ Tố Hữu đã viết về sự kiện này qua bốn câu thơ: “Bác đã về đây, Tổ quốc ơi!/ Nhớ thương hòn đất ấm hơi Người/ Ba mươi năm ấy, chân không nghỉ/ Mà đến bây giờ mới tới nơi”. Ngày 8 tháng 2 năm 1941, Hồ Chí Minh đã ở tại hang Cốc Bó, bản Pác Bó, tỉnh Cao Bằng với bí danh Già Thu, sau khi khảo sát thực địa và hỏi thăm kdân địa phươngGià Thu gọi dòng suối lớn chảy qua đây là suối Lê-nin và ngọn núi đá cao trước cửa hang là núi Các-Mác và làm một bài thơ ngôn chí để tỏ chí hướng (nay đã được tạc vào vách núi): “Non xa xa nước xa xa/ Nào phải thênh thang mới gọi là/ Đây suối Lê-nin, kia núi Mác/ Hai tay gầy dựng một sơn hà”. (gầy dựng” chứ không phải là “gây dựng” như một số người lầm tưởng). Tại đây, Già Thu mở các lớp huấn luyện cán bộ, tự in báo, tham gia các hoạt động tuyên truyền vận động độc lập. Tài liệu huấn luyện chủ yếu là sách do Già Thu tự dịch và viết với nhiều chủ đề. Già Thu cũng vận động thành lập hội phụ lão cứu quốc, hội phụ nữ cứu quốc, hội nông dân cứu quốc,…để đón thời cơ, và cuối cuốn sách Việt Nam quốc sử diễn ca ghi “Việt Nam độc lập năm 1945“. Từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5 năm 1941, Già Thu chủ trì Hội nghị lần thứ 8 mở rộng của Trung ương Đảng họp tại Pác Bó, Cao Bằng. Một trong những kết quả của hội nghị này là nghị quyết về việc thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh gọi tắt là Việt Minh. Ngày 13 tháng 8 năm 1942, Già Thu lấy tên gọi là Hồ Chí Minh để sang Trung Quốc với danh nghĩa đại diện của cả Việt Minh và Hội quốc tế phản xâm lược Việt Nam, một hội đoàn được Già Thu tổ chức ra trước đó, để tranh thủ sự ủng hộ của Trung Hoa Dân quốc. Đây là lần đầu tiên Hồ Chí Minh sử dụng tên gọi này chính thức trong các giấy tờ cá nhân với sự khai nhận là “Việt Nam – Hoa kiều”. Hồ Chí Minh đã bị chính quyền địa phương của Trung Hoa Dân quốc bắt ngày 29 tháng 8 khi đang đi cùng với một người Trung Quốc dẫn đường và bị giam hơn một năm, trải qua khoảng 30 nhà tù. Bác viết Nhật ký trong tù trong thời gian này, từ tháng 8 năm 1942 đến tháng 9 năm 1943. “Nhật ký trong tù” là một tác phẩm được những tác giả người Việt Nam, người phương Tây và cả người Trung Quốc, như Quách Mạt Nhược, Viên Ưng hay Hoàng Tranh đề cao. Ở Việt Nam các đồng chí của Bác như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh…  đều tưởng lầm là Bác đã chết, sau này nguyên nhân được làm rõ là do một cán bộ Cộng sản tên Cáp nghe và hiểu sai ngữ nghĩa.Phạm Văn Đồng thậm chí đã tổ chức đám tang và đọc điếu văn, hồi ký của Võ Nguyên Giáp cũng kể lại là “mở chiếc va-li mây của Bác ra tìm xem còn những gì có thể giữ lại làm kỉ niệm”, mãi mấy tháng sau họ mới biết được tình thực của Bác sau khi nhận được thư do Bác viết và bí mật nhờ chuyển về.  Ngày 25 tháng 10 năm 1943, Hội Quốc tế chống xâm lược ở Đông Dương gửi hai bức thư, một cho Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc, bức còn lại cho thống chế Tưởng Giới Thạch đề nghị can thiệp trả tự do cho Hồ Chí Minh, đồng thời đại diện của Đảng cộng sản Trung Quốc ở Trùng Khánh đã tiếp xúc bí mật với các sỹ quan OSS và SACO để gợi ý rằng có thể khiến Hồ Chí Minh hợp tác với phe Đồng Minh. Sau khi thảo luận với Đại sứ quán Mỹ tại Trung Quốc, OSS và cơ quan ngoại giao Mỹ thương lượng với chính phủ Trung Hoa Dân quốc để giải thoát Hồ Chí Minh khỏi nhà tù và thuyết phục Hồ Chí Minh cộng tác với OSS.Trương Phát Khuê, tướng cai quản vùng Quảng Đông và Quảng Tây của Quốc Dân Đảng cùng lúc đó cũng gây áp lực để buộc Hồ Chí Minh hoạt động cho Quốc dân Đảng và trả tự do cho Hồ Chí Minh ngày 10 tháng 9 năm 1943, theo yêu cầu của Hoa Kỳ, đồng thời cũng nhằm lợi dụng ông và một số chính trị gia Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc ở miền Nam Trung Quốc chống phát xít Nhật. Trương Phát Khuê hy vọng Hồ Chí Minh có thể chấn chỉnh Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội (Việt Cách) do Trung Quốc đỡ đầu và thống nhất tổ chức các nhóm người Việt lưu vong ở miền Nam Trung Quốc thành một khối thuần nhất thân Trung Quốc, mà sự chia rẽ, chống đối về phương pháp tiến hành đấu tranh và sự tranh giành quyền lực giữa lãnh tụ của các nhóm này đã che lấp mất mục tiêu đấu tranh giành độc lập dân tộc của họ. Trước đó, Việt Minh đã ra tuyên bố ủng hộ tổ chức này. Hồ Chí Minh, ngay sau đó tham gia Ban Chấp hành Trung ương Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội và cũng cố gắng tranh thủ sự ủng hộ từ Trương Phát Khuê, nhưng kết quả hạn chế. Cuối tháng 9 năm 1944, Hồ Chí Minh trở về Việt Nam. Lúc này Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng… cùng các đồng chí trong mặt trận Việt Minh đã quyết định tiến hành phát động chiến tranh du kích trong phạm vi liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng. Hồ Chí Minh đã ngăn lại và chỉ thị thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, với 34 đội viên là các tiểu đội trưởng, trung đội trưởng hoặc thành viên của các đội quân nhỏ bé và rải rác trước đó của Việt Minh. Cuối năm 1944, Hồ Chí Minh trở lại Côn Minh hoạt động cho tới đầu năm 1945. Bối cành Quốc tế và Việt Nam trong thời gian đầu năm 1945 đến cuối năm 1946: Sau cuộc đảo chính của Nhật ngày 9 tháng 3 năm 1945, thực dân Pháp mất quyền cai trị Liên bang Đông Dương. Tuy nhiên, sau khi Nhật đầu hàng khối Đồng Minh, Việt Minh chớp thời cơ giành chính quyền từ tay Đế quốc Việt Nam được Đế quốc Nhật Bản bảo hộ, nhanh chóng kiểm soát đất nước, và thành lập chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Theo thỏa thuận của các nước Đồng Minh, quân đội Trung Hoa Quốc dân đảng tiến vào miền Bắc Việt Nam để làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Đế quốc Nhật Bản. Ở miền Nam Việt Nam, quân Anh tiến vào với nhiệm vụ tương tự. Tuy người Việt Nam đã tự thành lập chính quyền và tuyên bố độc lập, chính phủ Pháp vẫn quyết tâm tái lập quyền cai trị Đông Dương. Tưởng Giới Thạch nhanh chóng nhận thức rằng vai trò cường quốc của Trung Quốc trong việc đưa quân vào Đông Dương sẽ giúp ông ép Pháp phải chấp nhận các điều kiện do ông đưa ra để giải quyết những xung đột lợi ích giữa Trung Quốc và Pháp nếu Pháp muốn quay lại thuộc địa cũ của mình.  Rạng ngày 23 tháng 9 năm 1945, người Pháp, dưới sự giúp đỡ của quân đội Anh, đã dùng vũ lực buộc Lâm ủy Nam Bộ phải giải tán, giao lại chính quyền cho người Pháp. Tuy nhiên, chính quyền người Việt đã thực hiện cuộc chiến tranh du kích để chống lại. Ở miền Bắc, quân đội Trung Hoa Quốc dân đảng vẫn công nhận chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho mưu đồ chính trị của họ. Tuy nhiên, người Pháp cũng đã thương lượng với chính phủ Trung Hoa Quốc dân đảng để đưa quân đội xâm nhập Bắc Việt Nam. Theo dòng sự kiện và những hoạt động của  Chủ tịch Hồ Chí Minh, cho thấy: Ngày 29 tháng 3 năm 1945, Hồ Chí Minh gặp trung tướng Mỹ Chennault tại Côn Minh (Trung Quốc). Trung tướng cảm ơn Việt Minh và sẵn sàng giúp đỡ những gì có thể theo yêu cầu. Còn Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm của Việt Minh là ủng hộ và đứng về phía Đồng Minh chống phát xít Nhật. Theo Hồ Chí Minh, việc được tướng Chennault tiếp kiến được xem là một sự công nhận chính thức của Mỹ, là bằng chứng cho các đảng phái Quốc gia thấy Mỹ ủng hộ Việt Minh. Người Mỹ xem đây chỉ là một mưu mẹo của Hồ Chí Minh nhưng ông cũng đã đạt được kết quả. Hồ Chí Minh và OSS năm 1945. Hồ Chí Minh nhận thấy Hoa Kỳ đang muốn sử dụng các tổ chức cách mạng người Việt vào các hoạt động quân sự chống Nhật tại Việt Nam, ông đã thiết lập mối quan hệ với các cơ quan tình báo Hoa Kỳ đồng thời chỉ thị cho Việt Minh làm tất cả để giải cứu các phi công gặp nạn trong chiến tranh với Nhật Bản, cung cấp các tin tức tình báo cho OSS, tiến hành một số hoạt động tuyên truyền cho Trung Hoa Dân Quốc và OWI. Đổi lại, cơ quan tình báo Hoa Kỳ OSS (U.S Office of Strategic Services) cung cấp vũ khí, phương tiện liên lạc, giúp đỡ y tế, cố vấn và huấn luyện quân đội quy mô nhỏ cho Việt Minh. Tháng 7 năm 1945, Hồ Chí Minh ốm nặng, tưởng không qua khỏi, trước khi Hội nghị Tân Trào họp vào tháng 8 năm 1945. Một đơn vị nhỏ OSS nhảy dù phía sau đường ranh giới Nhật Bản ở Việt Nam để tham gia tác chiến cùng Việt Minh đã tìm thấy Hồ Chí Minh trong tình trạng sốt rét nặng và gửi thông điệp đến trụ sở quân Mỹ ở Trung Quốc để yêu cầu cung cấp thuốc men sớm nhất có thể. Hai tuần sau đó, bác sĩ quân y tên là Paul Hogland đã đến. Những người Mỹ đã ở lại đó trong vòng hai tháng và có thể họ đã cứu sống ông. Ngày 16 tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh được cử làm Chủ tịch của Ủy ban dân tộc giải phóng tức Chính phủ lâm thời trong cuộc họp Đại hội Quốc dân do Tổng bộ Việt Minh triệu tập họp tại Tân Trào (Tuyên Quang). Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tại quảng trường Ba Đình Hà Nội,

Thướng sơn những chú giải chính

Ngày 24 tháng 6 là ngày gì trong lịch sử? Ngày 24 tháng 6 năm 1812 là ngày đại quân của Hoàng đế Pháp Napoléon Bonaparte vượt sông Neman, khởi đầu xâm chiếm Đế quốc Nga. Ngày 24 tháng 6 năm 1942 là ngày khởi đầu của chiến dịch Voronezhđại quân Đức Quốc Xã Adolf Hitler tấn công Voronezh, thành phố có tầm quan trọng chiến lược đặc biệt quan trọng bên bờ sông Đông, (là nguyên quán của Nikolai Fyodorovich Vatutin tư lệnh Phương diện quân Tây Nam, lực lượng phòng thủ chính của Liên Xô trong Chiến dịch phòng thủ Valuiki – Rossosh năm 1942). Về sau Adolf Hitler cho rằng hai ngày chậm trễ trong chiến dịch này đã làm Tập đoàn quân thiết giáp số 4 không kịp đến, làm giảm sức công phá và để cho Liên Xô kịp phòng thủ cứu nguy Stalingrad, thay đổi cục diện chiến tranh. Ngày 24 tháng 6 năm 1942 tại Lũng Dẻ, Hồ Chí Minh lên núi. “Thướng sơn” và “Tầm hữu vị ngộ” là ẩn ngữ, những câu thơ lưu lạc giữa đời thường. Hồ Chí Minh là người chuộng kinh Dịch và rất tinh tế, thường có những ứng xử ngẫu nhiên phù hợp với quy luật tất nhiên. “Thướng sơn” (lên núi) ví như lên non cao để quan sát thế trận biến ảo khôn lường của Chiến tranh thế giới thứ hai mà người thường khó đánh giá kết quả thắng thua. Uông Tinh Vệ tưởng là nối nghiệp Tôn Trung Sơn thời Trung Hoa Dân Quốc, “tam hùng” so với Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch. Uông Tinh Vệ trước hướng tả theo đại kế Tôn Trung Sơn “Quốc Cộng hợp tác” “Liên Nga, thân Cộng, ủng hộ Công Nông, Tam Dân chủ thuyết” nhưng về sau đã sai lầm chuyển sang hữu, kết giao với người Nhật và trở thành Hán gian vì Uông Tinh Vệ đánh giá sai kết cục Chiến tranh thế giới thứ hai là Đức Nhật Ý sẽ thắng vì có tương quan mạnh hơn Nga Mỹ Anh Trung Hoa Dân Quốc. “Thướng sơn” và “Tầm hữu vị ngộ” là lên non thiêng, tìm về chính mình. “Đi đường mới biết gian lao. Núi cao rồi lại núi cao chập chùng . Núi cao lên đến tận cùng. thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” (Đi đường, Hồ Chí Minh). Giác ngộ, tìm về chính mình, xác định đúng tình thế, thời cơ và phương pháp cách mạng phù hợp “tùy cơ, tùy vận, tùy thiên mệnh, tùy thời, tùy thế lại tùy nghi” . Đó là minh triết Hồ Chí Minh.

Tôi không bình thơ “Thướng sơn”, mà chỉ chú giải một vài điển tích và bối cảnh trong bài góp phần thấu hiểu ẩn ngữ minh triết “Lên núi” và “nhành mai” đối “mặt trời hồng“. Bài “Qua đèo chợt gặp mai đầu suối“, Hồ Chí Minh cũng diễn đạt phép biến Dịch này.
Anh Phan Chí Thắng tâm thành, tài hoa, nhân duyên, Bộ ảnh lên đỉnh Mã Phì Lèng, Lũng Cú thật đẹp. Tuyệt vời thật! Chúc mừng anh và các bạn. Xin được lưu chép ảnh.

TranThuyGiang1
LungCuHaGiang

Cột cờ Lũng Cú

LendinhMaPhiLeng1
PhanChivaBan
PhanChiThang

Anh Phan Chí Thắng và những người bạn

Bài học lớn muôn đời (*)
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim

Thế giới còn đổi thay
Việt Nam con đường xanh
Bài học lớn muôn đời
Đường xuân theo chân Bác


(*) Video links Bài học lớn muôn đời 1, 2, 3; 4, 5; 6; 7; 8; 9; 10

diem-hen

BÀI CA NHỊP THỜI GIAN
Hoàng Kim

Anh như chim ưng quay về tổ ấm
Vẫn khát bầu trời ước vọng bay lên
Ơi Bồng Lai cồn cào nỗi nhớ
Anh về bên này lại nhớ bên em.

Ta vui hòa nhịp thời gian
#Thungdung nhàn giữa gian nan đời thường.
Tiếng thu lắng đọng yêu thương
Cỏ non xanh thẳm bên đường đời nhau.

Bài ca nhịp thời gian Run away with me https://youtu.be/_Bs4XcVufqY Video Omar Akram tích hợp tại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bai-ca-nhip-thoi-gian/
Cuộc đời có những con đường bắt buộc phải đi một mình Đó không phải là cô đơn mà là sự lựa chọn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thu-tinh-lang-an-nhien/

Thu qua đông tới tiết trời thay
Nắng sớm mưa mai đã ướt đầy
Dưỡng quý, tồn tinh, thời đổi lá
Tích lành, chọn tốt, vận thay cây
Thuyền nan bình lặng âu trời hiểu
Đường chính an nhiên lẽ người bày
Thung dung cuối dòng sông là biển
Đường xuân đời quên tuổi tầm tay

Qủa tốt bởi nhân lành

NGƯỜI VỊN TRỜI CHẤP SÓI
Hoang Kim
(6)

Hà Giang ơi Hà Giang ơi
Núi thẳm mờ sương thấu cửa trời
Nơi đâu bạn cũ (*) thành sương khói
Bồng bềnh mây trắng dốc chơi vơi.

Trời rất xanh và rừng rất sâu
Mèo Vạc xa kìa, Lũng Dẻ đâu
Nào hang Cắc Cớ nào Công Cốc
Núi Tản ngàn năm biếc một màu.

Phình ngán Phình ngán Ắt tắc tím
Bạn ra kéo mình ra búa
Trò chơi mê mãi suối bên mai
Người vịn trời xanh chấp sói rừng.

(*) Hoàng Kim ở E568 F325B sau này là nòng cốt của F356 nước mắt Vị Xuyên, chính ủy sư đoàn Phạm Hồng (Hải Dương) là người thân.

nuidoiquanba

LÊN VIỆT BẮC ĐIỂM HẸN
Hoàng Kim

Núi Đôi ngắm ảnh chốn thần tiên
Quản Bạ càng thêm nhớ bạn hiền
Chân tình thân thiết vùng chân thật
Chí nhân thật trọn chính an nhiên.

Thoáng nghe vị mặn ngày li biệt
Bâng khuâng miền nhớ lúc ra đi
Chao ơi nắng ấm, trời xanh thế
Điểm hẹn khát khao ước trở về

Anh lên Tây Bắc chào các mế
Trời suối gần thêm giấc mơ lành
Mây trắng đường xưa thênh thênh bước
Tản mạn cây xanh thăm thẳm anh.

Việt Bắc một thời mong trở lại
Đường xưa mây trắng nắng soi lòng
Phù Vân Nho Quế trời sông thẳm
Kỳ Cùng Kỳ Lộ nối Cửu Long

Thăm ruộng bậc thang Mù Căng Chải.
Vàng ươm tháng Chín lúa khoe vàng
Chao ơi thương nhớ, chao thương nhớ
Ngườm Ngao, Bản Giốc với Ka Long

anh Bu Lu Khin và các mế
anh chi Đỗ Việt Hoa trên con đường Hạnh Phúc

anh chị Võ Công Hậu hẻm Tu Sản Hà Giang

THĂM THẲM TRỜI SÔNG THƯƠNG
Hoàng Kim

Ta chưa về lại
sông Thương
ghé thăm bến đợi
hoàng hôn
trời chiều
Sông Cầu
nước chảy
trong veo
Ngại chi chí thạnh
cách đèo
sông
ngăn.
Ước Trời chở gió
vào Nam
chở mây
ra Bắc
để làm
thành mưa.
Biển trời
cá nước duyên ưa
kể chi bến đợi
sông chờ
hỡi em.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là bc23e-lahai.jpg

DẤU XƯA THẦY BẠN QUÝ
Hoàng Kim


Thăm thẳm trời sông Thương
Dấu xưa thầy bạn quý
Quê Mẹ vùng di sản
Hà Nội mãi trong tim


Bấm vào bốn đường dẫn để đọc bài đầy đủ và xem ảnh chọn lọc tại https://hoangkimvn.wordpress.com/tag/dau-xua-thay-ban-quy/

Dấu xưa thầy bạn quý

QUA SÔNG THƯƠNG GỬI VỀ BẾN NHỚ
Hoàng Kim

Ta lại hành quân qua sông Thương
Một đêm vào trận tuyến
Nghe Tổ Quốc gọi lên đường!
Mà lòng ta xao xuyến
Và hồn ta căng gió reo vui
Như dòng sông Thương chảy mãi về xuôi
Hôm nay ta ra đi
Súng thép trên vai nóng bỏng

Không qua nhịp cầu ngày xưa soi bóng
Phà đưa ta sang sông
Rạo rực trời khuya, thao thức trong lòng
Rầm rập dòng sông sóng nhạc
Như tình thân yêu muôn vàn của Bác
Tiễn đàn con ra đi

Tầu cập bến rầm rì tiếng máy
Tiếng động cơ sục dưới khoang tàu
Hay sôi ở trong lòng đất cháy
Hay giữa tim ta thúc giục lên đường
Chào bờ Bắc thân yêu hẹn ngày trở lại!

Ôi những con thuyền đèn trôi suốt canh khuya
Có khua nhẹ mái chèo qua bến cũ
Nhắn cho ai ngày đêm không ngủ
Rằng ta đi chưa kịp báo tin vui

Đêm nay bên dòng nước nghiêng trôi
Sông vẫn thức canh trời Tổ Quốc
Rạo rực lòng ta bồi hồi tiếng hát
Đổ về bến lạ xa xôi
Với biển reo ca rộng mở chân trời

Hoàng Kim
(Rút trong tập THƠ VIỆT NAM 1945-2000
Nhà Xuất bản Lao động 2001, trang 646)

*

Sớm xuân ngắm mai nở
Nhớ bạn thời thanh xuân
Thương bạn đêm đông lạnh
Thắp đèn lên đi em

Thoáng chốc năm mươi năm
Đường trần chân không mỏi
Vui đi dưới mặt trời
Giấc mơ lành yêu thương
Trà sớm thương người hiền

Sớm nay tiễn bạn quý
Thanh nhàn về Chốn thiêng
Thầy Ngoạn Hồ Núi Cốc
Chung sức trên đường xuân

Lời thương cùng tháng năm
Chọn giống sắn Việt Nam
Bài ca nhịp thời gian
Chín điều lành hạnh phúc

* Cảm ơn thầy bạn gia đình sắn Việt Nam và các bạn gợi nhớ năm tháng không quên Qua sông Thương gửi về bến nhớ https://hoangkimlong.wordpress.com/category/song-thuong/

Chiều sông Thương

THĂM THẲM TRỜI SÔNG THƯƠNG
Hoàng Kim #vietnamhoc #cltvn

#cnm365 #Thungdung
573


Thăm thẳm trời sông Thương
Đường xuân đời quên tuổi
Cuối dòng sông là biển
Giấc mơ lành yêu thương

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tham-tham-troi-song-thuong/

(*) Đối họa thơ “Bến thu”

BẾN THU
Nguyễn Thanh Vân

Bến thu tàn khói mỏng
Chẳng có khách qua sông
Con đò đành chở nắng
Về bên kia mùa đông

THĂM THẲM TRỜI SÔNG THƯƠNG
Ai về Bắc ta theo với …
Hoàng Kim

Nhân ngày lễ 30.4 và 1.5, 2011 lớp Trồng trọt 10A Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc chúng tôi kéo nhau về thăm trường cũ, gặp lại thầy bạn một thời, náo nức, ước mong, …Vân, Chắt, Thanh, Hải, Thuận, Thi, Hạnh, Quảng… alô alô …“Anh đi chứ. Đi nhé. Phải về thôi. Đi thôi. Bận mấy cũng phải đi. Nhất định là phải về, hi hi… ha ha… hehe… ngân nga câu thơ “Ai về Bắc ta theo với.Thăm lại Trường xưa mảnh đất nghèo. Từ thuở xuôi Nam noi nghiệp Tổ. Đền Hùng, Yên Tử, bóng trăng theo” Hình ảnh kỷ niệm về lớp tại đây http://hoangkimlong.blogspot.com/2011/05/ai-ve-bac-ta-theo-voi.html

Thăm thẳm trời sông Thương
NĂM MƯƠI NĂM NHỚ LẠI
Hoàng Hải Hưng
Huế 28/8/2022


(trích)

Về Mai Sưu núi rừng bao bọc
Địa linh vùng chống Pháp thuở xưa
Làng thưa nấp dưới rừng già
Chợ phiên thời loạn toàn là lính thôi.

Năm mươi năm hôm nay gặp lại
Sửng sờ thương mừng tủi mày tao
Nhớ ngày đánh chốt, phá rào
Tử sinh gang tấc ai nào có hay

Cứ ngỡ bạn hôm nay không đến
Buột mồm kêu: mày vẫn sống à?
Nhìn nhau mắt cứ cay xè
Thương bao đồng đội không về hôm nay.

Đứa đau yếu lúc này chưa tới
Đứa thì nằm lạnh lẽo chiến trường
Nghĩ mà đứt ruột nhớ thương
Ước chi trở lại mái trường thuở xưa

Thời gian như giấc ban trưa
Chưa lơi chuyện đã tiễn đưa nhau về
Xa nhau lòng dạ tải tê
Biết khi nào lại trở về gặp nhau.

Thăm thẳm trời sông Thương

(Trích: NĂM MƯƠI NĂM GẶP LẠI, thơ Hoàng Hải Hưng, Huế 28/8/2022 https://www.facebook.com/photo?fbid=822693388909360&set=a.107435463768493https://hoangkimlong.wordpress.com/category/song-thuong-ngay-tro-lai/ và DẤU XƯA THẦY BẠN QUÝ https://hoangkimlong.wordpress.com/category/dau-xua-thay-ban-quy/

Thư Trường ngày nhớ Bác
SÔNG THƯƠNG NGÀY TRỞ LẠI
Hoàng Kim


Dấu xưa thầy bạn quý
Về Trường để nhớ thương.
Một niềm tin thắp lửa
Trường tôi nôi yêu thương

Thầy bạn là lộc xuân
Sông Thương ngày trở lại
Vận khí và vận mệnh
Thao thức nhịp thời gian

Thăm thẳm đất miền Trung
Câu chuyện đứng trước biển
Đường xuân theo chân Bác
Giấc mơ lành yêu thương

NGƯỜI LÍNH GIÀ THỜI BÁC
Hoàng Kim

Việt Nam con đường xanh
Quốc kỳ hồn đất nước
Người lính già thời Bác
Thầy bạn trong đời tôi

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguoi-linh-gia-thoi-bac

Thấm thoát thoi đưa vừa ngoảnh lại.
Phạm Hồng dương thế chín ba tròn.
Bốn tư năm lẻ đi đánh giặc. 
Hưu về tóc bạc vẫn lòng son.

Tôi có anh Phạm Hồng người lính già thời Bác, người chính ủy sư đoàn 325 B và sư đoàn 356 xưa, thân như anh em ruột, ngày 10 tháng 9 Kỷ Hợi nhằm ngày 8 tháng 10 năm 2019 anh từ trần lúc 93 tuổi. Buổi khuya đêm 16 tháng 2 năm 2020 tôi thảnh thốt bật dậy vì chuông reo vào giờ khuya, tôi mở máy, thấy hiện số điện thoại của anh nhưng tôi gọi lại thì không được. Hôm sau, ngày 17 tháng 2 lúc mờ sáng, tôi gọi lại thì chị Hảo vợ anh xác nhận là anh đã mất nhưng gia đình không báo tin vì anh em đồng đội ở xa (*) . Năm 2008, anh lúc 82 tuổi vẫn ghi thư cho tôi mà lời văn và câu thơ minh mẫn lắm. Anh đã có một thời gian làm thư ký của bác Giáp, tuyên huấn và nhân cách thật tuyệt vời Anh thật vui vẻ, tráng kiện, lạc quan và thực sự là “người lính già đầu bạc, kể mãi chuyện Nguyên Phong“:  Câu chuyện về bộ đội anh Văn, người lính cụ Hồ, năm cha con ra trận. Câu chuyện về một gia đình quân nhân, thanh bạch, trung trinh, nặng lòng vì nước. Tôi nhớ mãi kỷ niệm ngày tôi lần hồi về Hải Dương thăm anh. Anh nghe chuyện tôi đã nhận quyết định chuyển ngành trở về trường đại học trước kỳ lĩnh quân trang hàng năm và tự trọng không chịu trả quyết định để có thêm bộ quần áo mủ giày và lương khô mà cả cười. Năm anh em trong phòng tham mưu sư đoàn 325 B sau này tăng cường khung cho sư đoàn 356 ‘nước mắt Vị Xuyên ” đều không trở về. Đó là một câu chuyện dài cảm động Tôi nhớ anh chị Hồng Hảo cùng gia đình (xem ảnh) nên lần hồi tìm thư anh đọc lại  (Hoàng Kim). Thư và thơ anh như một lời ký thác.

Hải Dương những ngày đầu năm 2008
Út Kim thương nhớ!

Xa em, càng nhớ những ngày này 35 năm trước, theo lệnh tổng động viên của Chủ tịch Nước, hàng chục vạn sinh viên của các trường đại học, cao đẳng trong cả nước đã xếp bút nghiên lên đường cùng cả nước “đánh cho Mỹ cút” như lời Bác Hồ dặn. Anh cùng đơn vị được đón em từ Trường Đại học Nông nghiệp cùng hàng ngàn anh em về huấn luyện chi viện chiến trường.

Biết em là con út, mới lớn lên đã sớm mồ côi cha mẹ, ngày chỉ được ăn một bữa, áo chỉ mặc một manh … mà đã có chí học hành thành sinh viên đại học, tình nguyện vào chiến trường đánh Mỹ!

Anh và đồng đội để em cùng đơn vị vào miền Nam đánh vài trận rồi gọi ra ngay để có kinh nghiệm về đội huấn luyện, góp sức đào tạo hàng vạn tiểu đội trưởng “khuôn vàng thước ngọc” của phân đội nhỏ nhất trong quân đội ta. Hàng vạn tiểu đội trưởng từ đoàn 568 anh hùng đã phụ trách hàng vạn tiểu đội với hơn mười vạn quân đi khắp chiến trường chống Mỹ xâm lược.

Cùng lúc ấy, trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước năm 1972, đã có nhiều bạn sinh viên của em trong 81 đại đội vượt sông Thạch Hãn vào đánh giặc ở thành cổ Quảng Trị 81 ngày đêm… Sau này, cả nước và thế giới đều biết những người con “tiền trí thức” yêu quý của dân tộc và quân đội ta từ trường đại học hiên ngang đi thẳng ra chiến trường đánh Mỹ, trở thành những anh hùng bất tử với dòng Thạch Hãn:

Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi thanh xuân thành sóng nước
Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm.

Em cùng với những bạn trí thức ngày ấy đã xứng đáng với lòng tin yêu và truyền thống của đoàn 568 làm tốt nhiệm vụ đào tạo tiểu đội trưởng cho chiến trường, rồi học tiếp đại học, lấy bằng tiến sĩ, về làm giám đốc trung tâm nghiên cứu khoa học nông nghiệp, ngày đêm gắn bó với Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên và duyên hải miền Trung. Nay em lại làm giảng viên đại học, góp phần đào tạo những kỹ sư, thạc sỹ, tiến sỹ của hơn 45 triệu nông dân đã đang nuôi sống cả xã hội và đi lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.

Nhân năm mới, mừng hai em không ngừng tiến bộ và thành đạt trên con đường khoa học của mình, mừng hai cháu Nguyên Long nối tiếp truyền thống gia đình, luôn tiến bộ trưởng thành. Mong được đón các em và các cháu. Gửi các em những dòng tâm tình của anh trong trang thơ kèm đây nhân 80 mùa xuân.

Anh chị Hồng, Hảo

MỪNG TUỔI TÁM MƯƠI
Phạm Hồng

Thấm thoát thoi đưa vừa ngoảnh lại
Xuân nay mình đã tám mươi tròn
Bốn tư năm lẻ đi đánh giặc
Hưu về tóc bạc vẫn lòng son

Nhớ buổi đầu vào Vệ quốc quân
Dối nhà đi họp đã hơn tuần
Kiểm tra sức khoẻ năm phòng huyện
Suýt bị trả về: chưa đủ cân!

Trận đầu bố trí ở Cầu Bây
Giáo búp đa sắc lẹm trong tay
Đợi địch tràn sang là xốc tới
“Đánh giáp lá cà” với giặc Tây.

Trận hai chặn Pháp ở cầu Ghềnh
Quê hương Bãi Sậy giáp Như Quỳnh
Với khẩu súng trường, viên đạn thép
Quần với thằng Tây cao lênh khênh

Trận ba được nhận khẩu tiểu liên
Với mười viên đạn một băng liền
Chặn giặc từ đầu đường “ba chín”
Thôn nghèo Yên Lịch dạ trung kiên!

Vừa đánh Tây vừa cõng thương binh
Vượt sông giá lạnh lúc bình minh
Máu đồng đội thấm đầy quân phục
Vẫn chẳng rời nhau nghĩa tử sinh!

Thế rồi hơn bốn chục mùa xuân
Chiến trường giục giã chẳng dừng chân
Theo anh Văn, ngọn cờ Quyết thắng
Bác Hồ cùng chúng cháu hành quân!

Cả đời mãi miết cuộc trường chinh
Ơn vợ, quê hương vẹn nghĩa tình
Tần tảo nuôi con, chăm cha mẹ
Vượt ngàn gian khó, giỏi mưu sinh!

Pháp Mỹ chạy rồi, nước chửa yên
Hai đầu biên giới lửa triền miên
Năm cha con lại cùng thắng giặc
Trên biên phía Bắc bảy năm liền.

Trở về đội ngũ cựu chiến binh
Cháu con đều tiến bộ, trưởng thành
Cùng anh em tiếp vun truyền thống
Chung tay làm rạng rỡ quê mình…

Sức mạnh nhân dân và đồng đội
Dựng làng văn hoá thật kiên trung
Vượt bao thử thách hai thời đại
Quê hương Tán Thuật xã anh hùng.

Tám chục tuổi đời vẫn thanh xuân
Sáu hai tuổi Đảng vẫn kiệm, cần
Liêm chính làm theo lời Bác day
Vinh nào bằng “công bộc nhân dân”

Mười tám năm qua hưu chẳng nghỉ
Đồng đội luôn về sum họp vui
Mọi việc làm đều cùng suy nghĩ
Đơm hoa, kết trái đẹp cho đời

Vui thay mình đang tới tám hai
Phía trước đường xuân vẫn rộng dài
Nước mạnh, dân giàu, nhà hạnh phúc
Ngẩng đầu thẳng bước tới tương lai.

Xuân Mậu Tý 2008

PHẠM HỒNG
CCB nhà 8/17 đường Trần Khánh Dư, Bạch Đằng
Phường Trần Phú, Thành phố Hải Dương; ĐT 0396620183.
anh Phạm Hồng là chính ủy sư đoàn 325 B, khung sư đoàn 356 ‘nước mắt Vị Xuyên’ . Anh Hồng từ trần ngày 20 tháng 9 âm lịch Kỷ Hợi nhằm ngày 10 tháng 8 dương lịch năm 2019 hưởng thọ 93 tuổi, Anh Phạm Hồng đúng là NGƯỜI LÍNH GIÀ THỜI BÁC. Anh ấy dường như ký thác cho chúng ta bài viết này để dành cho biểu tượng Tổ Quốc ‘nước mắt Vị Xuyên ở Hà Giang ngày này 17 tháng 2 (mặc dù ngày 12 tháng 7 là ngày giỗ trận sau 5 năm ngày mở đầu này, ngày 600 anh em F356 hi sinh). Con trai anh Hồng nay nối nghiệp anh làm ở VTV. Thơ anh thật trong sáng, giản dị, anh sống cần kiệm liêm chính cho tới ngày anh trở về đơn vị cũ, nơi hầu hết anh em sư đoàn 356 của anh đều hóa đất đá biên cương.

QUANG DŨNG THƠ GỌI NẮNG
Hoàng Kim

Quang Dũng hùng ca Tây Tiến
Việt Bắc chơi vơi nhớ núi nhớ người,
Chu Nhạc ‘chỉ lửa là rất thật‘
Anh và tôi đều thầm lặng nhớ ai.

Quang Dũng thơ gọi nắng
như khói như mây mờ ảo nhân tình,
Tây Tiến tiếng vọng thời gian,
Thăm thăm chim chiều tầng trời xa vắng.

‘Tây Tiến’, ‘Đôi mắt người Sơn Tây’,
‘Bố Hạ’,‘Đôi Bờ’, lưu dấu chân anh
như núi như sông bóng hình người lính
hùng vĩ trên nền trời Tây Bắc.

Quang Dũng thơ gọi nắng:
‘Tây Tiến’
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Đôi mắt người Sơn Tây’
‘u uẩn chiều lưu lạc
buồn viễn xứ khôn khuây
Bố Hạ
‘đường về quê hương về quê hương
Không thấy quê hương chỉ thấy đường …

‘Em đã xa rồi, chim gọi nắng
Em còn nghe thấy nữa bao giờ’,
‘Đôi Bờ’

‘Giăng giăng mưa bụi qua phòng tuyến
Thương nhớ ơ hờ thương nhớ ai ‘…

Đọc thơ Quang Dũng
càng thấy yêu hơn
Việt Nam đất nước con người.
Thương ‘Con chim xanh’ Chu Nhạc

Con chim xanh trong tán lá xanh
Chỉ một màu xanh lay động
Tiếng hót nào trên trời xanh cao rộng
Con chim xanh bay rồi tán lá vẫn xanh‘.

Nhớ ‘Trăng rằm’ Hoàng Kim
Trăng sáng lung linh, trăng sáng quá!
Đất trời lồng lộng một màu trăng
Dẫu đêm khuya vắng người quên ngắm
Trăng vẫn là trăng, trăng vẫn rằm‘.

Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Diệm (1921–1988) là tác giả của những bài thơ hay Tây Tiến, Đôi mắt người Sơn Tây, Đôi bờ… Ngoài ra ông còn là một họa sĩ, nhạc sĩ. Quang Dũng quê hương làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng, Sơn Tây xưa Hà Nội nay. Trước cách mạng tháng Tám, ông học trung học trường Thăng Long, sau đó dạy học tư ở Sơn Tây và gia nhập Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày Cách mạng tháng Tám thành công, trở thành phóng viên tiền phương của báo Chiến đấu. Năm 1947, ông được đi học Trường bổ túc trung cấp quân sự Sơn Tây. Sau khoá học, ông làm đại đội trưởng ở tiểu đoàn 212, Trung đoàn Tây Tiến. Ông tham gia chiến dịch Tây Tiến đợt hai, mở đường qua đất Tây Bắc. Trong thời gian này, ông còn được cử làm Phó đoàn tuyên truyền Lào – Việt. Cuối năm 1948, sau chiến dịch Tây Tiến, ông làm Trưởng tiểu ban tuyên huấn của Trung đoàn 52 Tây Tiến, rồi làm Trưởng đoàn Văn nghệ Liên khu III. Ông đã viết rất nhiều truyện ngắn xuất bản và viết kịch, cũng như đã triển lãm tranh sơn dầu cùng với các hoạ sĩ nổi danh. Ông sáng tác nhạc, bài Ba Vì của ông đã nổi tiếng ở trong khu kháng chiến. Ông làm bài thơ Tây Tiến năm 1948 khi dự Đại hội toàn quân ở Liên khu III tại làng Phù Lưu Chanh (Hà Nam). Tháng 8 năm 1951, ông xuất ngũ. Sau 1954, ông làm Biên tập viên tại báo Văn nghệ, rồi chuyển về Nhà xuất bản Văn học.  Ông bị gửi đi chỉnh huấn sau vụ Nhân Văn – Giai Phẩm, và lui về ẩn thân trong nghèo nàn và bệnh tật. Thơ của ông bị phê bình trên báo chí miền Bắc lúc đó là mang hơi hướng “tiểu tư sản”, thiếu tính chiến đấu, còn ở miền Nam thì được xuất bản và phổ biến rộng rãi và được nhiều người yêu thích. Về sau này, như những nhà thơ lớn khác, Nguyễn Bính, Hồ Dzếnh,… ông mai một và mất đi trong âm thầm.

Ông mất ngày 13 tháng 10 năm 1988 sau một thời gian dài đau ốm tại bệnh viện Thanh Nhàn, Hà Nội. Năm 2001, ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Hiện nay tại trường PTTH xã Đan Phượng (quê ông) có đặt một bức tượng bán thân Quang Dũng trong trang phục người lính Tây Tiến.

Quang Dũng là nhà thơ tài hoa, vẽ giỏi, hát hay. Bài thơ Tây Tiến của ông mang đậm nét hào hùng, bi tráng pha chất lãng mạn được chọn vào giảng dạy trong giáo trình trung học phổ thông. Một số bài thơ của ông đã được phổ nhạc như Tây Tiến (Phạm Duy phổ nhạc), Đôi mắt người Sơn Tây (Phạm Đình Chương phổ từ hai bài thơ Đôi bờĐôi mắt người Sơn Tây), Kẻ ở (Cung Tiến phổ nhạc). Đặc biệt bài thơ Em mãi là 20 tuổi được 3 nhạc sĩ phổ nhạc khác nhau (Việt Dũng, Phạm Trọng Cầu, Khúc Dương). Những tác phẩm tiêu biểu gồm các tập thơ Bài Thơ Sông Hồng (1956), Rừng Biển Quê Hương (1957), Mây Đầu Ô (1986); truyện ngắn Mùa Hoa Gạo (1950); hồi ký Làng Đồi Đánh Giặc (1976)…

Tây Tiến
Quang Dũng

Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi !
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

Đôi mắt người Sơn Tây
Quang Dũng

Em ở thành Sơn chạy giặc về
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
Cách biệt bao lần quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì

Vừng trán em vương trời quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương
Tôi thấy xứ Đoài mây trắng lắm
Em có bao giờ em nhớ thương

Từ độ thu về hoang bóng giặc
Điêu tàn thôi lại nối điêu tàn
Đất đá ong khô nhiều ngấn lệ
Em có bao giờ lệ chứa chan.

Mẹ tôi em có gặp đâu không
Những xác già nua ngập cánh đồng
Tôi cũng có thằng em còn bé dại
Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông

Đôi mắt người Sơn Tây
U uẩn chiều lưu lạc
Buồn viễn xứ khôn khuây

Cho nhẹ lòng nhớ thương
Em mơ cùng ta nhé
Bóng ngày mai quê hương
Đường hoa khô ráo lệ

Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngắm lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn quanh phủ quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng

Bao giờ tôi gặp em lần nữa
Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa
Đã hết sắc mầu chinh chiến cũ
Còn có bao giờ em nhớ ta.

Bài thơ “Bố Hạ” qua Bút tích Quang Dũng đã neo tên quê hương ông và hình bóng em bảng lãng như thực như mơ:

QuangDungbuttichthoBoHa

Bố Hạ
Quang Dũng

Đường về quê hương về quê hương
Không thấy quê hương chỉ thấy đường
Em đã đi trên đường nhựa ấy
Hai mươi năm trước lúa thu vàng.

Đường về quê hương về quê hương
Em mặc áo vàng hay áo tím
Mắt em lơ đãng nhìn chấm mây
Anh vịn thành xe tay trong tay

Đường về quê hương về quê hương
Có một ngày sao mà bất tận…
Hai mươi cây số tưởng vô vàn
Dài đến bây giờ vẫn chứa chan.

Có con chim đậu nhành giây điện
Lại giống ngày xưa chuyện nắng thu
Em đã xa rồi – chim gọi nắng
Em còn nghe thấy nữa bao giờ.

Di sản thơ Quang Dũng ấn tượng nhất với tôi đối với là bài thơ “Tây Tiến”, tác phẩm học trong nhà trường, kế đến là bài thơ “Đôi mắt người Sơn Tây”,”Bố Hạ” và “Đôi Bờ”. Thời lính và tuổi trẻ đi qua, tôi tâm đắc với anh Hoàng Đại Nhân, giáo sư Lê Văn Tố, anh Lê Khánh Thắng và các bạn tôi về ‘Quang Dũng những bài thơ gọi nắng’.

DẠO CHƠI NON NƯỚC VIỆT
Hoàng Kim

Anh và em,
chúng mình cùng nhau
dạo chơi non nước Việt.

Anh đưa em vào miền cổ tích
nơi Lạc Long Quân và Âu Cơ
sinh ra đồng bào mình trong bọc trứng,
thăm đền Hùng Phú Thọ
ở Nghĩa Lĩnh, Việt Trì,
về Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội,
thủ đô Việt Nam,
hồn thiêng sông núi tụ về.

“Khắp vùng đồng bằng sông Hồng,
vùng núi và trung du phía Bắc,
không mẩu đất nào không lưu dấu tổ tiên
để giành quyền sống với vạn vật.

Suốt dọc các vùng
từ duyên hải Bắc Trung Bộ,
đến duyên hải Nam Trung Bộ,
Tây Nguyên,
Đông Nam Bộ,
Đồng Bằng Sông Cửu Long,
là sự nghiệp gian nan tiến thủ của tổ tiên
để mở rộng hy vọng tương lai dân tộc” (1)

Tổ Quốc bốn nghìn năm
giang sơn gấm vóc
biết bao nơi lòng ta thầm ước
một lần đến thăm.

Anh đưa em lên Phù Vân
giữa bạt ngàn Yên Tử
nơi “vũ trụ mắt soi ngoài biển cả” (2)
đến Hạ Long,
Thác Bản Giốc và sông Ka Long
Hương Sơn,
Phong Nha,
Cửa Việt,
Thạch Hãn,
Huế,
Hải Vân,
Non nước,
Hội An,
Thiên Ấn,
Hoài Nhơn,
Phú Yên
Nha Trang,
Đà Lạt.

Về tổ ấm chúng mình
Ngọc phương Nam.
Tình yêu muôn đời:
Đất nước Việt Nam.

thayoi

BAN MAI NGỌC RIÊNG MÌNH
Hoàng Kim


Thung dung đời thoải mái
Ban mai của riêng mình
Giọt thời gian điểm ngọc
Thanh nhàn khát khao xanh.

thungdung

Bài viết mới trên DẠY VÀ HỌC
https://hoangkimvn.wordpress.com bấm vào đây cập nhật mỗi ngày
Video yêu thích
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung; Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Advertisement

Tiến bộ giống sắn Việt Nam

TIẾN BỘ GIỐNG SẮN VIỆT NAM
“Bảo tồn và phát triển sắn thích hợp bền vững là bài học lớn chất lượng hiệu quả” https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tien-bo-giong-san-viet-nam ; Vietnamese Cassava Today https://youtu.be/xNJ4i09MCsU by Nguyen Thi Truc Mai, Hoang Long, Nguyen Nu Quynh Doan, Hoang Kim, et al. 2023. Tiến bộ giống sắn Việt Nam https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tien-bo-giong-san-viet-nam ; Sắn Việt và sắn Thái https://hoangkimlong.wordpress.com/category/san-viet-va-san-thai ; Vietnammese Cassava Today https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietnamese-cassava-today

Ở Việt Nam, giống sắn KM419 và KM440 đến nay là phổ biến nhất, sau cả áp lực nặng của bệnh khảm lá CMD và bệnh chổi rồng CWBD. (xem video https://youtu.be/XDM6i8vLHcIhttps://youtu.be/kjWwyW0hkbU); chúng tôi khuyên nông dân nên trồng các loại giống sạch bệnh KM568, KM569, KM539, KM440, KM419, KM94, KM537, KM7, STB1, KM414, KM98-7, HN1 (TMEB419) để khảo nghiệm DUS và VCU. Sắn Việt Nam bảo tồn và phát triển bền vững: xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tien-bo-giong-san-viet-nam/

In  Vietnam, up to now, cassava varieties KM419 and KM440 are popular,  after even CMD and CWBD, https://youtu.be/XDM6i8vLHcI and https://youtu.be/kjWwyW0hkbU planting clean KM568, KM569, KM539, KM440, KM419, KM94, KM537, KM7, STB1, KM414, KM98-7, HN1 (TMEB419) for DUS and VCU trials remains our advice to farmer at this stage.  Cassava conservation and sustainable development in Vietnam: https://youtu.be/XMHEa-KewEk; https://youtu.be/5l9xPES76fU

Vietnamese cassava today
Good friends are hard to find, hard to leave behind and impossible to forget.
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietnamese-cassava-today/

TIẾN BỘ GIỐNG SẮN VIỆT NAM 1975-2023; GIỐNG SẮN KM568 VÀ KM569,
KẾT QUẢ NÂNG CẤP CẢI TIẾN GIỐNG SẮN KM419, KM440 VÀ KM539*
Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Long, Nguyễn Nữ Quỳnh Đoan, Hoàng Kim
và đs.

Đề tài “Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên” là cấp bách và quan trọng. Mục tiêu: Chọn tạo được giống sắn có năng suất tinh bột vượt hơn đối chứng 10%, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên; Nội dung đã được đúc kết trong bài báo này: 1) Tiến bộ giống sắn Việt Nam 1975-2023, nền tảng khoa học và thực tiễn để lựa chọn, xác định các tổ hợp lai, bảo tồn và phát triển giống sắn tốt kháng bệnh; 2) Giống sắn KM568 và KM569 đặc tính nông sinh học, nguồn gốc giống và điểm kháng sâu bệnh hại chính; c) Kết quả nâng cấp cải tiến giống sắn chủ lực sản xuất KM419 và KM440 năng suất tinh bột cao nhất hiện nay bằng cách hồi giao với giống sắn KM539* kháng bệnh CMD, tích hợp gen quý này vào giống sắn tốt Việt Nam theo chuẩn kỹ thuật và công nghệ tạo dòng sắn lai; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/catrgory/tien-bo-giong-san-viet-nam

Ở Việt Nam, sắn là cây lương thực quan trọng sau lúa và ngô. Sắn Việt Nam ngày nay có tổng diện tích sắn thu hoạch năm 2021 đạt 528,0 ngàn ha, với năng suất sắn củ tươi bình quân 20,3 tấn/ ha, sản lượng sắn củ tươi 10,7 triệu tấn (Tổng cục Thống kê, Niên giám Thống kê 2021). Năm vùng trồng sắn chính Việt Nam là:1) Vùng Tây Nguyên diện tích sắn đạt 172,5 nghìn ha, chiếm 32,7% diện tích sắn cả nước, trọng điểm tại Gia Lai 81,0 nghìn ha, Đắk Lăk 45,0 nghìn ha, Kon Tum 38,8 nghìn ha; 2) Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ diện tích trồng sắn đạt 102,0 nghìn ha, chiếm 19,3% diện tích sắn cả nước, trọng điểm tại Phú Yên 29,5 nghìn ha, Bình Thuận 28,0 nghìn ha, Quảng Ngãi 17,0 nghìn ha, Quảng Nam 10,0 nghìn ha; 3) Vùng Đông Nam Bộ diện tích trồng sắn đạt 92,8 nghìn ha, chiếm 17,6% diện tích sắn cả nước, trọng điểm tại Tây Ninh 59,0 nghìn ha, Đồng Nai 17,0 nghìn ha; 4) Vùng Trung du miền núi phía Bắc diện tích sắn đạt khoảng 99,3 nghìn ha, chiếm khoảng 18,9% diện tích sắn cả nước, sắn trồng rãi rác ở nhiều tỉnh miền núi, sản lượng tập trung ở Sơn La, Yên Bái, Hòa Bình;5) Vùng Bắc Trung Bộ diện tích sắn đạt 53,0 nghìn hac, chiếm 10% diện tích sắn cả nước, tập trung tại Nghệ An, Thanh Hóa, Quảng Trị (12-13 nghìn ha/ tỉnh). Hai giống sắn thương mại chủ lưc KM419 và KM94 năm 2020, chiếm lần lượt trên 42% và 37% tổng diện tích sắn Việt Nam, tăng hơn diện tích trồng KM419 và KM94 năm 2016 là 38% và 31,7% RTB Newsletter 2016. Assessment reveals that most cassava grown in Vietnam has a CIAT pedigree, http://www.rtb.cgiar.org/2016-annual-report/assessment-reveals-that-most-cassava-grown-in-vietnam-has-a-ciat-pedigree/. Sự bùng nổ về năng suất sản lượng hiệu quả kinh tế sắn và ngành hàng sắn đã trùng hợp với sự xuất hiện, lây lan của hai bệnh hại nghiêm trọng là bệnh chồi rồng (CWBD) công bố dịch hại năm 2009 và gây hại nghiêm trọng trên giống sắn KM94 tại Quảng Ngãi; Kế đến là bệnh khảm lá virus CMD (Sri Lanka Cassava Mosaic Virus) phát hiện và công bố dịch hại tháng 5/2017 trên giống sắn HLS11 tại Tây Ninh, đã lây lan rất nhanh, gây hại khủng hoảng tại 26 tỉnh thành phố cả nước, đang gây hại tại 17 tỉnh năm 2022, chủ yếu ờ cáctỉnh trồng sắn Đông Nam Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Bắc Trung Bộ. Nguyên nhân chính là do sự lây lan bệnh qua hom giống của giống sắn HLS11 mẫn cảm bệnh; sự lan truyền bệnh CMD qua môi giới truyền bệnh do bọ phấn trắng (Bemisia tabasi) khó kiểm soát, sự tiêu hủy cây bệnh và kiểm soát dịch bệnh CMD, CWBD còn bất cập và giống sắn kháng bệnh CMD nhập nội kháng bệnh tốt nhưng hàm lượng tinh bột còn thấp nên doanh nghiệp chế biến sắn và nông dân vùng trồng sắn thận trọng ứng dụng. Bài viết này lược khảo Tiến bộ giống sắn Việt Nam .Bài viết đầy đủ mời đọc tại tạp chí chuyên đề

Giống sắn KM419 và KM440,
nền tảng bảo tồn và phát triển


Kết quả nâng cấp cải tiến giống sắn chủ lực thương mại KM419, KM440 bằng cách hồi giao với KM539, KM537, KM534, KM94 thuộc nhiệm vụ khoa học thực tiễn cấp bách: ”Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên. Giống sắn KM568 trên ruông nông dân Phú Yên (giữa) rất sạch bệnh khảm lá virus (CMD) và bệnh chồi rồng CWBD, bên trái phía sau là giống sắn chủ lực sản xuất KM419 cũ nhiều và đồng đều nhưng nhiễm bệnh CMD mức 3,5; bên phải phía sau là giống chủ lực thương mại KM440 kháng bệnh CMD cấp 2, CWBD cấp 1,5. Giống sắn KM568, KM440 năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất của tỉnh Phú Yên; xem tiếp Bảo tồn và phát triển sắn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/

GIỐNG SẮN KM419 VÀ KM440
Nguyễn Thị Trúc Mai,
Hoàng Kim, Hoàng Long và cộng sự.

Thông tin tiến bộ mới Bảo tồn và phát triển sắn; Sự thật tốt hơn ngàn lời nói Chọn giống sắn kháng CMD; Chọn giống sắn Việt Nam Giống sắn KM419 và KM440 xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/giong-san-km419-va-km440/

GIỐNG SẮN KM440 TAI XANH, SIÊU BỘT, ÍT BỆNH

Đặc điểm giống: KM440 thân xanh, thẳng, nhặt mắt, không phân cành, lá già xanh đậm, đọt non màu xanh tím, củ đồng đều, dạng củ đẹp, thịt củ màu trắng, ít nhiễm sâu bệnh, năng suất củ tươi 40,5 đến 53,1 tấn/ha. Hàm lượng bột đạt từ 27,0 -28,9%,. giống ngắn ngày, thời gian giữ bột sớm hơn KM94.

Giống sắn KM440 và KM419 đến thời điểm này (ngày 7 tháng 12 năm 2022) vẫn tiếp tục chiếm diện tích lớn áp đảo, đặc biệt là giống sắn KM 440 “tai xanh” ít bệnh hơn KM419 ‘tai đỏ” có ưu thế vượt trội trên quy mô trồng rộng và tiêu thụ sắn tại Việt Nam, bất chấp áp lực nặng của bệnh CMD và CWBD; Giống sắn KM440 (đột biến từ KM94) được nhiều hộ nông dân ưa thích và tự nhân giống. “Kẻ sống sót không phải là kẻ mạnh nhất hay thông minh nhất, mà là kẻ thích nghi tốt nhất” Charles Darwin đã nói vậy: “It is not the strongest of the species that survives, nor the most intelligent that survives. It is the one that is most adaptable to change” Bảo tồn và phát triển bền vững, thích nghi để tồn tại là câu chuyện sắn hôm nay KM568, KM440, KM419, KM539, KM569 (giống sắn vàng Phú Yên) , KM534 (nâng cấp cải tiến KM397 phát triển từ SM937-26) https://hoangkimlong.wordpress.com/category/giong-san-KM419-va-KM440/

Bài tổng hợp tóm tắt này kèm theo sáu video sắn liên quan: 1) Giống sắn KM440 Phú Yên, rất ít nhiễm bệnh CMD, Video https://youtu.be/oXEF0RpZIo8 ngày 17 6 2022 tại xã Hòa Thịnh, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên 2) Thu hoạch sắn ở Phú Yên Video Cassava varieties KM419 and KM440 https://youtu.be/XDM6i8vLHcI.; 3) Thu hoạch giống sắn KM440 ở tỉnh Tây Ninh https://youtu.be/kjWwyW0hkbU 4) Tây Ninh hướng tới thâm canh sắn bền vững (Cassava in Vietnam: Save and Grow) https://youtu.be/XMHEa-KewEk; 5) Phú Yên nôi lúa sắn trích Video https://youtu.be/CKdEr4aS2NA Thông tin Sở Khoa học và Công nghệ Phú Yên, Hội nghị tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ Phú Yên giai đoạn 2016-2020; Định hướng phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2025 6) Video https://youtu.be/81aJ5-cGp28 Cách mạng sắn Việt Nam (The cassava revolution in Vietnam);

GIỐNG SẮN CHỦ LỰC KM419

Giống sắn KM 419 được chọn tạo từ tổ hợp lai BKA900 x KM 98-5. Giống do Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Yên, Trường Đại học Nông Lâm Huế tuyển chọn và giới thiệu (Hoàng Kim, Trần Ngọc Ngoạn, Nguyễn Thị Trúc Mai, Võ Văn Quang, Nguyễn Bạch Mai, Nguyễn Thị Lệ Dung, Nguyễn Phương, Hoàng Long, Nguyễn Minh Cường, Đào Trọng Tuấn, Trần Công Khanh, Nguyễn Minh Hiếu, Nguyễn Văn Bộ, Nguyễn Thị Cách, Nguyễn Trọng Hiển, Lê Huy Ham, H. Ceballos and M. Ishitani. (2016), Giống sắn KM419 đượcBộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận sản xuất thử tại Quyết định số 85 / QĐ-BNN-TT Hà Nội ngày 13 tháng 1 năm 2016 cho vùng sinh thái Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ).

Giống sắn KM419 là giống sắn chủ lực của Việt Nam có diện tích thu hoạch năm 2016 chiếm 38 % so với giống sắn KM94 chiếm 31,7% (RTB Newsletter 2016. Assessment reveals that most cassava grown in Vietnam has a CIAT pedigree), và từ năm 2019 giống sắn KM419 chiếm trên 42% tổng diện tích sắn toàn Việt Nam.

Giống KM419 có đặc điểm:

+ Thân xanh xám thẳng, ngọn xanh cọng đỏ, lá xanh đậm, không phân nhánh.
+ Năng suất củ tươi: 34,9-54,9 tấn/ha.
+ Tỷ lệ chất khô: 35,1- 39.0%.
+ Hàm lượng tinh bột: 27,8 – 30,7%.
+ Năng suất tinh bột: 10,1-15,8 tấn/ ha
+ Chỉ số thu hoạch: 62 %.
+ Thời gian thu hoạch: 7-10 tháng.
+ Nhiễm trung bình bệnh chồi rồng và bệnh khảm lá virus CMD
+ Cây cao vừa, nhặt mắt, tán gọn, thích hợp trồng mật độ dày 12,500- 14.000 gốc/ ha .

Giống sắn KM419 đã phát triển rộng rãi tại Tây Ninh, Đồng Nai, Đắk Lắk, Phú Yên,…được nông dân các địa phương ưa chuộng với tên gọi sắn giống cao sản siêu bột Nông Lâm. Đặc biệt tại tỉnh Phú Yên giống sắn KM419 được trồng trên 85% tổng diện tích sắn của toàn tỉnh mang lại bội thu năng suất và hiệu quả cao về kinh tế xã hội. Tại Tây Ninh, năm 2019 diện tích sắn bị nhiễm bệnh CMD tuy vẫn còn cao nhưng mức độ hại giảm mạnh, lý do vì KM419 và KM94 là giống chủ lực chiếm trên 76% diện tích mỗi vụ của toàn tỉnh (KM419 chiếm 45% ở vụ Đông Xuân và 54,2% ở vụ Hè Thu; KM94 chiếm 31% ở vụ Đông Xuân và 21,6% ở vụ Hè Thu). Tại Đăk Lắk, năm 2019 diện tích sắn KM419 chiếm trên 70% diện tích mỗi vụ của toàn tỉnh

Giống sắn KM94 tên gốc là KU50 nhập nội từ Thái Lan là giống sắn chủ lực phổ biến ở Thái Lan và Việt Nam. (xem Chọn giống sắn ở Việt Nam https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-viet-nam/. Từ năm 2009, khi dịch bệnh chồi rồng CWBD bùng phát đầu tiên ở Quảng Ngãi giống KM94 nhiễm nặng thì giống sắn KM94 cao cây đã nhanh chóng chuyển đổi. Các giống sắn KM419 (siêu bột Nông Lâm tai đỏ) và giống sắn KM440 (đột biến từ KM94, siêu bột Nông Lâm tai xanh) đã trở thành giống sắn chủ lực thương mại ở Tây Ninh, Phú Yên với nhiều tỉnh ở Việt Nam thay thế KM94. Lý do vì: Giống sắn KM419 và KM440 cây thấp gọn, dễ trồng dày, thân xanh thẳng, nhặt mắt, không phân cành, lá già xanh đậm, đọt non màu xanh, cọng xanh tím (tai đỏ KM419) hoặc xanh tím nhạt (tai xanh KM440), số củ 8-12, củ to và đồng đều, dạng củ đẹp, thịt củ màu trắng, chịu hạn tốt, năng suất siêu bột, thời gian sinh trưởng sớm kháng sâu bênh hại chính, thích nghi rộng. xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tien-bo-giong-san-viet-nam

Keywords: Vietnam cassava today, Tiến bộ giống sắn Việt Nam

(*) Thông tin trích dẫn tại slide 10 trong bài SẮN PHÚ YÊN GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TS. Nguyễn Thị Trúc Mai, TS. Hoàng Kim, TS. Hoàng Long; Báo cáo Phú Yên 28 12 2021 Hội nghị “Giới thiệu về các công nghệ trong sản xuất Nông Lâm Thủy sản”, tài liệu hội nghị và bài tham luận tại Phú Yên 31 12 2021 “Hội nghị Tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ giai đoạn 2016- 2020, định hướng phát triển ứng dụng KHCN & ĐMST giai đoạn 2021-2025” UBND Tỉnh Phú Yên, (và cập nhật thêm tiến bộ mới 2022) xem tiếp Phú Yên nôi lúa sắn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/phu-yen-noi-lua-san/ và Bảo tồn và phát triển sắn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/ :

PHÚ YÊN NÔI LÚA SẮN
Hoàng Kim


Thông tin Sở Khoa học và Công nghệ Phú Yên, Hội nghị tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ Phú Yên giai đoạn 2016-2020; Định hướng phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2025. Sáng ngày 31/12/2021, tại TP Tuy Hòa, UBND tỉnh Phú Yên đã phối hợp với Sở KH&CN tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ Phú Yên giai đoạn 2016-2020; Định hướng phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2025. Hội nghị được tổ chức trực tiếp tại TP Tuy Hòa và kết nối trực tuyến đến các thị xã, huyện trong địa phương cùng đại diện Bộ KH&CN. Chủ trì Hội nghị là đồng chí Đào Mỹ, Phó Chủ Tịch UBND tỉnh Phú Yên và đồng chí Dương Bình Phú, Giám đốc Sở KH&CN, tham dự Hội nghị còn có ông Thân Ngọc Hoàng, Phó Vụ trưởng Vụ Phát triển Khoa học và Công nghệ địa phương và đại diện lãnh đạo các Sở, Ban, Ngành, đơn vị, doanh nghiệp trong tỉnh; xem tiếp https://khcnpy.gov.vn/hoi-nghi-tong-ket-hoat-dong-khoa-hoc-va-cong-nghe-phu-yen-giai-doan-2016-2020-dinh-huong-phat-trien-ung-dung-khoa-hoc-cong-nghe-va-doi-moi-sang-tao-giai-doan-2021-2025/

Phú Yên nôi lúa sắn https://youtu.be/CKdEr4aS2NA là lời biết ơn chân thành bởi Hoàng Kim và đs. 2021. Hoàng Kim tham dự hội nghị theo giấy mời của UBND Tỉnh Phú Yên. Chúng tôi lưu trích đoạn lúa sắn thuộc lĩnh vực kỹ thuật công nghệ trong phim của Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Yên với Sở Khoa học và Công nghệ phối hợp thực hiện tháng 12 năm 2021. Phim chiếu tại Hội nghị tổng kết hoạt động khoa học công nghệ giai đoạn 2016-2020, định hướng phát triển ứng dụng KHCN & ĐMST giai đoạn 2021-2025 https://youtu.be/CKdEr4aS2NA

Bảo tồn và phát triển sắn
SẮN PHÚ YÊN GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
TS. Nguyễn Thị Trúc Mai, TS. Hoàng Kim, TS. Hoàng Long


Báo cáo Phú Yên 28 12 2021 Hội nghị “Giới thiệu về các công nghệ trong sản xuất Nông Lâm Thủy sản”, tài liệu hội nghị và bài tham luận tại Phú Yên 31 12 2021 “Hội nghị Tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ giai đoạn 2016- 2020, định hướng phát triển ứng dụng KHCN & ĐMST giai đoạn 2021-2025” UBND Tỉnh Phú Yên,

Tóm tắt: Báo cáo này đề cập ba nội dung: 1) Những vấn đề cần chú ý trong sản xuất sắn hiện nay để nâng cao giá trị và sức cạnh tranh cây sắn; 2) Thành tựu và bài học sắn Việt Nam (2016-2021) trước và trong dịch bệnh sắn CMD và CWBD ; 3) Phú Yên bảo tồn và phát triển sắn bền vững

GIỐNG SẮN KM419 VÀ KM440
Nguyễn Thị Trúc Mai,
Hoàng Kim, Hoàng Long và cộng sự.

Thông tin tiến bộ mới Bảo tồn và phát triển sắn; Sự thật tốt hơn ngàn lời nói Chọn giống sắn kháng CMD; Chọn giống sắn Việt Nam Giống sắn KM419 và KM440 xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/giong-san-km419-va-km440/

Bài tổng hợp tóm tắt này cập nhật thông tin nghiên cứu và giảng dạy sắn dùng trong nhà trường và làm tài liệu khuyến nông. Bài viết này kèm theo sáu video sắn liên quan: 1) Giống sắn KM440 Phú Yên, rất ít nhiễm bệnh CMD, tại xã Hòa Thịnh, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên ngày 17 6 2022 https://youtu.be/oXEF0RpZIo8 2) Thu hoạch sắn ở Phú Yên Cassava varieties KM419 and KM440 https://youtu.be/XDM6i8vLHcI.; 3) Thu hoạch giống sắn KM440 ở tỉnh Tây Ninh https://youtu.be/kjWwyW0hkbU 4) Tây Ninh hướng tới thâm canh sắn bền vững (Cassava in Vietnam: Save and Grow) https://youtu.be/XMHEa-KewEk; 5) Phú Yên nôi lúa sắn trích Thông tin Sở Khoa học và Công nghệ Phú Yên, Hội nghị tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ Phú Yên giai đoạn 2016-2020; Định hướng phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2025 https://youtu.be/CKdEr4aS2NA 6) Cách mạng sắn Việt Nam (The cassava revolution in Vietnam) https://youtu.be/81aJ5-cGp28; Giống sắn KM419 và KM440 cho đến thời điểm này (tháng 6 năm 2022) vẫn tiếp tục chiếm diện tích lớn áp đảo, chứng tỏ ưu thế vượt trội trên quy mô trồng và tiêu thụ sắn tại Việt Nam, bất chấp áp lực nặng của bệnh CMD và CWBD; Giống sắn KM440 (đột biến từ KM94) được nhiều hộ nông dân ưa thích và tự nhân giống. “Kẻ sống sót không phải là kẻ mạnh nhất hay thông minh nhất, mà là kẻ thích nghi tốt nhất” Charles Darwin đã nói vậy: “It is not the strongest of the species that survives, nor the most intelligent that survives. It is the one that is most adaptable to change” Bảo tồn và phát triển bền vững, thích nghi để tồn tại là câu chuyện sắn hôm nay KM419, KM440, KM568, KM569, C39, KM397 (phát triển từ SM937-26) https://hoangkimlong.wordpress.com/category/giong-san-KM419-va-KM440/

1) Giống sắn KM419 và KM440 ở Việt Nam hiện nay là phổ biến nhất, sau cả áp lực nặng của bệnh khảm lá virus CMD và bệnh chổi rồng CWBD. https://youtu.be/XDM6i8vLHcIhttps://youtu.be/kjWwyW0hkbU . Chúng tôi khuyên nông dân trồng các loại giống sạch bệnh KM419, KM440, KM140, KM98-1, KM568, KM535, KM537, KM569, KM536, KM534, C39, C36, C97, HN1 (TMEB419), KM94 (đ/c), tiếp tực được khảo nghiệm nghiêm ngặt DUS và VCU và đánh giá sức lan tỏa chấp nhận của sản xuất thị trường. Sắn Việt Nam bảo tồn và phát triển bền vững (Hình 1); xem tiếp   https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/https://hoangkimlonghoanggia.blogspot.com/2021/11/cassava-news-136-vietnamese-cassava.htmlhttps://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=769151464263553&id=100035061194376

Giống sắn KM440 Phú Yên, rất ít nhiễm bệnh CMD, tại Hòa Thịnh, Tây Hòa 17 6 2022 https://youtu.be/oXEF0RpZIo8 xem thêm Bảo tồn phát triển sắn
Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long và đồng sự 2021 https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/

2) Mười kỹ thuật thâm canh sắn được đúc kết thành quy trình canh tác thích hợp, hiệu quả đối với điều kiện sinh thái của địa phương (Hình 2) là giải pháp tổng hợp để nâng cao giá trị và sức cạnh tranh cây sắn. Mười kỹ thuật này bao gồm: 1) Sử dụng hom giống sắn tốt nhất của giống sắn thích hợp nhất; 2) Thời gian trồng tốt nhất và thời điểm thu hoạch tối ưu để đạt năng suất tinh bột tối đa và hiệu quả kinh tế; 3) Bón phân NPK kết hợp phân hữu cơ vi sinh và phân chuồng để cải thiện độ phì đất và tăng năng suất; 4) Khoảng cách trồng tối ưu cho giống sắn tốt nhất và thích hợp loại đất; 5) Ngăn chặn sâu bệnh hại bằng phòng trừ tổng hợp IPM; 6) Trồng xen sắn với lạc, cây họ đậu; trồng băng cây đậu phủ đất, luân canh thích hợp nhất tại địa phương; 7) Dùng thuốc diệt cỏ, tấm phủ đất để kiểm soát cỏ dại kết hợp bón thúc sớm và chuyển vụ; 8) Kỹ thuật làm đất trồng sắn thích hợp để kiểm soát xói mòn đất; 9) Phát triển hệ thống quản lý nước cho canh tác sắn; 10) Đào tạo huấn luyện bảo tồn phát triển sắn bền vững, sản xuất kết hợp sử dụng sắn; xây dưng chuỗi sản xuất tiêu thụ sắn hiệu quả thích hợp. Quy trình canh tác sắn này của Việt Nam đã được công bố tại Hội thảo Cây Có Củ Thế Giới tổ chức tại Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc ngày 18 tháng 1 năm 2016 (Le Huy Ham et al. 2016) [23]  https://youtu.be/81aJ5-cGp28

3) Xây dựng vườn tạo dòng của 5 tổ hợp sắn lai ưu tú nhất của tiến bộ di truyền hiện nay trong nguồn gen giống sắn tuyển chọn Thế giới và Việt Nam (Hình 3) là giải pháp căn bản, trọng tâm, thường xuyên và lâu dài để xây dựng tiềm lực khoa học chọn giống sắn tại vùng sắn trọng điểm, đi đôi với việc đào tạo nguồn nhân lực, tạo sản phẩm nổi bật, nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của cây sắn ở mức quốc gia và khu vực.

https://youtu.be/H74nrhWLomc Tổ chức CIAT Việt Nam trả lời phỏng vấn Trần Văn Hảo về 6 loại giống kháng khảm lá mì bạn cần biết. Thông tin 12 thg 8, 2022 tích hợp tại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/

4) Ứng dụng công nghệ nâng cao chuỗi giá trị nông nghiệp (Technological application enhances agriculture value chain), đặc biệt chú trọng giống sắn và vùng nguyên liệu và truyền thông Chuyển đổi số nông nghiệp kết nối thị trường  https://vtv.vn/video/bizline-15-3-2020-427424.htm.và https://youtu.be/XMHEa-KewEkhttps://youtu.be/nsfZuHRmEVo Giống mì siêu củ năng suất cao cho vụ lỡ 2021-2022_Trần văn Hảo 0976875413 và

https://youtu.be/rOTuIh5s2hw Bí quyết để có rẫy mì thu nhập 100tr/ ha_Giống mì năng suất cao Trần Văn Hảo

5) Bảo tồn và phát triển hệ thống sản xuất tiêu thụ sắn thích hợp bền vững: Gắn vùng giống sắn tốt, có năng suất tinh bột cao, kháng các bệnh hại chính CMD, CWBD, với các doanh nghiệp nhà nông, phục vụ nông nghiệp; Liên kết hổ trợ nông dân tổ chức sản xuất kinh doanh sắn theo chuỗi giá trị sắn; Đa dạng hóa sinh kế, gắn cây sắn với các cây trồng và vật nuôi khác; Tăng cường năng lực liên kết tiếp thị; có các chính sách hỗ trợ cần thiết.

THÀNH TỰU VÀ BÀI HỌC SẮN VIỆT NAM

Cách mạng sắn Việt Nam https://youtu.be/81aJ5-cGp28, là điểm sáng toàn cầu được vinh danh tại Hội thảo Cây Có Củ Thế Giới tổ chức tại Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc từ ngày 18 đến ngày 22 tháng 1 năm 2016. Sắn Việt Nam giai đoạn 2016-2021 tóm tắt đánh giá thực trạng sắn về điểm mạnh, điểm yều, cơ hội, thách thức (SWOT) trong bối cảnh dịch bệnh sắn CMD và CWBD, khái quát những điểm chính sau:

Bối cảnh dịch bệnh sắn CWBD và CMD

Dịch bệnh chồi rồng (CWBD) gây hại sắn Việt Nam rãi rác từ năm 2005-2008, và bùng phát thành dịch bệnh ở Quảng Ngãi năm 2009 (Báo Nhân Dân 2009) [1], Dịch bệnh này sau đó trở nên nghiêm trọng ở Việt Nam, chủ yếu trên giống sắn KM 94. Năm 2008, giống sắn KM94 là giống sắn chủ lực Việt Nam có diện tích thu hoạch chiếm 75, 54% tổng diện tích sắn Việt Nam (Hoang Kim Nguyen Van Bo et al. 2011) [10]. Đến năm 2016, tỷ trọng diện tích thu hoạch giống sắn KM94 chiếm 31,8 %, trong khi giống sắn KM419 chiếm 38%. (RTB Newsletter 2016. Assessment reveals that most cassava grown in Vietnam has a CIAT pedigree) [25]. Năm 2019, giống sắn KM419 chiếm trên 42% tổng diện tích sắn toàn Việt Nam. Nguyên nhân của sự chuyển dịch này là do giống sắn KM94 cây cao, mật độ trồng thưa (10.000 -11.000 cây/ ha), thời gian sinh trưởng dài, nhiễm nặng (cấp 4) bệnh chổi rồng. Giống sắn KM419, cây thấp, mật độ trồng dày (14.500 cây/ha), thời gian sinh trưởng ngắn, nhiễm nhẹ bệnh chổi rồng (cấp 1), năng suất tinh bột vượt KM94 khoảng 29%.

Bệnh virus khảm lá (CMD) gây hại ban đầu từ tỉnh Tây Ninh (2017) lan rộng trên 15 tỉnh thành Việt Nam (2018) và 18 tỉnh thành Việt Nam (2019) gây hại nghiêm trọng  trên giống sắn HLS11. Chương trình sắn Quốc tế ACIAR, CIAT kết nối Mạng lưới sắn toàn cầu GCP21 và các chương trình sắn Quốc gia gồm Căm pu chia, Lào, Thái Lan, Việt Nam, tại Hội nghị sắn Quốc tế lần thứ IV, ngày 11-15 tháng 6 năm 2018 tại Benin, và  Hội thảo sắn khu vực ngày 18 tháng 9 năm 2018 tại Phnôm Pênh, Campuchia và Tây Ninh Việt Nam  đã báo cáo tình trạng dịch bệnh virus khảm lá sắn (CMD) gần đây ở Đông Nam Á và phối hợp chiến lược phòng trừ dịch bệnh CMD. Những kết quả giám sát dịch bệnh đã được đúc kết thông tin tại Hội thảo sắn Quốc tế tại Lào (2019), Ấn Độ (2021) xem tiếp Sắn Việt Nam ngày nay https://hoangkimlong.wordpress.com/category/san-viet-nam-ngay-nay

Thành tựu sắn Việt Nam

Sắn Việt Nam ngày nay đã là một ngành xuất khẩu đầy triển vọng. Ở Việt Nam, sắn là cây lương thực với diện tích hơn nửa triệu ha và giá trị xuất khẩu hơn một tỷ đô la Mỹ mỗi năm. Cách mạng sắn Việt Nam https://youtu.be/81aJ5-cGp28, với sự tham gia của hàng triệu nông dân trồng sắn Việt Nam, đã thực sự đạt được sự chuyển đổi to lớn cây sắn và ngành sắn về năng suất, sản lượng, giá trị sử dụng, hiệu quả kinh tế, thu nhập thực tế, sinh kế, việc làm và bội thu giá trị lao động sống ngành sắn cho hàng triệu người dân trên toàn quốc. Sắn Việt Nam ngày nay đã và đang tiếp tục làm cuộc cách mạng xanh mới.tiếp tục lan tỏa thành quả điển hình của sắn thế giới khi nhiều hộ nông dân tại nhiều vùng rộng lớn ở Tây Ninh đã tăng năng suất sắn trên 400%, từ 8,35 tấn/ ha năm 2000 lên trên 36,0 tấn/ ha. (FAO, 2013b). Năng suất sắn Việt Nam bình quân cả nước từ năm 2009 đến nay (2021) đã đạt trên gấp đôi so với năng suất sắn năm 2000. Điển hình tại Tây Ninh, từ năm 2011 năng suất sắn đã đạt bình quân 29,0 tấn/ ha trên diện tích thu hoạch 45,7 nghìn ha với sản lượng là 1,32 triệu tấn, so với năm 2000 năng suất sắn đạt bình quân 12,0 tấn/ ha trên diện tích thu hoạch 8,6 nghìn ha, sản lượng 9,6 nghìn tấn. Sắn lát và tinh bột sắn Việt Nam đã trở thành một trong mười mặt hàng xuất khẩu chính. Sắn Việt Nam đã thành nguồn sinh kế, cơ hội xóa đói giảm nghèo và làm giàu của nhiều hộ nông dân, hấp dẫn sự đầu tư của nhiều doanh nghiệp chế biến kinh doanh; Thông tin tại “Cassava conservation and sustainable development in Vietnam” (Hoàng Kim et al. 2018, 2015) [7], Trong sách: Sản xuất sắn bền vững ở châu Á đối với nhiều mục đích sử dụng và cho nhiều thị trường. Reihardt Howeler (biên tập) và nhiều tác giả, CIAT 2015. Sách Vàng nghề sắn)

Sắn Việt Nam ngày nay thành tựu nổi bật

Thành tựu sắn Việt Nam thể hiện trên 6 điểm chính :1) Giống sắn chủ lực và phổ biến ngày nay ở Việt Nam; 2) Quy trình canh tác sắn thích hợp tại mỗi điều kiện sinh thái nền tảng phát triển trên 3) Mười kỹ thuật thâm canh sắn;4) Hệ thống sản xuất chế biến tiêu thụ sắn;  5) Hệ thống giáo dục đào tạo và khuyến nông; 6) Hệ thống quản lý nhà nước, hổ trợ liên kết chuỗi giá trị ngành hàng sắn và xây dựng nông thôn mới

1) Giống sắn chủ lực và phổ biến ở Việt Nam ngày nay là KI419 và KM140, trong khi chờ đợi các giống sắn mới tích hợp gen kháng bệnh CMD được khảo nghiệm (Báo Nhân Dân 2020 dẫn kết luận của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn,: các giống đối chứng tốt nhất hiện trồng tại Tây Ninh là KM419 và KM140 có năng suất 44-48 tấn/ha https://nhandan.vn/chuyen-lam-an/tim-ra-giong-san-khang-benh-kham-la-625634/ ); xem tiếp [11] Chọn giống sắn Việt Nam, https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-viet-nam/

2) Mười kỹ thuật thâm canh sắn bảo tồn và phát triển sắn bền vững; Cây sắn Việt Nam ngày nay, giải pháp chủ yếu ngăn chặn lây lan dịch bệnh CWBD và CMD là phòng trừ tổng hợp: sử dụng giống sắn KM419, KM440, KM397, KM140, KM98-1, … ít nhiễm bệnh hơn so với KM94 và dùng nguồn giống sạch bệnh; vệ sinh đồng ruộng, tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời; diệt rầy lá, rầy thân, nhện đỏ, rệp sáp và các loại côn trùng lây lan bệnh; cần chăm sóc sắn tốt, bón phân và làm cỏ 3 lần để tăng sức đề kháng cho cây, bố trí mùa vụ thích hợp để hạn chế dịch hại; tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời khi bệnh xuất hiện. [11]  https://hoangkimlong.wordpress.com/category/muoi-ky-thuat-tham-canh-san/

3) Hệ thống sản xuất chế biến tiêu thụ sắn Việt Nam ngày nay là khá tốt và năng động, có nhiều điển hình doanh nghiệp chế biến kinh doanh giỏi, hiệu quả;

4) Hệ thống giáo dục đào tạo và khuyến nông, dạy và học cây sắn đã tập huấn kỹ thuật, bổ sung tăng cường nguồn lực kỹ thuật, khoa học, công nghệ thích hợp cho ngành sắn.

5) Hệ thống quản lý nhà nước, hổ trợ liên kết chuỗi giá trị ngành hàng sắn, phát triển nông thôn mới,đã có sự liên kết chương trình sắn liên vùng, hợp tác quốc tế với sự sâu sát thực tiễn và hiệu quả. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã có công văn cấm sử dụng giống sắn HLS11 mẫn cảm bệnh virus khảm lá CMD; Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn, Cục Bảo vệ Thực vật số 1068/ BVTV TV ngày 3 tháng 5 năm 2019 đã xác định “V/v sử dụng giống sắn KM419 trong sản xuất” ghi rõ.“Việc hướng dẫn nông dân mua giống sắn KM419 sạch bệnh là giải pháp an toàn, kinh tế nhất so với thực trạng nhiễm bệnh khảm lá sắn hiện nay”. Chương trình sắn Quốc tế ACIAR CIAT cũng xác định giống sắn KM98-1 canh tác phổ biến nhất ở Lào.

6) Sắn Việt Nam chuyển đổi số đã tích lũy chuyển đổi số, liên kết hổ trợ người dân,  Cách mạng sắn Việt Nam https://youtu.be/81aJ5-cGp28, Chọn giống sắn Việt Nam; Lúa sắn Cămpuchia và Lào; Lúa sắn Việt Châu Phi; Sắn Việt Nam bài học quý; Sắn Việt Nam sách chọn; Sắn Việt Nam và Kawano; Sắn Việt Nam và Howeler; Sắn Việt và Sắn Thái; Quản lý bền vững sắn châu Á; Cassava and Vietnam: Now and Then; …

Bài học sắn Việt Nam

Sắn Việt Nam thành tựu và bài học (Vietnam cassava achievement and learnt lessons)  [8] đã đúc kết ba bài học Cassava in Việt Nam http://cassavaviet.blogspot.com/ (Hoang Kim, Pham Van Bien et al. 2003, Hoang Kim et al. 2013) bao gồm:

Bài học một: 6 M.  1) Man Power Con người  2) Market Thị trường 3) Materials Giống mới, Công nghệ mới 4) Management Quản lý và Chính sách 5) Methods Phương pháp tổ chức thực hiện 6) Money Tiền.

Bài học hai: 10 T  1) Thử nghiệm (Trials); 2) Trình diễn (Demonstrations); 3) Tập huấn (Training); 4) Trao đổi (Exchange); 5)Thăm viếng (Farmer tours); 6) Tham quan hội nghị đầu bờ (Farmer field days); 7) Thông tin tuyên truyền (Information, propaganda; 8) Thi đua (Competition); 9) Tổng kết khen thưởng (Recognition, price and reward); 10) Thành lập mạng lưới nông dân giỏi (Establish good farmers’ network.

Bài học ba: 1F Nông dân tham gia nghiên cứu (Farmer Participatory Research – FPR)

Sắn Việt Nam ngày nay có thêm hai bài học nối tiếp

Bài học bốn “Nhận diện rủi ro bất cập”

1)     Quản lý dịch bệnh hại và giống sắn. Giải pháp giám sát sự lây lan bệnh CMD lúc đầu còn lúng túng chậm trễ. Việc hủy bỏ giống HLS11.cây cao, vỏ củ nâu đỏ, bệnh CMD mức 5 rất nặng) vì sự lẫn giống đã giảm nhân giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao, cây thấp, vỏ củ xám trắng, nhiễm  bệnh virus  khảm lá CMD mức 2-3 (Hình 4, 5). Sản xuất sắn Tây Ninh lẫn giống sắn chưa có nguồn gốc lý lịch đặc điểm giống phù hợp và thiếu hồ sơ chọn tạo [2] trong khi các giống sắn KM440, KM140, đã có đủ hồ sơ gốc DUS và VCU (Hoang Kim et al. 2018; 2015 [7];  Trần Công Khanh [25], Hoàng Kim và đồng sự 2007, 2010 [27], Nguyễn Thị Trúc Mai 2017[11, 12,13, 14, 15], Nguyễn Bạch Mai 2018 [16] Hoàng Long [17,18,19])  

2)     Bảo vệ đất rừng, đất dốc trồng sắn và xử lý thực tiễn các vấn đề liên quan kỹ thuật canh tác sắn. Sách sắn “Quản lý bền vững sắn châu Á từ nghiên cứu đến thực hành” của tiến sĩ Reinhardt Howeler và tiến sĩ Tin Maung Aye, người dịch Hoàng Kim, Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Bạch Mai [ 20, 21] gồm 13 chương có chương 12 “Làm thế nào để chống xói mòn đất” đã đề cập chi tiết kỹ thuật canh tác trên đất dốc trồng sắn; chương 6 “Sâu bệnh hại sắn và cách phòng trừ” có hướng dẫn biện pháp phòng trừ tổng hợp đối với bệnh CWBD, CMD, trọng điểm là sử dụng hom giống sạch bệnh của giống kháng và giống chống chịu CWBD, CMD kết hợp sự tiêu hủy nguồn bệnh và kiểm dịch thực vật nghiêm ngặt . Sách này là cẩm nang nghề sắn “thay cho những lời khuyên tốt nhất hiện có về kỹ thuật canh tác sắn sau hơn 50 năm kinh nghiệm thực tiễn kết hợp nghiên cứu và làm việc với nông dân để thấu hiểu những thách thức thực tế cuộc sống và cơ hội mà họ phải đối mặt”.

3)     Chế biến kinh doanh sắn Các nhà máy ethanol Việt Nam đầu tư lớn và lỗ; Nhà máy ethanol hoạt động khó khăn. Trong khi trên thế giới ngày nay, cạnh tranh nhiên liệu thực phẩm thức ăn chăn nuôi và các tác động tiềm tàng đối với các hệ thống canh tác năng lượng – cây trồng quy mô nhỏ, đã có rất nhiều sáng tạo tiến bộ khoa học công nghệ mới (John Dixon, Reinhardt Howeler et al. 2021). Sắn Nigeria sản lượng 52,4 triệu tấn năng suất sắn chỉ đạt 14,02 tấn/ha (thấp hơn sắn Việt Nam) nhưng từ năm 2011 đã có thành tựu “bếp cồn sắn” cho toàn quốc, dành được lượng lớn xăng dầu cho xuất khẩu.

4)     Quản lý vĩ mô ngành hàng sắn còn bất cập đặc biệt là trong  dịch bệnh Covid19

Bài học năm: Bảo tồn sắn và phát triển bền vững Phú Yên là điểm sáng điển hình; xem chi tiết các đường links và video chọn lọc tại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/muoi-ky-thuat-tham-canh-san/

PHÚ YÊN BẢO TỒN SẮN VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Phú Yên là điểm sáng điển hình, nôi bảo tồn sắn và phát triển bền vững ở Việt Nam. Giống sắn KM419 là giống sắn chủ lực và KM440 là một trong những giống sắn triển vọng nhất của sắn Việt Nam ngày nay. Hai giống có năng suất tinh bột cao, ít bệnh, là lựa chọn của đông đảo nông dân sau  áp lực nặng của bệnh khảm lá CMD và chổi rồng CWBD. https://youtu.be/XDM6i8vLHcIhttps://youtu.be/kjWwyW0hkbU

Sắn là cây trồng chủ lực của tỉnh Phú Yên với lúa và mía. Sắn Phú Yên có lợi thế đầu tư tái cơ cấu theo hướng gia tăng giá trị, sản xuất tập trung, quy mô lớn và bền vững hiện nay với tầm nhìn đến năm 2030. Tỉnh Phú Yên có hai nhà máy sản xuất tinh bột sắn ở Sông Hinh và Đồng Xuân hiện đã nâng cấp lên trên 670 tấn tinh bột/ngày Xây dựng vùng nguyên liệu sắn ổn định đạt năng suất cao, bền vững là nhu cầu sống còn của nhà máy, sinh kế và thu nhập chính của nông dân, nguồn lợi của ngân sách.

Quan tâm tiến bộ kỹ thuật cây sắn là trọng tâm kinh tế và an sinh xã hội tại địa phương. Việc nghiên cứu tuyển chọn, ứng dụng giống sắn mới và áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác tiến bộ có ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan trọng tại tỉnh Phú Yên, tạo hướng đi mới để thay đổi cách thức tổ chức sản xuất nông nghiệp, tìm cơ hội trong thách thức cho nông sản chủ lực của tỉnh.

Hiện nay giống sắn KM419 là giống chủ lực trong cơ cấu bộ giống sắn của tỉnh Phú Yên..”Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên” là sự tiếp nối của đề tài “Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao và kỹ thuật thâm canh tại tỉnh Phú Yên“ đã thành công.. Đề tài đã đạt giải Nhất Hội thi sáng tạo kỹ thuật lần thứ 8 (2018-2019). Năm 2020 tiến sĩ Nguyễn Thị Trúc Mai, là tác giả trong nhóm nghiên cứu của đề tài,  đã được tôn vinh “Nhà khoa học của nhà nông“, nhận Bằng khen và Cúp của Trung ương Hội Nông dân Việt Nam (Tạp chí Nông thôn mới 2021).

”Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên” là khâu đột phá cấp thiết và hiệu quả nhất (Kawano K (1995) [22] để tiếp nối sự bảo tồn và phát triển sắn bền vững.Nội dung nghiên cứu gồm 1) Cải tiến nâng cấp giống sắn chủ lực sản xuất KM419 (Thu hạt lai tạo dòng KM419 và C39, KM440, KM397, KM94; Xây dựng vườn tạo dòng 5 tổ hợp sắn lai ưu tú; Khảo sát tập đoàn 27 giống sắn tuyển chọn); Khảo nghiệm DUS giống sắn tác giả cho 7 giống sắn). 2) Tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao, chống chịu sâu bệnh hại chính, thích hợp điều kiện sản xuất của tỉnh Phú Yên (Khảo nghiệm cơ bản 7 giống sắn; Khảo nghiệm sản xuất 5 giống sắn) 3) Xây dựng mô hình trình diễn và thiết lập vùng giống sắn gốc các giống sắn tốt; Chuyển giao công nghệ mới về giống sắn, kỹ thuật chọn tạo giống sắn.

#CLTVN

CHUYỂN ĐỔI SỐ NÔNG NGHIỆP
Tin nổi bật quan tâm Bảo tồn và phát triển sắn Giống sắn chủ lực KM419 https://www.facebook.com/TrucMa…/posts/5134183749930863…


Trúc Mai cùng với Van Quyen Mai29 người khác. 2 giờ  Thông tin ngày 18/11/2021: “Với mong muốn góp phần phát triển cây sắn bền vững, bảo vệ kết quả sản xuất người trồng sắn, hiện nay Trúc Mai đang thực hiện chuyển giao số lượng lớn giống sắn KM419 (còn gọi là Siêu bột, Cút lùn, Tai đỏ) và KM94 và hỗ trợ kỹ thuật MIỄN PHÍ. Quy cách giống: 20 cây/bó; độ dài tối thiểu 1,2m/cây, cây giống khỏe, HOÀN TOÀN SẠCH BỆNH (có thể giữ lá cây giống để kiểm tra bệnh khảm + các loại sâu bệnh khác).Địa điểm nhận giống: huyện Đồng Xuân, Phú Yên.Liên hệ Ts sắn TRÚC MAI: 0979872618. Đừng ngại thời tiết và giới tính 😊❤.Giống sắn KM419 cây thấp gọn, dễ trồng dày, thân xanh thẳng, nhặt mắt, không phân cành, lá già xanh đậm, đọt non màu xanh, cọng xanh tím, số củ 8-12, củ to và đồng đều, dạng củ đẹp, thịt củ màu trắng, chịu hạn tốt.” Thông tin tích hợp tại #CLTVN xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cltvn/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/

Thăm Đền Hùng nhớ Bác

ThamDenHung

THĂM ĐỀN HÙNG NHỚ BÁC
Bạch Ngọc Hoàng Kim


Đền thiêng trên Nghĩa Lĩnh
Giếng Ngọc dưới trời Nam
Chén cơm truyền con cháu
“Vạn cổ thử giang san“.

TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim
#Thungdung#dayvahoc, #vietnamhoc; #đẹpvàhay
; #cnm365 #cltvn 30 tháng 3 https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-30-thang-3/ ; Thăm Đền Hùng nhớ Bác (hình) https://khatkhaoxanh.wordpress.com/category/tham-den-hung-nho-bac ; Giếng Ngọc vườn Tao Đàn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/gieng-ngoc-vuon-tao-dan ; Chuyện đồng dao cho em https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-dong-dao-cho-em/ ; Lên Việt Bắc điểm hẹn Bài học quý mỗi ngày 99999 https://youtu.be/OL0AKhXkaFEhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/len-viet-bac-diem-hen ; Đến với Tây Nguyên mới https://hoangkimlong.wordpress.com/category/den-voi-tay-nguyen-moi ; Thanh nhàn vui tháng năm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thanh-nhan-vui-thang-nam; #cnm365 #cltvn 30 tháng 3 https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-30-thang-3/ ; https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tinh-thuc-cung-thang-nam/https://hoangkimvn.wordpress.com/tag/tinh-thuc-cung-thang-nam/

VỀ NGHĨA LĨNH ĐỀN HÙNG
Bạch Ngọc Hoàng Kim

Từ thuở xuôi Nam noi nghiệp Tổ
Đền Hùng, Yên Tử, bóng trăng theo

DH1
DH2
DH3
DH4
DH5
DH15
DH8
DH9
DH10
DH11
DH17
DH18
DH19
DH23
DH23
DH20
DH21
DH24
DH25
DH26
DH27
DH28
DH29
DH30
DH32
DH33
DH34
DH36

Xem tiếp
YÊN TỬ

Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấm hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc …

Hoàng Kim


GIẾNG NGỌC VƯỜN TAO ĐÀN
Hoàng Kim

Đền Hùng tại chính mặt sau Dinh Thống Nhất của Vườn Tao Đàn “lá phổi xanh thành phố”. Trong Vườn Tao Đàn có Đền Hùng, Giếng Ngọc đền Hùng, đền Mẫu Phương Nam, vườn đá tiếng Việt, hồ sen đền Hùng, vườn hoa và cây xanh Tao Đàn. Quần thể danh thắng Dinh Thống Nhất, Vườn Tao Đàn, Hồ Con Rùa “mắt ngọc của đầu rồng” trở thành vùng sử thi huyền thoại. Đền Hùng tại vườn Tao Đàn thành phố Hồ Chí Minh là biểu tượng khát vọng đất nước Việt Nam thống nhất, hòa hợp dân tộc, không chấp nhận chia rẽ “chia để trị” đã thấm vào máu thịt của con dân Việt. “Nam Bộ là thịt của thịt Việt Nam là máu của máu Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý đó không bao giờ thay đổi” (Hồ Chí Minh). Dinh Thống Nhất vì thế đã thay cho tên gọi Dinh Độc Lập và  Dinh Thống đốc Nam Kỳ trước đó.

Mẫu Phương Nam ở Vườn Tao Đàn trong quần thể Đền Hùng cùng với mẫu Việt Nam, Bác Hồ, Giếng Ngọc Đền Hùng là những điểm nhấn lịch sử, địa chính trị, văn hóa, tâm linh huyền thoại.

Thầy Hiếu Đêm Giáng Sinh kể rằng: “Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ có bốn công trình chữ THỤ gắn với tên ông: Chữ T dinh Độc Lập, chữ H chợ Đà Lạt, chữ U Trường Đại học Nông nghiệp Sài Gòn và dấu nặng (.) Hồ Con Rùa. Đó là bốn kế lớn chấn hưng đất nước “vua sáng, kinh tế, nông nghiệp, nội chính” .Biểu tượng Dinh Độc lập (hình chữ T) với ý nghĩa đất nước muốn giàu mạnh, thì người lãnh đạo đất nước phải là “bậc minh quân hiền tài”, trọng “quân đức, dân tâm, học pháp”, biết “chăm lo sức dân để lập đại kế sâu rễ bền gốc” bảo tồn và phát triển bền vững năng lực Quốc gia (Sau dinh Độc Lập có Đền Hùng và giếng Ngọc). Biểu tượng Chợ Đà Lạt (hình chữ H) với ý nghĩa trọng tâm của nổ lực quốc gia là phải phát triển kinh tế (phi thương bất phú), mở mang giao thương, chấn hưng nghiệp cũ, phát triển nghề mới, khuyến học dạy dân, “Nên thợ, nên thầy nhờ có học No ăn, no mặc bởi hay làm” (Nguyễn Trãi), “chú trọng mậu dịch buôn bán, lấy việc thông thương an toàn làm chữ Nghĩa (Nguyễn Hoàng), chú trọng lao động để dân giàu nước mạnh. Biểu tượng Trường Đại Học Nông Nghiệp Sài Gòn (hình chữ U) với ý nghĩa là phải chấn hưng giáo dục đại học, phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt là giáo dục phát triển nông nghiệp để nâng cao thu nhập, sinh kế, việc làm và an sinh xã hội, nâng cao chất lượng và giá trị nông sản (dĩ nông vi bản) vì quá nữa người Việt làm nghề nông. Biểu tượng Hồ Con Rùa (hình dấu (.) nặng) với ý nghĩa là an dân, thượng tôn pháp luật,  kỷ cương phép nước, giữ vững bờ cõi, bảo tồn nguyên khí, thương yêu dân chúng an vui lạc nghiệp, “biết thương yêu dân, luyện tập binh sĩ để xây dựng cơ nghiệp muôn đời” (Lời chúa Nguyễn Hoàng dặn chúa Nguyễn Phúc Nguyên),

Tao Đàn là chốn thần tiên tuyệt vời, lá phổi trong lành của thành phổ Hồ Chí Minh, nơi bạn có thể tìm thấy một chỗ họp mặt nhẹ nhàng và khoảng lặng cuộc sống thú vị .

Dạo chơi giếng Ngọc vườn Tao Đàn nhớ lời thơ Nguyễn Trãi: ‘Nên thợ nên thầy nhờ có học dư ăn dư mặc bởi hay làm’. Văn là đẹp, chương là sáng. Ngôn ngữ sáng đẹp, thấm thía, xúc động, ám ảnh.  Lưu ít ảnh và ghi chú mùa Covid 19, đọc lại và suy ngẫm

Đất Gia Định xưa

Lược sử đất Gia Định xưa được tóm tắt trong câu thơ của thi tướng Huỳnh Văn Nghệ “Nhớ Bắc”: “Từ độ mang gươm đi mở cõi/ Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long“.

Đất Gia Định xưa thuộc nước Phù Nam (tồn tại khoảng đầu thế kỷ 1 đến khoảng nửa thế kỷ 7), sau đó thuộc vương quốc Chân Lạp (nay là Campuchia). Tuy nhiên, “thuộc” một cách lỏng lẻo: “các dân tộc vẫn sống tự trị, và mấy sóc Khrmer lẻ tẻ chưa hợp thành đơn vị hành chánh thuộc triều đình La Bích (Chân Lạp). Trong khi đó triều đình ấy phải tập trung lực lượng ở phía nam Biển Hồ (sau khi bỏ Ăngco ở phía bắc) để đối đầu với Xiêm La (nay là Thái Lan) đang tiếp tục lấn đất Chân Lạp ở phía tây. Đất Gia Định vẫn là đất tự do của các dân tộc và hầu như vô chủ, là đất hoang nhàn cả về kinh tế lẫn chủ quyền từ xưa”[1].

Theo sử liệu, lưu dân Việt đã đến đây khai hoang và làm ăn sinh sống vào đầu thế kỷ 17, nhờ có cuộc hôn nhân giữa công nữ Ngọc Vạn với vua Chân Lạp Chey Chetta II vào năm 1620. Lưu dân Việt do mưu sinh, nên có thể đã có mặt ở Sài Gòn Gia Định từ xa xưa trước cuộc hôn nhân ấy. Song, chính nhờ mối lương duyên giữa công chúa Ngọc Vạn với vua Chân Lạp Chey Chetta II, mà quan hệ Đại Việt (nay là Việt Nam) và Chân Lạp trở nên êm đẹp, dân cư hai nước có thể tự do qua lại sinh sống, tạo điều kiện cho lưu dân Việt ngày càng đông đảo hơn ở khu vực Đồng Nai, Sài Gòn…[2].

Chuyện kể rằng: Tiên chúa Nguyễn Hoàng, người khởi đầu của chín đời chúa Nguyễn và mười ba đời vua vương triều nhà Nguyễn, đã nghe theo lời khuyên của bậc danh sĩ tinh hoa hiền tài lỗi lạc, nhà tiên tri Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” [1]. Ông đã nhờ chị ruột mình là bà Ngọc Bảo (vợ Trịnh Kiểm) xin Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ ở Thuận Hoá (là khu vực từ Quảng Bình đến Thừa Thiên-Huế ngày nay). Trịnh Kiểm thấy Thuận Hóa là nơi xa xôi, đất đai cằn cỗi nên đã đồng ý, và tâu vua Lê Anh Tông cho Nguyễn Hoàng vào trấn nhậm vào năm 1558. Nguyễn Hoàng cùng với các chúa Nguyễn sau này làm chúa phương Nam trong khi Trình Kiểm cùng với các chúa Trịnh sau đó làm chúa phương Bắc, tạo nên cục diện Đàng Trong, Đàng Ngoài,  Trịnh-Nguyễn phân tranh của thời Nhà Hậu Lê. Nguyễn Hoàng dùng các danh thần Lương Văn Chánh, Văn Phong vừa chống lại sự quấy nhiễu cướp phá của Chăm Pa vừa mộ dân lập ấp, khai khẩn đất đai, mở rộng về Nam.

Cho tới năm 1613 khi Nguyễn Hoàng mất, diện tích của xứ Thuận Quảng do Nguyễn Hoàng trấn nhậm đã rộng tới 45000 km²[13] trải dài từ đèo Ngang, Hoành Sơn (Quảng Bình nay) qua đèo Hải Vân tới núi Đá Bia (Thạch Bi Sơn), gần đèo Cả, (tỉnh Phú Yên ngày nay và đã làm chủ Bãi Cát Vàng là một vùng đất vô chủ thời đó.

Năm 1613, chúa Nguyễn Phúc Nguyên nối nghiệp và tuân theo di huấn của chúa Nguyễn Hoàng: “Nếu Bắc tiến được thì tốt nhất, bằng không giữ vững đất Thuận Quảng và mở mang bờ cõi về phía Nam“. Ông trong dụng bậc kỳ tài kiệt xuất, nhà chính trị và quân sự lỗi lạc Đào Duy Từ cùng với các danh tướng  Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến giữ vững nghiệp chúa Nguyễn ở Đàng Trong, chặn được quân Trịnh ở Đàng Ngoài, làm cho Đàng Trong thời ấy trở nên phồn thịnh, nước lớn lên, người nhiều ra, xây dựng được một định chế chính quyền rất được lòng dân, đặt nền móng vững chắc cho triều Nguyễn lưu truyền chín chúa mười ba đời vua và mở đất phương Nam thuận thời, thuận lòng người.

Năm 1631, chúa Nguyễn Phúc Nguyên gả con gái là Ngọc Khoa (có sách gọi là Ngọc Hoa) cho vua Chăm Pa là Po Rome,  và gả con gái là Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp là Chey Chetta II. Hai cuộc hôn phối này làm quan hệ Việt – Chăm và Việt – Chân diễn ra tốt đẹp[24][25]. Đàng Trong thời ấy vốn đã được các nước lân ban rất nể phục . Sự kiện hai cuộc lương duyên này càng làm cho mối bang giao của Đàng Trong ở mặt phía Nam ổn định, giúp cho chúa Nguyễn có thể tập trung lực lượng để đối phó trước các cuộc tấn công của chúa Trịnh Đàng Ngoài, đồng thời cũng tạo thêm cơ hội cho người Việt di dân và mở rộng lãnh thổ về phương Nam.

Năm 1635, chúa  Nguyễn Phúc Lan kế nghiệp cho đến năm 1648 thì truyền ngôi cho cho con trai là Nguyễn Phúc Tần rồi mất. Cùng năm ấy (1648) chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần nối nghiệp cho đến năm 1687 và việc Nam tiến của người Việt đến Sài Gòn Gia Định ở thời này càng nhiều hơn trước. Năm 1658, tình hình Chân Lạp rối ren, chú cướp ngôi của cháu. Hai người con sống sót của vua Chân Lạp  Preah Outey là Ang Sur và Ang Tan dấy binh chống lại Ramathipadi I (Nặc Ông Chân) nhưng thất bại. Họ đã theo lời khuyên của Thái hậu Ngọc Vạn, cầu cứu chúa Nguyễn Phúc Tần.

Sách Gia Định thành thông chí chép: “Năm Mậu Tuất (1658)…vua (chúa Nguyễn Phúc Tần) sai Phó tướng Yến Vũ hầu (Nguyễn Phước Yến)…đem 2000 quân, đi tuần đến thành Mỗi Xoài nước Cao Mên, đánh phá được, bắt vua nước ấy là Nặc Ông Chân, đóng gông đem đến hành tại ở dinh Quảng Bình. Vua dụ tha tội…Khi ấy địa đầu trấn Gia Định là hai xứ Mỗi Xoài, Đồng Nai đã có dân lưu tán của nước ta cùng ở lẫn với người Cao Mên, để khai khẩn đất”..[3]

Ang Sur lên ngôi vua xưng là Barom Reachea V, đóng tại Oudong (cố đô Campuchia từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19 trước khi vương triều Khmer thiên đô xuống Phnom Penh), phong cho em là Ang Nan (Nặc Ông Nộn) làm Phó vương đóng tại thành Sài Gòn. Các Quốc vương Chân Lạp đổi lại phải thần phục Đàng Trong và thực hiện triều cống định kỳ, dẫn tới hệ quả người Việt chuyển đến sinh sống nhiều ở vùng đất thuộc Chân Lạp.

Tháng 12, năm 1672, Quốc vương Barom Reachea V (Ang Sur) bị Bô Tâm[12] giết chết rồi cướp ngôi, Bô Tâm xưng là Chey Chettha III. Ang Tan (Nặc Ông Tân), chú của Chey Chettha III, chạy sang cầu cứu chúa Nguyễn. Nhưng ngay sau đó tháng 5 năm 1673, Chey Chettha III cũng bị giết trên giường ngủ bởi người Mã Lai thuộc phe của Nặc Ông Chân (Ramathipadi I). Ang Chea (Nặc Ông Đài), con trai đầu của vua Barom ReacheaV lên ngôi sau đó, xưng là Keo Fa II. Năm 1674, Nặc Ông Đài đã đi cầu viện Thái Lan (Ayutthaya) đánh Nặc Ông Nộn (Ang Nan) và chiếm được thành Sài Gòn. Nặc Ông Nộn bỏ chạy sang cầu cứu chúa Nguyễn ở Khánh Hòa (dinh Thái Khang xưa). Trong khi đó, Nặc Ông Đài đắp lũy chống giữ ở vùng Bà Rịa – Vũng Tàu ngày nay và đắp thành Nam Vang, nhờ Xiêm (Thái Lan) cứu viện để chống lại quân chúa Nguyễn. Chúa Hiền bèn sai Cai cơ đạo Nha Trang là Nguyễn Dương Lâm cùng với Nguyễn Đình Phái làm tham mưu đem binh chia ra hai đạo sang đánh Nặc Ông Đài.

Năm 1674, quân Nguyễn chiếm được (Sài Gòn Gia Định (đất Sài Côn xưa thuộc trấn Phiên An), và tiến quân lên vây thành Nam Vang. Nặc Ông Đài phải bỏ thành chạy vào rừng và bị thuộc hạ giết chết. Nặc ông Thu ra hàng. Nặc ông Thu là chính dòng con trưởng cho nên lại lập làm chính quốc vương đóng ở Oudong (cố đô Campuchia như đã dẫn) và để Nặc Ông Nộn làm đệ nhị quốc vương như cũ, đóng ở thành Sài Gòn, bắt hằng năm phải triều cống[14]. Chúa Nguyễn gia phong cho Nguyễn Dương Lâm làm Trấn thủ dinh Thái Khang (Khánh Hòa) lo việc phòng ngự ngoài biên và làm chủ tình thế cả vùng Đồng Nai. Phần lãnh thổ còn lại của người Chăm (từ Phú Yên tới Bình Thuận) sát nhập hoàn toàn vào  lãnh thổ Đàng Trong năm 1693.

Năm 1679, các quan tướng nhà Minh không chịu làm tôi nhà Thanh là Dương Ngạn Địch (tổng binh Long Môn, Quảng Tây) với Hoàng Tiến (phó tướng), Trần Thượng Xuyên ( tổng binh châu Cao, châu Lôi, châu Liêm thuộc Quảng Đông) và Trần An Bình (phó tướng),  đem 3000 quân cùng 50 chiếc thuyền cập bến cửa Hàn xin được làm dân mọn xứ Việt. Chúa Nguyễn Phúc Tần khao đãi ân cần, chuẩn y cho giữ nguyên chức hàm, phong cho quan tước rồi lệnh cho tới Nông Nại (Đồng Nai) khai khẩn đất đai. Mặt khác, triều đình còn hạ chỉ dụ cho Quốc vương Cao Miên (Thủy Chân Lạp) biết việc ấy để không xảy ra chuyện ngoài ý muốn[14]. Dương Ngạn Địch và Hoàng Tiến đem binh thuyền vào cửa Xoài Rạp và cửa Đại cửa Tiểu thuộc trấn Định Tường dừng trú tại xứ Mỹ Tho. Trần Thượng Xuyên và Trần An Bình thì đem binh thuyền vào cửa Cần Giờ rồi đồn trú tại Đồng Nai ( trấn Biên Hòa). Họ khai khẩn đất đai, lập ra phố chợ, giao thông buôn bán. Tàu thuyền người Hoa, người phương Tây, người Nhật, người Chà Và lui tới tấp nập, phong hóa Trung Quốc dần dần lan ra cả vùng Đông Phố[14].

Khi nhà Minh bị diệt, Mạc Cửu một thương gia trẻ cũng bỏ nước ra đi gần như cùng lúc với Trần Thượng Xuyên ở Cù lao Phố, Dương Ngạn Địch ở Mỹ Tho. Ông đến vùng Chân Lạp, ông bỏ tiền ra mua chức Ốc Nha và làm quan tại đây. Tuy nhiên do tình hình Chân Lạp hết sức rối ren, ông bỏ Nam Vang về phủ Sài Mạt[7]

Gia Định thành thông chí là sách địa chí của Trịnh Hoài Đức (1765-1825) viết về miền đất Gia Định bằng chữ Hán cổ và chữ Nôm, là một sử liệu quan trọng về Nam bộ Việt Nam thời nhà Nguyễn. Sách gồm sáu quyển, đóng làm 3 tập theo bản chép tay lưu tại thư viện Viện sử học Việt Nam (ký hiệu HV. 151 (1-6). Việc biên soạn được cho là đã tiến hành vào giữa các năm 1820 và 1822[3].

Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức chép về Mạc Cửu ở đất Hà Tiên: “Hà Tiên vốn là đất cũ của Chân Lạp, tục gọi là Mường Khảm, tiếng Tàu gọi là Phương Thành[3] Ban đầu có người tên là Mạc Cửu gốc xã Lê Quách, huyện Hải Khang, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, vào thời Đại Thanh, niên hiệu Khang Hy thứ 19 (1680), nhà Minh mất hẳn (nhưng mãi đến năm Khang Hy thứ 19, vùng Quảng Đông mới bình định xong). Mạc Cửu không khuất phục chính sách buổi đầu của nhà Đại Thanh, mới chừa tóc rồi chạy qua phương Nam, trú tại phủ Nam Vang nước Cao Miên. Ông thấy ở phủ Sài Mạt[4] của nước ấy, người Việt, người Trung Hoa, Cao Miên, Đồ Bà (Chà Và) các nước tụ tập mở trường đánh bạc để lấy xâu, gọi là thuế hoa chi, bèn thầu mua thuế ấy, lại còn đào được một hầm bạc nên bỗng trở thành giàu có. Từ đó ông chiêu mộ dân Việt Nam lưu tán ở các xứ Phú Quốc, Lũng Kỳ (hay Trũng Kè, Lũng Cả ), Cần Bột (Cần Vọt – Kampôt), Hương Úc (Vũng Thơm – Kompong Som), Giá Khê (Rạch Giá), Cà Mau lập thành bảy xã thôn.[5] Tương truyền ở đây thường có tiên xuất hiện trên sông, do đó mới đặt tên là Hà Tiên (tiên trên sông)[6].

Sách Gia Định thành thông chí chép tiếp:  Lúc này ở Gia Định, các chúa Nguyễn đã lập xong phủ Gia Định. Người Việt và các di thần người Hoa đang định cư yên ổn. Nhận thấy muốn tồn tại phải có thế lực đủ mạnh để bảo vệ, che chở cho lãnh địa mà ông đã tốn công gây dựng. Sau khi cân nhắc, năm 1708[11] Mạc Cửu cùng thuộc hạ là Lý Xá, Trương Cầu đem lễ vật đến xin thần phục. “Mạc Cửu sai thuộc hạ là Trương Cầu, Lý Xá dâng biểu trần trình lên kinh đô Phú Xuân khẩn cầu xin được đứng đầu trông coi đất ấy. Tháng 8 mùa thu năm thứ 18 Mậu Tý (1708), chúa Nguyễn Phúc Chu, chuẩn ban cho Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên và phong tước là Cửu Ngọc hầu. Mạc Cửu lo xây dựng dinh ngũ và đóng binh tại Phương Thành (Hà Tiên), từ đó dân càng qui tụ đông đúc.

Như vậy, các chúa Nguyễn sau các cuộc di dân của người Việt ở Đàng Trong vào sinh sống chung với người Khmer, đã lần lượt thiết lập chủ quyền từng phần trên vùng đất Nam Bộ, sau các cuộc chiến với vương quốc Khmer, vương quốc Ayutthaya cũng như các yếu tố chính trị khác. Từ năm 1698 đến năm 1757 chính quyền Đàng Trong đã giành được hoàn toàn Nam Bộ ngày nay vào sự kiểm soát của mình. Cùng với việc mở rộng lãnh thổ trên đất liền, chính quyền Đàng Trong lần lượt đưa người ra khai thác và kiểm soát các hòn đảo lớn và quần đảo trên biển Đông và vịnh Thái Lan. Quần đảo Hoàng Sa được khai thác và kiểm soát từ đầu thế kỷ 17, Côn Đảo từ năm 1704, Phú Quốc từ năm 1708 và quần đảo Trường Sa từ năm 1816[15]

Lịch sử Sài Gòn Gia Định đến nay đã có hơn 320 năm

HoitruongThongNhat

Dinh Thống Nhất xưa và nay

Dinh Thống Nhất và Vườn Tao Đàn thành phố Hồ Chí Minh là quần thể danh thắng đặc biệt tiêu biểu về di sản lịch sử, địa lý, chính trị, văn hóa, kiến trúc của Sài Gòn Gia Định xưa và thành phố Hồ Chí Minh ngày nay.

Dinh Thống Nhất nguyên là Dinh Độc Lập trước năm 1975, là di tích quốc gia đặc biệt được Chính phủ Việt Nam đặc cách xếp hạng. Tiền thân Dinh Độc lập là Dinh Thống đốc Nam Kỳ, do kiến trúc sư người Pháp Hermite thiết kế năm 1868. Sau khi dinh cũ nhiều lần bị ném bom, hư hại, san bằng và Dinh Độc Lập được xây mới năm 1962, thực hiện theo thiết kế của kiến trúc sư khôi nguyên La Mã Ngô Viết Thụ và đã khánh thành năm 1966 . Dinh Độc Lập cao 26 m, rộng 4.500 m2, với 100 phòng gồm 3 tầng chính và một sân thượng cho máy bay trực thăng đáp, hệ thống hầm ngầm kiên cố. Địa danh này chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử thăng trầm của thành phố từng được ví là Hòn ngọc phương Đông. Trưa 30/4/1975, xe tăng của quân giải phóng miền Nam đã húc đổ cánh cửa sắt Dinh Độc lập, đánh dấu thời khắc lịch sử của Sài Gòn. Quá trình chuyển giao và tiếp nhận chính thể mới cũng diễn ra tại đây. Sau 1975, Dinh Độc Lập đổi tên thành Dinh Thống Nhất, ngày nay trở thành địa điểm tham quan lịch sử của du khách khi đến với Sài Gòn. Quần thể Dinh Độc lập, vườn Tào Đàn và Hồ Con Rùa là vùng đất địa linh nổi bật nhất của dấu ấn hòn ngọc phương Đông.

Dinh Độc Lập trước đó thời Pháp thuộc, tại nơi này dinh cũ gọi là Dinh Thống đốc Nam Kỳ do Thống đốc Nam Kỳ Lagrandière làm lễ đặt viên đá đầu tiên khởi công xây dựng năm 1868 theo đồ án do kiến trúc sư Hermite phác thảo. Năm 1858, Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng mở đầu cuộc chiến tranh xâm chiếm Việt Nam. Năm 1867, Pháp chiếm xong lục tỉnh Nam kỳ (Biên Hoà, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên). Ngày 23 tháng 2 năm 1868, ông Thống đốc Nam Kỳ Lagrandière đã làm lễ đặt viên đá đầu tiên khởi công xây dựng Dinh Thống đốc Nam Kỳ mới tại Sài Gòn thay cho dinh cũ được dựng bằng gỗ vào năm 1863. Dinh mới được xây dựng theo đồ án do kiến trúc sư Hermite phác thảo (người phác thảo đồ án Tòa thị sảnh Hongkong). Viên đá lịch sử này là khối đá lấy ở Biên Hòa, hình vuông rộng mỗi cạnh 50 cm, có lỗ bên trong chứa những đồng tiền hiện hành thuở ấy bằng vàng, bạc, đồng có chạm hình Napoleon đệ tam.

Công trình này được xây cất trên một diện tích rộng 12 ha, bao gồm một dinh thự lớn với mặt tiền rộng 80 m, bên trong có phòng khách chứa 800 người, và một khuôn viên rộng với nhiều cây xanh và thảm cỏ. Phấn lớn vật tư xây dựng dinh được chở từ Pháp sang. Do chiến tranh Pháp-Phổ 1870 nên công trình này kéo dài đến 1871 mới xong. Sau khi xây dựng xong, dinh được đặt tên là dinh Norodom và đại lộ trước dinh cũng được gọi là đại lộ Norodom, lấy theo tên của Quốc vương Campuchia lúc bấy giờ là Norodom (1834-1904). Từ 1871 đến 1887, dinh được dành cho Thống đốc Nam kỳ (Gouverneur de la Cochinchine) nên gọi là dinh Thống đốc. Từ 1887 đến 1945, các Toàn quyền Đông Dương (Gouverneur-général de l’Indochine Française) đã sử dụng dinh thự này làm nơi ở và làm việc nên gọi là dinh Toàn quyền. Nơi ở và làm việc của các Thống đốc chuyển sang một dinh thự gần đó.

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, Dinh Norodom trở thành nơi làm việc của chính quyền Nhật ở Việt Nam. Nhưng đến tháng 9 năm 1945, Nhật thất bại trong Thế chiến II, Pháp trở lại chiếm Nam bộ, Dinh Norodom trở lại thành trụ sở làm việc của Pháp ở Việt Nam.

Sau năm 1954, người Pháp rút khỏi Việt Nam. Việt Nam bị chia cắt thành 2 quốc gia, miền Bắc là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, còn miền Nam là nước Quốc Gia Việt Nam (sau thành Việt Nam Cộng Hòa). Ngày 7 tháng 9 năm 1954 Dinh Norodom được bàn giao giữa đại diện Pháp, tướng 5 sao Paul Ely, và đại diện Quốc gia Việt Nam, Thủ tướng Ngô Đình Diệm.

Năm 1955, sau cuộc trưng cầu dân ý, Thủ tướng Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại và lên làm Tổng thống. Ông quyết định đổi tên dinh này thành Dinh Độc Lập. Từ đó Dinh Độc Lập trở thành nơi đại diện cho chính quyền cũng như nơi ở của tổng thống và là nơi chứng kiến nhiều biến cố chính trị. Thời kỳ này, Dinh Độc Lập còn được gọi là Dinh Tổng thống. Theo thuật phong thủy của Dinh được đặt ở vị trí đầu rồng, nên Dinh cũng còn được gọi là Phủ đầu rồng.

Ngày 27 tháng 2 năm 1962, hai viên phi công thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc, lái 2 máy bay AD-6 ném bom làm sập toàn bộ phần chính cánh trái của dinh. (xem thêm: Vụ đánh bom Dinh tổng thống Việt Nam Cộng Hòa năm 1962). Do không thể khôi phục lại, ông Ngô Đình Diệm đã cho san bằng và xây một dinh thự mới ngay trên nền đất cũ theo đồ án thiết kế của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, người Việt Nam đầu tiên đạt giải Khôi nguyên La Mã.

Dinh Độc Lập mới được khởi công xây dựng ngày 1 tháng 7 năm 1962. Trong thời gian xây dựng, gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm tạm thời chuyển sang sống tại Dinh Gia Long (nay là Bảo tàng thành phố Hồ Chí Minh). Công trình đang xây dựng dở dang thì ông Ngô Đình Diệm bị phe đảo chính ám sát ngày 2 tháng 11 năm 1963. Do vậy, ngày khánh thành dinh, 31 tháng 10 năm 1966, người chủ tọa buổi lễ là ông Nguyễn Văn Thiệu, Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia. Từ ngày này, Dinh Độc Lập mới xây trở thành nơi ở và làm việc của tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu sống ở dinh này từ tháng 10 năm 1967 đến ngày 21 tháng 4 năm 1975.

Ngày 8 tháng 4 năm 1975, chiếc máy bay F-5E do phi công Nguyễn Thành Trung lái, xuất phát từ Biên Hòa, đã ném bom Dinh, gây hư hại không đáng kể.

Lúc 10 giờ 45 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975, xe tăng T54B mang số hiệu 843 của Quân đội Nhân dân Việt Nam dưới quyền chỉ huy của Trung úy Bùi Quang Thận đã húc nghiêng cổng phụ của Dinh Độc Lập, tiếp đó xe tăng T54 mang số hiệu 390 do Vũ Đăng Toàn chỉ huy đã húc tung cổng chính tiến thẳng vào dinh. Lúc 11 giờ 30 phút cùng ngày, Trung úy Quân Giải phóng Bùi Quang Thận, đại đội trưởng, chỉ huy xe 843, đã hạ lá cờ Việt Nam Cộng Hòa trên nóc dinh xuống, kéo lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lên, kết thúc 30 năm cuộc chiến tranh Việt Nam.

Sau hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất hai miền Nam Bắc thành một đất nước Việt Nam thống nhất diễn ra tại dinh Độc Lập vào tháng 11 năm 1975. Cơ quan hiện quản lý di tích văn hoá Dinh Độc Lập có tên là Hội trường Thống Nhất[1] thuộc Cục Hành chính Quản trị II – Văn phòng Chính phủ. Đây là di tích lịch sử văn hoá nổi tiếng được đông đảo du khách trong nước và nước ngoài đến tham quan. Nơi này được đặc cách xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 77A/VHQĐ ngày 25/6/1976 của Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch) của chính quyền Việt Nam hiện nay.

Ngày nay, Dinh Độc Lập trở thành một trong những địa điểm du lịch không thể thiếu của mỗi người dân khi tới Thành phố Hồ Chí Minh. Không chỉ có ý nghĩa về lịch sử mà Dinh Độc Lập còn thể hiện nét kiến trúc tiêu biểu của Việt Nam thời kì những thập niên 60.

Hoàng Kim
(sưu tầm, tổng hợp, biên soạn)

(*) Kế tiếp quần thể danh thắng “Dinh Thống Nhất – Vườn Tao Đàn – Hồ Con Rùa“, quần thể danh thắng “Tòa nhà Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh – đường hoa Sài Gòn-  Tòa nhà cao tầng Bitesco – Bến Nhà Rồng” cũng là biểu tượng đặc biệt của các điểm đến được ưa thích nhất.

Các địa điểm tham quan du lịch tại thành phố Hồ Chí Minh , Địa danh du lịch thành phố Hồ Chí Minh, Mười công trình kiến trúc nổi tiếng Sài Gòn, Những công trình kiến trúc nổi tiếng ở thành phố Hồ Chí Minh,  facebook hình ảnh thành phố Hồ Chí Minh giới thiệu nhiều danh thắng như  Chùa Giác Lâm, bảo tàng Hồ Chí Minh (Bến Nhà Rồng), Việt Nam Quốc Tự, Nam Thiên Nhất Trụ, Chùa Một Cột Miền Nam, chùa Bát Bửu Phật Đài, chùa Hoằng Pháp, Đền tưởng niệm liệt sĩ Bến Dược, Địa đạo Củ Chi, …

Bài viết mới trên CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
CNM365 bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích

A New Day https://youtu.be/SN5c-m45fxs
Mùa xuân đầu tiên (Văn Cao) -Thanh Thúy
Ban Mai; Chỉ tình yêu ở lại
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn; Kim on Facebook, Kim on Twitter

Chuyện đồng dao cho em

CHUYỆN ĐỒNG DAO CHO EM
Hoàng Kim


Đồng dao là chuyện tháng năm
Lời ru của mẹ Trăng rằm thảnh thơi
Biết tìm bạn quý mà chơi
Học ăn học nói làm người siêng năng

Hiểu nhàn biết đủ thời an
Thung dung minh triết thanh nhàn thảnh thơi
Người sung sướng biết sống vui
Những người hiếu hạnh được đời yêu thương.

Việc chính là học làm người
Khắc sâu nhân nghĩa nhớ đời đừng quên
Hiếu trung phải học đầu tiên
Đừng tham tưởng bở mà quên ân tình.

Đừng tưởng cứ đẹp là tiên
Cứ trên là sáng cứ tiền là xong
Đừng tưởng không nói là câm
Không nghe tưởng điếc không trông tưởng mù

Đừng tưởng cứ trọc là sư
Cứ vâng là chịu cứ ừ là ngoan
Đừng tưởng có của là sang
Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây.

Đừng tưởng cứ uống là say
Tai trâu đàn gẩy lời hay ham bàn
Đừng tưởng giàu hết gian tham
Không thời chẳng vận lạm bàn chuyện dân

Đừng tưởng cứ mới là tân
Cứ hứa là chắc cứ ân là tình
Đừng tưởng cứ thấp là khinh
Cứ chùa là tĩnh cứ đình là to.

Đừng tưởng già hết hồ đồ
Cứ trẻ là chẳng âu lo buồn phiền
Đừng tưởng cứ quyết là nên
Cứ mạnh là thắng cứ mềm là thua.

Đừng tưởng đã dấm là chua
Sấm rền là sẽ có mưa ngập trời
Đừng tưởng vui chỉ có cười
Buồn thì ủ rũ chỉ ngồi khóc than

Đừng tưởng cứ lớn là khôn
Cứ bé là dại cứ hôn là chồng
Đừng tưởng bịa có thành không
Nhìn gà hóa cuốc lẫn ông với thằng

Lúc vui tham bát bỏ mâm
Đến khi hoạn nạn tần mần bỏ đi
Đừng tưởng không nhất thì nhì
Phò thịnh sung sướng giúp suy nghèo hèn

Gặp trăng thì vội quên đèn
Hám tiền quên nghĩa đỏ đen lạc đường
Đừng tưởng giàu hết cô đơn
Cao sang hết ốm gian tham hết nghèo.

Đừng tưởng cứ núi là cao
Cứ sông là chảy, cứ ao là tù
Đừng tưởng cứ dưới là ngu
Tham giành là được thấy tu tưởng hiền.

Đừng tưởng cứ thấp là hèn
Cứ sang là trọng cứ tiền là xong
Đừng tưởng quan chức là rồng
Dân thường thấp cổ thì không biết gì.

Đời người lúc thịnh lúc suy
Lúc khỏe lúc yếu lúc đi lúc dừng
Đắng cay chua ngọt đã từng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.

Ở đời nhân nghĩa làm đầu
Thủy chung sau trước tình sâu nghĩa bền
Học làm người việc đầu tiên
Hiếu trung phúc hậu đừng quên nối vần

“Lênh đênh qua cửa Thần Phù
Khéo tu thì nổi , vụng tu thì chìm”

“Chồng khôn thì được vợ chiều
Vợ ngoan thì được chồng yêu suốt đời”

“Người trồng cây hạnh mà chơi
Ta trồng cây đức để đời mai sau”
(*)

(*) Ca dao người Việt cổ

CHÂN CHÍNH
“Chân chính bao nhiêu phúc bấy nhiêu”
(Lời của Ông Bà dạy)

Làm Người chân chính sống vui
Chân là sự thật, chính thời thẳng ngay
Ai ơi nhớ lấy câu này
Tìm lành lánh dữ, cây ngay bóng tròn

Thông tin tích hợp tại TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim
#Thungdung, #dayvahoc, #vietnamhoc; #cnm365; #cltvn; #đẹpvàhay; Chuyện đồng dao cho em (hình) https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-dong-dao-cho-em/ Đến với Tây Nguyên mới https://khatkhaoxanh.wordpress.com/2023/03/28/den-voi-tay-nguyen-moi/ ; Câu cá bên dòng Sêrêpôk https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cau-ca-ben-dong-serepok; #cnm365 #cltvn 29 tháng 3 https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-29-thang-3/

Nguyễn Duy cát trắng bụi
KHÔNG RĂNG
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-duy-cat-trang-bui/
“Làng ta ở tận làng ta / Mấy năm một bận con xa về làng / Gốc cây, hòn đá cũ càng, /Trâu bò đủng đỉnh như ngàn năm nay/ Cha ta cầm cuốc trên tay,/ Nhà ta xơ xác hơn ngày xa xưa / Lưng trần bạc nắng thâm mưa / Bụng nhăn lép kẹp như chưa có gì / Không răng! cha vẫn cười khì / Rượu tăm vẫn để dành khi con về / Ngọt ngào một chút men quê / Cay tê cả lưỡi, đắng tê cả lòng/ Gian ngoài thông thống gian trong/ Một đời làm lụng sao không có gì / Không răng! cha vẫn cười khì / Người còn là quí kể chi bạc vàng / Chiến tranh như trận cháy làng / Bà con ta trắng khăn tang trên đầu / Vẫn đồng cạn, vẫn đồng sâu / Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa/ Đường làng cây cỏ lưa thưa / Thanh bình từ ấy sao chưa có gì / Không răng! cha lại cười khì / Đời là thế, kể làm chi cho buồn / Mẹ ta vo gạo thổi cơm / Ba ông táo sứt lửa rơm khói mù / Nhà bên xay lúa ù ù / Vẫn chày cối thậm thịch như thuở nào / Các em ta vác cuốc cào,/ Rủ nhau bước thấp bước cao ra đồng/ Mồ hôi đã chảy ròng ròng / Máu và nước mắt sao không có gì / Không răng! cha vẫn cười khì / Đời là thế, kể làm chi cho rầu / Cha con xa cách bấy lâu / Mấy năm mới uống với nhau một lần / Bụng ta thắt, mặt ta nhăn / Cha ta thì vẫn không răng cười cười / Ta đi mơ mộng trên đời / Để cha cuốc đất một đời chưa xong.”

LO CHI
Lưu Huy Chiêm

“Nằm đêm lưng chẳng tới giường”
Thương đời rơm rạ, ghét phường đãi bôi
Ngủ anh ơi, ngủ em ơi
Tối rồi đến sáng Mặt Trời đằng đông

Lo chi gạo chợ nước sông
Đốt lò củi quế mà không có hào
Sen tàn phủ kín mặt ao
Nghiến răng con cóc bay vào tầng không

Thế rồi em đi lấy chồng
Đài Loan, Hàn Quốc mẹ mong, em chờ
Xây nhà, xây thêm phủ thờ
Bõ công cha mẹ, bây giờ thấy đây

Hào quang sáng tựa ban ngày
Bên ni, bên nớ chua cay giấc hường
Lo chi “lưng chẳng tới giường”
Lo chi…!? …

(Saigon, 28.29 – 3 – 2023)

BẢY ĐỊNH LUẬT CUỘC SỐNG
Chuyện đồng dao cho em

Việt Nam con đường xanh
Hoa Đất thương lời hiền

https://youtu.be/pgELH5LXSxA
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bay-dinh-luat-cuoc-song
Hoàng Kim

Luật hấp dẫn
Quyết chí điều mình muốn

Luật tập trung
Việc chính biết dày công

Luật trách nhiệm
Dám làm thì dám chịu

Luật kiên trì
Không bỏ cuộc giữa chứng

Luật nhân quả
Gieo gì thì gặt nấy

Luật chấp nhận
Biết tỉnh thức mới khôn

Luật kết nối
Đoàn kết là sức mạnh

xem tiếp Bảy định luật cuộc sống https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vui-di-duoi-mat-troiChuyện đồng dao cho em https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-dong-dao-cho-em

Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là chuyen-dong-dao-cho-em-1.jpg

CHUYỆN ĐỒNG DAO CHO EM
Hoàng Kim


Tiếng Việt lung linh sáng
Lời dặn của Thánh Trần
Biết mình và biết người
Kế sách một chữ Đồng

Quốc Công đạo làm tướng
Tiết Chế đức dụng nhân
Văn chương ngọc cho đời
Tự do ngời tâm đức

Vui đi dưới mặt trời

xem tiếp Chuyện đồng dao cho em https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-dong-dao-cho-em

THƠ VUI NHỮNG NGÀY NHÀN
Hoàng Kim

Về hưu cuốc đất trồng rau,
Nhàn tênh hôm sớm, giải dầu #Thungdung
Rượu bia thuốc lá chẳng màng
Chính liêm cần kiệm không phiền lụy ai
Thảnh thơi nắng sớm mưa mai
Giúp con, dạy cháu, khuyến ai cần mình
An nhàn, đức độ, công minh
Tìm lành, lánh dữ, hoàng thành  HƯU TU.

Về hưu việc cứ lu bù
Kiệm cần vẫn quý từng xu, từng đồng
Làm thêm đâu phải buồn lòng
Mà quen lao động thong dong tối ngày
Người thân đùa bảo đi cày
Vì không lười được, hưu này HƯU TRÂU.

Về hưu chẳng thiết đi đâu
Nấu cơm, dạy cháu, nhặt rau, quét nhà
Giúp con, khuyến học, trông già
Kiêm luôn bảo vệ coi nhà, giữ xe  
Chẳng màng điều tiếng khen chê  
Vui làm HƯU CHÓ vợ thuê việc nhà

Về hưu vẫn rộng đường xa
Lưng còn lấm đất đâu là HƯU NON.
Chẳng hề lạc lối làm ăn
Cơ may thời vận khó khăn nghiệp mình
Mới hay đá nát ngọc lành
Nhân duyên tiền định trời dành phận cho.

Về hưu lẫn thẩn làm thơ
Thiên cơ nhân quả cứ ngờ rằng hay
Mã tiền khóa luận đúng sai
Đức năng thắng số vui say việc đời
Trần Đoàn thỏa chí rong chơi
Thênh thênh bạn quý ấy thời HƯU HÂM

Cuộc đời thoáng chốc trăm năm
Đồng dao người lớn tri âm thành vè:

“Ai ơi lẳng lặng mà nghe
Dữ răn việc trước, lành dè thân sau” (7).

“Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời hiếu hạnh làm câu trau mình” (3):

“Lênh đênh qua cửa Thần Phù
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm” (1)
 
“Trai khôn thì được vợ chiều
Gái ngoan thì được chồng yêu suốt đời” (2).

“Nên thợ nên thầy nhờ có học
No ăn no mặc bởi hay làm” (4) .

“Dẫu có bạc vàng trăm vạn lượng
Không bằng kinh sử một vài pho”(5).

“Người trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây đức để đời mai sau
. (6)

xem tiếp: https://hoangkimlong.wordpress.com/tho-vui-nhung-ngay-nhan/

Những câu thơ trích dẫn : (1) (2) (6) Ca dao người Việt cổ; (3) (7) Nguyễn Đình Chiểu: (4) Nguyễn Trãi; (5) Lê Quý Đôn

ĐỨC TIN
Hoàng Kim

Bảy mươi học tám mốt
Đức tin hơn niềm tin
Lá vàng ôm ấm cội
Thăm thẳm một tấm nhìn


Lev Tonstoy năm kiệt tác Lev Tolstoy (1828 – 1910) tám mươi mốt tuổi là nhà hiền triết và đại văn hào Nga danh tiếng bậc nhất lịch sử nhân loại với năm kiệt tác lắng đọng mãi với thời gian: 1) Chiến tranh và Hòa bình, 2) Ana Karenina, 3) Phục sinh; 4) Đường sống; 5) Suy niệm mỗi ngày. Riêng hai tác phẩm Đường sống và Suy niệm mỗi ngày / Minh triết cho mỗi ngày (Wise Thoughts for Every Day) được coi là hai công trình trọng yếu cuối cùng của Lev Tonstoy và ông đã xem nó là đóng góp quan trọng nhất của ông cho nhân loại…. Lev Tonstoy khuyên chúng ta về ĐỨC TIN. “Hãy luôn luôn hạnh phúc và sung sướng”  hãy  tuân theo quy luật của sự thiện và luôn nhớ câu cách ngôn cổ của người Do Thái: “Linh hồn của một người là ngọn đèn của Thượng đế“.  Minh triết cho mỗi ngày là một kho tàng minh triết tinh túy. Lev Tonstoy dùng chữ “Đức tin” hay hơn và sâu sắc hơn “niềm tin”,

NIỀM TIN
Van Nguyen

Ngày mai đi xa
em gửi niềm tin ở lại quê nhà
sao em không gửi vào chùa
Ba Vàng, Tam Chúc, Bái Đính
những ngôi chùa đại gia

Đất nước luôn biết ơn
sao em không gửi niềm tin
vào những tượng đài
xây bằng đá, xi măng, cốt thép
vĩnh cửu bền đẹp với thời gian

Sao em lại gửi niềm tin
vào những chiếc lá
niềm tin bé nhỏ
chiếc lá màu xanh
dưới rặng cây
có ngôi nhà mẹ ở

Tượng đài cao to dễ đổ
Chùa rộng phật tử đi nhầm
Mùa thu lá rụng
Anh thành người nhặt lá cho em…

(*) Bài ĐỨC TIN là sự tiếp nối và bàn luận về NIỀM TIN (Kim Notes lắng ghi chú) xem tiếp Lev Tonstoy năm kiệt tác https://hoangkimlong.wordpress.com/category/lev-tonstoy-nam-kiet-tac/ và Thơ vui những ngày nhàn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tho-vui-nhung-ngay-nhan Chuyện đồng dao cho em https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-dong-dao-cho-em

CHUYỆN ĐỒNG DAO CHO EM
Hoàng Kim


Nếu giọt nước rơi xuống hồ nó sẽ biến mất, nhưng nếu rơi xuống lá sen , nó sẽ tỏa sáng như một viên ngọc. Đời người cũng như giọt nước rơi, ở với ai mới là điều quan trọng.

HOA ĐẤT THƯƠNG LỜI HIỀN
Hoàng Kim

1

Ta vui đếm nhịp thời gian
Thung dung nhàn giữa gian nan đời thường.

Mẫu Phương Nam Tao Đàn
Đường Huyền Trân Công Chúa
Nam tiến của người Việt
Hoa Đất thương lời hiền

2

Người ta hoa đất
An nhàn vô sự là tiên
Thung dung cỏ hoa
Thế giới người hiền

Điền trúc măng ngon
Hôm qua chăm mai
Sớm nay hái nấm
Chiều về thu măng.

Thung dung thanh nhàn
Sống giữa thiên nhiên
Đọc bài cho em
Vui cùng bạn quý

Đọc sách dọn vườn
Lánh chốn bon chen
Thảnh thơi cuộc đời
Chơi cùng hoa cỏ.

Xưa lên non Yên Tử
Mang lộc trúc về Nam
Nay đến chốn thung dung
Vui nhởn nhơ hái nấm.

Ơn Thầy Ơn Bạn
Lộc xuân cuộc đời
Thung dung Hoa Lúa
Phúc hậu, an nhiên,

Minh triết, tận tâm
Hoa Người Hoa Đất
Làm ngọc cho đời
Đạo ẩn vô danh.

3

Mình là hoa của đất
Ươm mầm xanh cho đời.
Gieo yêu thương hi vọng
Gặt hái những niềm vui.

Thấm thoắt bao xuân qua
Cùng nhau từ thuở ấy
Lộc muộn ngày hôm nay
Nhớ buổi đầu gieo cấy.

Hàng trăm ngàn hec ta
Bội thu từ giống mới .
Nhìn bà con hân hoan
Đường trần vui quên mỏi.

4

Nhà Trần trong sử Việt
Lời dặn của Thánh Trần
Yên Tử Trần Nhân Tông
Chuyện cổ tích người lớn

Về với vùng văn hóa
Nhớ cụ Thái Kim Đỉnh
Nguyễn Du trăng huyền thoại
Trà sớm thương người hiền

Việt Nam con đường xanh

5

Sớm nào cũng dành nửa tiếng,
Thung dung đếm nhịp thời gian.
Thong thả chỉ thêu nên gấm,
An nhiên việc tốt cứ làm.
Thoáng chốc đường trần nhìn lại,
Thanh nhàn vô sụ là tiên

6

Điểm nhịp thời gian đầy bút mực
Thung dung năm tháng thảnh thơi nhàn
Đất cảm trời thương người mến đức
An nhiên thầy bạn quý bình an.

Ngày mới đầy yêu thương
Chuyện cũ chưa hề cũ
An nhiên nhàn nét bút
Thảnh thơi gieo đôi vần

xem tiếp Chuyện đồng dao cho em Hoa Đất thương lời hiền Phục sinh giữa tối sáng Tỉnh lặng với chính mình Vui đi dưới mặt trời Vui bước tới thảnh thơi Vui sống giữa thiên nhiên Đọc “Ngụ ngôn thời @” Mười năm ở Bạc Liêu Chuyện cổ tích người lớn

2017-11-01_YenTu

Ngày Hạnh Phúc đọc lại kinh Dịch và lời khuyên của Trạng Trình: “Căn bản học Dịch là phải biết tùy thời, hướng thiện và lạc quan. Tùy thời thì an nhàn, trái thời thì vất vả. Tùy thời mà vẫn giữ được trung chính.”

“Có nước nhỏ được biết đến nhờ những vũ khí hạt nhân tên lửa, trong khi thoát khỏi cảnh đói nghèo Việt Nam nhờ hạt gạo nhỏ nhoi. Có lẽ chiến tranh và đói khổ đe dọa đầu tiên mạnh mẽ nhất đến tính mạng và hạnh phúc con người. Việt Nam đã trải qua chiến tranh, nạn đói, vì vậy chúng ta cần có nhà bảo tàng riêng cho cây lúa và sản xuất lúa gạo. Vinh danh cây lúa và những người nông dân một nắng hai sương, nhiều người cho rằng là việc nên làm. Có lẽ ít cây trồng nào hy sinh, chịu đựng và cực khổ như cây lúa. Khi nắng hạn, lụt lội, khi bảo táp mưa sa cây lúa phải trần mình chịu đựng giữa bùn lầy. Để một ngày được hạt lúa vàng, hạt gạo trắng tinh dâng hiến cho con người…” (Đỗ Khắc Thịnh)

TIẾNG VIỆT LUNG LINH SÁNG
Hoàng Kim


Tiếng Việt lung linh sáng
Muốn sang thì bắc cầu kiều
Chuyện đồng dao cho em
Bài đồng dao huyền thoại

Ca dao Việt “Cày đồng”
Mãn Giác thơ “Hoa Mai”
Tiếng Việt lung linh sáng
Thơ Việt ngoài ngàn năm

Trần Khánh Dư “Bán than”
Phạm Ngũ Lão Thuật Hoài
Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn
Đặng Dung thơ Cảm hoài.

Dân ca truyền di sản
Ca dao lọc tinh hoa
Đầu tiên tới cuối cùng
Học ăn và học nói

xem tiếp Đọc 18 đường dẫn liên quan các mẫu chuyện văn hóa tại chuyên mục Tiếng Việt lung linh sáng https://hoangkimlong.wordpress.com/2022/02/20/tieng-viet-lung-linh-sang/

Cụ Nguyễn Quốc Toàn “mọt sách đền văn học, Lão Quán Lục Vân Tiên”, ngày 5 tháng 4 lúc 14:59 có bài viết DỊCH HAY PHÓNG TÁC ?? nguyên văn như sau:

1- Trong số ca dao Việt Nam nói về nghề nông và giá trị hạt gạo thì bài: “Cày đồng đang buổi ban trưa. Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày. Ai ơi! bưng bát cơm đầy. Dẻo thơm một hột, đắng cay muôn phần” có mặt trong nhiều tuyển tập, như: • Tục ngữ ca dao dân ca VIỆT NAM của Vũ Ngọc Phan (1). • Tục ngữ ca dao VIỆT NAM của Hồng Khánh – Kỳ Anh sưu tầm biên soạn (2), • Ca dao VIỆT NAM do Bích Hằng tuyển chọn (3). Các tác giả của ba tập sách trên tuyệt nhiên không có chú thích gì về bài ca dao đó, làm người đọc đinh ninh là ca dao Việt Nam. Nhà phê bình danh tiếng Hoài Thanh cũng yên trí “đó là một trong những bài ca dao hay nhất của xứ ta từ trước” (4).***

2- Thực ra bài ca dao “Cày đồng đang buổi ban trưa…” là của Tàu, chưa rõ ai là tác giả. Một số bảo của Lí Thân, (李紳,772 – 846) người Vô Tích tỉnh Giang Tô, số khác cho là của Nhiếp Di Trung (聶夷中, 837 – 884) người Hà Đông. Có điều lạ, trong “Toàn Đường thi” (全唐詩) (5) bốn câu trên được xếp vào ngũ ngôn tứ tuyệt vừa để ở mục Nhiếp Di Trung vừa để ở mục Lí Thân. ***

3- Tui tìm thấy bản chữ Hán bài ca dao trên trong bộ “Đường thi tuyển dịch” của ông Lê Nguyễn Lưu gồm hai tập, kê cứu 1409 bài thơ của 173 nhà thơ Tàu. Lí Thân ở trang 1097, với hai bài thơ Cổ phong kỳ1 và Cổ phong kỳ kỳ 2. Dưới đây là bài Cổ phong kỳ 1 tui đang bàn tới 古風其一鋤禾日當午汗滴禾下土誰知 盤中餐粒粒 皆辛苦* Phiên âm Thơ Cổ phong Bài 1 Sừ hòa nhật đương ngọ Hãn trích hòa hạ thổ Thùy tri bàn trung xan Lạp lạp giai tân khổ *** Ông Lê Nguyễn Lưu dịch xuôi:Cày xới lúa đang lúc giữa trưa Mồ hôi giọt xuống đất dưới cây lúa Ai nghỉ đến bữa cơm dọn trong mâm Mỗi hột đều chứa nỗi đắng cay gian khổ Và ông Lưu dịch thơ:Cấy lúa giữa ban trưa Mồ hôi ngoài ruộng đổ Ai hay một bát cơm Hạt hạt đầy tân khổ*** Để thấy dịch giả Lê Nguyễn Lưu vừa lúng túng vừa tiền hậu bất nhất trong cách dịch của mình, tui phân tích hai chữ sừ (鋤) và hòa (禾) trong câu thứ nhất “sừ hòa nhật đương ngọ”.- Sừ (鋤) có hai trạng thái diễn đạt. Khi là danh từ, sừ (鋤) chỉ cái cuốc. Ví dụ Nguyễn Trãi nói với bạn là Hữu Nhân: 他年淽溪約, 短笠荷春鋤 : “Tha niên Nhị Khê ước, Đoản lạp hạ xuân sừ”, nghĩa là: Năm nào hẹn về Nhị Khê đội nón lá, vác cuốc đi làm vụ xuân”. Khi là động từ, sừ (鋤) chỉ sự cuốc, như cuốc đất cuốc cỏ.- Hòa (禾) là lúa chưa tuốt ra khỏi bông, chưa cắt ra khỏi rơm rạ. Kinh thi có câu: Thập nguyệt nạp hòa giá 十月納禾稼 Tháng mười thu vào thóc lúa.*** Nếu căn cứ vào tự dạng chữ Hán thì sừ hòa (鋤禾) phải dịch là cuốc lúa, nhưng cuốc lúa là sự vô lý nên ông Lưu thay cuốc bằng “cày” và thêm vào chữ “xới” thành ra “cày xới lúa đang lúc giữa trưa”. Ý dịch giả là người nông dân cày xới cỏ giữa những hàng lúa. Điều đó dẫn đến sự thậm vô lý khác. Là lúa (禾=hòa) đã chắc hạt, đợi tuốt ra khỏi bông cớ sao còn phải cày cỏ. Khi dịch ra thơ, học giả Lê Nguyên Lưu tùy tiện bỏ cuốc lúa,cày lúa, mà gọi là “cấy lúa giữa ban trưa” ***

Một nông dân Việt (hoặc một nhà thông thái Việt) nào đó thấy “sừ hòa nhật đương ngọ” có cái gì đó không ổn, nên dựa vào ý thơ để sáng tác thành một tác phẩm khác theo thể thơ lục bát truyền thống Việt, ai đọc vào cũng hiểu và thuộc nằm lòng ngay.

Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thảnh hót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.***

Tiếc là cho đến nay chưa thấy một học giả nào tìm ra thân thế người phóng tác thiên tài đó. Chỉ biết là bốn câu ca dao trên đã thuộc về tài sản dân ca Việt Nam trong các tuyển tập. —————————–
(1) Nxb Khoa học xã hội Hà Nội 1971
(2) Nxb Đà Nẵng 2007
(3) Nxb Văn hóa Thông tin 2011
(4) http://www.thivien.net/viewwriting.php?ID=250
(5) huynhchuonghung.com
Bộ sách Đường thi tuyển dịch của Lê Nguyễn Lưu

Cụ Nguyễn Quốc Toàn còn nói thêm: Có một sự thực ta phải chấp nhận, hàng ngày ta nói và viết đã dùng đến 80% âm Hán Việt. May mắn là chúng ta vẫn là người Việt của nước Việt Nam.

Anh Ruc Hung có hai nhận xét xin được chép lại :

1. Bài ca dao “Cày đồng…” từ lâu đã được nhiều học giả, nhiều tờ báo, trang Web…trong nước cùng xác định là có nguồn gốc từ bài thơ Đường “Mẫn nông (憫農)” của Trung Quốc rồi bác ạ. Trước sau đã có rất nhiều bản dịch bài “Mẫn nông” sang tiếng Việt và tất cả các bản dịch này đều gắn với tên dịch giả, chỉ duy nhất bản dịch “Cày đồng…” phiên bản ca dao mà bác NQT đang bàn là khuyết danh mà thôi. Tuy nhiên, điều lạ lùng là vượt lên tất cả, chính bản dịch khuyết danh phiên bản ca dao này mới là bản được nhiều thế hệ người Việt biết đến và ngưỡng mộ nhất, thậm chí còn đinh ninh đó là sản phẩm cổ phong bản địa và quyết không rời nó, dù sau này nhiều người đã biết nguyên tác có nguồn gốc ngoại lai! Tại sao vậy? Đó là một câu chuyện dài…Hình dung rằng, bản dịch thoạt đầu được TRUYỀN KHẨU bằng TIẾNG VIỆT trong dân gian, trải thời gian, được nhiều thế hệ tác giả vô danh kế tiếp chỉnh sửa, gọt dũa, đồng sáng tạo theo phong cách dân gian mà thành bản dịch hoàn chỉnh hơn, rất THOÁT, rất HAY, rất THUẦN VIỆT so với nguyên tác. Khi người Việt chưa có chữ viết, cũng như bao tác phẩm sáng tạo dân gian khác, bài “Cày đồng…” tồn tại trong ký ức cộng đồng và TRUYỀN KHẨU trong nhân gian cho đến khi các nhà sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian bắt gặp/nghe được, ghi chép lại, văn bản hoá vào công trình sưu tầm, nghiên cứu của mình và từ đó bài “Cày đồng…” trở thành một đơn vị trong dòng văn học dân gian (văn học trước khi có chữ viết) Việt Nam. Thế nên, không thể, thậm chí không cần đi tìm tác giả bản dịch bài “Cày đồng…” nữa, bởi bài thơ đã được sáng tạo lại, được dân gian hoá.

2. Vì lý do lịch sử, lý do tiếp xúc, tiếp biến văn hoá, không riêng gì bài ca dao “Cày đồng…” mà còn nhiều thể loại văn học dân gian Việt Nam khác cũng ảnh hưởng văn học Trung Quốc, nhưng không ai đặt vấn đề xem xét lại, hoặc gỡ bỏ khỏi kho tàng văn học dân gian nước nhà, bởi nó đã được Việt hoá cao độ và ăn sâu vào đời sống văn học, văn hoá, giao tiếp của người Việt. Chẳng hạn như trong hệ thống thành ngữ Việt Nam có không ít thành ngữ Trung Quốc được dịch và dân gian hoá (Việt hoá) để dùng (mà các nhà nghiên cứu cho là tương đồng):- Y cẩm dạ hành / Áo gấm đi đêm.- Cô thụ bất thành lâm / Một cây làm chẳng nên non.- Diệp lạc quy căn / Lá rụng về cội.- Gia miếu bất linh / Bụt chùa nhà không thiêng- Bão noãn tư dâm dật / No cơm ấm cật dậm dật khắp nơi- Bất cộng đái thiên / Không đội trời chung-….

Hoàng Kim có một câu hỏi nghi vấn: “Sáng tác Việt hay dịch?” Ví như “Tết Việt và Tết Trung” là xuất phát từ “Tiết Lập Xuân” hướng chính Đông của Việt Thường La Bàn Việt.

Chuyện đồng dao cho em
ĂN CHÁO NÓI CÀN KHÔN
Hoàng Kim

Hai ông ăn cháo nói chuyện càn khôn (1)
Bánh đúc Chợ Đồn cháo ngon Đồng Hới
Minh sư Hưng Đạo thấu hiểu Khánh Dư
Nhớ chuyện Vân Tiên yêu thương Lão Quán
Binh thư yếu lược chọn tướng cực tài (2)
Bát quái tùy thời lời dẫn kiệt tác (3)
Lửa hương vẹn kiếp sắt đá bền gan (4)
Đá Đứng sông thiêng (5) Linh Giang Minh Lệ

Ghi chú
(1) Bán than
Trần Khánh Dư

Một gánh càn khôn quẩy tếch ngàn,
Hỏi chi bán đó, gửi rằng than.
Ít nhiều miễn được đồng tiền tốt,
Hơn thiệt nài bao gốc củi tàn.
Ở với lửa hương cho vẹn kiếp,
Thử xem sắt đá có bền gan.
Nghĩ mình lem luốc toan nghề khác,
Nhưng sợ trời kia lắm kẻ hàn.

Theo Đào Trung Kiên, chủ bút Thi Viện, bài thơ này tương truyền là của Trần Khánh Dư, song có người lại nói của một người đời chúa Nguyễn trong Nam.

Nguồn:
1. Trần Trung Viên, Văn đàn bảo giám, NXB Văn học, 2004
2. Trần Trọng Kim, Việt thi, NXB Tân Việt, 1949
3. Dương Quảng Hàm, Quốc văn trích diễm: Cao đẳng tiểu học độc bản, Kim Khuê ấn quán phát hành, 1928

(2) Lời dặn của Thánh Trần: Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn mất ngày 20 tháng 8 âm lịch năm 1300. Người được dân Việt tôn kính gọi là Đức Thánh Trần và thường dâng lễ tạ ơn sớm từ 20 tháng 8 dương lịch đến ngày lễ chính. Vua Trần Anh Tông lúc Đức Thánh Trần sắp lâm chung có ân cần ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: “Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?”. Đức Thánh Trần trả lời: “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy”. Nguyên văn: “Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã (vườn không nhà trống), đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy” * (Đại Việt sử ký toàn thư tập 2 trang 76 -77). Tám hạng tướng và bậc đại tướng theo Binh thư yếu lược có nhân tướng, nghĩa tướng, lễ tướng, trí tướng, tín tướng, bộ tướng, kỵ tướng, mãnh tướng, đại tướng. Bậc đại tướng là người bao trùm và vượt hẳn tám hạng tướng kể trên, gặp hiền tài thì tôn trọng lắng nghe, biết tỏ ý mình không theo kịp người, biết nghe lời can ngăn như thuận theo dòng nước, lòng rộng rãi nhưng chí cương quyết, giản dị và nhiều mưu kế.” Trần Khánh Dư là tướng rất giỏi theo Lịch triều hiến chương loại chí thì ông được Trần Thánh Tông nhận làm Thiên tử nghĩa nam nhưng lại vướng phải vụ án gian dâm với Thiên Thụy công chúa là vợ Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, con trai Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Trần Khánh Dư được Trần Quốc Tuấn giao làm đại tướng. giữ chức phó đô thống tướng của ông.

(3) Vạn Kiếp tông bí truyền thư (萬劫宗秘傳書) của Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương, tác phẩm này còn gọi là Vạn Kiếp binh thư đã thất truyền. Bài tựa của Trần Khánh Dư trong cuốn sách này giải thích bí truyền đại sư là người thế nào:“Phàm người khéo cầm quân thì không cần bày trận, khéo bày trận thì không cần giao chiến, khéo giao chiến thì không thể thất bại, khéo thất bại thì không thương vong. Xưa kia, Cao Dao làm chức sĩ sư mà mọi người không dám trái mệnh, Văn Vương và Vũ Vương nhà Chu là bậc thầy về văn và về võ, ngấm ngầm sửa đức để khuynh loát quyền bính của nhà Thương mà lấy nghiệp vương. Đó đều có thể gọi là những người giỏi cầm quân, không cần bày trận vậy. Vua Thuấn múa lá mộc và lông trĩ mà họ Hữu Miêu tự mình tìm đến, Tôn Vũ nước Ngô đem mỹ nhân trong cung thử tập trận mà phía tây phá nước Sở hùng cường, phía Bắc ra uy với nước Tần nước Tấn, nổi tiếng khắp chư hầu. Đó đều có thể gọi là những người giỏi bày trận, không cần giao chiến vậy. Cho đến Mã Ngập nước Tấn dựa vào bát trận đồ chuyển đánh nghìn dặm, phá được Thụ Cơ Năng mà lấy lại Lương Châu. Thế gọi là người giỏi giao chiến không bao giờ thất bại vậy.Cho nên, trận nghĩa là bày ra, là khéo léo. Ngày xưa, vua Hiên Viên lập ra phép “tỉnh điền” để đặt binh chế, Gia Cát Lượng xếp đá bên sông để làm bát trận, Vệ công sửa lại làm trận Lục Hoa, Hoàn Ôn định ra trận Xà Thế, trước sau đều có trận đồ nổi tiếng, trình bày tuần tự, thành phép tắc rõ ràng. Nhưng người đương thời ít ai thông hiểu, muôn vàn đầu mối nhìn vào dường như rối loạn, chưa từng nắm được lẽ biến dịch bên trong. Ví như những phép tắc và suy luận của Lý Thuyên, người sau không ai hiểu nghĩa là gì. Vì thế, Quốc công ta bèn so sánh, kê cứu trận đồ và binh pháp của các nhà, tổng hợp lại thành một bộ sách. Tuy chép cả những điều chi tiết, nhưng người sử dụng thì nên bỏ bớt những chỗ rườm, tóm lấy thực chất. Rồi lấy năm hành ứng với nhau, chín cung câu với nhau, phối hợp cương và nhu, xoay vần chẵn và lẽ, không làm hỗn loạn âm dương và thần sát, phương lợi và sao tốt, hung thần và ác tướng, ba cát và năm hung, việc nào việc ấy thực phân minh rõ rệt. Quốc công lại còn thêm bớt với chiến thuật của thời Tam đại, nhờ đó trăm trận trăm thắng. Cho nên đương thời phía bắc làm cho Hung Nô phải sợ, phía tây làm cho Lâm Ấp phải kinh. Rồi ông đem sách này dạy bảo con em làm gia truyền, không tiết lộ cho người ngoài biết. Lại có lời dặn rằng: “Sau này con cháu và bề tôi phò tá của ta có học được bí thuật này thì nên lấy đầu óc sáng suốt, linh hoạt mà thực hành và sắp đặt nó, chứ không nên lấy đầu óc cứng nhắc, tối tăm mà cất giữ và lưu truyền. Nếu trái điều đó thì sẽ mang vạ vào thân, lại hại lây đến cả con cháu. Đó gọi là tiết lậu cơ trời vậy.”Bài tựa của Trần Khánh Dư cho Vạn Kiếp tông bí truyền thư, còn như sách Binh thư yếu lược mà người đời ngờ rằng bản thật đã bị cướp và thất lạc, đời sau chỉ có chân truyền lời này.

(4) Trần Khánh Dư được Trần Quốc Tuấn giao làm đại tướng. giữ chức phó đô thống tướng của ông. “lửa hương vẹn kiếp’ “sắt đá bền gan” là thơ viết ý này. Lời dặn của Thánh Trần trích dẫn phép CHỌN TƯỚNG của Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn:

Tám hạng tướng và bậc đại tướng

Nhân tướng là người dùng đức để đem đường cho người, dùng lễ để xếp việc cho họ, hiểu thấu sự đói rét của người dưới, biết rõ khó nhọc của đồng sự, đó là nhân tướng.

Nghĩa tướng là người làm việc không cẩu thả, thấy lợi mà không tham, biết chết vinh hơn sống nhục.

Lễ tướng là người có địa vị cao quý mà không kiêu căng, công hơn người mà không cậy, tài năng mà biết hạ mình, cứng cỏi mà biết nhẫn nhịn.

Trí tướng là người gặp biến bất ngờ mà chí không đổi, ứng phó linh hoạt với việc khó khăn, có thể đổi họa thành phúc, gặp cơn nguy biến mà sắp đặt thành thắng thế.

Tín tướng là người thưởng phạt nghiêm minh công bằng, khen thưởng không chậm trễ và không bỏ sót, trừng phạt không buông tha cho kẻ cao quý.

Bộ tướng thủ hạ của đại tướng phải chọn người tay chân lẹ làng, võ nghệ tuyệt luân,  giỏi đánh gần, ứng biến di chuyển mau lẹ, để bảo vệ an toàn cao nhất cho chủ soái.

Kỵ tướng là người có thể vượt núi non cheo leo, từng trải việc nguy hiểm, cưỡi ngựa bắn tên mau lẹ như chim bay, tới thì đi trước, lui thì về sau.

Mãnh tướng là người khí thế vượt hẳn ba quân, dám coi thường địch mạnh, gặp đánh nhỏ vẫn luôn cẩn trọng, gặp đánh lớn thì can đảm quả quyết.

Bậc đại tướng là người bao trùm và vượt hẳn tám hạng tướng kể trên, gặp hiền tài thì tôn trọng lắng nghe, biết tỏ ý mình không theo kịp người, biết nghe lời can ngăn như thuận theo dòng nước, lòng rộng rãi nhưng chí cương quyết, giản dị và nhiều mưu kế.”

(5) Đá Đứng chốn sông thiêng Hoàng Kim Con về Đá Đứng Rào Nan / Cồn Dưa Minh Lệ của làng quê hương/ Linh Giang chảy giữa vô thường / Đôi bờ thăm thẳm nối đường tử sinh. Đá Đứng chốn sông thiêng tại Làng Minh Lệ quê tôi ở Nam Sông Gianh cùng với Thiên Thụ Sơn ở Huế và Núi Đá Bia Phú Yên và Văn Miếu Trấn Biên Đồng Nai với Thiên Cấm Sơn An Giang là năm dấu ấn Nam Tiến của người Việt để thống nhất giang sơn về một mối. Đá Đứng chốn sông thiêng có câu chuyện ông già mù Cao Hạ đã khuyên tôi đổi tên từ Hoàng Minh Kim sang Hoàng Kim. Ông đến nhà tôi để đền ơn cha mẹ tôi đã cứu vớt con ông. Sau này cha mẹ tôi mất sớm “không được hưởng lộc con” (mà chỉ theo con che chở cho con lập nghiệp phương xa) và gia đình tôi đang êm ấm trở nên lưu tán không nhà, đúng như “Hoành Linh vô gia huynh đệ tán”. Tôi đã lần lượt chép lại, để tiện theo dõi mời lần lượt đọc năm mục từ: 1) Làng Minh Lệ quê tôi; 2) Linh Giang Đình Minh Lệ; 3) Đứng chốn sông thiêng; Đợi nắng; Ta về với Linh Giang; Hoa Đất, Đất Mẹ vùng di sản; Nguồn Son nối Phong Nha; 4) Đất Mẹ vùng di sản; 5) Đá Đứng chốn sông thiêng; (tiếp theo kỳ trước).

Bạn Hoàng Minh Thuần ở TU Bình Thuận trao đổi tổng quát: Dạ anh. Em cũng nghĩ khai thác được tour du lịch sông nước kết hơp thắng cảnh từ Cầu sông Gianh lên Ba Đồn, Chợ Mới, bến Lội đền Bốn Miếu, bến chợ Troóc, Phong Nha – Kẽ Bàng, động Thiên Đường, động Sơn Đoòng chẳng khác gì thắng cảnh TRÀNG AN… là điều kiện thuận lợi để quê mình phát triển.

(Tôi xin kể tiếp)
– Không phải ngẫu nhiên mà Pháp chọn Đà Nẵng làm điểm khởi đầu trong kế hoạch đánh chiếm Việt Nam đâu. Có lý cả đấy ! Vì Kinh đô Huế nằm ở Bắc Hải Vân mà thế và lực với sự thông thuộc của Nhà Nguyễn chính là đất phương Nam trong khi Hoành Sơn Linh Giang Lũy Thầy lại là tuyến ba tầng thủ hiểm che chắn Kinh đô Huế ở mặt Bắc nên Pháp không chọn đánh Thanh Khê đó thôi

– Nhưng Linh Giang chính là hiểm địa, bẻ đôi Việt Nam. Ông già mù nói. Cụ nói đúng, Bố tôi lập tức nhỏm dậy. Vì tôi đã bị bắt đi đi lính Pháp để đưa sang đánh nhau bên Tây, đóng quân ở Đà Nẵng bên sông Hàn, sau đó tôi trốn theo Vệ Quốc Đoàn nên rất thông thuộc địa hình đó. Pháp nếu đứng chân được ở Đà Nẵng thì chẹn được mặt Nam, cô lập kinh thành Huế, mẹo ‘đánh rắn giập đầu’ rất mau thắng được dân Nam..

– Trận Đà Nẵng năm 1857 tụi Pháp thua. Cha tôi nói. – Vì tướng Nguyễn Tri Phương giỏi cầm quân, Ông ấy tránh đánh trực diện mà dùng phục binh, lập kế ‘đóng cửa đánh chó’ làm “vườn không, nhà trống” triệt hết đường tiếp tế của địch, cách ly và xử nghiêm tụi gián điệp đội lốt giáo sĩ, giáo dân. Ông lại cho đắp lũy kiểu như Lũy Thầy, bao vây chẹn họng địch ra biển, vây đánh trường kỳ không cần thắng nhanh, nên trận Đà Nẵng bên mình thắng Pháp phải chuyển vào đánh thành Gia Định, chiếm dần đất đai của mình từ phương Nam theo kiểu tằm ăn lá dâu.

– Ông giỏi sử thiệt. Cụ già khen.

– Tôi ít học nhưng rất thích đọc sách Tam Quốc. Cha tôi nói : – Tôi thông gia với ông mẹt Rịnh thường kêu thằng Kim đọc sách Tam Quốc cho tôi và ông Rịnh nghe. Hôm nào ông Rịnh hoặc ông Thìn đến chơi, tôi không khi nào không kêu thằng Kim đọc sách Tam Quốc và sách Kiều, đến mức nó thuộc và kể được đấy. Mẹ nó thì mê nhất Lục Vân Tiên kế đến Kiều và Phạm Công Cúc Hoa.

– Cháu đọc cho ông nghe một đoạn nào? Cụ già nói.Tôi ngước mắt nhìn Mẹ, Mẹ tôi cười khuyến khích: – Con đọc đi

Tôi đọc đoạn ông quán trong thơ Lục Vân Tiên mà mẹ thích:

– Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hán mạt, đã đành phôi pha.
Thương thầy Đồng tử cao xa,
Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.

Thương người Nguyên Lượng bùi ngùi,
Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
Thương ông Hàn Dũ chẳng may,
Sớm dâng lời biểu tối đày đi xa.

Thương thầy Liêm Lạc đã ra,
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.

– Địch đánh vô Thanh Khê cửa Hác không dễ. Bố tôi miên man kể. Ông nhớ thời lính tráng của ông: – Tôi dự nhiều trân đánh Pháp cùng thời và cùng đơn vị với Lâm Úy. Tôi ở đại đội 2 tiểu đoàn 274 của ông Lê Văn Tri làm tiểu đoàn trưởng thuộc Trung đoàn 18. Tôi vô sinh ra tử nhiều trận cùng anh em. Chỉ tiếc là đến năm 1951 bị đau bệnh sốt rét phù thủng ngã nước quá yếu trong khi đơn vị thiếu thốn thuốc men chữa trị và điều kiện chăm sóc nên trên mới phải cho giải ngũ về quê. Nếu không thì tôi đến nay đã nhất xanh cỏ nhì đỏ ngực rồi.

– Ông Lê Văn Tri là người Cao Hạ cùng làng với tôi. Sau này ông làm tướng rất to Cụ gìa nói

– Trân Phú Trịch Là Hà, địa thế và cách dàn quân hai bên cũng lựa thế hiểm yếu như là trận Bạch Đằng. Voi trận của Đức Thánh Trần sa lầy ở Sông Hóa. Các trận địa phục kích cũng là các cồn tại các ngả ba sông hiểm yếu như Chợ Mới, La Hà Phú Trịch vậy. Lời thề trên sông Hóa “Chuyến đi này không thắng, ta thề không về lại nơi này!” của đức Thánh Trần cũng như lời thề quyết tử chiến của đội cảm tử 15 trận Phú Trịch La Hà đã chết như voi trận của đức Thánh Trần chết vậy. Cha tôi nói

– Đá Đứng chốn sông thiêng Cầu Minh Lệ Rào Nan Bến Lội Đền Bốn Miếu là nơi rất rất hiểm. Ông già lại xuống giọng thầm thì. Ngã ba sông Chợ Mới là hiểm địa. Đá Đứng chốn sông thiêng là rất rất hiểm địa. Ông có biết vì sao đối diện Bến Lội Đền Bốn Miếu là động Ma Ca không? Thiêng lắm đấy, vì có quá nhiều người chết. Đây là nơi chính phân tranh từ nhiều đời. Thời Cao Vương lập đá Đứng bỏ bút thần. Thời Núi Đá Bia ngón tay minh sư thệ trời xanh bước qua lời nguyền chia cắt đấy. Giá máu xương cao lắm ! Chỗ cao giá hiểm nguy. Cụ già lặp lại.

Cụ già quay sang tôi, bắt tôi nhắc lại mấy lời khẩu quyết. Cao cát Mạc sơn / Sơn Hà Cảnh Thổ / Văn Võ Cổ Kim / Linh Giang thông đại hải / Ngũ Lĩnh tiếp Cao Sơn / Đình Bảng Cao Lao Hạ / Miếu cổ thủy sơn thần./ …. Mắt ông rất thành khẩn. Hốc mắt ông dường như có nước mắt. Người ông khoan thai thần bí và trầm tĩnh lạ lùng.

Tôi cẩn thận lặp lại. Cha mẹ tôi im nghe và tỏ vẻ khuyến khích con.

Cụ già nói chậm rãi: Ông bà thay tên cho ’em’ đi: Hoàng Kim tốt hơn Hoàng Minh Kim. Ông tánh trung trực nghĩa khí, bà tánh đức độ, hiền từ, nhà có phước đức, sẽ thành dòng họ lớn ở phương xa, con cháu có quý tử, nhưng ông bà không được hưởng lộc con, mà theo con hưởng phúc và bảo bọc che chở cho con cháu.Cụ già dặn tôi “làm vàng ròng, ngọc cho đời, nên bớt sáng”. Đây là chuyện lạ của lời dặn thứ ba. Chuyện lạ đến mức anh hai Hoàng Ngọc Dộ đã quyết chọn Hoàng Kim làm tên gọi cho em từ lớp 10 sau khi cha mẹ mất và toàn gia lưu tán.Tôi mồ cha mẹ từ nhỏ mất sớm. Thầy Nguyễn Khoa Tịnh khóc trên bục giảng Thầy tăng tôi cuốn sách Trần Hưng Đạo Binh Thư Yếu Lược với lời đề tặng từ tuổi thơ để tôi lưu lại Lời dặn của Thánh Trần và thầy viết bài thơ Em ơi em can đảm bước chân lên lưu những bài thơ tuổi thơ của chính tôi cho tôi. Tôi được anh trai Hoàng Ngọc Dộ và chị gái Hoàng Thị Huyền bảo bọc cưu mang từ nhỏ khi cha mẹ mất sớm, chị gái Hoàng Thị Huyên đã lấy chồng và anh trai Hoàng Trung Trực dấu chân người lính, bom đạn giữa chiến trường, Tôi gạt nước mắt ra đi, thề trước mộ cha mẹ theo Lời dặn của Thánh Trần với Lời thề trên sông Hóa. Thật xúc động ngày về quê tảo mộ tổ tiên Quảng Bình đất Mẹ ơn Người, trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ “

Thơ Đồng dao  thể thơ có nhịp đồng dao, với vần điệu vui tai, ẩn chứa giá trị giáo dục bình dân mà sâu sắc Nhiều minh sư khéo vận dụng lối diễn đạt này qua các tích cổ dân gian …

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là trang-ram-2.jpg

TRĂNG RẰM
Hoàng Kim

Trăng sáng lung linh, trăng sáng quá!
Đất trời lồng lộng một màu trăng
Dẫu đêm khuya vắng người quên ngắm
Trăng vẫn là trăng, trăng vẫn rằm.

*

Đêm muộn
trăng rằm xuân thật sáng
ánh vàng đầy trời xanh
ta thì quen tháng nhớ
người vẫn lạ năm chờ
bài ca nhịp thời gian gõ cửa.

Đông qua là xuân tới
ngại chi đêm trở lạnh
lo chi ngày việc nhiều
biết nợ duyên nhân quả trời tạo nghiệp
hiểu chí thiện phước đức đất nuôi bền
đường xuân khát khao xanh

Vui đi dưới mặt trời
Bài ca nhịp thời gian

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/trang-ram/

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nho-anh.jpg

NHỚ ANH
Hoàng Kim


Gốc mai vàng trước ngõ.
Trăng rằm lại nhớ anh.
Cành mai rung rinh quả.
Xuân sang lộc biếc cành.

Bài ca nhịp thời gian Run away with me https://youtu.be/_Bs4XcVufqY xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/trang-ram-sen-tay-ho/

CHUYỆN ĐỒNG DAO CHO EM
Hoàng Kim


Chủ tịch Hồ Chí Minh từ thời là Nguyễn Ái Quốc Đường Kách mệnh năm 1927 đã viết Tư cách một người cách mệnh: Tự mình phải: Cần kiệm. Hoà mà không tư. Cả quyết sửa lỗi mình. Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay nghiên cứu, xem xét. Vị công vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm. Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng ham muốn về vật chất. Bí mật. Đối người phải: Với từng người thì khoan thứ. Với đoàn thể thì nghiêm. Có lòng bày vẽ cho người. Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người. Làm việc phải: Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng cảm. Phục tùng đoàn thể.

5 điều Bác Hồ dạy thiếu niên nhi đồng là “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào Học tập tốt, lao động tốt Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt  Giữ gìn vệ sinh thật tốt, Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm”. Bài này của Bác là nhân Lễ kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Đội Thiếu niên Tiền phong Việt Nam năm 1961, và được hoàn thiện thành sổ giải thưởng cháu ngoan Bác Hồ để thưởng

DẤU XƯA VÀ BẠN QUÝ
Đầy đặn niềm tin yêu

“Tay nâng hòn đất lặng yên
để nguyên là đất, cất nên là nhà”
Nguyễn Duy cát trắng bụi
Chuyện đồng dao cho em.

Chúc mừng Lễ ký kết hợp đồng dự án “Trung tâm học tập và phòng ngừa thảm họa ở xã Hồng Hạ, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế” do Chính phủ Nhật Bản (GGP) tài trợ Sáng ngày 11.03.2021, trường Đại học Nông Lâm (ĐHNL), Đại học Huế (ĐHH) cùng UBND xã Hồng Hạ, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế đã tham gia buổi lễ ký kết trực tuyến Dự án “Trung tâm học tập và phòng ngừa thảm họa ở xã Hồng Hạ, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế” được đề xuất trong khuôn khổ Chương trình viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Nhật Bản (GGP), thông qua Đại Sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam. Nguồn: Cổng Thông tin Diện tử Trường Đại học Nông Lâm Huế

Chào ngày mới tốt lành ! Chào ngày mới 11 tháng 3. Chuyện đồng dao cho em; Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/…/chao-ngay-moi-11-thang-3/ An Le Van Giáo sư tiến sĩ, cựu Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm Huế viết trên FB 11 3 2021 Ông YAMADA Takio Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Chính phủ Nhật Bản tại Việt Nam nói “ngày hôm nay cách đây 10 năm trước thảm hoạ động đất và sóng thần ở Nhật Bản đã cướp đi sinh mạng của rất nhiều người…”. Và hôm nay ngày 11/3/2021 Chính phủ Nhật Bản đã ký tài trợ cho xã Hồng Hạ, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế dự án “Trung tâm học tập và phòng ngừa thảm hoạ”. Đây là món quà rất cảm động, nhân văn và sâu sắc! Xin cảm ơn Ngài Đại sứ, Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam, văn phòng JICA Hà Nội và Đại học Kyoto.

An Le Van @ Kim Hoàng trưa qua ông Bí thư xã nhắc lại câu chuyện về cây sắn “kilomet 94”. Nay KM 94 vẫn là nguồn thu nhập chính của người dân ở đây đó anh.

Kim Hoàng@An Le Van DẤU XƯA VÀ BẠN QUÝ Các thầy cô chăn nuôi đã tham gia Chương trình Sắn Việt Nam (VNCP) với tính chất cộng đồng thật vui vẻ và tự nguyện, thanh thản và bình tâm, chẳng chút đắn đo, như thầy Dương Thanh Liêm, thầy Lưu Trọng Hiếu, thầy Trần Thế Thông, Thầy Bùi Xuân An, thầy Lê Văn An (nay là giáo sư Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm Huế), TS. Nguyễn Thị Hoa Lý, PGS.TS Lê Đức Ngoan (nay là phó Hiệu Trưởng Đại học Nông Lâm Huế, chuyên gia chăn nuôi nghiên cứu tiếp nối cụm công trình bột lá của thầy Dương Thanh Liêm về sử dụng sắn làm thức ăn gia súc)… Quý Thầy dấn thân làm ‘người trong cuộc’, cũng đứng báo cáo, cũng bò ra thảo luận (như thầy Lê Văn An ở hình trên đây) thật hòa đồng, nên mới có sự thấu hiểu sâu sắc đến vậy. Những kỷ niệm một thời không quên
xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-duong-thanh-liem/

DẤU XƯA VÀ BẠN QUÝ Kim Hoàng@ An Le Van, Trúc Mai cùng với Hoàng Kim và 15 người khác tại Huế ngày 5 Tháng 12, 2017 Ngày Hạnh Phúc của em là một ngày đặc biệt https://www.facebook.com/TrucMainaby/posts/1938762286139708 Hình ảnh này lắng đọng bài viết Chuyện đồng dao cho em, một sự đúc kết giáo dục và thực tiễn quý giá

ĐỜI NGƯỜI TRONG MẮT AI
Hoàng Kim

Đời người lúc thịnh lúc suy
Lúc khỏe lúc yếu lúc đi lúc dừng
Đắng cay chua ngọt đã từng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.

Ở đời nhân nghĩa làm đầu
Thủy chung sau trước tình sâu nghĩa bền
Học làm người việc đầu tiên
Hiếu trung phúc hậu đừng quên nối vần

“Lênh đênh qua cửa Thần Phù
Khéo tu thì nổi , vụng tu thì chìm”
“Người trồng cây hạnh mà chơi
Ta trồng cây đức để đời mai sau” (*)

(*) Ca dao cổ người Việt
Hoàng Kim (rút trong tập THƠ CHO CON)

đọc tiếp Chuyện đồng dao cho em https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-dong-dao-cho-em/

NGÀY HẠNH PHÚC CỦA EM
Hoàng Kim


Ngày Hạnh Phúc của em
Một niềm tin thắp lửa
Thầy bạn và đồng đội
Cha Mẹ và Quê hương.

Em đi chơi cùng Mẹ
Trăng rằm vui chơi giăng
Thảo thơm vui đầy đặn
Ân tình cùng nước non.
Ngày hạnh phúc của em

MỘT NIỀM TIN THẮP LỬA
Hoàng Kim


Nhìn đàn em ngời niềm vui rạng rỡ.
Chợt thấy lòng rưng rưng.
Công việc nghề nông cực mà hạnh phúc.
Cố lên em nổ lực không ngừng !

Hột mồ hôi lắng vào hạt gạo.
Câu ca ông bà theo suốt tháng năm.
Thêm bữa cơm ngon cho người lao động.
Nâng chén cơm thơm, qúy trọng người trồng.

Em ơi hãy học làm ruộng giỏi.
Nghề nông thời nào cũng quý kỹ năng.
Người dân khá hơn là niềm ao ước
Công việc này giao lại cho em.

Có một mùa Vu Lan hạnh phúc
Ơn mẹ cha lam lũ sớm hôm
Thương con vạc gọi sao Mai dậy sớm
Một niềm tin thắp lửa giữa tâm hồn.

Bước tiếp bước giữa trường đời gian khó
HỌC ĐỂ LÀM người lao động siêng năng
Rèn nhân cách vượt lên bao cám dỗ
Đức và Tài tử tế giữa Nhân Dân.

#Thungdung
Bạch Ngọc Hoàng Kim

Chuyện đồng dao cho em https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-dong-dao-cho-em/ Học làm người việc đầu tiên Hiếu trung phúc hậu đừng quên nối vần “Lênh đênh qua cửa Thần Phù Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm” “Chồng khôn thì được vợ chiều Vợ ngoan thì được chồng yêu suốt đời” “Người trồng cây hạnh mà chơi Ta trồng cây đức để đời mai sau” #Vietnamhoc thấm càng sâu #Thungdung hạnh phúc thấm câu ân tình

Bài viết mới trên DẠY VÀ HỌC
https://hoangkimvn.wordpress.com bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
KimYouTube

Mùa xuân đầu tiên (Văn Cao) -Thanh Thúy
Ban Mai; Chỉ tình yêu ở lại
Ngày hạnh phúc của em
Giúp bà con cải thiện mùa vụ
Quà tặng cuộc sống yêu thích
Kỷ yếu Khoa Nông Học 65 năm thành lập Khoa
Kỷ yếu 65 năm Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh
Kỷ niệm 65 năm Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh
Bài học quý giá biết chăm sóc sức khỏe
Secret Garden, Bí mật vườn thiêng 
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter


Thanh nhàn vui tháng năm

THANH NHÀN VUI THÁNG NĂM
Hoàng Kim

Đến tuổi an vui cụ Trạng Trình
#Thungdung vô sự chính thần tiên
Hưng nhà thịnh nước lơi lo nghĩ
Tăng gia phú quốc bớt ưu phiền
Phúc phận sướng thân vui hợp trẻ
Thiện lành nhàn hưởng thú #annhiên
Kết ngọc đường xuân đời quên tuổi
Vóc hạc ban mai nắng tỏa duyên

#Thungdung 568
#Dạyvàhọc Thanh nhàn vui tháng năm Đường xuân đời quên tuổi Giấc mơ lành yêu thương https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thanh-nhan-vui-thang-nam/

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nha-trang-va-yersin.jpg

HÒN BÀ SÔNG NHA TRANG
Hoàng Kim

#Thungdung 539

Sắn Việt Đất Ông Hoàng
Nha Trang và A. Yersin;
Huyền thoại xứ Trầm Hương
Báu vật nơi đất Việt

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hon-ba-song-nha-trang

SẮN LÚA Ở PHÚ KHÁNH
Kim Hoàng
#Thungdung KM537

Sắn lúa ở Phú Khánh
Sắn Việt Đất Ông Hoàng
Chuyện ngậm ngãi tìm trầm
Hòn Bà sông Nha Trang

Giống sắn KM397

Nguồn gốc: KM397 là con lai của SM937-26 xBKA900 [Mã số trong sơ đồ lai KM108-9-1 x KM219 là tổ hợp lai kép (SM937-26 x SM937-26) x (BKA900 x BKA900)] do nhóm nghiên cứu sắn Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hố Chí Minh (NLU) và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam (IAS) chon tạo và khảo nghiệm từ năm 2003 (Hoàng Kim và ctv 2009). Giống bố SM937-26 đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận giống năm 1995 (Hoàng Kim, Trần Ngọc Quyền, Võ Văn Tuấn và cộng sự, 1995). BKA900 là giống sắn ưu tú nhập nội từ Braxil có ưu điểm năng suất củ tươi rất cao nhưng chất lượng cây giống không thật tốt, khó giữ giống cho vụ sau. KM397 kết hợp được nhiều đặc tính quý của hai giống cha mẹ SM937-26 và BKA900.

Việc chọn giống sắn tốt dáp ứng yêu cầu tiêu dùng, sản xuất thị trường, thích hợp điều kiện sinh thái, vẫn đang tiếp tục

Lúa sắn ở Phú Khánh

Giai đoạn 1999 – 2009, TS. Đỗ Khắc Thịnh, TS Hoàng Kim cùng với một số chuyên gia lúa, sắn ở Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam có được giao thực hiện một số đề tài dự án nhỏ lúa sắn phối hợp với Trung tâm Khuyến nông tỉnh Phú Khánh. TS. Hoàng Kim đã có dịp mang một nguồn một số gen giống sắn đa dụng ngắn ngày, ăn ngọn, kháng bệnh, chịu hạn tới những nơi vùng sâu vùng xa dân cần thuộc địa bàn dự án cho vùng khó khăn, . Đất nước và con người nơi đây đã lưu giữ những trầm tích thời gian và kết quả chọn giống mãi đến ngày nay. Đó là Chuyện ngậm ngãi tìm trầm. Huyền thoại xứ Trầm Hương, Các giống sắn thử nghiệm thuở ấy ở Phú Khánh đã có năm quần thể giống gốc, chung phả hệ di truyền gồm (five families):1) KM537 (KM397, KM318, SM937-26, C39*. C39); 2) KM414 (KM325, KM101, SC5, SC205, XVP); 3) KM440 (KM228, KM94 đột biến ); 4) KM444, 5) KM419 . Sơ đồ phả hệ tiến bộ giống sắn Việt Nam (Hình 1). Sự chấp nhận giống sắn của nông dân trong phát triển sản xuất sắn tại địa phương có tại chi tiết thông tin các báo cáo kỹ thuật. Sự bảo tồn và phát triển giống sắn là kinh nghiệm thực tiễn phổ quát và đặc thù.

Hình 1: Sơ đồ phả hệ tiến bộ giống sắn Việt Na

Năm 1992 (trước đó bảy năm, tại địa bàn tỉnh Phú Khánh), chi Đinh Thị Dục, Giám đốc Trung tâm Khuyến Nông Phú Khánh đã mang hai giống sắn KM94 và SM937- 26 về khảo nghiệm và nhân giống tại Suối Dầu Phú Khánh Sắn Việt Đất Ông Hoàng, TS. Hoàng Kim là tác giả chính của hai giống sắn trên và là thư ký điều hành VNCP (chương trình sắn Việt Nam) đã theo chân đoàn khuyến nông lần đầu tới Khánh Vĩnh lối vào Hòn Bà. Năm 1995 giống sắn KM94 được công nhận là giống sắn đặc cách (Hoàng Kim, Trần Ngọc Quyền , Võ Văn Tuấn, Kazuo Kawano 1995). Giống sắn SM937-26 được công nhận là giống sắn sản xuất thử (Hoàng Kim, Trần Ngọc Quyền , Võ Văn Tuấn, Kazuo Kawano 1995) Sau đó Hai giống sắn này sau đó đã lan rộng khắp miền Trung. thành hai giống sắn chủ lực

Năm 1997 hại chuyên gia của CIAT là Kazuo Kawano và Reinhardt Howeler được nhận huân chương “Vì sự nghiệp phát triển nông nghiệp Việt Nam” Sắn Việt Đất Ông Hoàng https://hoangkimlong.wordpress.com/category/san-viet-dat-ong-hoang/. .

Năm 2017-2022 tiến sĩ Nguyễn Thành Phương, Viện KHKT duyên hải Nam Trung Bộ thực hiện đề tài “Một số giống cây trồng vật nuôi đạt hiệu quả kinh tế, phù hợp trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa, kết luận giống sắn SM937-26 là tốt nhất, đạt hiệu quả kinh tế, phù hợp trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa Giống sắn SM937-26 đáp ứng yêu cầu tiêu dùng, sản xuất thị trường, thích hợp điều kiện sinh thái Quá trình cải biến phả hệ giống gốc SM937-26 nay thành các giống sắn KM537, KM7, KM505, KM397, KM318 khác biệt tại bản tả kỹ thuât DUS và VCU

Dưới đây là tóm tắt nguồn gốcgiống, đặc tính giống của một số giống sắn

Giống sắn KM397
Nguồn gốc giống: KM397 là con lai của KM108-9-1 x KM219 là tổ hợp lai kép (SM937-26 x SM937-26) x (BKA900 x BKA900) do nhóm nghiên cứu sắn Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hố Chí Minh (NLU) và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam (IAS) chon tạo và khảo nghiệm từ năm 2003 (Hoàng Kim và ctv 2009). Giống bố SM937-26 đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận giống năm 1995 (Trần Ngọc Quyền và ctv, 1995). BKA900 là giống sắn ưu tú nhập nội từ Braxil có ưu điểm năng suất củ tươi rất cao nhưng chất lượng cây giống không thật tốt, khó giữ giống cho vụ sau. KM397 kết hợp được nhiều đặc tính quý của hai giống cha mẹ SM937-26 và BKA900.

Đặc điểm giống: KM397 có thân nâu tím, thẳng, nhặt mắt, không phân nhánh; lá xanh thẫm, ngọn xanh, củ đồng đều, dạng củ đẹp, thịt củ màu trắng, thích hợp xắt lát phơi khô và làm bột. Thời gian thu hoạch 8-10 tháng sau trồng, năng suất củ tươi 33,0 – 45,0 tấn/ha, hàm lượng tinh bột 27,5 – 29,6%, tỷ lệ sắn lát khô 42,5 – 44,3%, năng suất tinh bột 9,2- 13,5 tấn/ha, năng suất sắn lát khô 13,8 – 17,6 tấn/ ha. chỉ số thu hoạch 60 – 63,0%. Giống sắn KM397 chịu khô hạn tốt, rất ít nhiễm sâu bệnh, thời gian giữ bột tương đương KM94.

Giống sắn KM444
          
Nguồn gốc giống :KM444 còn có các tên khác là HL2004-28 và SVN7 do Viện Cây Lương thực Cây Thực phẩm tuyển chọn ban đầu từ tổ hợp lai (GM444-2 x GM444-2) x XVP của nhóm nghiên cứu sắn Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hố Chí Minh (NLU) và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam (IAS) lai hữu tính năm 2003.

Đặc điểm giống: KM444có gốc thân hơi cong, phân cành cao. Lá màu xanh đậm, ngọn xanh nhạt. Dạng củ đẹp, thịt củ màu trắng. Đặc điểm nổi bật của giống KM444 là rất ít nhiễm sâu bệnh. Năng suất củ tươi đạt 37,5 – 48,3 tấn/ha. Hàm lượng bột đạt 28,3- 29,2%.

Giống sắn KM414
Nguồn gốc: KM414 là con lai của tổ hợp KM146-7-2 x KM143-8-1, Sự tạo giống này là do nhu cầu cấp thiết của sản xuất phải đổi màu vàng thịt củ của giống sắn KM101 có tên gốc là CMR 29-56-101 nhập nội từ Thái Lan Theo Hoàng Kim và đồng sự 2006b [24] giống sắn KM101 có phiếu nhập giống số No 28885, nhập 3020 + 1982 hạt giống sắn từ CIAT Thái Lan. Nhóm chọn giống sắn do tiến sĩ Hoàng Kim chủ trì đề tài chọn giống sắn đã lai tạo KM101 x sắn Lá Tre x KM539* để tạo thành giống sắn KM325, thịt củ màu trắng, nhiễm nhẹ bệnh đốm nâu, bệnh cháy lá và nhện đỏ, sau này lại được hồi giao với giống sắn Lá Tre để trở thành giống sắn KM414 thích ứng rộng, ngày nay (Hình 1). Tổ hợp lai KM146-7-2 x KM143-8-1 có tích hợp và bồi dục gen mục tiêu KM98-1 và KM98-5 do nhóm nghiên cứu sắn Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hố Chí Minh (NLU) và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam (IAS) chon tạo và khảo nghiệm năm 2003 (Hoàng Kim và ctv, 2009). Hai giống sắn KM98-1 và KM98-5 đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT lần lượt công nhận giống năm 1999 và 2009 (Hoàng Kim và ctv, 1999; Trần Công Khanh và ctv, 2005). Giống sắn lai KM414 kết hợp được nhiều đặc tính quý của hai đầu dòng (elite clones) KM414a (KM98-1 làm mẹ) và KM414b (KM98-5 làm mẹ) nên phổ thích nghi rộng,trồng phổ biết ở vùng núi trung du phía Bắc và Duyên hải Bắc Trung Bộ .

Đặc điểm giống: KM414 hiện có KM414a (trên) và KM414b (dưới). Giống sắn KM414a người dân Tây Ninh thích giữ lại vì có nhiều đặc tính tốt: thích hợp làm sắn lát khô và làm bột. thân màu xám trắng, phân cành cao, lá xanh, ngọn xanh, củ to và đồng đều nhưng dạng củ không đều bằng giống KM419,   Năng suất củ tươi đạt 42,3 đến 52,3 tấn/ha; hàm lượng bột đạt 27,8 đến 29,5%.

Giống sắn KM414b có lá dạng hình lá tre tương tự giống KM325 nhưng dạng thân và dạng củ khác biệt rõ (hình). Giống sắn KM419b được nông dân Bình Thuận, Bình Phước, Đồng Nai ưa thích giữ lại qua các khảo nghiệm giống tác giả vì giống KM414b chín sớm năng suất cao  thân màu xanh nâu (phân biệt rõ với KM325 thân xám đậm), ít phân cành, lá xanh, ngọn xanh, phân thùy sâu, củ to nhưng dạng củ không đều bằng giống KM419,   Năng suất củ tươi đạt 44,3 đến 50,0 tấn/ha; hàm lượng bột đạt 26,8 đến 28,3%.

Giống sắn KM325
Nguồn gốc: KM325 là kết quả chọn dòng tự phối đời ba của tổ hợp lai SC5 x SC5 theo hướng tạo dòng đơn bội kép kỹ thuật CIAT do nhóm nghiên cứu sắn Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hố Chí Minh và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam chọn tạo và khảo nghiệm. Giống sắn SC5 do Học Viện Cây trồng Nhiệt Đới Nam Trung Quốc (SCATC) chọn từ tổ hợp lai ZM8625 x SC8013 công nhận giống quốc gia năm 2000. Hom giống được nhập nội vào Việt Nam từ Viện Nghiên cứu Cây trồng Cận Nhiệt đới Quảng Tây (GSCRI) năm 2002. SC8013 có nguồn gốc từ SC205 là giống sắn phổ biến nhất ở Trung Quốc hiện nay.

Đặc điểm giống: KM325 có thân nâu xám, nhặt mắt, phân nhánh cấp 1, lá xanh đậm, xẻ thùy sâu, ngọn xanh, củ hình dạng đẹp, đều; thịt củ màu trắng (dân gọi KM325 là Sắn Lá Tre xanh phân biệt với SC205 là Sắn Lá Tre cọng đỏ).

KM325 đạt năng suất củ tươi  27,0 -58,0 tấn/ha, hàm lượng tinh bột 26,2 – 27,6 %, tỷ lệ sắn lát khô 37,8 %, năng suất sắn lát khô 15,3 – 17,2 tấn/ha, nhiễm sâu bệnh nhẹ, chịu thâm canh, thích nghi sinh thái đất đỏ và đất xám Đông Nam Bộ, nhược điểm là hàm lượng tinh bột thấp và chất lượng cây giống không tốt bằng KM94, KM140.

Giống sắn KM228
Nguồn gốc: KM228 có tên khác là SVN4 và gần gũi nguồn gốc di truyền với KM440. Giống sắn KM228 là dòng đột biến chọn lọc từ 4000 hạt giống sắn KM94 đã qua chiếu xạ bằng nguồn Coban 60 trên hạt sắn khô do nhóm nghiên cứu sắn Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hố Chí Minh và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam tạo chọn và khảo nghiệm. Giống sắn KM94 đã được trồng thuần cách ly và thu được trên 24.000 hạt sắn khô, sử dụng 16.000 hạt để tuyển chọn 18 cây đầu dòng ưu tú mang ký hiệu KM440 (KM440-1 … KM440-18), dùng 4000 hạt chuyển cho CIAT và sử dụng 4000 hạt để chiếu xạ đột biến lý học, nguồn Co 60 liều xạ 6Kr trên hạt khô cây đầu dòng KM440B, ký hiệu KM228 = KM440B = KM94 ***.
( Xem thêm
Nguồn gốc một số giống sắn mới http://cayluongthuc.blogspot.com/2012/06/nguon-goc-mot-so-giong-san-moi.html )

cảm ơn bạn quý Đỗ Khắc Thịnh gợi chuyện cũ https://hoangkimlong.wordpress.com/category/san-viet-dat-ong-hoang/

CHUYỆN NGẬM NGÃI TÌM TRẦM
Kim Hoàng
#Thungdung 575

Sắn lúa ở Phú Khánh
Sắn Việt Đất Ông Hoàng
Đường xuân đời quên tuổi
Giấc mơ lành yêu thương

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-ngam-ngai-tim-tram/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/san-viet-dat-ong-hoang/

Phú Yên nôi lúa sắn
Giống sắn KM419 và KM440, nền tảng bảo tồn và phát triển
PHÚ YÊN GIẢI PHÁP SÁNG TẠO VÀ CÔNG NGHÊ GIỐNG SẮN
Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long, Nguyễn Đình Phú, Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Văn Minh và đồng sự.


Giống sắn KM568, KM539, KM440 đang thể hiện sự vượt trội trên ruộng sắn Đồng Xuân Phú Yên, hình ảnh và thông tin ngày 29 tháng 9 năm 2022. Đây là kết quả bước đầu của nội dung 1 “Nâng cấp cải tiến giống sắn chủ lực thương mại KM419, KM440 bằng cách hồi giao với KM539, KM537, KM534, KM94” thuộc nhiệm vụ khoa học thực tiễn cấp bách: ”Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên“; xem tiếp Bảo tồn và phát triển sắn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/ và Giống sắn KM419 và KM440 https://hoangkimlong.wordpress.com/category/giong-san-km419-va-km440 và Phú Yên nôi lúa sắn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/phu-yen-noi-lua-san/

SỰ THẬT TỐT HƠN NGÀN LỜI NÓI
Hoàng Kim

Việt Nam con đường xanh
Chung sức trên đường xuân
Vui đi dưới mặt trời
Sự thật tốt hơn ngàn lời nói
xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/su-that-tot-hon-ngan-loi-noi/

Giống sắn KM568 trên ruông nông dân Phú Yên (giữa) rất sạch bệnh khảm lá virus (CMD) và bệnh chồi rồng CWBD, bên trái phía sau là giống sắn chủ lực sản xuất KM419 cũ nhiều và đồng đều nhưng nhiễm bệnh CMD mức 3,5; bên phải phía sau là giống chủ lực thương mại KM440 kháng bệnh CMD cấp 2 và CWBD cấp 1,5. Giống sắn KM568 là kết quả đề tài nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất của tỉnh Phú Yên.

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/

CÁNH CÒ BAY TRONG MƠ
Hoàng Kim

#Thungdung 574

Cánh cò bay ở trong mơ
Em tôi bạc tóc bao giờ mới xanh
Vầng trăng tròn khuyết thác ghềnh
Gieo lành gật thiện trời dành phận cho.
.
#Thungdung https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thungdung/

573

Cánh cò ông Noel
vầng trăng mẹ hiền
mang đến cho em
giấc mơ hạnh phúc

khi ban mai tỉnh thức
mọc sớm sao tình yêu
thăm thẳm giữa tâm hồn
Cánh cò bay trong mơ …

Cánh cò bay trong mơ
Ca dao em và tôi
Bảng lãng cánh cò
Bay giữa nhân gian.

Con cò đi đón cơn mưa
Tối tăm mù mịt ai đưa cò về

bâng khuâng Cánh cò
Thương lời ru của mẹ:

“Tháng giêng, tháng hai,
Tháng ba, tháng bốn,
Tháng khốn, tháng nạn
Đi vay đi dạm
Được một quan tiền
Ra chợ Kẻ Diên
Mua con gà mái
Về nuôi hắn đẻ
Ra mười quả trứng
Một trứng: ung
Hai trứng: ung
Ba trứng: ung
Bốn trứng: ung
Năm trứng: ung
Sáu trứng: ung
Bảy trứng: ung
Còn ba trứng
Nở được ba con
Con: diều tha
Con: quạ bắt
Con: mặt cắt xơi
Đừng than phận khó ai ơi
Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”.

Gốc mai vàng trước ngõ
Nhà tôi chim làm tổ
Thương câu thơ lưu lạc
Đồng xuân lưu dấu hiền

Ngọc Phương Nam ngày mới
Nhà tôi giấc mơ xanh
Chuyện đồng dao cho em
Tím một trời yêu thương

Cánh cò bay trong mơ
Hoa Lúa, Hoa Đất; Hoa Người
Xanh một trời hi vọng
Giấc mơ lành yêu thương

BÀI ĐỒNG DAO HUYỀN THOẠI
Hoàng Kim

Người trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây đức để đời mai sau
Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ Cha kính Mẹ ấy là chân tu.

*

Cười nhiều Giận ít
Vui nhiều Lo ít
Làm nhiều Nói ít
Đi nhiều Ngồi ít
Rau nhiều Thịt ít
Chay nhiều Mặn ít
Chua nhiều Ngọt ít
Tắm nhiều Lười ít
Thiện nhiều Tham ít

*

Phúc hậu và an nhiên
Trái ý không nóng giận
Thức ngủ cần hài hòa
An lành môi trường sống
Lao động và nghỉ ngơi
Chín điều lành hạnh phúc
Minh triết cho mỗi ngày
Bạn gieo lành gặt thiện
Yêu thương trong tầm tay.

*

Dây dã tường vi thật dẻo dai
Ba con ngỗng trong một đàn
Một bay về Đông, một bay Tây
Và một bay trên tổ chim cúc cu.

*

Mình ghé thăm nhau chốn núi non
Vàng ươm đồng rộng nắng lên hương
Khoai ngon, lạc béo thơm xôi đỗ
Mai núi chiều buông vọng nhạc rừng

*

Thủy vốn mạch sông nước có nguồn.
Chính Trung tiền hậu đổi nhau luôn.
Nụ cười Nghê Việt luôn đầy đặn.
Mai với Bồ Đề ẩn sau lưng.
Tóc nhuốm bạch kim phơi nắng hửng
Da pha hồng ngọc trãi mưa nhuần.
Hoa Người, Hoa Đất vui thầy bạn.
Phước Đức mừng ai thắng tuổi trăm.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là goc-mai-vang-truoc-ngo.jpg


Thanh thản an vui dạo dọn vườn
Vui thầy mừng bạn ngát thêm hương
Đường xuân nhàn hạ phai mưa nắng
Tâm sáng an lành trải gió sương
Thoắt đó vườn thơm nhiều quả ngọt
Mới hay nhà phước lắm con đường
An nhiên vô sự là tiên cảnh
Sớm Xuân mai nở nắng vàng ươm

*

Tách cà phê ban mai
Gió mù sương đầy núi
Suối nguồn thao thiết chảy
Nhạc rừng đầy tiếng chim.

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bai-dong-dao-huyen-thoai/

THANH NHÀN VUI THÁNG NĂM
Hoàng Kim


FB lưu thật tài những hình ảnh , ghi chép và video ngày này xưa và nay. Cách hạnh phúc là trân trọng những gì mình có; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thanh-nhan-vui-thang-nam/

:https://youtu.be/pG-A1XD32-M

THUNG DUNG CHÀO NGÀY MỚI
Hoàng Kim


A Na Bình Minh An
Chốn vườn thiêng cổ tích
Thung dung chào ngày mới
Hoàng Gia Ngọc Phương Nam

https://youtu.be/FLxmnbU3KSs

THANH NHÀN VUI THÁNG NĂM
Hoàng Kim và Hoàng Long

Sắn Việt Nam ngày nay
Giống bắp nếp Nông Lâm
Hoàng Long cây lương thực
Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim

Sớm mai ngắm mai nở
Thanh nhàn vui tháng năm
Học lời hay của bạn
Trân trọng ngọc riêng mình..

Sớm mai ngắm mai nở
Ngắm đức Phật và cây
Lang thang vườn cổ tích
Ta vui chơi chốn này

Nhớ xưa dưới tán cây
Cùng Norman trò chuyện
Con đường xanh giấc mơ
Dạo chơi vui cùng Goethe

Noi theo dấu chân Bụt
Hai bảy năm với Người
dưới tán bồ đề xanh,
kẻ tầm đạo thành đạo

Tám mươi tuổi Niết Bàn
Sa la hoa trắng muốt.
Sớm mai ngắm mai nở
Thanh nhàn vui tháng năm

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thanh-nhan-vui-thang-nam/

SỚM XUÂN NGẮM MAI NỞ
Hoàng Kim

1
Sớm xuân ngắm mai nở
Giấc mơ lành yêu thương
Ngày xuân đọc Trạng Trình
Nhớ Viên Minh, Hoa Lúa

Sớm mai ngắm mai nở
Vận khí và vận mệnh
Chín điều lành hạnh phúc
Việt Nam con đường xanh.

Xuân sớm Ngọc Phương Nam
Giấc mơ thiêng cùng Goethe
Xuân ấm áp tình thân
Giấc mơ lành yêu thương

‘Hứng mật đời thành thơ
việc nghìn năm hữu lý
Trạng Trình. Đến Trúc Lâm
năm việc lớn Hoàng Thành
Đất trời xanh Yên Tử”.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nho-ban.jpg

HOA MAI TRONG TẾT VIỆT
Hoàng Kim

Mai vàng là đặc sản Việt Nam. Mai vàng là hoa xuân Tết Việt. Hoa mai là biểu tượng mùa xuân, may mắn, vui tươi trường thọ. Cành mai ẩn tàng thông điệp mùa xuân. Hoa mai vừa có cốt cách, vừa đẹp thanh nhã, vừa có hương thơm và nở sớm nhất trong các loại hoa xuân. Vì vậy, hoa mai đã được chọn để biểu hiện cho cốt cách thanh cao của người hiền. Hoa mai, hoa đào, hoa lê, hoa mận có nhiều loài với vùng phân bố rộng lớn ở nhiều nước châu Á nhưng chỉ riêng mai vàng là đặc sản của Việt Nam, trong khi mai trắng và hoa đào là phổ biến tại Trung Quốc, Nhật Bản, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc và các nước Trung Á.

Tết cổ truyền Việt Nam hình ảnh biểu trưng là hoa mai, hoa đào, bánh chưng . Hoa mai là một trong bốn loài hoa kiểng quý nhất (mai, lan, cúc, trúc) của Việt Nam đặc trưng cho bốn mùa. Hoa mai gắn liền với văn hóa, đời sống, tâm linh, triết lý sống, nghệ thuật ứng xử, thơ văn, nhạc họa. Hiếm có loài hoa nào được quan tâm sâu sắc như vậy “Đêm qua sân trước một nhành mai” (Mãn Giác 1052-1096) “Lâm râm mưa bụi gội cành mai” (Trần Quang Khải 1241-1294); Ngự sử mai hai hàng chầu chắp/ Trượng phu tùng mấy rặng phò quanh” (Huyền Quang 1254-1334); Quét trúc bước qua lòng suối/ Thưởng mai về đạp bóng trăng” (Nguyễn Trãi 1380-1442); “Cốt cách mai rừng nguyên chẳng tục”( Nguyễn Trung Ngạn 1289-1370); “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” (Nguyễn Du 1765-1820) “Nhờ chúa xuân ưu ái/ Xếp đứng đầu trăm hoa/ Chỉ vì lòng khiêm tốn/ Nên hẵng nở tà tà” (Phan Bội Châu 1867- 1940); “Mộng mai đình” (Trịnh Hoài Đức 1725-1825) ; “Non mai rồi gửi xương mai nhé/ Ước mộng hồn ta hóa đóa mai” (Đào Tấn 1845-1907); “Một đời chỉ biết cúi đầu vái trước hoa mai” (Cao Bá Quát 1809-1855) “Hững hờ mai thoảng gió đưa hương” (Hàn Mặc Tử 1912-1940) “Tìm em tôi tìm/ Mình hạc xương mai”(Trịnh Công Sơn 1939-2001), “Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh. Đường về vó ngựa dẫm mây xanh. Qua đèo chợt gặp mai đầu suối . Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành” “Hai mươi tư tháng sáu Lên ngọn núi này chơi Ngẫng đầu mặt trời đỏ Bên suối một nhành mai (Hồ Chí Minh 1890-1969); … Đó là một số tác gia và tác phẩm tiêu biểu về Hoa Mai.

Hoa Mai Thi Thiệu Ung Trung Quốc đối sánh với Hoa Mai thơ Mãn Giác Việt Nam đã cách đây trên dưới ngàn năm, cùng với Tảo Mai Trần Nhân Tông và Cự ngao đới sơn của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cách đây trên năm trăm năm. Những bài thơ trên là những dự ngôn rất sâu sắc về quy luật của tạo hóa. Tôi xin được trích dẫn mà không lạm bàn ; xem tiếp Hoa Mai trong Tết Việt

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là NLU.jpg

TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây   cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích

Mùa xuân đầu tiên (Văn Cao) -Thanh Thúy
Quê Hương saxophone hay nhất của Trần Mạnh Tuấn
Ban Mai; Chỉ tình yêu ở lại
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter

Lời ru nhớ núi sông

LỜI RU NHỚ NÚI SÔNG
Hoàng Kim

Việt Nam đất nước con người
Quê hương sông núi muôn đời yêu thương
Sông Đồng Nai Núi Chứa Chan
Chán chưa, chưa chán lại càng chứa chan

Hoành Linh, Kỳ Lộ, Bà Đen,
Chung Sơn, Đại Lãnh, ân tình nước non…
Thiên Thụ Sơn, Chư Yang Sin
Nhớ Bảy Núi Thiên Cấm Sơn, Chùa Đồng

Mình về mình có nhớ không
Chứa chan lòng lại giục lòng nhớ thương
Chân đi muôn dặm nẻo đường
Phải đâu cứ đất quê hương mới là …

Đêm nằm nghe gió thoảng qua
Nồng thơm hương lúa, đậm đà tình quê
Chợt dưng lòng lại gọi về
Vùng quê xa với gió hè chứa chan

Vục đầu uống ngụm nước trong
Nhớ miền ký ức ngọt dòng sông xanh
Thương từ chốn cũ xa em
Nhớ lên núi biếc mây xanh lững lờ

Xa nhau từ bấy đến chừ
Một vầng trăng khuyết sẻ chia đôi miền
Mình về nơi ấy đồng xuân
Ai đi ngậm ngãi tìm trầm mà thương

Nằm đêm lưng chẳng tới giường
Chứa chan nhớ núi, nhớ rừng canh khuya
Trường Sơn lá đỏ xa mờ
Thái dương nhớ thuở tiến vô Sài Gòn.

Mảng cầu chín nhớ mười mong
#Khátkhaoxanh vẹn thủy chung khải hoàn
Phong trần năm tháng gian nan
Đường xuân hạnh phúc bình an chí bền …

#Thungdung đời cứ #annhiên
Đất quen tính thuộc dịu đêm mát ngày
Du xuân thiên hạ đủ đầy…
Đồng xuân thương nhớ nơi này chứa chan.

SÔNG ĐỒNG NAI YÊU THƯƠNG
Bạch Ngọc Hoàng Kim


Cuối dòng sông là biển
Sông Đồng Nai yêu thương

Ban mai chào ngày mới
Ân tình đất phương Nam


xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/song-dong-nai-yeu-thuong/

Ngày vui nhớ núi Chứa Chan / chán chưa, chưa chán lại càng Chứa Chan (Núi Chứa Chan. lục bát Hoàng Kim)

(1)  Núi Chứa Chan còn gọi là núi Gia Ray hay núi Gia Lào với chiều cao 800m so với mặt nước biển thuộc huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, là ngọn núi cao thứ hai khu vực Nam Bộđồng bằng Sông Cửu Long, Núi Chứa Chan nổi tiếng phong cảnh hùng vĩ, có chùa núi Gia Lào một ngôi chùa linh thiêng nằm trên vách núi gần đỉnh hứa Chan. Du khách ngày nay lên đó có thể đi bàng cáp treo hoặc leo núi khám phá, Lá đỏ thơ Nguyễn Đình Thi, nhạc Hoàng Hiệp ‘rừng Trường Sơn ào ào lá đỏ’ https://youtu.be/fpIa9fJTLbk thân thuộc vùng này ngày thống nhất đất nước, anh em cùng gặp nhau giữa thành phố. Núi Chứa Chan với Chung Sơn, Hoành Sơn, Thần Đình, Thiên Thụ Sơn; Bảy Núi Thiên Cấm Sơn, Bà Đen, Đại Lãnh, Cổ Sơn, Chùa Đồng là mười ngọn núi thiêng của Việt Nam và Thế giới; xem tiếp hộp trích dẫn sáu ngọn núi này tại TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim #Thungdung#dayvahoc, #vietnamhoc#cnm365#cltvn; #đẹpvàhay; Chứa Chan lời Nhớ Núi (hình) https://khatkhaoxanh.wordpress.com/category/chua-chan-loi-nho-nui ; Câu cá bên dòng Sêrêpôk https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cau-ca-ben-dong-serepok; #cnm365 #cltvn 27 tháng 3 https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-27-thang-3/tại https://khatkhaoxanh.wordpress.com/2023/03/27/chua-chan-loi-nho-nui/

LINH GIANG SÔNG QUÊ HƯƠNG
Hoàng Kim

Nhà mình gần ngã ba sông
Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình
Linh Giang sông núi hữu tình
Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con

“Chèo thuyền cho khuất bến Son
Để con khỏi chộ nước non thêm buồn “

Câu ru quặn thắt đời con
Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ

Ra đi từ bấy đến chừ
Lặn trong sương khói bến đò sông quê
Ngày xuân giữ vẹn lời thề
Non sông mở cõi, tụ về trời Nam.

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/linh-giang-song-que-huong/

Làng Minh Lệ quê tôi

SÔNG ĐỜI THAO THIẾT CHẢY
Hoàng Kim


Cầu Minh Lệ Rào Nan
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/song-doi-thao-thiet-chay

SÓNG YÊU THƯƠNG VỖ MÃI
Hoàng Kim


Anh yêu biển tự khi nào chẳng rõ
Bởi lớn lên đã có biển quanh rồi
Gió biển thổi nồng nàn hương biển gọi
Để xa rồi thương nhớ chẳng hề nguôi

Nơi quê mẹ mặt trời lên từ biển
Mỗi sớm mai gió biển nhẹ lay màn
Ráng biển đỏ hồng lên như chuỗi ngọc
Nghiêng bóng dừa soi biếc những dòng sông

Qua đất lạ ngóng xa vời Tổ Quốc
Lại dịu hiền gặp biển ở kề bên
Khi mỗi tối điện bừng bờ biển sáng
Bỗng nhớ nhà những lúc mặt trăng lên

Theo ngọn sóng trông mù xa tít tắp
Nơi mặt trời sà xuống biển mênh mông
Ở nơi đó là bến bờ Tổ Quốc
Sóng yêu thương vỗ mãi đến vô cùng …

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/song-yeu-thuong-vo-mai/

PHAN THIẾT CÓ NHÀ TÔI
Hoàng Kim

Phan Thiết có nhà tôi
Ra khỏi cửa rừng là nhà cửa biển
Tà Cú ngất cao, thong thả tượng Phật nằm
Đồi Trinh nữ nhũ hồng đắm say cảm mến.

Phan Thiết có nhà tôi
Quên hết bụi trần
Lãng đãng tứ cô nương
Ngọt lịm một lời thách đối:
Chứa Chan, Chán Chưa, Chưa Chán.

Phan Thiết có nhà tôi
Vị tướng trỏ tay thề
Mũi Kê Gà mắt thần canh biển
Ai đi xa nhớ nước mắm mặn mòi

Phan Thiết có nhà tôi
Sau đồi cát kia là dinh Thầy Thím
Lánh chốn ồn ào, tìm nơi tĩnh vắng
Tin nhắn một chiều  Im lặng và Nghe

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/phan-thiet-co-nha-toi/

SÔNG KỲ LỘ PHÚ YÊN
Hoàng Kim

Sông Kỳ Lộ Phú Yên
Dài trăm hai cây số
Từ Biển Hồ Gia Lai
Thượng nguồn sông Bà Đài
Sông La Hiên Cà Tơn
Bến Phú Giang, Phú Hải
Phú Mỡ huyện Đồng Xuân
Thôn Kỳ Lộ Cây Dừng
Tre Rồng sông Kỳ Lộ
Huyền thoại vua Chí Lới
Vực Ông nối thác Dài

Xuôi dòng sông Kỳ Lộ
Lẫy lừng chuyện suối Cối
Tới suối Mun Phú Mỡ
Suối nước nóng Cây Vừng
Thấu vùng đất hoang sơ
Chợ Kỳ Lộ nổi tiếng
Người Kinh Chăm Ba Na
Xưa mỗi tháng chín phiên
Nay ngày thường vẫn họp

Sông Cái thác Rọ Heo
Vùng Hòn Ông vua Lới
Suối nước nóng Triêm Đức
Thôn Thạnh Đức Xuân Quang
Sông Trà Bương sông Con
Tiếp nước sông Kỳ Lộ
Chốn Lương Sơn Tá Quốc
Lương Văn Chánh thành hoàng
Sông Cô tới La Hai
Sông Cái hòa tiếp nước

Đồng Xuân cầu La Hai
Hợp thủy sông Kỳ Lộ
Tới Mỹ Long chia nhánh
Một ra vịnh Xuân Đài
Một vào đầm Ô Loan
Suối Đá xã An Hiệp
Chảy ra đầm Ô Loan
Suối Đá Đen An Phú
Chảy ra biển Long Thủy.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là bc23e-lahai.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 9656a-46400358.jpg

Sông Kỳ Lộ Phú Yên
Lắng đọng nhiều chuyện quý
Ngọc Phương Nam ngày mới
Giống sắn tốt Phú Yên
Lúa siêu xanh Phú Yên
Báu vật nơi đất Việt
A Na bà chúa Ngọc
Châu Văn Tiếp Phú Yên
Cao Biền trong sử Việt
Ông Rhodes chữ tiếng Việt
Sông Kỳ Lộ Phú Yên
Chuyện đồng dao cho em
Con đường xanh yêu thương
Cuối dòng sông là biển

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/song-ky-lo-phu-yen/

CUỐI DÒNG SÔNG LÀ BIỂN
Hoàng Kim

An nhàn sau mùa gặt
Đầy trời còn mưa bay
Ta thì quen tháng đợi
Người vẫn lạ năm chờ
Nhịp thời gian gõ cửa

Hè qua rồi Thu tới
Đông về Xuân trở lạnh
Người ngoan việc nhiều
Nhân quả trời tạo nghiệp
Phước đức đất nuôi bền

Đường xuân đời quên tuổi
Cuộc đời phúc lưu hương
Cuối dòng sông là biển
Vui đi dưới mặt trời

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cuoi-dong-song-la-bien/

(3) Bà Đen

BÀ ĐEN
Hoàng Kim

Người đi tìm Ngọc phương Nam
Nhớ bầu sữa Mẹ muôn vàn yêu thương
Bà Đen Dầu Tiếng Tây Ninh
Khoai mì đậu phộng nên danh ơn Người .

xem tiếp Bà Đen https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ba-den/ Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tho-tu-tuyet-hoang-kim/

MÃNG CẦU NÚI BÀ ĐEN
Hoàng Kim
#Thungdung
#vietnamhoc #đẹpvàhay
574

Tỉnh thức tinh hoa cầu lá nõn
Nắng xanh như ngọc núi Bà Đen
Người đi kiếm báu trời che khuất
Đặc sản bên non chậm hái về.

ảnh mãng cầu Nguyễn Phương Liên;
xem tiếp Bà Đen https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ba-den/

Bà Đen ở Tây Ninh (ảnh Phan Văn Tự)

BÀ ĐEN Ở TÂY NINH

Tỉnh Tây Ninh có núi Bà Đen. Báo Nông nghiệp Việt Nam có video tuyệt đẹp giới thiệu về danh thắng này https://www.facebook.com/NongNghiepVietNamOnline/videos/276320777967406. #vietnamhoc#cnm365#cltvn đã tích hợp. Tỉnh Tây Ninh là nôi nuôi dưỡng và phát triển các giống khoai mì KM94, SM937-26, KM98-1, KM98-5, KM140, KM419 là các giống khoai mì chủ lực tạo nên danh tiếng toàn cầu “Cách mạng sắn Việt Nam”. Tỉnh Tây Ninh cũng là nôi nuôi dưỡng và phát triển các giống đậu phộng HL25, Lì và Giấy chọn lọc, đậu xanh HL89-E3, đậu rồng và các loại đậu đỗ thực phẩm, đóng góp hiệu quả cho sản xuất nông nghiệp; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ba-den/

BÀ ĐEN Ở ĐỒNG NAI

Tỉnh Đồng Nai cũng có Bà Đen nhưng không phải núi mà là một bà già đã quy tiên ngày 18 tháng 5 Giáp Ngọ. Chuyện Bà Đen Đồng Nai là chuyện của một người rất nghèo, rất rất nghèo. Bà không có của, chỉ có con. Ông Vichtor Huygo lúc chết muốn được đi xe tang kẻ khó. Bà Đen suốt đời là kẻ khó, đến chết mới được đi xe tang. Nhớ ngày vía Bà Đen, xin được chép lại câu chuyện Bà Đen đất phương Nam. Minh triết sống phúc hậu có Bài giảng đầu tiên của Phật.là việc thấu hiểu sự khổ, nguyên nhân, kết quả và giải pháp. Phật chủ trương bình đẳng giữa con người có máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn, hết thảy các pháp là vô ngã. Mục đích là vô ngã là sự chấm dứt đau khổ phiền muộn để đạt sự chứng ngộ bất tử. Sự chứng ngộ phải trong thực tế. Bà Đen là sự chứng ngộ sự khổ của một con người. Bà Đen đã đến với thế giới loài người 73 năm, gánh mọi sự khổ mà không buồn giận và rời Cõi Người ngày 18 tháng 5 Giáp Ngọ, 2014.

Ả LÀ AI ĐỜI NÀY?

Kính thưa hương hồn Bà Đen.
Kính thưa bà con lối xóm.

Hôm nay chúng ta tiễn đưa Bà Đen – người Chị, người Mẹ, người Bà của các cháu – về Trời. Tôi là em con chú con bác với Bà Đen, gọi ả cu Đen là chị dâu. Tôi xin được tỏ đôi lời thưa cùng bà con trước hương hồn của Ả.

Bà Đen (ả cu Đen, ả Trần, ả mẹt Hợi là tên cúng cơm, tục danh, tên thường goi) tên thật là Trần Thị Đen, sinh năm 1942 (Nhâm Ngọ), trú quán tại làng Minh Lệ, xóm Bắc, nhà ở cạnh ngôi đình cổ làng Minh Lệ. Theo thần phả, đình Minh Lệ được xây dựng năm 1464, là nơi thờ bốn vị đức Thành Hoàng bản thổ của bốn dòng họ lớn Hoàng, Trần, Trương, Nguyễn. Làng Minh Lệ là đất Kim Quy vùng Hạ Yên Trạch, tương truyền là nơi ngã ngưa của Trung Lang Thượng Tướng Quân Trương Đức Trọng, nay là xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Binh. Bà Đen mất ngày 15 tháng 6 năm 2014 nhằm ngày 18 tháng 5 Giáp Ngọ tại xã Hưng Thịnh huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, hưởng thọ 73 tuổi.

Chồng bà Đen là ông Nguyễn Minh Dức sinh năm 1939 (Kỹ Mẹo) mất năm 2006 ngày 20 tháng 10 âm lịch (Bính Tuất) tại xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.

Ông Bà Hoàng Minh Dức và Trần Thị Đen có bảy người con, năm trai, hai gái, đó là: Hợi, Hiếu, Thiểu, Thân, Thứ, Thống, Thiết.

Vợ chồng ông bà nghèo khó, lương thiện. Bà Đen là người tuyệt nhiên chưa bao giờ nóng giận, chưa hề làm mất lòng ai. Bà chưa khi nào phàn nàn trách cứ ai. Trước mọi vinh nhục, buồn vui, đói no, xấu tốt, bà đều luôn bình thản chỉ cười. Bà không tài sản, vô tâm, ngẫn ngơ: Đường Trần ta lại rong chơi. Vui thêm chút nữa buồn thôi lại về.

CON NGƯỜI ĐẾN ĐI

Bà Đen đã đến Trái Đất này 73 năm và đã đi tới chốn vĩnh hằng.

Bà Đen không để lại tài sản ruộng nương, tiền bạc.
Bà Đen không lưu lại danh vọng, sự nghiệp.
Bà Đen không căn dặn bất cứ điều gì.

Bà Đen di sản chỉ có CON NGƯỜI và CÂY XANH Bồ Đề, Sanh, Sung, Mai, Bưởi …do con cháu bà trồng tại nơi bà sống những năm cuối đời tại Hưng Thịnh, Đồng Nai.

Thân xác của Bà, một số con bà bàn hỏa táng, một số bà con muốn chôn cất. Cuối cùng, bà được an táng tại Nghĩa trang Hưng Bình theo ý nguyện của các con thuận theo lời bàn của nhiều người để phù hợp cho con cháu sau này.

NÉN TÂM HƯƠNG ĐƯA TIỂN

Kính thưa hương hồn Bà Đen, kính thưa bà con lối xóm.

Chúng ta thành kính tiễn đưa một con người.

Nhà văn Vichto Huygo có câu nói nổi tiếng: “Tôi muốn đi xe tang của kẻ khó“.

Bà Đen là kẻ khó, nay được đi xe tang.

Kính thắp nén tâm hương đưa tiễn.

Kính đề nghị mọi người dành một phút tưởng niệm.

Thay mặt gia đình tang quyến, xin trân trọng biết ơn.

Bạch Ngọc
Hoàng Kim

CUỘC ĐỜI THÀNH TRANG VĂN
Hoàng Kim


Có một ngày như thế
Cuộc đời thành trang văn
Hoàng Lê bảy năm trước
Mừng ngày mới tháng năm

Phương Loan Hoàng đã thêm 4 ảnh mới. Stepodsrnott7f 23942009661á6 c1t38f: cgm06h9976901 n0úi1l  ·

Món quà nhỏ chia tay bạn cùng phòng, tưởng đám cưới bả mình váy áo lung linh chụp ngàn tấm hổng ngờ chạy sút váy, rớt cúc, tóc tai rủ rượi à
#27-28-29/5/2022 #Mysister‘s wedding

xem tiếp Câu chuyện ảnh tháng năm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cuoc-doi-thanh-trang-van/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ba-den/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/co-mot-ngay-nhu-the/

Hoa co
Chaongaymoi

TA VỀ TRỜI ĐẤT HỒNG LAM
Hoàng Kim

Ta về trời đất Hồng Lam
Thung dung dạo bước trăng vàng lộng soi
Đường trần tới chốn thảnh thơi
Hồng Sơn Liệp Hộ bồi hồi đất quen.

Linh miêu chốn Tổ Rồng Tiên
Quấn quanh trao gửi nổi niềm Thái Sơn
Hỡi ai là kẻ phi thường
Đỉnh chung dâng nén tâm hương nhớ Người.

NGUYỄN DU ĐI SĂN Ở NÚI HỒNG
Hoàng Kim

Núi Hồng Lĩnh danh thắng Nghệ Tĩnh,thuộc thị xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Núi Hồng Lĩnh cùng với sông Lam, được xem là biểu tượng hồn thiêng sông núi của xứ Nghệ, từng được xếp vào danh sách 21 danh thắng nước Nam. Núi Hồng Lĩnh là nơi Nguyễn Du đi săn ở núi Hồng làm ‘Hồng Sơn Liệp Hộ’ (1797-1802)  sau khi ông bị Quận công Nguyễn Thận bắt giam ba tháng ở Nghệ An mùa đông năm Bính Thìn (1796) về tội danh định trốn vào Nam với chúa Nguyễn Ánh, sau ông được tha về sống ở Tiên Điền; Núi Hồng Lĩnh (Ngàn Hống, Rú Hống, Hồng Sơn hay Hồng Lĩnh biệt hiệu là Hoan Châu Đệ Nhất Danh Thắng dãy núi núi nổi tiếng nhất Hà Tĩnh. Nguyễn Du tỏ chí là Nam Hải Điếu Đồ (kẻ đi câu ở biển Nam) và Hồng Sơn Liệp Hộ (người đi săn ở núi Hồng) ở hai thời khắc quyết định thể hiện bản lĩnh và tầm nhìn minh triết của ông .Bài này viết về Nguyễn Du thời thế từ 1797 đến 1802 kiệt tác thơ chữ Hán Nguyễn Du soi tỏ thời thế, cuộc đời và tâm hồn Nguyễn Du trăng huyền thoại; .Tâm sự Nguyễn Du làm Hồng Sơn Liệp Hộ, ngôn chí thể hiện rõ nhất trong bài “Đi săn”; bài chi tiết tại Nguyễn Du niên biểu luận; Nguyễn Du thời Tây Sơn; Nguyễn Du làm Ngư Tiều https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-lam-ngu-tieu/


(*) Đại Lãnh

Núi Đá Bia Phú Yên

ĐẠI LÃNH NHẠN QUAY VỀ
Hoàng Kim


Núi Đá Bia thiên nhãn phương nam
Biển Vũng Rô mắt thần tịnh hải 
Tháp Nhạn người Chăm lưu đất Phú
Mằng Lăng chữ Việt dấu trời Yên
Xuân Đài thành cổ ghềnh Đá Đĩa
Sông Ba sông Cái núi Cù Mông
Vạn kiếp tình yêu ai gửi lại
Ngàn năm Đại Lãnh nhạn quay về

Sông Kỳ Lộ Phú Yên
Đồng xuân lưu dấu hiền
Cao Biền trong sử Việt
Đại Lãnh nhạn quay về

Biển Vũng Rô

Tháp Nhạn

Nhà thờ Mằng Lăng

HUẾ CÓ THIÊN THỤ SƠN
Hoàng Kim

Huế có Thiên Thụ Sơn, đó là câu chuyện dài tiếp nối Bảy Núi Thiên Cám Sơn trong bài viết CHÀO NGÀY MỚI 6 THÁNG 6 dưới đây. Tôi đã suy ngẫm chuyện điền dã với huyền tích này từ lâu, nhưng do chưa đủ nhân duyên và điều kiện để tường thuật lại cặn kẽ. Đến nay sau 25 năm cũng chỉ tạm lưu ít thư mục nhỏ không nỡ quên để thỉnh thoảng quay lại. Cụ Dương Văn Sinh, người có huân chương lao động hạng ba, lương y, thầy thuốc ưu tú, có thành tích xuất sắc trong sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Thầy cũng là một nhà phong thủy danh tiếng ở Huế., Cụ rất tâm đắc với tôi về thế núi Thiên Thụ Sơn và Trường Cơ Thiên Thụ Lăng, có tương quan huyền tích Bảy Núi Thiên Cấm Sơn.

Bảy Núi Thiên Cấm Sơn
Nơi Nguyễn Vương thoát hiểm
Nhớ Đàn Khê Lưu Bị
Lúa Việt Sắn An Giang.

Huế có Thiên Thụ Sơn

Ẩn tàng bao huyền thoại
Linh Nhạc thương lời hiền
Chuyện cổ tích người lớn

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hue-co-thien-thu-son/

Sau này vua Gia Long tại Huế đã chọn Thiên Thụ Sơn là hướng núi cho quần thể di tích cung điện và quần thể lăng mộ của triều đại vua chúa nhà Nguyễn , âu cũng là một câu chuyện kỳ thú. đầu tiên là hướng chính cho quần thể di tích kinh đô Huế đế lăng Trường cơ của chúa Nguyễ

NƠI NGUYỄN VƯƠNG THOÁT HIỂM

Bí mật thiên Cấm Sơn và sự thoát hiểm của Nguyễn Vương là một câu chuyện lạ bởi thiền sư Linh Nhạc Phật Ý chỉ dẫn mà tôi đã đức kết chép lại trong chùm chuyện khảo Nguyễn Du trăng huyền thoại. Vắn tắt câu chuyện như thần tích Lưu Bị phi ngựa qua suối Đàn Khê sách Tam Quốc Diện Nghĩa để chỉ sự thoát hiểm trong gang tấc. Chuyện ấy như sau:

Tôi đi lạc vào một ngôi chùa cổ. Một công án kỳ lạ theo tôi mười năm qua. Nơi đây là chốn rất quen với tôi, và tôi biết rõ từ nhiều năm qua, nhưng không hiểu sao lại có rừng cây và ngôi chùa cổ này. Tôi bàng hoàng nhớ lại phía trước là nhà anh Ba Mùa, một người trồng và chọn giống khoai lang HL4 với vợ chồng tôi rất nhiều năm. Nay tuy anh đã mất, nhưng tôi vẫn nhớ nhà anh rất rõ, mà hôm nay tìm mãi không thấy. Phía sau trụ điện cao thế đối diện khu nhà máy Coca Cola là nhà của ông Ba Báu. Ông làm việc với tôi suốt ba năm học ở Trường với bảy năm về Viện và Trung Tâm Hưng Lôc. Nay mới sau ba mươi năm quay lại mà một nơi thân thuộc vậy, lại chợt dưng khác lạ, không thể tìm được nhà. Không thể tin nổi. Khu rừng rộng, tán cây cổ thụ cao và yên tĩnh. Tôi tìm mãi không thấy người quen và đường ra; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/linh-nhac-thuong-loi-hien/

Tôi chụp nhiều ảnh và nghĩ vẩn vơ trong rừng cây, rồi bất chợt gặp hai cháu bé nhỏ đi tới. Tôi vội bước tới để hỏi. Hai bé không chút sợ hãi dừng lại nhìn và cười với tôi. Bé gái lớn gọi: Hoàng Thành, anh đến đây. Có một bé trai lớn hơn chạy tới. Lũ trẻ chỉ cho tôi đến ngôi nhà ở góc vườn, và chạy ào đi chơi. Tôi vào gặp một cụ già, và chuyên như ở dưới đây. Cụ già quắc thước, mắt sáng, hiền từ hỏi tôi:

_ Thầy đi đâu tìm gì?

Tôi nhìn khuôn mặt như tiên ông của Cụ. Khuôn mặt Cụ dường như rất quen thân, và tôi đã từng gặp ở đâu đó, nhưng không thể nào nhớ được. Tôi bất giác kính trọng Cụ, và thưa:

– Dạ cháu là Hoàng Kim, sinh năm 1953, nơi sinh ở Làng Minh Lệ Quảng Bình, thường trú tại số nhà 80 khu Trung tâm, xã Hưng Thịnh, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. Cháu làm giảng viên chinh cây lương thực (lúa, ngô, sắn, khoai lang) của Khoa Nông học, Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh. Trước đó, cháu học ở Trường Đại học Nông Nghiệp 2 Hà Bắc, và đi bộ đội từ tháng 9 năm 1971 đến tháng 1 năm 1977. Sau khi chuyển ngành về học tiếp ở Trường Đại học Nông Nghiệp 2 Hà Bắc và chuyển trường vào học tiếp ở Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 1981, cháu tốt nghiệp kỹ sư nông học về làm việc ở Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc thuộc Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam. Sau đó làm tiến sĩ và giám đốc Trung tâm ở đấy. Năm 2006, cháu chuyển từ Viện về Trường để dạy học. Cháu đang đi coi thi và đang tìm xem Từ Hải thật là ai?. Tôi trình bày thân phận mình và câu chuyện để cố tìm manh mối.

  • Cháu coi thi ba hôm. Vợ cháu khuyên là nên thuê nhà trọ gần điểm thi, vì nhà cháu ở xa nên để tránh kẹt xe trễ giờ cần lấy tiền bồi dưỡng coi thi trang trãi tiền thuê phòng trọ mà thực hiện tốt nhiệm vụ cho đúng giờ. Cháu đã thuê khách sạn rồi nhưng lại nhường phòng đã thuê cho hai mẹ con của một thí sinh ở miền Trung vào thi mà không đặt phòng trước. Cháu chuyển về thuê phòng ở chùa Châu Long, xa điểm thi hơn và đi về phải thuê xe ôm. Thật lạ là nơi xây nhà nghĩ chùa Châu Long ngày nay lại chính là nơi mảnh đất mà vợ chồng cháu đã chọn được Giống khoai Bí Đà Lạt, Giống khoai Hoàng Long, Giống khoai lang HL4. Mảnh đất xây chùa Châu Long này là của chú Ba Báu trước đây vợ chống cháu sau khi ra trường định mua lập nghiệp nhưng sau đã chọn về ở đất Hưng Long Đồng Nai. Tối nay thầy Nguyễn Lân Dũng giục cháu sớm giúp phản biện cuốn sách thầy Ngô Quốc Quýnh sự thật về Nguyễn Du. Bài viết “Một khám phá độc đáo về Truyện Kiều” của Giáo sư Nguyễn Lân Dũng về cuốn sách “Thử tìm hiểu tâm sự Nguyễn Du qua Truyện Kiều” của GS.NGND Ngô Quốc Quýnh (Đại học Quốc gia Hà Nội) làm cháu mộng mị. Trong cuốn sách này, tác giả đã cho rằng Nguyễn Du gửi gắm tâm sự của mình qua Truyện Kiều mà Từ Hải chính là Nguyễn Huệ, và Kim Trọng chính là Lê Chiêu Thống với nàng Kiều chính là Nguyễn Du. Thầy Nguyễn Lân Dũng gọi điện và nhắn tin giục cháu sớm giúp cho nhận xét phản biện này. Cháu vừa thương quý kính trọng Thầy vừa nhận thấy luận điểm của thầy Ngô Quốc Quýnh cũng có lý có tình nên cháu định sớm viết bài đồng tình.

_ Nguyễn Du là Từ Hải?

Cụ già hỏi lại tôi về bình sinh và hành trạng Nguyễn Duvà đã ngăn tôi khoan vội đồng tình với nhận định của thầy Ngô Quốc Quýnh coi Từ Hải chính là Nguyễn Huệ, và Kim Trọng chính là Lê Chiêu Thống với nàng Kiều chính là Nguyễn Du. Cụ chất vấn tôi và lần lượt thảo luận tìm hiểu kỹ sự thật của 12 uẩn khúc chưa rõ. Đó là: Nguyễn Du là người thế nào? Nguyễn Du Bắc hành tạp lục; Nguyễn Du với Hồ Xuân Hương; Nguyễn Du và Kinh Kim Cương; Nguyễn Du so tài Nguyễn Huệ; Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ; Nguyễn Du tri kỷ, tri âm; Tố Như sau ba trăm năm; Nguyễn Du viếng Kỳ Lân mộ; Hoành Sơn những bài thơ cổ; Hồng Lam vằng vặc sao Khuê. Tôi dần nhận ra Nguyễn Du là Từ Hải. Để khỏi mất thì giờ bạn đọc xin không nêu ra các chi tiết. Mời đọc Nguyễn Du tư liệu quýbài 2 trong chùm chuyện khảo Nguyễn Du trăng huyền thoại của Hoàng Kim. Vị thiền sư Linh Nhạc Phật Ý tại Tổ Đình ngôi chùa cổ Thủ Đức trong giấc mơ lạ Nguyễn Du nửa đêm đọc lại

_ “Khói hương” và “Hai ngả”

Cụ già hỏi tôi đã đọc sách của thầy Nguyễn Lân “Khói hương” và “Hai ngã” chưa? với những tác phẩm văn sử của Từ Ngọc “Cậu bé nhà quê” “Ngược dòng” “Nguyễn Trường Tộ” và “Những trang sử vẻ vang”? Tôi thưa với Cụ là tôi đã đọc rất kỹ “Vinh quang nghề Thầy” nhưng với các sách trên thì chưa đọc được vì nay những sách ấy rất khó tìm. Cụ cười và nói rằng, chuyện đang nóng hổi chỉ mới từ năm 1945 đến nay mà đã khó vậy, huống hồ câu chuyện Nguyễn Du trăng huyền thoại đã trải trên 253 năm để lần tìm bình sinh và hành trạng của ai đó cần đọc rất kỹ các sách mang giá trị sử thi của những tác giả đứng đắn, đối chiếu thời thế với niên biểu cuộc đời họ, mới hiểu được những ẩn ngữ trong trang sách họ viết. Ví như “Khói hương” và “Hai ngả” “Hồi ký giáo dục thầy Nguyễn Lân” có ở trong “Vinh quang nghề Thầy”. Cụ hỏi tôi có đọc kỹ đoạn Bảo Đại và Chính phủ Trần Trọng Kim mong xây dựng một nước Quân chủ lập hiến và mong “các ông sẽ soạn giúp cho một bản hiến pháp”. “Anh em đã giao cho anh Đào Duy Anh soạn bản hiến pháp đó (bản hiến pháp chưa bao giờ thành hình)”. Chủ tịch Hồ Chí Minh với vua Bảo Đại và Thủ tướng Trần Trọng Kim vì sao không thể có được thỏa hiệp hợp tác khi hình thành nước Việt Nam mới? Sau này, tôi viết “Minh triết Hồ Chí Minh” lại nhớ về bài Thầy Nguyễn Lân Dũng viết “Bác Hồ với thế giới tâm linh“. Dạy và học mỗi ngày của tôi là chịu ảnh hưởng lớn của tinh hoa “Vinh quang nghề Thầy” và câu chuyện đối thoại lạ lùng trong giấc mơ “Linh Nhạc thương người hiền”.

_ Bảy Núi Thiên Cấm Sơn

Tôi hỏi cụ già về tên tuổi và địa chỉ nơi này là chốn nào?. Cụ trả lời cụ là Linh Nhạc Phật Ý có duyên với tôi nên giúp sự tìm hiểu. Cụ cười bảo tôi: Thầy biết đây là đất quen, và thầy vốn nghề nông say mê Vườn Quốc gia Việt Nam lại ở rất gần Vườn Tao Đàn bạn quý mà thấy không đoán ra những cây này ở đâu à? Tôi thưa Cụ là vườn Cụ có nhiều cây quen tại Bảy Núi Thiên Cấm Sơn mà tôi có chín năm ở vùng ấy, cũng có một số kỳ hoa dị thảo của riêng vùng Đá Đứng chốn sông thiêng Làng Minh Lệ quê tôi. Cụ cười bảo Thiên Thụ Sơn ở Huế và Đại Lãnh nhạn quay về thầy đã ghé chưa ? Cây và hoa lá ở đây đã có mang về trồng tại Thiên Thụ Sơn ở Huế rồi đấy.

Tôi làm lạ sực tỉnh. Cái đêm hôm ấy, tôi ngủ suốt từ chập tối. Chuyện cũ ấy và chứng cứ ở đây http://dayvahoc.blogtiengviet.net/2012/07/04/http_dayvahoc_blogtiengviet_net_ng

*

Chiều tối hôm sau, tôi ngẫu nhiên theo chỉ dẫu của cụ già trong giấc mơ, đã tìm thấy được ngôi chùa cổ Tổ Đình Phước Tường tại địa chỉ 13/32 đường Lã Xuân Oai phường Tăng Nhơn Phú, Quận 9. Ngôi chùa này lưu dấu tích của thiền sư Linh Nhạc Phật Ý.và vị thiền sư này quan hệ tới sự đã che giấu vua nhà Nguyễn thoát chết gang tấc bởi sự truy vết cũa nhà Tây Sơn. Hiện nay, Tổ Đình Phước Tường sư trụ trì là Thượng tọa Thích Nhật An. Tổ Đình đã được Bộ Thông tin Việt Nam xếp hạng Di tich Văn hóa Quốc gia tại Quyết định số 43/VH QĐ ngày 7 /1/ 1993 .Ngày tiếp sau, khi coi thi đã hoàn thành trở vể nhà lại duyên may lại tình cờ gặp được Bố tát Nhựt Tông trên chuyến xe bus từ Suối Tiên đi ngã tư Bà Rịa- Vũng Tài. Tôi đã đổi ý không đi về nhà ở Hưng Thịnh Đồng Nai mà theo gót chân Bố tát vân du chùa Long Phước 98 Trần Xuân Độ, Phường 6 tại Núi Lớn, phía sau Thích Ca Phật Đài, thành phố Vũng Tàu, thăm thiền sư Thiện Lý, với anh Nguyễn Quốc Toàn Lão Quán Lục Vân Tiên giữa đời thường, để cùng luận bàn đạo Phật ngày nay và mang sách của thầy Nhựt Tông và mang sách Nguyễn Du của anh Toàn về nhà cặm cụi tra cứu tìm tòi.

Nhà nghiên cứu Phạm Trọng Chánh nói những lời thật cảm khái : “Trong tình hình đọc sách hiện tại trong nước và hải ngoại, mỗi người Việt Nam đọc không đến một quyển sách một năm, các nhà xuất bản tại hải ngoại chỉ sống nhờ sự hy sinh của tác giả, tự viết tự bỏ tiền in, không kể gì lời lỗ. Sách gửi đi các nơi không hy vọng gì thu tiền lại. Trong nước sách in được 1500 quyển như  Nguyễn Du trên đường gió bụi anh Hoàng Khôi là thuộc loại khá. Đáng cho chúng ta khuyến khích. Phải chăng vì thiếu sách hay, các nhà văn ngày nay không đủ sức hấp dẫn lôi kéo người đọc chăng. Nghĩ lại ngày xưa thời Tự Lực Văn Đoàn, Thơ Mới, những năm 1930-1940 mỗi năm người đậu Tú Tài chỉ vài chục người, người biết chữ quốc ngữ có là bao nhiêu trên 25 triệu dân thế mà sách  đã tạo ra những trào lưu văn học lớn mạnh. Ngày nay chúng ta có 90 triệu dân trong nước và 4 triệu người Việt hải ngoại, mà tình hình sách vở còn thua các nước nhược tiểu, nghĩ thật đáng buồn. Chúng ta không nâng cao được dân trí, mà dân trí lại thụt lùi.  Được một nhà văn như anh Hoàng Khôi, hy sinh thức đêm thức hôm để viết sách, để mua vui một vài trống canh, tôi mừng và mong có nhiều người như anh Hoàng Khôi. Đừng để các thế hệ mai sau không còn biết viết văn, biết đọc mà chỉ còn biết bấm mấy câu vớ vẫn trên điện thoại di động.

Tôi từng tâm đắc với Nguyễn Du viếng mộ Liễu Hạ Huệ  nơi “bia tàn chữ mất vùi gai góc/ nghe tiếng nghìn năm tôi xuống xe” càng cho thấy nhân cách kẻ sĩ và sự cảm thông của ông đối với Liễu Hạ Huê sâu sắc đến dường nào. Người hiền thực ra đời nào cũng có, thời thế nhiễu loạn, chẳng qua vàng lầm trong cát đấy thôi. Nguyễn Du là con quan tướng quốc Nguyễn Nhiễm cựu thần nhà Lê và mẹ ông là người phụ nữ tài sắc, vợ lẽ nhà quan, gặp lúc thế nước động loạn, chúa Trịnh, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn đều có ý riêng. Ông lớn lên trong cảnh lận đận không nhà, có tài mà không thể cậy. Ông là một đại sĩ phu tài năng trác tuyệt nhưng chỉ làm một viên quan thường triều Nguyễn mà vua vừa dùng, vừa tìm cách kiềm chế như đối với Nguyễn Công Trứ, Phan Huy Chú. Ông vì giỏi nên được vua Nguyễn cử đi sứ Tàu mà thôi. Thơ Nguyễn Du vì vậy kín đáo và sâu sắc hiếm thấy Để thấu hiểu những giá trị nhân văn đích thực, rất cần những khoảng lặng để đối diện với chính mình.  Hôm trước tôi đã có dịp cùng với những người bạn quý thảo luận về hành vi ứng xử của Liễu Hạ Huệ gần gũi với một người nữ mà ông không mang tiếng dâm tà. Nhờ việc tra cứu, đọc đi đọc lại nhiều lần bài thơ ‘Liễu Hạ Huệ mộ’ của cụ Nguyễn Du, tôi chợt sững người, nhận thức thêm được những nỗi niềm, của cụ Nguyễn lấp lánh sau những con chữ …

Tôi đọc cuốn sách “Nguyễn Du” của nhà giáo Nguyễn Thế Quang “Của tin còn một chút này làm ghi” không dưới hai mươi lần (Trang sách Nguyễn Du với lời đề tặng của tác giả Nguyễn Thế Quang, ảnh Hoàng Kim), và sực thấm hiểu vì sao Nguyễn Du đọc Kinh Kim Cương chú giải của Lê Quý Đôn trên nghìn lần cũng như chợt hiểu vì sao Hồ Chí Minh “sao vàng năm cánh mộng hồn quanh“. Tôi đã đọc mười hai tư liệu quý về Nguyễn Du (kể cả ba tư liệu mới bổ sung gần đây) Dẫu vậy tôi vẫn hồ nghi nhiều điều, chưa đủ tư liệu trao đổi với các giáo sư Nguyễn Lân Dũng, Ngô Quốc Quýnh nhà giáo Nguyễn Thế Quang, nhà nghiên cứu Bulukhin Nguyễn Quốc Toàn và  còn nợ  Ví Dặm Ân Tình, Quỳnh Trâm, Huy Việt … những lời bàn luận.

Tôi nhờ lập “Nguyễn Du một niên biểu” chi tiết hóa thời thế và cuộc đời Nguyễn Du đúng hành trạng từng năm, từ lúc ông sinh ra cho đến khi ông mất, theo gợi ý của cụ già tự xưng là thiền sư Linh Nhạc Phật Ý trong giấc mơ lạ. Cụ già đã khuyến khích tôi làm điều này và cũng nhờ phản biện sâu sắc với các dẫn liệu của tiến sĩ Phạm Trọng Chánh. Ông là người bôn ba hải ngoại đã hiểu tác phẩm Nguyễn Du trên đường gió bụi của Hoàng Khôi một cách sâu sắc hiếm thấy, chân thành, đức độ và khích lệ tác giả Hoàng Khôi với một triết lý dạy và học mẫu mực. “Nghiên cứu không phải là chuyện độc quyền của riêng ai, không phải chuyện người sau đánh đổ người trước để được nổi danh hơn mà người đi sau nối tiếp người trước, làm giải quyết những nghi vấn còn tồn đọng, làm cho việc nghiên cứu ngày càng phát triển, sáng tỏ“.:

Bài liên quan
Hãy để tôi đọc lại

NGUYỄN DU TRĂNG HUYỀN THOẠI
Hoàng Kim

1 Nguyễn Du thơ chữ Hán
Kiếm bút thấu tim Người,
Đấng danh sĩ tinh hoa,
Nguyễn Du khinh Thành Tổ,
Bậc thánh viếng đức Hòa

2 Nguyễn Du tư liệu quý
Linh Nhạc thương người hiền,
Trung Liệt đền thờ cổ,
“Bang giao tập” Việt Trung,
Nguyễn Du niên biểu luận

3 Nguyễn Du Hồ Xuân Hương
“Đối tửu” thơ bi tráng,
“Tỏ ý” lệ vương đầy,
Ba trăm năm thoáng chốc,
Mại hạc vầng trăng soi.

4 Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ
Uy Viễn “Vịnh Thúy Kiều”,
Tố Như “Đọc Tiểu Thanh”,
Bến Giang Đình ẩn ngữ,
Thời biến nhớ người xưa.

5 Nguyễn Du thời Tây Sơn
Mười lăm năm tuổi thơ,
Mười lăm năm lưu lạc,
Thời Hồng Sơn Liệp Hộ,
Tình hiếu thật phân minh

6 Nguyễn Du làm Ngư Tiều
Câu cá và đi săn,
Ẩn ngữ giữa đời thường,
Nguyễn Du ức gia huynh,
Hành Lạc Từ bi tráng

7 Nguyễn Du thời nhà Nguyễn
Mười tám năm làm quan,
Chính sử và Bài tựa,
Gia phả với luận bàn.
Bắc hành và Truyện Kiều

8 Nguyễn Du tiếng tri âm
Hồ Xuân Hương là ai,
Kiều Nguyễn luận anh hùng,
Thời Nam Hải Điếu Đồ,
Thời Hồng Sơn Liệp Hộ

9 Nguyễn Du trăng huyền thoại
Đi thuyền trên Trường Giang,
Tâm tình và Hồn Việt,
Tấm gương soi thời đại.
Mai Hạc vầng trăng soi,

Nhân nhàn rỗi đọc lại Thâm Giang Trần Gia Ninh, thương “Kim Thiếp Vũ Môn”, nhớ ‘Thiên hạ trục lộc‘, xin chép về so ngẫm Nguyễn Du làm Ngư Tiều Câu cá và đi săn, Ẩn ngữ giữa đời thường, Nguyễn Du ức gia huynh, Hành Lạc Từ bi tráng xem tiếp Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tho-tu-tuyet-hoang-kim/Mai Hạc vầng trăng soi https://hoangkimlong.wordpress.com/category/mai-hac-vang-trang-soi/http://hoangkimlong.wordpress,com/category/nguyen-du-trang-huyen thoại

*

Vị thiền sư Linh Nhạc Phật Ý tại Tổ Đình chùa cổ Thủ Đức trong giấc mơ lạ Nguyễn Du nửa đêm đọc lại đã khuyên tôi viết Nguyễn Du trăng huyền thoại bằng cách lập “Nguyễn Du niên biểu luận” cuộc đời và thời thế Nguyễn Du để tìm hiểu về Người. Theo vị Thiền sư này thì dấu vết chứng cứ sự thật hàng năm của Nguyễn Du là chỉ dấu đáng tin cậy của thời ấy về những sự kiện trọng yếu của thời thế đã gợi ý chi phối thế xuất xử của Nguyễn Du bình sinh và hành trạng, để hậu thế chúng ta có thể hiểu đúng sự thật và huyền thoại về ông. Những sự kiện chính tại đàng Trong và đàng Ngoài với các nước liên quan trong hệ quy chiếu lấy chính Nguyễn Du và gia tộc của ông làm trung tâm sẽ là dẫn liệu thông tin thực sự có ích để thấu hiểu chính xác ẩn ngữ Truyện Kiều, lịch sử, văn hóa, con người, bối cảnh hình thành kiệt tác “300 năm nữa chốc mòng Biết ai thiên ha khóc cùng Tố Như”

Tôi viết Nguyễn Du trăng huyền thoại cho những ai vốn thích Nguyễn Du và Truyện Kiều nhưng chỉ có sách Truyện Kiều và một ít bộ sách quý có liên quan mà chưa thể có thời gian đào sâu tìm hiểu về bộ kiệt tác văn chương Việt kỳ lạ này với những ẩn ngữ thời thế cuộc đời Nguyễn Du lắng đọng vào trang sách. Bạn đọc để đỡ tốn công, tôi xin có ít lời hướng dẫn cách đọc chùm 9 bài này như sau. Đầu tiên bạn nên đọc bảng Mục lục chín bài viết này và xác định mình cần đọc bài nào trong chín bài viết ấy sau đó bấm thẳng vào đường dẫn có tại trang ấy liên kết với chín bài; Thứ hai mời bạn đọc ngay bài bảy mục 2 va 3 đó là Chính sử và Bài tựa/ Gia phả với luận bàn. Muốn hiểu thêm Nguyễn Du trăng huyền thoại cần tìm đọc những sách và tác giả giới thiệu trong bài này và có sự định kỳ cập nhậti. Thứ ba Nguyễn Du là danh sĩ tinh hoa Việt Nam thời nhà Nguyễn Tổng luận Nguyễn Du và Truyện Kiều là sự suy ngẫm lắng đọng.

Nguyễn Du là danh sĩ tinh hoa Việt Nam thời nhà Nguyễn, là minh sư hiền tài lỗi lạc, là nhà thơ lớn danh nhân văn hóa thế giới, là một hình mẫu con người Việt Nam thuộc về văn hóa tương lai, là một tấm gương trong về phép ứng xử chí thiện, nhân đạo, minh triết giữa thời nhiễu loạn. Ông là tác giả của.Truyện Kiều và Bắc hành tạp lục bài học tâm tình Việt đã thấm sâu vào hồn Việt và lan tỏa khắp thế giới. Nguyễn Du sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766, nhằm ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tại phường Bích Câu, ở Thăng Long, Hà Nội, mất ngày 16 tháng 9 năm 1820 nhằm ngày 10 tháng tám năm Canh Thìn.

Tổng luận Nguyễn Du và Truyện Kiều tóm tắt như sau



Vị thiền sư Linh Nhạc Phật Ý tại Tổ Đình chùa cổ Thủ Đức trong giấc mơ lạ Nguyễn Du nửa đêm đọc lại đã khuyên tôi viết Nguyễn Du trăng huyền thoại bằng cách lập “Nguyễn Du niên biểu luận” cuộc đời và thời thế Nguyễn Du để tìm hiểu về Người. Theo vị Thiền sư này thì dấu vết chứng cứ sự thật hàng năm của Nguyễn Du là chỉ dấu đáng tin cậy của thời ấy về những sự kiện trọng yếu của thời thế đã gợi ý chi phối thế xuất xử của Nguyễn Du bình sinh và hành trạng, để hậu thế chúng ta có thể hiểu đúng sự thật và huyền thoại về ông. Những sự kiện chính tại đàng Trong và đàng Ngoài với các nước liên quan trong hệ quy chiếu lấy chính Nguyễn Du và gia tộc của ông làm trung tâm sẽ là dẫn liệu thông tin thực sự có ích để thấu hiểu chính xác ẩn ngữ Truyện Kiều, lịch sử, văn hóa, con người, bối cảnh hình thành kiệt tác “300 năm nữa chốc mòng Biết ai thiên ha khóc cùng Tố Như” xem tiếp http://hoangkimlong.wordpress,com/category/nguyen-du-trang-huyen thoại

Tác phẩm bao gồm chín bài, mục lục như sau: 1 Nguyễn Du thơ chữ Hán Kiếm bút thấu tim Người, Đấng danh sĩ tinh hoa, Nguyễn Du khinh Thành Tổ, Bậc thánh viếng đức Hòa 2 Nguyễn Du tư liệu quý Linh Nhạc thương người hiền, Trung Liệt đền thờ cổ, “Bang giao tập” Việt Trung, Nguyễn Du niên biểu luận 3 Nguyễn Du Hồ Xuân Hương “Đối tửu” thơ bi tráng, “Tỏ ý” lệ vương đầy, Ba trăm năm thoáng chốc, Mại hạc vầng trăng soi. 4 Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ Uy Viễn “Vịnh Thúy Kiều”, Tố Như “Đọc Tiểu Thanh”, Bến Giang Đình ẩn ngữ, Thời biến nhớ người xưa. 5 Nguyễn Du thời Tây Sơn Mười lăm năm tuổi thơ, Mười lăm năm lưu lạc, Thời Hồng Sơn Liệp Hộ, Tình hiếu thật phân minh 6 Nguyễn Du làm Ngư Tiều Câu cá và đi săn, Ẩn ngữ giữa đời thường, Nguyễn Du ức gia huynh, Hành Lạc Từ bi tráng 7 Nguyễn Du thời nhà Nguyễn Mười tám năm làm quan, Chính sử và Bài tựa, Gia phả với luận bàn. Bắc hành và Truyện Kiều 8 Nguyễn Du tiếng tri âm Hồ Xuân Hương là ai, Kiều Nguyễn luận anh hùng, Thời Nam Hải Điếu Đồ, Thời Hồng Sơn Liệp Hộ 9 Nguyễn Du trăng huyền thoại Đi thuyền trên Trường Giang,Tâm tình và Hồn Việt, Tấm gương soi thời đại. Mai Hạc vầng trăng soi,

Tôi viết Nguyễn Du trăng huyền thoại cho những ai vốn thích Nguyễn Du và Truyện Kiều nhưng chỉ có sách Truyện Kiều và một ít bộ sách quý có liên quan mà chưa thể có thời gian đào sâu tìm hiểu về bộ kiệt tác văn chương Việt kỳ lạ này với những ẩn ngữ thời thế cuộc đời Nguyễn Du lắng đọng vào trang sách. Bạn đọc để đỡ tốn công, tôi xin có ít lời hướng dẫn cách đọc chùm 9 bài này như sau. Đầu tiên bạn nên đọc bảng Mục lục chín bài viết này và xác định mình cần đọc bài nào trong chín bài viết ấy sau đó bấm thẳng vào đường dẫn có tại trang ấy liên kết với chín bài; Thứ hai mời bạn đọc ngay bài bảy mục 2 va 3 đó là Chính sử và Bài tựa/ Gia phả với luận bàn. Muốn hiểu thêm Nguyễn Du trăng huyền thoại cần tìm đọc những sách và tác giả giới thiệu trong bài này và có sự định kỳ cập nhậti. Thứ ba Nguyễn Du là danh sĩ tinh hoa Việt Nam thời nhà Nguyễn Tổng luận Nguyễn Du và Truyện Kiều là sự suy ngẫm lắng đọng.

Nguyễn Du là danh sĩ tinh hoa Việt Nam thời nhà Nguyễn, là minh sư hiền tài lỗi lạc, là nhà thơ lớn danh nhân văn hóa thế giới, là một hình mẫu con người Việt Nam thuộc về văn hóa tương lai, là một tấm gương trong về phép ứng xử chí thiện, nhân đạo, minh triết giữa thời nhiễu loạn. Ông là tác giả của.Truyện Kiều và Bắc hành tạp lục bài học tâm tình Việt đã thấm sâu vào hồn Việt và lan tỏa khắp thế giới. Nguyễn Du sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766, nhằm ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tại phường Bích Câu, ở Thăng Long, Hà Nội, mất ngày 16 tháng 9 năm 1820 nhằm ngày 10 tháng tám năm Canh Thìn.

Tổng luận Nguyễn Du và Truyện Kiều tóm tắt như sau

1. Nguyễn Du không chỉ là nhà thơ lớn, danh nhân văn hóa thế giới mà còn là danh sĩ tinh hoa, đấng anh hùng hào kiệt minh sư hiền tài lỗi lạc.

2. Nguyễn Du rất mực nhân đạo và minh triết, ông nổi bật hơn tất cả những chính khách và danh nhân cùng thời. Nguyễn Du vượt lên vinh nhục bản thân giữa thời nhiễu loạn, vàng lầm trong cát để trao lại ngọc cho đời. “Nguyễn Du là người rất mực nhân đạo trong một thời đại ít nhân đạo” (Joocjo Budaren nhà văn Pháp). Ông chí thiện, nhân đạo, minh triết, mẫu hình con người văn hóa tương lai. Kiều Nguyễn Du là bài học lớn về tâm tình hồn Việt. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã thấm sâu vào hồn Việt và lan tỏa khắp thế giới.

3. Nguyễn Du quê hương và dòng họ cho thấy gia tộc họ Nguyễn Tiên Điền là dòng họ lớn đại quý tộc có thế lực mạnh “Triều đình riêng một góc trời/ Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”. Vị thế gia tộc Nguyễn Tiên Điền đến mức nhà Lê, họ Trịnh, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn đều tìm mọi cách liên kết, lôi kéo, mua chuộc, khống chế hoặc ra tay tàn độc để trấn phản. Nguyễn Du để lại kiệt tác Truyện Kiều là di sản muôn đời, kiệt tác Bắc hành tạp lục 132 bài, Nam trung tạp ngâm 16 bài và Thanh Hiên thi tập 78 bài, là phần sâu kín trong tâm trạng Nguyễn Du, tỏa sáng tầm vóc và bản lĩnh của một anh hùng quốc sĩ tinh hoa, chạm thấu những vấn đề sâu sắc nhất của tình yêu thương con người và nhân loại. Đặc biệt “Bắc Hành tạp lục” và Truyện Kiều là hai kiệt tác SÁCH NGOẠI GIAO NGUYỄN DU sử thi và tuyên ngôn ngoại giao nhân nghĩa làm rạng danh nước Việt được ghi trong chính sử nhà Nguyễn và và ngự chế Minh Mệnh tổng thuyết

4. Nguyễn Du niên biểu luận, cuộc đời và thời thế là bức tranh bi tráng của một bậc anh hùng hào kiệt nhân hậu, trọng nghĩa và tận lực vì lý tưởng. Nguyễn Du đã phải gánh chịu quá nhiều chuyện thương tâm và khổ đau cùng cực cho chính ông và gia đình ông bởi biến thiên của thời vận”Bắt phong trần phải phong trần.Cho thanh cao mới được phần thanh cao“. Nguyễn Du mười lăm năm tuổi thơ (1765-1780) mẹ mất sớm, ông có thiên tư thông tuệ, văn võ song toàn, văn tài nổi danh tam trường, võ quan giữ tước vị cao nơi trọng yếu; người thân gia đình ông giữ địa vị cao nhất trong triều Lê Trịnh và có nhiều người thân tín quản lý phần lớn những nơi trọng địa của Bắc Hà. Nguyễn Du mười lăm năm lưu lạc (1781- 1796) Thời Hồng Sơn Liệp Hộ (1797-1802) là giai đoạn đất nước nhiễu loạn Lê bại Trịnh vong, nội chiến, tranh đoạt và ngoại xâm. Nguyễn Du và gia đình ông đã chịu nhiều tổn thất nhưng ông kiên gan bền chí, tận tụy hết lòng vì nhà Lê “Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn. Để lời thệ hải minh sơn. Làm con trước phải đền ơn sinh thành“. Nguyễn Du thời Nhà Nguyễn (1802- 1820) ra làm quan triều Nguyễn giữ các chức vụ từ tri huyên, cai bạ, cần chánh điện đại hoc sĩ, chánh sứ đến hữu tham tri bộ lễ. Ông là nhà quản lý giỏi yêu nước thương dân, Nguyễn Du để lại Truyện Kiều và “Bắc Hành tạp lục” không chỉ là kiệt tác sử thi và tuyên ngôn ngoại giao nhân nghĩa  làm rạng danh nước Việt mà còn là di sản lịch sử văn hóa mẫu mực của dân tộc Việt.

5. Minh triết ứng xử của Nguyễn Du là bậc hiền tài trước ngã ba đường đời là phải chí thiện và thuận theo tự nhiên “Tùy cơ, tùy vận, tùy thiên mệnh, tùy thời, tùy thế, lại tùy nghi” Nguyễn Du ký thác tâm sự vào Truyện Kiều là ẩn ngữ ước vọng đời người, tâm tình và tình yêu cuộc sống “Thiện căn cốt ở lòng ta, Chữ tâm kia mới thành ba chữ tài” .

6. Truyện Kiều có tầm ảnh hưởng rất sâu rộng đã trở thành hồn Việt, và là tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam được dịch ra hơn 20 thứ tiếng và trên 73 bản dịch. Giá trị tác phẩm Kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du có sự tương đồng với kiệt tác Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần.nhưng khác chiều kích văn hóa giáo dục và giá trị tác phẩm.

7. Nhân cách, tâm thế của con người Nguyễn Du đặt trong mối tương quan với Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh của thời đại Hậu Lê Trịnh – nhà Tây Sơn – đầu triều Nguyễn; khi so sánh với Tào Tuyết Cần là văn nhân tài tử của thời đại cuối nhà Minh đến đầu và giữa nhà Thanh thì vừa có sự tương đồng vừa có sự dị biệt to lớn.

8. Gia tộc của Nguyễn Quỳnh – Nguyễn Thiếp – Nguyễn Du tương đồng với gia tộc của Tào Tỷ – Tào Dần – Tào Tuyết Cần nhưng nền tảng đạo đức văn hóa khác nhau  Nhấn mạnh điều này để thấy sự cần thiết nghiên cứu liên ngành lịch sử, văn hóa, con người tác gia, bởi điều đó chi phối rất sâu sắc đến giá trị của kiệt tác.

9. Nguyễn Du trăng huyền thoại gồm tư liệu 540 trang, là vầng trăng huyền thoại soi sáng thời đại Nguyễn Du. (Mục lục của chuyên luận này gồm 9 bài như đã trình bày ở phần trên).

10. Tôi tin Nguyễn Du trăng huyền thoại sẽ có những người trung thực, cao quý duyệt lại và bổ túc cho khảo cứu nhọc nhằn, lấm bụi thời gian này. Tôi kính trọng được trao lại những trang viết tuy chưa tới đích nhưng tâm nguyện tốt và đúng hướng, giúp cho những người nghiên cứu nghiêm cẩn, tận tụy tiếp tục sự tìm tòi làm sáng lên sự thật và nhân cách cao quý của những bậc hiền nhân. Họ là ngọc cho đời, chọn lối sống phúc hậu, an nhiên, tri túc, thanh đạm, đạt hiếu trung đầy đủ, nhưng vì thời thế nhiễu loạn, nên ngọc trong đá, vàng lầm trong cát đấy thôi

Tài liệu tham khảo chính

1. Nguyễn Du tiểu sử trong sách Đại Nam liệt truyện chính biên sơ tập Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, người dịch Đỗ Mộng Khương, người hiệu đính Hoa Bằng, Viện Sử học Việt Nam, Nhà Xuất bản Thuận Hóa, Huế 2006, trang 400 /716 Tập 2; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-trang-huyen-thoai/

NHỚ ĐÀN KHÊ LƯU BỊ

Thiền sư Linh Nhạc Phật Ý nhắc chuyện “Nhớ Đàn Khê Lưu Bị: và khuyên tôi cố gắng ‘tận nhân lực tri thiên mệnh’. Người ấy có vị thần nào bảo hộ vậy?, chính là khoảnh khắc sinh tử ấy.

Phi ngựa qua Đàn Khê” Tam quốc diễn nghĩa được đời sau người đưa tin thuật tóm tắt https://www.nguoiduatin.vn/tam-quoc-dien-nghia-thuc-hu-than-tich-luu-bi-phi-ngua-qua-suoi-dan-khe-a469579.html

Đích Lô vốn là ngựa của Trương Vũ, một tướng dưới trướng danh sĩ dòng dõi hoàng tộc thời nhà Hán là Lưu Biểu. Sau này, Trương Vũ phản bội lại Lưu Biểu. Lưu Bị (người sáng lập ra nhà nhà Thục Hán) bị thất bại trong trận giao chiến với Tào Tháo nên về đầu quân cho Lưu Biểu vì hai người cùng trong hoàng thất, đợi thời cơ làm lại sự nghiệp.

Lưu Bị cưỡi ngựa Đích Lô vượt suối Đàn Khê.

Lưu Bị nhìn thấy ngựa của Trương Vũ cho rằng đây là một con tuấn mã, liền hết lời ca ngợi rằng “con ngựa này chắc chắn là ngựa thiên lý”. Tướng của Lưu Bị lúc đó là Triệu Vân lập tức hiểu ngay ý của chủ nhân, liền lấy ngựa cho ông.

Khi Lưu Biểu nhìn thấy con ngựa này cũng khen không ngớt lời. Lưu Bị đang không biết lấy gì để báo đáp Lưu Biểu liền tặng con ngựa này cho Lưu Biểu. Không ngờ, Lưu Biểu lại thấy con ngựa này “có quầng mắt, trên đầu có những đốm trắng, lại tên Đích Lô, ắt là con ngựa sát chủ”, còn nói rằng “Trương Vũ cưỡi con ngựa này bị chết” chính là minh chứng, nên vội vàng tìm cớ trả lại cho Lưu Bị.

Người hầu của Lưu Bị đem tin “ngựa sát chủ” nói cho Lưu Bị, nhưng Lưu Bị không tin. Sau đó, khi Khoái Việt và Thái Mạo muốn dồn Lưu Bị vào chỗ chết, Lưu Bị vội vàng thoát ra ngoài, cưỡi ngựa Đích Lô chạy trốn, nhưng bị nhầm đường, ông chạy đến bên suối Đàn Khê.

Phía trước là con suối rộng lớn, phía sau là quân địch truy đuổi, lúc này Lưu Bị mới nhớ đến lời khuyên “Đích Lô sát chủ” ngày trước, ông vừa điên cuồng quất vào lưng ngựa, vừa hét: “Đích Lô! Đích Lô! Hôm nay mày hại ta đi!“. Đích Lô bỗng nhiên vùng lên, phi một phát sang bờ bên kia, lập một kỳ tích chưa từng có trong lịch sử. Sau đó, Lưu Bị càng không tin chuyện “Đích Lô sát chủ” , ông càng yêu quý con ngựa đã cứu mạng mình này hơn.

TẮM TIÊN CHƯ JANG SIN
Hoàng Kim

Chư Yang Sin Chư Yang Sin
Tượng đá ẩn mình ở suối thiêng
Mây núi trời thương che tình ái
Mưa xuân đất cảm lắng tâm thiền
Một bầu trí huệ trầm hương lắng
Hai túi càn khôn dịch cân kinh
Hoàng Dược Sư rừng sâu tỉnh lặng
Non xanh nước biếc thích an nhiên

Tắm tiên ở Chư Yang Sin 1

Thiên Thai lạc bước đỉnh ngàn mây
Hạ giới quên đường tít chim bay
Vườn Tượng nai thưa sương xuống mỏng
Đào Nguyên hoa kín cỏ lên dày
Tiên Cô suối biếc yêu đời thế
Chúa Liễu rừng thông thoải mái thay
Bồng Lai nơi ấy rồng tiên ẩn
Ai thích tiêu dao hợp chốn này.

Chư Yang Sin là rừng đặc dụng của Vườn Quốc gia Việt Nam, nằm trên địa bàn xã Yang Mao, Cư Drăm, Cư Pui, Hoà Phong, Hoà Lễ, Hoà Sơn, Khuê Ngọc Điền huyện Krông Bông với Yang Tao, Bông Krang, Krông Nô, Đắk Phơi huyện Lắk, tỉnh Đăk Lăk.  Chư Yang Sin có đỉnh núi cao 2.442 mét, cao nhất hệ thống núi cao cực Nam Trung Bộ. Vườn Quốc gia Chư Yang Sin được thành lập ngày 12 tháng 7 năm 2002 theo quyết định số 92/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Tắm tiên Chư Jang Sin là quà tặng cuộc sống, tắm mình trong nguồn năng lượng vô tận của trời xanh, cây xanh, gió mát và không khí an lành . https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tam-tien-chu-yang-sin/ và video https://youtu.be/Vm9mRoYBnnQ Thông tin tích hợp tại

TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim
#Thungdung#dayvahoc, #vietnamhoc#cnm365#cltvn; #đẹpvàhay;
Ngày mới lời yêu thương (hình) https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ngay-moi-loi-yeu-thuong ; Tắm tiên Chư Yang Sin https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tam-tien-chu-yang-sin/ ; Thế giới trong mắt ai https://hoangkimlong.wordpress.com/category/the-gioi-trong-mat-ai ; #cnm365 #cltvn 15 tháng 3 https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-15-thang-3/ ; https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tinh-thuc-cung-thang-nam/https://hoangkimvn.wordpress.com/tag/tinh-thuc-cung-thang-nam/

‘Con đường yêu thương’ và ‘Mưa xuân’ là hai bài thơ ký ức không quên của Hoàng Kim

CON ĐƯỜNG XANH YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim

Rời phố khi trời ưng ửng sớm
Về rừng lúc đất tỏa hương khuya
Mai núi nghiêng soi bên suối biếc
Bình yên xóm nhỏ tiếng chim gù …

GIỐNG SẮN KM419 Ở ĐĂK LĂK

Ngày tháng nhọc nhằn năm tháng nhớ thương
https://cnm365.wordpress.com/2016/04/13/mua-xuan/

Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là tay-nguyen-ban-toi-o-noi-ay-1.jpg

MƯA XUÂN
Hoàng Kim

Được nói lời yêu, lời hờn giận
Được chờ tin nhắn, ngóng câu thương
Đời chợt an nhiên, người chợt hiểu
Thoáng chốc mưa xuân đã ướt đường.

Tam tien o Chu Jang Sin

SUỐI ĐÁ THIÊNG NĂNG LƯỢNG
Chư Yang Sin có đỉnh núi cao 2.442 mét, cao nhất hệ thống núi cao cực Nam Trung Bộ Vườn Quốc gia Chư Yang Sin là địa danh thiêng ở Tây Nguyên. Chu Yang Sin có suối đá thiêng năng lượng có hình một người phụ nữ mà ai được phước sờ lên đá, Người dân tộc họ rất tin thần Núi và nữ thần suối đá, nguồn nước tinh khiết trên núi cao và họ cho rằng tắm tiên ở Chu Yang Sin và ngồi lên phiến đá hình người , tưa lưng vào bản thể làm Mẹ sẽ dồi dào thêm sức khỏe và năng lượng.

Bạn có tin vào sự giao cảm giữa vũ trụ, đất nước. cây cỏ và con người không? Nhà văn hóa Nguyên Ngọc có bài “Nước mội rừng xanh và sự sống” Một người bạn quý đã nói với tôi rằng nếu tôi thành tâm làm điều thiện lành thì nữ thần đá năng lượng sẽ giúp tôi khai mở vòng luân xa thứ nhất, thứ hai, thứ ba của tuệ giác.
Tôi tin và có tắm tiên Chư Yang Sin và có … phơi quần ướt lên đấy, với cảm nhận hình như năng lương dồi dào hơn. Tôi kể bạn nghe duyên may tuyệt vời này.

VÃN CẢNH HỒ TRONG SƯƠNG MÂY
Phan Lan Hoa

Sớm xuân lên núi vãn hồ mây
Nước biếc thiên nga sải trắng bay
Khóm trúc ven bờ mây vấn lá
Cầu cong lối nhỏ khói đan dày
Mười hai La Hán nghiêm tư thế
Một ông Di Lặc đường bệ thay
Ai bảo lên trời chờ tới số
Bồng Lai thơ thới bước tiên này.

PhuongHoangđatvuonnhatoi

Tắm tiên Chư Yang Sin, sau câu chuyện này có Chim Phượng về làm tổ ở nhà tôi. Đó là câu chuyện lạ. Nữ thần Hòn Bà Trầm Hương và suối đá Chư Yang Sin kể tôi nghe Ma Jaya Sati Bhagavati có một người thầy tinh thần, nhìn xa trông rộng. Nữ thần dạy chúng ta rằng thiên tính là cuối cùng không thể tả và không có hình thức, Cô nói với chúng ta rằng tất cả các con đường của tình yêu có thể dẫn đến sự thức tỉnh tâm linh. Nhấn mạnh sự phát triển tinh thần cá nhân, cô dạy mọi người tìm kiếm ở tất cả các cấp độ mà không yêu cầu người học làm theo bất kỳ các chủ thuyết hay tín ngưỡng nào. Hoặc, như cô thường nói: “Đây không phải là một tôn giáo!” Cô khuyến khích học viên sử dụng và thực hành tử tế những gì cô gợi ý theo cách riêng của họ. (Ma Jaya Sati Bhagavati is a spiritual teacher, and visionary. She teaches that divinity is ultimately beyond words and without form. She tells us that all paths of love can lead to spiritual awakening. Emphasizing individual spiritual growth, she teaches seekers at all levels and does not ask her students to follow any particular set of doctrines or beliefs. Or, as she often says, “This is not a religion!” She encourages her students to use what she teaches within their traditions, and to practice kindness).

Mời bạn xem tiếp Chuyện ngậm ngãi tìm trầm

MaiBoDe

Khi bạn gieo giống tình yêu, nó là bạn và là hoa.
When you plant the seed of love, it is you that blossoms.

BẢY NÚI THIÊN CẤM SƠN
Hoàng Kim


KÊ CAO GỐI MÀ NGỦ. Bác Hồ khi vận nước gian nan, trong ngoài rối như tơ vò, Bác chỉ nhắm đến độc lập dân tộc và cố kết lòng dân. Bác nói: “Nay, tôi chỉ có một tin tưởng vào Dân tộc độc lập. Nếu (tôi) cần có đảng phái thì sẽ là Đảng dân tộc Việt Nam. Đảng đó sẽ chỉ có một mục đích làm cho dân tộc ta hoàn toàn độc lập. Đảng viên của đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô ra ngoài”. (HỒ CHÍ MINH; trích dẫn tại #cnm365#cltvn 9 tháng 6 https://hoangkimvn.wordpress.com/2022/06/09/cnm365-cltvn-9-thang-6/). May thay vận nước thời nay, thế giới thật khó lường, kế hiểm mưu sâu khó đoán , nhưng “Việt Nam con đường xanh” dường như “bảo tồn phát triển bền vững”. Phúc lắm thay ! Hưu trí may được an nhiên, kê cao gối mà ngủ.

Nhớ “Bảy Núi Thiên Cấm Sơn” và việc mới sắp làm. Chúng ta cứ phúc hậu, #Thungdung đi tới chẳng màng danh lợi, khen chê https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bay-nui-thien-cam-son/

An Giang có Bảy Núi
Huyền thoại Thiên Cấm Sơn
Chuyện cổ tích người lớn
Huế có Thiên Thụ Sơn

Linh Nhạc thương người hiền
Nguyễn Du trăng huyền thoại
Đá Đứng chốn sông thiêng
Đại Lãnh nhạn quay về

Lênh đênh cửa Thần Phù
Lên Thái Sơn hướng Phật
Trúc Lâm Trần Nhân Tông
Bảy Núi Thiên Cấm Sơn

Tu Phật tới Phú Yên
Tu Tiên lên Bảy Núi
Đức lớn nuôi chí bền
Đường trần đi không mỏi

Trịnh Hoài Đức (1765-1825) với “Gia Định thành thông chí” có sự thật và huyền tích được bảo tồn tại Tổng tập Dư địa chí Việt Nam tập 3 Phương chí , trang 99-302 trong thư mục “Việt Nam dư địa chí” https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-du-dia-chi/. Sách rất quý này, có nhiều thông tin ẩn tàng về “Bảy Núi Thiên Cấm Sơn”. Nay nhân việc chuẩn bị giống tốt cho vụ sắn mới tại tỉnh Phú Yên, tôi chọn chép lại một ít trích lục để lưu lại, nhằm hiến tạng bạn cùng đọc, sau các bài viết cũ “Bảy Núi Thiên Cấm Sơn”. Mời bạn đọc kỹ lại hầu hết các đường dẫn tại các bài việt cũ để dễ hiểu bài mới , giúp sự vui dạy và học nông nghiệp du lịch sinh thái có hệ thống https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bay-nui-thien-cam-son/

AN GIANG CÓ BẢY NÚI

Năm 1997-2005, tôi có chín năm thường xuyên đi lại làm đề tài ở vùng Bảy Núi Thất Sơn, và đã có kể chuyện “Kênh ông Kiệt giữa lòng dân“, “Bảy Nhị kênh ông Kiệt và tôi“, “Ông Bảy Nhị An Giang” “Bảy Núi Thiên Cấm Sơn“, … với bạn đọc trong dịp trước. Nhưng đó chỉ là những ghi chú nhỏ (Notes) kèm nhiều hình..

Thuở đó, ông Cao Đức Phát sau là Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn cũng có thời gian ngắn “luân chuyển cán bộ” về An Giang, anh Lê Minh Tùng sau này là Phó Chủ tịch tỉnh kiêm Hiệu trưởng Trường Đại học An Giang và anh Ngô Vi Nghĩa, anh Bảy Dế vẫn thường lội ruộng cùng chúng tôi. Trong những câu chuyện miên man về văn hóa xã hội vùng Bảy Núi, tôi có loáng thoáng biết chuyện dì Ba trên đỉnh núi Mồ Côi Thiên Cấm Sơn, nhưng do mãi bận việc thực hiện các thí nghiệm dưới chân núi, như hình đầu trang, nên tôi chưa để ý.

Bảy Núi là bảy ngọn núi tiêu biểu trong số 37 ngọn núi ở hai huyện Tri Tôn Tịnh Biên tỉnh An Giang. Tôi có một thuở đi về dưới chân núi này. Theo Nguyễn Văn Hầu 1955 trong sách “Thất Sơn mầu nhiệm” thì Bảy Núi gồm “Tượng, Tô, Cấm, Trà Sư, Két, Dài, Bà Đội Ôm” là vùng đất thiêng nơi lưu truyền câu ca cổ “Tu Phật Phú Yên, tu tiên Bảy Núi” Vùng Bảy Núi xưa kia là đất của Chân Lạp, Chúa của đất Chân Lạp là Nặc Ông Tôn được chúa Nguyễn giúp đỡ đã trở lại được ngôi vua. Nặc Ông Tôn để ta ơn đạ hiến đất Tầm Phong Long, trong đó có Bảy Núi cho chứa Nguyễn vào năm 1757. Thiên Cấm Sơn (núi Cấm) nghe nói thuở xưa rất hoang vu, có câu chuyện rắn thần đánh cọp và Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần và Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương đã về lánh ẩn ở đất này và đều bị Long Nhương thượng tướng quân Nguyễn Huệ truy bắt đuổi cùng giết tận tại đất này, chỉ còn người cháu của Thái Thượng Vương là Nguyễn Phúc Ánh chạy thoát được, sau này diệt nhà Tây Sơn và nối nghiệp nhà Nguyễn.

HUYỀN THOẠI THIÊN CẤM SƠN

Bảy Núi là phên dậu chốn biên thùy. Vua Gia Long đã từng nói: “Địa thế Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên không kém Bắc Thành“.

(*) Bắc thành thời vua Gia Long và vua Minh Mệnh có sách Bắc thành dư địa chí là bộ sách gồm bốn quyển do tiến sĩ Lê Công Chất (còn gọi là Lê Chất, ?-1826) quan tổng trấn Bắc thành biên soạn, có sự tham gia của các nho sĩ ở Bắc Hà, dưới thời vua Minh Mệnh. Lê Chất là võ tướng quê Bình Định lúc đầu theo Tây Son làm Đại đô đốc. Về sau ông theo Nguyễn Ánh (tức vua Gia Long) chống lại nhà Tây Sơn, giúp Nguyễn Vương lấy lại kinh đô Phú Xuân từ tay vua Quang Toản (con trai vua Quang Trung Nguyễn Huệ) và chiếm Bắc Hà (Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ). Dưới triều vua Gia Long (1802-1819) Lê Công Chất được phong Khâm sai Chưởng hậu quân Bình Tây tướng quân. Dưới triều Minh Mạng (1820-1840) ông được cử làm Tổng trấn Bắc Thành. Trong thời gian này ông đã biên soạn sách Bắc Thành địa dư chí có sự tham gia của các nho sĩ đương thời và theo sự chỉ đạo tổ chức của ông. Sau khi Lê Công Chất qua đời , vua Minh Mạng nghi ngờ Lê Công Chất rất hà khắc san bằng mồ mả, giết vợ con và tịch thu tài sản của ông.. Vua Tự Đức năm 1868 đã xóa án cho Lê Công Chất và truy phục chức vụ, tước vị cho ông . Sách Bắc Thành Địa Dư Chí được ông Vĩnh Xương Nguyễn Đông Khê sao lục bổ sung và viết bài tựa ( Tổng tập Dư Địa Chí Việt Nam Quyền 3, phương chí, trang 1103-1286)

CHUYỆN CỔ TÍCH NGƯỜI LỚN

Võ Đắc Danh có hai bài ký “Cổ tích trên đỉnh Mồ Côi” và “Người đàn bà mê núi” kể về Bảy Núi. Bạn hãy cùng tôi đọc lời cảm nhận của Nguyễn Quang Lập: “Cổ tích trên đỉnh mồ côi” kể về hai má con dì Ba và anh Bông đã nhận nuôi 12 đứa trẻ bị bỏ rơi từ các bệnh viện. Cái kí đọc một lần là nhớ đời. Mình là chúa hay quên tên, đến tên nhân vật tiểu thuyết của mình cũng phải nhờ thằng Nguyên (Phạm Xuân Nguyên) nhắc giùm nhưng tên hai má con dì Ba và anh Bông khiến mình nhớ mãi. Thằng này viết thật khéo, nó cứ kể tưng tửng vậy thôi mà ứa nước mắt. Nhớ nhất câu nói của anh Bông, khi người ta hỏi sao không lấy vợ, anh nói: “Tụi nó đã khổ từ trong bào thai rồi, tôi không muốn tụi nó phải khổ vì mẹ ghẻ”. Cái câu này mình cũng nhớ như in, vì lời nói chân chất của anh Bông lại chính là một câu thoại rất đặc sắc, nó vừa đưa thông tin, vừa thể hiện tính cách nhân vật và chứa đựng cái “ý tại ngôn ngoại” về tấm lòng một người cha của những đứa trẻ mồ côi”.

Bạn đọc hẳn nhớ Võ Đắc Danh là người viết “Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê” mà tôi đã từng kể trong Sơn Nam ông già Nam Bộ. Cái anh nhà báo Võ Đắc Danh có lối viết thân phận thật đằm và sâu: “Dường như với Sơn Nam, mọi thứ đều rất thực tế và rất đơn giản. Trong câu chuyện Âm dương cách trở của ông cách nay gần 20 năm, tôi vẫn bị ám ảnh một chi tiết: “Ông già hớt tóc vỉa hè bị công an khu vực xét hộ khẩu, ông nói: “Tôi sống ở đây gần trọn một đời người, chỉ biết mình là công dân của Tổ quốc Việt Nam thôi”. Anh công an hỏi: “Vậy theo ông thế nào là Tổ quốc?”. Ông già nói: “Với tôi, Tổ quốc là một nơi kiếm sống được bằng một việc lương thiện nào đó, không bị ai làm khó dễ, có vài người bạn chơi được, không ba trợn”. Ông già hớt tóc sau đó qua đời, được một người bạn thầy tu cho hỏa táng và mang hũ hài cốt về quê ở U Minh”.

Nay mời bạn hãy cùng tôi đọc ba cái ký sau đây của Võ Đắc Danh để biết thêm một câu chuyện về Bảy Núi Thiên Cấm Sơn. Xưa và nay Bảy Núi Thiên Cấm Sơn “ngọa hổ tàng long” vẫn ẩn tàng nhiều huyền thoại, như chuyện Kênh ông Kiệt giữa lòng dân vậy.

xem tiếp

CỔ TÍCH TRÊN ĐỈNH MỒ CÔI
Võ Đắc Danh

Trên đỉnh Mồ Côi núi Cấm, An Giang, có hai mẹ con dì Võ Thị Ba, 70 tuổi và anh Nguyễn Tấn Bông, 42 tuổi, đang làm rẫy, nuôi 10 đứa trẻ mồ côi do mẹ vì lý do nào đó bỏ rơi tại bệnh viện Cần Thơ…

Nay anh Bông chỉ còn 10 đứa, một đứa bệnh nặng qua đời, một đứa con gái bị cô em “giựt” về nuôi

10 năm sau kể từ ngày lên núi Cấm, hai mẹ con anh Nguyễn Tấn Bông đã tích lũy được vài chục cây vàng. Mẹ anh giục anh đi cưới vợ. Tuổi đã sắp 40 rồi. Nhưng 10 năm sống ở đây, Bông chưa hề quen được một người bạn gái. Thế rồi bỗng dưng năm năm qua, ông trời cho Bông liên tục 12 đứa con, mười trai hai gái. Một đứa con trai bị bệnh nặng không cứu được, một đứa con gái bị đứa em xin về nuôi.

Nhận đứa con đầu

Số là, năm 2002, dì Ba với anh Bông về Cần Thơ thăm đứa cháu gái trong bệnh viện đa khoa. Tình cờ, dì nghe được câu chuyện một thai phụ nghèo không có tiền nhập viện, ôm bụng ngồi khóc quằn quại trên ghế đá trước sân khoa sản. Anh Bông đưa dì Ba vào thăm, cho tiền và làm thủ tục cho chị ta nhập viện. Sau khi thằng bé ra đời, người sản phụ kia quỳ lạy tạ ơn và nói ra sự thật: “Cháu ở trong quê, chồng chết, nhà nghèo phải đi làm phụ hồ để nuôi một đứa con. Nhưng vì nhẹ dạ nên cháu bị tay thợ hồ lường gạt. Giờ nếu ẵm con về thì không biết lấy gì nuôi…”

Hai mẹ con dì Ba cho người mẹ ít tiền và vàng làm vốn kiếm sống và xin đưa thằng bé về nuôi. Dì nói: “Sau này nếu có muốn nhận con thì cứ lên đó, tôi giao lại. Điện thoại của tôi là 0986544323”.

Trước khi ẵm thằng bé ra về, dì Ba để lại số điện thoại cho các bác sĩ và hộ lý của khoa sản cùng với lời căn dặn: “Từ nay về sau, nếu có trường hợp tương tự như vậy, các cô gọi điện cho mẹ con tôi. Trước hết là mình giúp người ta mẹ tròn con vuông, sau đó, nếu người ta vì lý do gì mà không nuôi được thì mình đem về nuôi giúp”.

Thêm 11 đứa khác

Cứ thế, sau mỗi cú điện thoại: “Em ở khoa sản, bệnh viện đa khoa Cần Thơ…” là trong nhà anh Bông thêm một tiếng khóc trẻ sơ sinh.

Anh Bông kéo đám trẻ vào lòng, vừa xoa đầu, vừa kể về hoàn cảnh ra đời của từng đứa một: “Đây là thằng Nguyễn Sơn Ngọc, đứa đầu tiên con của chị phụ hồ đây. Còn đây là thằng Nguyễn Sơn Thanh, đẻ được hai ngày thì mắc bệnh phổi. Tôi với má tôi lên giúp một triệu đồng, nhưng không ngờ mẹ nó cầm một triệu đồng rồi bỏ trốn. Thằng nhỏ mới hai ngày tuổi mà phải thở oxy, ngậm ống sữa và truyền nước biển. Tôi với má tôi phải ở lại bệnh viện nuôi nó 20 ngày. Giờ đây nó cứ sân sẩn. Còn đây là thằng Nguyễn Sơn Giàu, mẹ nó là một cô gái nghèo đi mót lúa ở Vị Thanh, phải lòng một thằng chăn vịt, mang thai lúc mới mười bảy tuổi, sợ bị phát hiện nên dùng dây thun nịt bụng rồi trốn sang ở nhà bà ngoại. Khi chúng tôi đến bệnh viện thì nghe nói nó bị đứt tim thai, phải mổ bỏ con để cứu mẹ. Nhưng không ngờ nó được cứu sống. Nó sống, nhưng mẹ nó không dám mang nó về nhà…

Mười hai đứa trẻ trong căn nhà này là mười hai câu chuyện khác nhau, nhưng đều giống nhau ở chỗ, chúng là sản phẩm của những cuộc tình vụng trộm từ trong nhà trọ đến màn trời chiếu đất ngoài đồng. Anh Bông kết thúc câu chuyện thứ mười hai bằng một nỗi buồn: “Nó là Nguyễn Sơn Thành, đang nằm trên núi. Khi tôi với má tôi đến thì mẹ nó đã bỏ đi, nó nằm trong phòng cấp cứu suốt hai mươi ngày với chứng bệnh não úng thuỷ, một chứng bệnh ngặt nghèo. Tôi với má tôi rất đắn đo, cuối cùng thì không thể quay lưng trước một hài nhi vô tội. Nhưng suốt ba tháng, thằng bé cứ khóc ngày khóc đêm, đầu to dần, mắt đờ đẫn. Tôi ẳm nó trở lại bệnh viện, nơi nó cất tiếng khóc chào đời, bác sĩ nói ở đây không có khả năng điều trị, tôi đưa nó lên bệnh viện nhi Đồng 2, người ta nói phải phẫu thuật để đặt ống dẫn, sẽ rất tốn tiền nhưng không khả thi. Và đúng là như vậy, tôi đã bán miếng đất lấy mấy chục triệu đồng để mong nó sống, nhưng hơn hai năm sau thì nó ra đi”.

Qua câu chuyện buồn ấy, Bông lại ôm mấy đứa nhỏ vào lòng: “Tôi còn mười một đứa, chín trai, hai gái. Nhưng năm rồi, nhỏ em ở Cần Thơ lên chơi, thấy bé Cẩm Như đẹp quá, nó nói cho mượn về chơi mấy tháng, nói vậy rồi nó giựt luôn không trả…”

Nhắc đến chuyện cưới vợ, Bông lại cười: “Tụi nó đã khổ từ trong bào thai rồi, tôi không muốn tụi nó phải khổ vì mẹ ghẻ”.

Bông trầm ngâm cho biết thêm về chuyện có thêm con: “Má tôi năm nay bệnh nhiều quá, sắp gần đất xa trời rồi. Tôi muốn dành thời gian cho má”. Còn chuyện học hành của mấy đứa nhỏ, Bông cũng lại trầm ngâm: “Thằng Sơn Ngọc năm nay lẽ ra phải lên lớp lá, thằng Sơn Thanh phải là lớp chồi, thằng Sơn Giàu phải là lớp mầm. Tôi đã tâm nguyện phải cho chúng nó học tới cùng. Tiền bạc thì tôi không lo, trước mắt, nguồn lợi từ mười lăm mẫu đất cũng đủ trang trải, sau này, khi chúng nó học lên cao thì mình bán đất. Nhưng, cái khó là chỗ ở. Thằng Sơn Ngọc năm tới sẽ tạm thời gởi cho nhỏ em ở Cần Thơ. Nhưng không thể gởi hết cả mười đứa. Còn mua nhà ở dưới đó thì ai chăm sóc, mà tôi đi thì ai ở đây lo vườn tược, cây trái cho mình. Càng nghĩ càng thấy rối…”
Thưa bạn đọc!

Câu chuyện cổ tích trên đỉnh Mồ Côi xin tạm dừng ở đây, bởi người kể chuyện chưa trả lời được câu hỏi sau cùng rằng: khi bà Tiên qua đời, anh tiều phu có lo cho những thiên thần bé nhỏ ấy học hành đỗ đạt hay không. Những câu chuyện cổ tích bao giờ cũng đi đến một kết thúc có hậu. Nhưng dân gian thường hay lý giải sự bế tắc bằng những phép mầu. Và tôi hy vọng trong câu chuyện này, sẽ có một phép mầu nào đó đến với anh Bông. Phép mầu ấy chính là cái tâm đang ẩn chứa đâu đây, trên cõi đời này.


NGƯỜI ĐÀN BÀ MÊ NÚI
Võ Đắc Danh

Dì Ba kể rằng, quê dì ở Bình Thuỷ, Cần Thơ. Ngày xưa dì từng là chủ xe đò. Năm 1980, có lần dì theo xe đưa người đi nghĩa vụ quân sự qua Thất Sơn, bỗng dưng mê núi. Từ đó, thỉnh thoảng là dì “đi núi”, không phải viếng chùa cúng miễu gì cả, dì không theo đạo nào.

Một hôm, dì nói với các con: “Tao bán nhà lên núi Cấm ở”. Bông, con trai út của dì lúc bấy giờ mới 26 tuổi, nói: “Má đi con đi theo má”. Cuối năm 1991, dì bán căn nhà được ba lượng vàng, dẫn anh Bông lên xe đò đi Núi Cấm. Anh Bông kể: “Đầu tiên khi đến đây, hai mẹ con tôi mua một căn nhà nhỏ dưới chân núi để mở quán cà phê. Nhưng ồn ào, má tôi thấy khó chịu. Biết tính má tôi muốn sống yên tĩnh một mình nên tôi tìm đường lên đỉnh Mồ Côi mua ba mẫu đất giá hai chỉ vàng.

“Từ chân núi lên tới đỉnh Mồ Côi, hồi ấy chỉ có con đường mòn len lỏi theo con suối Thanh Long, độ đường quanh co gần mười cây số, lên xuống nhiều con dốc, lởm chởm đất đá, đầy nguy hiểm, nhọc nhằn. Cách một hai cây số mới có một ngôi nhà. Rừng núi hoang vu buồn đứt ruột. Vậy mà má tôi kiên quyết ở đây”.

Hồi mới lên, anh Bông đi gánh mướn các loại đồ rẫy cho những gia đình trên núi. Nào su, nào chuối, nào xoài, nào mít, nào măng…, mỗi gánh bảy mươi ký, mỗi ký hai trăm đồng, mỗi ngày anh gánh hai chuyến từ đỉnh xuống chân núi, có khi chuyến lên gánh thêm gạo, cát, đá, xi măng, gạch ngói. Cái may mắn của anh Bông là, từ chiến trường Campuchia vừa xuất ngũ trở về, đôi chân và cả phần tâm linh còn quen với núi rừng bên ấy.

Ban đầu, anh Bông vừa gánh thuê, vừa học nghề làm rẫy. Mấy năm sau, ba mẫu đất của anh đã thành một khu vườn. Từ đó Bông không còn đi gánh hàng thuê nữa mà gánh thành quả của chính mình. Thấy anh làm giỏi, chi cục kiểm lâm giao cho anh quản lý thêm 12 mẫu, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm mươi năm…

TRỞ LẠI ĐỈNH MỒ CÔI
Võ Đắc Danh


Kể xong câu chuyện Cổ tích trên đỉnh Mồ Côi, tôi vẫn còn ray rứt trước hai vấn nạn: một, liệu anh Bông có lấy vợ được không ở cái tuổi bốn lăm? Người phụ nữ, dù có rộng lượng đến đâu cũng không thể ưng một người chồng đang nuôi 11 đứa con nheo nhóc. Hai, chuyện học hành của 11 đứa trẻ ấy ra sao giữa đỉnh núi cao heo hút, đường đến trường quanh co, năm ba cây số, dốc núi dựng đứng, trập trùng? Tôi đã gởi vào đoạn kết một nỗi lo cùng với một niềm tin mong manh, rằng: “Khi bà tiên qua đời, liệu anh tiều phu có lo cho những thiên thần bé nhỏ ấy học hành đỗ đạt hay không? Những câu chuyện cổ tích bao giờ cũng đi đến một kết thúc có hậu. Và tôi hy vọng trong câu chuyện này, sẽ có một phép mầu nào đó đến với anh Bông. Phép mầu ấy chính là cái tâm, là lòng nhân ái đang ẩn chứa đâu đây, trên cõi đời này”.
Và, cái phép mầu ấy đã đến với anh Bông và những đứa trẻ mồ côi sau khi câu chuyện được kể trên Sài Gòn Tiếp Thị.

Một buổi tối, dì Ba gọi điện cho tôi, nói nửa đùa nửa thật: “Mấy ngày qua có nhiều cô từ miền Trung đến miền Tây, rồi cả bên Mỹ gọi điện cho thằng Bông để chia sẻ, bày tỏ tình cảm, nhã ý muốn lên đây làm mẹ của mấy đứa nhỏ, giờ con tính sao?”

Gần một năm sau tôi trở lại đỉnh Mồ Côi thì câu chuyện cổ tích đã có nhiều thay đổi không ngờ. Đường lên đỉnh núi đã được tráng xi măng để xe gắn máy dễ dàng lên xuống, anh Bông cho biết, ngay tuần đầu sau khi câu chuyện lên báo, nhiều tổ chức, cá nhân đã mang tiền lên giúp, kẻ ít người nhiều, trước hết là giúp anh làm con đường bê tông để giảm bớt nỗi nhọc nhằn khi lên xuống núi. Có một câu chuyện rất cảm động mà dì Ba nói rằng dì sẽ giữ bí mật cho đến khi nào tôi trở lại để dành cho tôi một sự ngạc nhiên. Hôm ấy, một chàng trai tên là Minh Triển từ Mỹ trở về, một thân một mình lên đỉnh núi, tới nơi, anh ôm những đứa trẻ vào lòng rồi khóc. Anh nói, đọc câu chuyện trên mạng tưởng người ta hư cấu, không ngờ sự thật là như vậy. Minh Triển cũng không nói gì thêm, trước khi ra về, anh gởi cho dì Ba 300 USD cùng với lời hứa sẽ tìm cách giúp dì với anh Bông lo cho mấy đứa nhỏ học hành. Mấy tuần sau, Triển gọi điện qua nói với dì Ba: “Con xin phép được làm con nuôi của má, làm em của anh Bông, làm chú của 11 đứa trẻ để con được góp sức chăm lo cho tụi nó”. Thì ra, trong chuyến đến thăm lần ấy, Triển đã khảo sát dưới chân núi Cấm có trường học dạy từ lớp một đến lớp 12. Anh đề nghị anh Bông xuống chân núi mua đất xây nhà cho các cháu có chỗ ở gần trường để học hành, công việc tiến hành tới đâu Triển gởi tiền về tới đó. Đến nay, ngôi nhà đã được hoàn tất, chiều ngang 9 mét, chiều dài 20 mét, một trệt một lầu, phía sau có 1.000 mét vuông đất vườn. Anh Bông cho biết, Triển gởi về tổng cộng 45.000 USD. Ngôi nhà 360 mét vuông, mỗi đứa một phòng ngủ riêng, đó là ý tưởng của Minh Triển vừa tập cho các cháu sinh hoạt độc lập, vừa dự phòng khi chúng lớn lên có đủ không gian để sinh hoạt cá nhân.

Minh Triển là ai? Tôi gởi lại địa chỉ mail cho anh Bông với hy vọng sẽ liên lạc với con người khá bí ẩn này.

Anh Bông lấy ra cho chúng tôi xem hơn mười lá thư của các chị, các cô gởi về, không chỉ từ mọi miền đất nước mà cả những lá thư cách nửa vòng trái đất. Mỗi người kể một hoàn cảnh, một tâm sự khác nhau. Nhưng thật đáng trân trọng vì hầu hết những lá thư đều bày tỏ lòng trân trọng với anh Bông. Ai cũng muốn chung vai gánh vác với anh một phần trách nhiệm. Một chị ở Hà Nội tâm sự rằng, chị lấy chồng gần năm năm nhưng không có khả năng sinh con, bị chồng bỏ đi lấy vợ khác, chị sống trong những ngày tuyệt vọng thì tình cờ đọc được câu chuyện về anh, bỗng dưng chị khát khao muốn được làm mẹ của những đứa con anh, được bồng ẵm, được chăm sóc chúng như con ruột của mình. Một chị ở Cali thì đặt thẳng vấn đề kết hôn với anh và bảo lãnh cho những đứa con anh du học. Tôi hỏi Bông tính sao, anh cười hiền: “Mình chẳng biết tính sao cả, đã thề sống độc thân để nuôi tụi nó rồi, giờ lấy vợ, liệu người ta có thương tụi nó bằng mình không, nói thì nói vậy chớ chạm vào thực tế mới biết, không khéo sẽ đổ vỡ hết, sẽ nát bét hết…”.

*

Mấy ngày sau, tình cờ tôi nhận được mail của Minh Triển, anh tâm sự khá dài. Ngoài những điều như dì Ba và anh Bông kể, Triển còn cho biết tuổi thơ của anh ở Trà Vinh đã trải qua những tháng ngày cơ cực, mồ côi cha từ bé, phải nghỉ học sớm để mưu sinh.

Năm 13 tuổi, Triển theo một chuyến tàu đánh cá ra khơi và không ngờ rằng minh đặt chân lên đất Mỹ. Tuổi thơ lưu lạc, khao khát tình thương. Khi lên tới Đỉnh Mồ Côi, Triển như thấy bóng dáng thân phận mình qua từng đứa trẻ. Về Mỹ, anh quyết định gom đến đồng bạc cuối cùng của mình dành dụm bao nhiêu năm để làm một điều gì đó nhằm giảm bớt nỗi bất hạnh cho những đứa trẻ ấy, Triển cảm thấy như được bù đắp cho những mất mát của chính tuổi thơ mình.

Đầu năm nay, Triển về nước, anh rủ tôi cùng anh trở lại Đỉnh Mồ Côi. Khi anh vừa bước vào nhà, những đứa trẻ đồng thanh reo mừng “ba Triển !”. Triển ôm hôn từng đứa, hỏi thăm từng đứa như một người cha đi xa vừa gặp lại những đứa con ruột thịt của mình. Triển cho biết, với một ngôi nhà như thế chỉ mới là điều kiện cần cho chúng, còn điều kiện đủ để chúng học hành đến nơi đến chốn là cả một vấn đề, một chặng đường dài mà anh phải tính, phải lo.

Hiện tại, anh đã lập Hội từ thiện ở Cali và vận động được một ít tiền. Trong chuyến về nầy, anh sẽ xây dựng một lộ trình chi tiêu vừa hợp lý, vừa minh bạch để mang về bên ấy trình cho Hội. Hy vọng rằng – Triển nói – những đứa con của em sẽ được học hành tử tế.

Ca sĩ nghiệp dư Minh Triển vừa trở lại Đỉnh Mồ Côi

BÀ TIÊN NUÔI 12 TRẺ MỒ CÔI
TRÊN ĐỈNH THIÊN CẤM SƠN


Nguyên Việt – Đăng Văn

Mười năm qua, bà Võ Thị Ba (75 tuổi) đã nhận về 12 đứa trẻ không cha mẹ để nuôi dưỡng, chăm sóc như máu mủ ruột thịt của mình.

Hành trình lên núi

Bà Võ Thị Ba, vốn là một người buôn bán, kinh doanh sống ở Cần Thơ. Năm 1991 khi tuổi đã già, bà nghỉ công việc kinh doanh của mình để nghỉ ngơi. Một dịp tình cờ, bà đến núi Cấm cùng những người bạn. Trong 2 ngày du ngoạn núi Cấm, bà bỗng cảm thấy có tình cảm đặc biệt với vùng đất này. Sau khi về lại Cần Thơ, bà nói với anh Nguyễn Tấn Bông (út Bông, 50 tuổi), là con trai thứ của bà: “Mẹ muốn đi núi nữa con ạ”.

Nói là làm, bà rời nhà bắt xe một mình quay lại núi Cấm cho thỏa lòng mong nhớ. Tại đây, bà thuê nhà trọ để ở, hàng ngày lên núi xuống núi để thăm thú hết các địa điểm ở núi Cấm. Bà không phải là người mê tín, cũng không lên núi để cầu khấn bất cứ điều gì, bà chỉ cảm thấy mình yêu thích nơi đây mà không lý giải được nguyên nhân.

Đại gia đình anh út Bông

Sau nhiều lần đi lại ở núi Cấm, bà quyết định sẽ sinh sống phần đời còn lại của mình trên ngọn núi linh thiêng này. Lúc này, bà chỉ ở với một mình anh út Bông, những người con khác đã có gia đình và sinh sống những nơi khác nhau. Anh út Bông là bộ đội xuất ngũ từ năm 1987, là một Xã đội phó quân sự ở quê nhà.

Lúc nghe mẹ bày tỏ nỗi lòng, thương mẹ không nỡ để mẹ một mình trên núi, anh quyết định đi theo phụng dưỡng mẹ già và sống cuộc sống ẩn dật trên núi. Bà Ba bán ngôi nhà lụp xụp ở quận Bình Thủy (TP. Cần Thơ) để lên núi sinh sống. Nhưng thời gian đầu đến núi Cấm, bà chưa thể lên núi ở ngay được vì trên đỉnh núi là nơi hiểm trở ít người sinh sống, vì vậy nên lãnh đạo địa phương vẫn chưa thể đồng ý ngay với bà. Vậy là bà bắt đầu cuộc sống ở chân núi Cấm.

Thời gian ở chân núi Cấm, bà Ba luôn tìm cách để được lên ở trên đỉnh núi, nơi mà người dân đặt tên gọi là vồ Mồ Côi. Đây là nơi mà bà Ba rất ấn tượng bởi phong cảnh hữu tình mà hoang sơ.
Sau một năm sinh sống ở chân núi Cấm, nhiều lần gặp gỡ trưởng ấp nơi bà sinh sống, bà xin phép được chuyển lên núi Cấm, bà Ba nói: “Tôi chỉ có một nguyện vọng là được sinh sống phần đời còn lại trên ngọn núi này, chỉ cần địa phương đồng ý cho tôi ở, tôi chỉ che một túp lều nhỏ ở cũng được, sẽ không làm gì ảnh hưởng đến ngọn núi này cả”. Bị thuyết phục trước tấm lòng nhiệt thành ấy, ông trưởng ấp cũng phải đồng ý cho bà Ba được thỏa mãn nguyện vọng.

“Bà tiên” trên núi Cấm


Đến năm 2001, bà Ba và anh út Bông đã có cuộc sống khá ổn định trên núi Cấm. Một ngày nọ, bà Ba nhận được một cuộc điện thoại từ người cháu gái đang khám bệnh ở bệnh viện Cần Thơ bảo có một phụ nữ sắp tới ngày sinh nở nhưng không một người thân chăm sóc, đang sống lay lắt bên hành lang bệnh viện. Người cháu gái này mong muốn bà có thể giang tay cứu giúp cuộc đời của người phụ nữ bị phụ tình này.

Vốn là một người giàu lòng nhân ái, bà Ba cùng anh út Bông từ trên đỉnh núi Cấm, bắt xe xuống thành phố Cần Thơ để tìm gặp. Khi bà vào bệnh viện nhìn người phụ nữ đáng thương nọ, bà vẫn không hề nghĩ đến một ngày đứa bé mà người phụ nữ này đang mang sẽ gọi mình là bà nội. Bà làm thủ tục nhập viện và chịu hết chi phí sinh nở cho người phụ nữ này. Lúc sinh ra đứa bé trai kháu khỉnh, người mẹ nắm lấy tay bà với khuôn mặt đẫm lệ, van xin bà có thể nuôi nấng hoặc tìm một nơi chốn nào đó cho đứa bé được nương thân.

Không nỡ lòng nào từ chối lời cầu khẩn, bà quyết định nhận nuôi đứa bé. Và đó chính là cậu bé Nguyễn Sơn Ngọc, bây giờ đã vào lớp 5, sống vui tươi bên cạnh những đứa trẻ khác cùng cảnh ngộ dưới vòng tay chăm sóc của bà Ba và anh út Bông.

Bà Ba, mẹ của anh út Bông

Bà Ba và anh út Bông cũng không nghĩ đến một con số nào cụ thể về những đứa trẻ bị bỏ rơi mà hai mẹ con có thể nhận nuôi. Nhưng rồi sau đó, tình thương với Sơn Ngọc đã giúp cho bà Ba và anh út Bông mạnh dạn nhận nuôi thêm những đứa trẻ khác. Nhờ có mối quen biết ở một số bệnh viện, nên khi có những đứa bé chào đời bị bỏ rơi, anh út Bông lại cùng mẹ gói ghém tìm đến để nhận về nuôi dưỡng. Kỉ lục nhất là vào năm 2003, anh nhận nuôi đến 4 đứa trẻ. Đến năm 2008, thì số trẻ mồ côi, trẻ bất hạnh bị bỏi rơi tại các bệnh viện trên khắp miền Tây được anh và bà Ba nhận về nuôi đã lên đến con số 12.
Ngồi tâm sự, điều khiến bà Ba thấy đau buồn đến “đứt ruột” là trong 12 đứa trẻ mà bà và con trai nhất mực yêu thương đó, không may có một em nhỏ không chiến thắng nổi căn bệnh bại não nên đã chết lúc chưa tròn tuổi. Đó là Nguyễn Sơn Thành, lúc anh út Bông nhận Thành về nuôi thì biết em bị bệnh nguy hiểm, nhưng với hi vọng của một người cha đối với con của mình. Anh út Bông cùng mẹ quyết cứu con cho bằng được.

Thời gian đưa bé Thành về nuôi, anh út Bông và mẹ phải thường xuyên đưa em đi chạy chữa từ Cần Thơ cho đến TP.HCM, những mong em có thể sống được với các em nhỏ khác. Tuy nhiên, sau đó Thành trút hơi thở cuối cùng ở tháng thứ 8. Cái chết của Thành càng làm cho anh út Bông và bà Ba cố gắng để nuôi dưỡng những đứa trẻ khác tốt hơn. Nuôi dạy 12 đứa trẻ vất vả, đằng này hai mẹ con bà Ba lại một lúc chăm lo cho 12 đứa trẻ xấp xỉ tuổi nhau, cái khó khăn đó không gì có thể so sánh được.

Đại gia đình của bà Ba sống êm đềm trên núi Cấm từ năm này qua năm khác, có khó khăn gì cũng cùng nhau vượt qua. Nhưng vấn đề bắt đầu nảy sinh khi những đứa con lớn đến tuổi đi học. Cả gia đình sống cheo leo trên đỉnh núi, việc đi học của các con gặp rất nhiều khó khăn.

Nhiều đêm hai mẹ con trăn trở không ngủ được vì nghĩ tới tương lai lâu dài của đàn con. Nhưng hoàn cảnh hiện tại của gia đình khó mà có thể tìm một nơi khác thuận lợi hơn. Mọi thu nhập của gia đình đều trông chờ vào 3ha cây ăn trái trên núi Cấm, nếu bây giờ chuyển nhà thì công việc sẽ khó khăn hơn rất nhiều, hơn nữa nếu chuyển nhà thì phải cần đến nhiều vốn liếng, trong khi tình cảnh của đại gia đình bà Ba chỉ đủ sống qua ngày cho 13 miệng ăn.

Bước ngoặt đến với gia đình vào năm 2009, một Việt kiều Mỹ về nước. Vốn biết được câu chuyện cảm động của mẹ con anh út Bông dang tay cứu giúp trẻ em cơ nhỡ nên người Việt kiều này ngỏ lời muốn giúp đỡ. Hai mẹ con bà Ba sau nhiều lần bàn bạc mới quyết định nhận lời giúp đỡ của người Việt kiều giàu lòng nhân ái. Anh út Bông tìm một miếng đất ở ngay dưới chân núi, gần trường học để thuận tiện cho các con đi học. Một ngôi nhà khang trang, khá đầy đủ tiện nghi được xây dựng lên trong niềm hân hoan, vui mừng của các em nhỏ.

Sau 9 năm anh út Bông nuôi dưỡng đàn trẻ, UBND xã An Hảo, huyện Tri Tôn đã quyết định trợ cấp cho các em nhỏ là 360 ngàn đồng/tháng cho mỗi em. Đây không phải là số tiền lớn nhưng cũng đã phần nào giúp anh út Bông nuôi dạy các con của mình được tốt hơn.

Tài liệu tham khảo
1) Võ Đắc Danh. Cổ tích trên đỉnh Mồ Côi. Sài Gòn Tiếp Thị Online – Lối sống
2)Võ Đắc Danh. Trở lại đỉnh mồ côi – Sài Gòn Tiếp Thị Online – Báo xuân
3) Võ Đắc Danh. Trở lại đỉnh mồ côi- YuMe
4) (THVL) Thăm gia đình làm nên cổ tích trên đỉnh Mồ Côi
5) Báo Mới.com Trở lại “Tình người trên đỉnh mồ côi”
6) Nguyên Việt – Đăng Văn. “Bà tiên” nuôi 12 trẻ mồ côi trên đỉnh Thiên Cấm Sơn. Người Đưa Tin Online

*
Ngày vía Bà Chúa Xứ vùng Bảy Núi Thiên Cấm Sơn là vào ngày 25 tháng 4 âm lịch, năm nay (2021) nhằm Thứ Bảy và Chủ Nhật ngày 5 và 6 tháng 6 dương lịch. Vùng này thuở xưa khi tôi còn ở đấy ngày này người tứ xứ đổ về hành hương đông nghẹt. Năm nay không rõ thế nào. Tôi nhớ chuyện Linh Nhạc thương người hiền https://hoangkimlong.wordpress.com/category/linh-nhac-thuong-nguoi-hien/.

Tôi hỏi cụ già về tên tuổi và địa chỉ nơi này là chốn nào?. Cụ trả lời cụ là Linh Nhạc Phật Ý có duyên với tôi nên giúp sự tìm hiểu. Cụ cười bảo tôi: Thầy biết đây là đất quen, và thầy vốn nghề nông say mê “Vườn Quốc gia Việt Nam” lại ở rất gần “Vườn Tao Đàn bạn quý” mà thầy không đoán ra những cây này ở đâu à? Tôi thưa Cụ là vườn Cụ có nhiều cây quen tại “Bảy Núi Thiên Cấm Sơn” mà tôi có chín năm ở vùng ấy, cũng có một số kỳ hoa dị thảo của riêng vùng “Đá Đứng chốn sông thiêng” “Làng Minh Lệ quê tôi“. Cụ cười bảo ” Huế có Thiên Thụ Sơn” và “Đại Lãnh nhạn quay về” thầy đã ghé chưa ? Cây và hoa lá ở đây đã có mang về trồng tại Huế ở Thiên Thụ Sơn rồi đấy.


(5) Cổ Sơn

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là machu-picchu-di-se1baa3n-the1babf-gie1bb9bi.jpg

LÊN ĐỈNH THIÊN CỔ SƠN
Hoàng Kim

Có một ngày thiêng lên tới đỉnh
Cổ Sơn huyền thoại nghiệp chưa tròn
Nhớ núi Thần Đình thăm thẳm quá
Một tấm lòng son với nước non

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/len-dinh-thien-co-son/


CHÂU MỸ CHUYỆN KHÔNG QUÊN
Hoàng Kim

Bạn hỏi tôi ấn tượng nhất điều gì ở Nam Mỹ?.Tôi trả lời không chút ngập ngừng, đó là Machu Picchu, di sản thế giới UNESCO tại Peru, một trong 7 kỳ quan thế giới mới. Đó là di sản thần Mặt trời nền văn minh người da đỏ Inca  Đấy thực sự là một kỳ quan thiên nhiên vĩ đại kho báu kỳ bí tâm linh khoa học chưa thể giải thích. Đền thờ thần Mặt trời tựa lưng vào cột chống trời  “Cổ Sơn”, tại “Thành phố đã mất của người Inca” là một khu tàn tích Đế chế Inca thời tiền Columbo trong tình trạng bảo tồn tốt ở độ cao 2.430 m trên một quả núi có chóp nhọn tại thung lũng Urubamba ở Peru, khoảng 70 km phía tây bắc Cusco. Tất cả các chuyến đi tới Machu Picchu đều xuất phát từ Cusco. Ở thủ đô Lima có một đường bay nội địa dẫn tới Cusco. Trung tâm khoai tây khoai lang quốc tế CIP ( International Potato Center Headquarters Avenida La Molina 1895, La Molina Apartado 1558, Lima 12, Peru https://cipotato.org/) ở gần trung tâm Lima và sân bay nên rỗi hai ngày là bạn có thể đi thăm Machu Picchu được.

Photography by Kent and CNM365 by Kim
Khoảnh khắc và sự lắng đọng bền vững
Thời gian sáng sớm trôi đi. Thưởng thức!
Hạnh phúc là được làm điều tốt yêu thích
Hành trình xanh là sự vui sống mỗi ngày.

Machu Picchu Time Lapse Video by Kent Weakley
Vị thần mặt trời Inca bị quên lãng
Machu Picchu, di sản thế giới UNESCO ở Peru
nơi đây là một trong 7 kỳ quan thế giới mới
Châu Mỹ chuyện không quên

Photography by Kent and CNM365 by Kim
Moment and sustainable deposition
The early morning time passed. Enjoy!
Happiness is to do good and favorite things
Green journey is the joy of living every day.

Machu Picchu Time Lapse Video by Kent Weakley
The Inca sun god was forgotten
Machu Picchu, UNESCO world heritage site in Peru
This place is one of 7 new wonders of the world
The Americas do not forget

Machu Picchu di sản thế giới Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/categorychao-ngay-moi-13-thang-6/https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-29-thang-7; Photography by Kent Weakley https://www.facebook.com/PhotographybyKent/videos/10201546401649009/http://bit.ly/toursincusco Đừng bỏ lỡ cơ hội để biết Machu Picchu di sản thế giới thành phố văn hóa của Peru, nơi có những chuyến đi hàng ngày http://bit.ly/toursincusco (*)

(*) Ba Trung tâm Nông nghiệp Quốc tế toàn cầu ở Châu Mỹ là: Trung tâm cải tiến ngô và lúa mì quốc tế https://www.cimmyt.org/ (International Maize and Wheat Improvement Center CIMMYT , ở Mexico); Trung tâm khoai tây, khoai lang quốc tế https://cipotato.org/, (Centro Internacional de la Papa; International Potato Center, CIP ở Peru); Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế https://ciat.cgiar.org/ (International Center for Tropical Agriculture, CIAT is a CGIAR Research Center , ở Colombia);

Ở Mexico tôi ấn tượng hơn cả là CIMMYT, thủ đô Mexico và ba di sản thế giới ấn tượng, gồm (1) Teotihuacan thành phố thời tiền Colombo, di sản thế giới 1987, ở México; (2) Monte Alban kim tự tháp cổ trung tâm của nền văn minh Zapotec,  di sản thế giới năm 1987 ở tiểu bang Oaxaca  phía nam Mexico; và (3) Đại học Tự trị Quốc gia México (Universidad Nacional Autónoma de México, tên viết tắt UNAM) là trường đại học lớn nhất ở khu vực Mỹ Latinh nằm tại thành phố thủ đô México, di sản thế giới 2007. .

Teotihuacan disanthegioi Mexico
Monte Alban kimtuthap Mexico
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là dat-nuoc-mexico-an-tuong-lang-dong.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là dat-nuoc-mexico-an-tuong-lang-dong-2.jpg

Ở Peru, ấn tượng sâu sắc nhất là Machu Picchu, di sản thế giới UNESCO tại Peru, một trong 7 kỳ quan thế giới mới. Đó là di sản thần Mặt trời nền văn minh người da đỏ Inca Đấy thực sự là một kỳ quan thiên nhiên vĩ đại kho báu kỳ bí tâm linh khoa học chưa thể giải thích (4).

xem tiếp: https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chau-my-chuyen-khong-quen/

CIAT (Centro Internacional de Agricultura Tropical) ở Colombia, nơi Hoàng Kim gặp nhiều bạn tốt

Ở Colombia, tôi ấn tượng nhất là 1) CIAT tại Cali, 2) sông Magdalena và đền thần Mặt trời, với dãy núi Andes và nhiều đồn điền cà phê; 3) thủ đô Bogota tại Zona Rosa nổi tiếng với các nhà hàng và cửa hiệu, có Cartagena một khu phố cổ trên bờ biển Caribê gợi nhớ biển Nha Trang của Việt Nam (5); Hernán Ceballo và nhiều bạn quý của tôi ở nơi ấy.

CHÂU MỸ CHUYỆN KHÔNG QUÊN
Hoàng Kim

Tôi đã nhiều lần tới châu Mỹ, tới cả Trung Mỹ, Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Đó là kinh nghiệm sống quý giá cho sự nghiên cứu và giảng dạy khoa học cây trồng, đặc biệt là cây lương thực. Tôi nhớ thầy Norman Boulaug và nhiều thầy bạn ở nơi ấy, nhớ đất. nhớ người. Tôi có thói quen chép lại ghi chú ngắn và ghi hình về kỷ niệm sau mỗi chuyến đi, lần này mới có dịp hệ thống lại. “Châu Mỹ chuyện không quên” lắng đọng trong lòng tôi những ký ức sâu sắc về công việc chuyên môn khoa học cây trồng, cây lương thực yêu thích, kết nối với đất nước, con người, bạn hữu, và nền văn hóa châu Mỹ. Tôi kể từ chuyến đi Mỹ lần đầu tiên năm 1988, cho tới nhiều lần về sau lắng đọng chuỗi trãi nghiệm thân thương với thầy bạn ở bên kia bờ đại dương. Ba nơi chính của châu Mỹ mà tôi may mắn được tới, đó là vùng vật liệu di truyền ở ba trung tâm khởi nguyên cây trồng toàn cầu của chúng tại Châu Mỹ gồm Trung tâm ngô và lúa mì quốc tế CIMMYT ở Mê hi cô. Trung tâm khoai lang và khoai tây quốc tế CIP ở Peru. Trung tâm Quốc tế Nông nghiệp Nhiệt đới CIAT về sắn, đậu thực phẩm, lúa gạo châu Mỹ ở Côlômbia. Những điểm đến này tương tự như Viện Nông nghiệp Nhiệt đời Quốc tế IITA ở Nigeria châu Phí, Viện Nghiên cứu Cây trồng Quốc tế cho vùng Nhiệt đới Bán khô cằn ICRISAT ở Ấn Độ, và Viện Lúa quốc tế IRRI ở Philippines. Những chốn ấy cũng thật thân thuộc với tôi. Tại đấy sách chuyên khảo cây trồng, tạp chí, trang web, video thật phong phú, sâu sắc và thật đáng ao ước. Cũng từ đấy mà tôi may mắn được đi thăm thú rộng ra các vùng lân cận theo điều kiện và hoàn cảnh của mỗi chuyến đi.

“Châu Mỹ chuyện không quên” là các bài học tình yêu cuộc sống trãi nghiệm cá nhân của các chuyến đi thực tế, với mục đích cung cấp các điểm nhấn tư liệu nông nghiệp sinh thái về cây lương thực châu Mỹ cho bạn đọc. Tác phẩm gồm 36 đường dẫn, tựa đề thơ ngũ ngôn, để dễ đọc dễ nhớ, ảnh chi tiết bấm link.

Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc. Lời Thầy dặn thung dung.

Châu Mỹ chuyện không quên
Hoàng Kim

Niềm tin và nghị lực
Về lại mái trường xưa
Hưng Lộc nôi yêu thương
Năm tháng ở trời Âu

Vòng qua Tây Bán Cầu
CIMMYT tươi rói kỷ niệm
Mexico ấn tượng lắng đọng
Lời Thầy dặn không quên

Ấn tượng Borlaug và Hemingway
Con đường di sản Lewis Clark
Sóng yêu thương vỗ mãi
Đối thoại nền văn hóa

Truyện George Washington
Minh triết Thomas Jefferson
Mark Twain nhà văn Mỹ
Đi để hiểu quê hương

500 năm nông nghiệp Brazil
Ngọc lục bảo Paulo Coelho
Rio phố núi và biển
Kiệt tác của tâm hồn

Giấc mơ thiêng cùng Goethe
Chuyện Henry Ford lên Trời
Bài đồng dao huyền thoại
Bảo tồn và phát triển

Sắn Việt Nam và Kawano
Sắn Việt Nam và Howeler
Một ngày với Hernán Ceballos
CIAT Colombia thật ấn tượng
Martin Fregene xa mà gần

Châu Mỹ chuyện không quên
CIP Peru và khoai Việt
Nam Mỹ trong mắt tôi
Nhiều bạn tôi ở đấy

Machu Picchu di sản thế giới
Mark Zuckerberg và Facebook
Lời vàng Albert Einstein
Bill Gates học để làm

Thomas Edison một huyền thoại
Toni Morrison nhà văn Mỹ
Walt Disney bạn trẻ thơ
Lúa Việt tới Châu Mỹ..

CIAT COLOMBIA THẬT ẤN TƯỢNG

Ở Colombia, tôi ấn tượng nhất ba nơi là 1) CIAT tại Cali, 2) sông Magdalena và đền thần Mặt trời, với dãy núi Andes và nhiều đồn điền cà phê; 3) thủ đô Bogota tại Zona Rosa nổi tiếng với các nhà hàng và cửa hiệu, có Cartagena một khu phố cổ trên bờ biển Caribê gợi nhớ biển Nha Trang của Việt Nam. Tôi thích nhất CIAT tại Cali là vườn sắn lai. Tôi nhiều ngày luôn cặm cụi ở đấy. Tôi đã kể lại trong bài “Nhớ châu Phi” lời nhắn của giáo sư tiến sĩ Martin Fregene: “Kim thân. Mình hiểu rằng CMD, bệnh virus khảm lá sắn, đã vô tình được du nhập vào Việt Nam. Mình khuyến khích bạn nhập các giống sắn nuôi cấy mô MNG-19, MNG-2 và 8-9 C-series từ CIAT để đánh giá chúng về hàm lượng tinh bột và năng suất bột. Nếu hàm lượng tinh bột và năng suất tinh bột của những giống sắn kháng bệnh CMD này đủ cao, hãy nhân lên và phân phối giống sắn mới này đến các khu vực bị ảnh hưởng. Hãy cho mình biết nếu mình có thể trợ giúp thêm”. (Dear Kim, I understand that CMD has been accidentally introduced into Vietnam. I encourage you to import tissue culture plants of MNG-19, MNG-2, and the 8-9 C-series from CIAT and evaluate them for starch content. If they are high enough, multiply and distribute to affected areas. Let me know if I can be if more help). Tôi đã trả lời: “Cám ơn bạn. Tôi đã mang nguồn gen giống sắn kháng CMD về Việt Nam rồi, nay mình đang cùng các cộng sự của mình lai tạo giống kháng này với những giống sắn ưu tú năng suất tinh bột cao của Việt Nam”.

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chau-my-chuyen-khong-quen/

NÚI THẦN ĐINH QUẢNG BÌNH
Hoàng Kim

Núi Thần Đinh Trường Xuân, Quảng Ninh, Quảng Bình Việt Nam là nơi thắng tích huyền thoại. Từ thành phố Đồng Hới, qua thị trấn Quán Hàu, đến cầu Long Đại thì tới chân núi Thần Đinh, leo trên 1200 bậc đá thì lên đỉnh núi. Thế núi phong thủy rất lạ, có khí hậu tốt, tầm nhìn rộng, có giếng Tiên, tượng Phật, miếu cổ, chuyện Thiên An Bắc Đẩu, vua Càn Long dâng chuông, Chùa Non động Thánh Linh, vua Lê Thánh Tôn đánh Chiêm, phạt roi quở thần núi, đổi tên núi Bất nghĩa. xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nui-than-dinh-quang-binh/

Núi Thần Đình Quảng Bình là chỉ dấu địa lý nơi hẹp nhất Việt Nam (từ biển đến Lào chỉ 50 km) Núi Thần Đinh nằm giữa vùng di sản “Sơn, Hà, Cảnh, Thổ, Văn, Võ, Cổ, Kim” rất nổi tiếng. Dãy núi Trường Sơn, đèo Mụ Giạ, Dãy núi Hoành Sơn; đèo Ngang, Núi Ba U, Núi Ngũ Lĩnh, Sông Long Đại, Sông Nhật Lệ, Sông Gianh, Động Sơn Đoòng, Động Thiên Đường, Phong Nha Kẻ Bàng,… Đất Mẹ vùng di sản; Nguồn Son nối Phong Nha https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguon-son-noi-phong-nha/

Núi Thần Đinh7 ứng với thiên tượng Bắc Đẩu nằm trên trục thẳng phong thủy Thiên An huyền thoại gồm Ulan Ude 1, Ulan Bato2; Trùng Khánh3, Quý Dương4 , Bách Sắc5, Hải Phòng6, Núi Thần Đinh7, Thành phố Hồ Chí Minh8 , Băng Đun ((. Ẩn ngữ tích truyện cổ kỳ lạ Cao Biền trong sử Việt 8 lưu dấu những thông tin của bậc danh tướng, đại sư, thầy địa ly thời bình minh Việt

1) Ulan-Ude là thủ phủ của Cộng hòa Buryat, Nga, thành phố này năm cách khoảng 100 km về phía đông nam hồ Baikal trên sông Uda tại hợp lưu với sông Selenga. Theo điều tra dân số năm 2002, dân số Ulan-Ude là 359.391, còn dân số năm 2010 là 402.000 người, đây là thành phố lớn thứ ba ở miền đông Siberia.Wikipedia

2) Ulan Bato là thủ đô và cũng là thành phố lớn nhất của Mông Cổ. Với vị thế là một đô thị trực thuộc trung ương, thành phố không thuộc bất kỳ một tỉnh nào, và có dân số là 1,3 triệu người vào năm 2014, gần bằng một nửa tổng dân số cả nước.Wikipedia

3) Trùng Khánh là một thành phố lớn ở Tây Nam Trung Quốc và là một trong bốn thành phố trực thuộc trung ương tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.Wikipedia

4) Quý Dương là thành phố tỉnh lỵ tỉnh Quý Châu của Trung Quốc.Wikipedia

5) Bách Sắc, là một địa cấp thị thuộc Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây.Wikipedia

6) Hải Phòng là thành phố cảng quan trọng, trung tâm công nghiệp, cảng biển, đồng thời cũng là trung tâm kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục, khoa học, thương mại và công nghệ của Vùng duyên hải Bắc Bộ của Việt Nam.Wikipedia

7) Núi Thần Đinh Trường Xuân, Quảng Ninh, Quảng Bình Việt Nam là nơi thắng tích huyền thoại.

8) Thành phố Hồ Chí Minh hay còn gọi với tên cũ phổ biến là Sài Gòn, là thành phố lớn nhất ở Việt Nam về dân số và quy mô đô thị hóa. Đây còn là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa và giáo dục tại Việt Nam. Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố trực thuộc trung ương thuộc loại đô thị đặc biệt của Việt Nam cùng với thủ đô Hà Nội. Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, thành phố này hiện có 16 quận, 1 thành phố và 5 huyện, tổng diện tích 2.095 kilômét vuông Theo kết quả điều tra dân số chính thức vào thời điểm ngày 1 tháng 4 năm 2009 thì dân số thành phố là 7.162.864 người (chiếm 8,34% dân số Việt Nam), mật độ dân số trung bình 3.419 người/km². Đến năm 2019, dân số thành phố tăng lên 8.993.082 người và cũng là nơi có mật độ dân số cao nhất Việt Nam.Tuy nhiên, nếu tính những người cư trú không đăng ký hộ khẩu thì dân số thực tế của thành phố này năm 2018 là gần 14 triệu người. Wikipedia

9) Băng Đun Bandung hay Vạn Long là thành phố lớn thứ 4 Indonesia, là tỉnh lỵ của tỉnh Tây Java. Thành phố có 2,5 triệu dân, diện tích 167,67 km², cách Jakarta 180 km về phía đông nam. Đây là thành phố lớn thứ tư của Indonesia, là và là vùng vực đô thị lớn thứ hai, với 7.400.000 trong năm 2007.Wikipedia Hội nghị Á-Phi hay còn gọi là hội nghị Bandung là cuộc gặp gỡ quy mô lớn đầu tiên của các nước châu Á và châu Phi, diễn ra từ 18–24 tháng tư, 1955 tại Bandung, Indonesia. Khi đó phần lớn là những nước này mới giành được độc lập. Hai mươi chín quốc gia tham dự hội nghị có tổng cộng 1,5tỉ người và chiếm diện tích một phần tư bề mặt Trái Đất. Hội nghị được khởi xướng bởi Indonesia, Miến Điện, Pakistan, Ceylon (Sri Lanka), và Ấn Độ. Các mục tiêu đã được tuyên bố ở hội nghị là thúc đẩy kinh tế và hợp tác văn hóa Á-Phi; chống lại chủ nghĩa thực dân kể cả chủ nghĩa thực dân mới của Hoa Kỳ và Liên Xô trong chiến tranh lạnh cũng như bất kỳ đế quốc nào khác. Hội nghị này là một bước tiến quan trọng dẫn đến Phong trào không liên kết. Wikipedia

Cao Biền trong sử Việt
Hoàng Kim

Cao Vương1  tinh đẩu trời xứ Bắc
Lão sư 2 An Hải đất phương Nam
Sống gửi chốn xưa lưu thiên cổ 3
Thác về đất mới  đón Vạn Xuân4
Vùng cao tụ khí bình an tới 5
Biển thẳm hoàn lưu chính khí về 6
Danh tướng Lão sư 2 Thầy địa lý 7
Nghe tiếng nghìn năm ta xuống xe 8

xem tiếp …https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cao-bien-trong-su-viet/

LÊN TRÚC LÂM YÊN TỬ
Hoàng Kim

Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấu hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc
 
“Yên sơn sơn thượng tối cao phong
Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu
Quải ngọc châu lưu lạc bán không
Nhân miếu đương niên di tích tại
Bạch hào quang lý đổ trùng đồng” (1)
 

Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong
Trời mới ban mai đã rạng hồng
Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả
Nói cười lồng lộng giữa không trung
Giáo trúc quanh chùa giăng nghìn mẫu
Cỏ cây chen đá rũ tầng không
Nhân Tông bảo tháp còn lưu dấu
Mắt sáng hào quang tỏa ánh đồng (2)  

Non thiêng Yên Tử
Nghìn năm Thăng Long, Đông Đô, Hà Nôi
Bảy trăm năm đức Nhân Tông
Non sông bao cảnh đổi
Kế sách một chữ Đồng
Lồng lộng gương trời buổi sớm
Trong ngần, thăm thẳm, mênh mông ….  

1) Thơ Nguyễn Trãi
2) Bản dịch thơ Nguyễn Trãi của Hoàng Kim  

Đi bộ trong đêm lên Yên Tử

Hoàng Kim 

Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấu hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa đồng
Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc

TRÚC LÂM TRẦN NHÂN TÔNG
Hoàng Kim

Trần Nhân Tông (1258-1308)  là một trong những vị vua anh minh nhất của lịch sử Việt Nam. Người tên thật là Trần Khâm, vua Trần thứ ba (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Với 50 năm cuộc đời, vua Phật Trần Nhân Tông đã kịp làm được ít nhất năm việc lớn hiếm thấy và khó ai bì kịp ở mọi dân tộc và mọi thời đại: 1) Minh quân lỗi lạc, làm vua 15 năm (1278 – 1293) trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông là đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thời đó; 2) Tổ sư thiền phái Trúc Lâm và Thái Thượng Hoàng 15 năm (1294-1306) là vua Phật Việt Nam. 3) Nhà văn hóa và nhà thơ kiệt xuất với kiệt tác thơ Thiền Trần Nhân Tông và thắng tích Trúc Lâm Yên Tử; 4) Người thầy chiến lược vĩ đại muôn đời của kế sách một chữ “đồng” “vua tôi đồng lòng, toàn dân đồng sức”, nhược thắng cường, yếu thắng mạnh, nước nhỏ thắng nước lớn, sự nghiệp mở nước và thống nhất non sông Việt bằng vương đạo, thuận thời, thuận người . 5) Nhà trị loạn kỳ tài đã hưng thịnh nhà Trần và cứu nguy cho nước Việt ở thời khắc quyết định, biến nguy thành an, biến những điều không thể thành có thể.

Kiệt tác thơ thiền đức Nhân Tông là đỉnh cao thơ Thiền thời Trần:

Cư trần lạc đạo phú
Đại Lãm Thần Quang tự
Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca
Đăng Bảo Đài sơn
Đề Cổ Châu hương thôn tự
Đề Phổ Minh tự thủy tạ
Động Thiên hồ thượng
Họa Kiều Nguyên Lãng vận
Hữu cú vô cú
Khuê oán
Lạng Châu vãn cảnh
Mai
Nguyệt
Nhị nguyệt thập nhất nhật dạ
Quỹ Trương Hiển Khanh xuân bính
Sơn phòng mạn hứng
I
II
Sư đệ vấn đáp
Tán Tuệ Trung thượng sĩ
Tảo mai
I
II
Tặng Bắc sứ Lý Tư Diễn
Tây chinh đạo trung (tái chinh Ai Lao)
Thiên Trường phủ
Thiên Trường vãn vọng
Tống Bắc sứ Lý Trọng Tân, Tiêu Phương Nhai
Tống Bắc sứ Ma Hợp, Kiều Nguyên Lãng
Trúc nô minh
Tức sự
I
II
Vũ Lâm thu vãn
Xuân cảnh
Xuân hiểu
Xuân nhật yết Chiêu Lăng
Xuân vãn

Lên non thiêng Yên Tử, khảo sát điền dã những chứng tích lịch sử văn hóa lưu dấu mãi với thời gian. “Soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi khác mà được.” (Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.). Đức Nhân Tông viết về sự đạt ngộ với người thầy là Tuệ Trung Thượng Sĩ . “Nghe xong, tôi thông suốt được đường vào, bèn vén áo thờ Ngài làm thầy”. “Soi sáng lại chính mình” chứ không tìm kho báu ở đâu khác là trí tuệ siêu việt của vua Phật Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông.

;

Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu.
Sách Nhàn đọc giấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim…

Trần Nhân Tông

TÌM VỀ ĐỨC NHÂN TÔNG
Hoàng Kim


Người ơi con đến đây tìm
Non thiêng Yên Tử như tranh họa đồ
Núi cao trùng điệp nhấp nhô
Trời xuân bảng lãng chuông chùa Hoa Yên

Thầy còn dạo bước cõi tiên
Con ươm mầm sống xanh thêm ruộng vườn
Mang cây lộc trúc về Nam
Ken dày phên giậu ở miền xa xôi

Cư trần lạc đạo, Người ơi
Tùy duyên vui đạo sống đời thung dung
Hành trang Thượng sĩ Tuệ Trung
Kỳ Lân thiền viện cành vươn ra ngoài

An Kỳ Sinh trấn giữa trời
Thơ Thiền lưu dấu muôn đời nước non …

LÊN TRÚC LÂM YÊN TỬ
Hoàng Kim


Lên non thiêng Yên Tử
Đêm trắng và bình minh
Khi nhớ miền đất thiêng
Lại thương vùng trời thẳm

Đi đường thấu non cao
Tầm nhìn ôm biển rộng
Thương Nhân Tông Bảo Sái
Đỉnh mây vờn Trúc Lâm

Dạo chơi non nước Việt
Non xanh bên bạn hiền
Thung dung cùng cây cỏ
Xuống núi thăm người quen.

(*) Chùa Đồng

Dạo chơi non nước Việt

Anh và em,
chúng mình cùng nhau
dạo chơi non nước Việt ! (xem tiếp)…

Video yêu thích 
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam

Những thư mục bảo tồn 
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương NamChào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, DayvahocHọc mỗi ngày,  Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook  Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sốngThơ cho con


Hoa và Ong Hoa Người

HOA VÀ ONG HOA NGƯỜI
Hoàng Kim


Chào ngày mới ong vàng say làm mật
Mãi mê ôm nhụy nõn, sớm xuân về
Hoa nở thắm đón mừng ong cần mẫn
Đợi giao mùa kết trái để sinh sôi.

Xin chào chú chim sâu mùa cũ
Lo mà chi dù bão chớp rất gần
Chim vẫn hót và bướm vàng vẫn lượn
Thung dung đời và mãi khát khao xanh.

Hoa và Ong Hoa Người https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoa-va-ong-hoa-nguoi bài ca vượt thời gian https://youtu.be/_Bs4XcVufqY

CÂY TÁO BÀI CA THỜI GIAN
Hoàng Kim

William Cullen Bryant (1794-1878) nhà thơ và nhà báo Mỹ đã viết “Bài ca cây táo” rất nổi tiếng. Lời vàng của bài thơ này đã tạc cây táo vào văn chương Anh Mỹ và văn hóa nhân loại nhưng sự dịch bài thơ này sang tiếng Việt hay và chuẩn là khó đến nản lòng. Mời bạn tham gia dịch thuật. Nguyên văn bài thơ và Bài thơ này Hoàng Kim tạm dịch như dưới đây, có nguyên tác tiếng Anh:và tạm dịch ý kèm theo

Cây táo bài ca thời gian
William Cullen Bryant ((1794-1878) nguyên tác tiếng Anh
Hoàng Kim tạm dịch thơ tiếng Việt

Cây táo này của chúng ta.
Ngọt ngào trăm suối rừng hoa xuân về.
Gió trời tải cánh đam mê,
Khi hương táo ngát tình quê gọi mời
Mở toang cánh cửa đất trời
Ong say làm mật bồi hồi bên hoa,
Hoa em mòn mỏi đợi chờ,
Nhánh hoa mừng trẻ mong chờ ngày sinh,
Hoa xuân của tiết Thanh Minh
Chúng ta trồng táo gieo lành phước duyên.

Nguyên tác tiếng Anh

“What plant we in this apple tree?
Sweets for a hundred flowery springs
To load the May-wind’s restless wings,
When, from the orchard-row,
he pours Its fragrance through our open doors;
A world of blossoms for the bee,
Flowers for the sick girl’s silent room,
For the glad infant sprigs of bloom,
We plant with the apple tree”

Nguồn: Classic Quotes by William Cullen Bryant
(1794-1878) US poet and newspaper editor
http://www.arcamax.com/knowledge/quotes/s-14832?ezine=2″

Tạm dịch ý:

Cây táo này của chúng ta.
Ngọt ngào cho trăm suối hoa xuân.
Tải cánh bồn chồn của gió tháng năm,
Khi các hàng táo đưa hương thơm
qua những cánh cửa mở;
Một thế giới của hoa cho ong,
hoa cho phòng tĩnh lặng của cô gái mòn mỏi đợi chờ,
nhánh hoa mừng cho trẻ sơ sinh,
Chúng ta trồng cây táo.

TÁO TÂY, TÁO TA VÀ TÁO TÀU

Cây Táo trên Thế giới và Việt Nam được phân biệt Táo Tây, Táo Ta và Táo Tàu. Táo Tây có tên khoa học là Malus domestica, tiếng Anh gọi là Apple, tiếng Việt gọi là Táo Tây hoặc bôm, phiên âm từ pomme tiếng Pháp. Cây táó trong tiếng Việt là gồm cả táo tây, táo ta và táo tàu; đó là một trong những loại trái cây phổ biến nhất trên thế giới. Cây táo đã gợi cảm hứng cho Steve Jobs đặt tên Apple cho thương hiệu “Quả táo khuyết’ ngày nay trở thành thương hiệu giá trị nhất hành tinh. Cây táo cũng đã gợi cảm hứng cho William Cullen Bryant (1794-1878) là nhà thơ và nhà báo Mỹ viết “Bài ca cây táo” nổi tiếng lưu danh tại thế giới thi ca Viện Hàn Lâm Khoa học Nhận văn của Mỹ. Lời vàng của bài thơ này đã tạc cây táo vào văn chương Anh Mỹ và vào văn hóa nhân loại .

Táo Tây Malus domestica là một loài cây thân gỗ trong họ Hoa hồng ( Rosaceae) được biết đến vì quả ngọt của nó (quả táo tây). Nó là loài được trồng rộng rãi nhất trong chi Hải đường (Malus).và là một loài cây ăn quả chủ lực của toàn thế giới.

Cây Táo Tây có nguồn gốc ở Trung Á, nơi tổ tiên của nó là loài táo dại Tân Cương vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.

Họ Táo (Rhamnaceae) là một họ lớn trong thực vật có hoa, chủ yếu là cây gỗ, cây bụi và một số dây leo. Họ này chứa khoảng 50-60 chi và khoảng 870-950 loài (APG II công nhận 52 chi với 925 loài [1]). Họ Rhamnaceae phân bố rộng khắp thế giới, nhưng là phổ biến hơn trong khu vực cận nhiệt đới và nhiệt đới.

Họ Táo Rhamnaceae, có chi Prunus, tiếng Việt Nam Bộ gọi là táo, tiếng Việt Bắc Bộ gọi là mận. Hai hình minh hoa dưới đây là quả táo ta.

Táo ta hay còn gọi là táo chua (tên khoa học Ziziphus mauritiana) là loài táo nhiều phổ biến hơn trong các loài táo ở Việt Nam, là loại cây ăn quả của vùng nhiệt đới, thuộc về họ Táo. Nó được gọi là táo chua, táo Ấn Độ, táo Điền Vân Nam,hay táo gai Vân Nam.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tao-ta-2.jpg

Cây Táo chua có thể lớn rất nhanh thậm chí trong các khu vực khô và cao tới 12 mét và đạt tuổi thọ 25 năm. Nó có nguồn gốc ở châu Á, chủ yếu là Ấn Độ, mặc dù cũng có thể tìm thấy ở châu Phi. Một loài táo khác tên khoa học Ziziphus nummularia, cũng được gọi là táo ta.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tao-tau.jpg

Táo Tàu trên thị trường thường hay gọi lẫn với táo Tây xanh vì vỏ quả phổ biến màu xanh (gọi là Táo xanh) và nguồn gốc địa lý mua bán loại táo xanh này chủ yếu sản xuất tại Trung Quốc Sự thật thì Táo Tàu hay đại táo hoặc hồng táo (tiếng Trung: 枣, 棗, 红枣), (tiếng Triều Tiên:대추), tiếng Nhật: 棗 natsume) (danh pháp khoa học: Ziziphus jujuba) là để chỉ một loài cây thân gỗ nhỏ hay cây bụi với lá sớm rụng, thuộc họ Rhamnaceae (họ Táo). Theo sự đúc kết của Wikipedia Ttiếng Việt, Táo Tàu được cho rằng nó có nguồn gốc từ Bắc Phi và Syria, nhưng đã dịch chuyển về phía đông, qua Ấn Độ tới Trung Quốc, là khu vực nó đã được trồng trên 4.000 năm. Cây Táo Tàu có thể cao khoảng 5–12 m, với các lá xanh bóng, và đôi khi có gai. Các hoa nhỏ, màu trắng hoặc ánh lục, khó thấy, quả hình trứng, kích cỡ tự quả ô liu, thuộc loại quả hạch. Dạng cây và dạng quà theo như hai hình dưới đây. Quả của Táo Tàu được sử dụng khá phổ biến trong y học truyền thống của người Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam

Táo Tàu (Jujube) theo Fanghong https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A1o_t%C3%A0u#/media/T%E1%BA%ADp_tin:ZiziphusJujubaVarSpinosa.jpg
Giới (regnum)Plantae
(không phân hạng)Angiospermae
(không phân hạng)Eudicots
(không phân hạng)Rosids
Bộ (ordo)Rosales
Họ (familia)Rhamnaceae
Chi (genus)Ziziphus
Loài (species)Z. jujuba
Danh pháp hai phần
Ziziphus jujuba
(L.) H. Karst.
Táo Tàu, ảnh của Frank C. Müller

GIÁ TRỊ VÀNG ĐÍCH THỰC

Một thế giới của Hoa và Ong, của những con người lao động cần cù và Giấc mơ lành yêu thương .Hai câu chuyên trên đây cho thấy Steve Jobs đã mang đến “Quả táo” “Apple” giá trị vàng cao quý biết bao ‘Hãy luôn khát khao Hãy cứ dại khờ’. Quả táo Apple Steve Jobs mãi là Bài ca thời gian.

Steve Jobs là mẫu mực cho sự thành công trong giới kinh doanh, nhưng lại sớm qua đời vì căn bệnh ung thư ở tuổi 56. Những lời cuối cùng trước khi ông ra đi đã làm thức tỉnh hàng triệu người. “Bài học rút ra của Steve Jobs những phút cuối đời đã có sức lay động hàng triệu người, bởi họ cũng như ông: lao vào công việc mà bỏ quên chính mình, không chăm sóc thân tâm! Ông đã mất rất nhiều năm tháng tuổi trẻ để có được giá trị vàng của vinh quang và sự giàu có, nhưng dần trở nên vô nghĩa khi cận kề với cái chết. Ông mới nhận ra tình yêu và sức khỏe mới là quan trọng nhất khi đối mặt với giây phút ấy,

Ba quả táo làm thay đổi thế giới:: Quả táo trong vườn địa đàng Adam và Eva; Quả táo rơi trúng Newton, và Quả táo cắn dở của Steve Jobs. Câu chuyện cây táo, quả táo, bài ca thời gian và câu chuyện Steve Jobs luôn là nguồn cảm hứng dồi dào cho lớp trẻ.. Cuộc đời của nhiều người không thành công và kém may mắn có thể vịn bài học cuộc sống của Steve Jobs mà đứng dậy. Minh triết nhân sinh của ông thật chí thiện, trí tuệ với tư duy mạch lạc và hệ thống khoa học..

Cây táo bài ca thời gian và Quả táo Apple Steve Jobs là giá trị vàng đích thực

Quả táo Apple Steve Jobs

QUẢ TÁO APPLE STEVE JOBS
Hoàng Kim


Steve Jobs là con người huyền thoại của thế kỷ 21, một trong những người có ảnh hưởng lớn nhất ở ngành công nghiệp vi tính toàn cầu, là đồng sáng lập viên, chủ tịch, và cựu tổng giám đốc điều hành của hãng Apple, Thương hiệu Apple được định giá gần 119 tỷ USD và chiếm vị trí thương hiệu giá trị nhất thế giới từ năm 2014. Quả táo Apple Steven Jobs là bài ca thời gian về Jobs, quả táo, bài ca cây táo, hoa và ong. Ba quả táo làm thay đổi thế giới: quả táo trong vườn địa đàng Adam và Eva, quả táo rơi trúng Newton, và quả táo cắn dở của Steve Jobs. Những câu chuyện về Jobs luôn là nguồn cảm hứng dồi dào cho thế hệ trẻ. Mỗi năm vào ngày này tôi lại trở về với câu chuyện”Quả táo Apple Steve Job” Có những giá trị vĩnh cửu đích thực về con người nhân văn cần phải nhấn mạnh cho mọi người, đặc biệt là lớp trẻ. Dạy và học để làm ngày nay không chỉ trao truyền tri thức mà cần thắp lên ngọn lửa. Chừng nào mỗi chúng ta chưa ứa nước mắt thấm hiểu sự nhọc nhằn của người nông dân một nắng hai sương làm ra hạt gạo. Chừng nào những giá trị lao động khoa học cao quý, liên tục, âm thầm chưa mang lại đủ niềm vui cho bữa ăn của người dân nghèo. Chừng đó chúng ta sẽ còn phải dạy và học. Cái gốc của sự học là học làm Người. Quả táo Apple Steve Jobs là bài học lớn về nhân cách sống và nổ lực khởi nghiệp. Tài sản quý giá nhất của đời người là sức khỏe. Bài học sau cùng của Steve Jobs những phút cuối đời thực sự lay động hàng triệu người. Tình yêu cuộc sống là tài sản qúy giá nhất. .

CÂU CHUYỆN VỀ STEVE JOBS

Steve Jobs, sinh ngày 24 tháng 2 năm 1955, mất ngày 5 tháng 10, năm 2011. Ông là doanh nhân và nhà sáng chế người Mỹ. Ngày 24 tháng 1 năm 1984, Steve Jobs giới thiệu Macintosh 128K, loại máy tính cá nhân đầu tiên của Macintosh, dòng máy tính cá nhân đầu tiên được thương mại hóa thành công, tạo nên bước đột phá trong ngành công nghệ máy tính. Câu chuyện về Jobs được thế giới quan tâm từ sự kiện này.

Quả táo là Apple. Quả táo cũng là Steven Jobs. Quả táo là loại trái cây ngon phổ biến nhất hành tinh. Quả táo nay cũng là máy tính chất lượng Apple là thương hiệu giá trị nhất thế giới. Quả táo Steve Jobs cũng như Kiều Nguyễn Du. Ai nói đến Kiều lập tức gợi nhớ Nguyễn Du; ai nói đến Quả táo Apple lập tức gợi nhớ Steve Jobs và ngược lại. Thương hiệu Apple, điều hay nhất là “quả táo có cắn một miếng”. Chúng ta nhìn quả táo Jobs đã cắn một miếng mà thấy thèm. Táo ngon mọi người đều thèm cắn. Apple Steve Jobs đã làm nên giá trị Mỹ, là tấm giấy thông hành của nước Mỹ đi ra thế giới.

Việt Nam chúng ta đã có tấm giấy thông hành của một đất nước độc lập, đẹp và thân thiện với những danh nhân minh triết dựng nước, giữ nước và nhiều gương anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang nhưng thiếu vắng những giá trị Việt, thương hiệu Việt lừng lẫy như Apple Steve Jobs.

Tôi kể em nghe “câu chuyện về Jobs”,“câu chuyện quả táo”, “hoa và ong” với những trãi nghiệm và suy ngẫm của riêng mình. Thật lạ lùng ý tưởng này của tôi lại trùng hợp với thầy Nguyễn Lân Dũng. Thầy Lân Dũng cũng nâng niu, sưu tầm, biên soạn Câu chuyện ông chủ Apple. Thầy đã gần tám mươi tuổi mà vẫn thật tận tụy thu thập tuyển chọn thông tin về các điều hay lẽ phải, những gương sáng lập nghiệp để trao lại cho lớp trẻ. Biển học vô bờ, siêng năng là bến. Kiến thức nhân loại là mênh mông như biển và cao vọi như núi. Việc chính đời người là chọn lọc thông tin để dạy, học và làm được những điều bổ ích cho chính mình, cộng đồng và đất nước.

Steve Jobs đã qua đời vào sáng 5 tháng 10 năm 2011 ở tuổi 56 khiến cả thế giới bàng hoàng sửng sốt và tiếc nuối. Ông là người kín tiếng, gần như không bao giờ nói về đời tư của mình cho đến khi Jobs bị bệnh ung thư, và ông lặng lẽ chịu đựng cho đến ngày 24 tháng 8 năm 2011, thì ông tuyên bố từ chức tổng giám đốc điều hành của Apple và mạnh mẽ gửi gắm rằng Tim Cook là người kế nhiệm ông. Steve Jobs do yêu cầu này, được bổ nhiệm làm chủ tịch hội đồng quản trị của Apple và bài phát biểu dưới đây là cuộc trò chuyện sau cùng cởi mở nhất của ông tại lễ tốt nghiệp đại học. Ông nói, bản dịch tiếng Việt


Steve Jobs và bài phát biểu gây ảnh hưởng nhất trong sự nghiệp https://youtu.be/mlv9dWT_0cc

“Tôi rất vinh dự có mặt trong lễ trao bằng tốt nghiệp của các bạn hôm nay tại một trong những trường đại học uy tín nhất thế giới. Tôi chưa bao giờ có bằng đại học. Phải thú nhận đây là lần tôi tiếp cận gần nhất với một buổi tốt nghiệp. Tôi muốn kể cho các bạn ba câu chuyện về cuộc đời tôi. Không có gì nhiều nhặn. Chỉ là ba câu chuyện.

Chuyện thứ nhất là về việc kết nối các dấu chấm

Tôi bỏ trường Reed College ngay sau 6 tháng đầu, nhưng sau đó lại đăng ký học thêm 18 tháng nữa trước khi thực sự rời trường. Vậy, vì sao tôi bỏ học?

Mọi chuyện như đã định sẵn từ trước khi tôi sinh ra. Mẹ đẻ tôi là một sinh viên, bà chưa kết hôn và quyết định gửi tôi làm con nuôi. Bà nghĩ rằng tôi cần được nuôi dưỡng bởi những người đã tốt nghiệp đại học nên sắp đặt để trao tôi cho một vợ chồng luật sư ngay trong ngày sinh. Tuy nhiên, mọi chuyện thay đổi vào phút chót bởi họ muốn nhận một bé gái hơn là tôi.

Vì thế, cha mẹ nuôi của tôi, khi đó đang nằm trong danh sách xếp hàng, đã nhận được một cú điện thoại vào nửa đêm rằng: “Chúng tôi có một đứa con trai không mong đợi, ông bà có muốn chăm sóc nó không?” và họ trả lời: “Tất nhiên rồi”. Mẹ đẻ tôi sau đó phát hiện ra mẹ nuôi tôi chưa bao giờ tốt nghiệp đại học còn cha tôi thậm chí chưa tốt nghiệp phổ thông trung học. Bà từ chối ký vào giấy tờ trao nhận và chỉ đồng ý vài tháng sau đó khi bố mẹ hứa rằng ngày nào đó tôi sẽ vào đại học.

Sau đó 17 năm, tôi thực sự đã vào đại học. Nhưng tôi ngây thơ chọn ngôi trường đắt đỏ gần như Đại học Stanford vậy. Toàn bộ số tiền tiết kiệm của bố mẹ tôi phải dồn vào trả học phí cho tôi. Sau 6 tháng, tôi thấy việc đó không hề hiệu quả. Tôi không có ý niệm về những gì muốn làm trong cuộc đời mình và cũng không hiểu trường đại học sẽ giúp tôi nhận ra điều đó như thế nào. Tại đó, tôi tiêu hết tiền mà cha mẹ tiết kiệm cả đời. Vì vậy tôi ra đi với niềm tin rằng mọi việc rồi sẽ ổn cả. Đó là khoảnh khắc đáng sợ, nhưng khi nhìn lại, đấy lại là một trong những quyết định sáng suốt nhất của tôi. Tôi bắt đầu bỏ những môn học bắt buộc mà tôi không thấy hứng thú và chỉ đăng ký học môn tôi quan tâm.

Tôi không có suất trong ký túc, nên tôi ngủ trên sàn nhà của bạn bè, đem đổi vỏ chai nước ngọt lấy 5 cent để mua đồ ăn và đi bộ vài km vào tối chủ nhật để có một bữa ăn ngon mỗi tuần tại trại Hare Krishna. Những gì tôi muốn nói là sau này tôi nhận ra việc cố gắng theo đuổi niềm đam mê và thỏa mãn sự tò mò của mình là vô giá.

Tôi sẽ kể cho các bạn một ví dụ: Đại học Reed khi đó có lẽ là trường tốt nhất dạy về nghệ thuật viết chữ đẹp ở Mỹ. Khắp khuôn viên là các tấm áp-phích, tranh vẽ với những dòng chữ viết tay tuyệt đep. Vì tôi đã bỏ học, tôi quyết định chỉ đăng ký vào lớp dạy viết chữ để tìm hiểu họ làm điều đó thế nào. Tôi học cách biến hóa với nét bút, về khoảng cách giữa các chữ, về nét nghiêng, nét đậm. Đây là môn học nghệ thuật và mang tính lịch sử mà khoa học không thể nắm bắt được và tôi thấy nó thật kỳ diệu.

Những thứ này khi đó dường như chẳng có chút ứng dụng thực tế nào trong cuộc đời tôi. Nhưng 10 năm sau, khi chúng tôi thiết kế máy Macintosh, mọi thứ như trở lại trong tôi. Và chúng tôi đưa nó vào trong Mac. Đó là máy tính đầu tiên có các font chữ đẹp. Nếu tôi không bỏ học chỉ để theo một khóa duy nhất đó, máy Mac sẽ không bao giờ được trang bị nhiều kiểu chữ hoặc có được sự cân xứng về khoảng cách các chữ như vậy (sau này Windows đã sao chép lại). Nếu tôi không bỏ học, tôi có lẽ sẽ không bao giờ tham gia lớp nghệ thuật viết chữ và máy tính có lẽ không có được hệ thống chữ phong phú như hiện nay.

Tất nhiên, chúng ta không thể kết nối các dấu ấn tương lai, bạn chỉ có thể móc nối chúng khi nhìn lại quá khứ. Vậy hãy tin rằng các dấu chấm, các sự kiện trong cuộc đời bạn về mặt này hay mặt khác sẽ ảnh hưởng đến tương lai của bạn. Bạn phải có niềm tin vào một thứ gì đó – sự can đảm, số phận, cuộc đời, định mệnh hay bất cứ điều gì – cách nghĩ đó đã tạo nên những sự khác biệt trong cuộc đời tôi.

Câu chuyện thứ hai là về tình yêu và sự mất mát

Tôi may mắn khi đã nhận ra những gì tôi yêu quý ngay từ khi còn trẻ. Woz (Steve Wozniak) cùng tôi sáng lập Apple tại garage của bố mẹ khi tôi mới 20 tuổi. Chúng tôi làm việc miệt mài trong 10 năm và phát triển từ một cái nhà xe thành một công ty trị giá 2 tỷ USD với 4.000 nhân viên. Chúng tôi cho ra đời thành quả sáng tạo – Macintosh – khi tôi mới bước sang tuổi 30.

Sau đó, tôi bị sa thải. Sao bạn lại có thể bị sa thải tại ngay công ty mà bạn lập ra? Apple đã thuê một người mà tôi nghĩ là đủ tài năng để điều hành công ty với mình và năm đầu tiên, mọi thứ đã diễn ra tốt đẹp. Nhưng sau đó, tầm nhìn về tương lai của chúng tôi khác nhau và không thể hợp nhất. Khi đó, ban lãnh đạo đứng về phía ông ấy. Ở tuổi 30, tôi phải ra đi. Những gì tôi theo đuổi cả đời đã biến mất, nó đã bị phá hủy.

Tôi không biết phải làm gì trong những tháng tiếp theo. Tôi cảm thấy như mình đã đánh rơi mất cây gậy trong cuộc chơi khi người ta vừa trao nó cho tôi. Tôi đã gặp David Packard và Bob Noyce, cố gắng xin lỗi vì đã làm mọi chuyện trở nên tồi tệ. Tôi còn nghĩ đến chuyện bỏ cuộc. Nhưng mọi thứ bắt đầu kéo tôi trở lại. Tôi vẫn yêu những gì tôi làm. Bước ngoặt tại Apple không thay đổi con người tôi. Tôi bị từ chối, nhưng tôi vẫn còn yêu. Vì thế tôi quyết định làm lại từ đầu.

Khi đó tôi đã không nhận ra, nhưng hóa ra bị sa thải lại là điều tốt nhất dành cho tôi. Sức ép duy trì sự thành công đã được thay thế bằng tinh thần nhẹ nhàng của người mới bắt đầu lại và không chắc về những gì sẽ diễn ra. Nó giải phóng tôi để bước vào giai đoạn sáng tạo nhất cuộc đời.

Trong năm năm tiếp theo, tôi thành lập NeXT và một công ty khác mang tên Pixar và phải lòng một người phụ nữ tuyệt vời, người trở thành vợ tôi sau này. Pixar tạo ra bộ phim từ đồ họa máy tính đầu tiên trên thế giới – Toy Story và hiện là xưởng phim hoạt hình thành công nhất toàn cầu. Apple mua lại NeXT, tôi trở lại và công nghệ tôi phát triển ở NeXT là trọng tâm trong cuộc phục hưng Apple. Tôi và vợ Laurene cũng có một cuộc sống gia đình tuyệt vời.

Tôi khá chắc chắn rằng những điều trên sẽ không xảy ra nếu tôi không bị Apple sa thải. Nó như một liều thuốc đắng và kinh khủng, nhưng bệnh nhân cần nó. Đôi khi cuộc đời sẽ giáng một viên gạch vào đầu bạn. Đừng mất niềm tin. Tôi hiểu thứ duy nhất khiến tôi vững vàng chính là niềm đam mê. Bạn phải tìm ra bạn yêu cái gì. Nó đúng cho công việc và cho cả những người thân yêu của bạn. Công việc chiếm phần lớn cuộc đời và cách duy nhất để thực sự hài lòng là làm những gì bạn tin nó sẽ trở nên tuyệt vời. Và cách duy nhất có công việc tuyệt vời là yêu những gì bạn làm. Nếu chưa nhận ra, hãy tiếp tục tìm kiếm. Đừng dừng lại. Như mọi mối quan hệ trong cuộc đời, nó sẽ trở nên ngày càng tốt đẹp hơn qua từng năm.

Câu chuyện thứ ba là về cái chết.

Khi 17 tuổi, tôi đọc ở đâu đó rằng: “Nếu sống mỗi ngày như thể đó là ngày cuối cùng, một ngày nào đó bạn sẽ đúng”. Điều đó gây ấn tượng với tôi và 33 năm qua, tôi nhìn vào gương mỗi sáng và hỏi: “Nếu hôm nay là ngày cuối của cuộc đời mình, mình có muốn làm những gì định làm hôm nay không?”. Nếu câu trả lời là “Không” kéo dài trong nhiều ngày, đó là lúc tôi biết tôi cần thay đổi.

Luôn nghĩ rằng mình sẽ sớm chết là công cụ quan trọng nhất giúp tôi tạo ra những quyết định lớn trong đời. Vì gần như mọi thứ, từ hy vọng, niềm tự hào, nỗi sợ hãi, tủi hộ hay thất bại, sẽ biến mất khi bạn phải đối mặt với cái chết, chỉ còn lại điều thực sự quan trọng với bạn. Nghĩ rằng mình sắp chết là cách tốt nhất tôi tránh rơi vào bẫy rằng tôi sẽ mất cái gì đó. Khi không còn gì nữa, chẳng có lý gì bạn không nghe theo lời mách bảo của trái tim.

Một năm trước, tôi biết mình bị ung thư. Tôi được chụp cắt lớp lúc 7h30 và nhìn thấy rõ khối u trong tuyến tụy. Tôi còn chẳng biết tuyến tụy là cái gì. Bác sĩ bảo tôi bệnh này không chữa được và tôi chỉ có thể sống thêm 3 đến 6 tháng nữa. Ông ấy khuyên tôi về nhà và sắp xếp lại công việc, cố gắng trò chuyện với bọn trẻ những điều mà tôi định nói với chúng trong 10 năm tới, nhưng giờ phải tâm sự trong vài tháng. Nói cách khác, hãy nói lời tạm biệt.

Tối hôm đó, tôi được kiểm tra sinh thiết. Họ đút một ống qua cổ họng tôi xuống dạ dày và ruột rồi đặt một cái kim vào tuyến tụy để lấy mẫu tế bào khối u. Tôi giữ thái độ bình thản, và vợ tôi, cũng có mặt lúc đó, kể với tôi rằng khi các bác sỹ xem các tế bào dưới kính hiển vi, họ đã reo lên khi phát hiện đây là trường hợp ung thư tuyến tụy hiếm hoi có thể chữa được bằng phẫu thuật. Tôi đã được phẫu thuật và bây giờ tôi đã khỏe lại.

Đó là lần gần nhất tôi đối mặt với cái chết. Tôi hy vọng lần tiếp theo sẽ là vài thập kỷ nữa. Không ai muốn chết. Ngay cả người mong được lên thiên đường cũng không muốn chết để tới đó. Nhưng cái chết là đích đến mà chúng ta đều phải tới. Không ai thoát được nó. Cái chết như là phát minh hay nhất của sự sống. Nó là tác nhân thay đổi cuộc sống. Nó loại bỏ sự cũ kỹ (người già) để mở đường cho cái mới (lớp trẻ). Các bạn chính là thế hệ trẻ, nhưng ngày nào đó sẽ già đi và rời bỏ cuộc sống. Xin lỗi vì đã nói thẳng nhưng điều đó là sự thật.

Thời gian của bạn không nhiều, đừng lãng phí bằng cách sống cuộc đời của người khác. Đừng nghe những lời giáo điều, vì đó là suy nghĩ của người khác. Đừng để những quan điểm ồn ào lấn át tiếng nói bên trong bạn. Chúng biết bạn muốn gì. Mọi thứ khác chỉ là thứ yếu.

Khi tôi còn trẻ, có một cuốn sách thú vị là “The Whole Earth Catalog “(Cẩm nang thế giới). Nó giống như một cuốn kinh thánh, kim chỉ nam của thế hệ tôi. Tác giả Steward Brand tạo ra nó vào thập niên 60, trước thời máy tính cá nhân. Nội dung sách được soạn bằng máy đánh chữ, bằng kéo và bằng máy ảnh polaroid. Nó như Google trên giấy vậy. Ở bìa sau của cuốn sách có in ảnh một con đường trong ánh bình minh, bên dưới là dòng chữ: “Sống khát khao. Sống dại khờ”. Tôi luôn chúc điều đó cho chính mình. Hôm nay, các bạn tốt nghiệp và sắp bước vào cuộc đời mới, tôi cầu chúc điều đó cho các bạn.

Hãy luôn khát khao. Hãy cứ dại khờ.

Steven Jobs”

Qua Steven Jobs chuyện đời tự kể, bạn hẵn tìm thấy bài học cuộc sống và lời khuyên thấm thía cho riêng mình. Quả táo Apple là cảm hứng của Steve Jobs cho sự ra đời thương hiệu Apple Inc. nổi tiếng thế giới và chính Apple Inc. lại làm bừng sáng giá tri cao quý của Apple, Quả táo, loài quả phổ biến nhất hành tinh.

HOA VÀ ONG
Hoàng Kim


Chào ngày mới ong vàng say làm mật
Mãi mê ôm nhụy nõn, sớm xuân về
Hoa nở thắm đón mừng ong cần mẫn
Đợi giao mùa kết trái để sinh sôi.

Xin chào chú chim sâu mùa cũ
Lo mà chi dù bão chớp rất gần
Chim vẫn hót và bướm vàng vẫn lượn
Thung dung đời và mãi khát khao xanh.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-6.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-7.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-8.jpg

HOA VÀ ONG
Hoàng Kim

II

Thanh thản an nhàn giữa tự nhiên
Hoa và ong, sách quý, bạn hiền
Nắng mới thung dung vườn cổ tích
Dạy học mỗi ngày thật an nhiên

HOA NGƯỜI
Hoàng Kim


I

Đầu xuân gặp bạn thật mừng vui
Rượu ngọt trà thơm sóng sánh mời
NƯỚC suối ban mai trong tựa ngọc
OANH vàng CÚC tím nắng xuân tươi.

MÂY TRẮNG quyện lưng trời lãng đãng
Thiên NGA từng cặp nhởn nhơ bay
Nhớ xưa CHIẾN SỰ vùng đất lửa
HÒA bình về lại Chứa Chan nay.

Sóng nhạc yêu thương lời cảm mến
KIM Kiều tái ngộ rộn ràng vui
Anh HÙNG thanh thản mừng “Xuân cảm”
“Đè nghiêng ngọn gió đọc thơ chơi”.

II

Tui chỉ mới là thuộc sách (TS) thôi.
Giảng sách (GS) xem ra chửa tới nơi.
Vui việc cứ LÀM chưa vội DẠY
Nói nhiều làm ít sợ chê cười.

Cổ điển honda không biết chạy
Canh tân blog viết đôi bài
Quanh quẩn chỉ là ngô khoai sắn
Vô bờ biển HỌC dám đơn sai.

Ước noi cụ Trạng ưa duyên thắm
Nịnh vợ không quên việc trả bài
An nhàn vô sự là tiên đấy
Thung dung đèn sách, thảnh thơi chơi.

III

Ta tìm gặp bạn đường xa
Tưởng là thăm bạn hoá ra thăm mình
Đêm dài xoè một bình minh …’
Tháng Ba nhớ bạn Ân tình Sớm Đông.

IV

Thủy vốn mạch sông nước có nguồn.
Chính Trung tiền hậu đổi nhau luôn.
Nụ cười Nghê Việt luôn đầy đặn.
Mai với Bồ Đề ẩn sau lưng.

Tóc nhuốm bạch kim phơi nắng hửng
Da pha hồng ngọc trãi mưa nhuần.
Hoa Người Hoa Đất vui thầy bạn.
Phước Đức mừng ai thắng tuổi trăm.

V

Ngày xuân đọc Trạng Trình
Tô Đông Pha Tây Hồ
Khổng Tử dạy và học
Nguyễn Du trăng huyền thoại

Minh triết Hồ Chí Minh
Vị tướng của lòng dân
Thái Tông và Hưng Đạo
Yên Tử Trần Nhân Tông

Nhà tôi giấc mơ xanh
Thầy bạn trong đời tôi
Cuối dòng sông là biển
Việt Nam con đường xanh

Bài thơ Viên đá Thời gian
PHAN CHÍ THẮNG CHUYỆN ĐỜI
Hoàng Kim


anh Phan Chi Thắng tìm lại ký ức trong ‘chuyện dài chưa đặt tên’. Tôi ứa nước mắt thấu hiểu giá của tình yêu thương ngày thống nhất. ” Cô mất bốn năm rồi, yên nghỉ trong phần mộ anh em Tuân đã chuẩn bị từ trước, xây lăng trên đồi, cạnh lăng ông bà nội và lăng cha Tuân. Con cháu, họ hàng đều ở xa, không ai tiếp quản căn nhà cổ và khu vườn rộng, Tuân bàn với những người có quyền thừa kế theo pháp luật hiến căn nhà và khu vườn đó cho chùa. Không phải Tuân không tiếc ngôi nhà tuổi thơ của mình, tính ra cũng là một tài sản lớn. Nhưng hãy để nơi ấy thành một ngôi chùa bởi chắc chắn giờ này cô đã ở bên Phật”.

Thủy vốn mạch sông nước có nguồn.
Chính Trung tiền hậu đổi nhau luôn.
Nụ cười Nghê Việt luôn đầy đặn.
Mai với Bồ Đề ẩn sau lưng.
Tóc nhuốm bạch kim phơi nắng hửng
Da pha hồng ngọc trãi mưa nhuần.
Hoa Người Hoa Đất vui thầy bạn.
Phước Đức mừng ai thắng tuổi trăm.

Bài thơ viên đá thời gian là ký ức tháng năm và đường kink lưu lại để nhớ https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bai-tho-vien-da-thoi-gian/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkim

Bài viết mới trên DẠY VÀ HỌC
https://hoangkimvn.wordpress.com bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích

Chỉ tình yêu ở lại
Ngày hạnh phúc của em
Giúp bà con cải thiện mùa vụ
Quà tặng cuộc sống yêu thích
Vietnamese food paradise
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter

Vui sống giữa thiên nhiên

VUI SỐNG GIỮA THIÊN NHIÊN
Bạch Ngọc Hoàng Kim


Ta vui sống giữa thiên nhiên
Trời xanh, biển biếc, người hiền #Thungdung
Thiên thư đọc sướng vô cùng
Nhàn riêng biết đủ, vui chung hiểu đời

737cf-thung20dung


Người khôn về chốn đông người
Cái nhìn thì mỏng, cái cười thì nông
Ta vui về với ruộng đồng
Để gieo tục ngữ để trồng dân ca.

#Thungdung cùng với cỏ hoa
#Annhiên đèn sách, nhẫn nha dọn vườn
Mặc ai tính thiệt so hơn
Bát cơm gạo mới vẫn thơm láng giềng

Thiên nhiên là thú thần tiên
Chân quê là chốn bình yên đời mình
Bạn hiền bia miệng anh linh
Thảnh thơi hưởng trọn ân tình thế gian

Nước trong ngập ánh trăng vàng
Ta ra cởi bỏ nhọc nhằn âu lo
Lợi danh một thực mười hư
Trăm điều ước vọng chỉ phù du thôi

Thung dung thanh thản cuộc đời
Tình quê bồi đắp về nơi đất hiền
Ta vui sống giữa thiên nhiên
Chọn tìm giống tốt thêm bền yêu thương

#Annhiên An nhiên vui thiện lành “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm / Nhất sinh đê thủ bái Mai hoa” “Nghêu ngao vui thú yên hà / Mai là bạn cũ Hạc là người quen” Bài đồng dao huyền thoại Bài học lớn muôn đời Ngày mới Ngọc cho đời Vui sống giữa thiên nhiên Vui về với ruộng đồng Thông tin tích hợp tại TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim #Thungdung#dayvahoc, #vietnamhoc#cnm365#cltvn; #đẹpvàhay 27 tháng 3 https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-27-thang-3/

VUI ĐẾN CHỐN THUNG DUNG
Hoàng Kim

Thăm người ngọc nơi xa vùng tỉnh lặng
Chốn ấy non xanh người đã chào đời
Nơi sỏi đá giữa miền thiêng hoa cỏ
Thiên nhiên an lành, bước tới thảnh thơi.

Sống giữa đời vui giấc mơ hạnh phúc
Cổ tích đời thường đằm thắm yêu thương
Con cái quây quần thung dung tự tại
Minh triết cuộc đời phúc hậu an nhiên.

Xuân Hạ Thu Đông bốn mùa luân chuyển
Say chân quê ngày xuân đọc Trạng Trình
Ngày ra ruộng đêm thì đọc sách
Ngọc cho đời giữ trọn niềm tin.

VUI VỀ VỚI RUỘNG ĐỒNG
Hoàng Kim

Người rất muốn đi về trong tịch lặng
Quẳng lại sau lưng nhân thế muộn phiền
Ta đến chốn thung dung tìm hoa lúa
Rong chơi đường trần sống giữa thiên nhiên.

Tâm thanh thản buồn vui cùng nhân thế
Đời Đạo thịnh suy sương sớm đầu cành
Lòng hiền dịu và trái tim nhẹ nhõm
Kho báu chính mình phúc hậu an nhiên.

Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt (*)
Trăng rằm xuân lồng lộng bóng tri âm
Người tri kỷ cùng ta và năm tháng.
Giác Tâm ta về còn trọn niềm tin.

Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là hoangkim1.jpg

VUI ĐI DƯỚI MẶT TRỜI
Hoàng Kim

Hãy lên đường đi em
Ban mai vừa mới rạng
Vui đi dưới mặt trời
Một niềm tin thắp lửa

Ta như ong làm mật
Cuộc đời đầy hương hoa
Thời an nhiên vẫy gọi
Vui khỏe đời cho ta.

Vui đi dưới mặt trời
Nắng dát vàng trên đồng xuân
Mưa ướt vệt bóng mây, tím sắc trời cuối hạ
Đất ước, cây trông, lòng nhớ …

Em trốn tìm đâu trong giấc mơ tâm tưởng
Ngôi nhà con hạnh phúc trăm năm
Bếp lửa ngọn đèn khuya
Vận mệnh cuộc đời cố gắng

Tình yêu là người thầy tốt hơn trách nhiệm
Đồng lòng đất cảm trời thương
Phúc hậu minh triết tận tâm
Cố gắng làm người có ích

Tháng năm tròn đầy vườn thiêng cổ tích
Mừng ban mai mỗi ngày tỉnh thức bình an
Chào ngày mới CNM365 Tình yêu cuộc sống
Thảnh thơi vui cõi phúc được thanh nhàn.

Vui đi dưới mặt trời
Một niềm tin thắp lửa

Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là 2-nhatoi.jpg

Học mặt trời tỏa sáng
Phúc hậu và an nhiên
Biết kiên trì việc chính
Học nước chảy đá mòn
Vui đi dưới mặt trời

HoangKim2017a

Tắm tiên Chư Jang Sin https://youtu.be/4MlYi8uybtQ

Chúc mừng ngày Quốc tế Hạnh phúc

NGÀY QUỐC TẾ HẠNH PHÚC
Hoàng Kim

Ngày Quốc tế Hạnh phúc 20 tháng 3 là ngày được Liên Hợp quốc chọn tôn vinh niềm hạnh phúc của nhân loại. Mục tiêu của sự tôn vinh này không chỉ mang ý nghĩa biểu tượng mà còn là ngày của hành động, nỗ lực nhiều hơn để đem lại hạnh phúc tốt hơn cho người người trên trái đất. Ngày Quốc tế Hạnh phúc được lấy từ ý tưởng của Vương quốc Bhutan là được đánh giá là nước có chỉ số hạnh phúc cao dựa trên các yếu tố như sức khỏe, tinh thần, giáo dục, môi trường, chất lượng quản lý và mức sống của người dân. Từ những năm đầu tiên của thập kỷ 70 thế kỷ XX, Bhutan là quốc gia đã ghi nhận vai trò của hạnh phúc quốc gia hơn là thu nhập quốc gia bằng việc thực thi mục tiêu tổng hạnh phúc quốc gia thay vì tổng sản phẩm quốc nội. Họ cho rằng nhu cầu về Ngày Hạnh phúc này là đối với tất cả quốc gia và con người trên toàn thế giới để có những bước vượt lên trên sự khác biệt giữa các nước và con người trên toàn thế giới, và liên kết, đoàn kết toàn nhân loại.

Ngày Quốc tế Hạnh phúc còn khởi nguồn từ nhu cầu về một cách tiếp cận tăng trưởng kinh tế cân bằng, hợp tình hợp lý hơn, nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững, xóa nghèo và phấn đấu vì hạnh phúc và sự thịnh vượng cho tất cả mọi người và xuất phát từ nguyện vọng mỗi người hãy chọn cho mình một quan niệm đúng về hạnh phúc, quan tâm đến vấn đề cốt lõi nhất trong sự tồn tại là làm sao tìm được thật nhiều niềm vui trong cuộc sống, làm lan tỏa những điều tốt đẹp nhất trên khắp hành tinh xanh. Ngày này được Tổng thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon chính thức công bố tại một hội nghị của Liên hợp quốc từ vào ngày 28 tháng 6 năm 2012. Việc Liên hợp quốc chọn ngày 20 tháng 3 là Ngày Quốc tế Hạnh phúc xuất phát từ nguyên nhân đây là ngày đặc biệt trong năm, khi mặt trời nằm ngang đường xích đạo, nên trong ngày này có độ dài ngày và đêm bằng nhau và người ta cho đó là biểu tượng cho sự cân bằng, hài hòa của vũ trụ. Cũng là biểu tượng của sự cân bằng giữa âm và dương, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa ước mơ và hiện thực từ đó ngày này được cho là sẽ truyền tải thông điệp rằng cân bằng, hài hòa là một trong những chìa khóa để mang đến hạnh phúc.Ban Ki-moon cũng tranh thủ nhân đó kêu gọi công dân tất cả các nước cam kết giúp đỡ những người xung quanh, thúc đẩy sự phát triển bền vững và toàn diện của nhân loại bằng tình yêu thương làm lan tỏa hạnh phúc và giúp chúng ta xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn để khi tham gia làm việc thiện, bản thân chúng ta cũng nhận lại những điều tốt lành

CHIM PHƯỢNG VỀ LÀM TỔ
Hoàng Kim

Thích quá đi.
Nhà tôi có chim về làm tổ
Cây bồ đề cuối vườn
Cò đêm về trắng xóa

Gốc me cho con
Xanh non màu lá
Ong đi rồi về
Sóc từng đàn nhởn nhơ.

Cây sơ ri ba mẹ trồng
Lúc con tuổi còn thơ
Nay như hai mâm xôi
Tròn đầy trước ngõ.

Cây mai Bác trồng
Bốn mùa hoa thương nhớ
Trúc xanh từ non thiêng Yên Tử
Trúc vàng ân nghĩa Đào Công

Em ơi!
Hôm nay trên cây lộc vừng
Chim Phượng về làm tồ
Mẹ dạy con tập bay
Sao mà đẹp thế !

Đá vàng trao hậu thế
Người hiền noi tiếng thơm

Ngày xuân phân, 20 tháng 3 năm 2014 là ngày quốc tế hạnh phúc, với gia đình tôi đó cũng là ngày xuân phân may mắn. Trướcđó, Nhà tôi có chim về làm tổ, tôi nhặt được 18 lông chim trong đó có 9 lông chim trĩ dưới gốc Cây bồ đề nhà tôi ra lá non. Sau khi thămlúa siêu xanh ở Phú Yên về, tôi rất mừng vì chúng tôi thành công với lúa siêu xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu đạt năng suất cao chất lượng tốt trên đồng ruộng. Tôi trở về nhà đúng ngày quốc tế hạnh phúc Thật đúng là sự may mắn an nhiên và niềm vui tình yêu cuộc sống.

Chim Phượng Hoàng đất vườn nhà tôi là một chuyện may mắn. Vườn nhà tôi có cặp chim Trĩ (Phương Hoàng đất) về làm tổ sinh ra bầy chim trĩ con tuyệt đẹp. Những cây cao trong vườn có cò, chào mào, sáo sậu, yến, …và sóc về nhiều. Chim hót đủ giọng và sóc chuyền cành thật vui. Tổ chim Trĩ trên cây lộc vừng trước cửa nhà tôi bị gió lớn hất xuống sân. Con chim Trĩ non mới nở được nhà tôi cho vào một chiếc rỗ con treo lên cây để chim bố mẹ hàng ngày có thể cho ăn. Tối đó đi Phú Yên về, tôi rọi đèn ra thăm, trăng 16 đã hơi muộn. Chim non cánh vẫn còn ngắn… Sáng ra, nghe tiếng líu ríu của bố mẹ, hai con chim Phượng sà xuống lần lượt cho con ăn và gù rất lạ như là khuyến khích con bay lên. Chim Trĩ non thốt nhiên bật dậy nhảy lên thành rỗ. Sau khi lấy đà, nó bay vù qua nơi chảng ba của cây lộc vừng với sự háo hức lạ. Sau đó bổ nhào xuống cây sơn và đậu vững vàng như một con chim thành thục. Cặp Phượng Hoàng đất chuyền cành trên cây me cho con, có bộ lông đẹp, xanh mướt như ngọc và đều hót vang. Con chim non rướn mình bay lên khóm mai và cũng líu ríu. Nó đã tự tin và học đang bay. Nó đậu chắc trên cây mai và chịu mưa gió mạnh suốt đêm. Tôi lo lắng hai ba lần ra soi đèn vẫn thấy chim đậu chắc trên cây chịu mưa gió. Tôi bỗng nhớ lời Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn: “Chim Hồng hộc bay được cao và xa là nhờ sáu cái trụ lông cánh, nếu không khác gì chim thường”.

chim-phuong-hoang-dat-9781-1381131449.jp
Phượng Hoàng đất là Chim trĩ ( Buceros bicornis) là loài chim quý hiếm, với các loại trĩ đỏ, trĩ  xanh và trĩ đen. Trong dân gian nó được ẩn dụ với loài chim phượng hoàng cao quý rất hiếm thấy,  một trong tứ linh (long , ly, quy phượng), mà nếu ai gặp được thì rất may mắn. Theo Truyền thuyết về chim phượng hoàng thì  Phượng hoàng là biểu thị cho sự hòa hợp âm dương, biểu tượng của đức hạnh và vẻ đẹp duyên dáng, thanh nhã . Phượng Hoàng xuất hiện ở nơi nào thì nơi đó được mừng là đất lành, thịnh vượng, và điềm lành. Rồng và Phượng là biểu tượng cho hạnh phúc vợ  chồng, hòa hợp âm dương và thường được trang trí, chúc phúc trong các đám cưới ở Việt Nam, Trung Quốc, và nhiều nước châu Á. Theo Kim Anh nguồn VN Express thì Phượng hoàng đất ở Tràng An  là loài Buceros bicornis, loài to nhất trong họ hồng hoàng, được phát hiện thấy tại một số khu rừng ở Tràng An Ninh Bình. Ở phương Nam, trong điều kiện đồng bằng tôi bất ngờ gặp loài chim trĩ  lông xanh đen (ảnh minh họa) là loài nhỏ hơn nhưng vẫn rất đẹp và quý mà tôi chưa có điều kiện để tra cứu kỹ ở Sinh vật rừng Việt Nam.

CHỐN VƯỜN THIÊNG CỔ TÍCH
Hoàng Kim

Anh đưa em vào
Vườn thiêng cổ tích
Nơi trời đất giao hòa
Ong làm mật yêu hoa
Lá non đùa nắng mới

Nhạc đồng xuân thung dung
Đắm say hòa quyện
Ban mai mù sương sớm
Trời xanh trong như ngọc
Cá nước chim trời
Vui thú an nhiên…

Khoảng lặng đất trời
Bí mật vườn thiêng

Vườn nhà sớm mai nay

NAM TIẾN CỦA NGƯỜI VIỆT
Hoàng Kim

Nam tiến là xu thế tự nhiên, tất yếu của lịch sử người Việt. Bản đồ đất nước Việt Nam qua các đời nguồn Wikipedia là dẫn liệu toàn cảnh, quan trọng cho tầm nhìn lịch sử Nam tiến của người Việt từ thời Lý cho đến nay. Một cách khái lược, hành trình Nam tiến kéo dài trên 700 năm từ thế kỷ 11 đến giữa thế kỷ 18, nâng diện tích lãnh thổ từ ban đầu độc lập (năm 938) cho đến nay (năm 2016) lãnh thổ Việt Nam hình thành và tồn tại với tổng diện tích gấp 3 lần.

Tác phẩm”Nỗi niềm Biển Đông”của nhà văn Nguyên Ngọc dẫn lời của giáo sư Đào Duy Anh là một khái quát gọn nhất và rõ nhất về hai phân kỳ Lịch sử Việt Nam; nguồn gốc và động lực Nam Tiến. Tôi xin được trích dẫn nguyên văn:

Mở đầu cuốn Việt Nam văn hóa sử cương, cụ Đào Duy Anh viết: “Khắp một vùng trung châu Bắc Việt, không mẩu đất nào là không có dấu vết thảm đảm kinh dinh của tổ tiên ta để giành quyền sống với vạn vật; suốt một dải Trung Việt vào đến trung châu Nam Việt, không một khúc đường nào là không nhắc lại sự nghiệp gian nan tiến thủ của tổ tiên ta để mở rộng hy vọng cho tương lai.” Thật ngắn gọn, thật súc tich, vị học giả cao kiến đã đúc kết chặt chẽ và cực kỳ chính xác hai chặng đường lớn mấy thiên niên kỷ của dân tộc; và chỉ bằng mấy chữ cô đọng, chỉ ra không thể rõ hơn nữa đặc điểm cơ bản của mỗi chặng, có ý nghĩa không chỉ để nhìn nhận quá khứ, mà còn để suy nghĩ về hôm nay và ngày mai – những suy nghĩ, lạ thay, dường như đang càng ngày càng trở nên nóng bỏng, cấp thiết hơn.

Chặng thứ nhất, tổ tiên ta, từ những rừng núi chật hẹp phía bắc và tây bắc, quyết chí lao xuống chiếm lĩnh hai vùng châu thổ lớn sông Hồng và sông Mã, mênh mông và vô cùng hoang vu, toàn bùn lầy chưa kịp sánh đặc, “thảm đảm kinh dinh để giành quyền sống với vạn vật” – mấy chữ mới thống thiết làm sao – hơn một nghìn năm vật lộn dai dẳng giành giật với sóng nước, với bùn lầy, với bão tố, với thuồng luồng, cá sấu … để từng ngày, từng đêm, từng giờ, vắt khô từng tấc đất, cắm xuống đấy một cây vẹt, một cây mắm, rồi một cây đước, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm  này qua năm khác, trăm năm này qua trăm năm khác, khi đất đã được vắt khô, được rửa mặn và ứng đặc, cắm xuống đấy một cây tạo bóng mát, rồi một cây ăn quả, một cây lúa, một mảnh lúa, rồi một đồng lúa …, tạo nên chỗ đứng chân cho từng con người, từng đôi lứa, từng gia đình, rồi từng cộng đồng, từng xóm mạc, từng làng, từng tổng, từng huyện, …cho đến toàn dân tộc, toàn xã hội, lập nên nửa phần là gốc cội của giang sơn ta ngày nay. Và hẳn còn phải nói thêm điều này nữa, cuộc thảm đạm kinh dinh vật lộn với thiên nhiên ấy lại còn phải cọng thêm cuộc vật lộn cũng dai dẳng, quyết liệt, không hề kém can trường và thông minh, để sáng tạo, định hình và gìn giữ một bản sắc Việt riêng giữa trăm Việt, là một Việt độc đáo và đặc sắc, không bị hòa tan bởi một thế lực hung hản, khổng lồ, luôn muốn xóa bỏ và hòa tan tất cả …   Hơn một thiên niên kỷ thiết lập và trụ vững, tạo nên nền tảng vững bền, để bước sang chặng thứ hai.

Chặng thứ hai, như cụ Đào Duy Anh đã đúc kết cũng thật ngắn gọn và chính xác, “gian nan tiến thủ để mở rộng hy vọng cho tương lai”.  Trên gốc cội ấy rồi, đi về đâu? Chỉ còn một con đường duy nhất: Về Nam. Có lẽ cũng phải nói rõ điều này: trước hết, khi đã đứng chân được trên châu thổ sông Hồng sông Mã rồi, kháng cự vô cùng dũng cảm và thông minh suốt một nghìn năm để vẫn là một Việt đặc sắc không gì đồng hóa được rồi, thì mối uy hiếp bị thôn tính đến từ phương bắc vẫn thường xuyên và mãi mãi thường trực. Không nối dài được giang sơn cho đến tận Cà Mau và Hà Tiên thì không thể nào bắc cự. Ở bước đường chiến lược này của dân tộc có cả hai khía cạnh đều hết sức trọng yếu. Khía cạnh thứ nhất: phải tạo được một hậu phương thật sâu thì mới đủ sức và đủ thế linh hoạt để kháng cự với mưu đồ thôn tính thường trực kia. Lịch sử suốt từ Đinh Lê Lý Trần Lê, và cả cuộc chiến tuyệt vời của Nguyễn Huệ đã chứng minh càng về sau càng rõ điều đó. Chỉ xin nhắc lại một sự kiện nghe có thể lạ: chỉ vừa chấm dứt được 1000 năm bắc thuộc bằng trận đại thắng của Ngô Quyền, thì Lê Hoàn đã có trận đánh sâu về phương nam đến tận Indrapura tức Đồng Dương, nam sông Thu Bồn của Quảng Nam. Đủ biết cha ông ta đã tính toán sớm và sâu về vai trò của phương Nam trong thế trận tất yếu phải đứng vững lâu dài của dân tộc trước phương bắc như thế nào.

 Khía cạnh thứ hai, vừa gắn chặt với khía cạnh thứ nhất, vừa là một “bước tiến thủ” mới “mở rộng hy vọng cho tương lai”, như cách nói sâu sắc của cụ Đào Duy Anh. Bởi có một triết lý thấu suốt: chỉ có thể giữ bằng cách mở, giữ để mà mở, mở để mà giữ. Phải mở rộng hy vọng cho tương lai thì mới có thể tồn tại. Tồn tại bao giờ cũng có nghĩa là phát triển. Đi về Nam là phát triển. Là mở. Không chỉ mở đất đai. Càng quan trọng hơn nhiều là mở tầm nhìn. Có thể nói, suốt một thiên niên kỷ trước, do cuộc thảm đảm kinh dinh để giành dật sự sống với vạn vật  còn quá vật vã gian nan, mà người Việt chủ yếu mới cắm cúi nhìn xuống đất, giành thêm được một một mẩu đất là thêm được một mẩu sống còn. Bây giờ đã khác. Đã có 1000 năm lịch sử để chuẩn bị, đã có thời gian và vô số thử thách để tạo được một bản lĩnh, đã có trước mặt một không gian thoáng đảng để không chỉ nhìn xa mãi về nam, mà là nhìn ra bốn hướng. Nhìn ra biển. Phát hiện ra biển, biển một bên và ta một bên, mà lâu nay ta chưa có thể toàn tâm chú ý đến. Hay thay và cũng tuyệt thay, đi về Nam, người Việt lại cũng đồng thời nhìn ra biển, nhận ra biển, nhận ra không gian sống mới, không gian sinh tồn và phát triển mới mệnh mông của mình. Hôm nay tôi được ban tổ chức tọa đàm giao cho đề tài có tên là “nổi niềm Biển Đông”. Tôi xin nói rằng chính bằng việc đi về nam, trên con đường đi ngày càng xa về nam mà trong tâm tình Việt đã có được nổi niềm biển, nổi niềm Biển Đông. Cũng không phải ngẫu nhiên mà từ đó, nghĩa là từ đầu thiên niên kỷ thứ hai, với nổi niềm biển ngày càng thấm sâu trong máu Việt, cha ông ta, người dân Việt, và các Nhà nước Việt liên tục, đã rất sớm khẳng định chủ quyền Việt Nam trên các hải đảo và thểm lục địa “.

Nam Tien cua nguoi Viet 2


Nam Tiến của người Việt từ thời tự chủ cho đến ngày nay được chia làm ba giai đoạn chính:

Giai đoạn 1 từ năm 1009 khởi đầu nhà Lý  cho đến năm 1525 khởi đầu nhà Mạc, trãi Đinh, Tiền Lê, Nhà Lý, Nhà Trần (1226-1400), Nhà Hồ (1400- 1407),  Nhà Lê sơ (1428-1527). Cương vực nước Đại Việt là bản đồ màu xanh đến ranh giới đèo Ngang hoặc sông Gianh ranh giới Hà Tĩnh và Quảng Bình ngày nay. Giải đất các đồng bằng nhỏ ven biển Nam Trung Bộ suốt thời kỳ này là sự giành đi chiếm lại của Đại Việt và Chiêm Thành.Đây là giai đoạn đầu mới giành được độc lập tự chủ, lãnh thổ Đại Việt bao gồm khu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng, các đồng bằng nhỏ ven biển Bắc Trung Bộ. Sông Gianh là cực nam của đất nước.

Giai đoạn 2 từ năm 1526 khởi đầu nhà Mạc của nước Đại Việt đến năm 1693 kết thúc việc sáp nhập Chiêm Thành vào Đại Việt và đến năm 1816 sáp nhập hoàn toàn Chân Lạp, Tây Nguyên với các hải đảo vào lãnh thổ của nước Đại Nam thời Minh Mệnh nhà Nguyễn để có ranh giới cương vực như hiện nay. Thời kỳ này trãi từ Nhà Mạc (1527- 1592), Nhà Lê trung hưng (1533-1789), Trịnh-Nguyễn phân tranh,  nhà Tây Sơn (1778- 1802) Chiến tranh Tây Sơn–Chúa Nguyễn (1789-1802) Việt Nam thời Nhà Nguyễn (1804-1839). Bản đồ cương vực màu  xanh gồm khu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng, các đồng bằng nhỏ ven biển Bắc Trung Bộ thuộc Đằng Ngoài, cương vực màu vàng từ địa đầu Quảng Bình đến đèo Cù Mông tỉnh Phú Yên, bao gồm các đồng bằng nhỏ ven biển Nam Trung Bộ, Tây Nguyên  thuộc Đàng Trong, Từ năm 1693 cho đến năm 1839 lãnh thổ Việt Nam lần lượt bao gồm  Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long với các hải đảo .

Giai đoạn 3 từ năm 1839 cho đến nay, bao gồm:  Đại Nam thời Nhà Nguyễn (1839- 1945); Thời Pháp thuộc Liên bang Đông Dương (nhập chung với Lào, Campuchia, Quảng Châu Loan 1887 -1945); Giai đoạn từ năm 1945 đến nay (Đế quốc Việt Nam: tháng 4 năm 1945 – tháng 8 năm 1945 dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim; Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: từ 2 tháng 9 năm 1945 đến 2 tháng 7 năm 1976; Quốc gia Việt Nam: dựng lên từ 1949 đến 1955 với quốc trưởng Bảo Đại bởi chính quyền Pháp; Việt Nam Cộng hòa: tồn tại với danh nghĩa kế tục Quốc gia Việt Nam từ 1955 đến 30 tháng 4 năm 1975 tại miền Nam; Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam sau là Cộng hoà Miền Nam Việt Nam: từ 8 tháng 6 năm 1960 đến 2 tháng 7 năm 1976; Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: từ ngày 2 tháng 7 năm 1976 đến nay).

Đặc trung của giai đoạn 1 là Sông Giang làm cực Nam của Đằng Ngoài khi chân chúa Nguyễn Hoàng sáng nghiệp đất Đằng Trong. Năm 1558, chúa Nguyễn Hoàng đã cùng với con em vùng đất Thanh Nghệ vào trấn nhậm ở đất Thuận Hóa Quảng Nam, lấy Hoành Sơn, Linh Giang và Luỹ Thầy sau này làm trường thành chắn Bắc. Nguyễn Hoàng đã có những chính sách hiệu quả để phát triển vùng đất Đằng Trong mở rộng lãnh thổ về phương Nam. Các hậu duệ của Nguyễn Hoàng tiếp tục chính sách  bắc cự nhà Trịnh, nam mở mang đất, đến năm 1693 thì sáp nhập toàn bộ đất đai Chiêm Thành vào Đại Việt.

Nam Tien cua nguoi Viet 3

Đặc trưng của giai đoạn 2 là Núi  Đại Lãnh  và núi đá Bia tỉnh Phú Yên là chỉ dấu quan trọng Nam tiến của người Việt từ thế kỷ 11 đến cuối thế kỷ 17. Lê Hoàn năm 982 đem quân đánh Chiêm Thành mở đất phương Nam là lần xuất chinh sớm nhất của Đại Việt, và năm 1693 là năm cuối cùng toàn bộ phần đất Chiêm Thành ở Phú Yên sáp nhập hoàn toàn vào Đại Việt.

Vua Lê Thánh Tông năm 1471 khi thân chinh cầm quân tấn công Chiêm Thành  tương truyền đã dừng tại chân núi đá Bia và cho quân lính trèo lên khắc ghi rõ cương vực Đại Việt.Thời Nhà Nguyễn, đến năm 1816 thì sáp nhập toàn bộ đất đai Chân Lạp, Tây Nguyên và các hải đảo vào lãnh thổ Đại Nam. Kể từ lần xuất chinh đầu tiên của Lê Hoàn từ năm 982 đến năm 1693 trãi 711 năm qua nhiều triều đại, hai vùng đất Đại Việt Chiêm Thành mới quy về một mối. Người Việt đã đi như một dòng sông lớn xuôi về biển, có khi hiền hòa có khi hung dữ, với hai lần hôn phối thời Trần (Huyền Trân Công Chúa) và thời Nguyễn (Ngọc Khoa Công Chúa), chín lần chiến tranh lớn  nhỏ. đã hòa máu huyết với người Chiêm để bước qua lời nguyền núi đá Bia ở núi Phú Yên “gian nan tiến thủ để mở rộng hy vọng cho tương lai”, cho đến năm 1834 thành nước Đại Nam như ngày nay.

Đặc trưng của giai đoạn 3 là Nước Việt Nam độc lập toàn vẹn. Chủ tịch Hồ Chí Minh người đặt nền móng cho một nước Việt Nam mới đã kiên quyết khôn khéo nhanh tay giành được chính quyền và lập nên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, bởi Pháp bại Nhật hàng vua Bảo Đại thoái vị. Bác nói và làm những điều rất hợp lòng dân: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một; sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”. “Nay, tôi chỉ có một tin tưởng vào Dân tộc độc lập. Nếu (tôi) cần có đảng phái thì sẽ là Đảng dân tộc Việt Nam. Đảng đó sẽ chỉ có một mục đích làm cho dân tộc ta hoàn toàn độc lập. Đảng viên của đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô ra ngoài.[240]

Nam Tien cua nguoi Viet 5

Nam tiến của người Việt thành công vì đó là là xu thế tự nhiên, tất yếu lịch sử người Việt.

DẠO CHƠI NON NƯỚC VIỆT
Hoàng Kim

Anh và em,
chúng mình cùng nhau
dạo chơi non nước Việt.

Anh đưa em vào miền cổ tích
nơi Lạc Long Quân và Âu Cơ
sinh ra đồng bào mình trong bọc trứng,
thăm đền Hùng Phú Thọ
ở Nghĩa Lĩnh, Việt Trì,
về Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội,
thủ đô Việt Nam,
hồn thiêng sông núi tụ về.

“Khắp vùng đồng bằng sông Hồng,
vùng núi và trung du phía Bắc,
không mẩu đất nào không lưu dấu tổ tiên
để giành quyền sống với vạn vật.

Suốt dọc các vùng
từ duyên hải Bắc Trung Bộ,
đến duyên hải Nam Trung Bộ,
Tây Nguyên,
Đông Nam Bộ,
Đồng Bằng Sông Cửu Long,
là sự nghiệp gian nan tiến thủ của tổ tiên
để mở rộng hy vọng tương lai dân tộc” (1)

Tổ Quốc bốn nghìn năm
giang sơn gấm vóc
biết bao nơi lòng ta thầm ước
một lần đến thăm.

Anh đưa em lên Phù Vân
giữa bạt ngàn Yên Tử
nơi “vũ trụ mắt soi ngoài biển cả” (2)
đến Hạ Long,
Hương Sơn,
Phong Nha,
Huế,
Hải Vân,
Non nước,
Hội An,
Thiên Ấn,
Hoài Nhơn,
Nha Trang,
Đà Lạt.

Về tổ ấm chúng mình
Ngọc phương Nam.
Tình yêu muôn đời:
Non nước Việt Nam.

1) Đào Duy Anh
2) Nguyễn Trãi  

CÓ MỘT NGÀY NHƯ THẾ
Đầy đặn niềm tin yêu

Hoàng Kim

Chúc mừng Nguyễn Bạch Mai tân tiến sỹ 2019 và thầy bạn ngày Quồc tế Hạnh Phúc.

Sáng ngày 20 tháng 3 năm 2019, Trường Đại Học Tây Nguyên đã tổ chức Bảo vệ luận án Tiến sĩ cấp Trường cho nghiên cứu sinh (NCS) Nguyễn Bạch Mai, chuyên ngành Khoa học cây trồng; mã số: 62.62.01.10. Hội đồng đánh giá luận án tiến sỹ cấp trường có mặt 07/07 thành viên, hai thầy hướng dẫn và nghiên cứu sinh (hình).

Toàn văn luận án “Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật rải vụ sắn tại tỉnh Đắk Lắk” của NCS. Nguyễn Bạch Mai Tóm tắt luận án bằng Tiếng Anh; Tóm tắt luận án bằng Tiếng Việt; Trang thông tin về luân án bằng Tiếng Anh; Trang thông tin về luân án bằng Tiếng Việt tại website điện tử Trường Đại Học Tây Nguyên đường link tại đây https://www.ttn.edu.vn/index.php/hvthongbao/1503-1127021902    

Sắn Việt Nam hôm nay và ngày mai, bài học con người và vùng sinh thái,.Chúc mừng tân tiến sĩ Nguyễn Bạch Mai sắn Tây Nguyên và thầy bạn sắn

Cây sắn người và đất Tây Nguyên

Đến với Tây Nguyên mới bài học lớn trong câu chuyện nhỏ.

LỜI THẦY DẶN
Hoàng Kim

Ngày Hạnh Phúc con biết ơn
Bao người thân hi sinh thầm lặng
Cha Mẹ người thân là động lực
Cho đồng xuân mãi mãi xuân.

Tagore bậc hiền triết phương Đông:
Hãy cảm ơn ngọn đèn tỏa sáng,
nhưng chớ quên người cầm đèn
đang kiên nhẫn đứng trong đêm


Vui với chốn dân quê thuần phác
Sống thung dung trời đất cỏ cây
Vinh danh được Học Làm Người
Chí thiện công tâm phúc hậu.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là thai-nguyen-hue-chi-rung-dieu.jpg

Câu chuyện ảnh tháng Ba
NGUYỄN HUỆ CHÍ THÁI RỪNG ĐIỀU
Hoàng Kim


Thầy nghề nông chiến sĩ
Thầy bạn trong đời tôi
Một niềm tin thắp lửa
Câu chuyện ảnh tháng Ba

Nguyễn Huệ Chí Thái Cám ơn anh Hoàng Kim người trong cuộc. Hồi đó khi vào học Huệ Chí cũng là cán bộ lớp Lâm III, nhưng mình lo học là chính, vì kiến thức 10 năm bộ đội rơi rụng nhiều và về học Bổ túc Văn hóa phải nỗ lực kiến thức chuyên môn có hạn. Mình chỉ biết .”Hoàng Kim làm Đảng ủy viên Trường, phụ trách Quản lý Cư xá Sinh viên, Chủ tịch Hội Sinh viên” sau này biết Hoàng Kim là Tiến sĩ Ngô, Khoai ,Săn cáng nể phục – rồi BAY QUA GIẤC MƠ của Chung Lê (nho xinh) thì càng quý hơn. Hoàng Kim cùng dân Trung ở Quảng Bình, Quảng Trị đất hiếu học _ Thế đấy, mình tuy là dân Lâm nghiệp nhưng lại đi theo con đường hạt điều – Từ gieo hạt đến bàn ăn anh Kim ạ Vì một điều ” HỒN TỔ QUỐC NGỰ TRONG RỪNG SÂU THẲM – RỪNG SUY TÀN ..TỔ QUỐC SUY VONG” Cây điều là cây tiên phong giữ đất, chống rửa trôi. Muốn phục hồi lại rừng phải giữ lại đất rừng, khi rừng bị khai quang bằng chất độc da cam, chỉ có lồ ô , cỏ Mỹ- Người trồng rừng sẽ ăn gì để trồng rừng và phục hồi rừng, khi mà sáu tháng mùa mưa đất dỏ thành bùn keo, mùa khô phải trồng ngô khoai sắn cứu đói Việt Nam bị cấm vận. Giải pháp trồng điều? Nhưng trồng như thế nào hỗn giao hay thuần loại-, nhiều tầng theo quan điểm “sinh thái phát triển quần thể” và khi có sản phầm rồi thì phải biến các sản phẩm của rừng từ hoa quả (hạt điều) lá, vỏ, thân, cành (quế) thành hàng hóa xuất khẩu là một câu chuyện dài… Và tôi đã đi đúng hướng, đúng tâm nguyện của của cha tôi ” PHỤC HỒI LẠI RỪNG THEO TIỂU VÙNG KHÍ HẬU, BIẾN TẤT CÁC SẢN PHẨM CỦA RỪNG KHÔNG PHẢI LÀ GỖ THÀNH TIỀN ĐỂ NUÔI DÂN VÀ NUÔI NGƯỜI TRỒNG RỪNG, PHỤC HỒI LẠi RỪNG Cám ơn anh thật nhiều đã yêu quý Huệ Chí (ảnh Thái Nguyễn Huệ Chí 2016 theo đoàn VTV1 vác chân máy cho “Tầm nhìn hạt điều 2020” một thời đã qua).

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tran-cong-khanh-ngay-moi-2.jpg

Trần Công Khanh ngày mới Câu chuyện ảnh tháng Ba

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tran-cong-khanh-ngay-moi-3.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tran-cong-khanh-ngay-moi-4.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là hoi-nghi-nghiem-thi-lua-bc15.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chuyen-thay-tran-van-khe.jpg

Câu chuyện ảnh tháng Ba
CHUYỆN THẦY TRẦN VĂN KHÊ
Hoàng Kim
https://hoangkimlong.wordpress.com/2021/03/20/chuyen-thay-tran-van-khe/

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tham-sinh-ly-thuc-vat.jpg

Câu chuyện ảnh tháng Ba
THĂM THẦY BÙI MINH TRÍ


Chúc mừng sự tìm tòi nghiên cứu và kết quả mới của nhóm tác giả Phan Hải Vân, Bùi Minh Trí, Nguyễn Du Sanh về đề tài “Ảnh hưởng của Brassinosteroid lên sinh trưởng, phát triển, năng suất và hoạt tính một số enzyme chống oxi hóa của giống lúa Jasmine 85 trong điều kiện mặn”.

Câu chuyện ảnh tháng Ba gợi nhớ lần thăm thầy Bùi Minh Trí và chuyện đời, chuyện nghề liên quan của ngày này hai năm trước PGS TS The Anh Dao “Họp Tư vấn chương trình sáng kiến Asean Các giải pháp di truyền chọn giống lúa nhằm tăng cường khả năng chống chịu trước tác động của khí hậu và gia tăng giá trị sản xuất lúa gạo tại Đông Nam Á” với những liên hệ thú vị mà thầy Đào Thế Anh đã đăng trong MALICA với sự tích hợp thật tốt tại VTV4 https://vtv.vn/video/bizline-15-3-2020-427424.htm.

Việt Nam con đường xanh kết nối lan tỏa những điểm sáng nông nghiệp nông dân nông thôn và công nghệ cao Ứng dụng công nghệ nâng cao chuỗi giá trị nông nghiệp. (Technological application enhances agriculture value chain). Nhớ lời Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại Hội nghị ĐBSCL ngày 13/3/2021: Thuận thiên; Ba vùng (ĐBSCL vùng thượng, vùng giữa, vùng ven biển); Tám G để phát triển ĐBSCL hiện đại, bền vững https://tuoitre.vn/thu-tuong-8g-de-phat-trien-dong-bang…. Thân chúc thầy bạn vui khỏe ngày mới.

Câu chuyện ảnh tháng Ba

Họp Tư vấn chương trình sáng kiến Asean Các giải pháp di truyền chọn giống lúa nhằm tăng cường khả năng chống chịu trước tác động của khí hậu và gia tăng giá trị sản xuất lúa gạo tại Đông Nam Á

VIÊT NAM CON ĐƯỜNG XANH
Hoàng Kim

Chúc mừng và cảm ơn The Anh Dao đã đăng trong MALICA
https://vtv.vn/video/bizline-15-3-2020-427424.htm . Hoàng Kim đọc lại và suy ngẫm bài viết cũ, nhớ lời Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại Hội nghị ĐBSCL ngày 13/3/2021: Thuận thiên; Ba vùng (ĐBSCL vùng thượng, vùng giữa, vùng ven biển) Tám G (tám giải pháp chìa khóa để phát triển ĐBSCL hiện đại, bền vững)

*

Hai bài học thực tiễn công nghệ trồng hoa tươi, kỹ thuật trồng hoa cúc, kỹ thuật trồng hoa ly và sự thảo luận của Phó Giáo sư Tiến sĩ Đào Thế Anh Phó Viện trưởng Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Kết nối Thị trường và Nông nghiệp các thành phố châu Á (Markets and Agriculture Linkages for Cities in Asia– MALICA) ở Tạp chí Kinh tế Bizline thông tin tại VTV4 ngày 15 tháng 3 năm 2020,.là chủ đề thú vị của Ứng dụng công nghệ nâng cao chuỗi giá trị nông nghiệp Technological application enhances agriculture value chain . Cách ứng dụng thông minh công nghệ thông tin trong nông nghiệp theo cách Việt Nam là giải pháp chìa khóa Ứng dụng công nghệ nâng cao chuỗi giá trị nông nghiệp. Ghi chú (Notes) 1-6 Việt Nam con đường xanh

CÔNG NGHỆ TRỒNG HOA TƯƠI

Kỹ thuật trồng hoa cúc

Ông Bùi Văn Sỹ một nông dân ở phường 11, thành phố Đà Lạt tỉnh Lâm Đồng với khoảng 10 tỷ đồng đã đầu tư lắp đặt nhà kính, hệ thống tưới nước, bón phân tiên tiến của Nhật, Israel cho 4 ha hoa.

Hệ thống hiện đại này giúp ông Sỹ giảm từ 10 xuống 1 nhân công .Chỉ với một nút bấm điều khiển hệ thống sẽ thực hiện mọi công đoạn từ tưới nước bón phân … Nhờ hệ thống này hoa của ông Sỹ không bị hỏng do mưa đá hay sâu bệnh, bông hoa tươi lâu hơn và được khách Hàn Quốc, Thái Lan ưa chuộng. Mỗi ha hoa cho doanh thu hơn 2 tỷ đồng trừ chi phí còn hơn 700 triệu đồng tiền lãi.

Kỹ thuật trồng hoa ly

Ông Nguyễn Minh Trí xã Xuân Thọ thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng sáng tạo trồng hoa ly trong nhà lưới hai lớp. Lớp lưới đen phía trong di chuyển được kéo ra khi mưa, kéo che khi nắng gắt.

Ông Trí lắp đặt hệ thống ống tưới nước, tưới phân nhỏ giọt tự động sát từng gốc hoa … Đặc biệt, ông Trí không trồng hoa trên đất mà trồng trên giá thể xơ dừa xử lý bằng công nghệ nano.

Trang trại hoa ly giá thể của ông Trí được chọn là mô hình mẫu về nông nghiệp công nghệ cao, cho doanh thu gần 4 tỷ đồng một năm một ha, và đã có hàng chục chủ doanh trại học hỏi, ứng dụng cách canh tác thông minh này thành công.

* Ghi chú (Notes)

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là viet-nam-con-duong-xanh.jpg

Tạp chí Khoa học Phát triển Nông thôn Việt Nam: Một năm nhiều cảm xúc, khó khăn thách thức và những nỗ lực vươn lên”, kỳ này, có số chuyên đề “Hệ thống thực phẩm các thành phố Việt Nam, những thay đổi lớn” đặt mua tại tapchivaas@gmail.com,

Sách SAE 2020 Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh có 167 báo cáo tóm tắt đúc kết.thông tin Hội thảo Quốc tế Nông nghiệp và Môi trường bền vững ngày 18 tháng 11 năm 2020; giới thiệu Tạp Chí Nông Nghiệp Và Phát Triển, Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tiếng Việt và tiếng Anh http://journal.hcmuaf.edu.vn/ là cơ sở dữ liệu thông tin trực tuyến rất mạnh mẽ cho quý bạn đọc.

Doanh nghiệp Nấm Ngọc http://namngoc.vn/ 0932624540 Viện Công nghệ Sinh học Lâm nghiệp Phân hiệu Trường Đại học Lâm nghiệp.tại thị trấn Trảng Bom,tỉnh Đồng Nai Chuyên cung cấp sản phẩm, thực phẩm có nguồn gốc thiên nhiên là nguồn dinh dưỡng, dược chất quý giá cho sức khỏe, giữ gìn sắc đẹp Việt. Sản phẩm uy tín chất lượng. Doanh nghiệp Nấm Ngọc đã giới thiệu·Quy trình thu hoạch Nấm Đông Trùng Hạ Thảo

xem tiếp Việt Nam con đường xanh

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nguyen-thi-le-dung-2011.jpg

CÂU CHUYỆN ẢNH THÁNG BA
Hoàng Kim


Dấu xưa thầy bạn quý
Chuyện sao Kim sao Thủy
Thầy bạn trong đời tôi
Câu chuyện ảnh tháng Ba

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cau-chuyen-anh-thang-ba/

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là cau-chuyen-anh-thang-ba-1-1.jpg

CÂU CHUYỆN ẢNH THÁNG BA
Hoàng Kim

Đến với Tây Nguyên mới,
nhớ lớp học trên đồng.

Trại Giống Lúa Phú Thiện
bạn Dư Thị Mỹ Hạnh
làm cao học lúa thơm
chọn giống chất lượng cao
cách bón phân hiệu quả.

Đinh Văn Thăng Ba Na
làm đề tài tốt nghiệp
kỹ sư ngành nông học
chọn giống lúa siêu xanh.

Đặng Văn Hải Gia Lai
chọn giống lúa cao sản
triển vọng vùng Tây Nguyên.
Câu chuyện ảnh tháng Ba
nối dài bài học quý

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là cau-chuyen-anh-thang-ba-2-1.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là cau-chuyen-anh-thang-ba-3-1.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là cau-chuyen-anh-thang-ba-4-1.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là dh10nhgl30.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là aovietchatluongvathuonghieu2.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là dh10nhgl33.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là dh10nhgl37.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là dh10nhgl46.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là dh10nhgl50.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là dh10nhgl48.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là baihocthuctientunguoithay.jpg

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cau-chuyen-anh-thang-ba/

BinhMinhYenTu

Casava in Vietnam: Save and Grow, PhuYen
Mùa xuân đầu tiên (Văn Cao) -Thanh Thúy
Quê Hương saxophone hay nhất của Trần Mạnh Tuấn
Ban Mai; Chỉ tình yêu ở lại
KimYouTube

Ban mai chào ngày mới https://youtu.be/AehorMdjl0w

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Linh Giang sông quê hương

LINH GIANG SÔNG QUÊ HƯƠNG
Hoàng Kim

Nhà mình gần ngã ba sông
Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình
Linh Giang sông núi hữu tình
Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con

“Chèo thuyền cho khuất bến Son
Để con khỏi chộ nước non thêm buồn “

Câu ru quặn thắt đời con
Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ

Ra đi từ bấy đến chừ
Lặn trong sương khói bến đò sông quê
Ngày xuân giữ vẹn lời thề
Non sông mở cõi, tụ về trời Nam.
xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/linh-giang-song-que-huong

HOME RIVER

Learning the attitude of water that goes like the river

My house is near a confluence
Rao Nan, Cho Moi, Nguon Son, Quang Binh
Linh River charming Mountain River
The place where I was born.

“Rowing far away the SON wharf
Not to see our village that makes me sadder “
Lullaby makes me heart- rending
My parents died early when I was a baby.

Leaving our village since then
Diving in smog from the wharf of our river
Keeping full oath in Spring days
When the country unify, we’ll live together in the South

English translation
by NgocphuongNam



LINH RIVER

Hoang Kim
Learning the attitude of water that goes like the river

By confluence sited is my home
Rao Nam, Cho Moi, Nguon Son, Quang Binh
Linh river of charming
That is place releasing a person

Rowing out of the Son
Let is the upset not involved in my mind
Such a sad lunlaby
Parents is dead left five child barren

Leaving home since then
Smog of wharf is driven my life
When Vietnam unified
The South chosen the homeland to live.

English translation
by Vu Manh Hai

😍https://hoangkimlong.wordpress.com/category/linh-giang-song-que-huong Linh Giang sông quê hương “Chèo thuyền cho khuất bến Son Để con khỏi chộ nước non thêm buồnCảm ơn anh Bu Nguyễn Quốc Toàn và anh Ruc Hung để thấm thía đọc lại Tỉnh thức cùng tháng năm Gia Cát Mã Tiền Khóa Thành tâm với chính mình https://youtu.be/t-el5mFWkjU để thấu hiểu vì sao Lưu Bị nhói trong tim thụp lạy tôn hiền tài nặng lòng Son đến vậy!

ĐI NHƯ MỘT DÒNG SÔNG
Hoàng Kim

1
Linh Giang sông quê hương
Lời thề trên sông Hóa
Đá Đứng chốn sông thiêng
Đại Lãnh nhạn quay về.
2
Lời dặn của Thánh Trần
Minh triết Hồ Chí Minh
Thầy nghề nông chiến sĩ
Đồng xuân lưu dấu hiền
3
Chuyện đời tôi Hoàng Kim
Chín điều lành hạnh phúc
Chim Phượng về làm tổ
Chung sức trên đường xuân
4
Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn
Nguyễn Du trăng huyền thoại
Tô Đông Pha Tây Hồ
Nguyễn Hiến Lê sao sáng
5
Việt Nam con đường xanh
Cây Lương thực Việt Nam
Ngày xuân đọc Trạng Trình
Sóc Trăng Lương Định Của.
6
Dạo chơi non nước Việt
Về Nghĩa Lĩnh Đền Hùng
Lên Trúc Lâm Yên Tử
An Viên Ngọc Quan Âm
7
Trường tôi nôi yêu thương
Dấu xưa thầy bạn quý
Thầy bạn là lộc xuân
Thầy bạn trong đời tôi
8
Đi như một dòng sông
Giấc mơ thiêng cùng Goethe
Châu Mỹ chuyện không quên
Ấn Độ địa chỉ xanh
Trung Quốc một suy ngẫm
9
Giấc mơ lành yêu thương
Cuối dòng sông là biển
Sự chậm rãi minh triết
Cây đời mãi tươi xanh

(*) Linh Giang sông quê hương là nôi Đất Anh hùng, làng sinh Tướng nơi sinh thành của trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, Tư lệnh Binh đoàn 559 (Binh đoàn Trường Sơn)

HỌC ĐI MÀ NHỚ MÃI
Hoàng Kim


Trên bục giảng mùa xuân
Chuyện nước phân cần giống
Nghề nhà nông hạt gạo
Chuyện đời không thể quên

Học đi em
Học đi mà nhớ mãi
Có một thời để nhớ
Có một thời để thương …

Linh Thủy làng Kim Linh
Thọ Linh đập Rào Nan
Đá Đứng chốn sông thiêng
Tích xưa và chuyện mới

Nghe nhạc Trịnh Công Sơn
Mẹ ở làng Thọ Linh
Chuyện cụ Nguyễn Tư Thoan
Khát vọng đập Rào Nan

Linh Giang sông quê hương
Quảng Bình với Trường Sơn
Quảng Bình đất và người
Đọc mà nước mắt chảy …

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/quang-binh-dat-va-nguoi/

KHÁT VỌNG RÀO NAN
Tùy bút của Hoàng Minh Đức


Cả làng tôi ngày xưa nghèo đói
Cày thuê không kiếm nổi bát cơm
Cơm “củ to cha ơi” con gọi(*)
Một thìa cơm cõng đọi khoai vằm

Nam Quảng Trạch mất mùa nắng hạn
Lúa nghẹn đòng lau trắng phất phơ
Rào Nan hững hờ trôi về biển
Để ngàn năm khát cháy đôi bờ…

Ai đã từng đi theo đoàn làm phim tài liệu “Khát vọng Rào Nan”, đi từ đầu nguồn cho đến cuối cửa Gianh mới cảm nhận hết dư vị ngọt ngào pha lẫn niềm đau nỗi buồn của dòng nước ngọt Rào Nan. Không biết cái tên Rào Nan có tự bao giờ, chỉ biết rằng đó là một trong ba nhánh của hệ thống sông Linh Giang đổ ra biển cả. Trước khi vua Chế Củ dâng 3 châu Bố Chính, Ma Linh, Địa Lý từ dãy Hoành Sơn đến dãy Bạch Mã cho Đại Việt thì Rào Nan có tên là Linh Thủy. Con sông Linh Thủy chạy qua làng Kim Linh xuống làng Minh Lệ, La Hà rồi đến cửa Gianh.

Sau khi vua Gia Long thống nhất đất nước thì làng Kim Linh phải đổi tên thành làng Thọ Linh vì kiêng tên húy chúa Nguyễn Kim. Chính tại nơi đây, làng Thọ Linh đã chứng kiến một thuở vui buồn của đập Rào Nan. Miền đất vùng Nam Quảng Trạch trước đây (nay thuộc thị xã Ba Đồn) đồng chua nước mặn, đồng ruộng luôn bị nước biển xâm nhập bao vây, là nơi thiếu nước ngọt trầm trọng nhất tỉnh Quảng Bình. Trước Cách mạng Tháng Tám, những năm hạn hán các làng đổ nhau đi cầu đảo. Ngay tri phủ Quảng Trạch, Đặng Hiếu An cũng về miếu Thần Cụt bên Rú Cấm lập đàn tràng, cầu đảo, bơi trải hai, ba ngày liền.

Từ sau năm 1965, chiến tranh ngày càng ác liệt thì niềm khát vọng chinh phục Rào Nan ngày càng lớn.

Chiến tranh. Hạt gạo cần thiết hơn bao giờ hết. Gạo một phần để tự túc lương thực cho dân 10 xã vùng Nam Quảng Trạch. Gạo để gửi ra các chiến trường. Ấy thế mà hầu hết các mặt hàng thiết yếu và ngay cả hạt gạo Quảng Trạch cũng do Trung ương chi viện. Hạt gạo đất lửa Quảng Bình phải cắn ra làm ba, làm tư cho chiến trường Trị – Thiên và các bạn Lào, Căm pu chia. Quảng Trạch lúc đó dân số 20 vạn người, gấp đôi, gấp ba các huyện khác. Ông Nguyễn Tư Thoan, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình nói “Quảng Trạch đủ ăn là cả tỉnh đủ ăn”. Hai vựa lúa Quảng Ninh, Lệ Thủy đủ cung cấp cho thị xã Đồng Hới và các huyện Bố Trạch, Tuyên Hóa, Minh Hóa. Ông đã phát biểu tại hội nghị tổng kết cuối năm 1967: “Vũ khí trang phục không làm được, còn lương thực ăn hàng ngày mà không lo được là một nỗi nhục của Đảng bộ và nhân dân tỉnh ta”.

Ngay từ khi ông manh nha ý tưởng thay trời làm mưa, cùng Sơn Tinh trị thủy vùng Nam Quảng Trạch đã không ít người phản đối. Nhà báo, nhà thơ Phan Văn Khuyến, người chứng kiến cuộc họp dưới nhà hầm Huyện ủy Quảng Trạch thời ấy đã kể lại rằng: “Ông Đoàn Tiến Khứ, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch, người có học vấn cao nhất tỉnh thời bấy giờ về khoa học kỹ thuật thủy lợi đã dẫn lời của Lê Nin: Nếu chỉ có nhiệt tình mà thiếu tri thức thì trở thành kẻ phá hoại. Ông nói “Cách đây bảy năm ta mời đoàn chuyên gia Hung-ga-ri đến khảo sát vùng Đồng Đâu trên thượng nguồn để xây đập thủy điện kết hợp với lấy nước tưới ruộng. Nhưng do chiến tranh công việc bỏ dở. Bây giờ muốn làm cũng phải mời chuyên gia nước ngoài hoặc từ Bộ Thủy lợi về khảo sát chứ không nên làm theo ý chủ quan như thế này”.

Nghe trái ý, ông Thoan làm động tác phứt râu liên tục, mặc dù trên cằm ông chẳng có một sợi râu nào. Ông đứng phắt dậy: “Đừng lý luận dài dòng nữa. Anh hãy nói ý kiến của mình đồng tình hay phản đối. Ta không còn thời gian để nên thế này, nên thế khác nữa. Nếu không tìm cách giải quyết lương thực tại chỗ theo tinh thần của Trung ương thì chưa chết vì bom đạn cũng đã chết vì đói, còn đâu nữa mà “vì miền Nam thân yêu, vì Trị – Thiên ruột thịt”.

Vốn tính khảng khái, không hề run sợ trước cấp trên, ông Khứ vẫn không chịu: – Tôi vốn sinh ra và lớn lên giữa vùng đất Quảng Trạch. Tôi biết khi cây lúa đông xuân đang lên xanh tốt, gặp cự đòng đòng đúng lúc gió nam về, nếu thắp một mồi lửa là cháy sạch. Tôi là một người làm khoa học, nhưng biết mà không nói thì sẽ ân hận cả đời. Là một đảng viên, thường vụ quyết thì tôi phải chịu, chứ bảo tôi đồng tình dễ dàng sao được.

Một vài đại biểu cũng mạnh dạn phản đối theo ông Khứ nhưng chỉ nói chung chung, chẳng có một luận cứ, luận chứng nào sáng tỏ thêm. Giữa lúc không khí hội nghị đang căng thẳng thì từng đợt máy bay liên tiếp rạt qua trên hội trường, tiếng đạn rốc két xé gió bắn xối xả xuống làng, tiếng bom sát thương nổ ầm ầm bên bãi tập kết hàng để chở sang bến Mới, cách đó chừng một cây số. Dứt loạt bom, ông Thoan đứng bật dậy như cái lò xo:

– Tôi không hiểu nhiều về lí thuyết, nhưng thực tế đã dạy cho tôi nhiều bài học. Ở các ngầm Đá Mài, Khe Sâu, Long Đại, ngay cả các con sông Lý Hòa, Chánh Hòa, cầu Dài Đồng Hới ta đổ gạch đá xuống cho xe ra chiến trường mà các trận lụt lớn có trôi hết cả đâu. Thế là nửa tháng sau, như một ông thầy địa lí đi tìm long mạch cùng các thổ thần đất đai, ông Nguyễn Tư Thoan chống gậy đi dọc bờ sông và tìm được một địa điểm bên động Ngùi để đắp đập.


Hơn một năm sau, với sức mạnh của một vạn lượt người được huy động từ 7 huyện, thị, đến giữa năm 1969, con đập bằng đá lèn nổi lên sừng sững như một hòn núi vĩnh viễn chặn ngang dòng nước mặn từ biển vào. Khi hoàn thành công trình, làng Thanh Thủy mất hẳn một hòn lèn cung cấp vật liệu chính cho đập Rào Nan. Con đập dài 135 mét, chân rộng hơn 30 mét, cao 6 mét ( không tính phần lún dưới bùn), ngạo nghễ thách thức với thời gian. Ngày khánh thành đập không có bia rượu liên hoan, không có cờ hoa, biểu ngữ, cả 8 chiếc máy bơm ầm ầm đổ nước vào bể chứa. Dòng nước ngọt theo các con mương chạy về làng quê. Nước đi đến đâu lũ trẻ con chạy theo hò reo đến đó. Nhiều người hớn hở chạy ra đón nước chảy qua mương bên hồi nhà, vục tay xuống nước mà ứa nước mắt. Có người bụm tay đưa nước lên miệng uống ừng ực như chưa bao giờ được uống. Lũ trẻ con thì khỏi phải nói. Chúng trần truồng nhảy xuống dòng nước xô đẩy, té nước, reo hò như điên như dại.

* * *

Năm 1969, giặc Mỹ đã ngừng ném bom miền Bắc. Tôi đang sơ tán (K8) ngoài Thanh Hóa trốn về theo xe bộ đội vào Quảng Bình. Bố tôi theo trường Sư phạm chuyển về xã Quảng Phương (Quảng Trạch). Mỗi khi ghé thăm nhà là ông lại cùng mẹ con tôi tát nước. Mẹ tôi làm trong đội thủy lợi của xã Quảng Minh. Mẹ theo các cô, các chú xây cống thủy lợi trên cánh đồng làng. Tôi đang là học sinh cấp 2, lao động phụ mỗi ngày công được tính 7 điểm. Trước mùa mưa bão, các xã lên lao động gia cố lại đê Rào Nan. Làng nào, xã nấy trống dong cờ mở đào đất đắp đê. Từng đoàn thuyền chở đất đá đổ thêm xuống đập. Trên mặt đập đã có một lớp bê tông dày phủ các rọ sắt. Học lên cấp 3, tôi theo trường đi lao động đào mương đắp đê ở các xã. Hè nào cũng về đi theo mẹ làm thủy lợi Rào Nan.

Năm 1972, giặc Mỹ quay trở lại ném bom miền Bắc. Nhớ đến con đập đã đánh phá hồi trước chúng xúm lại như lũ diều hâu vây lấy đàn gà con. Gặp lưới lửa phòng không của bộ đội hải quân và hai trận địa 14 li 5 bố trí trên đồi thông bắn lên chúng vội vàng trút bom bừa bãi xuống dòng sông. Bị bom Mỹ phá, lũ lụt cũng “thừa gió bẻ măng” làm sạt thêm mấy quãng. Đập Rào Nan phải oằn mình hứng chịu cả thiên tai và địch họa.

Nước Rào Nan đối với đời sống người dân vùng Nam Quảng Trạch cần thiết như cơ thể con người cần máu. Máu tiếp sức cho quê hương Nam Quảng Trạch đứng trụ với mưa bom bão đạn của quân thù. Khi có nước về cả làng thức dậy để tát nước vào vườn. Tuổi thanh niên, có bữa đi chơi khuya về đang mắt nhắm mắt mở thì mẹ gọi dậy đi tát nước. Dọc con mương nhà nào nhà nấy treo chiếc đèn chai bên bụi tre để tát nước vào vườn. Cây lúa bị cháy khô thì con người cũng khô cháy theo. Giữa những ngày nam nắng người ta giành nhau từng giọt nước. Có khi người ở xã này xách rượu và lạc rang lên hối lộ đội trực nước của xã khác để xin tháo cánh cửa cống chảy về làng mình một vài tiếng đồng hồ. Năm 1979, tôi về phụ trách lao động ở trường cấp 3 vừa học vừa làm Quảng Trung. Nhà trường đảm nhiệm nuôi bèo hoa dâu và nhân giống lúa X1 cho các hợp tác xã. Đội trực nước xã Quảng Tân cũng tuần hành dọc đê để xem có xã nào tháo trộm nước của xã mình không. Tôi và các em học sinh trực trường đã chứng kiến thanh niên các đội trực nước đánh nhau suýt “bươu đầu mẻ trán”.

Có nước Rào Nan, vùng Nam Quảng Trạch được mùa mấy chục năm liền. Lúc bưng bát cơm ai cũng nghĩ tới công lao của Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình, Nguyễn Tư Thoan. Ông được xem như Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc trên miền đất lửa. Năm 2015, tôi theo đoàn nhà văn của Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Bình ra gặp bác Nguyễn Thanh ở Quảng Trung để lập Ban vận động xây dựng miếu thờ ông Nguyễn Tư Thoan. Bác Thanh là anh trai của Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên. Bác đã tròn 100 tuổi, làm trưởng ban danh dự cuộc vận động. Chị Thủy, con gái đầu lòng của ông Thoan cùng anh Đinh Phú Tư, một Huyện ủy viên Quảng Trạch (cũ) đến nhà tôi để chở cây đa. Tôi trồng cây đa còn Đinh Phú Tư thì trồng cây đề. Vậy mà năm sau chị Thủy gọi điện ra báo có hai người dưới Ba Đồn vác búa lên đập cái am thờ. Hai cái cây của chúng tôi đang xanh tốt họ đào lên. Tấm bia tưởng niệm bị vứt xuống Rào Nan. Trong bộ phim “Tiếng vọng” được phát trên Đài Truyền hình Việt Nam, ông Trần Sự, nguyên Chủ tịch tỉnh Quảng Bình thời chiến tranh đã chất vấn đồng chí Bí thư Tỉnh ủy. Đồng chí Hoàng Đăng Quang đã trả lời Tỉnh ủy Quảng bình không hề có chủ trương đập phá bia của ông Nguyễn Tư Thoan. Ai lại chối bỏ công lao của một người đã từng làm cho dân hết đói.

Bia đá không còn nhưng cũng chẳng sao. Người dân vùng Nam Quảng Trạch, (nay là thị xã Ba Đồn) vẫn thắp hương thờ ông trong lòng. Ngay trên vị trí năm xưa ông dừng lại lấy cây gậy cắm xuống để đắp đập, một con đập hiện đại được xem là công trình của thế kỷ 21 đã mọc lên. Đây là vị trí lý tưởng nhất trong ba địa điểm mà Bộ Thủy lợi đã khảo sát. Một sự trùng hợp đến bất ngờ của thời đại 4.0 với một lãnh đạo tỉnh có trình độ học vấn cấp 2 ở thế kỷ trước.

* * *

Công trình thủy lợi Rào Nan lắm lúc thăng trầm. Năm 2018, khi nghe tin có dự án xây đập mới, nhiều người ra sức phản đối. Một anh bạn giáo viên dạy văn quê ở Quảng Sơn đến nhà tôi. Anh nói người ta đứng chật đường, dựng băng rôn khẩu hiệu và phát tờ rơi không cho xây đập. Linh mục nhà thờ Diên Trường thì đêm nào cũng phát thanh trên loa kích động giáo dân. Trên trang facebook cá nhân “Joseph Hao Nguyen” ông đã hướng cho con chiên phản đối dự án. Linh mục Trần Văn Thành, quản xứ Tam Tòa, TP. Đồng Hới khi tham gia bình luận “Chiến đi” các cụ! Thà mất lòng trước, được mạng dân”.

Xuân Vui, phụ trách bản tin Cựu chiến binh tỉnh gọi điện cho tôi lên Quảng Sơn xem xét tình hình. Mới đến cổng Ủy ban Nhân dân xã thì một người quen đã đứng đợi đó. Anh ta nói: “Chú không được viết bài ủng hộ họ đâu nhé. Viết là có tội với dân đó”. Tôi nói: “Anh là một sĩ quan quân đội về hưu mà cũng nhận thức như thế ư. Công trình hồ chứa thủy lợi – thủy điện Cửa Đạt ở xã Xuân Mỹ, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa, có dung tích 1,5 tỉ mét khối lớn gấp hơn 150 lần dung tích thượng lưu đập Rào Nan của mình mà còn không việc gì trong mùa lũ nữa huống hồ đập Rào Nan. Hơn nữa công trình đập Rào Nan lần này sẽ được xây kiên cố lắm”.

Tôi chìa ra tập tài liệu và diễn giải cho anh nghe: hệ thống cọc khoan nhồi gồm 283 cọc, đường kính 1 mét vững chãi dưới đáy lòng sông 20 mét, cắm sâu vào nền đá gốc 1 mét. Đập sẽ ăn sâu vào trong núi đá, chiều dài đập dâng mới sẽ là 177,4 mét, làm sao mà trôi được. Đồng chí Mai Xuân Thành, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã Quảng Sơn dẫn tôi lên đập Rào Nan và chỉ vị trí xây đập tràn mới. Khi tôi hướng ống kính về thì anh xua tay: “Đừng chụp hình tôi vào anh ạ. Nhiều người dân không hiểu sẽ chỉ trách tôi”. Tôi biết anh rất dè chừng vì sợ dân sẽ phản đối nếu xảy ra sự cố.

* * *

Cuối năm 2021, đoàn văn nghệ sĩ chi hội Văn học Nghệ thuật Quảng Trạch – Ba Đồn lên tham quan đập Rào Nan. Trời đang sa mù chuyển dần sang mưa bụi. Từng đợt gió heo may chạy theo lòng sông lùa vào cổ áo rát rạt. Con đường mới lên Cao Quảng chạy trên đỉnh đồi, cao hơn con đường cũ đến chục mét. Dãy cột điện cao thế mới dựng lên dọc đường đi chưa kịp mắc dây. Trên đập, mấy công nhân của Công ty TNHH Tập đoàn Sơn Hải đang miệt mài hàn xì vật liệu kết cấu giàn cầu.

Chúng tôi đi bộ trên cầu sang bờ Nam. Rừng tràm hoa vàng đang mùa nở rộ làm đẹp thêm cảnh núi non hùng vĩ. Kỹ sư Đinh Anh Nam tổ trưởng tổ giám sát thi công công trình đi theo giới thiệu với chúng tôi, đập Rào Nan là loại đập tràn tự do, ngưỡng thực dụng chân không dạng Ôphixêrốp. Cống lấy nước nằm trong thân đập phía bờ Bắc, cống xả cát, xả lũ, nằm ở bờ Nam. Chiều dài đập là 177,4 m, cắm sâu vào chân núi đá. Các hàng cọc khoan nhồi được cắm sâu vào tầng đá mẹ 1 mét giữ các rọ đá vững chắc bảo vệ bờ. Đến nay công ty cũng đã hoàn thành được hơn 85% khối lượng. Nước đã tự chảy quanh năm đủ cung cấp nước tưới cho đồng ruộng của 16 xã, phường Ba Đồn và 6 xã Quảng Trạch. Nước Rào Nan đảm bảo cho 1.800 ha nuôi trồng thủy sản. Với lưu lượng nước 32.000m3 phục vụ dân sinh và 12.000m3 trong một ngày đêm phục vụ sản xuất công nghiệp. Bây giờ chẳng tốn một đồng tiền điện nào để chạy máy bơm như ngày xưa.

Trên cầu, nhiếp ảnh gia Phạm Văn Thức đứng dưới trời mưa điều khiển thiết bị bay vè vè dọc theo con đường 559B quay quang cảnh thượng nguồn Rào Nan. Nước đã ngập con đường 559B khoảng 4,6 km. Trạm bơm Rào Nan cũ nước ngập đến tầng 2. Nhà anh Trần Đình Ngọ, một cựu chiến binh thôn Linh Cận Sơn nằm phía trên đập nước cũng ngập đến gần một nửa thân cây dừa. Vườn cây và 3 hồ nuôi ba ba, tôm cá của anh đã nằm sâu dưới nước. Nghe nói gia đình anh được đền bù 7,8 tỉ đồng để chuyển đi lập vườn mới. Anh Nam cho chúng tôi xem mấy bức hình xả lũ vừa qua. Tất cả 15 cửa van và 2 cửa xả cát phun cao hơn mực nước hạ lưu là 3 mét. Con người đã hoàn toàn chế ngự được thiên nhiên. Dòng nước hung hãn từ Đồng Đâu xuống như con thuồng luồng dữ tợn đã bị chặn đứng bởi con đập kiên cố. Anh cũng cho chúng tôi xem các kịch bản phòng chống sự cố vỡ đập, ngay cả tình huống xấu nhất là động đất. Công ty TNHH tập đoàn Sơn Hải đảm nhiệm thi công công trình là công ty có uy tín tuyệt đối của tỉnh Quảng Bình. Xem đoạn đường bảo hành của công ty trên đường Quốc lộ 1A thì biết. Anh cho biết, nếu vừa rồi không bị sự cố covid – 19 ở thị xã và người dân ngăn cản làm chậm tiến độ, thì cuối tháng 12 năm nay sẽ bàn giao công trình. Dù sao đến trung tuần tháng 11 này công trình cũng đã hoàn thành được 85% rồi. Bây giờ chẳng cần tranh giành nhau từng giọt nước như ngày xưa, bà con cứ dùng thoải mái. Công ty Sơn Hải đã khởi công làm hai chiếc cầu dân sinh nữa trên dòng sông Nan qua thôn Cồn Nâm ở xã Quảng Minh và qua Hà Sơn ở xã Quảng Sơn. Hai chiếc cầu sẽ mở ra tiềm năng phát triển kinh tế vùng cồn bãi và các gia trại trong xóm núi. Nhìn con đập đồ sộ vững như bàn thạch đi qua mùa lũ chắc chắn những người một thời nhẹ dạ cả tin nghe theo kẻ xấu bây giờ cũng đang ân hận lắm.

Tạm biệt dòng Nan, tạm biệt con đập Rào Nan. Tạm biệt những con người thân yêu đang ở lại với công trình xây dựng trong cơn mưa lạnh, trong lòng tôi ấm áp lạ lùng. Một mùa xuân nữa lại đến. Một mùa xuân tràn ngập niềm tin và khát vọng. Dòng Rào Nan không còn hờ hững trôi về biển cùng rừng lau trắng phất phơ mà đang tràn ngập niềm vui. Mùa lũ đã đi qua, mùa xuân lại về.

(Nguồn : Hoàng Minh Đức FB)

ĐẤT ANH HÙNG, LÀNG SINH TƯỚNG
Tác giả bài viết: Dương Sông Lam
Nguồn tin: cstc.cand.com.vn

Tháng Tám mùa thu, dọc theo dòng Gianh thơ mộng, chúng tôi ngược lên thăm xã anh hùng, làng “sinh Tướng” ở thôn Trung Thôn, xã Quảng Trung, Thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình.

Dọc dài theo con đường làng uốn cong như dải lụa, gặp những cụ cao niên trong làng, chúng tôi được nghe những câu chuyện ăm ắp nghĩa tình son sắt với quê hương, đất nước của những người con làng Trung Thôn như Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, Trung tướng Nguyễn Hữu Cường, Thiếu tướng Nguyễn Hữu Anh…

Ngôi làng ven sông, đất không rộng, người không đông, cuộc sống xưa nay của bà con vẫn còn nhiều vất vả, nhưng người làng luôn tự hào bởi đây là mảnh đất anh hùng và sinh ra nhiều người giỏi đóng góp công sức cho quê hương, đất nước.

Chuyện ghi ở làng Anh hùng

Bên ly trà mang đậm hương vị vùng sông nước dòng Gianh, Chủ tịch xã Quảng Trung, ông Nguyễn Văn Hóa – hồ hởi cho biết, Quảng Trung luôn được xem là “cái nôi” cách mạng ở nam sông Gianh, Quảng Bình trong những ngày đầu thành lập Đảng.

Chi bộ Đảng đầu tiên của nhiều xã ven sông Gianh ra đời ở mảnh đất giàu truyền thống cách mạng này. Ngay sau ngày Đảng ra đời (1930), nhiều người con của Quảng Trung, nhiều đồng chí Đảng viên kiên trung của Đảng như Nguyễn Huyên, Nguyễn Biểu, Nguyễn Hữu Lương, Nguyễn Sỹ Đồng… đã nhen nhóm ngọn lửa cách mạng ở vùng cát Quảng Bình.

Từ chi bộ lúc đầu chỉ có 3 người (1937), ánh sáng của Đảng đã được cán bộ, đảng viên Quảng Trung thắp sáng tập hợp quần chúng nhân dân ven sông Gianh đứng lên giải phóng xiềng xích thuộc địa, phong kiến (1945). Tiếp đó, nhân dân Quảng Trung lại góp công, góp sức cùng đồng bào cả nước làm nên hai chiến công thần thánh của dân tộc là đánh bại thực dân, đế quốc để đưa non sông về một mối…

Đường về làng xã Quảng Trung, thị xã Ba Đồn, Quảng Bình.

Trong những năm gần đây, khi nói về việc học ở vùng cát Quảng Bình, Quảng Trung luôn được xem như một trong những xã đi đầu ở bờ Nam sông Gianh. Người Quảng Trung luôn tự hào về những con em quê hương biết vượt qua gian khó để trưởng thành. Nơi đây có những bà mẹ cả đời lặn lội thân cò nơi bờ ruộng, mép sông để nuôi con. Những người cha tần tảo trong gian khó để truyền cho con cái chí, cái dũng để vào đời.

Người Quảng Trung vẫn luôn lấy tấm gương bà Đặng Thị Cấp (sinh năm 1882), mẹ của Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên để noi theo trong việc thu xếp việc nhà, việc nước và nuôi con ăn học. Khi mới bước qua tuổi 20, bà Đặng Thị Cấp theo ông Nguyễn Hữu Khoán về nhà chồng làm dâu. Hai vợ chồng tần tảo để nuôi 7 người con, khi đói khi no nhưng người làng bảo chưa bao giờ thấy bà Cấp một lần kêu ca, than thở. Đêm đêm, khi người làng đã chìm trong giấc ngủ thì cái cối giã gạo ở nhà bà Cấp vẫn từng nhịp đều đều cho đến gần sáng. Người phụ nữ nghèo ven sông Gianh tần tảo, bươn chải thức khuya dậy sớm như vậy để nuôi đàn con khôn lớn.

Năm 49 tuổi, chồng là ông Khoán qua đời, nỗi vất vả lại càng đè lên vai người mẹ nghèo Đặng Thị Cấp. Song bà vẫn nhất quyết không chịu cho con thất học, buộc con phải học để kiếm cái chữ. Khi cách mạng cần, chính ngôi nhà của bà Đặng Thị Cấp trở thành cơ sở cách mạng trong những năm 1937-1945 tại bờ Nam sông Gianh, Quảng Bình. Đêm đêm, bà vừa giã gạo, bóc ngô, vừa canh cho nhiều cán bộ xứ ủy, tỉnh, huyện họp bàn về hoạt động mở rộng phong trào cách mạng tại nhà mình.

Cách mạng Tháng Tám thành công, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, bà hăng hái tham gia công tác phụ nữ, công tác Hội Mẹ chiến sĩ, vận động năm con trai và một con dâu tham gia vệ quốc. Khi quê hương bị giặc chiếm đóng, theo chủ trương của tỉnh, bà vận động bà con tiêu thổ kháng chiến, tản cư người già, trẻ con đến vùng tự do.

Năm 1950, tuy quê nhà còn bị địch chiếm, nhưng vì muốn trực tiếp phục vụ chiến đấu, bà hồi cư vận động bà con quyên góp thóc gạo, tiếp tế cho du kích đánh giặc… Chính người mẹ nghèo, giàu lòng yêu nước Đặng Thị Cấp đã nhen nhóm, truyền lửa lòng yêu nước để các con bà đi theo cách mạng và nhiều người đã trưởng thành, trở thành những cán bộ nòng cốt của Đảng và Nhà nước, được nhân dân hết sức tin yêu …

Trường THCS xã Quảng Trung nơi ươm mầm nhiều thế hệ học trò trong xã đã trưởng thành.

Nhà có ba vị Tướng bên bờ Nam sông Gianh

Khi nói về gia đình bà Đặng Thị Cấp, không chỉ người làng Quảng Trung mà người dân cả vùng cát Quảng Bình đều hết mực tự hào. Là một người mẹ nghèo, vất vả tần tảo khuya sớm bên sông Gianh để nuôi con ăn học, cống hiến cho dân cho nước, bà Đặng Thị Cấp có sáu người con, trên 50 cháu, chắt gia nhập Quân đội nhân dân Việt Nam qua các thời kỳ.

Bà đã có hai người con và một người cháu được phong quân hàm cấp Tướng trong Quân đội nhân dân Việt Nam, đó là Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, Tư lệnh Binh đoàn Trường Sơn; Thiếu tướng Nguyễn Hữu Anh, nguyên Phó Viện trưởng, Học viện Hậu cần, Cục trưởng Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng; Trung tướng Nguyễn Hữu Cường, Tư lệnh Quân khu 4 và trên 50  sỹ quan cấp tá (có 5 người là Đại tá), cấp úy phục vụ trong lực lượng vũ trang.

Gia đình bà Đặng Thị Cấp đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều huân chương, tặng “Bảng vàng danh dự” và “Gia đình có công với nước”. Năm 2005, ngôi nhà của bà đã được Đảng, Nhà nước công nhận và dựng bia “Di tích cách mạng”.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên thăm hỏi, động viên Bộ đội và Thanh niên xung phong trên đường Trường Sơn trong những năm kháng chiến

Trong các con cháu của bà Đặng Thị Cấp, Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên thường được nhắc đến hơn cả. Vị tướng Tư lệnh Binh đoàn Trường Sơn, thủ lĩnh của bộ đội, thanh niên xung phong Trường Sơn, cuộc đời của ông luôn được đồng đội xem như bản trường ca về người lính.

Ngày tóc còn để chỏm, cậu bé Nguyễn Hữu Vũ vừa lên 10 tuổi đã phải mồ côi cha, dù cực khổ nhưng bà mẹ nghèo Nguyễn Thị Cấp vẫn nhất quyết không để con thất học. Nguyễn Hữu Vũ được mẹ gửi đi tìm thầy học chữ Hán, chữ quốc ngữ. Những bài học của thầy đã sớm truyền lửa cho cậu bé tinh thần yêu nước.

Năm 12 tuổi, Nguyễn Hữu Vũ bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng, lấy bí danh là Nguyễn Văn Đồng, sau đó đổi thành Đồng Sỹ Nguyên. Trong những năm 30 của thế kỷ trước, Đồng Sỹ Nguyên cùng vài ba đồng chí của mình đã gây dựng cơ sở cách mạng ở vùng Bắc và Nam sông Gianh rộng lớn.

Nhiều lần bị thực dân Pháp truy nã gắt gao, ông đã phải qua Lào, Thái Lan hoạt động trong phong trào Việt kiều yêu nước để tiếp tục gây dựng cơ sở. Năm 1945, Đồng Sỹ Nguyên được bầu làm Chủ nhiệm Việt Minh, kiêm Chỉ huy trưởng Bộ đội Quảng Bình, ông là đại biểu Quốc hội khóa 1 năm 1946.

Phóng viên Chuyên đề CSTC gặp gỡ người dân Quảng Trung tìm hiểu về vùng đất cách mạng này.

Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên được giao nhiệm vụ làm Tư lệnh Binh đoàn 559 (Binh đoàn Trường Sơn), xây dựng tuyến đường giao thông chiến lược Trường Sơn để bộ đội vào Nam chiến đấu, giải phóng, thống nhất đất nước.
Dưới sự chỉ huy tài tình của ông, đường mòn Trường Sơn từ một con đường nhỏ đã trở thành một tuyến giao thông vận tải lớn với cả hệ thống đường được giới truyền thông mệnh danh là “trận đồ bát quái xuyên rừng rậm”.

Tầm quan trọng của con đường chiến lược này thể hiện rõ nhất với quân số lúc cao điểm hơn 12 vạn binh sĩ, trong đó có hơn 1 vạn là lực lượng Thanh niên xung phong, biên chế thành 8 sư đoàn và một sư đoàn cao xạ tên lửa phối thuộc. Hệ thống đường chiến lược này khi Đồng Sỹ Nguyên vào tiếp nhận chỉ có 5 tiểu đoàn xe với 750 xe, chia thành 4 binh trạm; đến năm 1975 đã phát triển thành 2 sư đoàn vận tải với 10.000 xe.

Đường Trường Sơn không còn những con đường đơn lẻ, mà phát triển thành một hệ thống đường vận tải phức tạp với hơn 16.700km đường bộ, trong đó có hơn 800km đường kín, 1.500km đường rải đá, 200km đường nhựa. Bên cạnh đó còn có 1.500km đường ống dẫn xăng dầu, 1.350km đường dây cáp thông tin, 3.800km đường giao liên, 500km đường sông.
Nhằm cắt đứt đường chi viện của ta, quân đội Mỹ và đồng minh đã tìm mọi cách từ thô sơ đến hiện đại nhất nhằm mục đích cắt đứt con đường vận tải chiến lược này. Các khí tài điện tử được lập thành “Hàng rào điện tử MacNamara”, cây nhiệt đới, pháo đài bay B-52, vũ khí thời tiết, hóa học… đến các cuộc hành quân càn quét lớn đến biệt kích phá hoại đều được quân đội Mỹ sử dụng. Những tổn thất do kẻ thù gây ra cho chúng ta không hề nhỏ, song tuyến đường vẫn luôn được bảo đảm thông suốt.

Để trọn tình, trọn nghĩa với đồng chí, đồng đội đã hy sinh, đầu năm 1974, Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên và Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã quyết định xây dựng nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn tại khu đồi Bến Tắt, nằm ở chân phía Đông dãy Trường Sơn, cạnh trục đường Hồ Chí Minh Đông Trường Sơn. Khu đồi Bến Tắt ở bờ Nam sông Bến Hải, thuộc xã Vĩnh Trường, huyện Gio Linh cũng là nơi đóng Sở chỉ huy của Bộ Tư lệnh Binh đoàn Trường Sơn trong giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Từng có nhiều năm gắn bó với đường Hồ Chí Minh huyền thoại, dù sống đến gần cuối cuộc đời nhưng Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên vẫn luôn nghĩ về đồng đội. Mới đây, Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên đã có đơn gửi UBND tỉnh Quảng Trị bày tỏ nguyện vọng sau khi từ trần được về an nghỉ tại Nghĩa trang Trường Sơn, để được gần gũi với đồng chí, đồng đội của mình.

Nguồn: Đất Anh hùng, làng sinh Tướng – Đài TT-TH thị xã Ba Đồn badontv.vn https://badontv.vn/chuyen-muc/que-huong-dat-nuoc-con-nguoi/dat-anh-hung-lang-sinh-tuong-389.html

Quảng Bình đất và người
THƠ VĂN THẦY HỒ NGỌC DIỆP
Hoàng Kim


Đọc trang văn hóa Bạc Liêu
Thơ thầy giáo cũ thương yêu gọi về
Thầy ơi nắng sớm mưa che
Lời thương thầm lắng, mải mê kiếm tìm.

Nhớ thầy đáy biển tìm kim
Chim sa núi Bắc, thầy tìm non Nam
Tìm Người ở giữa Trường Sơn” (1)
Dáng ai bóng núi xanh hơn sắc rừng

Tháng năm lắng đọng yêu thương
Người Thầy chiến sĩ” (2) lặng thầm yêu thương
Trần Thị Lý với Nguyễn Chơn” (3)
Bác Hồ huệ trắng thơm hương” (4) lòng người

xem tiếp Quảng Bình đất và người https://hoangkimlong.wordpress.com/category/quang-binh-dat-va-nguoi/

THƠ VĂN THẦY HỒ NGỌC DIỆP
Hoàng Kim


Học văn để làm gì? Để giữ ngọc di sản. Quảng Bình đất và người thẳm thẳm nhớ trong tôi với nhiều chuyện quý.

Thuở nhỏ học văn, tôi ấn tượng nhất là tích cổ cha mẹ kể về Lục Vân Tiên tại Nguồn Son nối Phong Nha (1) và Cao Biền trong sử Việt (2). Cha mẹ tôi mất sớm, những thầy văn đầu đời của tôi là Hoàng Ngọc Dộ khát vọng (3), “Hoàng Trung Trực đời lính” (4), thầy Nguyễn Khoa Tịnh “Em ơi can đảm lên” (5), thầy Trần Đình Côn Bài ca Trường Quảng Trạch (6), thầy Phạm Ngọc Căng (7) người Thanh Hóa, phó Hiệu trưởng đầu tiên của Trường cấp ba bắc Quảng Trạch và thầy Hồ Ngọc Diệp người Đồng Hới dạy văn (8). Tôi cũng may mắn được học văn với ông tôi Minh Sơn Hoàng Bá Chuân (9) là em ruột bà ngoại tôi khi thăm ông ra ở với cậu tại 64 Hàng Bạc Hà Nội. Ông đã bày cho tôi cách làm thơ Đường. .

Hoàng Kim nay chép lại sáu câu chuyện lắng đọng Thơ văn thầy Hồ Ngọc Diệp 1) “Tìm mộ em ở Trường Sơn” 2) “Người thầy chiến sĩ” 3) “Bác Hồ với ngày thương binh liệt sĩ 27/7”; 4) “Chuyện về nữ anh hùng bên dòng sông Lũy” 5) “Nhà văn Hoàng Bình Trọng với nghiệp đời gập ghềnh”; 6) “Nhạc sĩ Trần Hoàn viết cho sự giã biệt”, lưu lại một tích truyện về người thầy dạy văn của mình. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tho-van-thay-ho-ngoc-diep/


TÌM MỘ EM Ở TRƯỜNG SƠN
Hồ Ngọc Diệp


Vươt đèo, leo dốc,phạt gai
Qua bao con suối,miệt mài tìm em
Mộ em núi đã giăng lèn
Ba bề là đá,bốn bên là rừng

Nghe con mang,tác ngập ngừng
Suối xa như đã lạnh dừng tiếng reo
Ngặt thưa bìm bịp kêu chiều
Giữa hoang sơ,lòng những phiêu diêu buồn

Ngàn lau trắng thác mây tuôn
Bước chân hoang hoải bồn chồn ngẩn ngơ
Em đi từ bấy đến giờ
Thương con,lòng mẹ thẫn thờ đợi con

Xa quê từ buổi trăng tròn
.Ấp e chưa đón nụ hôn người tình
Em ngã xuống,sắc nguyên trinh
Vì dân,vì nước quên mình tuổi xanh

Mau về với mẹ cùng anh
Ở đâu? chiều đã phủ nhanh rừng già

NGƯỜI THẦY CHIẾN SĨ
Hồ Ngọc Diệp


Từ mái trường, tình nguyện xung phong
Khoác AK, thầy lên đường ra trận
Người thì gầy, bộ Tô Châu thì rộng
Nào hề chi, có thép ở bên trong

Đường hành quân qua bao núi, bao sông
Bỗng gặp học sinh, cùng chiến hào đánh Mỹ
Đêm Trường Sơn, thầy và trò tri kỷ
Chuyện trường xưa, nỗi nhớ cháy đêm tàn….

Đơn vị thầy lại cấp tập hướng Nam
Nã đạn pháo gầm ran đầu lũ giặc
Dáng hiên ngang như thiên thần lẫm liệt
Giữa trận tiền khi bom giặc phản công

Góp máu mình cho độc lập non sông
Thêm kiêu hãnh những bài ca sư phạm
Gieo lòng người đâu chỉ là lời giảng
Mà cả bằng: đức nguyện tiến công

Những đạo hàm, ta lét, parabol
Những tan, cos, góc bù, góc nhọn
Rồi cuộc đời và những lời thầy giảng
Thành vinh quang những chân lý của đời

Chúng tôi nhắc thầy trong kí ức bồi hồi
Để nhớ mãi ngôi trường phố cũ
Hình ảnh thầy, người thầy – Chiến sĩ
Gieo lòng người rực rỡ những cành xuân.

(*) Thầy Hồ Ngọc Diệp ngày 14 10 2021 viết: Cảm ơn văn nghệ Bạc Liêu đã đăng bài thơ “Tìm mộ em ở Trương Sơn” số tháng 7/202l

BÁC HỒ VỚI NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SĨ 27/7
trích: Bác Hồ với Quảng Bình,
Hồ Ngọc Diệp 2021 (*)
Nhà Xuất bản Thuận Hóa, trang 150


Bác Hồ bùi ngùi không cầm được nước mắt, đọc bài từ như sau: Hỡi các liệt sĩ ! trong lúc cả nước vui mừng thì mọi người đều thương tiếc các liệt sĩ đã hi sinh vì Tổ Quốc, vì dân tộc. Máu nóng của các liệt sĩ đã nhuốm lá quốc kỳ. Tiếng thơm của các liệt sĩ sẽ muôn đời truyền với sử xanh:

Một nén hương thanh
Vài lời an ủi
Anh linh của các liệt sĩ bất diệt
Tổ quốc Việt Nam vĩ đại muôn năm!


(*) Hồ Ngọc Diệp địa chỉ liên lạc: Hồ Ngọc Diệp Hội văn học Nghệ thuật Quảng Bình, đường Đoàn Thị Điểm, phường Đồng Hải, TP Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình Số điện thoại: 0968 237 320 Tài khoản: Hồ Ngọc Diệp 040027737627 Ngân hàng Sacombank Đồng Hới, Quảng Bình

CHUYỆN VỀ NỮ ANH HÙNG BÊN DÒNG SÔNG LUỸ
Hồ Ngọc Diệp


Chị Trần Thị Lý sinh ra trong một gia đình nghèo bên dòng sông Lũy, một nhánh của con sông Nhật Lệ, phía Nam Cầu Dài, đó là làng Phú Thượng, Phú Hải, Đồng Hới, Quảng Bình. Là một người lanh lợi, hoạt bát, có ý thức tập thể cao nên chị được giao nhiệm vụ làm liên lạc cho Đảng ủy, Xã đội. Năm 1964, chị được kết nạp Đảng, lúc đó chị tròn 19 tuổi. Tháng 2 năm 1965 Mỹ mở rộng chiến tranh leo thang ra miền Bắc đã chọn thị xã Đồng Hới làm điểm đánh mở đầu. Phú Hải là một trong những điểm nóng chiến sự. Lúc này, chị Trần Thị Lý được sung vào lực lượng dân quân, làm chiến sĩ phòng không nam Cầu Dài thị xã Đồng Hới.

Chị Trần Thị Lý trong những cuộc chiến đấu đánh trả máy bay thù đã tỏ rõ bản lĩnh chiến đấu xuất sắc. Chị đã chạy từ trận địa phòng không này sang trận địa phòng không khác để truyền mệnh lệnh chiến đấu của cấp trên chuyển về, đồng thời dùng súng trường K44 bắn trả máy bay Mỹ rất kiên cường. Chị đã đào hầm sập, cứu đồng đội, đồng bào bị bom Mỹ vùi lấp. Đặc biệt trong ngày 4/4/1965, đế quốc Mỹ đã huy động hàng trăm lượt máy bay đến ném bom Cầu Dài, triệt hạ thị xã Đồng Hới, chị Trần Thị Lý đã dũng cảm mưu trí chèo đò chở Bí thư Đảng ủy xã Lê Viết Thuật vượt sông để chỉ đạo dân quân, nhân dân chiến đấu, rồi trở lại trận địa an toàn. Trong một lần bị bom vùi, chị đã kịp thời bình tĩnh cởi áo ngoài khoác lên đầu súng để đất đá khỏi vào làm chẹt nòng. Sau đó, chị đã bươn mình ra, tiếp tục nổ súng bắn vào kẻ thù.

Với những thành tích xuất sắc đó, chị đã được Quốc hội tuyên dương anh hùng vào ngày 01/01/1967. Cũng trong năm đó chị được chuyển sang quân đội, làm chính trị viên phó Thị đội Đồng Hới. Từ năm 1967 , chị được cử đi học trường văn hóa quân khu, sau đó được cử đi học tiếp tại Học viện chính trị quân sự của Bộ quốc phòng. Năm 1978, chị đảm nhiệm chức Phó đội trưởng đội công tác thuộc đoàn 871, Tổng cục chính trị. Từ 1985 chị được điều về giữ chức Phó rồi Giám đốc, Phó Bí thư chi bộ khách sạn Bạch Đằng của Quân khu 5 ở Đà Nẵng. Chị là Đại biểu Quốc hội khóa IV, V và VI. Chị từng là ủy viên Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, ủy viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Chị đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng Nhất, Nhì, Ba và nhiều Huân, Huy chương cao quý khác.

Anh hùng Trần Thị Lý là người giàu tình cảm với mảnh đất minh sinh ra và lớn lên. Sau này, khi làm Giám đốc khách sạn Bạch Đằng, hễ có các con cháu quê hương Phú Hải vào học hay công tác tại Đà Nẵng, nếu gặp khó khăn, chị đã tìm cách giúp đỡ, động viên để các cháu an tâm học tập và công tác. Nhiều lần về thăm quê chị đều đến thăm và tặng quà cho Đảng ủy, UBND và các đoàn thể trong phường. Chị đã giúp Hội Người cao tuổi địa phương sắm một cỗ xe tang, đóng góp cho quỹ xây dựng nhà văn hóa, trạm y tế phường và giúp đỡ những hộ nghèo hoặc gặp khó khăn. Đến phút lâm chung chị còn hỏi người nhà: “Xã mình đã được phong anh hùng chưa?” (thực ra, phường Phú Hải được phong anh hùng trước đó mà chị chưa có được thông tin).

Có nhiều chuyện kể lý thú, dí dỏm về anh hùng Trần Thị Lý thời thanh xuân.

Tháng 7 năm 1967, anh hùng Trần Thị Lý được mời dự Đại hội liên hoan thanh niên sinh viên Hoà bình thế giới tại nước XHCN Cu Ba.Sau báo cáo của chị, trong giờ giải lao, hàng trăm nhà báo vây quanh chị để quay phim, chụp ảnh và phỏng vấn. Có một nhà báo Phương Tây hỏi chị:- Chị là một anh hùng của quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Vậy, ai là người chị sẽ chọn xây dựng gia đình? Không phải suy nghĩ lâu, chị Trần Thị Lý vui vẻ trả lời: – Đó sẽ là người đàn ông thương yêu tôi nhất! Trong quãng ngày công tác, chị đã được vinh dự 3 lần gặp Bác Hồ và được Bác trực tiếp chỉ giáo. Lần thứ nhất là lần cùng đoàn Quảng Bình được ưu tiên gặp Bác và Thủ tướng Phạm Văn Đồng sau ngày Đại hội liên hoan chiến sĩ anh hùng thi đua toàn quốc (1/1/1967). Gần cuối buổi, Bác Hồ bảo chị Lý hát bài “Quảng Bình quê ta ơi” của nhạc sĩ Hoàng Vân cho Bác nghe. Quá cảm động và lúng túng nên chưa thực hiện được ngay thì Thủ tướng Phạm Văn Đồng “cứu nguy” cho chị và bảo: “Cháu Lý hãy “cầm càng” cho tất cả đoàn cùng hát”. Thế là anh hùng Trần Thị Lý đã đứng dậy và bắt nhịp cho toàn đoàn Quảng Bình hát vang bài hát mà Bác và Thủ tướng yêu thích. Lần thứ hai, chị gặp và được Bác Hồ chỉ giáo là ngày trước lúc lên đường sang Cu Ba tham dự Đại hội liên hoan thanh niên và sinh viên thế giới. Khi Bác hỏi: “Cháu đã chuẩn bị những gì sang thăm và tham quan ở Cu Ba?” chị Lý đã thuật lại chuyện các chú lãnh đạo cho may áo dài, sắm dày cao gót nhưng sử dụng còn lúng túng lắm. Bác liền bảo: “Cháu sang Cu Ba lần này để báo cáo thành tích kinh nghiệm chiến đấu của mình và học tập kinh nghiệm của nhiều người khác chứ đâu có phải đi du lịch mà sắm các thứ ấy. Để Bác nói chú Song Hào chuẩn bị bộ đồ bộ đội và dép cao su cho cháu”. Và chị Trần Thị Lý đã mặc trang phục như thế trong suốt thời kỳ ở Cu Ba.

Người ta còn kể cho nhau nghe câu chuyện tình yêu của chị với Đại tá anh hùng Nguyễn Chơn. Lần đó, Đại tá anh hùng Nguyễn Chơn (sau này là Thượng tướng, Thứ trương Bộ Quốc phòng) về Hà Nội tham dự Đại hội liên hoan anh hùng LLVTND của quân đội. Người anh hùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng đó vì xông pha lăn lộn nơi trận mạc, hết Nam lại Bắc, hết Bắc lại Nam nên sắp đã bén tuổi tứ tuần mà vẫn chưa có một bóng hồng nằm lại trong tim mình. Thấy Nguyễn Chơn về dự Đại hội lần này có làm thân với nữ anh hùng Trần Thị Lý (nhân một lần xem phim ngồi cạnh nhau), anh em, đồng chí bèn “Ra tay” để giúp Nguyễn Chơn rút ngắn khoảng cách. Vào một tối thứ bảy nọ, họ rủ nhau (không quên kéo Trần Thị Lý cùng đi) đến phòng nghỉ của anh hùng Nguyễn Chơn uống nước, chuyện trò. Rồi như là đã bàn trước, họ bấm tay nhau, lần lượt rút lui. Đến người cuối cùng ra khỏi phòng, họ không quên khoá trái cửa lại, cốt là để tạo cơ hội cho hai người tự nhiên tâm sự với nhau.

Hơn 1 giờ đồng hồ, Đại tá anh hùng Nguyễn Chơn hút hết không biết bao nhiêu là thuốc lá, mặt đỏ gay, không biết nói một câu gì cả. Nữ anh hùng Trần Thị Lý ngồi yên như vậy, cũng không giám nhìn Nguyễn Chơn, tay bứt xé không biết mấy lá hoa trong lọ giữa bàn. “Thôi phải mở đường thoát cho hai người”. Nghĩ vậy, chị liền lên tiếng trước:- Cớ làm răng mà anh em họ nhốt mình trong phòng rứa, Thủ trưởng? Anh hùng Nguyễn Chơn lúc bấy giờ mới ngẩng lên, ấp úng:- Là vì…vì…họ nói, …họ nói…- Họ nói mần răng, thưa Thủ trưởng? – Trần Thị Lý khơi gợi. Anh hùng Nguyễn Chơn dũng cảm, táo bạo như cố vượt qua một trọng điểm: – Họ nói là tui ưng o! Anh hùng Trần Thị Lý mặt đỏ lên, mãi một hồi rất lâu nữa mới cất tiếng: – Họ nói như rứa thì ý Thủ trưởng mần răng? Nguyễn Chơn lúng túng như một học trò có lỗi:- Thì … thì…tui cũng ưng o như họ nói thật! Chỉ đợi được như thế. Tuy nhiên mãi một lúc sau, Trần Thị Lý mới bộc bạch được ý nghĩ của mình: – Ý Thủ trưởng răng thì em cũng rứa! Và thế là, anh em đồng chí “nghe trộm” ngoài cửa, mở cửa chạy vào. Một người vui tính hét vang:- Xong rồi! xong rồi! Trận đánh kết thúc hoàn toàn thắng lợi! Trai anh hùng, gái thuyền quyên! Chúc mừng anh chị đã phá được hàng rào, xung kích tiến lên chiếm lĩnh trận địa của tình yêu ! Không lâu sau, Nguyễn Chơn ở tuổi 48, Trần Thị Lý ở tuổi 34 thành vợ, thành chồng. Tình yêu của hai anh hùng LLVT ấy có được do sự chân thật của hai người, song cũng nhờ công rất lớn của bạn bè, đồng chí. Thủ tướng Phạm Văn Đồng, cha nuôi tinh thần của Trần Thị Lý bận việc không đến dự lễ cưới được đã gửi tặng đôi tân hôn 1 chai rượu ngoại, 2 cây bút máy. Chai rượu mang ý nghĩa mừng cuộc vui. Cặp bút máy mang ý nghĩa khuyên vợ chồng nên chỉ sinh 2 con. Quả vậy, vợ chồng Nguyễn Chơn và Trần Thị Lý sinh được 2 cô gái lanh lợi giỏi giang. Bây giờ 2 cô gái đã có gia đình và làm việc ở 2 cơ quan nhà nước.

Anh hùng Trần Thị Lý lần đó ra Hà Nội họp, được Bác Hồ mời vào thăm, ăn cơm cùng Bác với hai nữ anh hùng khác.Mâm cơm dọn ra, có thịt gà, canh bí đao, rau muống luộc, 1 bát cà pháo muối chua và bát nước chấm. Gắp nhiều thịt gà bỏ vào bát các nữ anh hùng, Bác nói: – Ở chiến trường, các cháu ăn uống kham khổ, công việc thì vất vả, nay phải ăn nhiều thịt gà vào cho khỏe, mai mốt trở lại chiến trường, có thêm sức mà chiến đấu, hoàn thành nhiệm vụ của mình. Còn Bác, Bác chỉ thích ăn rau muống luộc chấm tương và cà muối xứ Nghệ thôi. Ba nữ anh hùng được ngồi ăn cơm với Bác, sung sướng quá, cảm động quá, trước sự săn sóc của Bác nên không ai và nổi cơm. Thấy thế, bác giục: – Nhanh lên, đẩy mạnh tốc độ, thao tác linh hoạt, lanh lợi như đang vào trận, hỡi các nữ anh hùng!Được ngồi cạnh Bác, nữ anh hùng Trần Thị Lý chăm chú đợi Bác ăn xong bát thứ nhất, đặt bát đũa mình xuống, đưa hai tay đón bát của Bác để đơm thêm cơm. Có lẽ, vì quá sung sướng, vì được lần đầu tiên làm công việc này nên nữ anh hùng đất Đồng Hới Quảng Bình đâm ra lóng ngóng. Bởi vậy, không may một thìa cơm bị lọt xuống mâm. Sợ Trần Thị Lý hót bỏ sang bát trống đựng thức ăn thải loại, Bác liền dùng thìa và đũa hớt phần trên của phần cơm bị rơi ra mâm đó bỏ vào bát của mình và nói: – Được ngồi cạnh, rồi được đơm cơm cho Bác, sung sướng quá nên lóng ngóng, làm rơi cơm ra ngoài chứ gì? Không sao! Hạt cơm là hạt ngọc của trời, không nên bỏ phí. Thái độ chân thành và xử lý hợp thời của Bác khiến Trần Thị Lý vô cùng cảm động. Và câu nói của Bác biểu lộ tính kiệm cần của một người nông dân, gắn bó với sản phẩm của mình làm ra. Đối với anh hùng Trần Thị Lý, và thảy mọi người là một lời dạy sắt son luôn mang tính thời sự về ý thức tiết kiệm và sự tránh lãng phí mọi phương diện của cuộc sống.

Thiếu tá Trần Thanh Hương (em ruột anh hùng Trần Thị Lý đang nghỉ hưu ở khu dân cư số 8, phường Đồng Sơn, Tp. Đồng Hới) đã cho tôi biết một chi tiết vô cùng cảm động. Chị Trần Thị Lý bị đau đường ruột, điều trị khắp các bệnh viện trong nước không đỡ nên đã sang Trung Quốc điều trị. Nhưng bệnh tình vẫn ít thuyên giảm. Sau đó đơn vị đã đưa chị về điều trị tại bệnh viện Quân y 17 quân khu 5. Biết mình sẽ không qua nổi, chị xin bệnh viện về nhà nghỉ một đêm. Đêm đó chị dặn dò chồng, con, em và các cháu nhiều điều và ngủ một đêm rất ngon lành trong ngôi nhà ấm cúng của mình trước khi sáng mai phải trở lại bệnh viện. Ít hôm sau chị đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 7/5/2000.

Anh hùng Trần Thị Lý là một trong 3 khuôn mặt nữ anh hùng bên sông Nhật Lệ trong những ngày đánh Mỹ. Đó là những người đã góp phần làm sáng danh lịch sử quê hương Đồng Hới anh hùng. .

Nhà văn Hoàng Bình Trọng với nghiệp đời gập ghềnh
NGẬM NGÙI VỚI NGHIỆP VĂN CHƯƠNG
Hồ Ngọc Diệp, ngày 26 tháng 3 năm 2022

Ông đã ” Tự trào”

“Tớ không có chí làm vua
Nên trời bắt tớ cày bừa ruộng văn
Thôi thì tám đóm tám khoanh
Chăm gieo chuyện ngắn gặt nhanh chuyện vừa
Lại còn tiểu thuyết còn thơ
Lại còn dịch diệt ăng ô Tây Tàu”

Nhà văn Hoàng Bình Trọng, nguyên là kỉ sư ngành trắc đạt bản đồ mỏ địa chất. Do đi nhiều và và lòng ham chuộng văn học,ông có mấy bài báo viết cho các báo hiện hành những năm 1969 – 1970. Thấy năng lực đầy triển vọng, Nhà Xuất Bản Kim Đồng thời kì đó đặt hàng cho ông viết tiểu thuyết cho thiếu nhi,.sau gần ba tháng vừa giảng dạy tại trường trung cấp mỏ địa chất ở Vỉnh Phú, vừa viết sách, cuốn chuyện “Bí mật một khu rừng”, dày hơn 300 trang ra đời. Cuốn truyện thu hút bạn đọc thiếu nhi và cả người lớn đến nỗi, sau “Dế mèn phiêu lưu kí” của Tô Hoài, “Bí mật một khu rừng”, được tái bản 10 lần,mỗi lần 3 vạn cuốn. Sách còn được dich sang tiếng Nga và Đài Tiếng Nói Việt Nam đã 3 lần phát ở chương trình “Đoc chuyện đêm khuya” ,mỗi kì phát ngót nghét một tháng trời. sau tác phẩm nổi tiếng đầu tay đó Hoàng Bình Trọng được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam Cho đến cuối đời, ông đã viết 38 tác phẩm, trong đó 13 tiểu thuyết, 3 trường ca v.v…. Năm 1971,Hoàng Bình Trọng có gia nhập vào quân đội và có 5 năm chiến đấu ở chiến trường B. Hết chiến tranh,ông ra quân và Hội văn học Vĩnh Phú nhận ông về biên tập cho tạp chi “Đất Tổ”. Mấy năm sau, chia tỉnh, ông lênh đênh tìm bến đỗ . Nạn tiếm quyền buổi giao thời này khiến ông không đến được nơi ông cần đến. Nơi cũ thì đã cắt giấy tờ, nơi đến thì không nhận vì đã có ngươi choán chỗ. Ba tháng trời không lương, lại hết tỉnh Vĩnh Phúc đến Phú Thọ, mệt mỏi, bất lực,ông đành về 176. Về với vơ ở Quảng Hòa Quảng Trạch ông đi làm thuê, thậm chí lên rừng hái củi về bán nuôi vợ và con trai. Ông Nguyễn Văn Lợi tổng biên tập tạp chí Văn Nghệ Quảng Bình (sau này là tạp chí Nhật Lệ) đã đón ông vào làm biên tập viên. 14 năm trời làm việc ở đây, không bia rượu, thuốc lá,chỉ mấy cái song tự nấu ăn hàng ngày, ông vừa làm việc vừa sáng tác. Ở Quảng Bình, chưa ai có nhiều giải thưởng văn học danh giá như ông, từ địa phương đến trung ương. Khi Nhật Lệ đủ biên chế rồi, ông phải về quê sống với ngòi bút của mình

Và ông cười khẩy

“Một giọt rơi,
Một quảng đời tàn lụi
Tiếc làm chi cái kiếp phù sinh
Chỉ cần biết bao giờ nến tắt
Ấy là khi đã cháy hết mình”.

Về quê cũ, bệnh viêm phổi mãn tính hoành hành. Đã nghèo nhưng phải nằm viện liên miên. Hết Cu Ba đến Huế, Hết Quảng Trạch lại Hà Nội, cuối cùng Hoàng Bình Trọng đã rời cõi tạm đầu năm 2021. Báo Văn Nghệ đã chia sẻ nhà văn Hoàng Bình Trọng qua bài viết nhỏ của tôi. Cảm ơn quý báo.

Nhạc sĩ Trần Hoàn
VIẾT CHO SỰ GIÃ BIỆT
Hồ Ngọc Diệp, 20 tháng 1 năm 2022  ·

Nhạc sĩ Trần Hoàn có nhiều duyên nợ với Quảng Bình . Nhưng nhiều người chưa được biết ông có một ca khúc viết về một cô gái mà chỉ ông biết tại Quảng Bình, viết cho một cuộc giã từ đi xa mãi mãi, trên đất Quảng Bình. Tôi đã được báo Văn Nghệ Công An giới thiệu bài viết về sự kiện này với bạn đọc gần xa. Một phần thưởng lớn lao đầy ý nghĩa đã đến với tôi,đó là bà Thúy Hồng, vợ của Nguyễn Tăng Hích( tên thật của nhạc sĩ Trần Hoàn) điện về tổng biên tâp báo Văn Nghệ Công An xin số điện thoại của tôi. Sau đó bà đã điện vào cảm ơn tôi đã có một bài viết hay và những điều bà chưa được biết hết về người chồng thân yêu của mình. Với tôi, đó là phần thưởng vô giá.

Bài ca trường Quảng Trạch https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bai-ca-truong-quang-trach/ Dạo chơi non nước Việt https://hoangkimlong.wordpress.com/category/dao-choi-non-nuoc-viet/

TỰ NGUYỆN

CNM365 Tình yêu cuộc sống. Bạn tôi thích hát bài “Tự nguyện” của Trương Quốc Khánh với lời Việt thật ngọt ngào và lời Anh tự dịch khá sát nghĩa. Tôi đặc biệt thích thú bài hát song ngữ này vì những điều cảm động sâu xa trong lời thơ hay đến mức nao lòng và vì sự dễ nhớ để học cách chia động từ tiếng Anh: “Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng / Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương/ Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm/ Là người, tôi sẽ chết cho quê hương” (If a bird, I would be a white pigeon/ If a flower, I would be a sun flower/ If a cloud, I wold be a warm cloud/ A man, I will die for our country …). Trong nguyên bản, lời thơ viết về sự hi sinh trong chiến đấu “Là người, xin một lần khi ngã xuống / Nhìn anh em đứng lên phất cao ngọn cờ.” nay trong thời bình, chúng ta ước khi mình nằm xuống cũng là lúc trỗi dây của một thế hệ mới “Là người, xin một lần khi nằm xuống/ cùng anh em đứng lên phất cao ngọn cờ.” (Being a man, before we die/ We’ll stand up with you raise highly the flag).

TỰ NGUYỆN
Nhạc và lời: Trương Quốc Khánh

Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng
Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương
Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm
Là người, tôi sẽ chết cho quê hương

Là chim, tôi sẽ cất cao đôi cánh mềm
Từ Nam ra ngoài Bắc báo tin nối liền
Là hoa, tôi nở tình yêu ban sớm
Cùng muôn trái tim ngất say hoà bình

Là mây, theo làn gió tung bay khắp trời
Nghìn xưa oai hùng đó tôi xin tiếp lời
Là người, xin một lần khi ngã xuống
Nhìn anh em đứng lên phất cao ngọn cờ.

Voluntariness

If a bird, I would be a white pigeon.
If a flower, I would be a sun flower.
If a cloud, I wold be a warm cloud.
A man, I will die for our country.

Being a bird, I would raise the soft wings
From South to the North, all news are joined.
Being a flower, I effloresce the early love
With all the hearts are enthralled the peace.

Being a cloud, with the wind I fly all the sky.
There’s been a superb millenary, today we’ll be catenary.
Being a man, before we die
We’ll stand up with you raise highly the flag.

Góp ý chỉnh sửa của Nguyễn Thị Bích Nga.
Anh Hoang Kim thân mến,
Đây là bản chuyển ngữ tiếng Anh mà Bích Nga có sửa đổi vài chỗ (dựa theo bản chuyển ngữ tiếng Anh “gốc” của cô Tuyết Hợp Ngốc PhươngNam) để chúng ta cùng HÁT với nhau nghen.Bích Nga đã hát thử nhiều lần rồi, hì hì, thấy cũng tạm được, :D

THE VOLUNTEER
If a bird, I would be a white pigeon.
If a flower, I would be a sun-flower.
If a cloud, I would be a whole warm cloud
A human, I will die for my country.

A bird, I would rise high my soft wings
From South to the North, I give good news.
A flower, I blossom the early love
With all the hearts enthralled by the peace.

A cloud, I would fly to all the skyT
To follow our heroic history
A human, just once before I die
With my brothers, standing, raising the flag
.
(*) Cám ơn anh Bu Lu Khin đã viết “Linh” một câu chuyện xúc động, đó cũng là (tương tự là) câu chuyện Linh Giang dòng sông quê hương trên đây. Cám ơn Ngốc Phương Nam, Vumanh Hai đã chuyển thể bài thơ này sang tiếng Anh.từ 12 tháng 6 năm 2011 và Nguyễn Thị Bích Nga cũng tương tự vậy đã chuyển thể bài hát “Tự Nguyện” của Trương Quốc Khánh sang tiếng Anh và Lâm Cúc cùng anh Từ Vũ đã chuyển tải tài liệu vượt núi cao sang tiếng Việt, nuôi dưỡng ước mơ . Thời điểm này nhóm Cây Lương thực chúng tôi có Trần Ngọc Ngoạn Hoàng Kim Xuan Ky Nguyen, Trần Văn Mạnh, Hoang Long, BM Nguyễn, Nguyễn Thị Trúc Mai … và nhiều bạn khác đã tự nguyện dấn thân vào cuộc chiến đấu mới

Chuyện tình Phong Nha

Dòng Sông Quê Hương CD1
Dòng Sông Quê Hương CD5

Nguồn: Hình ảnh và tuyệt phẩm ca khúc quê hương Quảng Bình trên You Tube

DAYVAHOC. Đi như một dòng sông là tuyệt phẩm của nhà văn Paulo Coelho do nhà văn Từ Vũ phỏng dịch và nhà thơ Nguyễn Lâm Cúc giới thiệu. Tác phẩm viết về kinh nghiệm leo núi mà thực ra không chỉ và không phải nói về leo núi. Đó là một kho báu vô giá về những kỹ năng và minh triết khôn ngoan để vượt qua các lực cản và đi đến thành công. Nghệ thuật leo núi được diễn đạt đi như một dòng sông với một chuỗi việc chính: Lựa chọn núi thích hợp mà bạn muốn leo/ Biết cách để đi tới trước ngọn núi/ Học những điều mà người trước đã làm/ Nhìn thật gần thì những sự nguy hiểm có thể kiểm soát được/ Cảnh vật thay đổi hãy tận hưởng/ Hãy coi trọng thân thể/ Hãy tôn trọng thần trí/ Chuẩn bị để đi xa hơn nữa/ Hãy hân hoan khi tới đích/ Làm một lời hứa/ Trao truyền lại kinh nghiệm. Hồ Chí Minh có bài leo núi: “Đi đường biết mấy gian lao/ Núi cao rồi lại núi cao trập trùng/ Núi cao lên đến tận cùng/ Thu vào tầm mắt muôn trùng giang san” (Ảnh: Leo núi của Hoàng Tố Nguyên và ảnh Đi như một dòng sông của Hoàng Kim).

LỰA NGỌN NÚI MÀ BẠN MUỐN LEO

Đừng nên để những lời tường thuật của những người khác hướng dẫn bạn. Những người nói với bạn ” ngọn núi này đẹp nhất ” hay ” ngọn núi kia dễ leo nhất” sẽ làm cho bạn tổn hao nhiều năng lực và nhiệt tình khi bạn muốn đạt tới mục tiêu. Chính bạn là người duy nhất chịu trách nhiệm và phải chắc chắn tin tưởng vào điều mà bạn muốn thực hiện.

BIẾT CÁCH ĐỂ ĐI TỚI TRƯỚC NGỌN NÚI

Thông thường, người ta hay nhìn ngọn núi từ xa: đẹp, lý thú và đầy thử thách nhưng khi người ta thử tiến lại gần, chuyện gì sẽ xảy ra? Rất nhiều con đường lòng vòng dẫn tới đỉnh núi, rất nhiều cánh rừng ngăn trở bạn và mục tiêu của bạn, những chi tiết mà bạn nhìn thấy, đọc thấy trong bản đồ lại quá khó khăn trong thực tế. Chính vì thế, bạn hãy thử mọi đường, mọi nẻo, và rồi một ngày bạn sẽ nhận ra rằng mình đứng đối diện với cái đỉnh của ngọn núi mà bạn muốn leo lên được tới tận đỉnh.

HỌC NHỮNG ĐIỀU MÀ NGƯỜI TRƯỚC BẠN ĐÃ LÀM

Bạn tưởng rằng việc bạn làm là duy nhất chỉ mình bạn có mà thôi, nhưng thực ra, thế nào cũng có một người đã làm trước cả khi bạn mơ tưởng tới điều bạn dự định làm, và họ cũng đã để lại dấu vết giúp cho lối đi của bạn được dễ dàng hơn. Đấy chính là một đoạn đường, là trách nhiệm của chính bạn, nhưng đừng quên rằng học kinh nghiệm của người khác chính là sự giúp đỡ to lớn cho bạn.

NHÌN THẬT GẦN THÌ NHỮNG SỰ NGUY HIỂM CÓ THỂ KIỂM SOÁT ĐƯỢC

Khi bạn khởi sự leo núi, hãy lưu tâm đến những gì chung quanh bạn. Lẽ tất nhiên, những vực thẩm, những kẽ hở gần như khó có thể nhận ra. Những viên đá vô cùng bóng bảy vì mưa gió nhưng cũng lại rất trơn trợt như băng đá. Song nếu bạn biết được điểm mà bạn đặt chân vào, bạn sẽ nhận ra được những cái bẫy để biết được mà né tránh chúng.

CẢNH VẬT THAY ĐỔI, HÃY TẬN HƯỞNG

Điều chắc chắn là bạn phải có một mục tiêu rõ rệt trong đầu bạn: lên được tới tận đỉnh núi. Song, theo từng bước chân leo, người ta sẽ nhìn được rõ rệt hơn những cảnh vật, chẳng phải tốn kém gì nếu thỉnh thoảng bạn dừng chân lại để tận hưởng cảnh trí bao quanh. Mỗi một thước đã leo là mỗi dịp bạn có thể được nhìn xa hơn. Hãy lợi dụng những lúc này để khám phá những điều trước đây bạn chưa từng nhận ra được.

HÃY COI TRỌNG THÂN THỂ CỦA BẠN

Chỉ những ai biết điều chỉnh được cơ thể họ thì họ mới có thể xứng đáng thành công trong việc leo núi. Bạn có tất cả thời giờ mà cuộc đời dành cho bạn, hãy bước đều mà không cần phải đòi hỏi gì khác. Nếu như đi nhanh, bạn sẽ mệt mỏi và sẽ bỏ cuộc nửa chừng. Nếu bạn đi qúa chậm, đêm xuống, bạn sẽ bị lạc đường.

HÃY TÔN TRỌNG THẦN TRÍ CỦA BẠN

Đừng lập đi lập lại với chính bạn rằng ” Mình sẽ thành công .” Tâm thần của bạn đã biết điều này, điều mà bạn cần có là cống hiến cho lộ trình dài này để vượt lên. Sự ám ảnh chẳng hữu ích gì cho công cuộc tìm tòi chủ đích của bạn và cuối cùng sẽ làm bạn mất hứng thú. Tuy vậy cũng đừng nói đi nói lại rằng “qủa nhiên khó khăn hơn là mình nghĩ “, vì như vậy bạn sẽ làm hao tổn nội lực của chính bạn.

CHUẨN BỊ ĐỂ ĐI THÊM MỘT ĐOẠN NỮA.

Lộ trình dẫn tới đỉnh núi luôn dài hơn là bạn nghĩ. Đừng phủ nhận sự kiện này, lúc mình tưởng đã tới thì vẫn còn xa. Nhưng cũng như đã chuẩn bị cho điều này thì đâu thành vấn đề gì.

HÃY HÂN HOAN KHI BẠN ĐÃ TỚI ĐƯỢC ĐỈNH NÚI

Vui đùa, reo vang với bốn bề đất trời quanh bạn rằng bạn đã thành công. Hãy để ngọn gió trên cao kia (bởi lẽ ở trên cao luôn thường có gió) tẩy uế linh hồn bạn. Hãy để đôi bàn chân mệt mỏi của bạn được mát mẻ thoáng mồ hôi. Hãy mở rộng đôi mắt, vất bỏ bụi bậm bám trong tâm hồn bạn. Thực là một điều tuyệt diệu mà trước đó chỉ là một giấc mơ, một ảo tưởng xa vời, hiện tại đã nằm trong một phần cuộc đời bạn, bạn đã THÀNH CÔNG.

LÀM MỘT ĐIỀU HỨA

Bạn đã khám phá ra một sức mạnh mà chính bản thân bạn cũng không biết, hãy lợi dụng nó và nó với chính bạn rằng kể từ nay bạn sẽ xử dụng nó cho tới khi nào bạn còn hiện diện trong cuộc sống. Dành ưu tiên, hãy hưá hẹn với bạn rằng bạn sẽ khám tìm, chinh phục một ngọn núi khác nữa, rồi lao mình vào một chuyến phiêu lưu mới.

THUẬT LẠI CÂU CHUYỆN CỦA BẠN

Đúng vậy, hãy kể lại câu chuyện của bạn. Hãy đưa ra ví dụ mà bạn đã thực hiện. Nói với mọi người rằng tất cả đều CÓ THỂ ĐƯỢC và rồi những người khác cũng sẽ lại tự thấy có được lòng can đảm để ĐƯƠNG ĐẦU VỚI NHỮNG NGỌN NÚI CỦA CHÍNH HỌ.

(Theo NLC Blog)

xem tiếp: Hoa Đất của quê hương
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoa-dat-cua-que-huong/

Bài viết mới trên DẠY VÀ HỌC
https://hoangkimvn.wordpress.com/

Video yêu thích
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter

Ngọt bùi nhớ trái ớt cay

NGỌT BÙI NHỚ TRÁI ỚT CAY
Hoàng Kim

Thanh Minh em đi đường xa
Luống đậu vườn cà khoai củ gửi ai.
Khô rang trời nóng bồi hồi
Nhớ ngày nắng hạn mình ngồi đợi mưa

Chuyển mùa trăng khuyết sao lu
Đêm quên đầy đặn, ngày thưa thớt dài
Bao giờ cho đến tháng Mười
Thảnh thơi mọi chuyện, mình ngồi đếm sao

Chim Phượng làm tổ bờ ao
Bay ra bay vào về đậu cành thương
Ríu ra ríu rít đời thường
Ớt cay chín đỏ, trái hường cành xanh.

*

Ngọt bùi nhớ trái ớt cay
#Thungdung tháng ngày nhớ thuở gian truân

“Nhớ rừng quả nhót đỏ tươi
Thương thuở bùi ngùi câu cá bên sông“

(Hoàng Kim) https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cau-ca-ben-dong-serepok/

Thông tin tích hợp tại Video nhạc tóm tắt các sự kiện https://youtu.be/Oi8hEUzmQcY
TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim #Thungdung, #dayvahoc, #vietnamhoc; #cnm365; #cltvn; #đẹpvàhay; Ngọt bùi nhớ trái ớt cay (hình) ; Linh Giang sông quê hương https://hoangkimlong.wordpress.com/category/linh-giang-song-que-huong/ Câu cá bên dòng Sêrêpôk https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cau-ca-ben-dong-serepok/ ; #cnm365#cltvn 27 tháng 3