Trường tôi nôi yêu thương

TRƯỜNG TÔI NÔI YÊU THƯƠNG

Đời vui người khỏe mãi
Cuộc đời hơn trang văn
Thầy bạn là lộc xuân
Một niềm tin thắp lửa

Chúc mừng quý Thầy Cô và các bạn Nông Học 20 Ngày Họp Mặt. Chúc mừng cô Nguyễn Thị Chắt chùm ảnh mới thật đẹp! xin tích hôp về trang Trường tôi nôi yêu thương https://hoangkimlong.wordpress.com/category/truong-toi-noi-yeu-thuong/

VỀ TRƯỜNG ĐỂ NHỚ THƯƠNG

Đường Xuân Đời Quên Tuổi
Vui Bước Tới Thảnh Thơi
Ban Mai Chào Ngày Mới
Thầy Bạn Trong Đời Tôi

“Trận chiến hôm qua bạn góp máu hồng. Lớp học hôm nay bạn không trở lại. Trách nhiệm trong mình nhân lên gấp bội. Đồng chí ơi, tôi học cả phần anh”. Tòa nhà Phượng Vĩ Trường Đại Học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh hôm nay là khối nhà chữ U do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ khôi nguyên La Mã xây dựng vừa hoàn thành đưa vào sử dụng năm 1974. Trường tôi có lịch sử hình thành từ Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục BLao (Bảo Lộc) năm 1955. Khóa 1 và khóa 2 chúng tôi là lớp sinh viên đầu tiên của mái trường này. Tại tòa nhà chính lộng lộng trên cao kia là dòng chữ nổi bật “KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO” của Chủ tịch Hồ Chí Minh; mãi sau này, đến nhiệm kỳ 1989-1994, thầy Trịnh Xuân Vũ, Phó Hiệu Trưởng Nhà trường mới đưa trở về biểu tượng Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh. Trường tôi thấm sâu bài học lịch sử; Nghị lực và Ơn Thầy; Thầy bạn trong đời tôi; Về Trường để nhớ để thương; Hoàng Kim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/truong-toi-noi-yeu-thuong/

TRƯỜNG TÔI THẤM SÂU BÀI HỌC LỊCH SỬ

Trường tôi nôi yêu thương. Trường Đại Học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh trong muôn vàn chỉ dấu thì tòa nhà Phượng Vĩ là biểu tượng tiêu biểu. Theo thông tin lưu dấu ở bài Dinh Thống Nhất vườn Tao Đàn Trường tôi và lòng thương yêu gửi lại của thầy Lưu Trọng Hiếu thì khối nhà chữ U trường tôi là một trong bốn công trình chính liên hoàn do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ là tổng công trình sư xây dựng: Chữ T dinh Độc Lập, chữ H chợ Đà Lạt, chữ U Trường Đại học Nông nghiệp Sài Gòn và dấu nặng (.) Hồ Con Rùa. Đó là bốn kế lớn chấn hưng đất nước “vua sáng, kinh tế, nông nghiệp, nội chính” .

Biểu tượng Dinh Độc lập (hình chữ T) với ý nghĩa đất nước muốn giàu mạnh, thì trước hết người lãnh đạo đất nước phải là “bậc minh quân hiền tài”, trọng “quân đức, dân tâm, học pháp”, biết “chăm lo sức dân để lập đại kế sâu rễ bền gốc” bảo tồn và phát triển bền vững năng lực Quốc gia.

Biểu tượng Chợ Đà Lạt (hình chữ H) với ý nghĩa trọng tâm của nổ lực quốc gia là phải phát triển kinh tế (phi thương bất phú), mở mang giao thương, chấn hưng nghiệp cũ, phát triển nghề mới, khuyến học dạy dân, “Nên thợ, nên thầy nhờ có học/ No ăn, no mặc bởi hay làm” (Nguyễn Trãi), “chú trọng mậu dịch buôn bán, lấy việc thông thương an toàn làm chữ Nghĩa (Nguyễn Hoàng), chú trọng lao động để dân giàu nước mạnh.

Biểu tượng Trường Đại Học Nông Nghiệp Sài Gòn (hình chữ U) với ý nghĩa là phải chấn hưng giáo dục đại học, phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt là giáo dục phát triển nông nghiệp để nâng cao thu nhập, sinh kế, việc làm và an sinh xã hội, nâng cao chất lượng và giá trị nông sản (dĩ nông vi bản) vì quá nữa người Việt làm nghề nông.

Và sau cùng là biểu tượng Hồ Con Rùa (hình dấu (.) nặng) với ý nghĩa là nội chính an dân, thượng tôn pháp luật, kỷ cương phép nước, giữ vững bờ cõi, bảo tồn nguyên khí, thương yêu dân chúng an vui lạc nghiệp, “biết thương yêu dân, luyện tập binh sĩ để xây dựng cơ nghiệp muôn đời” (Lời chúa Nguyễn Hoàng dặn chúa Nguyễn Phúc Nguyên),

Biết bao chuyện trước và sau ngày 30 tháng 4 và ngày 1 tháng 5 mà lịch sử chân thực sẽ còn phải nhiều lần quay lại. Với gia đình tôi, tấm ảnh hai anh em ruột ôm nhau ngày gặp mặt giữa Sài Gòn giải phóng hòa chung trong sự khao khát mong đợi của hàng triệu người. Tháng năm nhớ lại và suy ngẫm là bức tranh của một gia đình nông dân Việt bình thường ‘cuốn theo chiều gió” trong số phận của đất nước, dân tộc.

Sau tháng năm, đơn vị tôi ra làm đường biên giới ở Tiên Yên Móng Cái của tỉnh Quảng Ninh và đoàn 568 của sư đoàn 325B sau này là nòng cốt của sư đoàn 356 nước mắt Vị Xuyên. Tôi trở về lại mái trường xưa, anh trai tôi tiếp tục sang Campuchia “giúp bạn cũng là giúp mình” nhiều năm, sau thời gian quân quản thành phố.


“Nghị lực” và “Ơn Thầy” là hai bài thơ người lính trở về sau chiến tranh.

#cnm365 dẫn nguồn tin của Phòng Thông tin Truyền thông Trường Đại Học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh ngày 30 tháng 1 năm 2024:

ĐẦM ẤM BUỔI HỌP MẶT THẦY CÔ, VIÊN CHỨC HƯU TRÍ TRƯỜNG ĐẠI NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Trong không khí rộn ràng của những ngày chuẩn bị bước sang năm mới, sáng 30/01/2024, Đảng ủy, Ban Giám hiệu, Ban chấp hành Công đoàn Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức buổi gặp mặt chúc tết Thầy Cô, viên chức hưu trí các thời kỳ. Đây là hoạt động truyền thống tốt đẹp của Nhà trường cứ mỗi dịp Tết đến Xuân về nhằm tri ân Thầy Cô, viên chức có những đóng góp cho sự nghiệp giáo dục đào tạo của Nhà trường trong những năm qua. 

 Tham dự buổi họp mặt có TS. Bùi Ngọc Hùng – Bí thư Đảng ủy – Chủ tịch Hội đồng trường;  PGS.TS. Nguyễn Tất Toàn – Hiệu trưởng Nhà trường; TS. Trần Đình Lý – Phó hiệu trưởng; TS. Nguyễn Thị Mai – Thường vụ Đảng ủy, ThS. Hoàng Thị Mỹ Hương – Thường vụ Đảng ủy, Chủ tịch Công đoàn Trường, Ban chấp hành Công đoàn; Đoàn Thanh niên cùng cán bộ viên chức, giảng viên đang công tác tại Trường.


PGS.TS.Nguyễn Tất Toàn – Hiệu trưởng nhà Trường phát biểu tại buổi họp mặt Thầy Cô, viên chức hưu trí

 Thay mặt Lãnh đạo, PGS.TS. Nguyễn Tất Toàn – Hiệu trưởng nhà Trường báo cáo với Thầy Cô, viên chức hưu trí những thành tựu nổi bật trên các lĩnh vực hoạt động của Nhà trường năm 2023 trong chiến lược Đào đạo, Khoa học công nghệ, Phục vụ cộng đồng và các hoạt động quan trọng khác như Kiểm định chất lượng, Cơ sở vật chất, Chuyển đổi số; và đặc biệt là hướng tới chuỗi sự kiện Kỷ niệm 70 năm thành lập Trường (1955-2025). Buổi gặp mặt là dịp để Thầy Cô, viên chức hưu trí gặp gỡ, trò chuyện, ôn lại những năm tháng gắn bó, cùng kề vai, chung sức vượt qua khó khăn, nỗ lực phấn đấu để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giáo dục – đào tạo và nghiên cứu khoa học. 
Thầy Trịnh Xuân Vũ đại diện Thầy Cô, viên chức hưu trí phát biểu tại buổi họp mặt

 PGS.TS. Nguyễn Tất Toàn gửi lời tri ân sâu sắc tới Thầy Cô, viên chức hưu trí về những công lao, trí lực, tâm huyết đã cống hiến cho nhà Trường trong suốt 69 năm xây dựng và phát triển. Với những danh hiệu cao quý mà Đảng và Nhà nước trao tặng cho Nhà trường đều có sự đóng góp công sức to lớn của các thế hệ Tiền nhân.

Nhân dịp đầu năm mới 2024 và chuẩn bị đón Xuân Giáp Thìn 2024, thay mặt tập thể lãnh đạo và toàn thể cán bộ, giảng viên, học viên và sinh viên trong toàn Trường, PGS.TS. Nguyễn Tất Toàn gửi lời chúc mừng năm mới, lời chúc mạnh khoẻ, an vui tới các thế hệ Thầy Cô, viên chức hưu trí cùng lời chúc hạnh phúc, hạnh phúc là điều trong tâm mọi người đều hướng đến. Mong Thầy Cô, viên chức hưu trí tiếp tục dõi theo và đóng góp cho sự nghiệp giáo dục và phát triển của Nhà trường trong thời gian tới.
 
Lãnh đạo nhà Trường tặng hoa tri ân Thầy Cô, viên chức hưu trí

 Cùng với đó, những cánh thiệp chúc tết được Ban tổ chức tận tâm chuẩn bị, mang những ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Những cánh thiệp đến từ chính đôi bàn tay của đội ngũ Thầy Cô, CBVC trẻ Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh bằng tất cả sự chăm chút, tỉ mỹ và sáng tạo, mang nhiều ý nghĩa được trao đến cho quý Thầy cô, cán bộ hưu trí như một lời tri ân sâu sắc, một lời chúc vô cùng tốt đẹp với tất cả sự kính trọng, lòng biết ơn gửi trao đến thế hệ Tiền nhân.

Buổi gặp mặt diễn ra trong không khí vui tươi, trang trọng, đầm ấm và nghĩa tình. Đây cũng là dịp để các thế hệ Thầy Cô, viên chức hưu trí cùng nhau ôn lại những kỉ niệm trong thời gian công tác tại Trường, những vui buồn trong sự nghiệp “trồng người” của mình.

Một số hình ảnh khác tại buổi gặp mặt: https://go.hcmuaf.edu.vn/GapMatXuanGiapThin2024

Phòng Thông tin Truyền thông
https://4t.hcmuaf.edu.vn/contents.php?ur=4t&ids=42220

Trường Đại Học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh, Khoa Nông Học ĐHNL HCM họp mặt 30 1 2024 một số hình ảnh tư liệu #cnm365

VỀ TRƯỜNG ĐỂ NHỚ THƯƠNG

Đại học Nông Lâm thật thích
Bạn thầy vui thật là vui
Sân Trường giảng đường ấm áp
Đường xuân phơi phới tuyệt vời

Hình như mọi người trẻ lại
Hình như người ấy đẹp hơn
Hình như tre già măng mọc
Nắng mai soi giữa tâm hồn.

Thầy bạn trong ngoài thiện nguyện
Về Trường chia sẻ động viên
Trang sách trang đời lắng đọng
Yêu thương bao cuộc đời hiền

Thầy bạn ngày vui hẹn gặp
Lời thương mong ước bình an
Tình khúc Nông Lâm ngày mới
Sức xuân Tự nguyện Lên đàng

Hoàng Kim
xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ve-truong-de-nho-thuong/

Thầy bạn là lộc xuân
Thầy bạn trong đời tôi
Về Trường để nhớ thương
Một niềm tin thắp lửa

CON NGUYỆN LÀM HOA LÚA

Bác ơi !
Con nguyện làm Hoa Lúa
Thầy nghề nông chiến sĩ
Đường xuân theo chân Bác
Trọn đời Trung Hiếu hi sinh.


https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-nghe-nong-chien-si

Congviecnaytraolaichoem

Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh ngày 19 11 là ngày truyền thống thành lập của hai khoa song sinh Nông Lâm là Khoa Nông học & Khoa Lâm Nghiệp (tiền thân là Khoa Thủy Lâm, trước ngày Việt Nam thống nhất)

xem tiếp Vườn Quốc gia Việt Nam https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vuon-quoc-gia-viet-nam/

Xuân Mới Sức Sống Mới

Hoa Mai Và Mùa Xuân

Nông Lâm chung mái ấm
Viên Ngọc Nam Hoàng Kim
Trường tôi nôi yêu thương
Vườn Quốc Gia Việt Nam.

Hoàng Kim (thơ cảm ơn) @ Viên Ngọc Nam (ảnh hoa mai & chân dung)
xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/truong-toi-noi-yeu-thuong & https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vuon-quoc-gia-viet-nam/

MỘT NIỀM TIN THẮP LỬA

Bất ngờ tôi nhận được bài thơ của Thầy Cô trong Khoa Nông Học quý mến gửi tặng. Tôi thật sự xúc động chỉ biết nói lời cảm ơn và tự hứa lòng mình là cố gắng hơn. Lòng tin của nhân dân và thầy bạn là tín danh đời người để gắng công cần kiệm liêm chính. Giữ gìn thành quả lao động tốt của đội ngũ quan trọng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Xin phép cô Ngọc được chép bài về Một niềm tin thắp lửa. https://hoangkimlong.eordpress.com/category/mot-niem-tin-thap-lua

Nhìn đàn em ngời niềm vui rạng rỡ.
Chợt thấy lòng rưng rưng.
Công việc nghề nông cực mà hạnh phúc.
Cố lên em nổ lực không ngừng !

Hột mồ hôi lắng vào hạt gạo
Câu ca ông bà theo suốt tháng năm
Thêm bữa cơm ngon cho người lao động
Nâng chén cơm thơm, qúy trọng người trồng.

Em ơi hãy học làm ruộng giỏi
Nghề nông thời nào cũng quý kỹ năng
Người dân khá hơn là niềm ao ước
Công việc này giao lại cho em.

Có một mùa xuân hạnh phúc
Ơn mẹ cha lam lũ sớm hôm
Thương con vạc gọi sao mai dậy sớm
Một niềm tin thắp lửa giữa tâm hồn.

Bước tiếp bước giữa trường đời gian khó
Học làm người lao động siêng năng
Rèn nhân cách vượt lên bao cám dỗ
Đức và Tài tử tế giữa Nhân Dân.

Trường tôi nôi yêu thương
Người thầy của sắn khoai
(Thơ Cô Phạm Thị Ngọc)

Quê anh có dòng Linh Giang
Hương thơm khoai lúa thoảng mùi phù sa
Đất nghèo nuôi nấng con côi
Hiếu học
cần mẫn
vững tâm
tôi rèn

Anh vào Đại học Nông Lâm
vừa kịp giấy gọi
lên đường…
tòng quân

Thanh xuân gắn trọn nghĩa tình
màu xanh rừng núi
tôi rèn
chí trai

Khi xong nhiệm vụ anh về
tiếp tục theo học với nghề
canh nông
Bao năm nghiên cứu sắn, khoai
chọn tạo giống mới ra đời hoàng long

Cả nhà dốc sức nghề nông
khoai mì Ninh Thuận…
sang trồng
đất Cam

Phú Yên giống sắn Việt Nam
kết nối công sức bao người
cùng với thầy trò
tạo lai
Năm mươi tuổi Đảng là đây
mấy thập kỷ
cùng dựng xây
nước nhà

Rèn bao thế hệ học trò
đem nguồn giống mới làm giàu quê hương
Một đời người
một rừng cây
nghiên cứu, giảng dạy
canh nông vững bền.

THẦY NGHỀ NÔNG CHIẾN SĨ

Lớp sinh viên ‘xếp bút nghiên lên đường chiến đấu‘ từ năm 1970 đến 1972,
theo Vnespress, có hơn 10.000 sinh viên các trường đại học ở Hà Nội lên đường nhập ngũ, trực tiếp tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ. Hơn một nửa đã hy sinh tại các mặt trận, nhưng nhiều nhất là trong chiến dịch bảo vệ thành cổ Quảng Trị. https://vnexpress.net/topic/lop-thanh-nien-xep-but-nghien-len-duong-chien-dau-19402. Những người lính sinh viên trường tôi là Trường Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc ra đi cầm súng ngày ấy là đúng vào ngày 2 tháng 9 năm 1971. “Đợt tuyển quân sinh viên trong ngày độc lập đã nói lên sự quyết liệt sinh tử và ý nghĩa thiêng liêng của ngày cầm súng. Chiến trường đánh lớn. Đơn vị chúng tôi chỉ huấn luyện rất ngắn rồi vào trận ngay với 81 đại đội vượt sông Thạch Hãn. Chiến dịch Quảng Trị năm 1972 sau này đã đi vào huyền thoại: “Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Có tuổi hai mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm” Tổ chúng tôi bốn người thì Xuân và Chương hi sinh, chỉ Trung và tôi trở về trường sau ngày đất nước thống nhất.  Những vần thơ viết dưới đây là xúc động sâu xa của tôi khi nghĩ về bạn học đồng đội đã khuất: “Trận chiến hôm qua bạn góp máu hồng. Lớp học hôm nay bạn không trở lại . Trách nhiệm trong mình nhân lên gấp bội. Đồng đội ơi, tôi học cả phần anh” (Thầy bạn là lộc xuân Hoàng Kim)

THẦY NGHỀ NÔNG CHIẾN SĨ
kính tặng anh Trần Mạnh Báo

Bao nhiêu bạn cũ đã đi rồi
Nhớ để mà thương cố gắng thôi
Nhà khoa học xanh gương trung hiếu
Người thầy chiến sĩ đức hi sinh
Dưới đáy đại dương là ngọc quý
Trên đồng chữ nghĩa ấy tinh anh
Doanh nghiệp Thái Bình chăm việc thiện
Giống tốt bội thu vẹn nghĩa tình.

(*) Chúc mừng AHLĐ Trần Mạnh Báo gạo Việt từ giống tốt đến thương hiệu (Ảnh tư liệu từ 1 đến 8). Con đường lúa gạo Việt Nam’ ‘Cơm ngon từ giống, gạo sạch từ tâm’

Xem tiếp: Thầy nghề nông chiến sĩ

Nha khoa hoc xanh nguoi thay chien si
Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là ta-la-ai-doi-thoai-voi-canh-dong.jpg
Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là tu-hoa-lua-bun-non-toi-dong-xuan-ruong-ngau.jpg
Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là mo-hinh-lien-ket-san-xuat-va-bao-tieu-san-pham.jpg

†††

Hat vang quy giua long nguoi thom thao


Trần Mạnh Báo Sáng ngày 9 12 2020 lúc 08:19  các đại biểu dự Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X – 2020 đã vào lăng viếng Bác!

Trần Mạnh Báo viếng Bác

Hoàng Kim Cám ơn Thầy GS Lê Văn Tố và AHLĐ Trần Mạnh Báo ghé đọc sớm nhất bài Việt Nam con đường xanh của Chào ngày mới 26 tháng 3. Hình ảnh anh Báo cùng câu chuyện “Xin lỗi Chủ tịch Huyện” của anh https://www.facebook.com/tranmanh.bao.7/posts/1385882275084355 xin được chia sẻ và bảo tồn thông tin cùng chung trong bài Thầy nghề nông chiến sĩ https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-nghe-nong-chien-si/

VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH

Bác Hồ nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành“. Việt Nam con đường xanh cốt lõi là an dân với năm yếu tố: An sinh xã hội; An tâm; An lạc; An toàn; An ninh. Định hướng chiến lược quốc gia, phương hướng nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế xã hội 2021-2030 (* Đảng Cộng Sản Việt Nam 2020, Văn kiện trình đại hội Đảng XIII của Đảng) xác định 10 giải pháp cơ bản xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-con-duong-xanh/

DẤU XƯA THÀY BẠN QUÝ

Lớp TT4 ĐHNN 2 Hà Bắc
HÀNH TRÌNH NGỌC PHƯƠNG NAM

Kính Chào Thầy Bạn Thân Thương ! Dù chúng ta đang làm gì, ở đâu, Chính Tổ Quốc Nhân Dân Quê Hương Gia Đình Thầy Bạn Người Thân Đã Làm Nên Thế Giới. Hành Trình Ngọc Phương Nam là con đường di sản. 34 chiến sĩ nông nghiệp Lớp TT4 ĐHNN 2 Hà Bắc đã về tới 45 Đinh Tiên Hoàng thành phố Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng. Chuyến hành hương vùng Đền Hùng Vườn Tao Đàn Dinh Thống Nhất Bến Nhà Rồng Bến Nghé và Ngọc phương Nam là chuỗi sự kiện ấm áp hạnh phúc. Kính mời Thầy Bạn bổ sung hình ảnh, cảm nhận và xem tiếp https://khatkhaoxanh.wordpress.com/category/lop-tt4-dhnn2-ha-bac

Thông tin tích hợp tại https://cnm365.wordpress.com
TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
#htn, #vietnamxahoihoc, #htn365, #ana, #dayvahoc, #vietnamhoc,#cnm365#cltv

Lớp TT4 ĐHNN2 Hà Bắc, Hành trình xuôi phương Nam (hình) Nam Tiến của Người Việt. Thầy bạn trong đời tôi; Dấu xưa thầy bạn quý; Thăm thẳm trời sông Thương; Đất Mẹ vùng di sản;

Nguyễn An Tiêm, Lâm Quang Hinh, .., và đội quân đến sớm

Anh Mỹ, anh Minh, anh Tiến, anh Hiển, anh Sáng, anh Cận, anh Phụng … với nhiều thầy bạn nay là hậu phương lớn của chuyến hành trình Ngọc phương Nam.

Quê tôi ở miền Trung nghèo khó “Nhà mình gần ngã ba sông/ Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình,/ Linh Giang sông núi hữu tình / Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con/ Chèo thuyền cho khuất bến Son/ Để con khỏi chộ (thấy) nước non thêm buồn/ Câu thơ quặn thắt đời con/ Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ”. Mẹ tôi mất sớm, cha bị bom Mỹ giết hại, tôi và chị gái đã được anh Hoàng Ngọc Dộ nuôi dạy cơm ngày một bữa suốt năm năm trời. Thầy Nguyễn Khoa Tịnh đứng khóc trên bục giảng vận động thầy cô, bạn hữu chia sớt khoai sắn giúp đỡ. Tôi cũng dạy năm lớp vở lòng, ba lớp bổ túc văn hóa để vượt khó vươn lên. Thầy Hiệu trưởng Trần Đình Côn đã viết những lời xúc động trong trường ca tình thầy trò: Thương em nhỏ gieo neo mẹ mất. Lại cha già giặc giết hôm qua. Tình thầy, tình bạn, tình cha. Ấy là ân nghĩa thiết tha mặn nồng” Những gương mặt thầy bạn đã trở thành máu thịt trong đời tôi. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-ban-trong-doi-toi/

Hải Nhậm ‘đại đoàn Quân Tiên Phong’ làm nhiệm vụ ở Sông Hồng. Phạm Huy Trung Hà Nội

QUA SÔNG THƯƠNG GỬI VỀ BẾN NHỚ

Ta lại hành quân qua sông Thương
Một đêm vào trận tuyến
Nghe Tổ Quốc gọi lên đường!
Mà lòng ta xao xuyến
Và hồn ta căng gió reo vui
Như dòng sông Thương chảy mãi về xuôi
Hôm nay ta ra đi
Súng thép trên vai nóng bỏng

Không qua nhịp cầu ngày xưa soi bóng
Phà đưa ta sang sông
Rạo rực trời khuya, thao thức trong lòng
Rầm rập dòng sông sóng nhạc
Như tình thân yêu muôn vàn của Bác
Tiễn đàn con ra đi

Tầu cập bến rầm rì tiếng máy
Tiếng động cơ sục dưới khoang tàu
Hay sôi ở trong lòng đất cháy
Hay giữa tim ta thúc giục lên đường
Chào bờ Bắc thân yêu hẹn ngày trở lại!

Ôi những con thuyền đèn trôi suốt canh khuya
Có khua nhẹ mái chèo qua bến cũ
Nhắn cho ai ngày đêm không ngủ
Rằng ta đi chưa kịp báo tin vui

Đêm nay bên dòng nước nghiêng trôi
Sông vẫn thức canh trời Tổ Quốc
Rạo rực lòng ta bồi hồi tiếng hát
Đổ về bến lạ xa xôi
Với biển reo ca rộng mở chân trời

Hoàng Kim
(Rút trong tập THƠ VIỆT NAM 1945-2000
Nhà Xuất bản Lao động 2001, trang 646)
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/song-thuong/ tích hợp tại
https://khatkhaoxanh.wordpress.com/2023/09/21/lop-tt4-dhnn2-ha-bac/ đối thoại với bạn hiền, ban mai lặng lẽ sáng https://khatkhaoxanh.wordpress.com/category/ban-mai-lang-le-sang/

Trước tượng Phật Thích Ca Phương Nam (ảnh Trần Văn Liên)

Phan Thanh Kiếm, Lâm Quang Hinh “bạn thân thuở xưa học chung một lớp”

Tôi nói với anh Lâm Quang Hinh ” Mình trích dẫn trong bài viết “Nguyễn Khải ngọc cho đời”: “Trên cuộc đời không có bước đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải vượt qua được những ranh giới ấy”.“Tôi viết vậy thì tôi tồn tại! Viết văn không chỉ do nhu cầu kiếm sống, viết văn cũng không chỉ do những bức xúc khôn khuây của cá nhân, mà viết còn là mong muốn được trao trở về với cái vô hạn”.

“Anh Phan Thanh Kiếm có năng khiếu và sớm kịp trao lại những di sản tử tế ấy, trước khi anh đau. May là anh ấy còn kịp. Anh ấy sụp đau, mình mới ngộ ra được cái lẽ vô thường”
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/phan-thanh-kiem-ban-toi/

Ảnh anh Phan Thanh Kiếm và chị Đỗ Thị Minh Huệ thật tươi. Anh Lê Xuân Đính chụp ảnh đẹp quá! Năm trước lớp ghé thăm anh Hồ Hải Sâm chị Dỗ Thị Minh Huệ và lưu kỹ niệm đẹp. Nha Trang là đát lành. Sắn Việt Đất Ông Hoàng là câu chuyện quý giá

NHA TRANG THƠM TRẦM HƯƠNG

Nha Trang anh chị tôi ở đấy
Bạn học thân từ thuở ấu thơ
Trời xanh như ngọc người phúc hậu
Biển lam màu nắng xuân bốn mùa.

Như lúa đồng xuân đón thái dương
Hoa hướng dương soi tỏ nẻo đường
Đất lành chim đậu người hiền ở
A Na Nha Trang và A. Yersin

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nha-trang-thom-tram-huong/

Hoan hô Đỗ Huy Bằng chùm ảnh thật đẹp!

Vợ chồng anh Nguyễn Đình Sáng Hà Bắc. Ảnh chụp dịp Tết 2023 ảnh hai hai vợ chồng câu cá biển Phú Quốc ảnh hai vợ chồng bên gốc cây Kơ nia 300 tuổi chùa Hùng Anh Tự Phú Quốc tháng 7 năm 2021.

Nguyễn Đình Sáng Tỉnh thức

Nhớ vầng trăng ngọn lửa
Thăm thẳm trời sông Thương
Thắp đèn lên đi em
Gốc mai vàng trước ngõ

Dấu xưa thầy bạn quý
Đồng xuân lưu dấu hiền

Đường xuân đời quên tuổi
Hành trình Ngọc Phương Nam

Nguyễn Du trăng huyền thoại
Sắn Việt Đất Ông Hoàng

Mình chép tặng bạn quý 10 đường links này để cùng đọc cho vui. Tiếc chưa gặp lại sông Thương. Ảnh của anh chị và các bạn mình lưu tại Hành trình Ngọc Phương Nam https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hanh-trinh-ngoc-phuong-nam/

Nơi anh chị lưu hình ảnh trân quý tại Lớp TT4 ĐHNN2 Hà Bắc. Chúc cả nhà vui khỏe hạnh phúc ấm áp tình thân Tổ Quốc Nhân Dân Quê Hương Gia Đình Người Thân Thầy Bạn AN NHIÊN VỚI CHÍNH MÌNH https://khatkhaoxanh.wordpress.com/category/lop-tt4-dhnn2-ha-bac

Kính chào Phan Thanh Sen, Nguyễn Văn Toàn và các trưởng lão, kỹ niệm gặp mặt 53 năm TT4 ĐHNN2 Hà Bắc thật tuyệt vời, ấm áp tình thân..

Nhóm TT4 A miền Trung gặp nhau ở nhà Trung

Thăm thẳm trời sông Thương kỷ niệm gặp mặt thân mật 50 năm ngày lên đường nhập ngũ (2/9/1971- 2/9/2022). tại Trường Đại học Nông nghiệp II Hà Bắc ngày 28 8 2022 các bạn chung lớp cùng ngày lên đường từ trái qua phải Nguyễn Công Hoàn, Phạm Huy Trung, Phan Thanh Sen, Trần Quốc Hiển, Nguyễn Trung Chính (Hoàng Kim ngày ấy hội trường, mình không về dự được) https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tham-tham-troi-song-thuong

BÀI HỌC LỚN MUÔN ĐỜI

Bác Hồ với Ti Tô, Bài học lớn muôn đời. Ta về trời đất Hồng Lam Việt Nam học tinh hoa Tận nhân lực tri thiên mệnh. Hoàng Kim luận sử thi với Đinh Văn Đức bạn quý: “”Nam Tư xưa và ông Kim Ngọc xưa- Một hồi cố” ảnh “Thống chế J.Tito và Bác Hồ 7-8-1957” từ Google và bài của Đinh Văn Đức thật tuyệt vời.. Hoàng Kim đã chép về trang #cnm365 #cltvn 7 tháng 9 và #cnm365 #cltvn 23 tháng 9 để lưu dấu đọc lại.
Tiến bộ giống sắn Việt Nam 1975-2023, đề xuất bảo tồn phát triển sắn đến năm 2030“, thật tâm đắc được tích hợp .

Nam Tư xưa và ông Kim Ngọc xưa- Một hồi cố
@ Đinh Đức, tiến sĩ nông học, bạn học TT4 ĐHNN2 Hà Bắc, Ngày 20 9 2023 tại 45 Đinh Tiên Hoàng lớp đón bạn. “Nam Tư xưa và ông Kim Ngọc xưa- Một hồi cố” và “Thống chế J.Tito và Bác Hồ 7-8-1957” ảnh từ Google, bài do Đinh Đức bạn quý cung cấp thật tuyệt vời!. Kim Hoàng xin tích hợp bài viết này chung trang https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-7-thang-9. Mình thật sự tâm đắc tinh hoa đặc sản quý như vậy cho bài học tiến bộ giống Sắn Việt Nam ngày nay cần cấp thiết bảo tồn và phát triển bền vững. Cảm ơn giáo sư Nguyễn Tử Siêm lời bình sâu sắc.

Gọi là Nam Tư xưa vì cái Liên bang ấy nay không còn nữa. Thay vì nó nay đã có sáu nước cộng hòa nhỏ với bao nhiêu mâu thuẫn nhau và tranh chấp Địa- Chính trị quốc tế.

Trong suốt mấy thập niên thế kỷ XX, “Nam Tư “ (Yougoslavia) là từ “húy kỵ” ở nước ta vì nước này bị khai trừ ra khỏi phe ta năm 1949, bị vu cho là “tên biệt kích của Chủ nghĩa Xét lạ trong phong trào Cộng sản quốc tế, là con vi-rút được đế quốc thả ra để phá hoại”. Tội lớn nhất của Nam Tư là Liên đoàn Những người Cộng sản Nam Tư đứng đầu là nguyên soái J. Tito, khác với Liên Xô và Đông Âu, đã có hai cái độc lập: a) Chấp nhận kinh tế thị trường để xây dựng xã hội Xã hội chủ nghĩa (!), b) Không tiến hành đấu tranh Giai cấp qua các cuộc cải cách. Cái cụm từ “ Kinh tế thị trường” vốn cấm kỵ số một trong lý thuyết và thực hành kinh tế ở các nước Xã hội chủ nghĩa, nơi kinh tế tập trung kế hoạch hóa là chủ thể, cũng là ranh giới giữa ta và địch. Năm 1949 Nam Tư bị Stalin khai trừ ra khỏi phe ta, cử ông George Ghiude, Tổng bí thư Rumani sang gặp Tito để phổ biến.

Thực ra ở ta, Bác Hồ có tư duy độc lập, luôn trước sau chủ trương đoàn kết các nước anh em và Bác cũng muốn tìm hiểu sự thể. Năm 1957, tình hình Đông Âu rất phức tạp. Sau vụ chính biến Hungari 1956, Ba Lan biểu tình và đình công, cái án Nam Tư thì vẫn còn treo, Bác thăm Hung rồi “vượt rào” sang thăm Nam Tư bằng chuyên cơ của không quân Nam Tư theo lời mời của Chủ tịch J.Tito, nghĩa là Bác vẫn coi Nam Tư là nước gần gũi với ta. Bác đã được Chủ tịch J.Tito đón tiếp cực kỳ nồng hậu ( Ông đã lái xe mui trần quanh thủ đô Beograd chở Bác đi xem thành phố).

Năm 1958, Hội nghị các Đảng CS ở Bucarest ra nghị quyết tiếp tục coi Nam Tư là “Xét lại”, cần xa lánh nên ta buộc phải chấp hành. Nhưng Bác không cắt ngoại giao cấp Đại sứ với Nam Tư như một vài nước. Sau hội nghị 81 Đảng ở Mascova 1960, Liên Xô và Trung Quốc cãi nhau to. Liên Xô nới dần quan hệ với Nam Tư, Trung Quốc chống lại và bảo Liên Xô là :” Nay xét lại lớn theo đuôi xét lại nhỏ”(!). Trong lúc tập trung cho công cuộc đấu tranh thống nhất đất nước, ta ở vào thế khó, trong nội bộ cũng có những nhận thức khác nhau. Năm 1963, Trung ương III, khóa 9 ( về họp ở Nam Định) về đối ngoại. Sau này, 1993, ông Việt Phương đến trường Đại học Tổng hợp Hà Nội kể lại: ” Năm 63, Bác Hồ đến dự họp Trung ương, lắng nghe. Mọi người trông đợi ý Bác. Cuối phiên, cụ nghiêm rồi chỉ nói đúng năm phút: ” Làm cách mạng mà muốn thành công thì phải đoàn kết. Bất hòa thì buồn nhưng phải gắng lắng nghe nhau vì cùng có mục đích chung. Trung ương cũng có nhiều chú phân vân bên này bên nọ. Các chú nhớ phải lấy đoàn kết làm trọng. Phải thực tâm đoàn kết. Đoàn kết với cả Liên Xô và Trung Quốc. Không đoàn kết là ta hỏng việc lớn. Phải nghĩ đến việc lớn. Nghĩ xa. Không theo cảm xúc!”. Sau đó Trung ương đã ra được Nghị quyết 9 theo tinh thần của Bác ( trong văn kiện đã có câu: “Đoàn kết Liên Xô, đoàn kết Trung Quốc”). Theo cái “Dĩ bất biến “ vào lúc ấy, tuy ta gặp nhiều khó khăn và liên tục chịu sức ép từ các phía nhưng vẫn thoát ra để đi đến thắng lợi.

Thời và thế đổi thay. Thơ Nguyễn Bính từng nhận ra phép biện chứng trong triết học:

“Mưa chiều, nắng sớm, người ta bảo:

Cả đến ông Giời cũng đổi thay!”

Ông Giời mà “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thì con người cũng không nên mang “ Định mệnh nhân tạo chồng thêm lên Thiên mệnh” ( V.Hugo). Rồi ta cũng phải tự xét lại cái kinh tế bao cấp và giã từ nó để sang trang mới.

Năm 1986. Ta vượt khó và quyết định tự Đổi mới, chấp nhận kinh tế thị trường để phát triển, từng bước coi kinh tế thị trường là một giá trị chung của nhân loại cần được tôn trọng.

Cũng là chấp nhận một bước cách mạng trong lối đi.

Rồi từ ngày ấy bao nhiêu thay đổi đã diễn ra trên đất nước ta: No ấm hơn, Độc lập hơn. Vui vẻ hơn. Hòa nhập sâu rộng vaò quốc tế. Hóa ra Đảng Cộng sản Nam Tư ngày ấy do sớm khởi xướng thể chế “ Chủ nghĩa Xã hội thị trường” mà đã chịu cô đơn, ly thân với các nước anh em. Cứ nghĩ thế thì thấy Nam Tư cũng tựa như một ông Kim Ngọc đơn côi ở ta, người sớm “ cầm đèn chạy trước ô tô” vì động cơ muốn thương dân.

Nam Tư không còn. Ông Kim Ngọc không còn. Nhưng lịch sử thì còn!

Kỷ niệm 10 năm ngày nước ta vào TPP (2021)

Ảnh: Thống chế J.Tito và Bác Hồ (7-8-1957″: Từ Google

Xem tiếp Sông nước Cửu Long
HÀNH TRÌNH NGỌC PHƯƠNG NAM
#DHB1 https://youtu.be/npEnl8KbdIs?si=CTnABfg6Tf200dfr
#DHB2 https://youtu.be/19xWg_1BPq4
#DHB3 https://youtu.be/xIOFc99QH4c
#DHB4 https://youtu.be/SqaOW0BCDB4
#DHB5 https://youtu.be/qHuIJn_bbpM
#LM6 https://youtu.be/Sa1XRHGx_PA

Lớp TT4 ĐHNN2 Hà Bắc https://youtu.be/vNb6pedZxUs Hành trình Ngọc Phương Nam
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hanh-trinh-ngoc-phuong-nam

NGƯỜI LÍNH NƠI ĐẤT MẸ

Vợ Chồng Phan Thanh Sen
Trước Mẹ Tổ Quốc Đất Mũi

Hoàng Kim Lặng Ghi Hinh
Mà Nước Mắt Rưng Rưng

Bao Người Bạn Thân Thương
Những NgườI Con Trung Hiếu
Đã Hiến Dâng Đời Mình
Cho Tổ Quốc Mãi Xanh

Lớp Sinh Viên Thuở Ấy
Xép Bút Nghiên Lên Đường
Nhiều Bạn Không Gặp Lại
Xuân Và Chương Cùng Tổ

Thơ Của Người Ra Trận
Thăm thẳm trời sông Thương

Mùa Thu này ngày hai ba …
Người Lính Ấy Làm Hoa Đất
Hoàng Thành Trúc Lâm Phước Đức

Đường xuân theo chân Bác
Trọn Đời Trung Hiếu Hi Sinh


https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tham-tham-troi-song-thuong/

Chúc mừng 53 năm gặp mặt Lớp TT4 ĐHNN2 Hà Bắc Hành trình Ngọc Phương Nam ấm áp tình thân. Thật hạnh phúc tuyệt vời !

NAM TIẾN CỦA NGƯỜI VIỆT

Nam tiến là xu thế tự nhiên, tất yếu của lịch sử người Việt. Bản đồ đất nước Việt Nam qua các đời nguồn Việt Nam dư địa chí , đặc biệt là các bài “Lịch sử Nam Tiến của dân tộc Việt Nam” (Trúc Khê Lê Văn Triện) trang 1247, “Đất nước Việt Nam qua các đời” (Đào Duy Anh) trang 1277 và những dẫn liệu đúc kết của Bách Khoa Thư Việt Nam, Wikipedia là dẫn liệu toàn cảnh, quan trọng cho tầm nhìn lịch sử Nam tiến của người Việt từ thời Lý cho đến nay. Một cách khái lược, hành trình Nam tiến kéo dài trên 700 năm từ thế kỷ 11 đến giữa thế kỷ 18, nâng diện tích lãnh thổ từ ban đầu độc lập (năm 938) cho đến nay (năm 2022) lãnh thổ Việt Nam hình thành và tồn tại với tổng diện tích gấp 3 lần.

Tác phẩm ”Nỗi niềm Biển Đông” của nhà văn Nguyên Ngọc dẫn lời của giáo sư Đào Duy Anh là một khái quát gọn nhất và rõ nhất về hai phân kỳ Lịch sử Việt Nam; nguồn gốc và động lực Nam Tiến. xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nam-tien-cua-nguoi-viet/

Mở đầu cuốn Việt Nam văn hóa sử cương, cụ Đào Duy Anh viết: “Khắp một vùng trung châu Bắc Việt, không mẫu đất nào là không có dấu vết thảm đảm kinh dinh của tổ tiên ta để giành quyền sống với vạn vật; suốt một dải Trung Việt vào đến trung châu Nam Việt, không một khúc đường nào là không nhắc lại sự nghiệp gian nan tiến thủ của tổ tiên ta để mở rộng hy vọng cho tương lai.” Thật ngắn gọn, thật súc tích, vị học giả cao kiến đã đúc kết chặt chẽ và cực kỳ chính xác hai chặng đường lớn mấy thiên niên kỷ của dân tộc; và chỉ bằng mấy chữ cô đọng, chỉ ra không thể rõ hơn nữa đặc điểm cơ bản của mỗi chặng, có ý nghĩa không chỉ để nhìn nhận quá khứ, mà còn để suy nghĩ về hôm nay và ngày mai – những suy nghĩ, lạ thay, dường như đang càng ngày càng trở nên nóng bỏng, cấp thiết hơn.

Chặng thứ nhất, tổ tiên ta, từ những rừng núi chật hẹp phía bắc và tây bắc, quyết chí lao xuống chiếm lĩnh hai vùng châu thổ lớn sông Hồng và sông Mã, mênh mông và vô cùng hoang vu, toàn bùn lầy chưa kịp sánh đặc, “thảm đảm kinh dinh để giành quyền sống với vạn vật” – mấy chữ mới thống thiết làm sao – hơn một nghìn năm vật lộn dai dẳng giành giật với sóng nước, với bùn lầy, với bão tố, với thuồng luồng, cá sấu … để từng ngày, từng đêm, từng giờ, vắt khô từng tấc đất, cắm xuống đấy một cây vẹt, một cây mắm, rồi một cây đước, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm  này qua năm khác, trăm năm này qua trăm năm khác, khi đất đã được vắt khô, được rửa mặn và ứng đặc, cắm xuống đấy một cây tạo bóng mát, rồi một cây ăn quả, một cây lúa, một mảnh lúa, rồi một đồng lúa …, tạo nên chỗ đứng chân cho từng con người, từng đôi lứa, từng gia đình, rồi từng cộng đồng, từng xóm mạc, từng làng, từng tổng, từng huyện, …cho đến toàn dân tộc, toàn xã hội, lập nên nửa phần là gốc cội của giang sơn ta ngày nay. Và hẳn còn phải nói thêm điều này nữa, cuộc thảm đạm kinh dinh vật lộn với thiên nhiên ấy lại còn phải cọng thêm cuộc vật lộn cũng dai dẳng, quyết liệt, không hề kém can trường và thông minh, để sáng tạo, định hình và gìn giữ một bản sắc Việt riêng giữa trăm Việt, là một Việt độc đáo và đặc sắc, không bị hòa tan bởi một thế lực hung hản, khổng lồ, luôn muốn xóa bỏ và hòa tan tất cả …   Hơn một thiên niên kỷ thiết lập và trụ vững, tạo nên nền tảng vững bền, để bước sang chặng thứ hai.

Chặng thứ hai, như cụ Đào Duy Anh đã đúc kết cũng thật ngắn gọn và chính xác, “gian nan tiến thủ để mở rộng hy vọng cho tương lai”.  Trên gốc cội ấy rồi, đi về đâu? Chỉ còn một con đường duy nhất: Về Nam. Có lẽ cũng phải nói rõ điều này: trước hết, khi đã đứng chân được trên châu thổ sông Hồng sông Mã rồi, kháng cự vô cùng dũng cảm và thông minh suốt một nghìn năm để vẫn là một Việt đặc sắc không gì đồng hóa được rồi, thì mối uy hiếp bị thôn tính đến từ phương bắc vẫn thường xuyên và mãi mãi thường trực. Không nối dài được giang sơn cho đến tận Cà Mau và Hà Tiên thì không thể nào bắc cự. Ở bước đường chiến lược này của dân tộc có cả hai khía cạnh đều hết sức trọng yếu. Khía cạnh thứ nhất: phải tạo được một hậu phương thật sâu thì mới đủ sức và đủ thế linh hoạt để kháng cự với mưu đồ thôn tính thường trực kia. Lịch sử suốt từ Đinh Lê Lý Trần Lê, và cả cuộc chiến tuyệt vời của Nguyễn Huệ đã chứng minh càng về sau càng rõ điều đó. Chỉ xin nhắc lại một sự kiện nghe có thể lạ: chỉ vừa chấm dứt được 1000 năm bắc thuộc bằng trận đại thắng của Ngô Quyền, thì Lê Hoàn đã có trận đánh sâu về phương nam đến tận Indrapura tức Đồng Dương, nam sông Thu Bồn của Quảng Nam. Đủ biết cha ông ta đã tính toán sớm và sâu về vai trò của phương Nam trong thế trận tất yếu phải đứng vững lâu dài của dân tộc trước phương bắc như thế nào.

 Khía cạnh thứ hai, vừa gắn chặt với khía cạnh thứ nhất, vừa là một “bước tiến thủ” mới “mở rộng hy vọng cho tương lai”, như cách nói sâu sắc của cụ Đào Duy Anh. Bởi có một triết lý thấu suốt: chỉ có thể giữ bằng cách mở, giữ để mà mở, mở để mà giữ. Phải mở rộng hy vọng cho tương lai thì mới có thể tồn tại. Tồn tại bao giờ cũng có nghĩa là phát triển. Đi về Nam là phát triển. Là mở. Không chỉ mở đất đai. Càng quan trọng hơn nhiều là mở tầm nhìn. Có thể nói, suốt một thiên niên kỷ trước, do cuộc thảm đảm kinh dinh để giành dật sự sống với vạn vật  còn quá vật vã gian nan, mà người Việt chủ yếu mới cắm cúi nhìn xuống đất, giành thêm được một một mẩu đất là thêm được một mẩu sống còn. Bây giờ đã khác. Đã có 1000 năm lịch sử để chuẩn bị, đã có thời gian và vô số thử thách để tạo được một bản lĩnh, đã có trước mặt một không gian thoáng đảng để không chỉ nhìn xa mãi về nam, mà là nhìn ra bốn hướng. Nhìn ra biển. Phát hiện ra biển, biển một bên và ta một bên, mà lâu nay ta chưa có thể toàn tâm chú ý đến. Hay thay và cũng tuyệt thay, đi về Nam, người Việt lại cũng đồng thời nhìn ra biển, nhận ra biển, nhận ra không gian sống mới, không gian sinh tồn và phát triển mới mệnh mông của mình. Hôm nay tôi được ban tổ chức tọa đàm giao cho đề tài có tên là “nổi niềm Biển Đông”. Tôi xin nói rằng chính bằng việc đi về nam, trên con đường đi ngày càng xa về nam mà trong tâm tình Việt đã có được nổi niềm biển, nổi niềm Biển Đông. Cũng không phải ngẫu nhiên mà từ đó, nghĩa là từ đầu thiên niên kỷ thứ hai, với nổi niềm biển ngày càng thấm sâu trong máu Việt, cha ông ta, người dân Việt, và các Nhà nước Việt liên tục, đã rất sớm khẳng định chủ quyền Việt Nam trên các hải đảo và thềm lục địa “.

Nam Tien cua nguoi Viet 2


Nam Tiến của người Việt từ thời tự chủ đến nay được chia làm ba giai đoạn chính:

Giai đoạn 1 từ năm 1009 khởi đầu nhà Lý  cho đến năm 1525 khởi đầu nhà Mạc, trãi Đinh, Tiền Lê, Nhà Lý, Nhà Trần (1226-1400), Nhà Hồ (1400- 1407),  Nhà Lê sơ (1428-1527). Cương vực nước Đại Việt là bản đồ màu xanh đến ranh giới đèo Ngang hoặc sông Gianh ranh giới Hà Tĩnh và Quảng Bình ngày nay. Giải đất các đồng bằng nhỏ ven biển Nam Trung Bộ suốt thời kỳ này là sự giành đi chiếm lại của Đại Việt và Chiêm Thành.Đây là giai đoạn đầu mới giành được độc lập tự chủ, lãnh thổ Đại Việt bao gồm khu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng, các đồng bằng nhỏ ven biển Bắc Trung Bộ. Sông Gianh là cực nam của đất nước.

Giai đoạn 2 từ năm 1526 khởi đầu nhà Mạc của nước Đại Việt đến năm 1693 kết thúc việc sáp nhập Chiêm Thành vào Đại Việt và đến năm 1816 sáp nhập hoàn toàn Chân Lạp, Tây Nguyên với các hải đảo vào lãnh thổ của nước Đại Nam thời Minh Mệnh nhà Nguyễn để có ranh giới cương vực như hiện nay. Thời kỳ này trãi từ Nhà Mạc (1527- 1592), Nhà Lê trung hưng (1533-1789), Trịnh-Nguyễn phân tranh,  nhà Tây Sơn (1778- 1802) Chiến tranh Tây Sơn–Chúa Nguyễn (1789-1802) Việt Nam thời Nhà Nguyễn (1804-1839). Bản đồ cương vực màu  xanh gồm khu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng, các đồng bằng nhỏ ven biển Bắc Trung Bộ thuộc Đằng Ngoài, cương vực màu vàng từ địa đầu Quảng Bình đến đèo Cù Mông tỉnh Phú Yên, bao gồm các đồng bằng nhỏ ven biển Nam Trung Bộ, Tây Nguyên  thuộc Đàng Trong, Từ năm 1693 cho đến năm 1839 lãnh thổ Việt Nam lần lượt bao gồm  Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long với các hải đảo .

Giai đoạn 3 từ năm 1839 cho đến nay, bao gồm:  Đại Nam thời Nhà Nguyễn (1839- 1945); Thời Pháp thuộc Liên bang Đông Dương (nhập chung với Lào, Campuchia, Quảng Châu Loan 1887 -1945); Giai đoạn từ năm 1945 đến nay (Đế quốc Việt Nam: tháng 4 năm 1945 – tháng 8 năm 1945 dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim; Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: từ 2 tháng 9 năm 1945 đến 2 tháng 7 năm 1976; Quốc gia Việt Nam: dựng lên từ 1949 đến 1955 với quốc trưởng Bảo Đại bởi chính quyền Pháp; Việt Nam Cộng hòa: tồn tại với danh nghĩa kế tục Quốc gia Việt Nam từ 1955 đến 30 tháng 4 năm 1975 tại miền Nam; Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam sau là Cộng hoà Miền Nam Việt Nam: từ 8 tháng 6 năm 1960 đến 2 tháng 7 năm 1976; Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: từ ngày 2 tháng 7 năm 1976 đến nay).

Đặc trưng cương vực giai đoạn 1 là Sông Giang làm cực Nam của Đằng Ngoài khi chân chúa Nguyễn Hoàng sáng nghiệp đất Đằng Trong. Năm 1558, chúa Nguyễn Hoàng đã cùng với con em vùng đất Thanh Nghệ vào trấn nhậm ở đất Thuận Hóa Quảng Nam, lấy Hoành Sơn, Linh Giang và Luỹ Thầy sau này làm trường thành chắn Bắc. Nguyễn Hoàng đã có những chính sách hiệu quả để phát triển vùng đất Đằng Trong mở rộng lãnh thổ về phương Nam. Các hậu duệ của Nguyễn Hoàng tiếp tục chính sách  bắc cự nhà Trịnh, nam mở mang đất, đến năm 1693 thì sáp nhập toàn bộ đất đai Chiêm Thành vào Đại Việt.

Đặc trưng cương vực giai đoạn 2 là Núi  Đại Lãnh và núi đá Bia tỉnh Phú Yên là chỉ dấu quan trọng Nam tiến của người Việt từ thế kỷ 11 đến cuối thế kỷ 17. Lê Hoàn năm 982 đem quân đánh Chiêm Thành mở đất phương Nam là lần xuất chinh sớm nhất của Đại Việt, và năm 1693 là năm cuối cùng toàn bộ phần đất Chiêm Thành ở Phú Yên sáp nhập hoàn toàn vào Đại Việt.

Vua Lê Thánh Tông năm 1471 khi vua thân chinh cầm quân tấn công Chiêm Thành  tương truyền đã dừng tại chân núi đá Bia và cho quân lính trèo lên khắc ghi rõ cương vực Đại Việt. Thời Nhà Nguyễn, đến năm 1816 thì sáp nhập toàn bộ đất đai Chân Lạp, Tây Nguyên và các hải đảo vào lãnh thổ Đại Nam. Kể từ lần xuất chinh đầu tiên của Lê Hoàn từ năm 982 đến năm 1693 trãi 711 năm qua nhiều triều đại, hai vùng đất Đại Việt Chiêm Thành mới quy về một mối. Người Việt đã đi như một dòng sông lớn xuôi về biển, có khi hiền hòa có khi hung dữ, với ba lần hôn phối một lần thời Trần (Huyền Trân Công Chúa) và hai lần thời Nguyễn (Ngọc Khoa Công Chúa và Ngọc Vạn Công Chúa), với chín lần chiến tranh lớn  nhỏ đã hòa máu huyết người Việt với người Chiêm để bước qua lời nguyền núi đá Bia ở núi Phú Yên thực hiện công cuộc “gian nan tiến thủ để mở rộng hy vọng cho tương lai”, cho đến năm 1834 thành nước Đại Nam và sau trở thành nước Việt Nam như ngày nay.

Đặc trưng cương vực giai đoạn 3 là vị thế nước Việt Nam độc lập toàn vẹn ngày nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh người đặt nền móng cho một nước Việt Nam mới đã kiên quyết khôn khéo nhanh tay giành được chính quyền và lập nên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, bởi Pháp bại Nhật hàng vua Bảo Đại thoái vị. Bác nói và làm những điều rất hợp lòng dân: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một; sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”. “Nay, tôi chỉ có một tin tưởng vào Dân tộc độc lập. Nếu (tôi) cần có đảng phái thì sẽ là Đảng dân tộc Việt Nam. Đảng đó sẽ chỉ có một mục đích làm cho dân tộc ta hoàn toàn độc lập. Đảng viên của đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô ra ngoài.

CHỐN TỔ CỦA NGƯỜI VIỆT

Việt Nam nôi người Việt là vùng đất Rồng Tiên Văn Lang và Việt Thường xưa. Đất Rồng là Tam giác châu Bắc Bộ, chốn tổ nghề lúa Việt Nam và Thế giới; non Tiên là đất Việt Thường.

Vùng tam giác châu Bắc Bộ với ba đỉnh Việt Trì, Ninh Bình, Quảng Ninh, có trọng tâm là Hoàng Thành Thăng Long, thủ đô Hà Nội ngày nay. Hoàng Thành Thăng Long Hà Nội với Hưng Yên, Cổ Loa là địa danh nghiên cứu lịch sử văn hóa dân tộc Việt đặc biệt quan trọng . Giáo sư Trần Quốc Vượng tại lời tựa sách “Địa chí văn hóa dân gian Ninh Bình” do Trương Đình Tuyển chủ biên (Nhà Xuất bản Thế Giới, Hà Nội, xuất bản năm 2004, 678 trang) đã trích dẫn Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi nói về địa thế hiểm yếu của non sông Việt:

Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác

Đỉnh thứ nhất của tam giác châu Bắc Bộ ở đỉnh Tản Viên của dãy núi Ba Vì ở Việt Trì thuộc tỉnh Phú Thọ, nằm ở tả ngạn sông Hồng, bên kia là huyện Ba Vì, Hà Nội. Việt Trì là thành phố địa chính trị văn hóa lịch sử Việt Nam, nơi có kinh đô Văn Lang, kinh đô đầu tiên của người Việt, quê hương đất tổ vua Hùng, cửa ngõ vùng Tây Bắc, đầu mối giao thông nối giữa các tỉnh trung du và miền núi phía bắc với thủ đô Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc bộ, nằm trên hành lang kinh tế Hải Phòng – Hà Nội – Côn Minh (Trung Quốc). Việt Trì cũng là thành phố ngã ba sông nơi hợp lưu của sông Thao, sông Lô, sông Đà thành sông Hồng.

Đỉnh thứ hai của tam giác châu Bắc Bộ ở núi Yên Tử thuộc tỉnh Quảng Ninh nơi có Quần thể di tích danh thắng Yên Tử ở Bắc Giang và Quảng Ninh. Đây là quần thể danh thắng đặc biệt nổi tiếng liên tỉnh đầu tiên ở Việt Nam được đệ trình Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc UNESCO xem xét, công nhận là Di sản thế giới. Việt Trì nối với Quảng Ninh là dải Tam Đảo nối 99 ngọn Nham Biền với dãy núi vòng cung Đông Triều tạo nên thế hiểm “trường thành chắn Bắc”, bề dày núi non hiểm trở khoảng 400 km núi đá che chắn mặt Bắc của thủ đô Hà Nội non sông Việt.

Đỉnh thứ ba của tam giác châu huyền thoại Bắc Bộ ở núi Mây Bạc của Dãy núi Tam Điệp thuộc khu vực Tam Điệp–Tràng An của ba tỉnh  Hòa Bình, Ninh Bình và Thanh Hóa. Dãy núi Tam Điệp là dải núi cuối cùng của dãy núi Ba Vì từ đỉnh tam giác châu Tản Viên, Việt Trì rồi 99 ngọn chạy dọc sông Đáy, sông Hoàng Long mà tới vùng Thần Phù Nga Sơn đâm ra gần sát biển theo hướng Tây Bắc Đông Nam. Đây cũng là vùng quần thể di sản thế giới Tràng An nơi có chùa Bái Đính là quần thể chùa có nhiều kỷ lục châu Á và Việt Nam được xác lập như chùa có tượng Phật bằng đồng dát vàng lớn nhất châu Á, chùa có hành lang La Hán dài nhất châu Á, chùa có tượng Di lặc bằng đồng lớn nhất Đông Nam Á

Sông Hoàng Long chảy hoài

Sông Hoàng Long sông Hoàng Long
Nguồn nước yêu thương chảy giữa lòng
Bái Đính Tràng An nôi người Việt
Cao Sơn thăm thẳm đức Minh Không.

Dãy núi Tam Điệp, sông Hoàng Long và khu vực Tam Điệp Tràng An là nôi loài người Việt cổ thuộc nền văn hóa Tràng An thời kỳ đồ đá cũ và một số hang động ở Tam Điệp có di chỉ cư trú của con người thời văn hóa Hòa Bình. Vùng đất này là chốn tổ của nghề lúa châu Á và Thế Giới. Dãy núi Tam Điệp , sông Hoàng Long cắt ngang vùng đồng bằng duyên hải thành hai phần châu thổ sông Hồng và sông Mã nên nó được xem là ranh giới giữa miền Bắc và miền Trung. Dãy núi Tam Điệp là bức tường thành thiên nhiên lợi hại ngăn cách hai vùng Ninh Bình Thanh Hoá và án ngữ các đường thuỷ bộ từ Bắc vào Nam, đường bộ qua đèo Tam Điệp, đường thuỷ qua cửa Thần Phù. Dãy núi Tam Điệp chứa đựng nhiều giá trị địa chính trị, lịch sử, văn hóa với vai trò là nôi người Việt tiền sử, với những danh thắng và phòng tuyến quân sự rất nổi tiếng như cửa Thần Phù, phòng tuyến Tam Điệp, rừng Cúc Phương, hồ Yên Quang, hồ Đồng Chương, hồ Yên Thắng, núi Cao Sơn, động Người Xưa, hang Con Moong,…

Dãy núi Tam Điệp nối liền với Dãy núi Trường Sơn (trong tiếng Lào là Phu Luông) là dãy núi dài nhất Việt Nam và Lào, dài khoảng 1.100 km. Dãy núi Trường Sơn tiếp nối với dãy núi Ba Vì và Dãy núi Tam Điệp , bắt đầu từ thượng nguồn sông Cả trên đất Lào giáp Nghệ An tới tận cực nam Trung Bộ. Nó bao gồm toàn bộ các dãy núi nhỏ hơn ở Bắc Trung Bộ và các khối núi, cao nguyên Nam Trung Bộ, xếp thành hình cánh cung lớn mà mặt lồi quay ra Biển Đông. Trường Sơn được chia thành Trường Sơn Bắc và Trường Sơn Nam, ngăn cách bởi đèo Hải Vân và núi Bạch Mã. Dãy núi Trường Sơn là xương sống để nối liến hình thế Bắc Nam liền một giải.

DẠO CHƠI NON NƯỚC VIỆT

Anh và em,
chúng mình cùng nhau
dạo chơi non nước Việt.

Anh đưa em vào miền cổ tích
nơi Lạc Long Quân và Âu Cơ
sinh ra đồng bào mình trong bọc trứng,
thăm đền Hùng Phú Thọ
ở Nghĩa Lĩnh, Việt Trì,
về Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội,
thủ đô Việt Nam,
hồn thiêng sông núi tụ về.

“Khắp vùng đồng bằng sông Hồng,
vùng núi và trung du phía Bắc,
không mẩu đất nào không lưu dấu tổ tiên
để giành quyền sống với vạn vật.

Suốt dọc các vùng
từ duyên hải Bắc Trung Bộ,
đến duyên hải Nam Trung Bộ,
Tây Nguyên,
Đông Nam Bộ,
Đồng Bằng Sông Cửu Long,
là sự nghiệp gian nan tiến thủ của tổ tiên
để mở rộng hy vọng tương lai dân tộc” (1)

Tổ Quốc bốn nghìn năm
giang sơn gấm vóc
biết bao nơi lòng ta thầm ước
một lần đến thăm.

Anh đưa em lên Phù Vân
giữa bạt ngàn Yên Tử
nơi “vũ trụ mắt soi ngoài biển cả” (2)
đến Hạ Long,
Hương Sơn,
Phong Nha,
Huế,
Hải Vân,
Non nước,
Hội An,
Thiên Ấn,
Hoài Nhơn,
Nha Trang,
Đà Lạt.

Về tổ ấm chúng mình
Ngọc phương Nam.
Tình yêu muôn đời:
Non nước Việt Nam.

1) Đào Duy Anh
2) Nguyễn Trãi  

Sông Sài Gòn
xem tiếp Nam tiến của người Việt

Việt Nam con đường xanh
Việt Nam dư địa chí
Việt Nam sáng tạo KHCN
Việt Nam tâm thế mới
Việt Nam tổ quốc tôi
Việt Nam thông tin khái quát
Việt Nam thời Nhà Trần
Việt Nam đất nước con người

VUI ĐI TRÊN ĐƯỜNG LỚN
VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH

THẦY BẠN LÀ LỘC XUÂN

Kính chào Nhóm K4 Trường ĐHNN2 . Chúc mừng sự hội ngộ thân thiết, sự kết nối vui khỏe ngày mới.
Thầy bạn trong đời tôi; Thầy bạn là lộc xuân; Dấu xưa thầy bạn quý; bảo tồn và phát triển thông tin Cuộc đời cao hơn trang văn. Tôi neo lại ít hình ảnh tư liệu chọn lọc của 5 lớp để nhớ Nhóm K4 Trường ĐHNN 2, Lớp 10A TT ĐHNN2 Hà Bắc; Trồng trọt 2A, Trồng trọt 2B, Trồng trọt 2C thầy ban Trường Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc, (là tiền thân Trường Đại học Nông Lâm Huế và Trường Đại học Bắc Giang ngày nay), với Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam hiện nay. Ngắm hình ảnh thầy bạn, lòng tôi bồi hồi xúc động nhớ lại. Ai cũng có câu chuyện của riêng mình. Thầy bạn đã lưu lại ảnh hưởng sâu sắc trong đời chúng ta. Video Kỷ niệm 50 năm Trường Đại học Nông Lâm Huế https://hoangkimlong.wordpress.com/category/dau-xua-thay-ban-quy/.

LỜI THƯƠNG

Ta đi về chốn trong ngần
Để thương sỏi đá cũng cần có nhau

Tôi viết bài này để tỏ lòng biết ơn thầy bạn dưới mái trường Nông Lâm thân thương và làm món quà nhỏ thân tặng cho các em sinh viên nghèo hiếu học, Trường tôi nôi yêu thương, Một niềm tin thắp lửa; Thầy bạn trong đời tôi; Hoa Đất lời Thầy dặn. Về Trường để nhớ thương. Thầy bạn là lộc xuân, đời tôi nếu thiếu sự động viên giúp đỡ này thì tôi không thể có được ngày hôm nay:“Em đã học nhiều gương sáng danh nhân. Hãy biết nhục, biết hèn mà lập chí. Thắp đèn lên đi em, ngọn đèn dầu bền bỉ. Sáng giữa đời lấp lánh một niềm tin” Ngày Hạnh Phúc là ngày luôn ấm áp tình thầy bạn. Lời thương sâu sắc lắng đọng. Thật hạnh phúc và yêu thích khi “Ta vui hòa nhịp thời gian Thung dung nhàn giữa gian nan đời thường”, https://cnm365.wordpress.com/https://hoangkimlong.wordpress.com

DẤU XƯA THẦY BẠN QUÝ
Hoàng Kim


Thăm thẳm trời sông Thương
Dấu xưa thầy bạn quý
Quê Mẹ vùng di sản
Hà Nội mãi trong tim


Thầy bạn là lộc xuân. “Dù chúng ta đang ở đâu, chính thầy bạn đã tạo nên thế giới”. Thầy bạn quý đã lưu dấu đặc biệt sâu sắc trong đời mỗi chúng ta. Kính chào thầy bạn thân thương. Gặp nhau hay ngắm ảnh là quý lắm rồi; xin chúc mừng thầy bạn và tỏ lời biết ơn chân thành. Lời thương “Ta đi về chốn trong ngần Để thương sỏi đá cũng cần có nhau”. Cao hơn trang văn là cuộc đời. Ngắm hình ảnh thầy bạn, lòng tôi thật bồi hồi xúc động. Hoàng Kim bảo tồn một ít hình ảnh tư liệu của 5 lớp bạn học và 6 lớp trường đời: Trồng trọt 4, lớp sinh viên xếp bút nghiên lên đường ra trận; Trồng trọt 10; Trồng trọt 2A; Trồng trọt 2B; Trồng trọt 2C của Trường Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc (là tiền thân Trường Đại học Nông Lâm Huế và Trường Đại học Bắc Giang), với Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam hiện nay. Bấm vào bốn đường dẫn để đọc bài và xem ảnh chọn lọc tại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/dau-xua-thay-ban-quy/

Hà Nội mãi trong tim

Du lịch sinh thái Việt https://youtu.be/rwiIoQVC4xI Hồ Ba Bể Bắc Kạn Video tích hợp tại Dấu xưa thầy bạn quý https://hoangkimlong.wordpress.com/category/dau-xua-thay-ban-quy/ và Vườn Quốc gia Việt Nam https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vuon-quoc-gia-viet-nam/

TRƯỜNG TÔI NÔI YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim

Thầy bạn là lộc xuân. Cuộc đời cao hơn trang văn. Tôi neo lại ít hình ảnh tư liệu của 5 lớp bạn học để nhớ gồm Lớp Trồng trọt 4, LớpTrồng trọt 10A của Trường Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc(là tiền thân Trường Đại học Nông Lâm Huế và Trường Đại học Bắc Giang ngày nay) LớpTrồng trọt 2A, Lớp Trồng trọt 2B, Lớp Trồng trọt 2C của Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh hiện tại.. Ngắm hình ảnh thầy bạn lòng tôi bồi hồi xúc động nhớ lại. Ai cũng có câu chuyện của riêng mình. Thầy bạn đã lưu lại ảnh hưởng sâu sắc trong đời chúng ta. “Dù chúng ta đang ở đâu, chính thầy bạn đã tạo nên thế giới”. Video Kỷ niệm 50 năm Trường Đại học Nông Lâm Huế, Video kỷ niệm 55 thành lập Trường và 41 năm ngày ra trường của Lớp 10A TT ĐHNN2 Hà Bắc xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-ban-trong-doi-toi/

tt2-1

Quê Mẹ vùng di sản Thầy bạn trong đời tôi

Video links K4 ĐHNN2 Về nguồn: Dấu xưa thầy bạn quý 1 https://youtu.be/jjcyeTAWkSk Dấu xưa thầy bạn quý 2 https://youtu.be/CPMB8HO2o18 Dấu xưa thầy bạn quý 3 https://youtu.be/TRydNh_CsLQ Dấu xưa thầy bạn quý 4 https://youtu.be/ZbRn5E3v1Tg, Dấu xưa thầy bạn quý 5 https://youtu.be/M_UzejaF-iw; Dấu xưa thầy bạn quý 6 https://youtu.be/3GhnJ7_DH9s; Dấu xưa thầy bạn quý video6 https://youtu.be/xiquHaK6MZU Dấu xưa thầy bạn quý video7 https://youtu.be/6zS6abrz78A; Dấu xưa thầy bạn quý video 8 https://youtu.be/vMX87Cxfitw; Dấu xưa thầy bạn quý video9 https://youtu.be/twd3XP6uPBQ video của Đỗ Huy Bằng, Lâm Quang Hinh. Hoàng Kim tích hợp thông tin tại https//hoangkimlong.wordpress.com/category/dau-xua-thay-ban-quy/; (phần đọc thêm là tư liệu cá nhân để nhớ)

Đại Học Huế Trường Đại học Nông Lâm kỷ niệm 50 năm cán bộ, giảng viên, sinh viên Đại học Nông nghiệp 2 Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế lên đường nhập ngũ, Thừa Thiên Huế ngày 29 tháng 8 năm 2022. Bài viết đỉnh của Hoàng Hải Hưng 50 năm – Cuộc gặp mặt ân tình và xúc động https://lsvn.vn/50-nam-cuoc-gap-mat-an-tinh-va-xuc-dong1661826775.html

“Trong số những người lên đường ngày ấy, ngày kỉ niệm 50 năm này chỉ được hơn một phần ba về gặp mặt. Tuy số lượng không được đủ nhưng khi gặp lại nhau ai cũng mừng mừng, tủi tủi” . 50 năm – Cuộc gặp mặt ân tình và xúc động Báo Luật sư Việt Nam , 30/ 08/ 2022 09:32 đưa tin.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Thanh Đức, Bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng nhà trường, thay mặt lãnh đạo nhà trường báo cáo thành tích của nhà trường trong 50 năm qua. Trong những năm mới thành lập tại tỉnh Hà Bắc vô cùng khó khăn, nhà cửa bằng tranh tre, nứa lá, vách xây bằng đất sét đổ khuôn, mái lợp bằng lá cọ, nhưng nhà trường luôn đạt thành tích cao trong dạy và học. Sau khi đất nước thống nhất có hàng trăm sinh viên nhà trường xung phong vào các tỉnh Bình Trị Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng, Nghĩa Bình, Phú Khánh, Thuận Hải, Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, miền Tây Nam Bộ, Côn Đảo chi viện đắc lực cho các địa phương phục hồi sản xuất, phục hồi kinh tế. Hiện nay, nhà trường có 4 Giáo sư, 34 Phó Giáo sư, 115 Tiến sĩ, số giảng viên có trình độ Tiến sĩ chiếm 46%. Nhà trường thực hiện phương châm: “Phát triển toàn diện, gắn với thị trường lao động, hội nhập quốc tế”. Nhà trường luôn đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo, chủ động đa dạng hóa và mở rộng quy mô đào tạo một cách hợp lý, nâng cao chất lượng, đào tạo toàn diện, đáp ứng nhu cầu nguồn lực chất lượng cao trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Đến nay nhà trường có 28 ngành nghề đào tạo hệ đại học chính quy, 11 ngành đào tạo Thạc sĩ và 9 ngành đào tạo Tiến sĩ, quy mô đào tạo 4.200 sinh viên, học viên. Trải qua 50 năm xây dựng và phát triển nhà trường đã đào tạo cung cấp nguồn lực chất lượng cao, sản phẩm khoa học, công nghệ tiên tiến theo hướng hội nhập và phát triển. Cung cấp cho đất nước 35.000 kỹ sư, 2.700 Thạc sĩ, trên 80 Tiến sĩ.50 năm – Cuộc gặp mặt ân tình và xúc động Báo Luật sư Việt Nam , 30/ 08/ 2022 09:32 thông tin tiếp.

Hội cựu giáo viên, sinh viên Trường Đại học Nông nghiệp II Hà Bắc ngày 28 8 2022 gặp mặt thân mật kỷ niệm 50 năm ngày lên đường nhập ngũ (2/9/1971- 2/9/2022). Video link ĐHNLHuế kỷ niệm 50 năm nhập ngũ https://youtu.be/E1e-kGj-BnYhttps://youtu.be/7c4WQm58oHg

xem tiếp thông tin chuỗi sự kiện mới 25/8-2/9/2022 liên tục tại #cnm365 #cltvn 25 tháng 8; #cnm365 #cltvn 26 tháng 8; cnm365 #cltvn 27 tháng 8; #cnm365 #cltvn 28 tháng 8; #cnm365 #cltvn 29 tháng 8; #cnm365 #cltvn 30 tháng 8; #cnm365 #cltvn 31 tháng 8; https://hoangkimlong.wordpress.com/category/dau-xua-thay-ban-quy

Hội Cựu Giáo Chức UAF NLU thông báo: Trân trọng kính mời Quý Thầy, Cô tham dự Lễ Kỷ niệm Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, và 66 năm ngày thành lập Trường (19/ 11/ 1955 – 19/ 11/ 2021). Thời gian: 8 giờ 30, ngày 19/11/2021 Hình thức: online qua Microsoft Teams Link truy cập: https://go.hcmuaf.edu.vn/NgayNhaGiaoVietNam Quý Thầy, Cô cần hỗ trợ kỹ thuật xin liên hệ Phòng Thông tin – Truyền thông (Anh Lê Việt Thanh, sđt 0987171129). Trân trọng kính chào quý Thầy, Cô. xem tiếp https://www.tuoitrenonglam.com/2019/11/tuoi-tre-nong-lam-to-chuc-le-ky-niem-37.html và Video www.facebook.com/watch/?v=1441938182649272

Một niềm tin thắp lửa https://hoangkimlong.wordpress.com/category/mot-niem-tin-thap-lua/

Về Trường để nhớ thương
(Dư âm những niềm vui cũ, hình ảnh và cảm nhận được trân trọng bảo tồn và phát triển)

CÂU CHUYỆN ẢNH THÁNG 11
Hoàng Kim

Trường tôi nôi yêu thương
Về Trường để nhớ thương
Vui bước tới thảnh thơi
Dạy và học ngày mới

Cây Lương thực Việt Nam
Hoa Lúa giữa Đồng Xuân
Sắn Việt Nam ngày nay
CNM365 Tình yêu cuộc sống

Thăm nhà cũ của Darwin
Nguyễn Du trăng huyền thoại
Sóc Trăng Lương Định Của
Chuyện thầy Tôn Thất Trình

Thầy bạn trong đời tôi
Thầy nghề nông chiến sĩ
Việt Nam con đường xanh
Một niềm tin thắp lửa

Nhớ kỷ niệm một thời
Mình về với chính mình

Câu chuyện ảnh tháng 11 tại 14 đường dẫn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/day-va-hoc-ngay-moi

Chúc mừng Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh lể công bố trao quyết định bổ nhiệm trưởng phó các đơn vị trực thuộc, nhiệm kỳ mới; Nơi và ngày và công bố NLU 30 3 2021 . Hình ảnh và thông tin mời xem tại https://www.facebook.com/trandinhly.nonglam /posts/4446895225325162

Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh nôi yêu thương đào tạo nguồn lực khoa học nông nghiệp. Trường tôi có lịch sử hình thành từ Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục BLao (Bảo Lộc) thành lập ngày 19 tháng 11 năm 1955. Khóa 1 và khóa 2 chúng tôi năm 1975 là lớp sinh viên đầu tiên của mái trường này sau ngày Việt Nam thống nhất. Lịch sử của Trường trãi qua ba giai đoạn (1955-1975, 1975-2000, 2000- đến nay).Tòa nhà chính Phượng Vĩ biểu tượng Trường Đại Học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh hôm nay là khối nhà chữ U do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ khôi nguyên La Mã xây dựng, được đưa vào sử dụng năm 1974. Tại tòa nhà chính lộng lộng trên cao kia là dòng chữ nổi bật tên Trường, nơi ẩn ngữ “KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO” lời Chủ tịch Hồ Chí Minh; Trường tôi thấm sâu bài học lịch sử: “Trận chiến hôm qua bạn góp máu hồng. Lớp học hôm nay bạn không trở lại. Trách nhiệm trong mình nhân lên gấp bội. Đồng đội ơi, tôi học cả phần anh”. Nơi đây lắng đọng những trang vàng truyền thống: Thầy Hiếu Đêm Giáng Sinh kể lại; Chuyện thầy Tôn Thất Trình; Chuyện thầy Dương Thanh Liêm; Chuyện thầy Ngô Kế Sương; Thầy Quyền thâm canh lúa; Thầy bạn là lộc xuân; Thầy bạn trong đời tôi; Chung sức; Về Trường để nhớ thương; Việt Nam con đường xanh; …Biết bao ký ức và gương sáng về Trường tỏa sáng tình yêu thương.

MỘT NIỀM TIN THẮP LỬA
Hoàng Kim

Nhìn đàn em ngời niềm vui rạng rỡ.
Chợt thấy lòng rưng rưng.
Công việc nghề nông cực mà hạnh phúc.
Cố lên em nổ lực không ngừng !

Hột mồ hôi lắng vào hạt gạo
Câu ca ông bà theo suốt tháng năm
Thêm bữa cơm ngon cho người lao động
Nâng chén cơm thơm, qúy trọng người trồng.

Em ơi hãy học làm ruộng giỏi
Nghề nông thời nào cũng quý kỹ năng
Người dân khá hơn là niềm ao ước
Công việc này giao lại cho em.

Có một mùa xuân hạnh phúc
Ơn mẹ cha lam lũ sớm hôm
Thương con vạc gọi sao mai dậy sớm
Một niềm tin thắp lửa giữa tâm hồn.

Bước tiếp bước giữa trường đời gian khó
Học làm người lao động siêng năng
Rèn nhân cách vượt lên bao cám dỗ
Đức và Tài tử tế giữa Nhân Dân.

Congviecnaytraolaichoem

Trường tôi nôi yêu thương

Hình ảnh và bài viết đã đăng trên Kỷ yếu 65 năm Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh trang 146

Hoàng Kim: Hình ảnh ấm áp tình bạn. Chúc mừng Cựu SV Nông Nghiệp ( Đại Gia Đình NÔNG LÂM MỤC SÚC) Nguyen Van Thuan và quý thầy bạn. Trường tôi nôi yêu thương Anh chị khóa 13 Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh NLU trước Việt Nam thống nhất hhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/truong-toi-noi-yeu-thuong/

Ngày Tam Hợp 1 tháng 6. Chúc mừng sinh nhật thầy Tuyến Bùi Cách vui khỏe hạnh phúc
Ngày 2 tháng 1 Chúc mừng sinh nhật thầy Phạm Hữu Nguyên vui khỏe hạnh phúc.

Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh nôi yêu thương đào tạo nguồn lực khoa học nông nghiệp.

Chúc mừng tân tiến sĩ Trịnh Việt Nga (Nga Trịnh). Chúc mừng Trường Đại Học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, Phòng Đào tạo Sau Đại học, Khoa Nông học, Viện Nghiên cứu CNSH & Môi trường; Chúc mừng phòng Công nghệ Tế bào Thực vật, Viện Sinh Học Nhiệt Đới vừa nâng cấp thêm một tiến sĩ. Chúc mừng gia đình Thuy Nguyen Nga Trinh ngày hạnh phúc tuyệt vời. Chúc mừng đại gia đình thầy Vu Trinh với quý thầy cô bạn hữu TRƯỜNG TÔI NÔI YÊU THƯƠNG trong sự nghiệp lớn đào tạo và nâng cấp đội ngũ nhân lực khoa học. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/truong-toi-noi-yeu-thuong/

Trường tôi nôi yêu thương

TRƯỜNG TÔI NÔI YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim

Trận chiến hôm qua bạn góp máu hồng. Lớp học hôm nay bạn không trở lại. Trách nhiệm trong mình nhân lên gấp bội. Đồng chí ơi, tôi học cả phần anh”. Tòa nhà Phượng Vĩ Trường Đại Học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh hôm nay là khối nhà chữ U do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ khôi nguyên La Mã xây dựng vừa hoàn thành đưa vào sử dụng năm 1974. Trường tôi có lịch sử hình thành từ Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục BLao (Bảo Lộc) năm 1955. Khóa 1 và khóa 2 chúng tôi là lớp sinh viên đầu tiên của mái trường này. Tại tòa nhà chính lộng lộng trên cao kia là dòng chữ nổi bật “KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO” của Chủ tịch Hồ Chí Minh; mãi sau này, đến nhiệm kỳ 1989-1994, thầy Trịnh Xuân Vũ, Phó Hiệu Trưởng Nhà trường mới đưa trở về biểu tượng Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh. Trường tôi thấm sâu bài học lịch sử; Nghị lực và Ơn Thầy; Thầy bạn trong đời tôi; Về Trường để nhớ để thương; https://hoangkimlong.wordpress.com/category/truong-toi-noi-yeu-thuong/

TRƯỜNG TÔI THẤM SÂU BÀI HỌC LỊCH SỬ

Trường tôi nôi yêu thương. Trường Đại Học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh trong muôn vàn chỉ dấu thì tòa nhà Phượng Vĩ là biểu tượng tiêu biểu. Theo thông tin lưu dấu ở bài Dinh Thống Nhất vườn Tao Đàn  Trường tôi và lòng thương yêu gửi lại của thầy Lưu Trọng Hiếu  thì khối nhà chữ U trường tôi là một trong bốn công trình chính liên hoàn do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ là tổng công trình sư xây dựng: Chữ T dinh Độc Lập, chữ H chợ Đà Lạt, chữ U Trường Đại học Nông nghiệp Sài Gòn và dấu nặng (.) Hồ Con Rùa. Đó là bốn kế lớn chấn hưng đất nước “vua sáng, kinh tế, nông nghiệp, nội chính” .

Biểu tượng Dinh Độc lập (hình chữ T) với ý nghĩa đất nước muốn giàu mạnh, thì trước hết người lãnh đạo đất nước phải là “bậc minh quân hiền tài”, trọng “quân đức, dân tâm, học pháp”, biết “chăm lo sức dân để lập đại kế sâu rễ bền gốc” bảo tồn và phát triển bền vững năng lực Quốc gia.

Biểu tượng Chợ Đà Lạt (hình chữ H) với ý nghĩa trọng tâm của nổ lực quốc gia là phải phát triển kinh tế (phi thương bất phú), mở mang giao thương, chấn hưng nghiệp cũ, phát triển nghề mới, khuyến học dạy dân, “Nên thợ, nên thầy nhờ có học/ No ăn, no mặc bởi hay làm” (Nguyễn Trãi), “chú trọng mậu dịch buôn bán, lấy việc thông thương an toàn làm chữ Nghĩa (Nguyễn Hoàng), chú trọng lao động để dân giàu nước mạnh.

Biểu tượng Trường Đại Học Nông Nghiệp Sài Gòn (hình chữ U) với ý nghĩa là phải chấn hưng giáo dục đại học, phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt là giáo dục phát triển nông nghiệp để nâng cao thu nhập, sinh kế, việc làm và an sinh xã hội, nâng cao chất lượng và giá trị nông sản (dĩ nông vi bản) vì quá nữa người Việt làm nghề nông.

Và sau cùng là biểu tượng Hồ Con Rùa (hình dấu (.) nặng) với ý nghĩa là nội chính an dân, thượng tôn pháp luật,  kỷ cương phép nước, giữ vững bờ cõi, bảo tồn nguyên khí, thương yêu dân chúng an vui lạc nghiệp, “biết thương yêu dân, luyện tập binh sĩ để xây dựng cơ nghiệp muôn đời” (Lời chúa Nguyễn Hoàng dặn chúa Nguyễn Phúc Nguyên),

Biết bao chuyện trước và sau ngày 30 tháng 4 và ngày 1 tháng 5 mà lịch sử chân thực sẽ còn phải nhiều lần quay lại. Với gia đình tôi, tấm ảnh hai anh em ruột ôm nhau ngày gặp mặt giữa Sài Gòn giải phóng hòa chung trong sự khao khát mong đợi của hàng triệu người. Tháng năm nhớ lại và suy ngẫm là bức tranh của một gia đình nông dân Việt bình thường ‘cuốn theo chiều gió” trong số phận của đất nước, dân tộc.

Sau tháng năm, đơn vị tôi ra làm đường biên giới ở Tiên Yên Móng Cái của tỉnh Quảng Ninh và đoàn 568 của sư đoàn 325B sau này là nòng cốt của sư đoàn 356 nước mắt Vị Xuyên. Tôi trở về lại mái trường xưa, anh trai tôi tiếp tục sang Campuchia “giúp bạn cũng là giúp mình” nhiều năm, sau thời gian quân quản thành phố.

“Nghị lực” và “Ơn Thầy” là hai bài thơ người lính trở về sau chiến tranh.

NGHỊ LỰC VÀ ƠN THẦY

Nghị lực

Đâu phải bây giờ ta mới quý thời gian
Mỗi ngày đi qua
Mỗi tháng đi qua
Mỗi năm đi qua
Thấm thoắt thời gian
Nhìn sự vật đổi thay ta biết rõ

Mái tóc Thầy ta đã bạc đi già nữa
Hàng trăm bạn bè thuở ấy đã đi xa
Ta lại về đây với mái trường xưa
Thân thiết quá nhưng sao hồi hộp thế
Trăm khuôn mặt trông vừa quen vừa lạ
Ánh mắt chào đọng sáng những niềm vui

Ta chỉ là hạt cát nhỏ nhoi
Trong trùng điệp triệu người lên tuyến lửa
Giá độc lập giờ đây thêm hiểu rõ
Thắng giặc rồi càng biết quý thời gian

Đất nước ba mươi năm chiến đấu gian nan
Mỗi tấc đất đều đậm đà nghĩa lớn
Bao xương máu cho tự do toàn vẹn
Bao đồng bào, đồng chí đã hi sinh.

Ta dâng cho Tổ Quốc tuổi thanh xuân
Không tiếc sức cho cuối cùng trận thắng
Xếp bút nghiên để đi cầm khẩu súng
Càng tự hào làm người lính tiên phong

Nay trở về khi giặc đã quét xong
Trách nhiệm trao tay tiếp cầm ngọn bút
Nâng cuốn sách lòng bồi hồi cảm xúc
Ta hiểu những gì ta phải gắng công

Trận thắng hôm qua bạn góp máu hồng
Lớp học hôm nay bạn không trở lại
Trách nhiệm trong mình nhân lên gấp bội
Đồng chí ơi, tôi học cả phần anh.

Biết ơn thầy cô giáo dịu hiền
Bằng khích lệ động viên lòng vượt khó
Trăm gian nan buổi ban đầu bở ngỡ
Có bạn thầy càng bền chí vươn lên

Trước mỗi khó khăn có bạn luôn bên
Như đồng đội trong chiến hào chia lửa
Ôi thân thiết những bàn tay tập thể
Ta nhủ lòng cần xứng đáng hơn

Đâu phải bây giờ ta mới quý thời gian
Hiểu mất mát, biết tự hào phải cố
Trận tuyến mới nguyện xứng là chiến sĩ
Thiêng liêng lời thề, vững một niềm tin.

Ơn Thầy

Kính tặng Thầy Dộ, thầy Tịnh , thầy Quyền
và những người Thầy quý mến

Cha ngày xưa nuôi con đi học
Một nắng hai sương trên những luống cày
Trán tư lự, cha thường suy nghĩ
Phải dạy con mình như thế nào đây?

Cha ngày xưa nuôi con đi học
Một nắng hai sương trên những luống cày
Trán tư lự, cha thường suy nghĩ
Phải dạy con mình như thế nào đây?

Cha mất sớm, bom thù rung mặt đất
Cái chết giằng cha ra khỏi tay con
Mắt cha lắng bao niềm ao ước
Vẫn lo cho con đến phút cuối cùng

Giặc giết cha, cha chưa kịp thấy
Tương lai con đi, sự nghiệp con làm
Cha có biết, luống cày cha bỏ dỡ
Cha ngã xuống rồi trao lại tay con

Trên luống cày này, đường cày con vững
Bởi có dáng thầy thay bóng cha xưa
Hiểu mảnh đất máu đào cha nhuộm đỏ
Thôi thúc tim con học tập phút giờ …

THẦY BẠN TRONG ĐỜI TÔI

Tôi viết bài này để tỏ lòng biết ơn thầy bạn dưới mái trường Nông Lâm thân thương và làm món quà nhỏ thân tặng cho các em sinh viên nghèo hiếu học nhân ngày Nhà giáo Việt Nam. Thầy, bạn là lộc xuân của đời tôi mà nếu thiếu sự động viên, giúp đỡ này thì tôi không thể có được hôm nay:“Em đã học nhiều gương sáng danh nhân. Hãy biết nhục, biết hèn mà lập chí. Thắp đèn lên đi em, ngọn đèn dầu bền bỉ. Sáng giữa đời lấp lánh một niềm tin” (1).

Về lại mái trường ta đã lớn khôn

Ai cũng có ước nguyện về trường. Tôi thấu hiểu vì sao thầy Đặng Quan Điện người Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn (tiền thân của Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh hiện nay), thầy Dương Thanh Liêm cựu Hiệu trưởng lỗi lạc của Trường đã đề nghị cho Thầy được ghé thăm Trường trước khi Thầy đi vào chốn vĩnh hằng. Thầy Tôn Thất Trình, người hiệu trưởng thứ hai của Trường nay gần 90 xuân đã viết blog The Gift (2) như một quà tặng trao lại cho lớp trẻ và viết hai bài hột lúa (3), con cá (4) cho ngày Nhà giáo Việt Nam. Thầy Lưu Trọng Hiếu với tình yêu thương gửi lại (5) đã hiến tặng toàn bộ tiền phúng viếng của Thầy cùng với số tiền gia đình góp thêm để làm quỷ học bổng cho Trường tặng những em sinh viên nghèo hiếu học. Ca sỹ Đàm Vĩnh Hưng tặng học bổng cho sinh viên Đại học Nông Lâm gặp khó khăn học giỏi (6) vì tuổi thơ của anh nhọc nhằn không có cơ hội đến trường, khi thành đạt anh muốn chia sẻ để chắp cánh cho những ước mơ.

Tôi cũng là người học trò nghèo năm xưa với ba lần ra vào trường đại học, cựu sinh viên của năm lớp, nay tỏ lòng biết ơn bằng cách trở lại Trường góp chút công sức đào tạo và vinh danh những người Thầy người Bạn đã cống hiến không mệt mỏi, thầm lặng và yêu thương góp công cho sự nghiệp trồng người. Chừng nào mỗi chúng ta chưa thấm hiểu sự nhọc nhằn của người nông dân một nắng hai sương làm ra hạt gạo. Chừng nào những giá trị khoa học cao quý, liên tục, âm thầm chưa đủ mang lại niềm vui cho bữa ăn người nghèo thì chừng đó chúng ta vẫn còn phải dạy và học. Cái gốc của sự học là học làm người. Bài học quý về tình thầy bạn mong rằng sẽ có ích cho các em sinh viên đang nổ lực khởi nghiệp.

Quê tôi ở miền Trung nghèo khó “Nhà mình gần ngã ba sông/ Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình,/ Linh Giang (7) sông núi hữu tình / Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con/ Chèo thuyền cho khuất bến Son/ Để con khỏi chộ (thấy) nước non thêm buồn/ Câu thơ quặn thắt đời con/ Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ ”. Mẹ tôi mất sớm, cha bị bom Mỹ giết hại, tôi và chị gái đã được anh Hoàng Ngọc Dộ nuôi dạy cơm ngày một bữa suốt năm năm trời. Thầy Nguyễn Khoa Tịnh đứng khóc trên bục giảng (8) vận động thầy cô, bạn hữu chia sớt khoai sắn giúp đỡ. Tôi cũng dạy năm lớp vở lòng, ba lớp bổ túc văn hóa để vượt khó vươn lên. Thầy Hiệu trưởng Trần Đình Côn đã viết những lời xúc động trong trường ca tình thầy trò: “Thương em nhỏ gieo neo mẹ mất. Lại cha già giặc giết hôm qua. Tình thầy, tình bạn, tình cha. Ấy là ân nghĩa thiết tha mặn nồng” (9) Những gương mặt thầy bạn đã trở thành máu thịt trong đời tôi.

Thi đậu vào Trường Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc năm 1970, tôi học Trồng trọt 4 cùng khóa với các bạn Trần Văn Minh, Đỗ Thị Minh Huệ, Phan Thanh Kiếm, Đỗ Khắc Thịnh, Vũ Mạnh Hải, Phạm Sĩ Tân, Phạm Huy Trung, Lê Xuân Đính, Nguyễn Hữu Bình, Lê Huy Bá … cho đến ngày 02 tháng 9 năm 1971 thì tôi gia nhập quân đội cùng lứa với Nguyễn Văn Thạc. Đợt tuyển quân sinh viên trong ngày độc lập đã nói lên sự quyết liệt sinh tử và ý nghĩa thiêng liêng của ngày cầm súng. Chiến trường đánh lớn. Đơn vị chúng tôi chỉ huấn luyện rất ngắn rồi vào trận ngay với 81 đại đội vượt sông Thạch Hãn. Chiến dịch Quảng Trị năm 1972 sau này đã đi vào huyền thoại: “Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Có tuổi hai mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm” (10) Tổ chúng tôi bốn người thì Xuân và Chương hi sinh, chỉ Trung và tôi trở về trường sau ngày đất nước thống nhất. Những vần thơ viết dưới đây là xúc động sâu xa của tôi khi nghĩ về bạn học đồng đội đã khuất: “Trận chiến hôm qua bạn góp máu hồng. Lớp học hôm nay bạn không trở lại. Trách nhiệm trong mình nhân lên gấp bội. Đồng chí ơi, tôi học cả phần anh” (11)

Tôi về học tiếp năm thứ hai tại Trồng trọt 10 của Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc đến cuối năm 1977 thì chuyển trường vào Đại học Nông nghiệp 4, tiền thân Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Trồng trọt 2 thuở đó là một lớp chung mãi cuối khóa mới tách ra 2A,2B, 2C. Tôi làm Chủ tịch Hội Sinh viên thay cho anh Nguyễn Anh Tuấn khoa thủy sản ra trường về dạy Đại học Cần Thơ. Trồng trọt khóa hai chúng tôi thuở đó được học với các thầy cô: Nguyễn Đăng Long, Tô Phúc Tường, Nguyễn Tâm Đài, Trịnh Xuân Vũ, Lê Văn Thượng, Ngô Kế Sương, Trần Thạnh, Lê Minh Triết, Phạm Kiến Nghiệp, Nguyễn Bá Khương, Nguyễn Tâm Thu, Nguyễn Bích Liễu, Trần Như Nguyện, Trần Nữ Thanh, Vũ Mỹ Liên, Từ Bích Thủy, Huỳnh Thị Lệ Nguyên, Trần Thị Kiếm, Vũ Thị Chỉnh, Ngô Thị Sáu, Huỳnh Trung Phu, Phan Gia Tân, Nguyễn Văn Tài, Nguyễn Văn Kế, … Ngoài ra còn có nhiều thầy cô hướng dẫn thực hành, thực tập, kỹ thuật phòng thí nghiệm, chủ nhiệm lớp như Bùi Cách Tuyến, Nguyễn Văn Kịp, Lê Quang Hưng, Trương Đình Khôi, Nguyễn Ngọc Châu, Nguyễn Gia Quốc, Nguyễn Văn Biền, Lê Huy Bá, Hoàng Quý Châu, Phạm Lệ Hòa, Đinh Ngọc Loan, Chung Anh Tú và cô Thảo làm thư ký văn phòng Khoa. Bác Năm Quỳnh là Bí thư Đảng ủy đầu tiên của Trường sau đó là thầy Kiên và cô Bạch Trà. Thầy Nguyễn Phan là Hiệu trưởng kiêm Trưởng Trại Thực nghiệm. Thầy Dương Thanh Liêm, Nguyễn Ngọc Tuân, Võ Thị Tuyết, Ngô Văn Mận, Bùi Xuân An … ở khoa Chăn nuôi Thú y, thầy Nguyển Yên Khâu, Nguyễn Quang Lộc … ở khoa Cơ khí, cô Nguyễn Thị Sâm ở Phòng Tổ chức, cô Văn Thị Bạch Mai dạy tiếng Anh, thầy Đặng, thầy Tuyển, thầy Châu ở Kinh tế -Mác Lê …Thầy Trần Thạnh, anh Quang, anh Đính, anh Đống ở trại Trường là những người đã gần gũi và giúp đỡ nhiều các lớp nông học.

Thuở đó đời sống thầy cô và sinh viên thật thiếu thốn. Các lớp Trồng trọt khóa 1, khóa 2, khóa 3 chúng tôi thường hoạt động chung như: thực hành sản xuất ở trại lúa Cát Lái, giúp dân phòng trừ rầy nâu, điều tra nông nghiệp, trồng cây dầu che mát sân trường, rèn nghề ở trại thực nghiệm, huấn luyện quốc phòng toàn dân, tập thể dục sáng, hội diễn văn nghệ, thi đấu bóng chuyền, bóng đá tạo nên sự thân tình gắn bó. Những sinh viên các khóa đầu tiên được đào tạo ở Khoa Nông học sau ngày Việt Nam thống nhất hiện đang công tác tại trường có các thầy cô như Từ Thị Mỹ Thuận, Lê Văn Dũ, Huỳnh Hồng, Cao Xuân Tài, Phan Văn Tự, …

Tháng 5 năm 1981, nhóm sinh viên của khoa Nông học đã bảo vệ thành công đề tài thu thập và tuyển chọn giống khoai lang Hoàng Long, Chiêm Dâu, Gạo, Bí Đà Lạt được Bộ Nông nghiệp công nhận giống ở Hội nghị Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Toàn Quốc Lần thứ Nhất tổ chức tại Thành phố Hố Chí Minh. Đây là một trong những kết quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật đầu tiên của Trường giới thiệu cho sản xuất. Thầy Cô Khoa Nông học và hai lớp Trồng trọt 2, Trồng trọt 3 cũng đã làm họ trai họ gái tác thành đám cưới cho vợ chồng tôi. Sau này, chúng tôi lấy tên khoai Hoàng Long để đặt cho con và thầm hứa việc tiếp nối sự nghiệp nghiên cứu khoa học và giảng dạy, một nghề nghiệp cao quý và lương thiện. “Biết ơn thầy cô giáo dịu hiền. Bằng khích lệ động viên lòng vượt khó. Trăm gian nan buổi ban đầu bở ngỡ. Có bạn thầy càng bền chí vươn lên. Trước mỗi khó khăn tập thể luôn bên. Chia ngọt xẻ bùi động viên tiếp sức. Thân thiết yêu thương như là ruột thịt. Ta tự nhủ lòng cần cố gắng hơn (11).

Bạn học chúng tôi vẫn thỉnh thoảng họp mặt, có Danh sách các lớp Trồng trọt 2, Trồng trọt 3 số điện thoại và địa chỉ liên lạc. Một số hình ảnh của các lớp ngày ấy và bây giờ.

Những bài học quý từ những người Thầy

Nhiều Thầy Bạn đã hun đúc nên nhân cách, niềm tin, nghị lực và trang bị kiến thức vào đời cho tôi, xin ghi lại một số người Thầy ảnh hưởng lớn đối với tôi và những bài học:

Thầy Mai Văn Quyền nghề nông của chúng tôi sống phúc hậu, tận tâm sát thực tiễn và hướng dẫn khoa học. Công việc làm người hướng dẫn khoa học trong điều kiện Việt Nam phải dành nhiều thời gian, chu đáo và nhiệt tình. Thầy Quyền là chuyên gia về kỹ thuật thâm canh lúa và hệ thống canh tác đã hướng nghiệp vào đời cho tôi. Những dòng thơ tôi viết trên trang cảm ơn của luận án tiến sĩ đã nói lên tình cảm của tôi đối với thầy cô: “Ơn Thầy (12). Cha ngày xưa nuôi con đi học. Một nắng hai sương trên những luống cày. Trán tư lự, cha thường suy nghĩ. Phải dạy con mình như thế nào đây? Cha mất sớm, bom thù rung mặt đất. Cái chết giằng cha ra khỏi tay con. Mắt cha lắng bao niềm ao ước. Vẫn lo cho con đến phút cuối cùng. Giặc giết cha, cha chưa kịp thấy. Tương lai con đi, sự nghiệp con làm. Cha có biết, luống cày cha bỏ dỡ. Cha ngã xuống rồi trao lại tay con. Trên luống cày này, đường cày con vững. Bởi có dáng thầy thay bóng cha xưa. Hiểu mảnh đất máu đào cha nhuộm đỏ. Thôi thúc tim con học tập phút giờ …”. Thầy Quyền hiện đã 76 tuổi (năm 2010), đang đào tạo trên đại học cho Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh và nhiều Viện Trường khác. Tấm gương phúc hậu và tận tụy của Thầy luôn nhắc nhở tôi.

Thầy Norman Borlaug di sản niềm tin và nổ lực sống nhân đạo, làm nhà khoa học xanh và nêu gương tốt. Thầy là nhà nhân đạo, nhà nông học Mỹ cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và Tổng thống Mỹ trao tặng huân chương cao quý nhất của nước Mỹ, thế giới tôn vinh là nhà bác học số một của nhân loại trong cuộc chiến chống nghèo đói. Thầy đã suốt đời nghiên cứu giảng dạy về chọn tạo và phát triển cây lương thực, góp phần cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập cho hàng trăm triệu nông dân nghèo ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Thầy là người sáng lập Giải thưởng Lương thực Thế giới và tổ chức nhiều hoạt động thiết thực thắp sáng niềm tin yêu cuộc sống. Tôi được Thầy ghé thăm gần trọn buổi chiều tại phòng riêng ở CIMMYT, Mexico ngày 29.8.1988. Thầy đã một mình ghé thăm người trò nhỏ duy nhất của châu Á trong lớp học “Quản lý Trung tâm/ Trạm trại Nông nghiệp”. Khi Thầy đến, tôi đang thắp nến trên giá sách trong phòng đề tưởng nhớ ngày cha mất. Biết cha tôi bị bom Mỹ giết hại tại làng nhỏ ở Quảng Bình của buổi chiều này hai mươi năm trước (1968) lúc tôi còn là học sinh trung học của Trường cấp Ba Bắc Quảng Trạch, Thầy bối rối xin lỗi và thật bất ngờ tôi đã có được một buổi chiều vô giá riêng tư bên Thầy. Lời Thầy dặn thật thấm thía: “ Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao (13). Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm tiếng để đời”. (14)

Thầy Tôn Thất Trình những người Việt lỗi lạc ở FAO, sống nhân cách, dạy từ xa và chăm viết sách. Giáo sư Tôn Thất Trình sinh ngày 27 tháng 9 năm 1931 ở huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên (Huế), thuộc hoàng tộc nhà Nguyễn Phước, hiện hưu trí tại Irvine, California, Hoa Kỳ đã có nhiều đóng góp thiết thưc, hiệu quả cho nông nghiệp, giáo dục, kinh tế Việt Nam. Thầy làm giám đốc Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn theo bổ nhiệm của GS. Phạm Hoàng Hộ, tổng trưởng giáo dục đương thời chỉ sau bác sỹ Đặng Quan Điện vài tháng. Giáo sư Tôn Thất Trình đã hai lần làm Tổng Trưởng Bộ Canh Nông và Cải Cách Điền Địa năm 1967 và 1973, nguyên chánh chuyên viên, tổng thư ký Ủy Ban Lúa Gạo Quốc Tế của FAO (Rome). Thành tựu nổi bật của giáo sư trên lĩnh vực nông nghiệp bao gồm việc chỉ đạo phát triển đại trà năm 1967-1973 lúa Thần Nông (IR8…) nguồn gốc IRRI mang lại chuyển biến mới cho nghề lúa Việt Nam; Giáo sư trong những năm làm việc ở FAO đã giúp đỡ Bộ Nông nghiệp Việt Nam phát triển các giống lúa thuần thấp cây, ngắn ngày nguồn gốc IRRI cho các tỉnh phìa Bắc; giúp phát triển lúa lai, đẩy mạnh các chưong trình cao su tiểu điền, mía, bông vải, đay, đậu phộng , dừa, chuối, nuôi cá bè ở Châu Đốc An Giang, nuôi tôm ở Bạc Liêu, Sóc Trăng, nuôi cá măng ở Bình Định, nuôi tôm càng xanh ở ruộng nước ngọt, trồng phi lao chống cát bay, trồng bạch đàn xen cây họ đậu phủ xanh đất trống đồi trọc, trồng lại thông hai lá, ba lá ở Huế và ở Đà Lạt, nuôi heo lai ba dòng nhiều nạc, nuôi dê sữa , bò sữa, trồng rau, hoa, cây cảnh. Trong lĩnh vực giáo dục, giáo sư đã trực tiếp giảng dạy, đào tạo nhiều khóa học viên cao đẳng, đại học, biên soạn nhiều sách. Giáo sư có nhiều kinh nghiệm và đóng góp trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại và quan hệ quốc tế với Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Pháp…

Tôi học gián tiếp Thầy qua sách báo và internet. Giáo trình nông học sau ngày Việt Nam thống nhất thật thiếu thốn. Những sách Sinh lý Thực vật, Nông học Đại cương, Di truyền học, Khoa học Bệnh cây , Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam … do tập thể hoặc chuyên gia đầu ngành phía Bắc biên soạn thời đó hiếm và quý như vàng. Cái khó khác cho thầy trò chúng tôi là thiếu kinh nghiệm thực tiễn của đồng ruộng phương Nam. Những bộ sách của thầy Trình như Cải Thiện Trồng Lúa 1965-66 (hai lần tái bản), Nông Học Đại Cương 1967 (ba lần tái bản), Mía Đường 1972 (hai lần tái bản), Cây Ăn Trái Có Triển Vọng 1995 (ba lần tái bản), Cây Ăn Trái Cho Vùng Cao 2004, … cùng với sách của các thầy Nguyễn Hiến Lê, Trần Văn Giàu, Phạm Hoàng Hộ, Lương Định Của, Lê Văn Căn, Vũ Công Hậu, Vũ Tuyên Hoàng, Đường Hồng Dật, Nguyễn Văn Luật, Võ Tòng Xuân, Mai Văn Quyền, Thái Công Tụng, Chu Phạm Ngọc Sơn, Phạm Thành Hổ … đã bổ khuyết rất nhiều cho sự học hỏi và thực tế đồng ruộng của chúng tôi. Sau này khi đã ra nước ngoài, thầy Trình cũng viết rất nhiều những bài báo khoa học kỹ thuật, khuyến học trên các báo nước ngoài, báoViệt Nam và blog The Gift.

Điều tôi thầm phục Thầy là nhân cách kẻ sĩ vượt lên cái khó của hoàn cảnh để phụng sự đất nước. Lúa Thần Nông áp dụng ở miền Nam sớm hơn miền Bắc gần một thập kỷ. Sự giúp đỡ liên tục và hiệu quả của FAO sau ngày Việt Nam thống nhất có công lớn của thầy Trình và anh Nguyễn Văn Đạt làm chánh chuyên gia của FAO. Blog The Gift là nơi lưu trữ những “tâm tình” của gíáo sư dành cho Việt Nam, đăng các bài chọn lọc của Thầy từ năm 2005 sau khi về hưu. Đa số các bài viết trên blog của giáo sư về Phát triển Nông nghiệp, Kinh Tế Việt Nam, Khoa học và Đời sống trong chiều hướng khuyến khích sự hiếu học của lớp trẻ. Nhân cách và tầm nhìn của Thầy đối với tương lai và vận mệnh của đất nước đã đưa đến những đóng góp hiệu quả của Thầy kết nối giữa quá khứ và hiện tại, tạo niềm tin tương lai, hòa giải và hòa hợp dân tộc.

Thầy Lương Định Của con đường lúa gạo, lắng đọng trong tôi một nhân cách, một người thầy lớn …

Thầy, Bạn là lộc xuân của cuộc đời

Bill Clinton trong tác phẩm ‘Đời tôi’ (15) đã xác định năm việc chính quan trọng nhất của đời mình là muốn làm người tốt, có gia đình êm ấm, có bạn tốt, thành đạt trong cuộc sống và viết được một cuốn sách để đời. Ông đã giữ trên 30 năm cuốn sách mỏng “Làm thế nào để kiểm soát thời gian và cuộc sống của bạn” và nhớ rõ năm việc chính mà ông ước mơ từ lúc còn trẻ. Thầy quý bạn hiền là lộc xuân của cuộc đời. Tôi biết ơn mái trường thân yêu mà từ đó tôi đã vào đời để có được những cơ hội học và làm những điều hay lẽ phải.

Anh Bùi Chí Bửu tâm sự với tôi: Anh Bổng (Bùi Bá Bổng) và mình đều rất thích bài thơ này của Sơn Nam :

Trong khói sóng mênh mông
Có bóng người vô danh
Từ bên này sông Tiền
Qua bên kia sông Hậu
Tay ôm đàn độc huyền
Điệu thơ Lục Vân Tiên
Với câu chữ
Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả
Từ Cà Mau Rạch Giá
Dựng chòi đốt lửa giữa rừng thiêng
Muỗi vắt nhiều hơn cỏ
Chướng khí mờ như sương
Thân chưa là lính thú
Sao không về cố hương ?

Anh Mai Thành Phụng vừa lo xong diễn đàn khuyến nông Sản xuất lúa theo GAP (17) tại Tiền Giang lại lặn lội đi Sóc Trăng ngay để kịp Hội thi và trình diễn máy thu hoạch lúa. Anh Lê Hùng Lân trăn trở cho giống lúa mới Nàng Hoa 9 và thương hiệu gạo Việt xuất khẩu. Anh Trần Văn Đạt vừa giúp ý kiến “Xây dựng thương hiệu cho lúa gạo Việt Nam” lại hổ trợ ngay bài viết mới (18).

Trường Đại Học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh địa chỉ vàng nghề nông có một lịch sử thật trân trọng::Năm 2005 Nửa Thế kỷ Xây dựng và Phát triển (19) đến năm 2015 đã tròn trang vàng 60 năm kỹ niệm ngày thành lập, năm 2025 là 70 năm bảo tồn hội nhập phát triển. Dưới mái trường thân yêu này, có biết bao nhà khoa học xanh, nhà giáo nghề nông vô danh đã thầm lặng gắn bó đời mình với nhà nông, sinh viên, ruộng đồng, giảng đường và phòng thí nghiệm. Thật xúc động và tự hào được góp phần giới thiệu một góc nhìn về sự dấn thân và kinh nghiệm của họ.

Hoa Mai thức tỉnh đông tàn

Hoàng Kim
giảng viên chính CLT, Bộ môn Cây Lương thực Rau Hoa Quả,
Khoa Nông học,Trường Đại học Nông Lâm TP HCM 2006-2014
cựu nghiên cứu viên chính CLT HTCT (HARC IAS) 1981-2006
cựu sinh viên TT2A, 2B, 2C ĐHNN4 (NLU) 1977-1981
cựu sinh viên TT10 ĐHNN2 Hà Bắc (HUAF) 1977
cựu chiến binh Việt Nam sư đoàn 325B 1971-1977
cựu sinh viên TT4 ĐHNN2 Hà Bắc (HUAF) 1970-1971
(bài đăng trên kỷ yếu Nông Lâm 2010, đã bổ sung 2020)

Bài viết mới trên CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC http://hoangkimvn.wordpress.com
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày


Video yêu thích

Kỷ niệm 65 năm Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365; Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter