Việt Nam sáng tạo KHCN

VIỆT NAM SÁNG TẠO KHCN
Hoàng Kim

Trưa nay, lắng nghe truyền hình trực tiếp trên VTV1. Ý kiến phát biểu thật tốt ! Chúc mừng Hiệu trưởng GS.TS. Nguyễn Thị Lan đã đề cập ba vấn đề Việt Nam con đường xanh, thật nóng hổi tính thời sự: 1) Cần quan tâm đặc biệt lĩnh vực nông nghiệp, là trụ đỡ của nền kinh tế Việt Nam, trong và sau dịch Covid19, chú trọng giống, logistic; chuỗi cung ứng sản xuất, chế biến, tiêu thụ; và lĩnh vực quản lý tài chính. 2) Cần có chương trình hành động và giải pháp đột phá theo tinh thần Nghị quyết 52 của Bộ Chính Trị và .Nghị quyết 50 của Chính Phủ 3) Thể chế hóa Mô hình doanh nghiệp khởi nguồn công nghệ Việt Nam là một khâu đột phá để đưa nhanh và vững chắc sáng tạo và công nghệ vào thực tiễn sản xuất.

Chủ đề này từ thuở Đến với Tây Nguyên mới https://hoangkimlong.wordpress.com/category/den-voi-tay-nguyen-moi-2/ Câu chuyện của chúng tôi lần ấy là luận án tiến sĩ của Nguyễn Bạch Mai và sắn Tây Nguyên.với những trao đổi về cách chuyển giao TBKT thành công gắn với doanh nghiệp KHCN. Chúng tôi may gặp bạn cố hương và gặp cả những nhân vật lớn của Học viện Nông nghiệp Việt Nam cựu Hiệu trưởng GS.TS. NGND. Trần Đức Viên (2007 – 2014), tân Hiệu trưởng GS.TS. Nguyễn Thị Lan (2015 – nay) người đoạt Giải thưởng Kovalevskaia 2018, TS. Lê Ngọc Báu Liên hiệp các hội KHKT tỉnh Đắk Lắk, với nhiều người khác, với thật chuyện hay, tôi chưa kịp chép lại.

Bài viết “Việt Nam sáng tạo KHCN” là mục từ đúc kết các thông tin: 1) Nghị quyết 52 của Bộ Chính Trị, .2) Nghị quyết 50 của Chính Phủ .3) Bài tổng quan “Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ Việt Nam thực trạng và giải pháp phát triển, cùng với hai trường hợp nghiên cứu điển hình trong nông nghệp (key study) 4) Chuyện cô Trâm lúa lạ và 5) Bảo tồn phát triển sắn. Mục đích giúp việc học tập và nghiên cứu mô hình chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp.

Hoàng Kim

Những văn kiện quan trọng, liên quan đến bài viết

Nghị quyết 52-NQ/TW của Bộ Chính Trị Nghị quyết 52-NQ/TW năm 2019 về chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư do Bộ Chinh trị ban hành Ngày 13/01/2020, Ban Tuyên giáo Trung ương ban hành Hướng dẫn 116-HD/BTGTW triển khai thực hiện Nghị quyết 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ Tư (4.0). https://thuvienphapluat.vn/tintuc/tag?keyword=Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%2052-NQ/TW

Nghị quyết số 50/NQ-CP của Chính phủ
May 20, 2021 — Nghị quyết số 50/NQ-CP của Chính phủ : Về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII … 50/NQ-CP – Thư Viện Pháp Luật https://thuvienphapluat.vn/van-ban/bo-may-hanh-chinh/nghi-quyet-50-nq-cp-2021-thuc-hien-nghi-quyet-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiii-cua-dang-474838.aspx?v=d

DOANH NGHIỆP KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN


TS. Nguyễn Vân Anh
Sở KH&CN Bà Rịa – Vũng Tàu
Nguyễn Hồng Hà
Vụ Phát triển KH&CN Địa phương, Bộ KH&CN
ThS. Lê Vũ Toàn
Trường Quản lý KH&CN, Bộ KH&CN

Nguồn: JSTPM Tập 3, Số 3, 2014

Tóm tắt:
Phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ (KH&CN) là một trong những nhiệm vụ quan trọng được Đảng và Nhà nước ta đặt ra và quyết tâm triển khai thực hiện. Tuy nhiên,tính đến thời điểm hiện nay, việc phát triển doanh nghiệp KH&CN ở nước ta còn gặp không ít khó khăn, vướng mắc. Bài viết nêu tổng quan tình hình phát triển doanh nghiệp KH&CN trong bối cảnh hiện nay, từ đó đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển của loại hình doanh nghiệp đặc thù này ở nước ta trong thời gian tới. Từ khóa: Doanh nghiệp KH&CN; Doanh nghiệp spin-off; Doanh nghiệp start-up.

Mã số: 14082501

1. Khái niệm và điều kiện cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ

Doanh nghiệp KH&CN xuất hiện trên thế giới từ khoảng giữa Thế kỷ XX, xuất phát từ mô hình spin-off (doanh nghiệp khởi nguồn) và start-up (doanh nghiệp khởi nghiệp) được hình thành ở các nước công nghiệp phát triển. Doanh nghiệp spin-off được khởi nguồn từ trường đại học (tách ra hoạt động độc lập từ các trường đại học) và các cá nhân tạo ra các tài sản KH&CN tham gia vào quá trình quản lý của doanh nghiệp mới hình thành. Doanh nghiệp start-up chỉ sự khởi nghiệp của một doanh nghiệp mới hình thành trên nền tảng kết quả KH&CN [34, 35]. Mặc dù có sự khác nhau giữa doanh nghiệp spin-off và start-up, nhưng giữa chúng đều có đặc điểm chung là: (1) Khởi đầu một doanh nghiệp mới dựa trên kết quả KH&CN; (2) Doanh nghiệp có khả năng thực hiện đổi mới và thương mại hóa các kết quả KH&CN để sản xuất các loại sản phẩm mà người tiêu dùng có nhu cầu.

Để khuyến khích các doanh nghiệp spin-off, start-up phát triển, chính phủ các quốc gia trên thế giới đều có những chính sách hỗ trợ phát triển, như khuyến khích thành lập các Vườn ươm công nghệ, các trung tâm chuyển giao công nghệ, văn phòng cấp phép sử dụng quyền sở hữu trí tuệ, thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ đầu tư thiên thần (angel fund) – quỹ đầu tư cá nhân,… [32, 34, 35] để hỗ trợ các doanh nghiệp KH&CN hình thànhvà phát triển.

Theo số liệu của Hiệp hội các trường đại học quản lý công nghệ Mỹ (AUTM), trong giai đoạn 1980-2000, Mỹ có 3.376 doanh nghiệp KH&CN (spin off) tại các trường đại học. Tốc độ gia tăng ngày càng mạnh mẽ trong những năm gần đây. Tại Anh, có 1.307 doanh nghiệp KH&CN tại các trường đại học trong năm 2007, bổ sung 219 doanh nghiệp KH&CN từ 163 trường đại học trong năm 2008. Tốc độ tăng hàng năm khoảng 70 doanh nghiệp KH&CN từ 102 trường đại học tại Vương quốc Anh [33].

Tại Việt Nam, thuật ngữ doanh nghiệp KH&CN được đề cập lần đầu tiên vào năm 1980, trong kết luận của Hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX: “Từng bước chuyển các tổ chức KH&CN thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sang cơ chế tự trang trải kinh phí, hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp” [5]. Nhiệm vụ trên được cụ thể hóa trong Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 05/9/2005 của Chính phủ (Nghị định 115) quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN công lập: “Các tổ chức KH&CN có thể lựa chọn hình thức chuyển đổi thành doanh nghiệp KH&CN” (Điều 4, Nghị định 115). Chính phủ ban hành Nghị định số 80/2007/NĐ-CP ngày 19/5/2007 (Nghị định 80) và Nghị định số 96/2010/NĐ-CP ngày 20/9/2010 (Nghị định 96), trong đó có điều khoản nêu rõ khái niệm doanh nghiệp KH&CN:

“Doanh nghiệp KH&CN là doanh nghiệp do tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (R&D) thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật KH&CN. Hoạt động chính của doanh nghiệp là thực hiện sản xuất, kinh doanh các loại sản phẩm hàng hóa hình thành từ kết quả R&D do doanh nghiệp được quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp; thực hiện các nhiệm vụ KH&CN.

Doanh nghiệp KH&CN thực hiện sản xuất, kinh doanh và thực hiện các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật” (Điều 1.2, Điều 2, Nghị định 80; Điều 2, Nghị định 96). Năm 2013, quy định về doanh nghiệp KH&CN được đề cập trong văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao hơn, đó là Luật KH&CN [1]. Tuy nhiên, hiện nay Luật KH&CN chưa thể áp dụng toàn diện vì còn thiếu văn bản hướng dẫn thi hành.

Điều kiện để công nhận doanh nghiệp KH&CN được quy định cụ thể tạiThông tư liên tịch số 17/2012/TTLT-BKHCN-BTC-BNV của liên Bộ KH&CN, Bộ Tài chính và Bộ Nội vụ ban hành ngày 10/9/2012 (Thông tư 17): “Đối tượng thành lập doanh nghiệp KH&CN hoàn thành việc ươm tạo và làm chủ công nghệ từ kết quả KH&CN được sở hữu, sử dụng hợp pháp hoặc sở hữu hợp pháp công nghệ để trực tiếp sản xuất thuộc các lĩnh vực: 68 Doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam:

(1) Công nghệ thông tin – truyền thông, đặc biệt là công nghệ phần mềm tin học; (2) Công nghệ sinh học, đặc biệt là công nghệ sinh học phục vụ nông nghiệp, thủy sản, y tế; (3) Công nghệ tự động hóa; (4) Công nghệ vật liệu mới, đặc biệt là công nghệ nano; (5) Công nghệ bảo vệ môi trường; (6) Công nghệ năng lượng mới; (7) Công nghệ vũ trụ và một số công nghệ khác do Bộ KH&CN quy định; chuyển giao công nghệ hoặc trực tiếp sản xuất trên cơ sở công nghệ đã ươm tạo và làm chủ hay sở hữu hợp pháp công nghệ theo quy định của pháp luật theo các lĩnh vực đã nói ở trên” (Điều 1.2, Thông tư 17). Như vậy quan điểm về doanh nghiệp KH&CN được quy định bởi pháp luật Việt Nam tương đối phù hợp quan điểm về doanh nghiệp KH&CN hiện nay trên thế giới. Sự phù hợp được đánh giá mang tính chất “tương đối” vì cùng thống nhất ở những điểm sau: (1) Mô hình tổ chức đều phải là doanh nghiệp; (2) Doanh nghiệp đó có khả năng thực hiện đổi mới; (3) Sản xuất, kinh doanh dựa trên kết quả KH&CN. Tuy nhiên, quan điểm của thế giới về doanh nghiệp KH&CN, là doanh nghiệp phải “thành lập mới (khởi nguồn, khởi nghiệp)”, còn tại Việt Nam, yếu tố này không được đề cập. Quan điểm này là phù hợp với điều kiện và bối cảnh thực tế tại Việt Nam. Bởi việc hình thành các doanh nghiệp mới từ kết quả KH&CN gặp rất nhiều rủi ro, đòi hỏi người quản lý, điều hành doanh nghiệp vừa phải có kiến thức quản lý, kinh nghiệm thực tiễn điều hành doanh nghiệp, vừa phải có kiến thức khác liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, kiến thức chuyên môn kỹ thuật để tiếp nhận và đưa công nghệ mới vào vận hành khai thác, mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Tại các nước tiên tiến trên thế giới, có cả hệ thống trợ giúp ươm tạo công nghệ (vốn, kỹ thuật, quản lý, thương mại,…) để hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp (spin-off), khởi nguồn (start-up) phát triển. Trong khi đó, tại Việt Nam, các doanh nghiệp KH&CN hầu như đều đang tự xoay xở, phải dựa rất nhiều và tiềm lực của các doanh nghiệp thực tế đang hoạt động, để hỗ trợ tốt cho các kết quả KH&CN được ứng dụng vào thực tiễn.

Trong thời điểm hiện nay, với các văn bản quy phạm pháp luật có giá trị áp dụng hiện tại (Nghị định 80, Nghị định 96; Thông tư 06, Thông tư 17), chúng ta thấy rằng: phạm vi “khái niệm doanh nghiệp KH&CN” rộng hơn “điều kiện thành lập doanh nghiệp KH&CN”. Sự “rộng” hơn này liên quan đến thuật ngữ “kết quả KH&CN”. Điều kiện cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN nêu tại Điều 1.2, Thông tư 17 chỉ chấp nhận “kết quả KH&CN” của 7 lĩnh vực: (1) Công nghệ thông tin – truyền thông; (2) Công nghệ sinh học; (3) Công nghệ tự động hóa; (4) Công nghệ vật liệu mới; (5) Công nghệ bảo vệ môi trường; (6) Công nghệ năng lượng mới; (7) Công nghệ vũ trụ và một số công nghệ khác do Bộ KH&CN quy định. Như vậy, sự hạn chế này đã tước đi cơ hội được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp khác có “kết quả KH&CN” nằm ngoài 7 lĩnh vực nêu trên. Chẳng hạn như tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, một cá nhân đã tự đầu tư nghiên cứu sáng tạo ra “xe lu ruộng muối”. Giải pháp “xe lu ruộng muối” có tính mới, tính sáng tạo, khả năng ứng dụng rất cao. Giải pháp này đã đạt giải nhất hội thi sáng tạo kỹ thuật của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu năm 2013. Chủ sở hữu của giải pháp này đã thành lập doanh nghiệp và sản xuất “xe lu ruộng muối” để cung cấp cho các diêm dân trong và ngoài Tỉnh. Tuy nhiên, giải pháp “xe lu ruộng muối “ của doanh nghiệp mới thành lập là kết quả R&D thuộc lĩnh vực cơ khí, nên chưa đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN theo quy định hiện hành. Đối chiếu với quy định mới về doanh nghiệp KH&CN của Luật KH&CN năm 2013 (Điều 58.1, 58.2), thấy rằng sự hạn chế trên đã được khắc phục. Đây là một điểm mới, tiến bộ của Luật KH&CN. Nhưng với quy định doanh nghiệp KH&CN phải đáp ứng điều kiện: “Doanh thu từ việc sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hoá hình thành từ kết quả R&D đạt tỷ lệ theo quy định” (Điều 58.2.c, Luật KH&CN năm 2013) sẽ lại hình thành một rào cản mới đối với các doanh nghiệp mong muốn đứng vào hàng ngũ doanh nghiệp KH&CN được Nhà nước thừa nhận, nhất là các doanh nghiệp thành lập mới, được hình thành từ kết quả R&D. Theo quan điểm của tác giả, không nên đưa điều kiện “doanh thu kết quả R&D đạt tỷ lệ theo quy định” vào điều kiện cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN, nên đưa điều khoản này về quy định hưởng ưu đãi thuế như Thông tư Liên tịch số 06/2008/TTLT-BKHCN-BTC-BNV ngày 18/6/2008, Thông tư 17 hiện hành. Bởi quá trình kinh doanh, không phải bao giờ doanh nghiệp cũng đảm bảo doanh thu như mong muốn, nhất là sản phẩm mới hình thành bao giờ cũng tiềm ẩn những rủi ro, phải mất một thời gian mới được thị trường đón nhận rộng rãi. Một số sản phẩm mới, phải được cơ quan quản lý chức năng ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn chuyên ngành phù hợp mới được phép lưu hành.

2. Thực trạng về doanh nghiệp khoa học và công nghệ
2.1. Thực trạng


Số lượng các doanh nghiệp KH&CN được công bố tại Việt Nam hiện nay đang trong tình trạng chưa thống nhất, có sự chênh lệch rất lớn liên quan đến các khái niệm “doanh nghiệp KH&CN”, “doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN”. Cụ thể: tác giả Phạm Văn Diễn [27] cho rằng “Đến năm 2011, Việt Nam có khoảng 2.000 doanh nghiệp KH&CN”; Phạm Đức Nghiệm [28]: “Đến tháng 10/2013, Việt Nam có khoảng 2.000 doanh nghiệp hoạt động theo mô hình doanh nghiệp KH&CN”; Trần Văn Đích [30]: “Đến năm 2013, cả nước hiện có khoảng 2.000 doanh nghiệp theo mô hình doanh nghiệp KH&CN trong lĩnh vực công nghệ thông tin, giống cây – con, công nghệ chế biến sau thu hoạch, cơ khí tự động hóa, điện tử, tin học, y tế dược,… Cho đến nay, đã công nhận được 123 doanh nghiệp KH&CN và khoảng 40 hồ sơ đăng ký đã hoàn thiện và đang chờ cấp”; Theo Phạm Hồng Quất [29]: “Đến nay (2014), các Sở KH&CN các địa phương đã cấp trên 100 giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN và đang thẩm định hàng trăm hồ sơ của các doanh nghiệp”. Còn theo con số chính thức trong báo cáo của Bộ KH&C năm 2013 [15]: “Tính đến hết tháng 6/2013, có trên 65 doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN”. Một trong những nguyên nhân của việc có sự chênh lệch các con số này, liên quan đến sự chưa đồng nhất giữa “khái niệm doanh nghiệp KH&CN” và “điều kiện cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN” mà bài viết đã đề cập ở trên. Biết rằng, quy định hiện nay về điều kiện cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN là chưa phù hợp, nhưng việc công bố các con số quá lớn đi kèm với các thuật ngữ “doanh nghiệp KH&CN”, hay “doanh nghiệp hoạt động theo mô hình doanh nghiệp KH&CN” so với con số thực cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN như vậy, có điều gì đó chưa ổn, vì khó kiểm chứng, sẽ mang đến cách hiểu hết sức “tù mù”, thiếu độ tin cậy. Nhất là tình hình báo cáo thống kê KH&CN Việt Nam đang có những bất ổn về mặt số liệu. Không phải năm nào Việt Nam cũng có thể tổ chức điều tra tất cả các doanh nghiệp trong cả nước chỉ để xác định doanh nghiệp KH&CN. Mặt khác, là người tham gia trực tiếp công tác quản lý nhà nước liên quan đến doanh nghiệp KH&CN tại địa phương, tác giả thấy rằng, hàng năm, các Sở KH&CN chỉ thực hiện báo cáo con số thống kê về số lượng doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN và số lượng hồ sơ đang xem xét cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN, chưa từng tham gia thực hiện báo cáo thống kê “doanh nghiệp hoạt động theo mô hình doanh nghiệp KH&CN” từ bất cứ cơ quan chuyên môn nào của Bộ KH&CN. Do vậy, con số “2.000 doanh nghiệp hoạt động theo mô hình doanh nghiệp KH&CN”, mà các tác giả [28, 30] công bố chắc chắn sẽ chưa đầy đủ, vì ít nhất chưa có số liệu thống kê từ tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Hiện nay, cơ quan chuyên môn quản lý nhà nước liên quan đến doanh nghiệp KH&CN tại Bộ KH&CN do rất nhiều đơn vị phụ trách: Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp KH&CN; Vụ Phát triển KH&CN địa phương; Ban quản lý khu công nghệ cao Hòa Lạc; Vụ Công nghệ cao; Văn phòng Chứng nhận hoạt động công nghệ cao; Vụ Tổ chức cán bộ (triển khai Chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN theo Quyết định số 592/QĐ-TTg ngày 22/5/2012 về việc phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN và tổ chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm). Tuy nhiên, Cục Phát triển Thị trường và doanh nghiệp KH&CN (sau đây gọi tắt là Cục) là cơ quan quản lý nhà nước về phát triển thị trường công nghệ và hỗ trợ hình thành, phát triển doanh nghiệp KH&CN lại không trực tiếp tham gia cấp phép thành lập các doanh nghiệp KH&CN, mà chỉ tổng hợp số liệu doanh nghiệp được cấp giấychứng nhận doanh nghiệp KH&CN từ các Sở KH&CN địa phương. Theo quan điểm của tác giả bài viết, doanh nghiệp sẽ lập tức làm thủ tục để được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN, nếu xét thấy điều đó có lợi,làm gia tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Mặt khác, số liệu thống kê phải có khả năng kiểm chứng.

Trong điều kiện bối cảnh số liệu thống kê KH&CN hiện nay tại Việt Nam, kể từ đây bài viết sẽ đề cập về “doanh nghiệp KH&CN” hiểu theo theo góc độ “doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN”. Mặt khác, nếu như doanh nghiệp được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận với hình thức có giá trị tương đương với việc cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN (thỏa mãn điều kiện được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN) thì sẽ được coi là doanh nghiệp KH&CN. Như vậy, sẽ có một câu hỏi cần thiết đặt ra là: “Phải chăng hiện nay (tháng 9/2014), chúng ta mới có 123 doanh nghiệp KH&CN và năm 2009 là năm đầu tiên Việt Nam có doanh nghiệp KH&CN?” [30].

Để giải đáp câu hỏi này, ngược trở lại thời điểm lần đầu tiên Việt Nam hình thành và đưa vào hoạt động Khu công viên phần mềm Quang Trung tại Thành phố Hồ Chí Minh (2001), và các văn bản pháp lý liên quan đến KH&CN, chúng ta sẽ thấy rằng, con số doanh nghiệp KH&CN tại Việt Nam sẽ lớn hơn và thời gian ra đời sớm hơn con số được công bố [30] rất nhiều. Điều này liên quan đến khái niệm công nghệ cao và Luật Công nghệ cao của Việt Nam. Khi trao đổi về vấn đề này, tác giả nhận được nhiều ý kiến khác nhau từ giới quản lý KH&CN (bao gồm cả trung ương và địa phương).

Tác giả bài viết cho rằng, cần thiết phải bổ sung số lượng các doanh nghiệp công nghệ cao (CNC) tại các khu CNC (trong đó bao gồm khu CNC, khu nông nghiệp CNC, khu công nghệ thông tin tập trung hay công viên phần mềm) theo quy định của Luật CNC [2], Luật Công nghệ thông tin [3]; doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư sản xuất sản phẩm CNC, doanh nghiệp CNC nằm ngoài các khu CNC do Bộ KH&CN cấp giấy chứng nhận theo quy định của Thông tư số 32/2011/TT-BKHCN ngày 15/11/2011 (Thông tư 32), vào số liệu thống kê doanh nghiệp KH&CN. Bởi các lý do sau: (1) “CNC” là một loại hình công nghệ đặc thù, nhưng khái niệm này hoàn toàn nằm trong tập hợp thuộc khái niệm “KH&CN” nói chung; (2) Khu CNC là “Nơi tập trung, liên kết hoạt động R&D, ứng dụng CNC; ươm tạo CNC, ươm tạo doanh nghiệp CNC; đào tạo nhân lực CNC; sản xuất và kinh doanh sản phẩm CNC, cung ứng dịch vụ CNC” (Điều 31.1, Luật CNC); (3) “Doanh nghiệp CNC là doanh nghiệp sản xuất sản phẩm CNC, cung ứng dịch vụ CNC, có hoạt động R&D CNC” (Điều 3.4, Luật CNC); (4) Dự án CNC là dự án có một trong những điều kiện cần phải thỏa mãn “Sử dụng kết quả R&D để đổi mới công nghệ, đổi mới và nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm góp phần hiện đại hóa hoặc hình thành ngành sản xuất, dịch vụ mới tại Việt Nam” (Điều 2.1.b, Thông tư số 32/2011/TT-BKHCN ngày 15/11/2011). Theo quy định tại Quyết định số 49/2010/QĐ-TTg ngày 19/7/2010 của Thủ tướng Chính phủ, các lĩnh vực CNC, sản phẩm CNC được ưu tiên phát triển hiện nay đều thuộc 7 lĩnh vực mà Thông tư 17 quy định.

Với các quy định của pháp luật như đã đề cập thì doanh nghiệp CNC (trong và ngoài khu CNC), doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư sản xuất sản phẩm CNC đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định đối với doanh nghiệp KH&CN. Quan điểm này cũng phù hợp với quan điểm của một số tác giả trong nước như: Nguyễn Quân, 2006 [21]; Vũ Cao Đàm, 2006 [23]; Nguyễn Thị Minh Nga, 2006 [24]; Bạch Tân Sinh, 2005 [22], 2006 [17]; Nguyễn Văn Phú, 2006 [26]; Nguyễn Thị Minh Nga, Hoàng Văn Tuyên, 2006 [25]; Hoàng Văn Tuyên, 2005 [18],… về việc coi các doanh nghiệp CNC, doanh nghiệp thuộc các khu CNC – công viên KH&CN là các doanh nghiệp KH&CN

Từ những luận giải ở trên cho thấy, các doanh nghiệp KH&CN là các doanh nghiệp không chỉ do các Sở KH&CN cấp giấy chứng nhận (doanh nghiệp KH&CN) mà còn tồn tại ở các hình thức khác là: (1) Được Bộ KH&CN cấp giấy chứng nhận (doanh nghiệp CNC, doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư sản xuất sản phẩm CNC – nằm ngoài các khu CNC); (2) Được các khu CNC cấp phép cho vào hoạt động trong các khu CNC. Việc các doanh nghiệp hoạt động trong các khu CNC không làm thủ tục xin chứng nhận là doanh nghiệp KH&CN (tại các Sở KH&CN) hay doanh nghiệp CNC (Bộ KH&CN) vì doanh nghiệp đã được hưởng các ưu đãi từ các khu CNC, và ưu đãi khuyến khích đầu tư theo Luật Đầu tư, Luật CNC và các luật khác liên quan..

Như vậy, ngoài 123 doanh nghiệp KH&CN như công bố hiện nay [30], phải được kể tới trên 400 doanh nghiệp CNC đang hoạt động tại các khu CNC hiện nay của Việt Nam (Khu công viên phần mềm Quang Trung Thành phố Hồ Chí Minh, Khu nông nghiệp CNC thành phố Hồ Chí Minh, Khu CNC Thành phố Hồ Chí Minh, Khu CNC Hòa Lạc,… theo quy định của Luật CNC, Luật Công nghệ thông tin; trên 20 doanh nghiệp được Bộ KH&CN cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp CNC, doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư sản xuất sản phẩm CNC – nằm ngoài các khu công nghiệp theo quy định của Thông tư 32. Theo thống kê của tác giả, hiện nay tổng cộng có trên 500 doanh nghiệp.

Cơ sở để hình thành các doanh nghiệp KH&CN là: (1) Tự đầu tư nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (R&D), hoặc phối hợp với các viện nghiên cứu, trường đại học hợp tác nghiên cứu (ví dụ: Công ty Cổ phần Giống cây trồng Quảng Ninh, Tổng Công ty Giống cây trồng Thái Bình, Công ty Cổ phần Giống cây trồng Trung ương, Công ty Cổ phần Thoát nước đô thị BUSADCO,…); (2) Tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới từ nước ngoài để làm chủ công nghệ (Công ty Cổ phần Công nghệ Việt – Séc); (3) Thực hiện đầu tư vào Việt Nam theo Luật Đầu tư, Luật CNC, Luật Công nghệ thông tin hiện nay của Việt Nam.

Các doanh nghiệp KH&CN được hình thành chủ yếu từ 2 thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, nơi tập trung tiềm lực KH&CN mạnh của cả nước với hệ thống nhiều trường đại học, viện nghiên cứu và các khu CNC… Các doanh nghiệp KH&CN trong nước hiện nay chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ, hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau thuộc nhóm các ngành, lĩnh vực theo quy định hiện hành. Các doanh nghiệp KH&CN đều quan tâm đến việc xác lập và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với các kết quả KH&CN và sản phẩm được tạo ra (ví dụ: Công ty TNHH Một thành viên Thương mại – Sản xuất – Xuất nhập khẩu Ngân Hà được cấp 12 bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp phạm vi bảo hộ trong nước và quốc tế; Công ty KH&CN An Sinh Xanh được cấp 8 bằng độc quyền sáng chế trong nước và quốc tế; Tổng Công ty Giống cây trồng Thái Bình đăng ký bảo hộ 15 giống cây trồng và hơn 30 nhãn hiệu).

Theo báo cáo của Bộ KH&CN năm 20131 [15]: “Doanh thu bình quân của doanh nghiệp KH&CN là 59,8 tỷ đồng, lợi nhuận bình quân là 6,4 tỷ đồng.Bình quân thu nhập của cán bộ trong doanh nghiệp KH&CN là 5 triệu đồng/tháng, chưa kể một số doanh nghiệp có kết quả sản xuất, kinh doanh tốt thì thu nhập của cán bộ, nhân viên bình quân đạt trên 10 triệu đồng/tháng… Sản phẩm của nhiều doanh nghiệp KH&CN được thị trường trong và ngoài nước đánh giá cao. Một số doanh nghiệp KH&CN có sản phẩm được xuất khẩu chiếm 75-80% tổng sản lượng ra thị trường nước ngoài, được các tổ chức chứng nhận chất lượng quốc tế có uy tín cấp chứng chỉ công nhận có đủ điều kiện xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường khó tính như châu Âu…”.

2.2. Ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ

Một trong những chiếc nôi để tạo nên các doanh nghiệp KH&CN là các vườn ươm doanh nghiệp KH&CN (Vườn ươm). Vườn ươm công nghệ phần mềm của Trung tâm công nghệ phần mềm thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh là Vườn ươm doanh nghiệp KH&CN đầu tiên xuất hiện ởViệt Nam vào năm 2002. Tiếp sau đó là Vườn ươm CRC (2004) thuộc Trung tâm Nghiên cứu Tư vấn và Quản lý thuộc Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Tuy nhiên, cho đến nay, vì nhiều lý do chủ quan và khách quan, cả hai Vườn ươm này đều không còn tồn tại. Ở nước ta, hiện chỉ có 11 Vườn ươm đang hoạt động, được hình thành từ năm 2007 trở lại đây. Cũng như các doanh nghiệp KH&CN, cơ bản các Vườn ươm tập trung tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Các Vườn ươm hình thành tại Việt Nam đều nhận được tài trợ từ một trong những nguồn của Chính phủ hay tổ chức quốc tế. Ví dụ như: Bộ KH&CN, Sở KH&CN thành phố Hồ Chí Minh, Ngân hàng thế giới, Microsoft, Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID), Qualcomm và Hewlett-Packard, InWent (Cộng hòa Liên bang Đức),… Các cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước hỗ trợ cả kinh phí cũng như kinhnghiệm xây dựng và vận hành các Vườn ươm.

Các Vườn ươm là nơi có điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cung cấp dịch vụ để các doanh nghiệp KH&CN được hình thành và phát triển. Các Vườn ươm hình thành, là một trong những địa chỉ hỗ trợ các nhà khoa học, các chủ sở hữu sáng chế làm quen với công việc kinh doanh để phát triển sản phẩm của chính mình, góp phần giải quyết những bất cập, yếu kém của các doanh nghiệp KH&CN khởi sự. Một số Vườn ươm cũng đã thành công trong việc hoàn thiện, thương mại hóa công nghệ góp phần nâng cao thương hiệu công nghệ Việt Nam. Nhiều công nghệ tại các Vườn ươm đã được thương mại hóa trên quy mô nhỏ và bước đầu tiếp cận thị trường như: Hệ thống tìm kiếm trực tuyến IZOMI, phần mềm EDOVE 2.0 quản lý và điều hành taxi, trường học trực tuyến, súp cao đạm (Vườn ươm CNC Hòa Lạc, Hà Nội); Nola – nước ép trái cây các loại, rau mầm của doanh nghiệp Phương Thành, Biome – cơ khí nông nghiệp, phân bón vi sinh của doanh nghiệp Nông Lâm Tiến (Vườn ươm Nông Lâm thuộc Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh)…

3. Một số rào cản đối với hình thành và phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ tại Việt Nam

Theo một số kết quả nghiên cứu, tại Hà Lan cứ 100 doanh nghiệp thì có từ 5 – 8 doanh nghiệp KH&CN (tương đương từ 5% – 8%) [31]. Trường đại học Stanford của Mỹ hiện có 1.000 doanh nghiệp KH&CN (spin-offs). Trung bình mỗi doanh nghiệp KH&CN của trường có 20 nhân viên.Tổng doanh thu của các doanh nghiệp KH&CN là 100 tỷ USD, xấp xỉ một nửa số doanh thu của Thung lũng Silicon của Mỹ [36]. Theo lý thuyết, mỗi bằng độc quyền sáng chế/ giải pháp hữu ích có thể chuyển giao quyền sử dụng cho nhiều đối tượng khác nhau để có thể hình thành các doanh nghiệp KH&CN. Trong khi đó, hiện nay tại Việt Nam có khoảng 421 trường đại học/ cao đẳng [19]. Cả nước có 375.000 doanh nghiệp đang hoạt động [20]. Tổng số bằng độc quyền sáng chế/ giải pháp hữu ích đã được cấp tại Việt Nam từ năm 1981 đến 2013 là 23.388 [16], nhưng chúng ta chỉ có trên 500 doanh nghiệp KH&CN. Như vậy, trong thời gian qua, mặc dù Nhà nước đã ban hành các văn bản, chính sách tạo điều kiện cho các doanh ghiệp KH&CN phát triển, như: các ưu đãi liên quan đến thuế, phí, lệ phí, tín dụng, sử dụng các dịch vụ KH&CN ( Xem thêm: Nguyễn Vân Anh (2013), “Một số cơ chế, chính sách hiện nay đối với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ”, tạp chí Thông tin Khoa học Chính trị – Hành chính, Trung tâm Thông tin Khoa học, Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, số 1 năm 2013.) nhưng đến nay, số lượng doanh nghiệp KH&CN, vườn ươm doanh nghiệp KH&CN của chúng ta còn quá ít so với tiềm năng phát triển. Chất lượng, dịch vụ tại các Vườn ươm hiện có còn hạn chế nên chưa thúc đẩy tạo điều kiện cho các doanh nghiệp KH&CN hình thành và phát triển. Thực trạng này là do một số rào cản chủ yếu sau:

Một là, pháp luật liên quan đến doanh nghiệp KH&CN tại Việt Nam chưa đồng bộ với các Luật trong một số lĩnh vực có liên quan (ví dụ như Luật Đất đai), dẫn tới việc doanh nghiệp KH&CN chưa được hưởng ưu đãi theo quy định. Cụ thể, nhiều doanh nghiệp KH&CN chưa được hưởng những ưu đãi liên quan đến quyền sử dụng đất, được thuê đất, cơ sở hạ tầng với mức giá thấp nhất theo khung giá của Nhà nước tại địa phương nơi doanh nghiệp KH&CN thuê, đặc biệt đối với các doanh nghiệp KH&CN nằm ngoài các khu CNC. Bên cạnh đó, chính sách thuế của Nhà nước đối với một số ngành, lĩnh vực hiện còn một số điểm chưa hợp lý đối với việc khuyến khích phát triển doanh nghiệp KH&CN. Ví dụ, trong việc quy định áp dụng mức thuế nhập nguyên liệu cao hơn mức thuế sản phẩm nhập khẩu của một số mặt hàng mà đại đa số các doanh nghiệp tại Việt Nam chưa sản xuất được, khiến cho sản phẩm mà doanh nghiệp KH&CN đầu tư nghiên cứu và thực hiện sản xuất trong nước (chịu mức thuế cao do nhập nguyên liệu)phải cạnh tranh không bình đẳng với sản phẩm nhập khẩu (được áp dụng mức thuế suất rất thấp, thậm chí là 0%).

Hai là, thiếu các văn bản hướng dẫn triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách trong ngành, khiến các nội dung ưu đãi cũng chưa thể triển khai trong thực tiễn. Ví dụ, quy định liên quan đến kinh phí, hồ sơ để xác nhận đánh giá các kết quả KH&CN do doanh nghiệp tự đầu tư cho hoạt động R&D;việc xây dựng, áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn của các vật liệu mới, công nghệ mới,.
..
Ba là, thị trường vốn ở nước ta chưa phát triển, đặc biệt là việc hình thành và thu hút vốn đầu tư mạo hiểm. Thị trường chứng khoán mới chỉ xuất hiện giao dịch cổ phiếu của doanh nghiệp mà chưa có cổ phiếu công nghệ như các quốc gia phát triển, nên không huy động được vốn để đầu tư cho ươm tạo công nghệ và ươm tạo doanh nghiệp KH&CN.

Bốn là, Chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN [8] được ban hành cách đây đã hai năm, nhưng đến nay, Chương trình mới bắt đầu khởi động, vì phải chờ văn bản hướng dẫn. Bên cạnh đó, nội dung Chương trìnhcó một số điểm không phù hợp với nhu cầu và thực tiễn của hầu hết các địa phương, đặc biệt là các quy định liên quan đến hỗ trợ ươm tạo doanhnghiệp KH&CN.

Năm là, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng tự đổi mới hạn chế trong khi Nhà nước chưa có cơ chế, chính sách hiệu quả, tạo sự gắn kết giữa viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp tiếp nhận các kết quả KH&CN mới để hình thành các doanh nghiệp KH&CN. Qua đó, cũng giúp các nhà khoa học có kinh phí đầu tư cho hoạt động R&D.

Sáu là, việc thực thi Luật Sở hữu trí tuệ tại nhiều địa phương chưa nghiêm túc, tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ vẫn diễn ra tại nhiều nơi. Điều này cũng làm hạn chế việc thu hút đầu tư cho R&D tại Việt Nam. Hơn nữa, Luật KH&CN đưa ra quy định mới về doanh nghiệp KH&CN chưa phù hợp như đã phân tích, trong khi chưa ban hành văn bản hướng dẫn thi hành, vô tình hình thành nên một rào cản mới đối với việc hình thành và phát triển
doanh nghiệp KH&CN trong thời điểm hiện nay.

Bảy là, hiện nay Bộ KH&CN có quá nhiều cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về doanh nghiệp KH&CN, nhưng lại chưa có các biện pháp quyết liệt nhằm phát triển hệ thống doanh nghiệp KH&CN. Theo Nghị định 115, một trong những hướng phát triển cần thực hiện là chuyển đổi các tổ chức KH&CN công lập sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm,hoặc chuyển sang thành lập các doanh nghiệp KH&CN, song việc thực hiện chuyển đổi này diễn ra rất chậm và không được kiểm soát. Mặt khác, các Vườn ươm doanh nghiệp KH&CN đang trong tình trạng thiếu nguồn chuyên gia tư vấn chuyên nghiệp, nên chưa hỗ trợ kịp thời cho các “hạt giống” nảy mầm và phát triển.

4. Một số giải pháp phát triển

Để khắc phục các rào cản nhằm phát triển doanh nghiệp KH&CN ở Việt Nam, một số gợi ý chính sách được đề xuất, khuyến nghị như sau:

Thứ nhất, cần rà soát hệ thống luật pháp để hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo sự đồng bộ, đảm bảo tính thực thi, nhằm khuyến khích các doanh nghiệp KH&CN hình thành và phát triển. Sớm ban hành văn bản liên quan đến các quy định về kinh phí, hồ sơ để xác nhận các kết quả KH&CN do doanh nghiệp tự đầu tư cho hoạt động R&D. Đây là một trong những điều kiện cần thiết để công nhận doanh nghiệp KH&CN.

Thứ hai, rà soát tổ chức lại hệ thống đơn vị quản lý nhà nước về doanh nghiệp KH&CN tại Bộ KH&CN, phân định chức năng nhiệm vụ cho rõ ràng và phù hợp. Đồng thời, thiết lập tổ chức đầu mối ở trung ương và địa phương với các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, đảm bảo đủ điều kiện và năng lực giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp KH&CN. Tổ chức đầu mối cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện chuyển đổi các tổ chức KH&CN công lập sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm,hoặc chuyển sang thành lập các doanh nghiệp KH&CN theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. Ngoài ra, tổ chức đầu mối này còn giữ vai trò tích cực trong việc tạo ra các kết nối giữa doanh nghiệp, viện nghiên cứu/ trường đại học để hỗ trợ cho quá trình đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp. Mặt khác, cần thiết phải có những nhìn nhận, đánh giá chính xác, khách quan về số lượng doanh nghiệp KH&CN hiện có để có giải pháp phát triển doanh nghiệp KH&CN đúng và phù hợp.

Thứ ba, sớm hình thành Quỹ đầu tư mạo hiểm theo Luật CNC, khuyến khích, thu hút các Quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài hoạt động tại Việt Nam nhằm hỗ trợ kịp thời cho quá trình đổi mới. Triển khai nghiên cứu thí điểm về loại hình cổ phiếu công nghệ, sớm đưa loại hình cổ phiếu này trở thành hàng hóa giao dịch trên thị trường, giúp hình thành nguồn vốn mới, tạo động lực cho sự phát triển.

Thứ tư, nghiên cứu, xây dựng mô hình ươm tạo doanh nghiệp KH&CN phù hợp với điều kiện của địa phương. Một trong những mô hình cần được xem xét là thiết lập vườn ươm doanh nghiệp KH&CN trong từng vùng để hỗ trợ cho doanh nghiệp đầu tư phát triển công nghệ mới trong vùng. Cải tiến những quy định tại Quyết định số 592/QĐ-TTg ngày 22/5/2012 [8] cho phù hợp với nhu cầu và tình hình phát triển các Vườn ươm doanh nghiệp KH&CN.

Thứ năm, tăng cường thực hiện việc tuyên truyền các cơ chế, chính sách về doanh nghiệp KH&CN, sở hữu trí tuệ bằng nhiều hình thức và biện pháp, như thông qua các hội nghị tập huấn của các cơ quan quản lý nhà nước về KH&CN, thông qua sách báo, các phương tiện truyền thông, kiểm tra giám sát chặt chẽ và xử phạt nghiêm minh các trường hợp vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, từ đó tạo niềm tin cho các tổ chức, cá nhân thực hiện đầu tư vào hoạt
động KH&CN.

Thứ sáu, sớm sửa đổi và ban hành văn bản quy phạm pháp luật về doanh nghiệp KH&CN, theo hướng đơn giản thủ tục, đảm bảo tính khả thi và kế thừa được các bài học kinh nghiệm từ các quốc gia tiên tiến trên thế giới về doanh nghiệp KH&CN.

Thứ bảy, nghiên cứu xây dựng chuyên ngành kinh tế và quản lý về H&CN trong các trường đại học, đặc biệt là tại các trường đại học kỹ thuật, công nghệ nhằm hình thành và phát triển đội ngũ chuyên gia chuyên ngành phù hợp liên quan đến ươm tạo công nghệ, đánh giá, định giá công nghệ, xúc tiến chuyển giao công nghệ, tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ,… Đảm bảo trang bị cho đội ngũ chuyên gia này các kiến thức và kỹ năng cần thiết về kỹ thuật – công nghệ, pháp luật (đặc biệt về sở hữu trí tuệ)và kinh tế để thực hiện hoạch định các chính sách KH&CN, tham gia điều hành, quản lý, tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ tại các tổ chức KH&CN, doanh nghiệp KH&CN… phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam hiện nay./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt:


1. Luật KH&CN số 29/2013/QH13 ngày 18/6/2013.
2. Luật Công nghệ cao số 21/2008/QH12 ngày 13/11/2008
3. Luật Công nghệ thông tin số 67/2006/QH11 ngày 29/6/2006.
4. Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29/11/2005.
5. Kết luận số 14/KL-TW ngày 26/7/2002 Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa IX).
6. Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 05/9/2005 quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của tổ chức KH&CN công lập.
7. Nghị định số 80/2007/NĐ-CP ngày 19/5/2007 về doanh nghiệp KH&CN.
8. Nghị định số 96/2010/NĐ-CP ngày 20/9/2010 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 05/9/2005 quy định cơ chế tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN công lập và Nghị định số 80/2007/NĐ-CP ngày
19/5/2007 về doanh nghiệp KH&CN;
9. Quyết định số 592/QĐ-TTg ngày 22/5/2012 về việc phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát
triển doanh nghiệp KH&CN và tổ chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự
chịu trách nhiệm.
10. Quyết định số 1244/QĐ-TTg ngày 25/7/2011 về việc phê duyệt phương hướng, mục
tiêu, nhiệm vụ KH&CN chủ yếu giai đoạn 2011 – 2015;
11. Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 phê duyệt Chiến lược phát triển KH&CN
giai đoạn 2011 – 2020;
12. Thông tư Liên tịch số 17/2012/TTLT-BKHCN-BTC-BNV ngày 10/9/2012 của liên Bộ
KH&CN, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ về việc sửa đổi, bổ sung Thông tư Liên tịch số
06/2008/TTLT-BKHCN-BTC-BNV ngày 18/6/2008;
13. Thông tư Liên tịch số 06/2008/TTLT-BKHCN-BTC-BNV ngày 18/6/2008 của liên Bộ
KH&CN, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ về việc hướng dẫn thực hiện Nghị định số 80/NĐ-CP.
14. Thông tư số 32/2011/TT-BKHCN ngày 15/11/2011 của Bộ KH&CN quy định về việc
xác định tiêu chí dự án ứng dụng công nghệ cao, dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công
nghệ cao và thẩm định hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận hoạt động ứng dụng công nghệ cao, doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghệ cao, doanh nghiệp công nghệ cao;
15. Bộ KH&CN. (2013) Tài liệu Hội nghị Phát triển doanh nghiệp KH&CN. Hà Nội, tháng
11/2013;
16. Cục sở hữu trí tuệ. (2013) Báo cáo thường niên hoạt động sở hữu trí tuệ 2013. Hà Nội:
NXB Khoa học kỹ thuật;
17. Bạch Tân Sinh. (2005) Doanh nghiệp KH&CN ở Việt Nam: cơ sở lý luận và đánh giá ban đầu. Nội san Nghiên cứu chính sách KH&CN, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN, số 10, tháng 6/2005;
18. Hoàng Văn Tuyên. (2005) Nghiên cứu các hình thức đầu tư tài chính cho doanh nghiệp
KH&CN. Báo cáo tổng hợp đề tài cơ sở, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN;
19. http://www.moet.gov.vn/?page=11.10&view=5251;
20. http://baodientu.chinhphu.vn/Home/Ca-nuoc-co-375000-doanh-nghiep-thuc-te-dang-
hoat-dong/20126/142110.vgp;
21. Nguyễn Quân. (2006) Doanh nghiệp Khoa học Công nghệ – một lực lượng sản xuất
mới. Tạp chí Hoạt động khoa học, số tháng 10/2006;
22. Bạch Tân Sinh. (2006) Nghiên cứu sự hình thành và phát triển doanh nghiệp KH&CN
và sự chuyển đổi một số tổ chức nghiên cứu và phát triển ở Việt Nam sang hoạt động
theo cơ chế doanh nghiệp. Kỷ yếu kết quả nghiên cứu chiến lược và chính sách
KH&CN năm 2004 – 2005, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN. Hà Nội: Nxb Lao
động;
23. Vũ Cao Đàm. (2006) Lại bàn về doanh nghiệp KH&CN. Tạp chí Hoạt động khoa học,
số tháng 10/2006;
24. Nguyễn Thị Minh Nga. (2006) Nghiên cứu khía cạnh pháp lý của doanh nghiệp KH&CN. Kỷ yếu kết quả nghiên cứu chiến lược và chính sách KH&CN năm 2005 – 2006, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN;
25. Nguyễn Thị Minh Nga, Hoàng Văn Tuyên. (2006) Chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN – kinh nghiệm các nước châu Âu. Nội san Nghiên cứu chính sách KH&CN, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN, số 12, tháng 12/2006;
26. Nguyễn Văn Phú. (2006) Một vài kinh nghiệm rút ra từ nghiên cứu thực tiễn doanh nghiệp KH&CN – mô hình tiêu biểu của KH&CN trực tiếp sản xuất. Nội san Nghiên cứu chính sách KH&CN, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN, số 13, tháng 12/2006;
27. Phạm Văn Diễn. (2012) Trao đổi về doanh nghiệp KH&CN. Tài liệu tập huấn KH&CN tại Bình Dương ngày 23/10/2012, Trường Quản lý KH&CN, Bộ KH&CN;
28. Phạm Đức Nghiệm. (2014) Ba nhóm giải pháp đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp
KH&CN.http://www.nhandan.com.vn/khoahoc/khoa-hoc/item/23299202-ba-nhom-giai-phap-
day-manh-phat-trien-doanh-nghiep-khoa-hoc-va-cong-nghe.html;
29. Phạm Hồng Quất. (2014) Doanh nghiệp KH&CN: Cơ hội và thách thức.
http://baodatviet.vn/khoa-hoc/doanh-nghiep-khampcn-co-hoi-va-thach-thuc-3039541/;
30. Trần Văn Đích. (2014) Khái niệm, con đường hình thành và phát triển doanh nghiệp
KH&CN. Tài liệu hội nghị triển khai “Chương trình KH&CN hỗ trợ doanh nghiệp nâng
cao năng suất và chất lượng sản phẩm và hàng hóa tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giai đoạn
2014 – 2020”, Bà Rịa – Vũng Tàu, ngày 10/9/2014;

Tiếng Anh:
31. Yvonne Bernardt, Richard Kerste, Joris Meijaard. (2002) Spin-off, Start -ups in the
Netherlands. Strategic Study B200106, ISBN: 90-371-0854-7, Netherlands Ministry of
Economic Affairs, Zoetermeer, May,2002;
32. Masayuki Kondo. (2004) University spin-offs in Japan. Tech monitor, Mar-Apr 2004;
33. Thomas Astebro, Navid Bazzazian, Serguey Braguinsky. (2011) Startup by Recent
Univercity Graduates versus their Faculty-Implications for University Entrepreneurship
Policy. available at: http://www.andrew.cmu/user/sbrag/ABB.pdf;
34. Barbara Bigliardi, Francesco Galati, Chiara Verbano. (2013) Evaluating Performance
of University Spin-off Companies: lessons from Italy. Journal of Technology Management & Innovation. 2013, Volum 8, Issue 2, ISSN:0718 – 2724 (http://www.jotmi.org), Universidad Alberto Hurtado, Facultad de Economia y Negocios;
35. Tindara Abbate, Fabrizio Cesaroni. (2014) Market Orientation and academic spin-off
firms. Working Paper, ISSN 1989-8843, January, 2014, Universidad Carlos III de Madrid;
36. http://www.stanford.edu/home/stanford/facts/.

Cô Nguyễn Thị Trâm lúa cẩm, ảnh Hồ Quang Cua

Chuyện cô Trâm lúa lai PGS.TS anh hùng lao động Nguyễn Thị Trâm là nhà giáo nhân dân, nhà nông học chọn tạo giống lúa lai nổi tiếng Việt Nam, với thành tựu nổi bật trong lĩnh vực đào tạo giảng dạy và nghiên cứu khoa học chọn tạo giống lúa lai thơm cốm thương hiệu Việt. Cô Trâm nguyên là Phó Viện trường Viện Sinh học Nông nghiệp Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội (nay là Học Viện Nông nghiệp Việt Nam) nhiều năm giảng dạy và nghiên cứu di truyền chọn giống và khoa học cây trồng. Cô Trâm đã nghỉ hưu từ năm 2004 nhưng đến nay (2020) nhưng cô vẫn tiếp tục những cống hiến không mệt mỏi cho hạt ngọc Việt cây lúa Việt Nam. Sinh ra và lớn lên ở thị xã Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, người con của mảnh đất này đã dùng sự kiên trì đáng khâm phục của mình để góp phần mang lại những thành công lớn trong giảng dạy đào tạo nguồn lực di truyền giống và nghiên cứu.cây lúa Việt Nam.

Giống lúa lai hai dòng thơm TH6-6 được trồng tại tỉnh Hòa Bình (ảnh), và vùng đất lúa-tôm tỉnh Bac Liêu mới đây, cho năng suất 7-9 tấn lúa tươi/ha tương đương Bayte1, cơm thơm ngon, thời gian sinh trưởng ngắn hơn 7-10 ngày.so với giống Bayte1. Giống lúa lai hai dòng thơm TH6-6 đã được Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn công nhận giống chính thức năm 2019., và năm nay Giống lúa lai hai dòng thơm cốm này đang được khảo nghiệm sản xuất mở rộng ở vùng nước lợ. Bí quyết thành công của cô Nguyễn Thị Trâm là đầu tư thời gian và không bao giờ bỏ cuộc.

CÔ TRÂM NGƯỜI THẦY LÚA LAI

PGS.TS Nguyễn Thị Trâm là giáo viên hướng dẫn 8 tiến sĩ khoa học nông nghiệp và 34 thạc sĩ khoa học cây trồng chủ yếu về khoa học công nghệ kỹ thuật lúa lai. Cô trở thành người thầy di truyền giống chuyên sâu cây lúa và lúa lai của nhiều thế hệ. Danh mục 8 luận văn tiến sĩ 34 luận văn thạc sĩ và 62 bài báo công trình khoa học dưới đây là sự đúc kết để soi thấu thành tựu, bài học, đội ngũ kế thừa và định hướng mở. Cô Trâm đã xuất bản 6 sách chuyên môn: 1). Chọn giống lúa lai. Nguyễn Thị Trâm. Nhà Xuất bản Nông nghiệp, 1995; Tái bản, 2002. 2). Chọn giống cây trồng (Giáo trình Cao học Nông nghiệp). Đồng tác giả. Nhà Xuất bản Nông nghiệp, 1997.3). Giống cây trồng (Giáo trình đại học). Đồng tác giả. Nhà Xuất bản Nông nghiêp, 1997. 4). Chọn giống cây trồng. Đồng tác giả. Nhà Xuất bản Giáo dục, 2000; 5). Cây lúa Việt Nam thế kỷ 20. Tập II.Đồng tác giả. Nhà Xuất bản Nông nghiệp, 2002; Tái bản, 2010; 6). Lúa lai ở Việt Nam. Đồng tác giả. Nhà Xuất bản Nông nghiệp, 2002; Sự nghiên cứu tạo chọn và phát triển lúa lai hai dòng đã đạt được 6 giống thương hiệu Việt được Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn công nhận . Giống lúa TH3-3 (với qui trình nhân hạt giống bố mẹ và quy trình sản xuất hạt lúa lai được công nhận năm 2005), được trình diễn trên 26 tỉnh và được nông dân chấp nhận, kế tiếp là các giống lúa lai TH3-4, TH3-5, TH5-1, TH7-2 vang bóng một thời của mười năm trước và mới đây là TH6-6 (dòng mẹ và bố đều mang gen thơm), đã được công nhận giống chính thức năm 2019. Cô Trâm cũng là tác giả của hai giống lúa thuần Hương Cốm và Hương Cốm 4 được lần lượt công nhận giống năm 2008 và năm 2016. Cô Trâm thành tựu chọn giống lúa lai và lúa thuần đều xuất sắc nhưng nổi bật nhất là chọn giống lúa lai. Các kết quả chọn tạo, sản xuất hạt lai, thương mại hóa sản phẩm hạt lai F1, xây dựng hệ thống hoàn chỉnh từ chọn tạo, làm thuần, sản xuất hạt lai đến cung ứng hạt giống lúa lai cho người sản xuất, đã góp phần tích cực quảng bá thương hiệu lúa lai Việt Nam.. Những giống lúa lai mới này có thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất cao, chất lượng tốt, thích ứng rộng, tạo nên bước đột phá mới cho công nghệ sản xuất lúa lai ở Việt Nam. Sự kết nối sản xuất giống lúa lai từ Viện Trường tới các Công ty Giống Cây trồng Nông nghiệp địa phương đã mở ra những vùng sản xuất hạt giống lúa lai rộng lớn, từ miền núi phía Bắc đến đồng bằng Sông Hồng, vùng ven biển miền Trung ở Bắc và Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đồng Bằng Sông Cửu Long và Đông Nam Bộ, tạo ra công việc làm và thu nhập tốt hơn cho hàng vạn lao động nông nghiệp. PGS.TS Nguyễn Thị Trâm đã nói những lời tâm huyết: “Nghề nông ở nước ta hiện nay vẫn đang chiếm tỷ lệ lớn và luôn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, rủi ro vì biến đổi khí hậu diễn ra nhanh và vô cùng khốc liệt. Để xây dựng và phát triển một nền nông nghiệp bền vững ổn định cần có đội ngũ các nhà khoa học nông nghiêp yêu nghề, dám hy sinh suốt đời cho nghiên cứu khoa học …

CÔ TRÂM TRANG VÀNG NGHỊ LỰC

Cô Trâm là Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới; Nhà giáo Nhân dân; Huân chương Lao động hạng Ba; Huy chương Kháng chiến hạng Nhì; Giải thưởng Nhà nước về Khoa học Công nghệ; Giải thưởng Kovalepscaia; Huy chương Vì sự nghiệp Giáo dục; Huy chương Vì sự nghiệp Nông nghiệp; Huy chương Vì thế hệ Trẻ.

Bài phát biểu của cô Nguyễn Thị Trâm tại Đại hội Thi đua yêu nước lần thứ VIII đối với chúng tôi thật xúc động và ám ảnh:

Bài phát biểu tại Đại hội thi đua yêu nước lấn thứ 8

PGS.TS. Nguyễn Thị Trâm, ĐHNN Hà Nội

“Kính thưa: Quí vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước,
Kính thưa Đoàn chủ tịch Đại hội và Quí vị Đại biểu Đại hội

Được sự đồng ý của Ban tổ chức tôi xin phép trình bầy trước Đại hội đôi điều về những chặng đường làm giảng dậy và nghiên cứu khoa học của tôi.

Gia đình tôi quê ở Hà Nam, vùng đồng chiêm nghèo nên cha mẹ “tha phương cầu thực” đến Thị xã Thái Nguyên kiếm sống. Khi 3 tuổi, cha tôi đi kháng chiến, tôi theo mẹ chạy giặc vào vùng núi Võ Nhai, hòa bình lập lại mới được đến trường, vào Đại học ở tuổi 20, được xếp học ngành Cây lương thực, khoa Trồng trọt, tôi nghĩ đây là ngành phù hợp với mình nên cố gắng học hành với mong ước góp phần làm cho người dân có bữa cơm no. Khi đó, dân ta còn đói lắm, cơm độn ngô khoai sắn mà vẫn đứt bữa thường xuyên, trong khi tỷ lệ dân làm nghề nông chiếm tới 90%. Tình yêu nghề nông của tôi bắt đầu từ những bài thực tập chọn giống, lai ngô, lai lúa, ghép cây… Ra trường, được làm việc tại Viện Cây Lương thực và Cây Thực phẩm nên tôi có cơ hội thực hiện khát vọng của mình. Tập sự xong, làm nghiên cứu tại bộ môn “Chọn tạo giống lúa” dưới sự hướng dẫn của thầy Lương Định Của, nhà Di truyền – chọn giống nổi tiếng từ Nhật trở về, Thầy đã truyền đạt cho tôi kiến thức khoa học cơ bản, phương pháp thực hành xác thực giúp biến kết quả nghiên cứu thành sản phẩm phục vụ xã hội. Tấm gương làm nghiên cứu khoa học mẫu mực đầy sáng tạo của Thầy và các nhà khoa học Nông nghiệp thế hệ trước luôn thôi thúc tôi làm việc tận tụy vì nông dân.

Năm 1980, đi học nghiên cứu sinh tại Liên xô, tôi chọn đề tài nghiên cứu giống lúa để có cơ hội học lý thuyết cơ bản làm cơ sở cho chuyên môn sau này. Tốt nghiệp xong, tôi trở lại Trường Đại học Nông nghiệp làm giảng viên khi tuổi đã 40, tự rèn luyện ngay từ ngày đầu lên lớp, tích lũy kiến thức thông qua tài liệu trong, ngoài nước, cập nhật thông tin từ thực tế sản xuất, tìm phương pháp truyền đạt dễ tiếp thu để sinh viên hiểu bài. Sau giờ giảng, sinh viên tiếp thu được kiến thức, phương pháp mới, lôi cuốn họ say mê học bài đọc tài liệu, viết tiểu luận, nghiên cứu khoa học…Tôi luôn tìm những nội dung hay nhất mới nhất của môn học để truyền đạt, phân tích mở rộng giúp cho người học suy nghĩ tìm tòi cái mới. Trên lớp tôi dùng hình ảnh để diễn giải lý thuyết, dùng thí nghiệm cụ thể để minh họa và thực hành. Nhờ vậy, ngay từ năm đầu vào nghề giảng dậy tôi đã lôi cuốn nhiều học sinh tham gia nghiên cứu khoa học,và đã hướng dẫn họ rất tận tụy để họ có cơ hội sáng tạo từ khi còn rất trẻ.

Cuộc sống thời niên thiếu của tôi gắn liền với núi rừng, cây cối đã nuôi dưỡng trong tôi tình yêu thiên nhiên, ham muốn cải tạo sinh vật phục vụ con nguoi. Ngoài giờ giảng trên lớp, tôi đạp xe xuống nông thôn, giúp đội giống ở các HTX chọn lọc, bình tuyển giống, rút dòng, nhân hạt giống tốt cung cấp cho nông dân. Dẫn sinh viên xuống nông thôn làm đề tài, nêu câu hỏi, yêu cầu các em phân tích đánh giá, tìm giải pháp nâng cao năng suất.

Những năm 1990, tiến bộ kỹ thuật về lúa lai tràn vào nước ta, nhu cầu hạt giống lúa lai gia tăng ở mọi miền đất nước, hạt giống lai từ nước ngoài tràn vào thị trường ồ ạt tạo sức ép cho ngành giống cây trồng của Việt Nam. Năm 1993, được Bộ Nông nghiệp cho tham dự lớp huấn luyện kỹ thuật lúa lai tại Trung Quốc, quan sát thực tế tại Trung tâm, trao đổi trực tiếp với các nhà chọn giống giầu kinh nghiệm đã gợi mở trong tôi những ý tưởng mới vể chọn tạo giống lúa. Sau đợt học, tôi thu được nhiều kiến thức, tài liệu, phương pháp để bước vào hướng nghiên cứu mới: Tìm kiếm, xác định, chọn tạo cải tiến các vật liệu di truyền để tạo dòng bố mẹ và tạo giống lúa lai. Lúc này niềm đam mê chọn giống cuốn hút mọi thời gian và suy nghĩ của tôi. Tôi tự hỏi: Không có lẽ người Việt Nam lại không thể tạo được giống lúa lai cho chính mình ? Mặc dù chưa biết lấy phương tiện và kinh phí nghiên cứu từ đâu nhưng tôi nghĩ phải bắt đầu ngay. Tôi gieo trồng vật liệu, tổ chức sinh viên lai tạo, đánh giá, chọn lọc… Một số việc tỉ mỉ mất thời gian như tuốt dòng, phơi cá thể, sắp xếp, đo đếm bông hạt…tôi phải nhờ chính mẹ mình làm. Mẹ tôi rất tậm tâm làm thí nghiệm giúp con, bà cần cù, cẩn thận, minh mẫn và tận tụy. Có lẽ giờ đây ở đâu đó Bà vẫn dõi theo công việc của tôi.

Biết được khó khăn, thiếu thốn và quyết tâm của tôi, ông Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Nguyễn Công Tạn đã mời hiệu trưởng trường tôi lên gặp để cấp cho 9.000 đô la (quĩ riêng của Bộ trưởng vì ông muốn ủng hộ ý tưởng mới của tôi nhưng tôi lại không thuộc Bộ Nông nghiệp theo phân công của Nhà nước). Nhờ số tiền này chúng tôi đã mua sắm một số trang bị tối thiểu cho nghiên cứu, đã xây được 360m2 nhà lưới, xây tường rào chống chuột bảo vệ 1 mẫu lúa giống, xây 1 buồng điều hòa nhiệt độ để đánh giá các dòng vật liệu mới. Sự quan tâm của Bộ trưởng thúc đẩy tôi làm việc miệt mài hơn. Tại một cuộc họp tổng kết sản xuất của Bộ, ông tuyên bố sẽ giành phần thưởng xứng đáng cho người chọn tạo được lúa lai cho Việt Nam. Việc này đã thôi thúc sự nôn nóng của tôi và nhiều nhà chọn giống khác. Năm 1996, tôi chọn ra 2 dòng bố, mẹ trong vườn vật liệu và sản xuất được 12 kg hạt lai F1 đưa lên Bộ để tham gia trình diễn tại Hà Tây cùng với giống của các tác giả khác. Lúa trình diễn sinh trưởng phát triển rất nhanh, cây khỏe, bông to trỗ đều. Bộ tổ chức Hội nghị đầu bờ mời nhiều tỉnh đến thăm và đánh giá. Mọi người khen ngợi lúa lai Việt Nam, ông Bộ trưởng phấn khởi lắm và rút tiền mặt thưởng tôi ngay trong hội thảo trước nhiều nhà lãnh đạo, đồng nghiệp, học sinh của tôi và nông dân. Tôi thực sự mừng vui xúc động. Thật không may, chỉ sau 1 tuần, lúa của tôi bị bệnh bạc lá làm “cháy” gần hết cả mẫu ruộng, lá không còn màu xanh để quang hợp, làm gì còn năng suất ! Tôi lo lắng, xấu hổ đến bẽ bàng vì sự nóng vội của mình. Tôi ngậm ngùi ân hận và lên xin Bộ trưởng để được trả lại tiền thưởng, ông không khiển trách mà động viên rằng: “Phần thưởng này ông giành cho người tạo ra giống lúa lai đầu tiên ở Việt Nam chứ chưa phải là thưởng cho giống lúa lai tốt”. Lời nhắc nhở rất khéo của ông khiến tôi ngượng ngùng xấu hổ, không còn cách nào từ chối mà âm thầm thúc đẩy tôi tìm cách nghiên cứu cải tiến mọi đặc tính của giống nhất là tính chống chịu sâu bệnh và thận trọng hơn khi đưa giống ra sản xuất đại trà.

Tuy nhiên để tạo giống lúa vừa có năng suất cao, chất lượng tốt lại vừa chống chịu sâu bệnh, và thích ứng cho nhiều vùng, nhiều vụ thì cần thời gian dài lắm mà tôi lại đã đến tuổi nghỉ hưu, quĩ thời gian làm việc đã hết, vậy làm thế nào để thực hiện? Tôi quyết định giành thời gian còn lại của cuộc đời để thực hiện ý tưởng chọn tạo thành công giống lúa lai cho Việt Nam. Tôi xin Nhà trường ở lại làm việc tiếp với điều kiện được sử dụng gần 1 ha ruộng trồng lúa, 1 phòng thí nghiệm nhỏ để nghiên cứu, chỉ hưởng lương hưu, dùng kết quả nghiên cứu của mình để tạo ra tiền chi trả mọi kinh phí nghiên cứu, trả lương cho cộng tác viên và mọi chi phí cần thiết khác phục vụ hoạt động nghiên cứu.

Đề nghị của tôi được Trường chấp nhận, tôi ở lại làm việc vô tư hết mình như thời còn trẻ, không kể thời gian, mưa nắng, khó khăn, tôi liên hệ với đồng nghiệp ở Bộ Nông nghiệp tham gia nghiên cứu cùng với họ. Đồng thời nhận hướng dẫn đề tài làm luận văn tốt nghiệp cho sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh của Trường để tận dụng nguồn nhân lực có kiến thức khoa học, có khả năng tư duy sáng tạo phục vụ cho nghiên cứu của mình và cũng là để truyền đạt sự hiểu biết, kinh nghiệm và “nghệ thuật” chọn giống cho họ. Các vấn đề nghiên cứu của tôi đã trở thành những đề tài hay để họ làm luận án tiến sĩ, thạc sĩ, giúp họ học thêm nhiều điều có ích cho sự nghiệp về sau. Ngoài ra, tôi giành thời gian đi Khuyến nông, đi giảng các lớp huấn luyện ngắn hạn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho nông dân, hướng dẫn sản xuất hạt giống… Các hoạt động này giúp mở rộng quan hệ và hiểu biết thực tiễn cho học trò của tôi, cho cán bộ trẻ trong Phòng, hơn nữa còn thu được tiền để nuôi đội ngũ kỹ sư mới tuyển, giúp họ học thêm và làm viêc tốt hơn.

Tôi giành nhiều thời gian, công sức, trí tuệ cải tiến những nhược điểm của từng vật liệu, chọn lọc, đánh giá lặp lai nhiều lần và cuối cùng sự cố gắng không mệt mỏi đã đem lại thành công là tạo ra các dòng bất dục đực, các dòng cho phấn mới, các giống lúa lai, lúa thuần có giá trị sử dụng cao. Giống lúa lai hai dòng TH3-3 cùng với qui trình nhân hạt giống bố mẹ và qui trình sản xuất hạt lai được công nhận năm 2005, được trình diễn trên 26 tỉnh và được nông dân chấp nhận. Sau TH3-3 là TH3-4, TH3-5, TH5-1, TH7-2 và lúa thơm Hương cốm. Các giống mới có thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất cao, chất lượng tốt, thích ứng rộng nên nhu cầu về hạt giống tăng cao. Chúng tôi không còn đủ năng lực sản xuất và cung ứng kịp cho nông dân nên đã quyết định chuyển nhượng bản quyền cho Doanh nghiệp để tập trung thời gian cho nghiên cứu chọn tạo các giống mới tốt hơn. Doanh nghiệp có điều kiện tốt về tài chính, có kinh nghiệm kinh doanh, có thể mở rộng sản xuất đáp ứng yêu cầu của nông dân. Việc chuyển nhượng bản quyền đã tạo ra bước đột phá mới trong nghiên cứu khoa học. Kết quả nghiên cứu đưa được đến tận tay người sản xuất, diện tích sử dụng giống mở rộng nhanh rõ rệt, năm 2009 diện tích sản xuất hạt lai của 2 giống được chuyển nhượng chiếm trên 60% tổng diện tích sản xuất hạt lai trong nước, cung cấp trên 1000 tấn hạt giống lai/năm cho nông dân các tỉnh phía Bắc, tạo lợi thế canh tranh cho lúa lai Việt Nam. Các Công ty mở ra nhiều vùng sản xuất hạt giống lai rộng lớn, từ miền núi phía bắc đến đồng bằng, miền Trung và Tây Nguyên tạo công việc làm cho hàng vạn lao động nông nghiệp có tay nghề cao, thu nhập cao hơn. Nhờ chuyển nhượng bản quyền, Nhà trường thu hồi được kinh phí sự nghiệp khoa học, Nhà nước thu thuế bản quyền, Viện chúng tôi có tiền mua ô tô, xây thêm phòng làm việc, kho tàng và mở rộng nghiên cứu theo nhiều hướng mới. Cán bộ nghiên cứu có thêm lương, thưởng, được cấp học bổng học cao học, huấn luyện nâng cao trình độ ở trong nước và cả nước ngoài. Phòng nghiên cứu của chúng tôi trở thành đơn vị đi đầu thực hiện có hiệu quả chỉ thị 115 của chính phủ, chỉ thị về giao quyền tự chủ tự chịu trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học phục vụ sản xuất của các cơ quan nghiên cứu khoa học.

Sau 10 năm làm việc ở tuổi nghỉ hưu, một nhóm nghiên cứu bé nhỏ từ 3 người, đã lớn mạnh thành một Phòng nghiên cứu vững vàng về lý luận, có tay nghề chọn tạo và sản xuất giống lúa giỏi với 2 tiến sĩ; 6 thạc sĩ; 4 kỹ sư; 1 kỹ thuật viên. Trong thời gian đó nhóm chúng tôi vừa nghiên cứu, vừa học tập nâng cao trình độ vừa lai tạo, chọn lọc, mở rộng sản xuất các giống lúa mới, vừa phổ biến kiến thức trồng lúa, sản xuất hạt giống lúa lai cho nông dân. Đồng thời đã tham gia viết sách, viết bài giảng, công bố các công trình nghiên cứu có giá trị tham khảo tốt cho ngành chọn giống và sản xuất giống nước nhà.

Kính thưa Đại Hội,

Nghề nông ở nước ta hiện nay vẫn đang chiếm tỷ lệ lớn và luôn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, rủi ro vì biến đổi khí hậu diễn ra nhanh và vô cùng khốc liệt… Để xây dựng và phát triển một nền nông nghiệp bền vững ổn định cần có đội ngũ các nhà khoa học nông nghiêp yêu nghề, dám hy sinh suốt đời cho nghiên cứu khoa học. Thế nhưng khoa học nông nghiệp là khoa học ứng dụng, đòi hỏi phải đầu tư nhiều thời gian thâm nhập thực tế, phải kiên trì thử nghiệm trên đồng ruộng ở nhiều vùng, nhiều vụ khác nhau nên khi thành đạt thì đa số tuổi đã quá cao. Những thách thức đó thật vô cùng khắc nghiệt, Nhà nước cần quan tâm nhiều hơn giúp nhà khoa học có điều kiện thử nghiệm, hiện thực hóa các ý tưởng mới táo bạo của mình.

Phụ nữ làm khoa học nông nghiệp phải chịu quá nhiều vất vả gian nan và cả sự đố kỵ… Trước những thách thức đó cần có một tình yêu nghề nồng cháy, một mục tiêu rõ ràng để theo đuổi, một phương pháp chính xác và luôn được bổ sung, phải bình tĩnh suy xét, lựa chọn biện pháp ứng xử hợp lý để vượt qua khó khăn thách thức và chắc chắn sẽ thành công.

Kính thưa Đại hội

– Để có được những đóng góp nêu trên, tôi đã nhận được sự giúp đỡ rất nhiều. Từ trái tim mình, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đối với Đảng, Nhà nước, đối với các thầy cô giáo, những người đã tận tụy dậy dỗ, cho tôi hưởng một nền giáo dục mới để làm một người công dân tốt, một nhà giáo, nhà khoa học có ích.

– Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới các cấp lãnh đạo Bộ Nông nghiệp & PTNT, Bộ Giáo dục & ĐT, các cục vụ chuyên môn của hai Bộ, những người đã tìm mọi cách nâng đỡ các ý tưởng mới, táo bạo khuyến khích tôi trong suốt thời gian làm nghiên cứu, triển khai, mở rộng và phát triển sản xuất ở các địa phương.

– Xin cảm tạ bà con nông dân trên mọi miền đất nước, những người đã sẵn sàng dùng đất đai, lao động của mình thử nghiệm sản xuất hạt giống, gieo trồng giống mới, ứng dụng các kỹ thuật mới trên đồng ruộng, không ngại rủi ro giúp chúng tôi thành công. Xin bày tỏ lòng biết ơn đối với bạn bè đồng nghiệp các thế hệ sinh viên, học viên cao học ,NCS đã đóng góp sức lực, trí tuệ cùng nghiên cứu giải quyết các vấn đề trong thực tế sản xuất nông nghiệp của nước nhà.

– Cuối cùng Xin kính chúc Quí vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước, quí vị đại biểu sang năm mới sức khỏe dồi dào, hạnh phúc và thành công mới.

Xin trân trọng cảm ơn.

Nguyễn Thị Trâm”

CÔ TRÂM THÀNH QUẢ LAO ĐỘNG

Cô Nguyễn Thị Trâm hướng dẫn Nghiên cứu sinh: 8 luận án Tiến sĩ : 1). Trần Văn Thuỷ, 1999 “Thu thập đánh giá và sử dụng tập đoàn lúa cạn Tây Nguyên”, . 2). Phạm Đức Hùng, 2000. “Nghiên cứu chọn tạo giống lúa chịu nước sâu cho vùng đồng bằng Sông Hồng, 3). Trần Văn Quang, 2008. “Nghiên cứu phân lập và sử dụng dòng bất dục đực gen nhân mẫn cảm quang chu kỳ ngắn”, 4). Nguyễn Bá Thông, 2009 “Nghiên cứu tuyển chọn và sản xuất giống lúa lai ngắn ngày cho vùng Thanh Hoá”, 2009. 5). Trần Tấn Phương, 2011 “Nghiên cứu chọn tạo giống lúa thơm cao sản phục vụ nội tiêu và xuất khẩu”, 6). Nguyễn Văn Mười, “Nghiên cứu chọn tạo giống lúa lai hai dòng thơm, chất lượng cao”. 7). Mai Thế Tuấn, “Nghiên cứu chọn tạo giống lúa lai hai dòng kháng bệnh bạc lá”. 8). Bùi Viết Thư, “Nghiên cứu chọn tạo dòng A, B mới để phát triển lúa lai ba dòng ở Việt Nam”.

Cô Nguyễn Thị Trâm hướng dẫn 34 thạc sĩ khoa học cây trồng: 1) Lê Thị Hảo 1995, “Tìm hiểu khả năng sử dụng một số cặp bố mẹ lúa lai nhập nội hệ “ba dòng” trong điều kiện miền Bắc Việt Nam”, 2. Nguyễn Thị Mai, 1995, “ Khảo sát tập đoàn giống nhập nội mới và tìm hiểu khả năng phục hồi phấn của chúng phục vụ cho nghiên cứu phát triển lúa lai ở Việt Nam”, .; 3). Nguyễn Thị Gấm. 1996, “Phát hiện và đánh giá một số dòng bất dục đực cảm ứng nhiệt độ phục vụ cho công tác chọn tạo giống lúa lai hai dòng ở Việt Nam”, 4). Phạm Đình Phục, 1997 “Tuyển chọn và đánh giá các dòng phục hồi phấn cho một số dòng bất dục đực di truyền tế bào chất nhập nội”, .5). Lê Hữu Khang, 1999. “Nghiên cứu ứng dụng các dòng TGMS mới chọn tạo góp phần phát triển lúa lai hai dòng”, 6). Lại Văn Nhự, 1999 “Ảnh hưởng của liều lượng phân bón đến sự tích lũy prôtêin trong đọt sinh trưởng của một số giống lúa có hàm lượng prôtêin cao”, 7). Phạm Văn Ngọc, 2000Nghiên cứu sử dụng dòng Peai’64S ở vùng Gia Lâm, Hà Nội”, .8). Nguyễn Bá Thông,2001 “Nghiên cứu xác định khả năng nhân dòng bất dục đực chức năng di truyền nhân cảm ứng nhiệt độ (TGMS) Peiai’64S và sản xuát hạt lai F1 Bồi tạp 77 và Bồi tạp sơn thanh tại Thanh Hoá”, 9). Nguyễn Như Hải, 2002 “Nghiên cứu sử dụng vật liệu khởi đầu lúa đột biến để chọn tạo giống lúa ngắn ngày, năng suất cao”. 10). Vũ Bình Hải, 2002.“Tìm hiểu ảnh hưởng của các dòng bố mẹ có chiều dài hạt gạo khác nhau đến chất lượng thương trường của gạo lúa lai”, 11. Trần Văn Quang, 2003. “Nghiên cứu phân lập các dòng lúa bất dục đực di truyền nhân cảm ứng môi trường (EGMS) phù hợp với điều kiện Việt Nam”, 12. Nguyễn Văn Quân, 2004. “Nghiên cứu đặc điểm nông sinh học và khả năng tổ hợp của các dòng EGMS và các dòng R mới chọn tạo tại Việt Nam”, 13). Đặng Duy Huynh, 2004. “Tuyển chọn một số tổ hợp lúa lai “hai dòng”mới của Việt Nam cho vùng Thanh Hóa”, 14). Nguyễn Thị Thu Hương, 2006. “Nghiên cứu tuyển chọn các giống lúa lai, lúa thuần chất lượng cao cho tỉnh Thái Bình”, 15). Phan Thị Kim Hoa, 2006. “Tuyển chọn một số tổ hợp lúa lai “hai dòng” mới của Việt Nam cho vùng Nghệ An”, 16). Trần Thanh Nhạn, 2007.“Nghiên cứu giá trị sử dụng của các dòng TGMS mới chọn tạo và nhập nội”, 17). Đặng Văn Hùng, 2007.“Đánh giá ngưỡng chuyển đổi tính dục của các dòng TGMS mới”, 18). Phạm Thị Ngọc Yến, 2008.“Tuyển chọn và thiết lập quy trình nhân dòng và sản xuất một số tổ hợp lai chất lượng cao”, 19). Nguyễn Văn Mười, 2008. “Nghiên cứu khả năng duy trì năng suất và chất lượng của giống lúa thơm Hương cốm”, 20). Nguyễn Trọng Tú, 2009. “Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng phát triển của một số dòng bố mẹ lúa lai góp phần phát triển sản xuất hạt lai F1 tại các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên”, 21). Vũ Thị Bích Ngọc, 2009. “Nghiên cứu tuyển chọn giống lúa lai hai dòng thơm, chất lượng cao”, 22). Trần Thị Minh Ngọc, 2009 “Nghiên cứu tuyển chọn tổ hợp lai ba dòng phù hợp với điều kiện Việt Nam, mới nhập từ Tứ Xuyên, Trung Quốc”, .23). Đặng Thị Hường, 2010.“Đánh giá khả năng kết hợp của các dòng cho phấn trong chọn giống lúa lai hai dòng”, 24). Nguyễn Văn Phan, 2010.“Xác định sự trùng khớp trỗ bông nở hoa của một số dòng bố mẹ mới và nghiên cứu khả năng thích ứng của các tổ hợp tại các địa phương thí nghiệm”, 25). Lê Thị Khải Hoàn, 2010 “Tìm hiểu thời gian và mức độ “trượt ” ngưỡng chuyển đổi tính dục của một số dòng TGMS mới chọn tạo tại Việt Nam”, 26). Lê Văn Thuyết, 2010. “Nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật nhân dòng P5S và sản xuất hạt lai F1 TH5-1 ở vụ xuân”, 27). Trần Thị Thuận, 2011.“Nghiên cứu tuyển chọn một số tổ hợp lai hai dòng và thiết lập qui trình sản xuất hạt lai F1”, 28). Phạm Văn Duệ, 2011.“Nghiên cứu tuyển chọn giống lúa thuần chất lượng cao thích ứng cho vùng Hà Nội”, 29). Phạm Đức Đông, 2012.“Tuyển chọn các tổ hợp lúa lai mới và ảnh hưởng của liều lượng đạm đến các tổ hợp được tuyển chọn tại huyện Giao thủy tỉnh Nam Định”, 30). Phùng Danh Huân, 2012.“Nghiên cứu tuyển chọn tổ hợp lai ba dòng triển vọng và thiết lập qui trình sản xuất hạt lai F1 của chúng”, 31). Vũ Văn Quang, 2013. “Nghiên cứu chọn tạo dòng bất dục đực tế bào chất thơm chất lượng cao11A/B, phục vụ chọn giống lúa lai ba dòng”, 32). Ngô Thị Thanh Tuyền,2013. “Tuyển chọn và phát triển một số tổ hợp lúa lai mới chọn tạo trong điều kiện tỉnh Thái Bình”, 33). Vũ Thị Xim, 2013.“Tuyển chọn một số giống lúa thuần chất lượng cao và tìm hiểu ảnh hưởng của một số loại phân bón lá đến sinh trưởng, phát triển, năng suất của giống được tuyển chọn tại Hải Dương”, 34). Trần Thị Huyền, 2013. Nghiên cứu chọn tạo giống lúa lai hai dòng có mẹ là dòng PGMS cải tiến”,

Các bài báo nghiên cứu

1. Chọn tạo giống nếp thơm số 44. Nguyễn Thị Trâm. Thông báo khoa học của các trường Đại học, Chuyên đề Sinh học Nông nghiệp, Bộ Giáo dục và Đào tạo, H- Giáo dục, 1991.

2. Kết quả chọn tạo giống lúa từ nguồn gen của VN10. Đồng tác giả. In trong: Kết quả nghiên cứu khoa học của trường Đại học Nông nghiệp 1 (1986-1991), H- Nông nghiệp, 1991.

3. Đánh giá sơ bộ một số giống lúa mới nhập nội của Trung Quốc. Nguyễn Thị Trâm. Thông tin Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp, trường Đại học Nông nghiệp 1, số 2, 1992.

4. Giống lúa nhập nội mới X70. Nguyễn Thị Trâm. In trong: Kết quả nghiên cứu khoa học của Khoa Trồng trọt, Đại học Nông nghiệp 1 (1991-1992), H- Nông nghiệp, 1992.

5. Giống lúa mới 256. Nguyễn Thị Trâm. Tạp chí Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, số 4, 1992.

6. Giống lúa thơm ngắn ngày T2-92. Đồng tác giả. In trong: Kết quả nghiên cứu khoa học của cán bộ giảng dạy nữ, H- Nông nghiệp, 1993.

7. Khả năng ứng dụng kỹ thuật làm mạ theo công nghệ sản xuất lúa Nhật Bản ở vụ mùa và vụ xuân. Nguyễn Thị Trâm. Thông tin Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp, trường Đại học Nông nghiệp 1, số 2, 1993.

8. Một số kết quả nghiên cứu trong chọn tạo giống lúa của Bộ môn Di truyền –Giống, trường Đại học Nông nghiệp 1. Đồng tác giả. Tạp chí Họat động khoa học, Bộ Khoa học công nghệ và Môi trường, 6 – 1993.

9. Kết quả nghiên cứu một số cặp dòng bố mẹ lúa lai ba dòng nhập nội. Đồng tác giả. In trong: Kết quả nghiên cứu khoa học Khoa Trồng trọt, trường Đại học Nông nghiệp 1 (1992-1993), H- Nông nghiệp, 1993.

10. Điều kiện khí hậu và khả năng sử dụng các dòng bố mẹ lúa lai nhập nội từ Trung Quốc ở miền Bắc Việt Nam. Đồng tác giả. In trong: Kết quả nghiên cứu khoa học Khoa Trồng trọt, trường Đại học Nông nghiệp 1 (1992-1993), H- Nông nghiệp, 1993.

11. Dòng bất dục đực tế bào chất (CMS) Kim 23A và khả năng sử dụng ở Việt Nam. Đồng tác giả. Tạp chí Nông nghiệpvà Công nghiệp thực phẩm, số 8,1995.

12. Khả năng phục hồi phấn của tập đoàn giống lúa nhập nội. Đồng tác giả. In trong: Kết quả nghiên cứu khoa học Khoa Trồng trọt, trường Đại học Nông nghiệp I (1994-1995), 1995.

13. Lúa lai “một dòng”. Nguyễn Thị Trâm. Tạp chí Di truyền học và Ứng dụng, số 3, 1995.

14. Ưu thế lai và đặc tính di truyền một số tính trạng số lượng ở các tổ hợp lúa lai “ba dòng”. Đồng tác giả. In trong: Kết quả nghiên cứu khoa học Khoa Trồng trọt, trường Đại học Nông nghiệp 1 (1994-1995), H- Nông nghiệp, 1995.

15. Phát hiện một số dòng bất dục đực chức năng di truyền nhân mẫn cảm nhiệt độ. Nguyễn Thị Trâm. Tạp chí Di truyền học và Ứng dụng, số 1, 1996.

16. Kết quả nghiên cứu chọn tạo giống lúa lai. Đồng tác giả. Thông báo khoa học của các trường Đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong chuyên đề “Sinh học-Nông học-Y học”, H- Giáo dục, 1996.

17. Kết quả đánh giá sơ bộ tập đoàn lúa cạn thu thập tại Đắk Lắk. Đồng tác giả. In trong: Kết quả nghiên cứu khoa học của nghiên cứu sinh, trường Đại học Nông nghiệp 1, H- Nông nghiệp, 1996.

18. Bước đầu nghiên cứu chọn tạo dòng bất dục đực cảm ứng nhiệt độ để phát triển lúa lai hai dòng. Đồng tác giả. In trong: Tuyển tập Công trình nghiên cứu khoa học kỹ thuật, kỷ niệm 40 năm thành lập trường Đại học Nông nghiệp 1 (1956-1996 ), H- Nông nghiệp, 1996.

19. Current status of Hybrid Rice Reseach and development in Vietnam. Đồng tác giả. In Abstracsts Proc. 3thInt.Symposium on Hybrid Rice; November, 1996.

20. Possibility of developing two-line hybrid rice in Northen Vietnam. Nguyễn Thị Trâm. In Proc of Inter Symp on two-line system heterosis breeding in crops; September, 6- 8 th,1997.

21. Bước đầu thu thập, phân loại và đánh giá tập đoàn lúa cạn Tây Nguyên. Đồng tác giả. In trong: Kết quả nghiên cứu khoa học Khoa Trồng trọt, trường Đại học Nông nghiệ I (1995-1996), H- Nông nghiệp, 1997.

22. Chọn tạo và nghiên cứu dòng bất dục đực di truyền nhân cảm ứng nhiệt độ (TGMS) để phát triển lúa lai hai dòng. Đồng tác giả. Tạp chí Di truyền học và Ứng dụng, số 1, 1998.

23. Khai thác nguồn gen lúa cạn vùng Tây Nguyên. Đồng tác giả. Thông báo khoa học của các trường Đại học, Chuyên đề Sinh học-Nông nghiệp, Bộ Giáo dục và Đào tạo, H- Giáo dục, 1999.

24. Phương pháp đánh giá gián tiếp khả năng chịu nước sâu của các giống lúa. Đồng tác giả. Thông báo khoa học của các trường Đại học, Chuyên đề Sinh học-Nông nghiệp, Bộ Giáo dục và Đào tạo, H- Giáo dục, 1999.

25. Lúa lai kết quả và triển vọng. Đồng tác giả. Thông tin chuyên đề, Trung tâm Thông tin, Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, 1999.

26. Ảnh hưởng của nhiệt độ thấp đến sự phục hồi hữu dục của một số dòng bất dục đực di truyền nhân cảm ứng nhiệt độ (TGMS). Đồng tác giả. Tạp chí Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, số12, 2000.

27. Kết quả nghiên cứu dòng bất dục đực di truyền nhân mẫn cảm nhiệt độ Peiai’ 64S trong điều kiện miền Bắc Việt Nam. Đồng tác giả. Tạp chí Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, số12, 2000.

28. Kết quả nghiên cứu lúa lai của trường Đại học Nông nghiệp 1. Nguyễn Thị Trâm. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn , số 9, 2001.

29. Fertility alteration of TGMS line Peiai64S and the ability of seed multiplication and hybrid seed production in Vietnam. Đồng tác giả. In Abstracts of the 4th Int. Symp On hybrid rice, 2002.

30. Kết quả chọn tạo giống lúa lai hai dòng mới ngắn ngày, năng suất cao chất lượng tốt TH3-3. Đồng tác giả. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 6, 2003.

31. Kết quả nghiên cứu chọn tạo dòng bất dục đực cảm ứng quang chu kỳ ngắn. Đồng tác giả. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 10, 2003.

32. Kết quả nghiên cứu khả năng tổ hợp của các dòng bố mẹ mới chọn tạo trong lúa lai hai dòng. Đồng tác giả. Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp, trường Đại học Nông nghiệp 1, tập III, số 1, 2005.

33. Kết quả chọn tạo giống lúa lai hai dòng mới TH2-1. Đồng tác giả. Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp, trường Đại học Nông nghiệp Nông nghiệp 1, tập III, số 1, 2005.

34. Một số đặc điểm chất lượng gạo của các dòng bố mẹ và con lai. Đồng tác giả. Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp, trường Đại học Nông nghiệp 1, tập III, số 1, 2005.

35. Kết quả nghiên cứu hoàn thiện qui trình sản xuất hạt lai F1 TH3-3. Đồng tác giả. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 12, 2005.

36. Đánh giá tiềm năng ưu thế lai và phân tích di truyền của tính bất dục đực cảm ứng quang chu kỳ ngắn ở dòng P5S. Đồng tác giả. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 8, 2006.

37. Kết quả chọn tạo giống lúa thơm chất lượng cao hương cốm. Đồng tác giả. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, kỳ I, 9 – 2006.

38. Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật nhân dòng bất dục đực di truyền nhân mẫn cảm nhiệt độ T1S-96 tại Thanh Hóa. Đồng tác giả. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 9, 2007.

39. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của thời vụ gieo cấy đến khả năng sản xuất hạt lai F1 tổ hợp TH3-3 và TH3-4 tại Thanh Hóa. Đồng tác giả. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 9, 2007.

40. Giống lúa lai hai dòng mới TH3-4. Đồng tác giả. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 2, 2008.

41. Bất dục đực mẫn cảm quang chu kỳ ngắn ở lúa và khả năng ứng dụng. Đồng tác giả. Tạp chí Khoa học và Phát triển, trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, số 5, 2008.

42. Nghiên cứu xác định vùng nhân dòng TGMS và sản xuất hạt giống lúa lai hai dòng ở Việt Nam. Đồng tác giả. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 3, 2010.

43. Kết quả chọn tạo giống lúa thơn hạt thon dài bằng phương pháp lai đa dòng. Đồng tác giả. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 11, 2010.

44. Đánh giá mùi thơm và gen kiểm soát mùi thơm của các giống lúa thơm địa phương và cải tiến. Đồng tác giả. Tạp chí Khoa học và Phát triển, trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, số 8, 2010.

45. Sử dụng phương pháp lai kết hợp nhiều bơ mẹ trong vhonj tạo giống lúa thơm. Đồng tác giả. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 1, 9 – 2010.

46. Application of nuclear technology and complex crossing for breeding aromatic rice varieties. Đồng tác giả. Nuclear science and technology, Vietnam Alonic energy society, 2009.

47. The aromatic gene in indigenous rice and multilines crossing for breeding special aromatic rice varieties. Đồng tác giả. 3rd International rice congress 2010 Hanoi, Vietnam, IRRI, Los Banos Philippines, 2010.

48. Sử dụng phương pháp lai kết hợp nhiều bố mẹ trong chọn tạo giống lúa thơm. Đồng tác giả. In trong: Kết quả nghiên cứu Khoa học và Công nghệ, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, H- Nông nghiệp, 2010.

49. Phân tích di truyền số lượng trên chiều dài hạt và thời gian sinh trưởng của một số giống lúa thơm. Đồng tác giả. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 8, 2011.

50. Đánh giá phẩm chất gạo của các giống lúa thơm được chọn tạo tại Sóc Trăng. Đồng tác giả. 2011.

51. Breeding and developing two-line hybrid rice in Vietnam. Nguyễn Thị Trâm. In trong: Vietnam fifty years of rice research and development, Agricultural publishing house, 2010.

52. Kết quả nghiên cứu chọn lọc duy trì độ thuần dòng mẹ lúa lai hai dòng. Đồng tác giả. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 2+3, 2011.

53. Chọn tạo và khảo nghiệm giống lúa lai hai dòng mới TH8-3. Đồng tác giả. Tạp chí Khoa học và Phát triển của trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, 2011.

54. Khai thác triệt để giá trị của cây lúa Việt Nam. Nguyễn Thị Trâm. In trong: Tuyển tập các Báo cáo của Hội thảo Quốc tế “Con đường phát triển lúa gạo chất lượng cao Việt Nam – Pathways to develop high quality rice in Vietnam” tại Festival lúa gạo Việt Nam lần thứ 2, 2011.

55. Nghiên cứu biểu hiện di truyền tính thơm trong chọn tạo lúa lai hai dòng năng suất cao. Đồng tác giả. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 4, 2012.

56. Giống lúa lai hai dòng mới TH7-5. Đồng tác giả. Tạp chí Khoa học và Phát triển, số 4, 2012.

57. Hybrid rice breeding and development at Hanoi University of Agriculture. Đồng tác giả. In Proceding of the International hybrid rice conference “Research strategy for hybrid rice development in the context of adaptation to global climate change”, May 2012.

58. Research and application of photoperiodic sensitive genetic male sterile (PGMS) of rice in Vietnam. Đồng tác giả. In Proceding of the International hybrid rice conference: “Research strategy for hybrid rice development in the context of adaptation to global climate change, Hanoi, 24th May 2012.

59. Defining sowing date and technical practices for multiplication of the male sterile line II-32A at Hanoi. Đồng tác giả. In Proceding of the International hybrid rice conference “Research strategy for hybrid rice development in the context of adaptation to global climate change” , Hanoi, 24th May 2012.

60. Preliminary research of cytoplasmic male sterile line 11A/B for three line hybrid rice production. Đồng tác giả. In Proceding of the International hybrid rice conference “Research strategy for hybrid rice development in the context of adaptation to global climate change”, Hanoi, 24th May 2012.

61. The prospects of two-line hybrid rice development at highland in Vietnam. Đồng tác giả. In Proceding of the International hybrid rice conference “Research strategy for hybrid rice development in the context of adaptation to global climate change”, Hanoi, 24th May 2012.

62. Selection of new three-line hybrid rice suitable to Northern Vietnam. Đồng tác giả. In Proceding of the International hybrid rice conference “Research strategy for hybrid rice development in the context of adaptation to global climate change”, Hanoi, 24th May 2012.

Niên biểu cuộc đời

Thời gianHoạt động
1944Sinh tại thị xã Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
 1953 – 1960Học trường Tiểu học, Trung học cơ sở tại xã La Hiên, Võ Nhai, Thái Nguyên.
1961 – 1964Học THPT Lương Ngọc Quyến, thị xã Thái Nguyên.
1964 – 1968Sinh viên trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội.
1968 – 1980

Kỹ sư Nông nghiệp tại Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm.

1980 – 1984Nghiên cứu sinh tại Đại học Nông nghiệp Kuban, Liên Xô.
1985 – 1999

Cán bộ giảng dạy Bộ môn Di truyền – Chọn giống, Khoa Nông học, trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội; – Được phong hàm Phó Giáo sư (1996).

1999 – 2010

Phó Viện trưởng Viện Sinh học Nông nghiệp, trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội (1999 – 2004);
Trưởng phòng Nghiên cứu ứng dụng ưu thế lai, Viện Sinh học Nông nghiệp, trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội (2004 – 2010).
Từ 6-2010

Cố vấn nghiên cứu chọn tạo giống lúa, Viện Nghiên cứu và Phát triển cây trồng, trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.




Trở thành kỹ sư nông nghiệp năm 1968, PGS. TS Nguyễn Thị Trâm công tác tại Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm của Bộ Nông nghiệp cho đến năm 1980. Ở đây, với việc nghiên cứu chọn tạo giống lúa, cô đã cùng đồng nghiệp chọn tạo thành công các giống lúa như: NN8 -388, NN23, NN9, NN10, NN75-6. Tất cả các giống lúa này đều được đưa vào ứng dụng trong sản xuất, trong đó giống lúa NN75-6 đã đem lại cho cô bằng tác giả sáng chế năm 1984.

Trong thời gian đi nghiên cứu sinh ở nước ngoài trong 4 năm từ năm 1980 đến 1984 cô Trâm đã mang về tấm bằng góp thêm vào học vị của mình với việc thực hiện đề tài: “Nghiên cứu lúa lùn và sử dụng lúa lùn trong chọn tạo giống lúa thâm canh” tại Đại học Nông nghiệp Kuban và Viện Nghiên cứu Lúa toàn Liên Xô, Thành phố Kratsnodar (Liên Xô cũ).

Sau khi về nước, trở thành Tiến sĩ Nông nghiệp PGS. TS Nguyễn Thị Trâm công tác tại trường Đại học Nông nghiệp 1. Cô làm cán bộ giảng dạy các bộ môn Di truyền chọn giống Khoa Nông học của trường. Thời gian này cô Trâm đã cống hiến rất nhiều tâm lực của mình trong việc nghiên cứu, giảng dạy cũng như hướng dẫn các sinh viên làm đề tài tốt nghiệp. Trong số đó có rất nhiều tiến sĩ và thạc sĩ bảo vệ thành công luận án của mình và được tốt nghiệp với những tấm bằng loại ưu. Bên cạnh đó cô còn viết các giáo trình và sách tham khảo cùng giáo trình bài giảng cho cao học các chuyên ngành Trồng trọt, chọn giống. Cùng các đồng nghiệp, cô đã nghiên cứu chọn tạo thành công các giống lúa thuần như nếp thơm 44, tẻ 256, ĐH 104 và được đưa ra sản xuất.

Làm phó Viện trưởng Viện Sinh học Nông nghiệp và Trưởng phòng nghiên cứu ứng dụng ưu thế lai tại trường Đại học Nông Nghiệp 1 Hà Nội cho đến năm 2004 cô Trâm lĩnh sổ lương hưu trí. Sau khi nghỉ hưu cô vẫn muốn góp thêm sức lực và trí tuệ của mình để phục vụ cho ngành nghiên cứu khoa học nước nhà nên cô đã nhận lời mời tiếp tục làm Trưởng phòng Nghiên cứu ứng dụng ưu thế lai, và tiếp tục nghiên cứu để tạo ra các giống lúa mới. Viết thêm những tài liệu và giáo trình để phục vụ giảng dạy và hướng dẫn cho các học viên thực tập tốt nghiệp kiêm hướng dẫn nghiên cứu sinh…

Mười tỉ đồng, một giống lúa, và mười bảy năm nghiên cứu lúa lai. Nhìn cảnh cô Trâm đếm từng hạt lúa, bạn sẽ thấy 10 tỉ đồng chuyển giao công nghệ không hề nhiều. Trong chương trình Người đương thời, bạn sẽ được nghe cô Trâm tiết lộ bí quyết lúa lai của Việt Nam. Và quan trọng hơn, bạn sẽ biết bí quyết thành công của cô: đó là đầu tư thời gian, và không bao giờ bỏ cuộc.

Việt Nam con đường xanh, Chuyện cô Trâm lúa lai là một nghiên cứu điển hình (key study) chọn tạo giống lúa lai Việt Nam, sản xuất hạt lai, thương mại hóa sản phẩm hạt lai F1, xây dựng hệ thống hoàn chỉnh từ chọn tạo, làm thuần, sản xuất hạt lai đến cung ứng hạt giống lúa lai cho người sản xuất, đã góp phần tích cực quảng bá thương hiệu lúa lai Việt Nam,.tạo lợi thế canh tranh cho lúa lai Việt Nam, góp phần hiệu quả cải tiến chuỗi giá trị sản phẩm lúa gạo Việt. Chúng ta tiếp nối đội ngũ, theo gương sáng thầy bạn là lộc xuân cuộc đời, tôn vinh giá trị hạt ngọc Việt, tỏa rộng Con đường lúa gạo Việt Nam,

PHÚ YÊN BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN SẮN BỀN VỮNG
Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long và đồng sự

Tóm tắt: Báo cáo này đề cập ba nội dung: 1) Những vấn đề cần chú ý trong sản xuất sắn hiện nay để nâng cao giá trị và sức cạnh tranh cây sắn; 2) Thành tựu và bài học sắn Việt Nam (2016-2021) trước và trong dịch bệnh sắn CMD và CWBD ; 3) Phú Yên bảo tồn và phát triển sắn bền vững

1) Giống sắn KM419 và KM440 ở Việt Nam hiện nay là phổ biến nhất, sau cả áp lực nặng của bệnh khảm lá CMD và bệnh chổi rồng CWBD. https://youtu.be/XDM6i8vLHcIhttps://youtu.be/kjWwyW0hkbU. .Kỹ thuật trồng sắn KM419 (khoai mỳ)-ACP_Đăk Lăk https://youtu.be/VT3yDprIh8E Video Quang Chinh Pham

.xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/den-voi-tay-nguyen-moi/

BÁO NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM Thứ Ba, 9/11/2021 11:57 (GMT +7)
Cứ áp dụng Nghị định 70, dễ làm nhà khoa học nhụt chí
VAAS có 19 đơn vị thành viên, vừa rồi đều rất băn khoăn khi triển khai Nghị định 70 và đã có văn bản kiến nghị phải điều chỉnh hoặc hướng dẫn phù hợp.
https://nongnghiep.vn/cu-ap-dung-nghi-dinh-70-de-lam-nha-khoa-hoc-nhut-chi-d307144.html

Chuyện “lọt sàng xuống nia”

“Cứ áp dụng Nghị định này (Nghị định 70/2018/NĐ-CP) dễ làm cho anh em nản chí, không ra được những sản phẩm tốt”, GS.TS Nguyễn Hồng Sơn, Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS) mở đầu cuộc trò chuyện.

GS.TS Nguyễn Hồng Sơn, Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam. Ảnh: NVCC. 

GS.TS Nguyễn Hồng Sơn, Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam. Ảnh: NVCC

“Tôi từng hỏi nhóm tác giả xây dựng nên Nghị định rằng loại tài sản này là gì? Tài sản cố định, tài sản trí tuệ, tài sản đào tạo hay là các loại tài sản khác nữa, phải thật cụ thể. Và được họ trả lời phải chờ thông tư hướng dẫn của Bộ Khoa học và Công nghệ (KH-CN) để định dạng cho rõ”, GS.TS Nguyễn Hồng Sơn kể.

Theo hướng dẫn thực hiện Nghị định số 08/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật KH-CN, sản phẩm KH-CN gồm dạng I (mẫu, model, maket), sản phẩm, vật liệu, thiết bị, máy móc, dây chuyền công nghệ, giống cây trồng, giống vật nuôi và các loại khác; dạng II (nguyên lý ứng dụng, phương pháp, tiêu chuẩn, quy phạm, phần mềm máy tính, bản vẽ, báo cáo…và dạng III (bài báo; sách chuyên khảo…).

Như vậy, vì chưa có thông tư hướng dẫn nên việc tổ chức triển khai thực hiện Nghị định 70 này còn nhiều vướng mắc, trong đó quan trọng là xác định loại sản phẩm và định giá tài sản. Các nhiệm vụ khoa học mà Nhà nước hiện hỗ trợ cho các viện nghiên cứu công lập thực hiện thường là các nhiệm vụ mà các doanh nghiệp chưa thể thay thế được.

Hiện có nhiều doanh nghiệp hiện đã hình thành bộ phận nghiên cứu, phát triển giống nhưng thực tế số thành công không nhiều, vẫn phải liên kết với các viện nghiên cứu của Nhà nước để mua bản quyền hay sử dụng giống nhập ngoại.

Ngoại trừ các giống rau lai ta chưa làm chủ được công nghệ nên phần lớn vẫn phải dựa vào nhập ngoại, còn các giống cây trồng khác phần lớn đã làm chủ được, đều do các viện nghiên cứu tạo ra như các giống lúa thuần, cà phê, tiêu, điều và đa số các giống cây ăn quả.

“Liên quan đến thực tiễn xác định giá trị của tài sản là kết quả nhiệm vụ KH-CN được ngân sách cấp, hỗ trợ, chúng tôi nhận thấy: Đối với kết quả dạng I mới dừng ở quy mô phòng thí nghiệm, hoặc đánh giá, khảo nghiệm, thử nghiệm ở quy mô hẹp, chưa đáp ứng điều kiện sản xuất, thương mại theo quy định của pháp luật.

Việc xác định giá trị thương mại của chúng không đơn giản vì không đủ cơ sở dữ liệu, ngoại trừ các một số sản phẩm như giống cây trồng đã được công nhận lưu hành hoặc công bố lưu hành. Hơn nữa, để thương mại hóa cần thiết phải tiếp tục đầu tư thời gian, công sức, trí tuệ và kinh phí cho việc phát triển thị trường, sản xuất sản phẩm ở quy mô hàng hóa”, GS.TS Nguyễn Hồng Sơn nêu vấn đề.

Theo ông, trên thực tế, việc định giá các sản phẩm khoa học không thực sự dễ. Cùng mức kinh phí hỗ trợ gần giống nhau nhưng có những giống cây trồng tạo ra được ứng dụng rộng rãi, quy mô có thể tới hàng triệu ha như giống lúa OM5451, có giống chỉ được vài chục ngàn ha. Vậy cái gì tạo nên sự khác biệt đó?

Rõ ràng, bên cạnh nguồn vốn của Nhà nước, còn có sự đầu tư chất xám, sự lao động miệt mài của các nhà khoa học nữa. Như vậy, việc định giá tài sản để giao cho các đơn vị nghiên cứu hay đơn vị nhận chuyển giao khác không đơn giản vì với chu kỳ nghiên cứu của một đề tài từ 3 – 4 năm, chưa đủ để biết được mức độ chấp nhận của sản xuất với một sản phẩm KH-CN, trong đó có sự đầu tư nguồn vốn của Nhà nước và sự đầu tư trí tuệ, công sức của nhà khoa học.

Hiện nay, đã có nhiều mô hình liên kết chuyển nhượng, chia sẻ bản quyền tác giả đối với một số giống cây trồng giữa viện nghiên cứu và doanh nghiệp nhưng rất khó định giá, bản thân tác giả và doanh nghiệp đều không biết hết được giá trị đích thực của sản phẩm. Mặt khác, nếu các sản phẩm được tính toán đầy đủ theo đúng giá trị của nó thì nó sẽ được kết tinh vào giá thành, và giá bán sản phẩm sẽ cao, nông dân không được hưởng lợi.

Quay trở lại ví dụ với giống lúa OM5451, nếu cả Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long (đơn vị nghiên cứu ra giống) và Tập đoàn Lộc Trời (đơn vị nhận chuyển giao) khai thác được hết bản quyền thì khoản tiền thu được sẽ rất lớn, có thể tương đương kinh phí nghiên cứu của toàn bộ Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam. Nhưng thực tế, cả viện và doanh nghiệp đều chỉ thu được một khoản kinh phí rất nhỏ, phần lớn giống do các hợp tác xã, nông dân tự để, tự sản xuất đều không thu được tác quyền.

“Trước kia, Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long có thu tác quyền 100 – 200 đ/kg thóc giống, cũng không đáng kể so với lợi ích mang lại cho xã hội. Tương tự như vậy, hiện nay phần lớn các giống cây ăn quả, cây công nghiệp được nhân giống theo hình thức vô tính đều chưa có đơn vị nhận chuyển giao bản quyền giống vì nó dễ mất bản quyền. Dĩ nhiên trong trường hợp này, nông dân sẽ được lợi. Như vậy, nếu Nhà nước không thu lại được vốn đã đầu tư thì người được hưởng lợi đầu tiên là nông dân, có thể coi đó là “lọt sàng xuống nia”.Có lẽ đến lúc này, chức năng, bổn phận của các cơ quan nghiên cứu công lập vẫn còn rất lớn. Nhà nước vẫn nên tiếp tục đặt hàng các nhiệm vụ KH-CN để giúp cho dân nhanh chóng tiếp cận và áp dụng chúng vào sản xuất”. (GS TS Nguyễn Hồng Sơn)

Để nhà khoa học chỉ việc bước chân vào phòng thí nghiệm

Theo quy định hiện nay, khi các tổ chức khoa học chuyển giao được sản phẩm hình thành từ nguồn ngân sách do Nhà nước hỗ trợ, đều phải nộp một khoản thuế thu nhập doanh nghiệp. Do đó, Nhà nước nên tiếp tục giao sản phẩm khoa học cho các tổ chức khoa học quản lý, khai thác, sử dụng. Nếu cần, có thể bổ sung thêm các khoản trích quỹ phát triển của đơn vị để bù vào phần ngân sách hỗ trợ hằng năm hoặc nâng cao năng lực cho các tổ chức khoa học công lập.

Đối với trường hợp kết quả nghiên cứu ở dạng II và dạng III thì không thể xác định được giá trị thương mại. Trong lĩnh vực nông nghiệp, các quy trình công nghệ, quy trình kỹ thuật phần lớn đang được chuyển giao miễn phí cho nông dân, hợp tác xã nên hầu như không thu hồi được kinh phí.

Như vậy, qua ý kiến của nhiều tổ chức và cá nhân, cần nghiên cứu lại các quy định tại Nghị định 70 để đảm bảo tính khả thi, đồng thời tạo động lực để các tổ chức, các nhà khoa học có nhiều sản phẩm có chất lượng cao hơn.

Cần có những cơ chế, càng tạo thông thoáng, cởi mở càng tốt để động viên cán bộ nghiên cứu tạo ra nhiều giống xuất sắc hơn nữa mới đúng, chứ không phải làm nhụt chí của anh em. Thậm chí họ làm ra nhiều con lai tốt nhưng lại giấu bớt đi, chuyển lén cho tư nhân thì Nhà nước lại càng thiệt hơn. Như vậy, Nhà nước có muốn quản các sản phẩm khoa học cũng khó nếu không nhờ sự tự giác và cái tâm của các nhà khoa học.

Trong thời gian qua, nhiều cán bộ khoa học đã không thể thích ứng được với chính sách đãi ngộ và cơ chế quản lý nên đã rời các viện nghiên cứu, mặc dù “chất xám” có chảy thì cũng chảy từ trong ra ngoài, từ đơn vị công lập sang doanh nghiệp tư nhân.

Nhưng dù sao, đây cũng là hồi chuông cảnh báo về chính sách trọng dụng cán bộ khoa học có trình độ tốt, đặc biệt là những người được đào tạo ở nước ngoài. Bởi được đào tạo rất cơ bản nên họ cần có điều kiện làm việc tốt, những phòng thí nghiệm tiêu chuẩn, những chế tài, cơ chế cởi mở để chỉ còn việc bước chân vào phòng thí nghiệm làm việc mà đầu óc không phải suy nghĩ đến những chứng từ tài chính nọ kia.

Phải công bằng đánh giá, hơn ba thập kỷ qua, KH-CN, đặc biệt là khoa học trong nông nghiệp đã có một giai đoạn phát triển rất nhanh, góp phần tạo ra lượng sản phẩm dồi dào, giúp chúng ta thoát đói, giảm nghèo.

Bây giờ, nghiên cứu khoa học trong nông nghiệp đang có nhịp trễ để chuyển sang giai đoạn nghiên cứu về chất lượng, hiệu quả kinh tế thì không thể tiếp tục duy trì tốc độ phát triển nhanh như giai đoạn trước đây được.

Bởi để tăng trưởng về số lượng, có thể chúng ta chỉ mất một chục năm, nhưng để thay đổi về chất lượng có khi mất cả vài chục, thậm chí hàng trăm năm. Vì vậy, Nhà nước cần tiếp tục tin tưởng, tạo điều kiện và có cơ chế đãi ngộ phù hợp để tiếp sức cho các cán bộ khoa học, giúp họ có cơ hội phát triển để tạo ra sản phẩm đột phá, có chất lượng tốt hơn.

“Hiện mỗi năm, các thành viên của Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam có thể nghiên cứu được vài ba chục giống cây trồng các loại nhưng cũng chỉ có một số giống có thể nhân rộng được trong sản xuất. Phải chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu, mặc dù các sản phẩm giống cây trồng được phát triển và đạt tiêu chuẩn quốc gia nhưng không nhân rộng được trong sản xuất”.  (GS.TS Nguyễn Hồng Sơn).

Bạn đang đọc bài viết Cứ áp dụng Nghị định 70, dễ làm nhà khoa học nhụt chí tại chuyên mục Khoa học – Công nghệ của Báo Nông Nghiệp Việt Nam. Mọi thông tin góp ý và chia sẻ, xin vui lòng gửi về hòm thư baonongnghiepdientu@gmail.com hoặc số điện thoại, Viber: 0369024447.

Dương Đình Tường (ghi)

Bài viết mới trên DẠY VÀ HỌC
https://hoangkimvn.wordpress.com bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích

KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on witter

 
.




Advertisement