Mạc triều trong sử Việt

MẠC TRIỀU TRONG SỬ VIỆT
Hoàng Kim

Mạc triều mở đầu từ khi Nữ Hoàng Lê Cung Hoàng ra chiếu nhường ngôi hoàng đế cho Mạc Đăng Dung, vào ngày 12 tháng 7 năm 1527, kết thúc triều Lê sơ và mở đầu triều Mạc trong lịch sử Việt Nam. Mạc triều thay thế triều Lê sơ, trãi qua ba thời kỳ, tổng cộng là 156 năm, trong đó ở Thăng Long 1527-1592 và ở Cao Bằng 1593 -1683. Mạc triều là một tất yếu lịch sử và đã để lại những dấu ấn nổi bật về tiến bộ xã hội. Triều Lê trung hưng (1533- 1789) với 256 năm, dài nhất so với các triều đại Việt Nam trị vì, đổi vận của nhà Mạc, được thành lập từ khi vua Lê Trang Tông được đưa lên ngôi báu. với sự phò tá của Nguyễn Kim là cựu thần nhà Lê sơ, thành giai đoạn sau của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê. Kể từ sau năm 1527, khi Mạc Đăng Dung đoạt ngôi triều Lê, chế độ quân chủ Đại Việt lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện: Họ Nguyễn rồi họ Trịnh khôi phục triều Lê và gây nên nội chiến Lê – Mạc (1527-1592), Trịnh – Nguyễn (1627-1672) chia cắt đất nước. Thời gian này, nhân dân Đại Việt hoàn thành công cuộc khẩn hoang ở phương Nam và có những cuộc tiếp xúc đầu tiên với phương Tây. Chữ Quốc ngữ, chữ Việt ra đời. Kim Notes lắng ghi chú An vui cụ Trạng Trình có ghi chú quan trọng: “Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có tám năm làm quan ở triều Mạc đến năm Quảng Hòa thứ hai (1542) đời Hiến Tông nhà Mạc, tiên sinh cáo quan về nghỉ lúc mới 52 tuổi.Thời gian tiên sinh dưỡng lão ở quê hương, tiên sinh không tham dự quốc chính nhưng nhà Mạc vẫn kính như bậc thầy. Mỗi khi có việc trọng đại, vua Mạc thường sai quan về hỏi hoặc mời lên kinh đô nói chuyện. Tiên sinh dâng lên ý kiến được bổ ích rất nhiều. Mỗi lần lên kinh, xong việc, tiên sinh lại xin về, triều đình ân cần lưu lại, thế nào cũng không được. Sau tiên sinh được nhà Mạc xếp vào hạng đệ nhất công thần, phong tước Trình Tuyền hầu, rồi thăng dần tới tước Lại bộ Thượng thư, Thái phó, Trình Quốc công. Ông bà hai đời cũng được truy tặng chức tước, ba người vợ và bảy người con cũng được thứ tự phong hàm“. .

BẢN TUYÊN BỐ VỀ LỊCH SỬ VƯƠNG TRIỀU MẠC

Nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Lung thay lời Ban Liên lạc Mạc tộc tuyên bố: “Vào năm 2017 (1697 – 2017) này, tác phẩm lịch sử “Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên” con đẻ của chế độ quân chủ (cung vua – phủ chúa) Lê Trịnh tròn 300 tuổi. Lịch sử nhà Mạc ra đời từ những trang sử ấy, những trang viết này là sản phẩm tư tưởng, quan điểm chính trị do một thể chế quân chủ mới (bình mới rượu cũ) “thắng cuộc” biên chép về bên “thua cuộc” là nhà Mạc. Suốt 300 năm qua chưa từng xuất hiện một nghiên cứu nào phân tích kĩ lưỡng nội dung mang tính cảnh báo: Coi chừng sẽ xuất hiện “lịch sử nhận thức” nhằm vào lịch sử nhà Mạc từ phía giới chuyên môn. Trừ một bài viết ngắn của giáo sư sử học Hà Văn Tấn có nhắc tới tính thực dụng soạn sử của Phạm Công Trứ. Xin hãy trả lại sự thật lịch sử chân chính của nhà Mạc đó là đòi hỏi từ thực tiễn, lẽ công bằng tự nhiên và là mệnh lệnh của cuộc sống, trong giai đoạn đổi mới và hội nhập toàn diện của đất nước chúng ta.

Tác giả Nguyễn Xuân Lung thay lời Ban Liên lạc Mạc tộc kiến nghị:

“1) Viết lại lịch sử nhà Mạc: Bằng việc tổ chức một hội đồng các nhà sử học có “tâm” có “tài” khai thác hết các tài liệu sử học có thể có trong nước, nước ngoài để định hướng cách viết mới khách quan và trung thực về lịch sử nhà Mạc.

2) Xin chấm dứt sử dụng những giáo trình giảng dạy tại các trường đại học trong nước như cách viết của các ông Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Cảnh Minh, Nguyễn Phan Khoa hay nội dung giảng dạy của một số tác giả nữ: Nguyễn Thị Côi, Nguyễn Thị Bích, Nguyễn Thị Thế Bình. Trong sách “Hướng dẫn trả lời câu hỏi và bài tập lịch sử lớp 10”, trong các cấp học phổ thông.

3) Xin chấm dứt những trang viết không đủ độ “chín” như bài viết của PGS – TS. Trần Thị Băng Thanh trên công luận về nhà Mạc.

4) Xin dừng phổ cập các bài viết thể hiện sự xuống cấp về mặt đạo đức, tư cách con người như trường hợp: Hoàng Thiếu Phủ vv.

5) Xin chấm dứt những bài báo giấy, báo điện tử khai thác những tư liệu dập khuôn sử cũ để viết về lịch sử nhà Mạc, vẽ tranh châm biếm, dựng truyện, dựng tuồng, chèo, khai thác những tình tiết phản cảm về vị vua thứ 5 nhà Mạc: Mạc Mậu Hợp”.

Bản tuyên bố là có căn cứ khoa học với sự kiện lịch sử trung thực, Kiến nghị sự công tâm khách quan giải mã”.

Chi tiết thông tin mời xem tại http://hoangkimlong.blogspot.com/2017/03/nha-mac-oc-lai-va-suy-ngam.html

Hình thế đất Việt khoảng năm 1590: Lãnh thổ nằm trong tầm kiểm soát của nhà Mạc xanh lục và nhà Lê trung hưng xanh lam. Mạc Triều ngoài các vị vua danh tiếng như Mạc Đăng Dung, Mạc Đăng Doanh còn có những danh thần tài đức lỗi lạc như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Giáp Hải, Nguyễn Quyện, Mạc Ngọc Liễn,… Mạc triều là một vương triều chính thống trong sử Việt nhưng lâu nay việc đánh giá còn thiên lệch, thiếu khách quan do nhận thức, ý thức hệ và sự thừa kế sử liệu chưa công bằng. Bài này đúc kết các thông tin nghiên cứu và trao đổi về Mạc triều trong sử Việt, nhằm góp phần phục thủy sự thật lịch sử để hậu thế đánh giá công bằng hơn và rút ra những được những bài học thấm thía hơn đối với những nhân vật lịch sử. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có câu sấm truyền về dòng tộc Mạc “Tứ bách niên tiền chung phục thủy/Thập tam thế hậu dĩ nhi đồng.”

HOÀNG CHI MẠC TỘC VÀ CAO BẰNG

Tỉnh Cao Bằng có làng Đà Quận ở xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, từ thời Mạc đến nay hàng năm đều có Lễ hội chùa Đà Quận từ ngày 9 âm lịch đến rằm Nguyên tiêu tháng Giêng hàng năm để tảo mộ tổ tiên và dâng hương tưởng nhớ. Cao Bằng là đất sau cùng của nhà Mạc tiếp tục tồn tại hơn 100 năm sau khi nhà Mạc không còn triển vọng phục quốc mới nhập vào đất nhà Hậu Lê. Làng Đà Quận là làng dân Mạc theo hương linh Đà Quận Công Mạc Ngọc Liễn. Nhà Mạc tuân theo di nguyện của Mạc Ngọc Liễn danh tướng thái phó vua Mạc là không bao giờ vì dòng họ mình mà nồi da xáo thịt đưa ngoại viện vào giày xéo non sông. Mạc tộc lúc kế cùng lực kiệt đã đổi họ Mạc thành họ khác và lưu tán khắp mọi nơi trong cả nước, trong đó có Hoàng chi Mạc tộc Làng Minh Lệ và cho đến nay có Hoàng chi Mạc tộc đất phương Nam cũng là những người con xa xứ.

Những ngày đầu xuân nay (2023) sau 431 năm, tính từ năm 1592 Cao Bằng thất thủ vì sự công phá của nhà Lê Trịnh, hậu duệ Mạc tộc ghi nhớ di nguyện tổ tiên, ‘Lời dặn sau cùng của Mạc Ngọc Liễn‘ tại quốc sử Việt đối chiếu qua các thời viết về Mạc triều trong sử Việt: “Nay khí vận nhà Mạc đã hết, họ Lê lại trung hưng, đó là số trời. Dân ta là người vô tội mà khiến để phải mắc nạn binh đao, ai nỡ lòng nào! Chúng ta nên lánh ra ở nước khác, nuôi dưỡng uy lực, chịu khuất đợi thời, chờ khi nào mệnh trời trở lại mới làm được, chứ không thể lấy lực chọi với lực. Khi hai con hổ tranh nhau, tất phải có một con bị thương, không có ích gì cho công việc. Nếu thấy quân họ đến đây thì chúng ta nên tránh đi, chớ có đánh nhau với họ, cốt phòng thủ cẩn thận là chính; lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng“. Tác giả Trần Gia Phụng trong bài viết: “Những cuộc đổi họ lớn trong lịch sử” có đoạn bình luận về lời trăng trối của ông: “Đây không phải lời nói suông trong cảnh trà dư tửu hậu, nhưng đây là tâm huyết của một con người sắp nằm xuống trong cơn hoạn nạn cùng cực vì mất nước. Suốt trong lịch sử Việt Nam, chúng ta thường được nghe những lời nói của Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng, Đặng Dung, hào hùng như vó ngựa tổ tiên, nhưng ít khi được đọc những dặn dò như Mạc Ngọc Liễn – nhân bản, đầy tình tự dân tộc không khác gì lời ru êm ái trong những câu ca dao mộc mạc“.

Chùm ảnh trong bài: Linh Giang dòng sông quê hương nơi ven sông có mộ tổ tiên Hoàng chi Mạc tộc (ảnh Hoàng Kim); Thái Thượng Hoàng Mạc Đăng Dung tiếp sứ Minh (ảnh trong sách cổ nguồn Wikipedia); Nguồn Son tới Phong Nha (ảnh Hoàng Kim ban mai trên sông Son vào Phong Nha) Linh Giang dòng sông quê hương (ảnh Hoàng Kim ngã ba sông Son và Rào Nậy) ; Ban Mai trên sông Nhật Lệ ảnh Bu Lu Khin).

Nhà thơ Hoàng Gia Cương, hậu duệ dòng đích nhà Mạc giới thiêu khái quát về nguồn gốc Mạc tộc

TÌM VỀ NGUỒN CỘI

Hoàng Gia Cương

Tìm về Lũng Động, Cổ Trai (1)
Thắp hương bái lạy bao đời Tổ Tông
Biển gom nước vạn dòng sông
Thập tam thế hậu… nhi đồng” là đây! (2)

Qua bao giông bão, tháng ngày
Thay tên đổi họ chẳng thay đổi lòng
Vẫn là cha, vẫn là ông
Vẫn dòng máu ấy cuộn trong tim này!

Hoàng, Phan, Lều, Thạch … về đây
Trăm phương như nước như mây tụ nguồn
Gốc còn trên đất Hải Dương
Lá cành hoa trái đã vươn khắp miền.

Ta về tìm lại Tổ tiên
Tìm về nguồn cội khí thiêng sinh thành
Hương dâng là nghĩa là tình
Thoảng thơm như thể tinh anh giống dòng.

Cúi mình trước đấng Tổ Tông
Râm ran như được tiếp dòng máu thiêng !

1) Lũng Động thuộc huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương là quê của Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đỉnh Chi; Cổ Trai thuộc huyện Kiến Thụy thành phố Hải Phòng là quê của Hoàng đế Mạc Đăng Dung.
2) Sau khi vương triều Mạc bị diệt, con cháu li tán phải đổi thành nhiều họ khác nhau. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có câu sấm truyền về dòng tộc Mạc “Tứ bách niên tiền chung phục thủy/Thập tam thế hậu dĩ nhi đồng

Ông Phạm Đức Hải với bài thơ “Phục thủy” tựa đề lấy từ ý của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm, với các dẫn liệu lịch sử minh chứng vận Trời thế nước để hậu thế thấu hiểu Mạc triều và cắt nghĩa vì sao Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ứng xử như vậy.

PHỤC THỦY

Phạm Đức Hải

Ai đã nghe sấm trạng Trình
Xin mời đến đất Dương kinh thăm đền
cho dù khác họ ,chưa quen
“thập tam thế hậu…”anh em một nhà

cùng từ họ Mạc mà ra
ngày xưa Quốc sử ngợi ca hết lời:
“Ra đường không nhặt của rơi”
“cửa không cần đóng…”,”trộm thời bặt tăm…”

đắm chìm suốt bốn trăm năm
đao xưa thái tổ vẫn cầm còn đây
Phò ba vua ,dạ thẳng ngay
để rồi phải chịu tội này: cướp ngôi

chiếu nhường vị vẫn đấy thôi
sử gia đã chép : lòng người hướng theo…
xuất thân từ cảnh đói nghèo
quý từng tấc đất ,thương yêu đồng bào

trọng hiền tài, giỏi ngoại giao
suốt thời Nhà Mạc, giặc nào sang đâu
nhiều đời Trịnh ,Nguyễn đánh sau
chỉ vì tham lợi , quên câu “vận Trời”

mấy trăm năm, bấy nhiêu đời…
Gương trong “phục thủy” để rồi thêm trong
thắp hương khấn với tổ tông
cũng xin một nén vái ông: Trạng Trình (*)

Phạm Đức Hải ĐT :  0986668160Lỗi Sơn, Gia Phong, Gia Viễn, Ninh Bình

Mạc triều trong sử Việt đọc lại và suy ngẫm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/mac-trieu-trong-su-viet/

EM ƠI CAN ĐẢM LÊN
Nguyễn Khoa Tịnh

Thầy ước mong em noi gương Quốc Tuấn

Đọc thơ em, tim tôi thắt lại
Lòng nghẹn ngào, nước mắt chảy rưng rưng
Nửa xót xa nhưng nửa lại vui mừng
Xót xa vì đời em còn thơ dại
Mới tuổi thơ mà cuộc đời đầy khổ ải
Mới biết cười đã phải sống mồ côi
Như chiếc thuyền giữa biển tự trôi
Như chiếc lá bay về nơi vô định
“Bụng đói” viết ra thơ em vịnh:

“Cơm ngày một bữa sắn trộn khoai
Có biết lòng ta bấy hỡi ai?
Vơi vơi lòng dạ, cồn cào bụng
Kể chi no đói, mặc ngày dài”

Phải!
Kể chi no đói mặc ngày dài
Rất tự hào là thơ em sung sức
Rất tự hào là em tôi đầy nghị lực
Đã hiển lộ mình qua “Cái chảo rang”

“Trung dũng ai bằng cái chảo rang
Lửa to mới biết sáp hay vàng
Xào nấu chiên kho đều vẹn cả
Chua cay mặn ngọt giữ an toàn
Ném tung chẳng vỡ như nồi đất
Quăng bừa xó bếp vẫn nằm ngang
Tốt đẹp đâu cần danh tiếng hão
Bạn cùng lửa đỏ, nóng chang chang”

Phải!
Lửa to mới biết sáp hay vàng!
Em hãy là vàng,
Mặc ai chọn sáp!
Tôi vui sướng cùng em
Yêu giấc “Ngủ đồng”
Hiên ngang khí phách:

“Sách truyền sướng nhất chức Quận công
Ta sướng khi ra ngủ giữa đồng
Lồng lộng trời hè muôn làn gió
Đêm thanh sao sang mát thu không
Nằm ngữa ung dung như khanh tướng
Lấy mấy vần thơ tỏ nỗi lòng
Tinh tú bao quanh hồn thời đại
Ngủ đồng khoan khoái ngắm gương trong”

Tôi biết chí em khi “Qua đèo Ngang
Ung dung xướng họa với người anh hùng
Đã làm quân thù khiếp sợ:

“Ta đi qua đèo Ngang
Cũng gặp Người trèo qua núi hiểm
Đỉnh dốc chênh vênh
Xe mù bụi cuốn
Có lẽ thiên nhiên đã định bao giờ
Một dãy Hoành Sơn bát ngát trận đồ
Điệp điệp núi cao
Trùng trùng rừng thẳm.
Người thấy
Súng gác trời xanh
Gió lùa biển lớn
Nông dân rộn rịp đường vui
Thanh Quan nàng nhẽ có hay
Cảnh mới đã thay cảnh cũ.
Ta hay
Máu chồng đất đỏ
Mây cuốn dặm khơi
Nhân công giọt giọt mồ hôi
Hưng Đạo thầy ơi có biết
Người nay nối chí người xưa

Tới đây
Nước biếc non xanh
Biển rộng gió đùa khuấy nước
Đi nữa
Đèo sâu vực thẳm
Núi cao mây giỡn chọc trời

Nhớ thù nhà, luống thẹn làm trai
Thương dân nước, thà sinh phận gái
“Hoành Sơn cổ lũy”
Hỏi đâu dấu tích phân tranh?
Chỉ thấy non sông
Lốc cuốn, bốn phương sấm động.

Người vì việc nước ra đi
Ta muốn cứu dân nên thăm trận thế
Điều không hẹn mà xui gặp mặt
Vô danh lại gặp hữu danh
Cuộc đời dài ắt còn sẽ gặp nhau
Nay hội ngộ giữa đỉnh cao trời đất
Anh em ta ngự trên xe đạp
Còn Người thì lại đáp com măng
Đường xuyên sơn
Anh hùng gặp anh hùng
Nhìn sóng biển Đông
Như ao trời dưới núi.

Xin kính chào
Bậc anh hùng tiền bối
Ta ngưỡng mộ Người
Và tỏ chí với non sông
Mẹ hiền ơi!
Tổ Quốc ơi!
Xin tiếp bước anh hùng!”

Hãy cố lên em!
Noi gương danh nhân mà lập chí
Ta với em
Mình hãy kết thành đôi tri kỷ!
Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương
Tôi tự hào bài “Tỏ chí” của em:

“Quốc Tuấn ngày xưa chí vững bền
Thù nhà, nợ nước chẳng hề quên
Đến bữa quên ăn, đêm quên ngủ
Thương dân, yêu nước quyết báo đền
Văn hay thu phục muôn người Việt
Võ giỏi kinh hồn lũ tướng Nguyên
Mươi năm sau nữa ơi ông Tuấn
Nối chí ông, nay cháu tiến lên!”

Tôi thương mến em
Đã chịu khó luyện rèn
Biết HỌC LÀM NGƯỜI !
Học làm con hiếu thảo.
Mười lăm tuổi đã “Tập làm thầy giáo

“Vui gì hơn buổi đầu làm thầy giáo
Của lớp vở lòng đất mẹ yêu thương
Trưa nắng luyến các em cùng đến lớp
Giọng líu lo như chim hót ven đường.

Đứng trước các em tuổi nhỏ đáng yêu
Mà đã tưởng tới bao nhiêu người lớn
Nghe em đọc giọng thanh thanh dễ mến
Mà đã nghe đất nước xuyến xao mình!”

Tổ Quốc đang chờ em phía trước.
Em ơi em, can đảm bước chân lên!

Nguyễn Khoa Tịnh, 1970

Bài viết mới trên DẠY VÀ HỌC
https://hoangkimvn.wordpress.com bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích

Tre tứ quý măng ngon

Vuonxuan

Secret Garden – Poéme

Chopin – Spring Waltz 
Secret Garden – Bí mật vườn thiêng

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter