Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, thanh thản, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm.
Bài giảng đầu tiên của Phật
Tứ Diệu đế – Sự khổ: Nguyên nhân, Kết quả và Giải pháp – là bài giảng đầu tiên của Phật (Thích ca Mầu ni -Siddhartha Gamtama), nhà hiền triết phương đông cổ đại. Người là hoàng tử Ấn Độ, đã có vợ con xinh đẹp nhưng trăn trở trước sự đau khổ, thiếu hoàn thiện và vô thường (Dukkha) của đời người mà Phật đã xuất gia vào năm hai mươi chín tuổi để đi tìm sự giác ngộ. Người đã dấn thân suốt sáu năm trời tự mình đi tìm kiếm những vị hiền triết nổi tiếng khắp mọi nơi trong vùng để học hỏi và thực hành những phương pháp khác nhau nhưng vẫn chưa đạt ngộ. Cho đến một buổi chiều ngồi dưới gốc bồ đề, thốt nhiên Người giác ngộ chân lý mầu nhiệm lúc ba mươi lăm tuổi. Sau đó, Người đã có bài giảng đầu tiên cho năm người bạn tu hành. Mười năm sau, Phật thuyết pháp cho mọi hạng người và đến 80 tuổi thì mất ở Kusinara (Uttar Pradesh ngày nay). Học thuyết Phật giáo hiện có trên 500 triệu người noi theo.
Bài giảng đầu tiên của Phật là thấu hiểu sự khổ (dukkha), nguyên nhân (samudaya), kết quả (nirodha) và giải pháp (magga). Tôn giáo được đức Phật đề xuất là vụ nổ Big Bang trong nhận thức, san bằng mọi định kiến và khác hẵn với tất cả các tôn giáo khác trước đó hoặc cùng thời trong lịch sử Ấn Độ cũng như trong lịch sử nhân loại. Phật giáo chủ trương bình đẳng giai cấp, bình đẳng giữa con người có máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn, hết thảy các pháp là vô ngã. Mục đích là vô ngã là sự chấm dứt đau khổ và phiền muộn để đạt sự chứng ngộ bất tử, Niết bàn.
Kinh Phật với triết lý vô ngã: Chân lý là suối nguồn, chứ không phải là con người thần thánh hoặc chân lý tuyệt đối. Vị trí độc đáo của Phật giáo là một học thuyết mang đầy đủ tính cách mạng tư tưởng và cách mạng xã hội. Tiến sĩ triết học Walpola Rahula là giáo sư Trường Đại học Tổng hợp Ceylan (Pháp) đã tìm tòi văn bản cổ và giới thiệu tài liệu nghiêm túc, đáng tin cậy này (Lời Phật dạy. Lê Diên biên dịch).
Suối nguồn tươi trẻ Thiền tông
‘Bất lập văn tự. Giáo ngoại biệt truyền. Trực chỉ nhân tâm. Kiến tánh thành Phật’. Không lập giáo điều, truyền dạy ngoài sách, vào thẳng lòng người, giác ngộ thành Phật Thiền sư Bồ-đề-đạt-ma (?-532) đã nêu ra triết lý căn bản Thiền tông để Dạy và Học.Thiền tông Phật giáo Đại thừa nguồn gốc từ đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã đạt được sự giác ngộ dưới gốc cây Bồ-đề ở Ấn Độ. Thiền sư Bồ-đề-đạt-ma là Tổ sư Ấn Độ đời thứ 28 đã truyền bá và phát triển Thiền tông lớn mạnh tại Trung Quốc. “Thiền” nhấn mạnh kinh nghiệm thực tiễn chứng ngộ ‘trực chỉnhân tâm, kiến tính thành Phật’ . Nhà Ấn Độ học và Phật học người Đức Hans Wolfgang Schumann trong tác phẩm Đại thừa Phật giáo (Mahāyāna-Buddhismus) đã viết:“Thiền tông có một người cha Ấn Độ nhưng đã chẳng trở nên trọn vẹn nếu không có người mẹ Trung Quốc.Cái ‘dễ thương’,cái hấp dẫn của Thiền tông chính là những thành phần văn hoá nghệ thuật, những đặc điểm sắc thái riêng của Trung Quốc, không phải của Ấn Độ. Những gì Phật giáo mang đến Trung Quốc, với tư tưởng giải thoát tuyệt đối, trình bày một cách nghiêm nghị khắt khe với một ngón tay trỏ chỉ thẳng, những điều đó được các vị Thiền sư thừa nhận, hấp thụ với một nụ cười thầm lặng đầy thi vị. Thành tựu lớn lao của các Đại luận sư Ấn Độ là nhét ‘con ngỗng triết lý’ vào cái lọ ‘ngôn từ, thì chính nơi đây tại Trung Quốc, con ngỗng này được thả về với thiên nhiên mà không hề mang thương tích.” Thiền tông là sự “truyền pháp ngoài kinh điển” đạt ‘giác ngộ tức thì’ tại đây, ngay lúc này, chứng ngộ ‘kiến tính thành Phật’ do bản ngã chân tính và nhân duyên. Phật Thích Ca trên núi Linh Thứu im lặng đưa lên cành hoa, Thiền sư Ca Diếp mỉm cười thấu hiểu và đức Phật Thích Ca đã ấn chứng cho Thiền sư Ca Diếp là Sơ tổ của Thiền tông Ấn Độ.
Thiền tông Việt Nam có từ rất sớm tại Luy Lâu do Thiền tông Ấn Độ truyền bá vào Việt Nam trước tiên ở thế kỷ thứ 2 và thứ 3, rước cả Trung Quốc (thế kỷ thứ 6) Nhật Bản (thế kỷ 11, 12) và các nước châu Á khác. Các Sơ Tổ Thiền tông Việt Nam là thiền sư Khương Tăng Hội và Mâu Tử. Thiền tông Việt Nam nguồn gốc lâu đời trong lịch sử Việt Nam và phát triển rực rỡ nhất thời nhà Trần với Thiền phái Trúc Lâm. Trần Nhân Tông (Trần Khâm 1258- 1308) là vua Phật đời Trần (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Người là tổ sư Trúc Lâm Yên Tử, nhà chiến lược kỳ tài, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà thơ lớn Con Người Hoàn Hảo dân tộc Việt Nam. Người đã viết: Cư trần lạc đạo, triêt lý nhân sinh rất nổi tiếng “Ở đời vui đạo, mặc tùy duyên/ Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền/ Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm/ Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.
Trúc Lâm Yên Tử, Trần Nhân Tông
Trần Nhân Tông (Trần Khâm 1258- 1308) là vua Phật đời Trân (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Người là tổ sư Trúc Lâm Yên Tử, nhà chiến lược kỳ tài, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà thơ lớn và Con Người Hoàn Hảo của dân tộc Việt Nam. Người đã viết: Cư trần lạc đạo, triêt lý nhân sinh rất nổi tiếng “Ở đời vui đạo, mặc tùy duyên/ Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền/ Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm/ Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.”
Trần Nhân Tông với 50 năm cuộc đời đã kịp làm được năm việc lớn không ai sánh kịp trong mọi thời đại của tất cả các dân tộc trên toàn thế giới: Minh quân lỗi lạc, làm vua 15 năm (1278 – 1293) trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông là đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới của thời đó; Vua Phật Việt Nam, tổ sư thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và Thái Thượng Hoàng 15 năm (1294-1306). Nhà văn hóa và nhà thơ kiệt xuất với thắng tích Trúc Lâm Yên Tử và kiệt tác Trần Nhân Tông còn mãi với thời gian, hoàn thành sư mệnh của bậc chuyển pháp luân, mang sự sống trường tồn vươt qua cái chết; Người Thầy của chiến lược vĩ đại yếu chống mạnh, ít địch nhiều bằng thế đánh tất thắng “vua tôi đồng lòng, toàn dân đồng sức”tạo lập sự nghiệp mở nước và thống nhất non sông Việt, mở đất phương Nam bằng vương đạo, thuận thời, thuận người; Con người hoàn hảo, đạo đức trí tuệ, kỳ tài trị loạn, đã hưng thịnh nhà Trần và cứu nguy cho nước Việt tại thời khắc đặc biêt hiểm nghèo, chuyển nguy thành an, biến những điều không thể thành có thể.
Giáo sư sử học Trần Văn Giàu nhận định: “… chưa tìm thấy lịch sử nước nào có một người đặc biệt như Trần Nhân Tông ở Việt Nam. Tại nước Tàu lúc bấy giờ Triều đình nhà Tống rất hùng mạnh nhưng quân Nguyên Mông đã tràn xuống đánh thắng thần tốc, đến nỗi vua quan nhà Tống phải chạy ra biển và nhảy xuống biển tự vẫn. Tại Tây Á, Trung Á và một phần châu Âu cũng thua thảm hại, đến nỗi Giáo hoàng La Mã cũng lên tiếng sợ hãi. Trong lúc ấy Việt Nam so với phương Bắc thì quá nhỏ bé và quá nghèo yếu, thế mà Người dám không cho Nguyên Mông mượn đường xâm lược Chiêm Thành. Lại còn đánh bại ba lần Nguyên Mông xâm lược. Sau khi thắng giặc, Người lại lên núi sống. Người dám nghĩ, dám làm những việc không ai dám nghĩ chứ đừng nói đến làm”
Phật giáo Khoa học và Việt Nam
Nhà bác học Anhstanh, cha đẻ của Thuyết tương đối, đã nhận định: “Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học” . “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó” . “Khoa học mà thiếu tôn giáo là khập khiễng. Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng” . Cả ba câu này đều được trích từ Những câu nói nổi tiếng của Anhstanh (Collected famous quotes from Albert), và được dẫn lại trong bài Minh triết sống thung dung phúc hậu của Hoàng Kim
Khoa học và thực tiễn giúp ta tìm hiểu những phương pháp thực tế để thể hiện ước mơ, mục đích sống của mình nhằm sống yêu thương, hạnh phúc,vui khỏe và có ích. Đọc rất kỹ lại Ki tô giáo, Hồi giáo,Do Thái giáo,Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, … và chiêm nghiệm thực tiễn , tôi thấm thía câu kinh Phật với triết lý vô ngã: Chân lý là suối nguồn chứ không phải là con người thần thánh hay chân lý tuyệt đối. Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông có minh triết: Hãy quay về tự thân chứ không tìm ở đâu khác. Luật Hấp Dẫn, Thuyết Tương đối, Thành tựu Khoa học và Thực tiễn giúp ta khai mở nguồn năng lượng vô tận của chính bản thân con người và thiên nhiên. Đó là ba ngọn núi cao vọi của trí tuệ, là túi khôn của nhân loại. Bí mật Tâm linh (The Meta Secret) giúp ta khám phá sâu sắc các quy luật của vũ trụ liên quan đến Luật Hấp Dẫn đầy quyền năng. Những lời tiên tri của các nhà thông thái ẩn chứa trong Kinh Vệ đà, Lời Phật dạy, Kinh Dịch, Kinh Thánh, Kinh Koran …, cũng như xuyên suốt cuộc đời của những con người vĩ đại trên thế giới đã được nghiên cứu, giải mã dưới ánh sáng khoa học; Bí mật Tâm linh là sự khai mở những nguồn năng lượng vô tận của chính bản thân mỗi con người đối với đồng loại, các loài vật và thiên nhiên. Suối nguồn chân lý trong di sản văn hóa, lịch sử, giáo dục, kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao của mỗi dân tộc và nhân loại lưu giữ nhiều điều sâu sắc cần đọc lại và suy ngẫm.Qua đèo chợt gặp mai đầu suối. Gốc mai vàng trước ngõ.
Việt Nam là chốn tâm thức thăm thẳm của đạo Bụt (Phật giáo) trãi suốt hàng nghìn năm. Lịch sử Phật giáo Việt Nam theo sách Thiền Uyển tập anh xác nhận là đạo Phật được truyền trực tiếp từ Ấn Độ theo đường biển vào Việt Nam, gồm Giao Chỉ ở phía bắc và Chăm pa ở phía nam, khoảng thế kỉ thứ ba đến thế kỉ thứ hai trước Công nguyên, chứ không phải từ Trung Hoa như một số quan niệm trước đây. Phật giáo đồng hành chung thủy, lâu bền với dân tộc Việt, dẫu trãi nhiều biến cố nhưng được dẫn dắt bởi những nhà dẫn đạo sáng suốt và các đấng minh vương, lương tướng chuộng nhân ái của các thời nên biết thể hiện sự tốt đạo, đẹp đời. Việt Nam là nước biết tiếp thu, chắt lọc tri thức tinh hoa của nhân loại, chuộng sự học, đồng thời biết quay về với tự thân tổng kết thực tiễn, chứ không tìm ở đâu khác.
Việt Nam, Khoa học và Phật giáo là ba nhận thức căn bản của tôi.
Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, thanh thản, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm
Tâm đắc bài viết hay. Tuyển chọn chép để học. Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, thanh thản, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm; xem tiếp. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/minh-triet-song-phuc-hau/
CNM365 Tình yêu cuộc sống Kim Notes lắng ghi chú; Gia Cát Mã Tiền Khóa;Sông Kỳ Lộ Phú Yên; Châu Văn Tiếp Phú Yên; Chọn giống sắn Việt Nam; Nhớ thầy Hoàng Hữu Cải; Ngọc Phương Nam ngày mới; Nghê Việt am Ngọa Vân; Phục sinh giữa tối sáng; Lê Phụng Hiểu ruộng thác đao; Thầy bạn trong đời tôi; Bóng hạc chốn xa xôi; Giống khoai lang Việt Nam; Chuyện thầy Lê Quý Kha; Ngày 31 tháng 3 năm 1028 nhằm ngày mùng 3 tháng 3 năm Mậu Thìn (1028),vua Lý Thái Tổ (974-1028) vừa mất, chưa làm lễ táng, Hoàng Thái tử Lý Phật Mã chưa kịp lên ngôi vua thì Võ Đức Vương cầm đầu cùng Dực Chính Vương và Đông Chính Vương làm loạn, dẫn quân lập tức ập vào cướp ngôi.Thế giặc mạnh. Việc xẩy ra rất nhanh. Nước Đại Việt rơi vào nguy hiểm phục sinh giữa tối sáng. Công lớn là do Lê Phụng Hiểu dẹp loạn Tam vương; Ngày 31 tháng 3 năm 1889, Khánh thành tháp Eiffel tại Paris (hình), tháp trở thành biểu tượng văn hóa của Pháp và là một trong những kiến trúc đặc sắc trên thế giới. Bài chọn lọc ngày 31 tháng 3: Kim Notes lắng ghi chú; Gia Cát Mã Tiền Khóa; Sông Kỳ Lộ Phú Yên; Châu Văn Tiếp Phú Yên; Chọn giống sắn Việt Nam; Nhớ thầy Hoàng Hữu Cải; Ngọc Phương Nam ngày mới; Nghê Việt am Ngọa Vân; Phục sinh giữa tối sáng; Lê Phụng Hiểu ruộng thác đao; Thầy bạn trong đời tôi; Bóng hạc chốn xa xôi; Giống khoai lang Việt Nam; Chuyện thầy Lê Quý Kha; Tỉnh lặng với chính mình; Có một ngày như thế; Nhà Trần trong sử Việt; Phạm Minh Giắng bạn tôi; Chuyện cổ tích người lớn; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/ và http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và https://cnm365.wordpress.com/…/chao-ngay-moi-31-thang-3/
MINH TRIẾT CHO MỖI NGÀY. Tâm tĩnh lặng an nhiên. Có một kiểu người cả đời chẳng hề già đi, năm tháng dường như đã lãng quên họ. Cái già đi chỉ là tuổi tác, còn khí chất và thần thái là không hề thay đổi. Tất cả là bởi họ có trên mình những điều rất đặc biệt . https://youtu.be/zCFGN2XT54E Rate This
Có lẽ trong mỗi chúng ta, không ít người đã từng nghe qua câu nói: “Người không vì mình, trời tru đất diệt”.
Tuy nhiên người nghe thì nhiều, người dùng thì lắm, nhưng người hiểu được hàm nghĩa chân chính của câu nói này lại chẳng có mấy ai. Và cũng vì lẽ đó mà ngày nay có rất nhiều người vì hiểu sai mà làm những điều đáng lẽ không nên làm, phạm phải những điều không nên phạm.
“Người không vì mình, trời tru đất diệt” vốn dĩ bắt nguồn từ một câu nói trong Phật giáo, ở trong bộ “Phật thuyết thập thiện nghiệp đạo kinh”, tập 24 của kinh có viết câu “nhân sinh vị kỷ, thiên kinh địa nghĩa, nhân bất vi kỷ, thiên tru địa diệt”. Do đó, nó cũng mang theo tư tưởng của nhà Phật, tuy nhiên lại bị con người ngày nay hiểu sai, dẫn đến những kiến giải lệch lạc.
“Nhân bất vi kỷ, thiên tru địa diệt”, nguyên chữ “Vi” ( 為) ở đây có hai âm đọc và cũng có hai nghĩa khác nhau, một nghĩa là “học”, còn một nghĩa khác là “do, vì”. Hàm nghĩa chân chính của câu này phải được hiểu là: “Một người mà không mà tu dưỡng bản thân thì ắt sẽ không thể có được chỗ đứng trong trời đất”.
Tiếc thay ngày nay nhiều người lại hiểu nó sang một ý khác: “Người mà sống không nghĩ đến lợi ích của bản thân mình thì trời tru đất diệt”. Vậy nên họ suốt ngày không ngừng suy tính thiệt hơn về bản thân, suốt ngày không ngừng tranh đấu hơn thua, chỉ vì chút lợi ích nhỏ nhoi mà lục thân không nhận, vạn ác bất từ, chỉ cần có được chút lợi trước mắt cho riêng mình họ sẵn sàng không chừa bất cứ thủ đoạn nào, không ngại bất cứ điều ác nào mà không làm.
Phật gia giảng: Không sát sinh, không đạo tặc, không loạn ngữ, không ác miệng, không tham dục tà dâm, không làm ác – như vậy mới là vì mình.
Nhân quả tuần hoàn, gieo ác thì gặp hung, vậy nên không tạo nhân ác cho mình mới là sống vì mình. Người không vì mình trời tru đất diệt, đó cũng chính là một vòng tuần hoàn không hồi kết, lập đi lập lại không ngừng.
Theo quan niệm của nhà Phật, người sống vì mình chính là xem thường danh lợi, coi nhẹ công danh, tạo phúc làm lành, từ bỏ vị tư, vì người mà suy, vì người mà nghĩ. Tuy vậy có một số người đã hiểu sai ý nghĩa của nó mà chỉ vì lợi mà không từ thủ đoạn, tưởng rằng họ đang sống vì mình, kỳ thực họ chính là đang hại người hại mình mà tự thân không biết.
(Nguồn: st)
Học ăn học nói học làm MƯỜI KHẨU NGHIỆP TUYỆT ĐỐI TRÁNH
1. Đa ngôn (nhiều lời) Bệnh từ miệng mà vào, họa từ miệng mà ra, vì thế không nên nói quá nhiều, đa ngôn tất thất (nói nhiều ắt sẽ có sai sót).Trong cuốn “Mặc Tử” có ghi chép rằng, học trò của Mặc Tử từng hỏi ông: “Nói nhiều có lợi không?”Mặc Tử trà lời: “Ếch nhái kêu suốt ngày đêm, kêu nhiều đến mức mỏi miệng nhưng nào có ai nghe chúng kêu. Sáng sớm nay nhìn thấy một con gà trống, mặt trời vừa ló rạng nó liền cất tiếng gáy, cả thiên hạ chấn động, người người lục đục trở dậy.Vậy kêu nhiều, nói nhiều có gì tốt đẹp? Chỉ vào những lúc hợp lý nhất, ta cất tiếng nói, như vậy lời nói mới có tác dụng mà thôi.”
2. Khinh ngôn (nói năng khinh suất) Lời nói một khi được nói ra, tuyệt đối không nên khinh suất, thiếu thận trọng. Nếu nói ra mà phải đính chính, sửa lại, thà rằng không nói còn hơn! Những người nói năng khinh suất luôn phải đối mặt với sự chỉ trích và xấu hổ.Không nên dễ dãi hứa hẹn với người khác, bởi một khi không làm được, bạn sẽ trở thành người thất tín, bội tín.
3. Cuồng ngôn Làm người, nên nhận thức và phân biệt được khinh – trọng trong từng tình huống hoàn cảnh. Một khi đã nói ra những lời cuồng ngôn, thiếu suy nghĩ, bạn ắt sẽ phải hối hận về sau.Thứ mà con người có thể thể hiện trước mặt người khác nhiều nhất chính là ngôn từ và hành động, đặc biệt là ngôn từ. Thế nên, khi nói năng, cuồng ngôn là điều tối kỵ.Cuồng ngôn sẽ gây ra sự khó chịu cho đối phương, gây ra thù hận… và dễ rước họa vào người.
4. Trực ngôn Những lời nói quá thẳng thắn trong nhiều hợp cũng gây rắc rối. Thế nên, thay vì nói thẳng, hãy tìm một cách nói mềm mại hơn, những lời nói lạnh như băng, hãy cho thêm chút nhiệt…Hãy để ý đến lòng tự tôn của đối phương, chúng ta sẽ biết nên nói thế nào cho vừa lòng nhau.
5. Tận ngôn Nói năng cần phải hàm xúc và phải để lại một đường lui cho đối phương. Những người sống biết người biết ta sẽ không bao giờ nói lời tận ngôn, thay vào đó họ sẽ để lại cho người khác vài “lối thoát”, lưu lại chút khẩu đức cho bản thân.Ngay cả khi trách người cũng không nên khắt khe đến mức không để cho họ một đường lùi, dành cho họ một lối thoát, lòng bao dung của mình sẽ được mở rộng.
6. Lậu ngôn (tiết lộ chuyện cơ mật)”Sự dĩ mật thành, ngữ dĩ lậu bại” câu nói này ý chỉ một việc thành hay bại, một phần là do khả năng giữ bí mật của người trong cuộc. Đối với những việc cơ mật có liên quan đến một cá nhân hay tổ chức, tuyệt đối đừng để lọt ra ngoài.Lậu ngôn là vấn đề về nhân phẩm và hậu quả của nó thậm chí có thể nghiêm trọng đến mức khó lường. Khi sự việc chưa được xác định rõ ràng, tốt nhất không nói những lời khẳng định để tránh những ảnh hưởng xấu.
7. Ác ngôn Không nên dùng những lời vô lễ, ác ý để làm tổn thương người khác.Cổ ngữ nói “đao sang dị một, ác ngữ nan tiêu”, ý chỉ vết thương do đao kiếm gây ra có thể sẽ mai một phôi pha nhưng những lời ác ý thì mãi găm sâu trong lòng người khác, chẳng thể nào gạt bỏ, lãng quên một cách dễ dàng.Những tổn thương trong tâm lý do cái gọi là ác ngôn gây ra luôn luôn đau hơn cả những vết thương trên thể xác.
8. Căng ngôn Căng ở đây nghĩa là kiêu căng, tự cao tự đại. Những người thường xuyên nói những lời này, không phải là kẻ kiêu ngạo hẳn sẽ là người vô tri và dù họ thuộc nhóm nào đi nữa, thì cách ăn nói căng ngôn cũng bất lợi cho quá trình trưởng thành của họ, thậm chí khiến người khác ghét bỏ.
9. Sàm ngôn Sàm ngôn chỉ những lời nói xấu sau lưng người khác. Người hay nói những lời sàm ngôn phần lớn đều là những kẻ tiểu nhân.Nhà triết học thời Đông Hán – Vương Sung từng nói: “Sàm ngôn thương thiện”, ý chỉ những lời nói xấu sau lưng sẽ vùi dập những điều lương thiện, tốt đẹp.Một người có khẩu đức tuyệt đối không nói xấu người khác, bởi hậu quả của việc này thậm chí có thể nghiêm trọng đến mức khiến cho thiên hạ không thể thái bình.
10. Nộ ngôn Nộ ngôn là những lời nói được thốt ra lúc nóng nảy, mất lý trí. Những lời nói này khi nói ra sẽ làm tổn thương người khác rất nhiều.Nói không nghĩ, bị cảm xúc lấn át lý trí dẫn đến những lời nói tức tối, giận dữ không chỉ khiến người khác khó chịu mà bản thân người nói ra câu đó cũng khó có thể vui vẻ.Thế nên khi giận dữ, hãy lấy một tờ giấy trắng và một cây bút, nghĩ gì, quyết định gì… hãy viết ra. Sau một vài ngày, hãy xem lại “sản phẩm” lúc trước, nếu vẫn duy trì suy nghĩ cũ, vậy thì hãy làm theo.Còn nếu cảm thấy đó chỉ là cách nghĩ lúc giận, hãy đem tờ giấy đó đi đốt để cuộc sống nhẹ nhàng hơn.
Quảng Tây ngày nay, với thủ phủ Nam Ninh là nơi diễn ra Hội thảo Cây Có Củ Toàn Cầu (*), https://youtu.be/81aJ5-cGp28 diện mạo thành phố khác rất xa so với Quảng Tây trước đây, nơi tôi đã có nhiều lần đến đó và có nhiều người bạn gắn bó tại đấy. Văn hóa lịch sử khoa học và công nghệ toàn cầu giao hội ở điểm đến Nam Ninh. Quảng Tây nay so sánh với Ung Khâm Liêm xưa là một góc nhìn thú vị. Bài này tôi không viết về nông nghiệp mà muốn lưu lại một chút cảm nhận về lịch sử.
Du lịch sinh thái Quảng Tây ngày nay là khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, với Nam Ninh, Khâm Châu, Hợp Phố đã biết bao thay đổi, so với đất Ung Khâm Liêm xưa Tôi đến Quảng Tây nhiều lần, đã từng du thuyền ở Quế Lâm, leo núi cao và cùng ăn cơm người dân tộc Choang, thăm khu di chỉ khảo cổ Tây Sa Pha nơi khai quật được các loại rìu đá, dao đá, những công cụ nguyên thủy của người cổ Bách Việt, nơi câu thơ “châu về Hợp Phố” vẫn còn văng vẳng bên lòng. Nam Ninh thủ phủ của Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, nay là nơi tổ chức Hội thảo Cây Có Củ Toàn Cầu, xưa là trọng điểm của chiến dịch đánh Tống 1075-1076 do danh tướng nhà Lý là Lý Thường Kiệt phát động nhằm tấn công quân Tống ở ba châu Ung Khâm Liêm, chặn đứng âm mưu của Vương An Thạch chủ trương Nam tiến tìm kiếm chiến thắng bên ngoài để giải tỏa những căng thẳng trong nước. Tôi nhớ Tô Đông Pha bị đày ải ở Thiểm Tây, Hàng Châu, biên viễn Giang Nam, suốt đời lận đận vì chống lại biến pháp không bền vững của Vương An Thạch. Tuy ông bị đối xử không công bằng nhưng người yêu thương ông, túi thơ, kiếm bút, công trình thủy lợi Hàng Châu di sản văn hóa thế giới mà ông lưu lại vẫn như trăng rằm lồng lộng giữa trời. Tôi nhớ câu thơ Nguyễn Du: “Giang sơn vui thú yên hà. Mai là bạn cũ, hạc là người quen“. Tôi nhớ Hồ Chí Minh “Đi đường mới biết gian lao, Núi cao rồi lại núi cao trập trùng; Núi cao lên đến tận cùng, Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non“. Và tôi nhớ câu thơ cảm khái của chính mình ‘Lên non thiêng Yên Tử’ “Non sông bao cảnh đổi. Kế sách một chữ Đồng. Lồng lộng gương trời buổi sáng. Trong ngần thăm thẳm mênh mông“.
Ung Châu là tên xưa, nay là Nam Ninh thành phố lớn nhất và là thủ phủ của khu tự trị Quảng Tây, Trung Quốc. Thành phố này nằm cách biên giới Việt Nam 180 km. Dân số Nam Ninh hiện khoảng 7,5 – 9,0 triệu người, (tương đương dân số thành phố Hồ Chí Minh của Việt Nam). Nam Ninh có 6 quận Giang Nam, Hưng Ninh, Lương Khánh, Tây Hương Đường, Thanh Tú, Ung Ninh và 6 huyện Hoành Long An, Mã Sơn, Tân Dương, Thượng Lâm, Vũ Minh. Thủ phủ Nam Ninh là nơi trung chuyển khách đến tham quan Quế Lâm nổi tiếng, thăm các làng dân tộc thiểu số ở Bắc và Tây Quảng Tây và khách Trung Quốc sang thăm Việt Nam bằng đường bộ. Khâm Châu xưa và nay tên gọi không đổi. Khâm Châu là một trong 14 địa cấp thị thuộc khu tự trị tỉnh Quảng Tây. Khâm Châu nằm bên vịnh Bắc Bộ với diện tích 10.843 km2 và dân số trên 3,1 triệu người. Khâm Châu nằm ở phía nam Quảng Tây, trên vùng bờ biển thuộc vịnh Bắc Bộ. Phía bắc tiếp giáp với địa cấp thị Nam Ninh, phía tây tiếp giáp địa cấp thị Phòng Thành Cảng, phía đông tiếp giáp địa cấp thị Ngọc Lâm, phía đông bắc tiếp giáp Quý Cảng, phía đông nam giáp Bắc Hải. Nằm trong khoảng từ 20°54′ tới 22°41′ vĩ bắc, 107°27′ tới 109°56′ kinh đông. Đường bờ biển dài 311,44 km. Phía đông bắc và tây bắc có 2 dãy núi là Lục Vạn Đại Sơn và Thập Vạn Đại Sơn, với độ cao đều trên 1.000 m. Khâm Châu là hải cảng chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu cho vùng duyên hải tây nam Trung Quốc. Khâm Châu có 4 đơn vị cấp huyện: quận Khâm Nam, quận Khâm Bắc, huyện Linh Sơn, huyện Phố Bắc. Liêm Châu xưa chính là Hợp Phố, Bắc Hải ngày nay. Bắc Hải có nghĩa là biển bắc, là nơi có cảng biển, một nhà máy đóng tàu lớn nằm bên bờ phía bắc của vịnh Bắc Bộ. Hợp Phố trước đây gọi là Liêm Châu, là một huyện thuộc địa cấp thị Bắc Hải. Huyện này có diện tích 2.380 km², dân số hiện khoảng 1,3 triệu người, huyện lỵ là trấn Liêm Châu. Khoảng 5.000 năm trước, trong thời kỳ đồ đá mới tại khu vực Hợp Phố ngày nay đã có những hoạt động của con người. Tại di chỉ khảo cổ Tây Sa Pha người ta đã khai quật được các loại rìu đá, dao đá, những công cụ nguyên thủy của con người. Trước khi nhà Tần thống nhất Trung Quốc, Hợp Phố là vùng đất của Bách Việt. Năm thứ 33 thời Tần Thủy Hoàng (214 TCN), quân đội Tần thống nhất Lĩnh Nam, lập ra Nam Hải, Quế Lâm, và Tượng Quận. Hợp Phố thuộc về Tượng Quận. Năm Nguyên Đỉnh thứ 6 thời Hán Vũ Đế (111 TCN), quân đội Tây Hán xâm chiếm Nam Việt, lấy vùng giáp giới Nam Hải, Tượng Quận lập ra quận Hợp Phố, với thủ phủ quận đặt tại Từ Văn (nay thuộc huyện Hải Khang tỉnh Quảng Đông), đồng thời thiết lập huyện Hợp Phố. Năm Hoàng Vũ thứ 7 (228) thời Tam Quốc, Đông Ngô đổi quận Hợp Phố thành quận Châu Quan, nhưng chẳng bao lâu sau lại đổi về tên cũ. Năm Trinh Quan thứ 8 (634) thời Đường Hợp Phố được gọi là Liêm Châu. Năm Chí Nguyên thứ 17 (1280), nhà Nguyên đổi thành tổng quản phủ Liêm Châu. Từ năm Hồng Vũ thứ nhất (1368) thời Minh cho tới thời Thanh người ta lập phủ Liêm Châu, trực thuộc tỉnh Quảng Đông. Thời kỳ Trung Hoa dân quốc (1911– 1949), huyện Hợp Phố trước sau thuộc về đạo Khâm Liêm, tỉnh Quảng Đông, Thời kỳ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sau nhiều lần tách nhập và thay đổi, nay thuộc Bắc Hải một địa cấp thị Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây.
Tỉnh Quảng Tây năm 1958, được chuyển đổi thành Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây theo đề nghị của Thủ tướng Chu Ân Lai. Lý do vì người Choang là dân tộc thiểu số lớn nhất ở Trung Hoa và tập trung nhiều ở Quảng Tây. Người Hán đứng đầu chiếm khoảng 92% dân số của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, khoảng 98% dân số của Đài Loan và khoảng 19% dân số thế giới. Người Choang ở Trung Quốc cũng chính là người Nùng và người Tày ở Việt Nam có dân số trên 18 triệu người đứng thứ hai chiếm sau người Hán trong số 55 dân tộc thiểu số được Cộng hòa nhân dân Trung Hoa chính thức công nhận. Người Choang có 94 % dân số sống tại tỉnh Quảng Tây, tập trung ở phía tây và tây nam tỉnh. Tại tỉnh Quảng Tây theo Cục Thống kê Quảng Tây thì 61,5% dân số toàn tỉnh là người Hán, người Choang chiếm 32,6%, còn lại 6% là các sắc tộc thiểu số khác.
Quảng Tây xưa là “Quảng Nam Tây lộ” tên gọi có từ thời nhà Tống. “Quảng” có nghĩa là “mở rộng”, và được đặt cho vùng này kể từ thời nhà Tây Tấn trở đi. “Quảng Tây” và tỉnh láng giềng Quảng Đông có tên gọi chung đầy đủ là “Lưỡng Quảng”, tên gọi tắt là “Quế”, lấy theo tên Quế Lâm là một thành phố lớn và được coi là danh lam thắng cảnh bậc nhất của Trung Hoa cổ xưa và hiện đại. Bill Clinton tổng thống Hoa Kỳ sang thăm Trung Quốc đại lục sau nhiều năm Trung Mỹ tách biệt địa chính trị, đã chọn Quế Lâm là điểm đến sau Bắc Kinh. Vùng đất này chính thức thuộc về Trung Quốc từ năm 214 TCN, khi quân đội nhà Tần xâm chiếm hầu hết miền nam Trung Hoa ngày nay. Tên gọi “Quảng Tây” bắt nguồn từ thời nhà Tống, khi khu vực này được tổ chức thành một lộ, gọi là Quảng Nam Tây Lộ. Vào cuối đời nhà Nguyên, vùng này được tổ chức thành một tỉnh với tên gọi được rút gọn thành “Quảng Tây”. Vào cuối đời nhà Thanh, ở huyện Quế Bình, miền đông Quảng Tây, đã nổ ra Khởi nghĩa Kim Điền vào ngày 11 tháng 1 năm 1851, khởi đầu của phong trào khởi nghĩa nông dân vĩ đại Thái Bình Thiên Quốc. Cửa ải Trấn Nam Quan (ngày nay là Hữu Nghị Quan) trên biên giới với Việt Nam cũng là nơi diễn ra trận đánh Trấn Nam Quan nổi tiếng vào ngày 23 tháng 3 năm 1885, trong Chiến tranh Pháp-Thanh. Trong trận đánh này, mũi tấn công của quân Pháp đã bị lực lượng Trung Quốc của tướng Phùng Tử Tài đánh bại, một sự kiện lịch sử rất được những người yêu nước Trung Hoa ca tụng. Sau ngày thành lập Trung Hoa Dân Quốc, Quảng Tây trở thành căn cứ của một trong những tập đoàn quân phiệt hùng mạnh nhất của Trung Quốc: Tập đoàn Quảng Tây (Quế hệ) cũ do Lục Vinh Đình và những người khác lãnh đạo, tập đoàn này đã vươn ra kiểm soát cả các tỉnh Hồ Nam và Quảng Đông ở liền kề. Đầu thập niên 1920, Tập đoàn Quảng Tây cũ bị thất bại, và được thay thế bằng Tập đoàn Quảng Tây mới, do Lý Tông Nhân và Bạch Sùng Hi cầm đầu. Quảng Tây còn được nhắc đến bởi Khởi nghĩa Bách Sắc, một cuộc khởi nghĩa cộng sản do Đặng Tiểu Bình lãnh đạo vào năm 1929 nhưng các căn cứ cộng sản đã được thiết lập này cuối cùng đều bị lực lượng Quốc dân Đảng tiêu diệt. Vào năm 1944 gần kết thúc Thế chiến II, Nhật Bản chiếm đóng Quảng Tây sau Chiến dịch Ichigo (hay còn gọi là Chiến dịch Dự Tương Quế trong một nỗ lực thu tóm tuyến đường sắt Hồ Nam-Quảng Tây và thiết lập một vùng đất nối với Đông Dương Pháp thuộc. Người Nhật đã chiến thắng và một loạt các thành phố chính ở Quảng Tây trở thành thuộc địa của Nhật Bản. Tỉnh Quảng Tây do nằm ở xa phía nam, lực lượng cộng sản kiểm soát Quảng Tây muộn hơn nên chính quyền tỉnh thay đổi muộn hơn, mãi vào tháng 12 năm 1949, hai tháng sau khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Quân đội Nhân dân Việt Nam có chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn tổ chức phối hợp cùng với Giải phóng quân Trung Quốc chính là trong dịp này. Trong sáu thế kỷ tiếp theo, Quảng Tây vẫn là một tỉnh của Trung Quốc cho đến khi được Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chuyển thành một khu tự trị dành cho dân tộc thiểu số đông đảo ở đây. Tỉnh Quảng Tây trong suốt chiều dài lịch sử là vùng đất không có biển. Sau năm 1952 một phần nhỏ của bờ biển Quảng Đông được chuyển giao cho Quảng Tây, từ đó vùng đất này được thông với biển, đến năm 1955 chuyển giao lại, và năm 1965 tiếp nhận lại.
Tỉnh Quảng Tây gần tỉnh Quảng Đông và Đài Loan. Vì những đặc điểm địa chính trị quan trọng nêu trên, nên Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông đã có chuyến du phương Nam những năm cuối của Cách mạng Văn hóa để bịt kín những mưu lược liên kết của Lâm Bưu, người bị tử nạn ngày 13 tháng 9 năm 1971, sau khi kế hoạch đảo chính bị bại lộ, đã bị hỏa tiễn bắn khi đi ăn tiệc về, hoặc do máy bay rơi ở Mông Cổ khi đang trốn chạy sau vụ mưu sát Mao Trạch Đông không thành.
Soi vào Quảng Tây là soi vào lịch sử Trung – Việt giác ngộ được nhiều vấn đề sâu sắc của hiện tại và quá khứ. Những huyền thoại về gốc gác người Việt cổ, nhà Trần phương Nam, nhà Trần phương Bắc, Nùng Trí Cao, chiến dịch đánh Tống 1075-1076 do danh tướng nhà Lý là Lý Thường Kiệt phát động, Giáp Hải bài thơ “Vịnh Bèo”, Những kiệt tác thơ văn Nguyễn Trãi “Hải Khẩu dạ bạc hữu cảm”, “Sấm động Nam Vang/ Vũ qua Bắc Hải”, Bí ẩn việc vua Quang Trung cầu hôn công chúa Mãn Thanh và xin đất định đô trên đất người Việt cổ để về thăm thiên triều bớt xa xôi cách trở, v.v và v.v…có quan hệ đến bài học sâu sắc lịch sử này.
Học văn để làm gì? Để giữ ngọc di sản. Quảng Bình đất và người thẳm thẳm nhớ trong tôi với nhiều chuyện quý.
Thuở nhỏ học văn, tôi ấn tượng nhất là tích cổ cha mẹ kể về Lục Vân Tiên tại Nguồn Son nối Phong Nha (1) và Cao Biền trong sử Việt (2). Cha mẹ tôi mất sớm, những thầy văn đầu đời của tôi là “Hoàng Ngọc Dộ khát vọng“ (3), “Hoàng Trung Trực đời lính” (4), thầy Nguyễn Khoa Tịnh “Em ơi can đảm lên” (5), thầy Trần Đình Côn “Bài ca Trường Quảng Trạch“ (6), thầy Phạm Ngọc Căng (7) người Thanh Hóa, phó Hiệu trưởng đầu tiên của Trường cấp ba bắc Quảng Trạch và thầy Hồ Ngọc Diệp người Đồng Hới dạy văn (8). Tôi cũng may mắn được học văn với ông tôi Minh Sơn Hoàng Bá Chuân (9) là em ruột bà ngoại tôi khi thăm ông ra ở với cậu tại 64 Hàng Bạc Hà Nội. Ông đã bày cho tôi cách làm thơ Đường. .
Hoàng Kim nay chép lại sáu câu chuyện lắng đọng Thơ văn thầy Hồ Ngọc Diệp 1) “Tìm mộ em ở Trường Sơn” 2) “Người thầy chiến sĩ” 3) “Bác Hồ với ngày thương binh liệt sĩ 27/7”; 4) “Chuyện về nữ anh hùng bên dòng sông Lũy” 5) “Nhà văn Hoàng Bình Trọng với nghiệp đời gập ghềnh”; 6) “Nhạc sĩ Trần Hoàn viết cho sự giã biệt”, lưu lại một tích truyện về người thầy dạy văn của mình. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tho-van-thay-ho-ngoc-diep/
QUẢNG BÌNH ĐẤT VÀ NGƯỜI Hoàng Kim kính tặng thầy Hồ Ngọc Diệp
Đọc trang văn hóa Bạc Liêu Thơ thầy giáo cũ thương yêu gọi về Thầy ơi nắng sớm mưa che Lời thương thầm lắng mải mê kiếm tìm.
Nhớ thầy đáy biển tìm kim Chim sa núi Bắc thầy tìm non Nam Tìm Người ở giữa Trường Sơn Dáng ai bóng núi xanh hơn sắc rừng
Vươt đèo, leo dốc,phạt gai Qua bao con suối,miệt mài tìm em Mộ em núi đã giăng lèn Ba bề là đá,bốn bên là rừng
Nghe con mang,tác ngập ngừng Suối xa như đã lạnh dừng tiếng reo Ngặt thưa bìm bịp kêu chiều Giữa hoang sơ,lòng những phiêu diêu buồn
Ngàn lau trắng thác mây tuôn Bước chân hoang hoải bồn chồn ngẩn ngơ Em đi từ bấy đến giờ Thương con,lòng mẹ thẫn thờ đợi con
Xa quê từ buổi trăng tròn .Ấp e chưa đón nụ hôn người tình Em ngã xuống,sắc nguyên trinh Vì dân,vì nước quên mình tuổi xanh
Mau về với mẹ cùng anh Ở đâu? chiều đã phủ nhanh rừng già
NGƯỜI THẦY CHIẾN SĨ Hồ Ngọc Diệp
Từ mái trường, tình nguyện xung phong Khoác AK, thầy lên đường ra trận Người thì gầy, bộ Tô Châu thì rộng Nào hề chi, có thép ở bên trong
Đường hành quân qua bao núi, bao sông Bỗng gặp học sinh, cùng chiến hào đánh Mỹ Đêm Trường Sơn, thầy và trò tri kỷ Chuyện trường xưa, nỗi nhớ cháy đêm tàn….
Đơn vị thầy lại cấp tập hướng Nam Nã đạn pháo gầm ran đầu lũ giặc Dáng hiên ngang như thiên thần lẫm liệt Giữa trận tiền khi bom giặc phản công
Góp máu mình cho độc lập non sông Thêm kiêu hãnh những bài ca sư phạm Gieo lòng người đâu chỉ là lời giảng Mà cả bằng: đức nguyện tiến công
Những đạo hàm, ta lét, parabol Những tan, cos, góc bù, góc nhọn Rồi cuộc đời và những lời thầy giảng Thành vinh quang những chân lý của đời
Chúng tôi nhắc thầy trong kí ức bồi hồi Để nhớ mãi ngôi trường phố cũ Hình ảnh thầy, người thầy – Chiến sĩ Gieo lòng người rực rỡ những cành xuân.
(*) Thầy Hồ Ngọc Diệp ngày 14 10 2021 viết Cảm ơn văn nghệ Bạc Liêu đã đăng bài thơ “Tìm mộ em ở Trương Sơn” số tháng 7/202l
BÁC HỒ VỚI NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SĨ 27/7 trích: Bác Hồ với Quảng Bình, Hồ Ngọc Diệp 2021 (*) Nhà Xuất bản Thuận Hóa, trang 150
Bác Hồ bùi ngùi không cầm được nước mắt, đọc bài từ như sau: Hỡi các liệt sĩ ! trong lúc cả nước vui mừng thì mọi người đều thương tiếc các liệt sĩ đã hi sinh vì Tổ Quốc, vì dân tộc. Máu nóng của các liệt sĩ đã nhuốm lá quốc kỳ. Tiếng thơm của các liệt sĩ sẽ muôn đời truyền với sử xanh:
Một nén hương thanh Vài lời an ủi Anh linh của các liệt sĩ bất diệt Tổ quốc Việt Nam vĩ đại muôn năm!“
(*) Hồ Ngọc Diệp địa chỉ liên lạc: Hồ Ngọc Diệp Hội văn học Nghệ thuật Quảng Bình, đường Đoàn Thị Điểm, phường Đồng Hải, TP Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình Số điện thoại: 0968 237 320 Tài khoản: Hồ Ngọc Diệp 040027737627 Ngân hàng Sacombank Đồng Hới, Quảng Bình
CHUYỆN VỀ NỮ ANH HÙNG BÊN DÒNG SÔNG LUỸ Hồ Ngọc Diệp
Chị Trần Thị Lý sinh ra trong một gia đình nghèo bên dòng sông Lũy, một nhánh của con sông Nhật Lệ, phía Nam Cầu Dài, đó là làng Phú Thượng, Phú Hải, Đồng Hới, Quảng Bình. Là một người lanh lợi, hoạt bát, có ý thức tập thể cao nên chị được giao nhiệm vụ làm liên lạc cho Đảng ủy, Xã đội. Năm 1964, chị được kết nạp Đảng, lúc đó chị tròn 19 tuổi. Tháng 2 năm 1965, Mỹ mở rộng chiến tranh leo thang ra miền Bắc đã chọn thị xã Đồng Hới làm điểm đánh mở đầu. Phú Hải là một trong những điểm nóng chiến sự. Lúc này, chị Trần Thị Lý được sung vào lực lượng dân quân, làm chiến sĩ phòng không nam Cầu Dài thị xã Đồng Hới.
Chị Trần Thị Lý trong những cuộc chiến đấu đánh trả máy bay thù đã tỏ rõ bản lĩnh chiến đấu xuất sắc. Chị đã chạy từ trận địa phòng không này sang trận địa phòng không khác để truyền mệnh lệnh chiến đấu của cấp trên chuyển về, đồng thời dùng súng trường K44 bắn trả máy bay Mỹ rất kiên cường. Chị đã đào hầm sập, cứu đồng đội, đồng bào bị bom Mỹ vùi lấp. Đặc biệt trong ngày 4/4/1965, đế quốc Mỹ đã huy động hàng trăm lượt máy bay đến ném bom Cầu Dài, triệt hạ thị xã Đồng Hới, chị Trần Thị Lý đã dũng cảm mưu trí chèo đò chở Bí thư Đảng ủy xã Lê Viết Thuật vượt sông để chỉ đạo dân quân, nhân dân chiến đấu, rồi trở lại trận địa an toàn. Trong một lần bị bom vùi, chị đã kịp thời bình tĩnh cởi áo ngoài khoác lên đầu súng để đất đá khỏi vào làm chẹt nòng. Sau đó, chị đã bươn mình ra, tiếp tục nổ súng bắn vào kẻ thù.
Với những thành tích xuất sắc đó, chị đã được Quốc hội tuyên dương anh hùng vào ngày 01/01/1967. Cũng trong năm đó chị được chuyển sang quân đội, làm chính trị viên phó Thị đội Đồng Hới. Từ năm 1967 , chị được cử đi học trường văn hóa quân khu, sau đó được cử đi học tiếp tại Học viện chính trị quân sự của Bộ quốc phòng. Năm 1978, chị đảm nhiệm chức Phó đội trưởng đội công tác thuộc đoàn 871, Tổng cục chính trị. Từ 1985 chị được điều về giữ chức Phó rồi Giám đốc, Phó Bí thư chi bộ khách sạn Bạch Đằng của Quân khu 5 ở Đà Nẵng. Chị là Đại biểu Quốc hội khóa IV, V và VI. Chị từng là ủy viên Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, ủy viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Chị đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng Nhất, Nhì, Ba và nhiều Huân, Huy chương cao quý khác.
Anh hùng Trần Thị Lý là người giàu tình cảm với mảnh đất minh sinh ra và lớn lên. Sau này, khi làm Giám đốc khách sạn Bạch Đằng, hễ có các con cháu quê hương Phú Hải vào học hay công tác tại Đà Nẵng, nếu gặp khó khăn, chị đã tìm cách giúp đỡ, động viên để các cháu an tâm học tập và công tác. Nhiều lần về thăm quê chị đều đến thăm và tặng quà cho Đảng ủy, UBND và các đoàn thể trong phường. Chị đã giúp Hội Người cao tuổi địa phương sắm một cỗ xe tang, đóng góp cho quỹ xây dựng nhà văn hóa, trạm y tế phường và giúp đỡ những hộ nghèo hoặc gặp khó khăn. Đến phút lâm chung chị còn hỏi người nhà: “Xã mình đã được phong anh hùng chưa?” (thực ra, phường Phú Hải được phong anh hùng trước đó mà chị chưa có được thông tin).
Có nhiều chuyện kể lý thú, dí dỏm về anh hùng Trần Thị Lý thời thanh xuân.
Tháng 7 năm 1967, anh hùng Trần Thị Lý được mời dự Đại hội liên hoan thanh niên sinh viên Hoà bình thế giới tại nước XHCN Cu Ba.Sau báo cáo của chị, trong giờ giải lao, hàng trăm nhà báo vây quanh chị để quay phim, chụp ảnh và phỏng vấn. Có một nhà báo Phương Tây hỏi chị:- Chị là một anh hùng của quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Vậy, ai là người chị sẽ chọn xây dựng gia đình? Không phải suy nghĩ lâu, chị Trần Thị Lý vui vẻ trả lời: – Đó sẽ là người đàn ông thương yêu tôi nhất! Trong quãng ngày công tác, chị đã được vinh dự 3 lần gặp Bác Hồ và được Bác trực tiếp chỉ giáo. Lần thứ nhất là lần cùng đoàn Quảng Bình được ưu tiên gặp Bác và Thủ tướng Phạm Văn Đồng sau ngày Đại hội liên hoan chiến sĩ anh hùng thi đua toàn quốc (1/1/1967). Gần cuối buổi, Bác Hồ bảo chị Lý hát bài “Quảng Bình quê ta ơi” của nhạc sĩ Hoàng Vân cho Bác nghe. Quá cảm động và lúng túng nên chưa thực hiện được ngay thì Thủ tướng Phạm Văn Đồng “cứu nguy” cho chị và bảo: “Cháu Lý hãy “cầm càng” cho tất cả đoàn cùng hát”. Thế là anh hùng Trần Thị Lý đã đứng dậy và bắt nhịp cho toàn đoàn Quảng Bình hát vang bài hát mà Bác và Thủ tướng yêu thích. Lần thứ hai, chị gặp và được Bác Hồ chỉ giáo là ngày trước lúc lên đường sang Cu Ba tham dự Đại hội liên hoan thanh niên và sinh viên thế giới. Khi Bác hỏi: “Cháu đã chuẩn bị những gì sang thăm và tham quan ở Cu Ba?” chị Lý đã thuật lại chuyện các chú lãnh đạo cho may áo dài, sắm dày cao gót nhưng sử dụng còn lúng túng lắm. Bác liền bảo: “Cháu sang Cu Ba lần này để báo cáo thành tích kinh nghiệm chiến đấu của mình và học tập kinh nghiệm của nhiều người khác chứ đâu có phải đi du lịch mà sắm các thứ ấy. Để Bác nói chú Song Hào chuẩn bị bộ đồ bộ đội và dép cao su cho cháu”. Và chị Trần Thị Lý đã mặc trang phục như thế trong suốt thời kỳ ở Cu Ba.
Người ta còn kể cho nhau nghe câu chuyện tình yêu của chị với Đại tá anh hùng Nguyễn Chơn. Lần đó, Đại tá anh hùng Nguyễn Chơn (sau này là Thượng tướng, Thứ trương Bộ Quốc phòng) về Hà Nội tham dự Đại hội liên hoan anh hùng LLVTND của quân đội. Người anh hùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng đó vì xông pha lăn lộn nơi trận mạc, hết Nam lại Bắc, hết Bắc lại Nam nên sắp đã bén tuổi tứ tuần mà vẫn chưa có một bóng hồng nằm lại trong tim mình. Thấy Nguyễn Chơn về dự Đại hội lần này có làm thân với nữ anh hùng Trần Thị Lý (nhân một lần xem phim ngồi cạnh nhau), anh em, đồng chí bèn “Ra tay” để giúp Nguyễn Chơn rút ngắn khoảng cách. Vào một tối thứ bảy nọ, họ rủ nhau (không quên kéo Trần Thị Lý cùng đi) đến phòng nghỉ của anh hùng Nguyễn Chơn uống nước, chuyện trò. Rồi như là đã bàn trước, họ bấm tay nhau, lần lượt rút lui. Đến người cuối cùng ra khỏi phòng, họ không quên khoá trái cửa lại, cốt là để tạo cơ hội cho hai người tự nhiên tâm sự với nhau.
Hơn 1 giờ đồng hồ, Đại tá anh hùng Nguyễn Chơn hút hết không biết bao nhiêu là thuốc lá, mặt đỏ gay, không biết nói một câu gì cả. Nữ anh hùng Trần Thị Lý ngồi yên như vậy, cũng không giám nhìn Nguyễn Chơn, tay bứt xé không biết mấy lá hoa trong lọ giữa bàn. “Thôi phải mở đường thoát cho hai người”. Nghĩ vậy, chị liền lên tiếng trước:- Cớ làm răng mà anh em họ nhốt mình trong phòng rứa, Thủ trưởng? Anh hùng Nguyễn Chơn lúc bấy giờ mới ngẩng lên, ấp úng:- Là vì…vì…họ nói, …họ nói…- Họ nói mần răng, thưa Thủ trưởng? – Trần Thị Lý khơi gợi. Anh hùng Nguyễn Chơn dũng cảm, táo bạo như cố vượt qua một trọng điểm: – Họ nói là tui ưng o! Anh hùng Trần Thị Lý mặt đỏ lên, mãi một hồi rất lâu nữa mới cất tiếng: – Họ nói như rứa thì ý Thủ trưởng mần răng? Nguyễn Chơn lúng túng như một học trò có lỗi:- Thì … thì…tui cũng ưng o như họ nói thật! Chỉ đợi được như thế. Tuy nhiên mãi một lúc sau, Trần Thị Lý mới bộc bạch được ý nghĩ của mình: – Ý Thủ trưởng răng thì em cũng rứa! Và thế là, anh em đồng chí “nghe trộm” ngoài cửa, mở cửa chạy vào. Một người vui tính hét vang:- Xong rồi! xong rồi! Trận đánh kết thúc hoàn toàn thắng lợi! Trai anh hùng, gái thuyền quyên! Chúc mừng anh chị đã phá được hàng rào, xung kích tiến lên chiếm lĩnh trận địa của tình yêu ! Không lâu sau, Nguyễn Chơn ở tuổi 48, Trần Thị Lý ở tuổi 34 thành vợ, thành chồng. Tình yêu của hai anh hùng LLVT ấy có được do sự chân thật của hai người, song cũng nhờ công rất lớn của bạn bè, đồng chí. Thủ tướng Phạm Văn Đồng, cha nuôi tinh thần của Trần Thị Lý bận việc không đến dự lễ cưới được đã gửi tặng đôi tân hôn 1 chai rượu ngoại, 2 cây bút máy. Chai rượu mang ý nghĩa mừng cuộc vui. Cặp bút máy mang ý nghĩa khuyên vợ chồng nên chỉ sinh 2 con. Quả vậy, vợ chồng Nguyễn Chơn và Trần Thị Lý sinh được 2 cô gái lanh lợi giỏi giang. Bây giờ 2 cô gái đã có gia đình và làm việc ở 2 cơ quan nhà nước.
Anh hùng Trần Thị Lý lần đó ra Hà Nội họp, được Bác Hồ mời vào thăm, ăn cơm cùng Bác với hai nữ anh hùng khác.Mâm cơm dọn ra, có thịt gà, canh bí đao, rau muống luộc, 1 bát cà pháo muối chua và bát nước chấm. Gắp nhiều thịt gà bỏ vào bát các nữ anh hùng, Bác nói: – Ở chiến trường, các cháu ăn uống kham khổ, công việc thì vất vả, nay phải ăn nhiều thịt gà vào cho khỏe, mai mốt trở lại chiến trường, có thêm sức mà chiến đấu, hoàn thành nhiệm vụ của mình. Còn Bác, Bác chỉ thích ăn rau muống luộc chấm tương và cà muối xứ Nghệ thôi. Ba nữ anh hùng được ngồi ăn cơm với Bác, sung sướng quá, cảm động quá, trước sự săn sóc của Bác nên không ai và nổi cơm. Thấy thế, bác giục: – Nhanh lên, đẩy mạnh tốc độ, thao tác linh hoạt, lanh lợi như đang vào trận, hỡi các nữ anh hùng!Được ngồi cạnh Bác, nữ anh hùng Trần Thị Lý chăm chú đợi Bác ăn xong bát thứ nhất, đặt bát đũa mình xuống, đưa hai tay đón bát của Bác để đơm thêm cơm. Có lẽ, vì quá sung sướng, vì được lần đầu tiên làm công việc này nên nữ anh hùng đất Đồng Hới Quảng Bình đâm ra lóng ngóng. Bởi vậy, không may một thìa cơm bị lọt xuống mâm. Sợ Trần Thị Lý hót bỏ sang bát trống đựng thức ăn thải loại, Bác liền dùng thìa và đũa hớt phần trên của phần cơm bị rơi ra mâm đó bỏ vào bát của mình và nói: – Được ngồi cạnh, rồi được đơm cơm cho Bác, sung sướng quá nên lóng ngóng, làm rơi cơm ra ngoài chứ gì? Không sao! Hạt cơm là hạt ngọc của trời, không nên bỏ phí. Thái độ chân thành và xử lý hợp thời của Bác khiến Trần Thị Lý vô cùng cảm động. Và câu nói của Bác biểu lộ tính kiệm cần của một người nông dân, gắn bó với sản phẩm của mình làm ra. Đối với anh hùng Trần Thị Lý, và thảy mọi người là một lời dạy sắt son luôn mang tính thời sự về ý thức tiết kiệm và sự tránh lãng phí mọi phương diện của cuộc sống.
Thiếu tá Trần Thanh Hương (em ruột anh hùng Trần Thị Lý đang nghỉ hưu ở khu dân cư số 8, phường Đồng Sơn, Tp. Đồng Hới) đã cho tôi biết một chi tiết vô cùng cảm động. Chị Trần Thị Lý bị đau đường ruột, điều trị khắp các bệnh viện trong nước không đỡ nên đã sang Trung Quốc điều trị. Nhưng bệnh tình vẫn ít thuyên giảm. Sau đó đơn vị đã đưa chị về điều trị tại bệnh viện Quân y 17 quân khu 5. Biết mình sẽ không qua nổi, chị xin bệnh viện về nhà nghỉ một đêm. Đêm đó chị dặn dò chồng, con, em và các cháu nhiều điều và ngủ một đêm rất ngon lành trong ngôi nhà ấm cúng của mình trước khi sáng mai phải trở lại bệnh viện. Ít hôm sau chị đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 7/5/2000.
Anh hùng Trần Thị Lý là một trong 3 khuôn mặt nữ anh hùng bên sông Nhật Lệ trong những ngày đánh Mỹ. Đó là những người đã góp phần làm sáng danh lịch sử quê hương Đồng Hới anh hùng.
Nhà văn Hoàng Bình Trọng với nghiệp đời gập ghềnh NGẬM NGÙI VỚI NGHIỆP VĂN CHƯƠNG Hồ Ngọc Diệp, ngày 26 tháng 3năm 2022
Ông đã ” Tự trào”
“Tớ không có chí làm vua Nên trời bắt tớ cày bừa ruộng văn Thôi thì tám đóm tám khoanh Chăm gieo chuyện ngắn gặt nhanh chuyện vừa Lại còn tiểu thuyết còn thơ Lại còn dịch diệt ăng ô Tây Tàu”
Nhà văn Hoàng Bình Trọng, nguyên là kỉ sư ngành trắc đạt bản đồ mỏ địa chất. Do đi nhiều và và lòng ham chuộng văn học,ông có mấy bài báo viết cho các báo hiện hành những năm 1969 – 1970. Thấy năng lực đầy triển vọng, Nhà Xuất Bản Kim Đồng thời kì đó đặt hàng cho ông viết tiểu thuyết cho thiếu nhi,.sau gần ba tháng vừa giảng dạy tại trường trung cấp mỏ địa chất ở Vỉnh Phú, vừa viết sách, cuốn chuyện “Bí mật một khu rừng”, dày hơn 300 trang ra đời. Cuốn truyện thu hút bạn đọc thiếu nhi và cả người lớn đến nỗi, sau “Dế mèn phiêu lưu kí” của Tô Hoài, “Bí mật một khu rừng”, được tái bản 10 lần,mỗi lần 3 vạn cuốn. Sách còn được dich sang tiếng Nga và Đài Tiếng Nói Việt Nam đã 3 lần phát ở chương trình “Đoc chuyện đêm khuya” ,mỗi kì phát ngót nghét một tháng trời. sau tác phẩm nổi tiếng đầu tay đó Hoàng Bình Trọng được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam Cho đến cuối đời, ông đã viết 38 tác phẩm, trong đó 13 tiểu thuyết, 3 trường ca v.v…. Năm 1971,Hoàng Bình Trọng có gia nhập vào quân đội và có 5 năm chiến đấu ở chiến trường B. Hết chiến tranh,ông ra quân và Hội văn học Vĩnh Phú nhận ông về biên tập cho tạp chi “Đất Tổ”. Mấy năm sau, chia tỉnh, ông lênh đênh tìm bến đỗ . Nạn tiếm quyền buổi giao thời này khiến ông không đến được nơi ông cần đến. Nơi cũ thì đã cắt giấy tờ, nơi đến thì không nhận vì đã có ngươi choán chỗ. Ba tháng trời không lương, lại hết tỉnh Vĩnh Phúc đến Phú Thọ, mệt mỏi, bất lực,ông đành về 176. Về với vơ ở Quảng Hòa Quảng Trạch ông đi làm thuê, thậm chí lên rừng hái củi về bán nuôi vợ và con trai. Ông Nguyễn Văn Lợi tổng biên tập tạp chí Văn Nghệ Quảng Bình (sau này là tạp chí Nhật Lệ) đã đón ông vào làm biên tập viên. 14 năm trời làm việc ở đây, không bia rượu, thuốc lá,chỉ mấy cái song tự nấu ăn hàng ngày, ông vừa làm việc vừa sáng tác. Ở Quảng Bình, chưa ai có nhiều giải thưởng văn học danh giá như ông, từ địa phương đến trung ương. Khi Nhật Lệ đủ biên chế rồi, ông phải về quê sống với ngòi bút của mình
Và ông cười khẩy
“Một giọt rơi, Một quảng đời tàn lụi Tiếc làm chi cái kiếp phù sinh Chỉ cần biết bao giờ nến tắt Ấy là khi đã cháy hết mình”.
Về quê cũ, bệnh viêm phổi mãn tính hoành hành. Đã nghèo nhưng phải nằm viện liên miên. Hết Cu Ba đến Huế, Hết Quảng Trạch lại Hà Nội, cuối cùng Hoàng Bình Trọng đã rời cõi tạm đầu năm 2021. Báo Văn Nghệ đã chia sẻ nhà văn Hoàng Bình Trọng qua bài viết nhỏ của tôi. Cảm ơn quý báo.
Nhạc sĩ Trần Hoàn có nhiều duyên nợ với Quảng Bình . Nhưng nhiều người chưa được biết ông có một ca khúc viết về một cô gái mà chỉ ông biết tại Quảng Bình, viết cho một cuộc giã từ đi xa mãi mãi, trên đất Quảng Bình. Tôi đã được báo Văn Nghệ Công An giới thiệu bài viết về sự kiện này với bạn đọc gần xa. Một phần thưởng lớn lao đầy ý nghĩa đã đến với tôi,đó là bà Thúy Hồng, vợ của Nguyễn Tăng Hích( tên thật của nhạc sĩ Trần Hoàn) điện về tổng biên tâp báo Văn Nghệ Công An xin số điện thoại của tôi. Sau đó bà đã điện vào cảm ơn tôi đã có một bài viết hay và những điều bà chưa được biết hết về người chồng thân yêu của mình. Với tôi, đó là phần thưởng vô giá.
Tôi ngồi ở góc khuất, chọn lại mấy truyện ngắn ưa thích nhất của anh Thiệp và lắng nghe lời trò chuyện. Trang Bách khoa toàn thư mở Wikipedia đêm nhớ Nguyễn Huy Thiệp đang sửa liên tục. Nhiều người đến thăm, tưởng nhớ, thương tiếc, hồi tưởng, bàn luận, nhiều sự việc, được công bố, việc chính của người chép văn sử CNM365 là tuyển chọn và cập nhật
Nguyễn Huy Thiệp sinh ngày 29 tháng 4 năm 1950 tại Thái Nguyên, mất ngày 20 tháng 3 năm 2021 tại Hà Nội thọ 72 tuổi. Ông là nhà văn Việt Nam đương đại, về truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch với những góc nhìn mới, táo bạo. Ông xuất hiện khá muộn trên văn đàn (1986) nhưng được coi là người đạt đỉnh cao nghệ thuật của truyện ngắn với các tác phẩm nổi bật Giăng lưới bắt chim, Mưa Nhã Nam, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Những ngọn gió Hua Tat, Tướng về hưu, Thời của tiểu thuyết, Tuổi 20 yêu dấu, Những người thợ xẻ, Chảy đi sông ơi, Con gái thủy thần, …. Câu nói ấn tượng ám ảnh nhất , bài học sâu sắc nhất của chính anh “đậy nắp quan tài đình luận”. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nói (trên trang Văn hóa Nghệ An): “Nhà văn là người biết sống trung dung, phong lưu, tri túc, “cầm kỳ thi họa đủ mùi ca ngâm”. Không dễ gì tổ chức được một cuộc đời như thế. Rất khó, khó nhất không phải chỉ là tiền bạc, cũng khó nhất không phải chỉ là tri thức, mà khó nhất lại là đạo đức! Các cụ ngày xưa nói “có đức mặc sức mà ăn” là vô cùng sâu sắc, vô cùng tế nhị. Ngày xưa có đạo hơn, con người sống giản dị nên ít bệnh. Bây giờ đuổi theo vật chất, vô đạo. Tôi là một trong những ca điển hình. Mình phải trả giá. Ngày xưa sống thanh đạm, gần đạo hơn, nét mặt vô tâm thư giãn chứ không cố ý thư giãn”.
1
Bạn ưa nhất văn chương anh Thiệp cuốn nào? Tôi thì chọn đầu tiên là Giăng lưới bắt chim, Hôm nay tôi cẩn thận đọc lại sáu tác phẩm tâm đắc nhất ‘Nguyễn Huy Thiệp lắng đọng”, Lắng lòng trước lời điếu thật hay của nhà văn Nguyễn Quang Thiều; Thật thích bài tổng kết bình giảng của thầy văn Nguyễn Hữu Sơn, Thật biết ơn sự đánh giá trãi lòng của nhà văn nghề thủy lợi Chiêm Lưu Huy… xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-huy-thiep-lang-dong/.
Văn hay lời kiệm chữ. Sách Giăng lưới bắt chim đúng ra phải là Huyền Quang, giăng lưới bắt chim. Chuyện về sư Huyền Quang. Người giăng lưới bắt chim là vua Trần Anh Tông và Trạng nguyên Tể tướng Mạc Đĩnh Chi, Chim là sư Huyền Quang Lý Đạo Tái. Tích truyện cổ có trong Thiền Uyển Tập Anh, một sách Phật học cổ có từ năm 1337, và nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã diễn đạt lại theo lối mới, dường như được rất nhiều người đồng tình, vì lối diễn đạt đúng (tôi xin được chép lại) như sau:
“…Thiền phái Trúc Lâm có ba Thiền sư kiệt xuất là Nhân Tông (Trúc Lâm Đầu Đà), Pháp Loa và Huyền Quang. Thiền phái này được xem là tiếp nối của dòng Yên Tử, dòng Yên Tử lại là sự hợp nhất của ba dòng thiền Việt Nam của thế kỉ thứ 12 – đó là dòng Thảo Đường, Vô Ngôn Thông và Tì-ni-đa-lưu-chi.
Thiền phái Trúc Lâm được xem là dạng Phật giáo chính thức của Đại Việt thời đó nên có liên quan mật thiết đến triều đại nhà Trần, phải chịu một hoàn cảnh mai một sau khi triều đại này suy tàn. Vì vậy, sau ba vị Tổ nói trên, hệ thống truyền thừa của phái này không còn rõ ràng, nhưng có lẽ không bị gián đoạn bởi vì đến thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh (1600- 1700), người ta lại thấy xuất hiện những vị Thiền sư của Trúc Lâm Yên Tử như Viên Cảnh Lục Hồ, Viên Khoan Đại Thâm và nổi bật nhất là Thiền sư Minh Châu Hương Hải (theo Nguyễn Hiền Đức).
Sau một thời gian ẩn dật, dòng Thiền này sản sinh ra một vị Thiền sư xuất sắc là Hương Hải, người đã phục hưng tông phong Trúc Lâm. Trong thế kỷ thứ 17-18, thiền phái này được hoà nhập vào tông Lâm Tế từ Trung Hoa và vị Thiền sư xuất sắc cuối cùng là Chân Nguyên Huệ Đăng….”
Khi mới xuất hiện, những sáng tác của Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã gây nên một cuộc tranh luận văn học sôi nổi. Văn phong và cách sáng tác từ trực giác của Tác giả rất lôi cuốn người đọc.
*
Sư Huyền Quang, vị tổ thứ ba của phái Trúc Lâm trước khi xuất gia là một Trạng nguyên, đã từng từ hôn công chúa Liễu Sinh. Vua Trần Anh Tông nói với quần thần:
– Người ta sống ở trong trời đất, mang khí âm, ôm khí dương, ăn thích vị ngon, mặc thích màu đẹp, đều có tình dục như thế. Đấy là lẽ thường. Chúng ta ngăn hãm một phía ham muốn ấy lại chính là để dốc lòng phụng đạo, đó là đành đi một lẽ. Riêng Huyền Quang sắc sắc không không, vậy đó là người ngăn hãm lòng dục hay là không có lòng dục?
Mạc Đĩnh Chi nói:
– Vẽ hổ chỉ vẽ được da, không vẽ được xương. Biết người chỉ biết mặt, ít biết được lòng. Vậy xin cho người thử xem.
Vua Trần Anh Tông nghe lời Mạc Đĩnh Chi, cử một nữ gián điệp xuân sắc mê hồn là nàng Thị Điểm Bích tìm đến Yên Tử để thử Huyền Quang theo kế giăng lưới bắt chim …
Huyền Quang, tên thật là gì không rõ, trong sử ghi là Lý Đạo Tái. Ông người làng Vạn Tải, huyện Gia Bình, xứ Kinh Bắc (nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Từ nhỏ nổi tiếng thần đồng, nghe một hiểu mười, nên người ta mới mệnh danh là Đạo Tái. Có sách chép Lý Đạo Tái đỗ Trạng nguyên khoa Nhâm Tý (1252) đời vua Trần Thánh Tông, lúc này mới 23 tuổi. Trong dân gian kể rằng nhà Lý Đạo Tái nghèo, không có đất cắm dùi. Khi còn hàn vi, Lý Đạo Tái từng hứa hôn với một cô gái nhưng về sau bị từ hôn, cô gái đi lấy một người nhà giàu. Cuộc nhân duyên lần thứ hai cũng thế. Chán nản, Lý Đạo Tái chuyên vào mỗi chuyện học hành rồi đỗ Trạng nguyên. Khi ấy, nhiều người đến manh mối hôn nhân nhưng ông đều từ chối, kể đến cả công chúa con vua. Nghe đồn Lý Đạo Tái đã từng ngán ngẩm than rằng:
Khó khăn thì chẳng ai nhìn
Đến khi đỗ Trạng tám nghìn nhân duyên!
Lý Đạo Tái theo đường hoạn lộ, nhiều lần đứng ra tiếp sứ thần Trung Hoa. Về sau, ông được sư Pháp Loa giác ngộ bèn xuất gia tu hành.
Sư Pháp Loa (tức Đồng Kiên Cường) là vị tổ thứ hai môn phái Trúc Lâm, đã theo vua Trần Nhân Tông khi người xuất gia ở núi Yên Tử. Vua Trần Nhân Tông, lấy pháp danh là Điểu Ngự trước khi viên tịch đã truyền y bát lại cho sư Pháp Loa, nay sư Pháp Loa giác ngộ và truyền y bát lại cho Lý Đạo Tái với pháp danh là Huyền Quang.
Huyền Quang là người có căn tu thế nào? Tại sao Huyền Quang lại trở thành vị sư tổ thứ ba trong phái Trúc Lâm, một môn phái Phật giáo có ảnh hưởng rất lớn đến thế giới tâm linh của người Việt Nam?
Bài thơ Cúc hoa của Huyền Quang nói tâm sự của một người tu đạo ở trong núi, ngắm hoa mới sực biết thời gian trôi đi:
Vong thân, vong thế dĩ đô vong
Tọa cửa tiên nhiên nhất tháp lương
Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật
Cúc hoa khai xứ nhất trùng dương.
Một người quên mình (vong thân ), quên đời (vong thế ) ngồi mãi trong rừng sâu không có lịch, không biết năm hết Tết đến, thấy hoa cúc nở mới đoán là đã đến Tết trùng dương! Vì sao người này lại ngắm hoa cúc mà không đi ngắm hoa khác?
Chủ nhân dữ vật hồng vô cảnh
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu
(Lòng người và cảnh vật vốn không xung khắc
So sánh với muôn hoa, thì cúc đứng đầu )
Theo ý tứ bài thơ thì thấy Huyền Quang không phải là người không có thiên vị, không có tình ý riêng! Cũng trong bài thơ Cúc hoa này, Huyền Quang đã có một nhận xét rất sâu sắc: Nghĩa khí bất đồng nan cẩu hợp (Nghĩa khí mà khác nhau thì khó mà hòa hợp ). Đạo Phật thường lưu tâm người ta ở hai chữ nhân duyên. Huyền Quang cũng giống mọi người, không phải là lòng dạ sắt đá gì, không phải là người không hiểu biết về lẽ nhân duyên. Trong một bài thơ khác nữa tên là Sơn vũ (Nhà trong núi) tâm tình Huyền Quang phảng phất bâng khuâng:
Thu phong ngọ dạ phật thiềm nha
Sơn vũ tiên nhiên chầm lục la
Dĩ hí thành thiền tâm nhất phiến
Cùng thanh tức tức vị thuỳ đa
(Đêm khuya, gió thu xao xác ngoài mái hiên
Nhà trong núi đìu hiu giữa lùm cây xanh
Tấm lòng tu hành từ lâu đã hóa theo Phật
Tiếng dế vì ai mà kêu rầu rĩ mãi? )
Phái Trúc Lâm là phái có nhiều đệ tử tri thức nhất, học thức nhất, danh giá nhất ở nước ta. Huyền Quang được trao y bát, trở thành sư tổ của phái này thì căn tu, công lực đại thành của Huyền Quang ắt hẳn xuất chúng.
Làm sáng tỏ Phật tính là một mệnh đề cơ bản trong Kinh Niết bàn. Việc vua Trần Anh Tông cho Điểm Bích đi thử lòng Huyền Quang cũng có thể coi là một công án nhằm làm sáng tỏ Phật tính ở vị đại sư này vậy.
Ngày xưa, có người băn khoăn về pháp môn Bất nhị của Phật pháp đã từng thỉnh vấn Đức Phật: Những người phạm tội tà dâm, giết người, trộm cướp v.v… liệu có mất hết thiện căn Phật tính hay không? Đức Phật đáp: Thiện căn có hạng thường và hạng vô thường. Phật tính chẳng thường mà cũng chẳng vô thường, cho nên không đứt đoạn, gọi là pháp Bất nhị . Một hạng thiện, một hạng bất thiện, gọi là pháp Bất nhị. Uẩn và Giới kẻ phàm cho là hai nhưng bậc trí giả thì hiểu rõ tính của nó không phải là hai. Tính không hai đó (Vô nhị chi tính ) tức là Phật tính.
Theo cách giải thích trên có thể hiểu rằng người ngu kẻ trí Phật tính vốn không khác nhau, chỉ vì mê và tỉnh không giống nhau nên mới có kẻ ngu và trí mà thôi.
Trở lại việc vua Trần Anh Tông cho Điểm Bích đến thử Huyền Quang ở núi Yên Tử thì tưởng như mưu giăng lưới bắt chim là sâu sắc nhưng thực lại là mê vậy. Chuyện rằng Điểm Bích đã dùng nhiều kế nhưng không lay chuyển được Huyền Quang nên nàng bèn về tâu dối vua. Sách Tam tổ thực lục ghi lại lời tâu ấy như sau:
… Tôi vâng chiếu chỉ đi thử thiền sư Huyền Quang. Đến chùa Vân Yên, vào ở nhờ một bà vãi già, tự xưng là con gái nhà dân, xin được theo học đạo tôn sư. Bà vãi già thường sai tôi dâng nước chè lên cho sư. Trải qua hơn một tháng, sư không hề liếc nhìn, hỏi han gì tôi cả. Một hôm nửa đêm, sư lên nhà tụng kinh, đến canh ba, sư và đám tăng ni ai nấy đều về phòng mình mà ngủ. Tôi bèn đến bên cạnh phòng của thiền sư để nghe xem động tĩnh thế nào thì thấy sư ngâm lời kệ rằng:
Vằng vặc giăng mai ánh nước
Hiu hiu gió trúc khua sênh
Người vừa tươi tốt, cảnh vừa lạ
Mâu Thích ca nào chẳng hữu tình.
Sư ngâm đi ngâm lại mãi, tôi bèn vào phòng tăng, từ biệt sư để về thăm cha mẹ, để sang năm sẽ quay lại học đạo. Sư bèn giữ tôi lại ngủ một đêm, rồi cho tôi một dật vàng.
Nhà vua nghe lời Điểm Bích tâu, lòng bực bội không vui. Nghĩ lại, nhà vua tự trách mình:
– Sự việc nếu quả như lời Điểm Bích thì đúng là ta giăng lưới ở tổ bắt chim, chim nào mà không bị hại! Nếu sự việc mà không như thế thì hóa ra ta đã làm hại quốc sư, đẩy ông ta vào mối ngờ vực oan ức! Nếu hiểu rõ pháp Bất nhị của nhà Phật thì việc thử lòng này thật là nhảm quá!
Để sửa lỗi, cũng là để minh oan chiêu tuyết cho Huyền Quang, nhà vua cho mở hội Vô Già ở kinh thành, triệu Huyền Quang về làm lễ. Nhưng trái với tục lệ nhà chùa, hôm bước vào chính lễ, nhà vua cho giết bò và lợn, dọn toàn cỗ mặn.
Huyền Quang bước vào lễ, kêu tên Đức Phật khấn rằng:
– Kẻ đệ tử này có điều gì bất chính, xin chư Phật cho đày xuống A Tì địa ngục, còn nếu không thì xin cho những cỗ mặn kia hóa thành chay tất cả.
Huyền Quang khấn xong, bỗng có gió mạnh nổi lên, trời đất tối sầm. Khi gió tàn, trời sáng, tất cả các mâm cỗ mặn đều biến thành cỗ chay tinh khiết thơm tho. Nhà vua và mọi người thấy Huyền Quang làm phép thông cảm được với trời đất thì đều vô cùng cảm phục, quỳ xuống lạy tạ.
Huyền Quang viên tịch ở tuổi 82. Cho đến ngày nay, dân gian nhiều nơi vẫn kể lại những truyền thuyết trong cuộc đời ông. Có người nói rằng các món cỗ chay làm giống cỗ thường trong ngày lễ tết ở các nhà chùa là từ sự tích này. Nhân ngày Xuân, đọc lại sách Phật ngẫm ra nhiều điều. Trong chúng sinh, căn tính người ta có người sắc bén có người cùn nhụt. Người mê chấp thì phải tu thân, học tập; còn người giác ngộ có thể đột nhiên ứng hợp; chung quy lại để nhằm tự mình nhận thức được bản thân mình, tự mình chứng kiến được bản thân mình, sống hòa hợp cùng tự nhiên với tâm hồn trong sáng.
Phía trước là cuộc sống vẫy gọi! Đấy là tương lai với đầy mơ ước cho tất cả mọi người!
2
Mưa Nhã Nam là truyện ngắn mà tôi thật yêu thích của anh Nguyễn Huy Thiệp công bố năm 2001 Văn hay lời kiệm chữ, sách này đúng ra phải là Đề Thám, mưa Nhã Nam. Chuyện về Hoàng Hoa Thám. Quan Toàn Quyền Pháp vừa trao giải đầu Đề Thám ai giết được ông thưởng 30 ngàn quan tiền vừa thách thức ông bằng cách mời ông về dự tiệc tại dinh công sứ Bắc Giang . Ông Đề Thám đã đi vào hang hùm, và nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã diễn đạt lại sự thật và huyền thoại của câu chuyện ấy (Tôi xin chép lại) như sau:
Tôi sẽ kể chuyện này cho anh, vì anh, anh bạn bởi đến năm mươi tuổi anh sẽ thành ông lão.
Tôi sẽ kể chuyện này cho chị, vì chị, chị bạn ạ, bởi đến bốn mươi tuổi chị sẽ trở thành bà lão.
Tôi sẽ kể chuyện này cho cậu, cậu câm miệng, cậu còn trẻ quá, cậu là thằng ngốc.
Tôi sẽ kể chuyện này cho cô, vì cô sẽ đi lấy chồng. Lúc ấy chỉ toàn những nhọc nhằn thôi, không ai kể chuyện cho cô nghe cả.
Ở Nhã Nam, tháng Tư có mưa. Chuyện thế này…Một câu chuyện nhỏ về Hoàng Hoa Thám.
Tôi không chắc ông Hoàng Hoa Thám, tức Đề Thám, tức Hùm xám Yên Thế trong lịch sử có giống ông Đề Thám mà tôi kể không? Còn ông Đề Thám như tôi biết (tôi biết rõ ông ta): ông ta là một anh hùng, cũng là một người nhu nhược.
Đấy là khoảng năm…, thời kỳ người Pháp giảng hòa với Đề Thám. Vốn hay đùa nhả trong chính trị, người Pháp thỉnh thoảng có mời Đề Thám về Hà Nội hoặc Bắc Giang chơi. Lần ấy, thống sứ Bắc Kỳ là ông Môren thông qua công sứ Bắc Giang có mời Đề Thám đến Bắc Giang dự một buổi tiếp tân.
Cả Dinh dẫn người đưa thư đến gặp Đề Thám.
– Có nên đi không? – Đề Thám hỏi các thủ hạ của mình.
– Đi chứ! – Những người già quả quyết.
Thế đấy, những người già! Với họ chẳng có việc gì là đáng kể. Trước mặt họ là cái chết. Những cơ hội tốt nhất trong đời họ bỏ lỡ cả rồi.
– Đi làm gì! – Cả Dinh, Cả Trọng, Cả Huỳnh cau có trả lời.
Thế đấy, các bác Cả! Các bác Cả thường rất khoảnh. Chúng ta thông cảm với họ, nếu chúng ta tự mình như họ, trần lực như họ, không có ai để bàn bạc, không có ai đáng bàn bạc, họ phải tự gánh lấy trách nhiệm của họ, nghĩa vụ của họ, giá trị của họ.
Thế còn bà? – Đề Thám hỏi bà Ba Cẩn. Bà Ba là người phụ nữ đáng kể nhất trong cuộc đời Đề Thám. Bà là người phụ nữ duy nhất có mặt nơi này, giữa những tên tuổi hào kiệt lừng danh của phong trào nông dân Yên Thế.
– ông nên làm điều có nghĩa, – Bà Ba trả lời rồi thở dài. Bà có tật như thế khi phải băn khoăn, lưỡng lự điều gì.
Đề Thám bảo mọi người lui ra để ông ngồi lại một mình. Ông nghĩ. Những ý nghĩ của ông bắt đầu phiêu lãng. Thường ý nghĩ của ông bắt đầu từ một vật gì đó cụ thể, tức thời đập vào mắt ông. Thí dụ từ bông hoa hồng.
Này bông hoa hồng Giá trị của mày là khoảnh khắc Ai biết mày khi đang hết nụ? Ai để ý mày khi mày úa tàn? Ôi hoa hồng, hoa hồng Phút giây này thật tuyệt vời May cho kẻ tình nhân gặp mày lúc này Môi hồng của thiếu nữ cũng thua mày Hương trầm kia sánh sao được vị thơm nơi nhụy hoa? Và những cánh mỏng mịn mà kia, khiến tất cả vật khác thành phàm tục Hoa hồng! Ôi hoa hồng! Ta tiếc cho kẻ vô tình quên bẵng mày Và giật mình ghen tị với kẻ vô danh nhanh tay Không biết ai hái mày hôm qua Kẻ ấy cư xử ra sao với mày? Hắn có chôn mày trong tim không? Trái tim ấy có rộng lượng không có đủ chỗ cho mày ngụ không? Trái tim ấy có đủ máu không? Ước không có giông bão lọt vào đấy Rồi mày cũng nát tan thôi, em ạ, cô em ạ, Hắn không đáng kể gì, hắn không biết cách Chơi hoa nào đã mấy người biết hoa”…
Đề Thám không nghĩ như thế, dĩ nhiên rồi. Có điều, hôm ấy trong đồn Phồn Xương ông đã cầm lên tay một bông hoa hồng. ông nghĩ về điều khác. Ông đặt mình vào vị trí của Môren, vào vị trí của những người Pháp. ông cho rằng buổi tiếp tân chẳng quan trọng gì và sự có mặt hay không có mặt của ông đều chứa hiểm họa. ông sẽ mang tiếng hèn nhát nếu ông từ chối. ông sẽ thành lố bịch nếu ông có mặt. Thế lố bịch hơn hay hèn nhát hơn? – Đề Thám tự hỏi. – Thôi thì lố bịch còn hơn hèn nhát!
Tôi sẽ đi, đi một mình, đi ngựa…Sẽ ăn mặc như một chàng rể…- Đề Thám vừa nói với bà Ba Cẩn vừa đội lên đầu chiếc khăn xếp trứ danh thửa mãi tận phố Hàng Lọng Hà Nội, chiếc khăn quái đản: không thể dùng làm mũ, cũng không thể dùng để lau mặt được.
– ông muốn đi ngựa thì đi…nhưng đến Bắc Giang tôi sẽ cho phu kiệu đón. – Bà Ba nói vậy rồi lại thở dài. Đề Thám bực mình: ông không thích người ta quan tâm nhiều quá đến mình. ông bảo:
– Đừng làm phiền tôi.
– Nhưng ông làm phiền mọi người. – Bà Ba bẻ lại.
Sự đời là thế. Bà Ba có lý của bà Ba, cũng như bà Cả có lý của bà Cả vậy. Đề Thám giật cương, thúc con ngựa ô ra khỏi cổng đồn Phồn Xương. ông cho ngựa đi bước một, lang thang trong rừng. ông thích như thế.
Đây là thiên nhiên: cành cây xòa trước mặt, tiếng chim hót, những giọt nước mưa đọng lại trên cây, mùi lá mục ẩm ướt, những con chim xanh, con chim đỏ, con chim vàng, những cánh mối ướt rụi, những con bọ nhảy, tiếng vượn kêu não nùng, bông hoa bé xíu…Tất cả hương vị, màu sắc của thiên nhiên đều chân thực, thanh khiết, đều khiến ta cảm động đến tận đáy sâu tâm hồn.
Đề Thám đi miết. Có thể ông nghĩ gì đấy về tuổi ấu thơ đắng cay tủi nhục, những ngày ông phải đi ở tận mãi Tiên Lữ, Hưng yên. Có thể ông nghĩ về Đề Nắm (Lương Văn Nắm), người đã trao quyền cho ông ở vùng Yên Thế, Nhã Nam này. Có thể ông nghĩ về cái mà ta vẫn gọi là “trường tranh đấu”, sự sống hoặc cái chết.
Đề Thám đi xuyên qua rừng mỡ, rừng dẻ, rừng lim và rừng nhội gai. ông trông thấy một cọn phượng hoàng bay qua trước mặt. ông nói:
– Nếu ta nhìn thấy mày hai mươi năm trước thì thích.
Đến giữa trưa thì Đề Thám rẽ vào nhà một người quen ở gần Kế. Đây là nhà ông đồ Hoạt. ông đồ Hoạt có nhà. Các ông đồ thường chẳng đi đâu cả: các ông ở trong bổn phận mình, trong kiến thức của mình (thực ra là của những con thú to hơn), trong thành kiến của mình, trong giá trị của mình. Ông Đồ Hoạt là người hay chữ, hay thơ. Và như thế, nghĩa là ông chẳng giàu có gì. ở nhà ông đồ, Đề Thám được đón tiếp như người nhà. Thoắt cái, đã thấy bà đồ Hoạt bưng lên một mâm lòng lợn, có cả một đa phèo nõn nà. Mùi mắm tôm chanh, mùi rau húng thơm lừng. Bà đồ Hoạt cười bảo Đề Thám:
– Chị vẫn biết chú thích món này!
Ông đồ Hoạt nói:
– Bà gọi ông Lũy với thằng Hoạt ra đây cùng ngồi.
Ông Lũy là ông hàng xóm, người nổi tiếng về tài ăn trộm trâu bò của bọn hào lý trong vùng. Hoạt là con trai duy nhất của ông bà đồ, bị khoèo tay, tính tình e thẹn.
Bữa rượu vui vẻ, thân mật. Mọi người đều ca thán về nạn sưu thuế, thói nhũng lạm, thái độ mất dạy của bọn quan liêu.
Thời dại chó má!
Mọi người đều thấy đúng là thời đại chó má.
Họ dốc vào họng thứ rượu nấu bằng sắn, thứ rượu mạnh đến nỗi có thể châm lửa đốt cháy được, để hòng làm dịu đi nỗi phiền muộn.
Đề Thám kể cho mọi người nghe chuyện bắt sống chủ bút tờ báo “L’ávenir du Ton Kin” (1) mấy năm trước, chuyện trung tá Péroz đến đồn Phồn Xương thương lượng để ký khế ước ngừng chiến.
Đang câu chuyện, Đề Thám hỏi ông Lũy:
– ông có đủ thịt ăn không?
– Nhờ giời, – tay trộm trả lời, – không phải lúc nào cũng ăn thịt bò, nhưng thịt gà thịt vịt cũng ngon.
Đề Thám nói: – Nếu ông ở chỗ tôi, tay Ba Biều sẽ nện cho ông một trận rồi tống ông vào trại. Tôi không thích trộm cắp vặt vãnh.
Ông Lũy bảo: – Tôi không đến chỗ ông vì thế, tôi biết tôi chẳng ra gì vì vướng nợ đời. Tôi giành công bằng theo lối trâu bò gà vịt chứ không phải theo lối con người. Chỉ xin ông đừng khinh tôi. – Tôi không khinh ông, – Đề Thám nói, – nhưng cũng chẳng trọng.
– Đa tạ ông. – ông Lũy đứng dậy chắp tay vái. – Ông và bác đồ cho tôi lỗi phép.
Ông Lũy đi ra. Mâm rượu còn lại ba người. Ông đồ Hoạt nói:
– Anh Đề ạ, cái đầu anh thật kiêu hãnh, thật đáng giá. Toàn quyền Đông Dương (2) thật hà tiện khi đặt giá đầu anh 30 ngàn quan.
Đề Thám cười:
– Bác vẫn làm thơ đấy chứ?
– Vẫn làm…Thế mới đê tiện. – ông Hoạt đỏ mặt. – Còn anh, anh cũng làm thơ theo lối của anh phải không?
Đề Thám nói:
– Không…Tôi không biết chữ.
Ông Đồ Hoạt lắc đầu:
– Mặc xác anh! Anh vẫn là một nhà thơ đáng kể nhất! Ai bảo anh sống thế? Anh là một tên thi sĩ ma vương.! Anh làm sao tránh được danh hiệu đáng sợ ấy! Anh đã làm những điều mà bọn văn chương suốt đời thèm muốn. Chúng không làm sao biến được ngọn bút của chúng thành ngọn giáo hay cái câu liêm!
– Giáo hay câu liêm, thì tôi có thừa, – Đề Thám nói, -nhưng tôi khát khao điều ấy.
Điều ấy, nào, bác Cả bác biết là điều gì không?
Đâu là giá trị tinh thần, vật chát nơi bác?
Chúng ta chỉ vẻn vẹn có mạng sống này thôi Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê Những con đường chúng ta đi qua Tất cả đều xám xịt lầm bụi Mỗi cung đường, mỗi vận hạn đều xám xịt, lầm bụi Mà vầng trăng kia xa lắc Vầng trăng kia lơ lửng trên đáu Có đôi mắt nào mở to trong tim ta Và mỗi cái chớp mắt đều khiến ta nhói lòng Sẽ phải khởi nghĩa thôi phải tranh đấu cùng số phận Trăm năm trước cũng thế trăm năm sau cung vậy Ta phải dấn thân, phải đốt lửa Ngọn cờ ta phất lên là giá trị cuộc đời Bác Cả, cuộc chiến này thật khốn nạn Bác có chối cũng chẳng được Làm người chỉ có một lần làm người thật khó…
Đề Thám hỏi:
– Thằng Hoạt bao giờ lấy vợ?
– Chắc nó ở vậy. – ông đồ thở dài. – Không hiểu sao đàn bà chỉ thích những tên đàn ông nhăng nhít, dê cụ, khả ố, đểu cáng…Thằng Hoạt nhà tôi lại đứng đắn quá.
Đề Thám cười:
– Tôi nhớ tôi đã ăn lễ dạm hỏi ở nhà này rồi. Thằng Hoạt sẽ làm rể Chánh Trương cơ mà?
– Đúng vậy. – ông đồ gật đầu. – Tôi đã hỏi con bé Xoan cho nó. Trầu cau đưa rồi, cuối năm nay cưới nhưng Chánh Trương lại muốn chạy làng, định gả con Xoan cho lão nghị Trường. Lão ấy góa vợ, nhà giàu nứt đố đổ vách.
– Tôi biết nghị Trường, – Đề Thám nói. – Thằng già ấy lẩm cẩm lẫn lộn, khôn như cáo, nói chuyện với ai cũng chỉ gật đầu.
– Anh Đề! Anh hãy giúp đỡ chúng tôi. – ông đồ năn nỉ. – Anh vốn hào hiệp…Anh đừng để con trai tôi xổng con bé ấy.
Đề Thám nhìn Hoạt. Cậu thanh niên e thẹn thở dài. Ngoài cổng xôn xao, trông ra đã thấy Thống Luận, Bang Kinh và mấy phu kiệu thập thò đứng đón. Bà Ba Cẩn không quên lời hứa. Đề Thám biết rằng bà Ba đã đúng trong trường hợp này: Ông không thể vào dinh công sứ Bắc Giang như một phần tử cực đoan lãng mạn, ông buộc phải tiền hô hậu ủng như một đại diện cho nhiều người.
Đề Thám lên kiệu. ông bảo ông đồ:
– Tôi sẽ gắng làm hết sức.
Hoạt chào Đề Thám, đôi mắt chứa chan hy vọng.
Đề Thám nói với Bang Kinh:
– Mang con ngựa ô đi theo. Khi về tôi về bằng ngựa.
Bảy giờ tối, Đề Thám đến dinh công sứ Bắc Giang. Các quan chức và sĩ quan Pháp đi ra đón ông. Họ ngạc nhiên trước người anh hùng nổi tiếng, người được coi là “đại diện cho tâm hồn An Nam” (3) trông y hệt một tay địa chủ nông thôn họ vẫn thường gặp: cũng khăn xếp đen, áo lương, quần trắng, đi giày Gia Định. Đề Thám khác người là ở thần thái, ở tinh thần tự chủ cao, nhãn quan bao quát rộng, nếu có kể thêm thì đấy là sự buồn nản thất vọng về phẩm cách con người nói chung thỉnh thoảng lộ ra ở khóe nhìn vô hồn nơi ông.
Đề Thám trông thấy đám quan chức người Việt đứng tụm lại thật hèn hạ. ông nhận ra nghị Trường, Chánh Trương và cả Xoan, con gái lão, người đã đính hôn với con trai ông đồ Hoạt. Tôi sẽ không kể gì về buổi tiếp tân này. Theo sử sách ghi chép thì người Pháp ở giới thượng lưu thời ấy đều nhẹ dạ, ngông cuồng, xa hoa; đa phần người Pháp “thực dân” còn lại trong các guồng máy cai trị cồng kềnh, lại vừa ngu vừa ác. Bầu không khí tinh thần của thời “thuộc địa nửa phong kiến” ấy đại để như sau: thói ham tiền hám của trộn lẫn với lòng thèm khát khoái lạc vui chơi, chế dộ nô lệ tàn bạo bày ra trắng trợn ở các hầm mỏ, đồn điền; đám nha lại người Việt coi thuế là nguồn thu chủ yếu để xây lợp mái nhà Tổ quốc, có chỗ xây lợp bằng đá thật, có chỗ xây lợp bằng các tờ báo lá cải và chứng từ kế toán giả mạo, “con rồng tre An Nam” tìm cách nhảy chồm lên trong tiếng tom chát ở các ổ chứa và tiếng vỗ tay trong các hội đoàn, thỉnh thoảng lại giật mình co lại bởi tiếng súng kíp hoặc súng hỏa mai tự chế ngoài biên giới…Việt Nam đầu thế kỷ XX là một đất nước nghèo nàn, gần như mọi rợ…
Buổi tiếp tân không làm Đề Thám thú vị chút nào. Lựa dịp thuận tiện, Đề Thám nói với Chánh Trương:
– Tôi muốn nói chuyệh với con gái ông.
Tôi không biết Đề Thám đã nói với Xoan những gì hôm ấy, chỉ biết rằng cô rất bối rối xúc động.
Cô gái, lời nói nào làm cô bối rối xúc động?
Những lưỡi dao cứa vào sĩ diện cô ư? – Không phải!
Những lời tán tỉnh rườm rà hoa mĩ ư? – Cũng không phải nốt!
Ngôn ngữ trở nên ghê tởm, nhớp nhúa trên miệng bọn tiểu nhân Tôi biết một thứ ngôn ngữ giản dị như đất Thứ ngôn ngữ mộc mạc, thẳng băng Tựa như tiếng tù và Như tiếng kèn đồng Như tiếng chuông vọng… Có một thứ ngôn ngữ thức tỉnh con người Buộc họ soi vào lòng mình như soi mặt xuống lòng hồ Có thứ ngôn ngữ của người anh hùng, của người chính trực Nó làm ta bối rối xúc động Ta không trón được Thứ ngôn ngữ không hề phù phiếm cũng chẳng tân kỳ Thứ ngôn ngữ của giống nòi lruyền lại Thứ ngôn ngữ của lương tri không bao giờ mất…
Đề Thám ra về trước khi buổi tiệc kết thúc.
Không có bất trắc gì xảy ra cho ông và các thủ hạ đi theo. Đề Thám chia tay với mọi người ở triền đê sông Thương, ông lên con ngựa ô rồi theo con đường mòn rẽ vào rừng, ở đấy có lối đi tắt về Nhã Nam. Đề Thám đến cửa rừng thì thấy Xoan đứng đó. Sự biến động trong tinh thần khiến khuôn mặt vốn trắng hồng của cô gái tái nhợt hẳn đi.
Xoan nói:
– Em van ông… Ông hãy cho em đi theo. Đi đâu cũng được…
– Cô phải về đi, – Để Thám nói. – Cô phải chọn Hoạt.
– Không.. – Xoan nức nở.
Đề Thám đón Xoan lên con ngựa ô rồi thúc con ngựa vào rừng. Đêm trong rừng mênh mông và hư ảo lắm. Tiếng côn trùng rỉ rắc. Mùi hương rừng nồng nàn. Bóng tối sẫm đen trên các tán lá cây, sẫm đen nơi hốc đá, sẫm đen eả trên mặt đất. Rừng vô tình, vô cảm, thản nhiên, lạnh lùng, tàn nhẫn. Rừng muôn đời là thế. Thiên nhiên muôn đời là thế: vô tình, vô cảm, thản nhiên, lạnh lùng, tàn nhẫn. Tất cả đều đẩy con người về nơi tận cùng ý thức cá nhân chính nó. Con người tự co lại như con sâu, cái kiến, thúc thủ trong phần sinh linh vừa bé mọn, vừa cô đơn, vừa bất lực; nó chớp đôi mắt phấp phỏng lo âu trong tâm hồn nó và tự hỏi mình: là ai? đi đâu? thế nào? làm gì? tiến đến đâu? bao giờ thành tựu? bao giờ kết thúc?
Đề Thám và Xoan đến chỗ có hai ngả rẽ một vào căn cứ Hố Chuối và một về Kế thì mưa. Mưa tháng Tư là thứ mưa đầu mùa ở vùng nhiệt đới. Nhoằng một ánh chớp, một làn gió thoảng qua là mưa liền, không sao lường được. Bắt đầu tưởng là cơn mưa bóng mây không phải ngại gì, bỗng thoắt là mưa đá, sấm rền, sét nổ. Mưa như roi quất, tàn bạo, hung hãn. Mây đen cuồn cuộn, gió giật liên hồi rồi mưa như những thác nước trên cao đổ xuống ào ào. Con ngựa không thể đi được vào trong hẻm núi. Đề Thám gầm lên một tiếng như lời chửi rủa, cũng gần như lời than thở rồi thúc đầu gối vào ức phải con ngựa cho nó chạy xuống cánh đồng, ngả rẽ về Kế. Một lúc sau, hai người đã ở trong nhà ông đồ Hoạt.
– Ta đã biết mà, – ông đồ bảo Xoan. – Ta biết con sẽ là một con người con dâu thảo hiền, tín nghĩa… Bà đồ cuống cuồng giục Xoan đi thay áo quần kẻo lạnh. Hoạt vung vẩy cánh tay khoèo, khuôn mặt tràn trề hạnh phúc.
– Anh Đề! – ông đồ nắm lấy vạt áo Đề Thám. – Anh hãy ở lại đến mai hãy về…
Không! – Đề Thám lắc đầu. Những giọt nước mưa mặn chát ướt đầm trên khuôn mặt ông. ông nhảy lên ngựa rồi phóng thẳng vào trong màn mưa dày đặc, màn đêm dày đặc.
Mưa như thế, bắt đầu từ lâu rồi Trên mặt đất, những con bọ cử bò lổm ngổm Tôi không biết con người khát khao điều gì trong cõi sống này. Hình như điều thiện bắt đầu từ tình yêu phải không? Điều thiện buồn tẻ vì nó nhạt nhẽo Điều thiện tầm thường vì nó an toàn Điều thiện tệ hại vì nó giết đi đam mê Anh có sợ điều thiện không? Chị có sợ điều thiện không? Và em nữa? Em có bao giờ ghê tởm điều thiện bằng như điều ác? Rồi mưa cùng với thời gian sẽ xóa đi thôi, xóa hết Xóa tất cả, rửa đi tất cả Người ta sẽ rửa chúng ta đi như rửa xương khi bốc mộ Trong đêm không có ánh mặt trời Chúng ta bị rửa đi như rửa xương khi bốc mộ Tất cả xương người đều như thế. Tất cả đều rời rạc, đen đúa, khô khan Chúng ta bị rửa đi như rửa xương khi bốc mộ Có cơn mưa nào. Có đôi mắt nào nhòa ướt cho anh?
Đề Thám phóng ngựa vào rừng. Mưa quất vào mặt ông bỏng rát. ông bỗng òa khóc. ông òa khóc cho mình, cho người, cho tất cả những hữu hạn của chính mình, của mỗi người. Đề Thám sụt sùi như một người thường: một anh bán bánh đa mật ở chợ Kế, một viên công chức quèn, một chàng thợ bạc vụng về, một ông giáo nghèo… Ông khóc như một người nhu nhược nhất đời, một người suốt đời thỏa hiệp, không bao giờ dám bước qua lằn ranh bổn phận, nghĩa vụ, cương tỏa. Ông khóc như chưa bao giờ là một anh hùng, một người khởi nghĩa.
Đề Thám đi suốt đêm mưa trong rừng. Người ta kể rằng sáng sớm hôm sau ông cầm đầu một toán quân đánh dồn binh Pháp ở Kép, tất cả binh sĩ trong đồn đều bị gíết sạch. Từ đấy chấm dứt thời kỳ hòa hoãn giữa ông và người Pháp.
Mấy năm trước tôi gặp bà cụ Xoan ở huyện lỵ Yên Thế gần đồn Phồn Xương, nơi bây giờ trở thành một phố chợ sầm suất. Bà cụ giờ 84 tuổi, tóc bạc trắng, trông rất hiền lành. Tôi hỏi bà cụ về cuộc đời bà cụ trải qua, bà cụ kể lể khống biết bao nhiêu những điều cơ cực nhọc nhằn xảy ra trong cuộc đời mình: nào người chồng tính nết dở hơi thô bạo, nào đói kém, nào con, nào cháu, nào tật bệnh, nào chiến tranh…
Tôi đứng trên quả đồi khô cằn toàn sỏi nơi bà cụ phát hoang để xây dựng cơ nghiệp cho gia đình mình, trong lòng vô cùng cảm động thương xót. Tôi hỏi điều gì đã làm bà cụ vượt qua được hết nhọc nhằn gian khó trong bao nhiêu nẩm tháng ấy, bà cụ cười móm mém để lộ hai hàm lợi không còn một cái răng nào rồi vạch áo cho tôi xem tấm ngực trần hom hem với đôi vú teo tóp răn reo.
Bà cụ nói: – Ông ấy muốn thế…Tôi không phụ lời tôi hứa… Ông ấy là nguồn an ủi suốt cuộc đời tôi…
– Ông ấy là ai hả cụ?
– Ông ấy kia kìa…
Bà cụ chỉ về bức tượng xi măng cốt thép đứng trên đỉnh đồi ở gần di tích Phồn Xương. – Ông ấy chẳng hề nói năng gì cả…
Tôi biết Đề Thám đã không hề nói năng gì cả từ năm 1913, hơn 80 năm rồi…
Hôm tôi ở Nhã Nam trời cũng mưa, nhưng là cơn mưa bóng mây, một thứ mưa xoàng.
Tôi kể chuyện này đến đây là hết.
* (1) Tương lai xứ Bắc kỳ. (2) Pôn Đume (Paul Doumer) (3) Lời của nghị sĩ Metsimy ở nghị viện Pháp ngày 18-11-1909.
3 Kiếm Sắc, Vàng Lửa, Phẩm Tiết là chuỗi truyện ngắn thứ ba mà tôi thật yêu thích của anh Nguyễn Huy Thiệp, công bố năm 2001 Văn hay lời kiệm chữ, Sử giỏi đời cần lao. Sách này đúng ra phải là Ðặng Phú Lân Kiếm Sắc. Chuyện về Ðặng Phú Lân Kiếm Sắc là tướng thân tùy của Thế tổ Nguyễn Phúc Ánh. Lúc vào thành Thăng Long Nguyễn Phúc Ánh bảo: “Ngươi theo hầu ta thế là chín năm một trăm ngày. Chín năm không làm hỏng việc gì, còn một trăm ngày thì hỏng việc, vô tích sự. Thế là trèo lên cây mà không hái được quả, đáng tội chết”. Lân không nói năng gì, vươn cổ ra chịu chém. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp kể vậy và sóng gió dư khen chê nhiều nhất về truyện ngắn này. Vàng Lửa, Phẩm Tiết kết nối với Kiếm sắc thành một truyện hoàn chỉnh tiếp nối và tỏa sáng một cốt truyện Việt tuyệt hay, dường như nhân vật Yến Thanh Tiểu Ất trong kiệt tácThủy Hử (Tôi xin được chép lại) chuyện như sau:
Trong số người gần gũi với Thế tổ Nguyễn Phúc Ánh những năm mưu phục lại cơ đồ nhà Nguyễn có một hào kiệt mà không sử sách nào nhắc đến. Người đó là Ðặng Phú Lân.
Lân quê ở Hưng Hóa, cha là Ðặng Phú Bình, trước là thuộc tướng của Trịnh Bồng. Bình tính ngang tàng, võ công thâm hậu, thấy chúa Trịnh hèn mà cách xử thế keo kiệt, không xứng đáng với bậc vương giả nên bỏ Trịnh Bồng vào Ðàng Trong. Khi Tây Sơn nổi lên, Bình theo Nguyễn Nhạc, Nguyễn Nhạc không tin Bình, cho Bình là dân Bắc Hà trí xảo, không trung tín. Nhạc chỉ cho Bình làm một chức quan võ nhỏ ở vùng sơn cước mãi tây Bình Thuận. Bình bất đắc chí, suốt ngày uống rượu, nhiều khi say quá, cứ trông về phía trời Bắc mà khóc hu hu. Lân can thế nào cũng không được. Về sau Bình ngã nước, râu tóc rụng hết, gầy tọp đi, da vàng như nghệ, chỉ nằm chờ chết. Bình có một thanh kiếm gia truyền, sắc như nước, sống kiếm đổ chì, sức chém khủng khiếp. Trước khi chết, Bình trao thanh kiếm lại cho Lân, bảo rằng: “Con ơi, nước đang có loạn. Tây Sơn bây giờ đang lên như thế chẻ tre. Nhưng ta thấy sức chơi của bọn người này bất quá chỉ như trọc phú nhà giàu, gÁnh vác giang sơn sao được? Ta đồ rằng mệnh Tây Sơn có hạn. Hiện Gia Ðịnh có Nguyễn Phúc Ánh là nòi vương giả, con gắng vào đấy tìm xem”. Lân khóc, mắt chảy có máu. Bình giãy mấy cái, mồ hôi toát đầm đìa, người cứ lạnh dần rồi chết. Lân lấy kiếm đào huyệt chôn cha; tìm đường vào Gia Ðịnh theo Nguyễn Phúc Ánh. Lúc bấy giờ Lân mới hai mươi tám tuổi.
Nguyễn Phúc Ánh ở Gia Ðịnh tìm cách lật đổ Tây Sơn, khi này thế đã mạnh. Ánh là người đa mưu túc kế, tính kiên trì, không tin ai, dùng người lấy chữ “hiệp”, chữ “lễ” làm trọng, không coi “nhân”, “nghĩa”, “trí”, “tín” ra gì. Thỉnh thoảng, Ánh vào trong đất Thuận Quảng, xuất quỷ nhập thần. Người Ðàng Trong sợ Ánh hơn là thích Ánh. Ánh đi đến đâu nghe nói cũng có mây đen cuồn cuộn bay đằng trước, dân cư thấy có mưa là biết Ánh vừa đi qua.
Lân gặp Ánh. Ánh thấy Lân khôi ngô, ăn nói khoan hòa mà thủ đoạn táo bạo thì thích lắm, cho ở luôn bên mình. Một lần thuyền Ánh qua cửa Tiền Giang, có bốn người đi theo, trong đó có Lân. Bấy giờ có con cá sấu rất to cứ bơi theo, đuổi thế nào cũng không được. Mọi người lo sợ, thấy phải có người nhảy xuống làm mồi cho cá sấu thì mới thoát.
Ánh hỏi: “Ai vì nước Việt mà chết?” Ba người kia tình nguyện chết, chỉ có Lân ngồi im. Ánh trừng mắt hỏi Lân: “Trượng phu quý mạng sống thế à?” Lân chắp tay: “Chúa công đừng giận. Nước Việt thì không ai hại được. Còn thoát hàm cá sấu, cần gì phí một mạng người!”
Nói rồi nhặt hòn đá ở mạn thuyền ném con vịt giời bay qua. Vịt giời rơi xuống nước, cá sấu thấy vậy vội bỏ thuyền lao đến chỗ vịt giời. Ánh cười ha hả bảo rằng: “Thế này thì nghiệp ta thế nào Trời cũng cho thành”.
Ánh đi đâu cũng cho Lân đi theo, cũng nhiều khi Ánh xem ý Lân để liệu xử thế với người, lần nào cũng trúng. Có lần, lúc này thế Ánh như diều gặp gió, trước Tết Nguyên đán, các tướng lĩnh, các nhà hào phú quanh vùng, cả dân chúng Gia Ðịnh nữa cũng mang lễ vật đến mừng, Ánh cho Lân ra nhận lễ vật. Lân ra nhận, cho ráo vào cả một kho. Khách đến chúc mừng Ánh, chỉ đi chân tay không mà vào. Bọn Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành, Võ TÁnh thấy lễ vật của mình cũng bị xếp cùng với lễ vật những người khác thì căm tức. Bọn này phàn nàn với Ánh, ý trách Ánh để tả hữu coi thường mình. Ánh cười bảo rằng: “Lân là người có văn, có võ, lại cương trực, trung thành với chủ, cứ để hắn khu xử. Hắn có cách khu xử của hắn. Những người gần ta không phải kẻ tầm thường đâu”.
Sáng mồng một, lập đàn tế thần, Ánh cho Lân đứng ra chia lộc thánh. Lân chia phần đều ai cũng như ai, mọi người rất hớn hở. Sau việc này, Ánh hỏi Lân, Lân đáp: “Nghiệp chúa công chưa thành, thế mà đã có kẻ dâng lễ vật nhiều, dâng lễ vật ít. Biết lễ vật của từng người, chúa công sau này dùng họ khó.” Ánh bảo: “Phải!” Lân lại nói: “Việc chia phần đều nhau là để ai cũng thấy mình phải cố gắng”. Ánh bảo: “Cũng phải”. Ngồi một lúc Ánh nói: “Chỉ e ngươi căn cơ quá chăng?” Lân đáp: “Ðầy tớ không căn cơ có hại cho chủ”. Ánh bảo: “Ngươi là dân Bắc Hà; Ngươi không hiểu dân Ðàng Trong như ta được. Ngươi tưởng làm thế là chu toàn, nhưng bậc vương giả thích sự tiện lợi hơn cả”. Lân bảo: “Chúa công nói phải, căn cơ chỉ hợp với bần tiện, nhưng đất của Chúa công bây giờ nhiều hơn đất của Tây Sơn hay của Tây Sơn nhiều hơn?” Ánh cau mày đáp: “Ta chỉ vỏn vẹn có ba thước đất chôn thây thôi”. Lân bảo: “Không phải thế. Chúa công được lòng trời đất, chỉ cần Chúa công thành tâm”. Ánh ngồi im, lát sau lại hỏi: “Nhạc không nói làm gì. Lữ không nói làm gì. Huệ có cách gì mà giỏi giang thế?” Lân đáp: “Huệ giỏi dùng người tài nhưng không giỏi dùng người thường. Chúa công khác Huệ”. Ánh ngồi im không nói năng gì.
Khi Nguyễn Huệ chết, con trai là Nguyễn Quang Toản lên ngôi, Tây Sơn năm bè bảy mối. Ánh mừng lắm sai mở tiệc mừng. Lân đứng ra can: “Chúa công đừng làm thế, dân chúng nhìn vào không cho ta là người đại lượng”. Ánh bảo: “Huệ coi ta là quốc thù, hịch truyền khắp nơi, lời lẽ bẩn thỉu lắm. Ta với Huệ không đội trời chung. Nó chết ta cười cũng không được ư?” Lân đáp: “Huệ không có tội gì, chỉ là một người tài, bị trời hành, cũng như Chúa công vậy. Nhưng lực lượng của Huệ không được hưởng phúc lâu dài, thế là Huệ dăm bảy đường thiệt. Ta lấy lộc của kẻ được hưởng phúc trời mà cư xử, trời thấy ta phải, người cũng thấy ta phải”. Ánh nghe Lân nhưng nghiến răng nói: “Khi nào ta thành nghiệp lớn, ta phanh thây nó, ta chôn ba họ nó”. Lân bảo: “Chẳng lâu đâu, Chúa công cứ nhịn cười, lúc ấy cười một thể”. Quả nhiên sau này khi Ánh chiếm Thăng Long, thống nhất giang sơn, Ánh trả thù Tây Sơn rất thảm khốc.
Khi Ánh chiếm Phú Xuân, cướp được một ca nữ xinh đẹp lạ lùng, tên là Ngô Thị Vinh Hoa, vừa tròn mười tám tuổi. Vinh Hoa hát hay, đàn giỏi, điệu bộ rất duyên dáng. Một đêm, Ánh hứng khởi, sai Lân đưa Vinh Hoa vào bày tiệc, ngồi nghe hát. Lân bảo: “Hát bài Triều Thiên Tử”. Vinh Hoa ôm đàn hát: Kìa xanh xanh Mấy nụ non Mấy lá non Nhờ mưa xuân mang sữa cho Nhờ gió xuân mang khí thổ cho Nhờ đất mang lương thực cho Chẳng chịu cho ai hái Càng lớn, nhan sắc càng mỹ miều Càng lớn, phẩm hạnh càng thanh sạch Càng lớn, càng cả thẹn Thơ nào tả được vẻ đẹp này Bút nào vẽ được ý tứ này Ai tương tư mà chau mày Ngủ thì thôi, tỉnh lại nhớ ấy là trời cho Vẻ đẹp hoàn hảo Vẻ đẹp thiên kim. Ánh vỗ tay reo: “Hát hay quá”. Lân lại bảo:” Hát bài Tình Sông Núi”. Vinh Hoa ôm đàn hát:
Kìa núi cao cao Kìa sông xanh xanh Núi do đâu mà ra Sông do đâu mà ra Tráng sĩ xa nhà Lặn lội trên đường Nơi cố hương Mẹ già bạc đầu Gái quý đêm nằm trằn trọc Lấy gì trả nghĩa tình Uống chén rượu sầu Mời núi cao một chén Lạy thiên tử ba lạy Chẳng quên tình sông núi Chỉ thương tình mẹ già với người đẹp phương xa.
Ánh cau mày: “Hát hay nhưng buồn quá”. Vinh Hoa quì xuống lạy: “Tiện thiếp làm rầu lòng người trời”. Lân đỡ dậy, bảo rằng: “Người chớ lo, Chúa công lòng rộng, những thứ tình cảm sướt mướt của bọn người thường không hợp với Chúa công đâu”. Nói xong, Lân sụp xuống lạy Ánh: “Ngày mai Chúa công ra trận vui thú ít thôi, cần nghỉ ngơi”. Ánh thở dài đứng lên: “Cũng phải ngươi ép ta, đến nay là chín năm rồi, ta còn nhớ. Từ khi ngươi cắp gươm hầu ta, ăn ngủ cũng phải tính giờ. Xưa kia ta đâu phải vậy?” Lân đáp: “Chúa công chịu mệnh trời, gÁnh nặng hơn người”. Ánh bảo: “Ta chỉ thích như người thường thôi!” Tuy nói thế nhưng cũng rũ áo vào trướng. Vinh Hoa ôm đàn lui ra. Hôm sau, Ánh bảo Lân: “Ta đi mà cứ văng vẳng tiếng hát ca nữ bên tai, tiếng gió thổi, tiếng gươm dao không át được”. Lân bảo: “Chúa công còn nhiều cơ hội nghe hát, nhưng cơ hội diệt Tây Sơn chỉ có một”.
Ánh họp các tướng, bàn kế hoạch đánh ra Thăng Long. Lê Văn Duyệt tâu: “Bắc Hà có nhiều danh sĩ tài giỏi. Sao cho cờ của ta đến đâu, bọn khốn nạn này mà theo thì dân chúng cũng phải theo thôi”. Ánh bảo: “Không được. Ta ủy mệnh trời, cần gì mua chuộc ai? Ta đến đâu, đào hố đến đấy, chôn chúng nó xuống, dân chúng không theo không được”. Quan tướng ai cũng thấy phải, ngồi yên lặng cả.
Ðêm ấy Ánh thao thức không ngủ được, gọi Lân đến bảo múa kiếm cho xem. Lân cầm thanh kiếm gia truyền, múa loang loáng, nghe như có gió thổi bốn bề. Ánh nhìn toát cả mồ hôi, đoạn bảo đưa kiếm cho xem. Ánh cầm thanh kiếm hai tay, phát đứt một cây hoa dại vòng gốc như cột nhà mà chỉ bằng một nhát. Nhựa cây phun ra như máu trắng. Ánh hỏi: “Kiếm của ngươi sao sắc bén vậy?” Lân bảo: “Ðây là kiếm thần, không rõ xuất xứ, tổ phụ truyền lại”. Ánh hỏi: “Sao bây giờ ta mới thấy nó?” Lân bảo: “Trước Chúa công chỉ thấy đầu rơi dưới kiếm, bây giờ mới nhìn rõ kiếm. Thế là sắp thanh bình thịnh trị rồi đó”. Ánh cầm thanh kiếm không muốn rời tay.
Ánh hỏi: “Trưa nay khi nói việc ta muốn chôn danh sĩ Bắc Hà, sao ngươi tái mặt?” Lân tâu: “Lân là người Bắc Hà nên tủi phận mình sợ cho mình”. Ánh bảo: “Ta chỉ ghét bọn chữ nghĩa thôi, còn ngươi là con nhà võ thì sợ gì. Chữ nghĩa chúng nó thối lắm, ngụy biện xảo trá tinh vi. Hành tung chúng, ta chẳng lo. Toàn lũ ốm o, như dòi chồn hèn mọn cả”. Lân bảo: “Ða số như thế, chôn cũng đáng. Chỉ có đôi người khá, chúa công được họ thì thêm sang cho chúa công”. Ánh bảo: “Ta không tin bọn nó theo ta. Chúng nó quen tỉ tê với chữ nghĩa thì sẽ coi ta là vô đạo, không có tâm thế. Rửa đầu óc chúng nó mệt lắm”. Lân bảo: “Thế là chúa công vẫn quen dùng người thường, ở bậc cao nhân còn gì còn chuyện vô đạo, hữu đạo? Tâm ở sự thành, đâu phải ở lòng? Chúng không chịu hiểu là lỗi ở chúng. Ðã ai hiểu việc chúa công dùng Bá Ða Lộc, dùng người ngoại quốc? Chúc công còn phải mang tiếng ba trăm năm”. Ánh lo sợ nói: “Phải làm sao?” Lân bảo: “Chẳng làm sao được, nhưng bên cạnh chúa công có vài người như Ngô Thì Nhậm thì không sao cả”.
Ánh bảo: “Ta muốn cho ngươi đi trước, chiêu mộ đôi ba người, thế là công to lắm”. Lân sụp lạy: “Ðược thế còn gì bằng, Lân cũng không thẹn mặt với nơi sinh ra mình”. Ánh bảo: “Ta giữ thanh kiếm này để khi ngươi quay về, có tin hay, ta có cớ mà khen thêm. Còn không được việc, ta có linh khí mà trừng phạt”. Lân tái mặt nhưng đành phải chịu. ít bữa sau, Lân cãi trang, giắt theo ít vàng bạc, tìm đường ra Bắc Hà. Lúc này Bắc Hà nhốn nháo lắm, triều đình Tây Sơn như trứng để đầu đẳng. Bọn tướng của Tây Sơn tranh giành nhau, chẳng còn biết giữ gìn tiếng tăm nữa. Lân thân cô, thế cô, lang thang đây đó, đi khắp nơi tìm người tài giỏi nhưng không thấy ai ưng ý. Một hôm, Lân vào nghỉ ở một quán trọ ven đường, thấy có một người cốt cách hiền lành, dáng điệu bồn chồn đang ngồi uống nước chè suông. Hai người nói chuyện. Lân ngạc nhiên thấy người này trong trẻo lạ thường, tâm hồn sạch như nước ở suối ra. Lân cố mời rượu, người này chỉ uống một tí đã đỏ mặt. Con gái chủ quán rất xinh đứng ra hầu rượu. Người trẻ tuổi bảo: “Khách ở nơi xa đến, mệt mỏi vì công danh không đâu, chưa biết thế nào là đường đi lối lại, cô Cầm hát một bài cho nghe đi”. Lân thoáng ngạc nhiên, rồi bình tâm lại, vật nài mãi, cô con gái chủ quán bèn ôm đàn ra đưa cho người trẻ tuổi. Người trẻ tuổi gảy đàn, cốt cách rất ư thanh lịch. Cô con gái chủ quán hát:
Kìa trăm năm Tài mệnh là gì Chỉ thấy đớn đau Nhờ mưa mang sữa cho Nhờ đất mang lương thực cho Chẳng chịu cho ai hái Ai hái cũng phí Nhan sắc mỹ miều cũng qua thôi Phẩm hạnh thanh sạch cũng nhạt thôi Càng lớn càng cả thẹn Cố tả được vẻ đẹp này Gắng vẽ được ý tứ này Ai tương tư cho rầu lòng Ngủ thì thôi, tỉnh lại nhớ ấy là trời buộc Cô quạnh vì nàng Ta đi săn, đi câu Vẻ đẹp hoàn hảo Vẻ đẹp thiên kim Bao giờ bốc mộ Nhỏ cho một giọt nước mắt Kìa trăm năm Tài mệnh là gì Chỉ thấy đớn đau
Lân nghe xong, thở dài trào máu ra từ ngũ khiếu. Lân kêu to: “Trời hỡi trời, sao giống bài Triều Thiên Tử vậy?” Cô con gái chủ quán cười cười chỉ tay vào người trẻ tuổi: “Bài này không có tên, do người này làm ra, chỉ để riêng cho Cầm hát”. Lân thở dài nói: “Bài hát hay quá, thật Lân này chưa biết thế nào là đường đi lối lại”. Nói rồi Lân cáo từ vào trong nằm nghỉ. Hôm sau Lân dậy sớm, bỏ đi không chào chủ quán, cũng không hỏi người khách trẻ tuổi với cô Cầm, con gái chủ quán.
Khi Lân đến được Thăng Long thì Nguyễn Ánh đã vào thành rồi. Quân Ánh đi như nước lụt, Lân như cÁnh bèo bị sóng cuốn trôi. Thâm tâm Lân cũng chẳng biết nên vui hay buồn, chỉ thấy trong lòng cảm động.
Lân gặp Ánh xin chịu tội vì không làm được việc. Ánh ngồi trên ngai vàng, tả hữu gươm giáo sáng quắc hai bên. Lân tự trói mình, quì xuống sân rồng. Ánh bảo: “Ngươi theo hầu ta thế là chín năm một trăm ngày. Chín năm không làm hỏng việc gì, còn một trăm ngày thì hỏng việc, vô tích sự. Thế là trèo lên cây mà không hái được quả, đáng tội chết”. Lân không nói năng gì, vươn cổ ra chịu chém. Nghe nói Nguyễn Ánh đã sai đao phủ dùng thanh kiếm gia truyền của Lân để chém đầu Lân. Khi chém đầu, máu phun ra không đỏ mà trắng như nhựa cây, một lúc sau thì bết lại.
Đoạn kết
Viết truyện ngắn này, tôi muốn để tặng gia đình ông Quách Ngọc Minh để cám ơn thịnh tình của gia đình ông đối với riêng tôi. Tôi cũng xin cảm ơn một số nhà nghiên cứu lịch sử và bạn bè quen biết đã giúp tôi sưu tầm chỉnh lý những tư liệu cần thiết cho công việc viết văn, vốn rất nhọc nhằn, phức tạp, lại buồn tẻ nữa của tôi…
Vàng Lửa Nguyễn Huy Thiệp
Rầu lòng vậy… Cầm lòng vậy…
(Dân ca)
Ông Quách Ngọc Minh, ngụ ở Tu Lý, huyện Đà Bắc viết thư cho tôi: Tôi đã đọc truyện ngắn Kiếm sắc của ông kể về tổ phụ tôi là Đặng Phú Lân. Riêng chi tiết gặp Nguyễn Du không thích. Nhân vật Người trẻ tuổi trong quán trong trẻo lạ lùng, tâm hồn sạch như nước ở núi ra không ra gì Bài hát Tài mệnh tương đô có ý gán cho Nguyễn Du là khéo mà không khéo vậy. Ông gắng thu xếp lên chơi, tôi sẽ cho ông xem vài tư liệu, biết đâu giúp ông có cách nhìn khác. Con gái tôi là Quách Thị Trình sẽ mời ông món canh cá nấu khế ông thích…
Nhận được thư tôi đã lên thăm gia đình ông Quách Ngọc Minh. Những tư liệu cổ mà ông Quách Ngọc Minh gìn giữ thật độc đáo. Về Hà Nội, tôi viết truyện ngắn này. Khi viết, tôi có tự ý thay đổi một vài chi tiết phụ và sắp xếp, chỉnh lý lại các tư liệu để hợp với việc kể chuyện.
*
Năm 1802, Nguyễn Phúc ánh chiếm Thăng Long, lên ngôi vua, đặt tên hiệu là Gia Long. Bên cạnh nhà vua có vài người châu âu giúp việc. Trong số ấy có một người Pháp tên là Phrăngxoa Pơriê do chính giám mục Pi nhô đờ Bê hen (Bá Đa Lộc) tiến cử. Nhà vua thường gọi y là Phăng.
Phăng từ nhỏ đã thích phiêu lưu. Y từng tham gia cách mạng 1789, bạn với Xanh Giuýt. Năm 1794, cách mạng thất bại, Phăng trốn ra nước ngoài. Năm 1797, Phăng theo chân một tàu buôn trôi dạt dến Hội An. Người ta không rõ cuộc gặp gỡ của y với Bá Đa Lộc, chỉ biết Bá Đa Lộc có viết thư giới thiệu Phăng với vua Gia Long. Trong tập bút ký của mình sau này, Phăng viết:
Nhà vua là một khôí cô đơn khổng lồ. Ông đóng trò rất giỏi trong triều đình. Ông đi, đứng, ra, vào, ra các mệnh lệnh, chấp nhận sự tung hô của bọn quần thần. Ông là người cha nghiêm khắc của lũ con ích kỷ, đần độn. Là người chồng đáng kính của các bà vợ tầm thường… Ông biết ông đã già, với bọn cung tần mỹ nữ trẻ đẹp ông bất lực. Ông biết rõ cái triều đình thiển cận do ông dựng lên, biết rõ quốc gia mình nghèo đói. Ông luôn lo sợ bởi quyền lực nắm trong tay, nó lớn ngoài sức chứa một con người…
Trong một chuyến đi săn ở phía Bắc kinh thành Huế, Phăng đi theo vua Gia Long. Phăng kể: Nhà vua cưỡi ngựa, lưng rất thẳng. ở giữa thiên nhiên, trông ông rạng rỡ mất đi vẻ đăm chiêu cau có hàng ngày. Ông vui vẻ vào cuộc săn hào hứng. Buổi tối, nói với tôi, ông bảo: Khanh biết không, cái lũ chó chết ấy, chúng nó chuẩn bị cả rồi, chỗ nào trẫm đi qua thì chúng thả thú ra. Tôi ngạc nhiên hỏi vì sao nhà vua (vốn xuất thân là một võ tướng) lại chịu được sự nhục mạ ấy. Ông cười: Khanh chẳng hiểu gì. Vinh quang nào chẳng xây trên điếm nhục. Tôi ngồi nghe nhà vua, nhận thấy ông trải đời ghê gớm. Ông hiểu bản chất đời sống cộng sinh. Số phận ngẫu nhiên giao cho ông đứng trên đỉnh cao nhất, ông không dám phá vỡ bất cứ quan hệ nào làm hại đời sống cộng sinh đó, bởi phá vỡ nó, nghĩa là ngai vàng không còn đứng vững. Tôi có hỏi nhà vua về các nhà lư tưởng phương Đông. Tôi nhận thấy ông không quan tâm đến họ. Ông bảo: Tất cả do cay cú đời sống. Họ là quá khứ. Thời khắc đang sống, là đáng kể. Nhà vua chăm chú ăn món gân hổ, hơn là tiếp chuyện tôi…
Phăng được vua Gia Long cho phép đi lại nhiều nơi, Phăng từng gặp Nguyễn Du, bấy giờ đang giữ chức tri huyện. Phăng kể:
Trước mặt tôi là một người bé nhỏ, mặt nhàu nát vì đau khổ. Ông nổi tiếng là một nhà thơ có tài. Tôi thấy ông hoàn toàn không hiểu gì về chính trị. Trước sau, ông là một viên quan tận tụy. Ông hơn những người khác ở nhân cách nhưng nhân cách ấy có giá trị gì khi cuộc đời thực của ông xúi xó, túng kiết. Ông hoàn toàn thiếu tiện nghi. Ông không phù phiếm nhưng sự hào hoa cũng không có nốt. Đời sống tinh thần bóp nghẹt ông. Ông nói chuyện giản dị và hóm hỉnh. Trực giác tuyệt vời. Cũng như vua Gia Long, ông là một khối nguyên liệu to lớn nhưng nhẹ đồng cân hơn, hợp chất tạo thành ít hơn, độ bám của bụi bặm cũng ít hơn. Cả hai đều là những khối nguyên liệu vô giá, những vật quốc bảo.
Phăng được Nguyễn Du dẫn đi thăm một vài nơi trong địa hạt của mình. Phăng viết:
Ông ta (tức Nguyễn Du) có sự thông cảm sâu sắc với nhân dân. Ông yêu nhân dân mình. Ông đại diện cho nhân dân ở phần u uất nhất, trữ tình nhất nhưng cũng đáng thương nhất. Vua Gia Long không đại diện cho ai, ông chỉ chịu trách nhiệm với mình. Đấy là điều vĩ đại nhưng cũng đê tiện khủng khiếp. Nhà vua có cách nhìn thực tiễn với chính từng khắc tồn tại của bản thân mình. Nhà vua biết xót thân. Nguyễn Du thì khác, Nguyễn Du không biết xót thân. Nguyễn Du thông cảm với những đau khổ của các số phận đơn lẻ mà không hiểu nổi nỗi đau khổ lớn của dân tộc. Đặc điểm lớn nhất của xứ sở này là nhược tiểu. Đây là một cô gái đồng trinh bị nền văn minh Trung Hoa cưỡng hiếp. Cô gái ấy vừa thích thú, vừa nhục nhã, vừa căm thù nó. Vua Gia Long hiểu điều ấy và đấy là nỗi cay đắng lớn nhất mà ông cùng cộng đồng phải chịu đựng. Nguyễn Du thì khác, ông không hiểu điều ấy. Nguyễn Du là đứa con của cô gái đồng trinh kia, dòng máu chứa đầy điển tích của tên đàn ông khốn nạn đã cưỡng hiếp mẹ mình. Nguyễn Du ngập trong mớ bùng nhùng của đời sống, còn vua Gia Long đứng cao hẳn ngoài đời sống ấy. Người mẹ của Nguyễn Du (tức nền chính trị đuơng thời) giấu giếm con mình sự ê chề và chịu đựng với tinh thần cao cả, kiềm chế. Phải ba trăm năm sau nguời ta mới thấy điều này vô nghĩa. Nguyễn Du sống dân dã, ông hồn nhiên chịu đựng sự nghèo tùng cùng nhân dân. Ông không đứng cao hơn họ, không hưởng thụ cao hơn họ, và như thế, ông hoàn toàn không biết làm chính trị. Tất cả đời sống vật chất của ông do những hoạt động cù lần mang lại, năng suất thấp, chỉ thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu. Lòng tốt của ông là thứ lòng tốt nhỏ, không cứu được ai. Vua Gia Long thì khác. Ông khủng khiếp ở khả năng dám bỡn cợt với Tạo hóa, dám mang cả dân tộc mình ra lường gạt phục vụ cho chính bản thân mình. Ông làm cho lịch sử sinh động hẳn lên. Đấy là lòng tốt lớn của nhà chính trị. Lòng tốt lớn của nhà chính trị không chỉ là làm việc thiện với một số phận đơn lẻ mà còn là sức đẩy của ông ta với khối cộng đồng. Từng phần tử trong cộng đồng do luật tự nhiên chi phối sẽ tự tồn tại, định hướng và phát triển. Không có một sức đẩy mạnh, cả cộng đồng sẽ mọc rêu, mủn nát. Cộng đồng Việt là một cộng đồng mặc cảm. Nó nhỏ bé xiết bao bên cạnh nền văn minh Trung Hoa, một nền văn minh vừa vĩ đại, vừa bỉ ổi lại vừa tàn nhẫn…
Phăng có kể lại cho vua Gia Long ấn tượng khi gặp Nguyễn Du. Phăng viết:
Nhà vua nghe tôi một cách lơ đãng. Tôi có cảm giác ông bị nặng tai nhưng không phải. Ông không coi Nguyễn Du ra gì, hoặc có thể ông coi Nguyễn Du là con ngựa giống tốt trong cả đàn ngựa, lợn, bò, gà mà ông chăn dắt. Ông bảo: Trẫm có biết người ấy. Cha nó là Nguyễn Nghiễm. Anh nó là Nguyễn Khản. Tôi thấy nhà vua hiểu sự bất lực của ông đối với đời sống nghèo khó và những trì trệ của dân tộc ông. Ông không tin học vấn có thể cải tạo giống nòi. Điều ấy có lý. Trước hết là vật chất. Những hoạt động kinh tế cù lần chỉ đủ sức cho một dân tộc sống khắc khoải. Vấn đề ở chỗ phải đứng lên vươn mình thành một cường quốc. Làm điều đó, phải có gan chịu đụng sự va xiết trong quan hệ với cộng đông nhân loại. Thói hủ nho và thủ dâm chính trị sẽ không bao giờ tạo được những quan hệ trong sáng, lành mạnh. Sẽ đến lúc nền chính trị thế giới giống như món nộm suồng sã, khái niệm thanh khiết ở đấy vô nghĩa.
Năm 1814, người ta phát hiện ra một nơi có vàng, Phăng xin vua Gia Long cho một số người châu âu cùng mình đi tìm kiếm. Vua Gia Long đồng ý. Phăng không để lại tư liệu nào kể về chuyến đi tìm vàng này. Tuy nhiên có một người Bồ Đào Nha tham gia đoàn tìm vàng đã viết hồi ký. Người Bồ Đào Nha này kể lại: Đoàn chúng tôi có mười một người gồm bốn người Bồ Đào Nha, một người Hà Lan, năm người Pháp và một người Việt dẫn đường. Chỉ huy chúng tôi là Phơrăngxoa Pơriê. Y là một người tàn bạo được vua Gia Long tin cậy… Chúng tôi đi ngựa, mang theo vũ khí và những dụng cụ đãi vàng như dân tìm vàng hồi thế kỷ trước ở Bắc Mỹ. Ngay Phơrăngxoa Pơriê cũng không lường trước sự việc diễn ra. Điều ấy khiến cho chúng tôi sau này phải trả giá đắt. Đa số chúng tôi tham gia chuyến đi vì sự hiếu kỳ. Chúng tôi chuẩn bị lương thực đủ trong một tháng. Chúng tôi luồn rừng và đến nơi sau một tuần đi đường. Nơi đây là thượng nguồn một con sông lớn nằm kẹp trong thung lũng hoang vắng. Không hề thấy một bóng người qua lại. Quạ bay hàng đàn. Trong bản đồ, Phrăngxoa Pơriê gọi đây là thung lũng Quạ. Chúng tôi cắm lều ngay trên bờ sông. Ngay ngày đầu tiên, người Hà Lan trong đoàn đã lên cơn sốt. Ông ta lên những cơn co giật khủng khiếp, người nóng như than, mặt xám lại Chúng tôi đề nghị để lại một người chăm sóc ông ta nhưng Phơrăngxoa Pơriê không nghe. Y dồn tất cả chúng tôi vào núi đào vàng và lọc quặng. Buổi tôí, khi chúng tôi trở về thì người Hà Lan đã chết. Phơrăngxoa Pơriê sai ném xác người Hà Lan xuống sông. Quạ lập tức bu đen trên thây người chết…
Mỏ vàng gần như lộ thiên. Sụ hào hứng khiến chúng tôi quên mệt nhọc. Đến ngày thứ ba, chúng tôi bị thổ dân tấn công. Chúng tôi co cụm lại. Những người thổ dân cầm dao, gậy đứng từ xa chửi rủa và dùng đá ném chúng tôi. Họ có ý muốn đuổi chúng tôi chứ không có ý gì khác. Người Việt dẫn đường đi theo chúng tôi đã biến mất ngay từ khi những người thổ dân xuát hiện. Phơrăngxoa Pơriê nói tiếng Việt rất tồi. Y giơ cao tấm thẻ tín bài của vua Gia Long nhưng vô hiệu. Đáng lẽ chúng tôi phải rút ngay nhưng Phơrăngxoa Pơriê không kìm chế được. Y nổ súng. Một người thổ dân trúng đạn. Số còn lại chạy tán loạn. Chúng tôi đòi Phơrăngxoa Pơriê quay về nhưng y không nghe, y bắt chúng tôi tiếp tục làm việc. Vàng đã làm cho y lóa mắt và mụ mị đi. Buổi chiều khi chúng tôi quay về lều thì thấy đầu lâu của người Việt dẫn đường cắm trên cọc nhọn ngay bên cạnh đấy. Trời nóng như thiêu, chúng tôi thấy rất nhiều quạ bay từ rừng trên, vừa bay vừa kêu những tiếng man rợ. Khoảng nửa đêm, lửa bốc cháy dữ dội xung quanh lều. Những mũi tên lẩm thuốc độc ở đâu bắn đến như mưa. Năm người trong đoàn chúng tôi chết ngay. Phơrăngxoa Pơriê mang theo số vàng đãi được mở con đường máu thoát ra. Lửa nóng quá. Trước mặt, sau lưng, trên trời, dưới đất, đâu đâu cũng thấy lửa cháy rùng rực…
Hồi ký của người Bồ Đào Nha vô danh không viết gì thêm. Tôi, người viết chuyện này đã cất công đi tìm các thư tịch cổ và hỏí han nhiều bậc bô lão. Không có tài liệu gì và cũng không ai biết gì về thung lũng Quạ hoặc chuyện của những người châu âu thời vua Gia Long. Mọi cố gắng của tôi trong nhiều năm nay vô hiệu. Tõi hiến bạn đọc ba đoạn kết cho câu chuyện này để bạn đoc tùy ý lựa chọn.
Đoạn kết Một
Đoàn tìm vàng còn sót lại ba người. Phăng bảo toàn nguyên vẹn số vàng đào được mang về. Vua Gia Long vui mừng vì đã tìm được mỏ vàng. Nhà vua cho khoanh vùng thung lũng Quạ và cho tiến hành khai thác mỏ. Phăng được cử trông coi việc này. Hai người châu âu sót lại trong đoàn tìm vàng cũng được mời tham gia nhưng họ từ chối. Phăng trông coi việc khai thác mỏ vàng trong hai năm. Vua Gia Long rất tin cẩn y và thường ban cho y những bổng lộc hậu hĩnh. Một hôm, người ta đưa đến cho y món ăn quý do nhà vua ban: món chim hầm bát bảo nấu rất công phu. Phăng an xong thì thấy bụng đau cồn cào dữ dội, mắt trợn ngược, máu ộc ra đầy mồm miệng. Y chết ngay trên bàn ăn. Trong một quyển sổ ghi chép còn sót lại của y, người ta đọc thấy những dòng chữ sau:
Tất cả những cố gắng của con người hướng về điều thiện đều là nhũng cô gắng đau đớn, nhọc lòng. Điều thiện hiếm như vàng và sau đó phải được vàng bảo đảm nữa mới có giá trị thực.
Chúng ta sống vô nghĩa, nghèo khó và đau khổ trong những lý thuyết chắp vá đầy ngụy biện; những môí bất hòa kỳ thị dân tộc và đẳng cấp; những kinh nghiệm sống của chúng ta mong manh và vụn vặt xiết bao. Đến bao giờ, hỏi đến bao giờ, trên mặt đất này xuất hiện tiến bộ?
Đoạn kết Hai
Thoát khỏi biển lửa, đoàn tìm vàng sót lại một mình Phăng. Y mang số vàng tìm đến được dinh quan sở tại. Phăng đưa tấm thẻ tín bài có dấu triện của vua Gia Long xin được che chở. Quan huyện là một vị túc nho già, biết nghề thuốc. Phăng đã dưỡng bệnh ngay tại huyện lỵ hẻo lánh này. Con gái quan huyện là Vũ Thị còn trẻ nhưng góa chồng mang lòng yêu mến y. Sau khi Phăng vể kinh đô, y được vua Gia Long ban thưởng hậu hĩnh. Nhà vua đã cho tiến hành khai thác mỏ vàng.
Lúc này ở châu Âu, nền Đế chế của Napôlêông Bonapac đã sụp đổ. Châu Âu chín chắn hơn. Họ đã bắt đầu hiểu vẻ đẹp và vinh quang một dân tộc không phải do cách mạng hoặc chiến tranh mang lại, cũng không phải do các nhà tư tưởng hoặc các Hoàng đế mang lại, bởi vậy họ sống đỡ căng thẳng hơn, giản dị hơn, hợp tự nhiên hơn. Phăng xin vua Gia Long mang theo Vũ Thị và một số vàng lớn hồi hương. Về Pháp, ông lập một ngân hàng và sống sung sướng đến già. Ông thường kể lại cho con cháu nghe về những kỷ niệm quá khứ, về những biến cố ở xứ An Nam xa xôi. Theo ông, thời kỳ ông ở An Nam mới là sự bắt đầu lịch sử của quốc gia người Việt, khi này biên giới phân định, chữ viết có gốc từ chữ La tinh phổ biến, người Việt dần thoát ra sự cầm tù đáng sợ của nền văn minh Trung Hoa, có những mối giao lưu chung với cộng đồng nhân loại.
Đoạn kết Ba
Tất cả đoàn tìm vàng bị giết chết. Lính triều đình bao vây và tấn công họ chứ chẳng có thổ dân nào cả như trong hồi ký của người Bồ Đào Nha vô danh lầm tưởng. Người ta tìm được vàng giấu trong đồ đạc của những người châu âu, nó lẫn trong quần áo và ở cả trong những sổ sách ghi chép. Vua Gia Long cho xung công và sau đó cử một người trong hoàng tộc đứng ra lo việc khai thác mỏ vàng. Cuối đời, vua Gia long sống trong cung cấm, tìm cách tránh mọi tiếp xúc với bên ngoài. Nhà vua rất ghét những ai nhắc lại mối quan hệ với người này, người nọ khi nhà vua còn hàn vi, dù đấy là người Việt, người Trung Hoa hay người châu âu nào khác. Triều Nguyễn của vua Gia Long lập ra là một triều đại tệ hại. Chỉ xin lưu ý bạn đọc đây là triều đại để lại nhiều lăng.
Phẩm tiết Nguyễn Huy Thiệp
Chữ trinh đáng giá ngàn vàng… Chữ trinh còn một chút này… Chữ trinh kia cũng có ba bảy đuờng… (Nguyễn Du)
Việc tìm ra ngôi mộ cổ ở vùng lòng hồ trong khu vực thủy điện sông Đà khiến tôi lại lên Tu Lý, huyện lỵ Đà Bắc. Ông Quách Ngọc Minh (bạn đọc đã làm quen với ông qua hai truyện ngắn Kiếm sắc và Vàng lửa của tôi) ngờ rằng ngôi mộ này là của bà Ngô Thị Vinh Hoa sống cách cây gần hai trăm năm. Truyền thuyết người Mường vùng này kể rằng bà đã lập ra dòng họ Quách. Hôm dời mộ từ khu vực lòng hồ lên Tu Lý, tôi đã đến xem. Mộ ở vuông đất hẹp, bằng phẳng, cách bờ sông Đà hai trăm năm mươi mét, ở độ cao mười sáu mét kể từ mặt sông. Bao nhiêu năm nay chưa bao giờ lũ sông Đà ngập đến chỗ này. Nhìn bề ngoài, ngôi mộ cổ trông không khác một gò mối lớn. Đào sâu ba mét thấy vỉa gạch.
Người chết táng theo lối xưa, trong quan ngoài quách. Quan tài làm bằng gỗ quý, ván dày tám phân, dăm gỗ nhỏ, đưa ra ngoài trời có màu mận chín. Quan tài chạm trổ đơn giản nhưng đẹp mắt. Khi bật nắp quan tài, thấy có một lớp vải lụa hồng. Dưới lớp vải lụa hồng, là một màng trong suốt như thạch, hiện lên hình một phụ nữ đẹp rực rỡ, khuôn mặt tươi tỉnh như người sống, trang phục xiêm y lộng lẫy. Đây là ngôi mộ kết. Tất cả chúng tôi thảy đều kinh hoàng. Thoắt cái, một làn sương mờ trên quan tài ùn lên phủ kín xung quanh. Mười phút sau, làn sương tan hết, trong quan tài chỉ còn một bộ xương đen như mun, lớp vải lụa hồng cũng không thấy nữa. Trong quan tài đầy vụn chè khô, lẫn ở đấy rất nhiều đồ trang sức quý giá. Ông Quách Ngọc Minh tự tay rửa sạch từng đốt xương bằng rượu quý và nước thơm, đặt vào vuông vải trắng trong tiểu sành. Tôi chưa bao giờ chứng kiến lần bốc mộ nào có ấn tượng mạnh như thế. Con gái ông Quách Ngọc Minh là Quách Thị Trình hỏi tôi có biết gì về người phụ nữ nằm trong ngôi mộ hay không? Tôi băn khoăn quá. Phải là người mơ mộng và nghiêm khắc mới hiểu rằng biết hoặc không biết, đều chỉ là những ước lệ mơ hồ, có tính lịch sử và hạn chế.
Câu chuyện này kể về người phụ nữ nằm trong ngôi mộ ấy.
° ° °
Ngô Thị Vinh Hoa là con thứ mười của Ngô Khải. Khải là hậu duệ của Chương Khánh Công Ngô Từ, ngưởi đã sinh ra bà Ngô Thị Ngọc Dao, mẹ vua Lê Thánh Tông. Ngô Khải là bậc đại phú, nhà gần chùa Tiên Tích, chuyên buôn hàng tơ lụa. Nhà Khải kho đụn không khác gì phủ Chúa, đầy tớ vài trăm người. Khải giao du rộng, chơi với toàn người sang. Con gái họ Ngô đẹp nổi tiếng Kẻ Chợ, đời này qua đời khác nhiều người được tuyển vào cung. Khải có bảy người con gái thì sáu người đều là thiếp yêu ở phủ Chúa. Vinh Hoa là con gái út. Khải rất yêu chiều. Khi đẻ ra Vinh Hoa, trên nóc nhà bỗng có đám mây ngũ sắc bay đến, tỏa ra ánh sáng rực rỡ, khắp nơi hương thơm ngào ngạt. Trên cổ Vinh Hoa có bảy tràng hoa quấn cổ, xòe lòng tay ra thấy có viên ngọc…ở trong, trên khắc hai chữ “thiên mệnh”. Khải dựng tóc gáy, lập bàn thờ tạ trời đất. Có người bảo rằng: “Trời mượn cửa nhà ông gửi ngọc, liệu mà chăm chút”. Vinh Hoa lớn lên, hát hay, đàn giỏỉ, đẹp lồ lộ nói câu nào thiêng câu ấy. Khải rất sợ. Tỉ như trời nắng chang chang, nàng buột miệng “ngày kia trời mưa”, quả nhiên ngày kia mưa thật. Tỉ như có người đi qua, nàng bảo “mai ông này chết”, quả nhiên người ấy không ốm đau bệnh tật gì hôm sau lăn ra chết. Trai gái lấy nhau thường dắt đến trước mặt nàng nhờ xem, nàng gật đầu là lấy được, nàng lắc đầu thì chịu, ba đầu sáu tay gì lễ cưới cũng không thành.
Nhà Ngô Khảỉ có cửa hàng tơ lụa gần Hồ Gươm. Khi nào Vinh Hoa trông hàng, khách vào mua đông như hội. Ai trót tham, do vải thừa, trả tiền thiếu, khi về nhà nếu không bị chó cắn thì nhà cháy, đại để thế, tai họa không lường được. ở Kẻ Chợ có câu ca:
Biết điều thì tránh Vinh Hoa Quịt năm cắc bạc mất nhà như chơi.
Năm Kỷ Dậu (1789) Quang Trung Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc diệt Mãn Thanh xong, tìm cách an dân. Nghe theo lời Trần Văn Kỷ, nhà vua cho mời cơm các nhà danh giá thế phiệt trong thành, Khải cũng được mời.
Khi thiếp mời đưa đẹn nhà Khải, Khải cho gọi người quản lý tên là Sâm đến bàn. Khải nói:. “Ta không đi không được, Quang Trung là bậc anh tài, hào hùng lắm. Ta ăn lộc nhà Lê, nhưng cũng không bỏ lộc nhà Trịnh, gì thì gì cũng mang tiếng cơ hội. Bây giờ Quang. Trung mời đến, nên cư xử thế nào cho “phải” Sâm nói: “Đại nhân chớ băn khoăn về chuyện cơ hội hay không cơ hội. Điều ấy vô nghĩa. Có điều Quang Trung đang thịnh, lẽ đời là phải phù thịnh, đại nhân cứ thế mà làm. Ta không phù Quang Trung, sợ cơ ngơi này khó bảo toàn, lấy ai tiếp nối? Lính Tây Sơn chỉ cho mồi lửa, vu cho tàn quân Tôn Sĩ Nghị là xong, lúc đó ta biết kêu ai? Không nói gì đến đại nhân bị hại, bọn Sâm này cũng mất niêu cơm”. Khải cười: “Mày ranh ma lắm. Ta nghe mày”. Nói đoạn bảo Sâm chuẩn bị lễ vật đi dự tiệc.
Sâm là tên đểu cáng, xuất thân lái trâu, từ lâu có ý hại chủ. Chuẩn bị lễ vật cho Khải, Sâm cho vào rương hòm toàn những đồ vàng bạc giả còn vải lụa quý thì cho cắt vụn ra từng đoạn ngắn. Khải không biết gì, cứ thế cho đầy tớ mang vào cung.
Bữa tiệc của vua Quang Trung có đủ mặt mấy trăm gia đình giàu có ở Kẻ Chợ. Khải ngồi chiếu trên cùng. Vua Quang Trung nói: “Ta xuất thân áo vải cờ đào, vì nước xả thân, dẹp yên bốn cõi. Thời chiến ta lấy kẻ có sức lực làm điểm tựa, thời bình ta lấy kẻ có trí lực làm điểm tựa. Nay các ông đến đây, đều là những người có của, tức là những người có trí lực cả; ta cho ăn cho uống, xin các ông vì ta mà mở mang công nghệ, bán buôn, làm cho nước giàu dân mạnh”. Bọn Khải lạy tạ, ai cũng vui vẻ hứa sẽ vi nước mà làm giầu.
Ăn uống xong, nhân vui vẻ, vua Quang Trung hỏi thức ăn có vừa miệng không, Khải đang say, dại miệng nói rằng: “Ngon thì ngon nhưng chưa biết nấu, hơi ghê ghê, có vị lợm”. Nhà vua cười nhạt, không nói năng gì. Khách dự tiệc lần lượt cho dâng vào các lễ vật mừng, đủ đồ ngọc ngà châu báu; sơn hào hải vị rất lạ. Vua Quang Trung đứng xem, trầm trồ thán phục. Đến lượt Khải, Khải cho đầy tớ khênh vào ba cái rương to, mở ra thấy đồ vàng bạc toàn đồ giả, vải lụa bị cắt ra từng mảnh vụn nhỏ. Khải thất sắc, mọi người có mặt thảy kinh hoàng. Vua Quang Trung giận lắm, mắng rằng: “Thằng Khải kia, tài bằng cái đấu, khinh ta quá chừng! Trời cho mày sống, cướp không biết bao nhiêu lộc thiên hạ, ăn miếng ngon không biết đậy mồm, còn chê là lợm. May nhờ phúc tổ, có ít của chìm, như cái đuôi khô, tháng ba ngày tám mang ra gặm tưởng xênh xang ư?”
Khải về nhà, căm tức tên Sâm lắm. Tên Sâm đã bỏ trốn. Đang hoang mang thì đà thấy tướng của Tây Sơn là Đặng Tiến Đông mang quân đến vây, bắt tịch biên gia sản. Khải khóc lóc kêu oan nhưng không sao được. Vinh Hoa từ trong lầu chạy ra, rẽ đám lính Tây Sơn, quỳ trước mặt Đặng Tiến Đông lạy rằng: “Tướng quân tha cho, việc này ở tên đầy tớ khốn nạn. Thân phụ thiếp hồn nhiên, lỡ phạm đến uy trời. Tướng quân vì thiếp mà xét phải trái, sao chỉ vì một gã buôn trâu mà gây oán hận?” Đặng Tiến Đông thấy Vinh Hoa xinh đẹp lạ lùng đánh rơi cả kiếm. Là người có học, Đông biết anh hùng và mỹ nhân ở đời đều hiếm, nông nổi phạm đến có tội với trời. Đông bảo rằng: “Tội của cha nàng đáng chết nhưng quyền tha không phải quyền ta. Nàng muốn giải tội cho cha, phải vào cung mà tâu bày”. Nói rồi Đông quay ra cho lính bao vây dinh thự nhà Khải, còn tự mình dẫn kiệu Vinh Hoa vào cung.
Đặng Tiến Đông vào cung, tâu bày sự việc với vua Quang Trung. Nhà vua thấy Vinh Hoa, thốt nhiên rùng mình, hoa mắt, đánh rơi cốc rượu quý cầm tay. Vinh Hoa nói năng rành rẽ, đâu vào đấy, nhà vua thích lắm. Nhà vua hỏi gì, nàng trả lời điều ấy, nói thông cả buổi, kim cổ đông tây đủ cả. Bọn Trần Văn Kỷ ngồi nghe toát cả mồ hôi. Nhà vua bảo Vinh Hoa hát. Nàng gẩy đàn hát:
Mây ngũ sắc ứng điềm lành Con Tạo xoay vần Ai biết gặp nhau ở đâu Mộng tưởng hão huyền Muôn dặm đường trường Khi cưỡi voi giục trống đánh thành. Có nhớ ngàý xưa… Đom đóm lập lòe ở góc vườn không. Có nhớ mẹ ta cậy nanh ở miệng không. Mối sầu của ta chỉ có mặt trăng biết Ngồi trên ngai cao còn biết sợ ai.. Ngọc tỷ cầm trên tay lo việc nước Biết lo là được, còn thành bại ở trời ở nơi nguời Người ngoan không nên… biện bạch có quỷ thần hay không có quỷ thần Hay nhìn từng giọt đồng hồ rơi mà run sợ.
Tiếng đàn có khí lạnh, mọi người không ai dám thở. Vua Quang Trung hỏi nhỏ: “Vận Tây Sơn được mấy đời? “ Vinh Hoa bảo: “Sao không hỏi được bao nhiêu ngày”.
Vua Quang Trung giữ Vinh Hoa lại trong cung, rồi sai Đặng Tiến Đông rút quân khỏi nhà Khải. Khi Đông đến nhà Khải thì Khải hổ thẹn đã treo cổ tự tử. Vua Quang Trung thương xót, hối lại thì đã muộn. Nhà vua đang đêm xõa tóc, đi chân đất, vừa đi vừa vấp, chạy vào báo cho Vinh Hoa việc Khải mất. Vinh Hoa lập bàn thờ ngay trong cung, thắp hương, tạ vong linh Khải rồi bảo: “Bệ hạ khỏi bận lòng. Phận nào phận ấy. Trời chỉ nhờ cửa sinh, có ai giữ được bố mẹ sống một nghìn năm? Bệ hạ có thương, cho mở kho lấy một đấu vàng để trả đạo hiếu”. Nhà vua gật đầu. Khi đi ra gặp Trần Văn Kỷ, nhà vua bảo: Ta nóng nảy đã đành, ta có lý của ta. Còn cái lũ nhà giàu khốn nạn, chỉ biết mỗi thân mình, Khải bị hạn, sao không có đứa nào đứng ra kêu hộ một tiếng?” Trần Văn Kỷ tâu: “Bệ hạ không hiểu bọn nhà giàu, chúng có thương xót ai bao giờ? Ta có câu: Có độc mới đủ, có phũ như chó mới giàu!…” Nhà vua lại hỏi: “Khải khôn khéo thế, bình sinh cẩn thận, sao sơ suất đến nỗi bị tên đầy tớ kia lừa?” Trần Văn Kỷ tâu: “Đời người ta có vận hạn, Khải không sợ trời, tính ích kỷ, giàu có mà đóng cửa ăn một mình; không biết giúp ai, không biết làm điều phúc, điều thiện, không biết chia lộc cho thiên hạ, trông thấy người hiền ngoảnh mặt đi; khi hạn đến, tránh sao kịp được? Nói chi đến mưu thằng buôn trâu, có khi chỉ vì con ruồi cũng làm tan nghiệp” Nhà vua gật đầu, cho làm ma Khải rất hậu rồi lệnh truy nã tên Sâm.
Vinh Hoa ở trong cung, vua Quang Trung rất ân cần, thương xót. Từ quan tới lính, không ai không nể vì. Nàng ăn nói khoan hòa, cư xử thông minh, lịch lãm, bọn Ngô Văn Sở, Ngô Thì Nhậm, Đặng Tiến Đông, Vũ Văn Dũng, Trần Văn Kỷ… ai cũng quý trọng nàng. Nhiều việc triều chính nàng tham dự, mọi ý kiến luận bàn của nàng vua Quang Trung hết sức thán phục, làm gì cũng thành. Cũng có khi nàng múa hát cho mọi người xem. Vua Quang Trung nói: “Ta được Vinh Hoa như được báu vật, một Vinh Hoa bằng ba vạn người”.
Tuy vua Quang Trung đối xử ân cần, hết lòng yêu thương chiều chuộng, song Vinh Hoa vẫn một mực không cho nhà vua thành thân. Mỗi khi nhà vua ngỏ ý, nàng đều khéo léo chối từ. Nhà vua rất lấy làm buồn. Tuy hàng ngày gặp nhau nhưng nhà vua vẫn không sao gần gụi được.
Ổn định xong Bắc Hà, vua Quang Trung giao việc triều chính cho bọn Ngô Văn Sở rồi kéo quân về Phú Xuân, đưa cả Vinh Hoa theo. ít lâu sau nhà vua bỗng mất đột ngột. Khi lâm chung, có Vinh Hoa đứng hầu bên giường, nhà vua nhìn mãi Vinh Hoa mà không nhắm mắt. Cả triều đình thương cảm. Con trai nhà vua là Nguyễn Quang Toản vuốt mắt cho cha nhưng hễ buông tay ra mắt nhà vua lại mở trừng trừng. Đến cả Hoàng hậu Ngọc Hân cũng thế. Sau Vinh Hoa phải lấy ngón tay út của mình đặt lên hai mi mắt nhà vua thì mắt nhà vua mới nhắm lại được. Sau đấy, chỗ ngón tay út của Vinh Hoa đen như chàm, rửa thế nào cũng không sạch.
Từ khi vua Quang Trung mất, nội bô Tây Sơn rối ren, Nguyễn Quang Toản kéo quân vào Quy Nhơn đánh bác ruột mình là. Nguyễn Nhạc. Bọn tướng của Tây Sơn là Vũ Văn Dũng đánh nhau, chia năm xẻ bảy cơ nghiệp. Năm Tân Dậu (1810), vua Gia Long Nguyễn Phúc ánh chiếm Phú Xuân Nguyễn Quang Toản chạy ra Bắc, triều Tây Sơn sụp đổ.
Khi chiếm Phú Xuân, tướng của Gia Long là Vũ Văn Toàn vào trước, kéo quân thẳng vào hậu cung, cướp được nhiều cung tần mỹ nữ, cướp được cả Ngô Thị Vinh Hoa. Quân hồi vô phèng, Toàn hốt rất nhiều vàng bạc. Toàn vốn xuất thân quản tượng, theo vua Gia Long nhưng thâm tâm có ý không phục. Khi vua Gia Long vào thành an dân, kiểm kê kho đụn Tây Sơn, thấy chẳng còn bao nhiêu. Nhà vua hỏi Toàn: “Của cải trong kho, không có cánh mà bay à?” Toàn tâu: “Từ khi Nguyễn Huệ chết, Tây Sơn làm gì có của, chỉ có chuột”. Nhà vua hỏi: “Phi tần không còn ai ư?” Toàn tâu: “Đàn bà trơn mà nhanh như rắn, động ổ là chuồn, biết đâu mà lần?” Nhà vua nín lặng, không nói năng gì.
ít bữa sau, có người mật báo với vua Gia Long nhà Toàn chứa đầy gái đẹp với đồ vàng bạc. Nhà vua giận lắm, đang đêm đến vây nhà Toàn, thấy Toàn đang ngủ trên giường bèn trói nghiến lại.
Tướng của vua Gia Long là Nguyễn Văn Thành soi đuốc dẫn nhà vua đi xem xét, quả nhiên thấy đúng như lời mật báo. Nhà vua gọi Toàn ra mắng: “Thằng khốn nạn theo voi ăn bã mía kia, đểu cáng chừng nào. Mày mượn danh ta để đi ăn cướp với chơi gái à?” Toàn lạy van: “Bệ hạ tha cho. Toàn theo bệ hạ từ thuở hàn vi, nằm gai nếm mật đắng cay. Nay nghiệp đã thành, muốn hưởng lạc riêng, thế gọi là trả giá đời sống”. Nhà vua cười nhạt: “Mày tưởng công mày to ư? Mày ở gần ta mà không biết ta. Mày kể công với ta làm gì? Mày chỉ dự vào trò chơi của ta. Trò chơi nào chẳng vô công? Mày phạm luật thì mày chịu. Đừng trách ta ác”. Toàn lại lạy van: “Bệ hạ! Bệ hạ! Bệ hạ nói gì vậy? Đẩy vạn con người vào cuộc binh đao là trò chơi sao? “ Nhà vua bảo: “Binh đao là trò chơi của trời. Sao mày lại hỏi ta? Ta chơi trò khác, chơi trò đế vương!” Toàn lại lạy van: “Bệ hạ thương tình! Vàng bạc trả lại bệ hạ! Phi tần trả lại bệ hạ! Chỉ xin bệ hạ ban cho Ngô Thị Vinh Hoa” Nhà vua nổi giận: “Thằng mặt xanh kia! Kề miệng lỗ còn dê ư? Ta cho cắt dái mày! Ta cho mày ăn cứt”. Nhà vua vào phòng Ngô Thị Vinh Hoa. Mở cửa ra, thấy Vinh Hoa bị trói, trên người không có mảnh vải che. Gia nhân thưa rằng Toàn muốn làm nhục Vinh Hoa nhưng nàng không chịu, nhà vua rất thương xót. Nhà vua đến gần, thấy Vinh Hoa đẹp quá, bỗng nhiên xây xẩm mặt mày. Nhà vua thở dài, ngã quay ra đất, ngất lịm đi.
Vinh Hoa ở trong cung được nhà vua hết sức vêu chiều. Dần dần nàng hồi tâm lại, đẹp mơn mởn y như lộc mùa xuân. Biết Vinh Hoa có tài múa hát, lại có tài đoán định việc trước sau, nhà vua thích lắm, muốn lấy làm vợ. Nguyễn Văn Thành can: “Bệ hạ! Bệ hạ! Vinh Hoa ở với Nguyễn Huệ bao năm mà Huệ không dám đụng vào thân thể. Thần xin bệ hạ giữ lấy mình rồng! “ Nhà vua bảo: “Thế là Huệ dại, Huệ trọng tinh thần mà bỉ thể xác”. Thành hỏi: “Bệ hạ muốn dùng Vinh Hoa ở phần tinh thần hay phần thể xác?” Nhà vua bảo: “Làm đến đại tướng còn ngu. Bậc đế vương giữ nước là ở tinh thần, còn giữ mình là ở thể xác”. Thành lắc đầu rồi lui ra.
Vua Gia Long vào cung, tìm Ngô Thị Vinh Hoa, nhà vua bảo nàng. “Ta muốn sở hữu nàng như nuôi con gà, con vịt trong nhà. Vinh Hoa tâu: “Bệ hạ muốn làm vua gà, vua vịt hay sao? “ Nhà vua thở dài: “Sứ mệnh đế vương thật là sứ mệnh khốn nạn, chỉ được quyền cao cả, không được quyền đê tiện”. Vinh Hoa tâu: “Ai cũng phải thế”. Nói rồi nàng ôm đàn hát:
Nước có còn không Nước có mạnh không Thiên tử là cái gôé lớn thiên hạ Cây cao, bóng cả Trùm lên muôn dân Gió mây có biến hóa Ghi nhớ trong tâm trường Nhắc ai tự chủ trương Giữ chữ “thường” Chính đạo thuần vương
Nhà vua nghe tiếng đàn, mơ màng, gục đầu xuống bàn ngủ thiếp đi. Khi tỉnh dậy, nhà vua không thấy Vinh Hoa đâu nữa, chỉ thấy trên bàn có ghi mấy chữ: Thời lai phong tống tạ Đà giang (Thời vận đến, gió đưa lại phía sông Đà)
Nhà vua sai tìm Vinh Hoa khắp nơi nhưng không thấy. ít lâu sau, ở vùng huyện lỵ Đà Bắc (thuộc phủ Hưng Hóa), người ta vớt được một xác phụ nữ quý tộc trôi trên sông, trên tay có bế một đứa bé con còn sống. Quan sở tại báo việc này về triều đình. Vua Gia Long cho người lên xem xét, nhận ra người chết giống hệt Ngô Thị Vinh Hoa. Nhà vua cho làm ma nàng rất hậu, bắt lập miếu thờ. Đứa bé con được những người dân Mường ở đây đón về nuôi. Trong miếu thờ có đôi câu đối của nhà vua ban, ghi rằng:
Sự nhị quân, vĩnh thủ trinh tâm Lưu vạn cổ, bảo tồn phẩm tiết. (Thờ hai vua, vẫn giữ lòng trinh Lưu muôn thuở, còn nguyên phẩm tiết)
4
Những ngọn gió Hua Tat là truyện ngắn thứ tư mà tôi thật yêu thích của anh Nguyễn Huy Thiệp công bố năm 1989 Văn hay lời kiệm chữ, Sử giỏi đời cần lao. Sách này đúng ra phải là Chuyện đời Nguyễn Huy Thiệp. Chuyện về Chàng Khó và nàng Sinh
Những ngọn gió Hua Tat Nguyễn Huy Thiệp
Ở Tây Bắc có một bản nhỏ người Thái đen nằm cách chân đèo Chiềng Dông chừng dậm đường. Bản tên là Hua Tát.
Bản Hua Tát ở trong thung lũng hẹp và dài, ba bề bốn bên là núi cao bao bọc, cuối thung lũng có hồ nước nhỏ, nước gần như không bao giờ cạn. Xung quanh hồ, khi thu đến, hoa cúc dại nở vàng đến nhức mắt.
Từ thung lũng Hua Tát đi ra bên ngoài có nhiều lốị Lối đi chính rải đá, vừa một con trâụ Hai bên lối đi này đầy những cây mè loi1, tre, vầu, bứa, muỗm và hàng trăm thứ cây dây leo không biết tên gọi là gì. Lối đi này đã in dấu chân nhiều người. Trong số đó, từng nghe có cả một vị hoàng đế.
Thung lũng Hua Tát ít nắng. ở đây quanh năm cứ lung bung một thứ sương mù bàng bạc nên nhìn người và vật thì chỉ nhìn thấy những nét nhòa nhòa đại thể mà thôi. Đây là thứ không khí huyền thoại.
ở Hua Tát, những chuyện cổ như những bông hoa dại, màu vàng nhạt, bé như khuy áo, điểm đâu đó quanh rào trong các ngõ nhỏ. Đàn ông ngậm hoa này trong miệng uống rượu không bao giờ saỵ Nó cũng giống như những viên đá cuội trắng có gân đỏ, mảnh như sợi chỉ nằm kín đáo nơi lòng suốị Phụ nữ thích những viên sỏi nàỵ Họ nhặt nó về ủ trong áo lót đủ một trăm ngàỵ Khi làm đệm cho chồng, họ dấu viên sỏi đó vào trong. Có lời truyền rằng người chồng nằm trên đệm ấy sẽ không bao giờ mơ tưởng đến những phụ nữ khác.
Hua Tát là một bản nhỏ cô đơn. Người dân ở đây sống giản dị, chất phác. Công việc nương rẫy nhọc nhằn vất vả. Cả việc săn bắt cũng thế. Tuy nhiên, người dân ở đây lại rất rộng lòng mến khách.
Đến Hua Tát, khách sẽ được mời ngồi trên bếp lửa, uống sừng rượu cần với xeo thịt rừng sấy khộ Nếu khách là một người công minh, chính trực, chủ nhà sẽ mời khách nghe một câu chuyện cổ. Có thể những chuyện cổ ấy nói nhiều đến nỗi đau khổ con người, nhưng chính hiểu rõ những đau khổ ấy mà ở trong ta nảy nở ra sự sáng suốt đạo đức, lòng cao thượng, tình người.
Những người sống trong chuyện cổ bây giờ đều không còn nữạ ở Hua Tát, họ đều biến thành đất bụi và tro than cả (2). Tuy vậy, linh hồn của họ vẫn bay thấp thoáng trên các khau cúi (3) nhà sàn.
Như những ngọn gió. *** Sinh là một thiếu nữ mồ côi ở bản Hua Tát. Nghe nói ngày xưa mẹ nàng bị ma chài, để nàng trong rừng. Nàng gầy gò, bé nhỏ, trông rất đáng thương. Nàng không bao giờ được ăn miếng ngon, mặc váy áo đẹp. Thân phận côn hươn (1) nàng sống thui thủi như con chim cút.
ở Hua Tát, trên đường đi vào rừng ma, có cái miếu nhỏ. Miếu này thờ chàng Khó, người từng giết con hổ dữ ngày nào. Trong miếu có hòn đá nhỏ bằng nắm tay người, để trên bệ gạch. Hòn đá nhẵn thín như bào, sâu trong lớp đá có những vân đỏ li ti như mạch máu người. Ai muốn cầu xin thì sờ tay vào hòn đá, ghé sát miệng vào kể lể với nó. Hòn đá nằm trên bệ thờ từ bao đời rồi, chứng kiến rất nhiều cuộc đời, rất nhiều số phận. Hòn đá trở thành mốt thứ ngẫu vật thiêng liêng, ban đêm có người trông thấy hòn đá tỏa sáng như một cục lửá. Những nỗi đau khổ, những lời cầu xin tích tụ trong hòn đá nhỏ.
Một bận, có một người khách lạ từ dưới xuôi lên, ông ta cao lớn, cưỡi trên một con ngựa ô khỏe mạnh. ông rẽ vào nhà trưởng bản, thăm các bô lão, la cà khắp nơi đây đó, ông hiểu rất rõ phong tục ở bản. Dân bản Hua Tát đoán ông là người buôn cao hoặc lông thú hiếm. ông rất nhiều tiền, cư xử hào hiệp và sang trọng lắm. Một bữa, ông khách qua miếu chàng Khó, trông thấy hòn đá định cầm lên xem. Nhưng thật lạ lùng, ông không làm sao nhấc được hòn đá lên khỏi bệ thờ. Ngạc nhiên, ông về gọi dân bản đến xem. Người ta xúm xít xung quanh miếu nhỏ. ông khách thử cho từng người lần lượt vào miếu để nhấc hòn đá lên tay, nhưng đều bất lực. Hòn đá nặng đến kinh người.
– Chắc có chuyện gì uẩn khúc? – ông khách căn vặn mọi người. – Trong bản liệu còn có ai chưa đến miếu này nhấc thử?
Người ta soát lại thấy thiếu Sinh. Người ta quên bẵng mất nàng.
Ông khách bảo với mọi người đi tìm Sinh đến. Nàng đang đi đào củ mài mãi trong nguồn nước. Sinh đến miếu thờ. Mọi người rẽ lối cho nàng. Ông khách bảo nàng nhấc thử hòn đá. Như có phép lạ, Sinh nhấc hòn đá lên tay dễ dàng như bởn. Mọi người ngạc nhiên, tất cả reo hò sửng sốt. Sinh cầm hòn đá đưa cho ông khách. ánh sáng mặt trời chiếu vào đôi bàn tay nàng, đôi tay chai sạn, ngón không ra ngón. Sinh bóp khẽ vào cái ngẫu vật thiêng liêng. Hòn đá bỗng tan thành nước trước mắt mọi người. Những giọt nước ấy trong như nước mắt, chảy qua kẽ tay nàng rơi xuống mặt đất, in hình trên đó như những ngôi sao. Ông khách lặng người rồi khóc. ông xin dân bản được đón Sinh đi. ông sắm váy mới, áo mới cho nàng. Sinh bỗng trở nên xinh đẹp lạ thường.
* Nguyen Huu Son: Assessment of Nguyen Huy Thiep’s Works on Historical Topics. Vietnam social sciences, No3 (191)-2019, tr.80-92.
Abstract: As a challenge and a “trial” in the sphere of thoughts and art, it is not easy to make a general assessment of Nguyen Huy Thiep’s works on historical issues due to many different viewpoints and explanations. However, we cannot omit his works, when discussing the “literary and artistic creations on historical topics” in the đổi mới, or renovation, period. Basically, Nguyen Huy Thiep’s works on historical topics share many similarities with the general artistic conception in the first half of the 20th century. At the same time, his outlook was improved, renovated, and modernised. His literary works focus on exploring and reflecting people’s life, national destiny, and burning issues of the day. They have been highly appreciated by readers, republished many times, and translated into many languages.
Keywords: Nguyen Huy Thiep, historical topic, literature in the renovation period. Subject classification: Literature
1. Introduction
Carrying out an in-depth survey of the works on historical topics, we can realise remarkable transitional stages, cultural exchange, and literary development. First of all, the works written in the context of the wars (1945 – 1975) are often subtitled “stories of famous people”, “historical celebrities”, “historical stories”, “historical memoirs”, “eternal exemplars”, “homeland celebrities”, or “national stars”, etc. Those works mainly narrate famous figures as central characters, describing their lives and achievements together with historical events as the story plot without wild fiction or exaggeration. The authors of those works were mainly cultural and historical researchers or teachers, who had thorough knowledge of famous people (for instance, Ha An, Quynh Cu, Nguyen Duc Hien, Nguyen Hong, Vu Ngoc Khanh, Nguyen Loc, Bui Van Nguyen, Chu Thien, Nguyen Huy Tuong, and Thai Vu, who wrote about historic figures such as Le Hoan, Ly Anh Tong, Tran Hung Dao, Tran Khanh Du, Tran Quoc Toan, Lieu Hanh, Nguyen Trai, Nguyen Chich, Nguyen Binh Khiem, Quang Trung, Nguyen Du, Nguyen Cong Tru, Nguyen Huu Cau, Phan Dinh Phung, and Hoang Hoa Tham). The central part of the literary works on historical topics is imbued with the creative role played by the authors as shown in the literary works published during the renovation period, which began in 1986 and consists of a large number of novels and short stories (written by authors such as Nguyen Huy Thiep, Nguyen Xuan Khanh, Hoang Quoc Hai, Ngo Van Phu, Nguyen Khac Phuc, Hoai Anh, Nguyen Quang Than, and Luu Son Minh) as well as historical dramas (composed by Nguyen Dinh Thi, Le Duy Hanh, and others). For example, of all 19 dramas performed during the national festival of Chèo, a form of generally satirical musical theatre, often encompassing dance, held in Ha Long city in 2009, 13 were focused on historical events, historical figures, and heroes in battles. In Vietnam, and the world as well, it is not rare that literary works on historical topics may result in debates and different attitudes towards the reception of those works. Queen mother Duong Van Nga (10th century) is one cited example. Should we consider her a woman, who had “illicit love”, “humane spirit”, or “high national duty”? Another example is Jeanne d’Arc in the history of France (the 15th century). Should she be recognised as “a heretic”, “a female devil”, “a saint”, or “a national heroine”? Obviously, it is necessary to review seriously “the historical fate” of such type of historical creation from all aspects, including creative psychology, imaginary limits, reception attitudes, and the potentials for further development of the topics and genres, aiming at helping to provide more comprehensive and profound awareness of the history and the nation [15, pp.42-49]. This paper2 focuses on some main points, including Nguyen Huy Thiep’s works in the literary movements in the renovation period; Nguyen Huy Thiep’s works on historical topics from the perspective of literature in the first half of the 20th century; and, Nguyen Huy Thiep’s works on historical topics from the perspective of national historical reality.
2. Nguyen Huy Thiep’s works in the literary movements in the renovation period
Discussing historical topics, subjects or genres, firstly we need to isolate the works, in which the authors use historical events and characters as a pretext for imagining completely different fictional plots. Instead of describing the reality, they focus on the supposed artistic reality. And, instead of realising the historical experience, they deliberately create a new image of historical situations and characters. As a part of those works, Nguyen Huy Thiep’s short stories, created on the basis of the plot related to historical famous people such as Nguyen Trai, Nguyen Thi Lo, Nguyen Hue, Nguyen Du, Nguyen Anh, Ho Xuan Huong, Hoang Hoa Tham, Tu Xuong, and Nguyen Thai Hoc, once aroused a lot of controversy.
As a challenge and a “trial” in the sphere of thoughts and art, it is not easy to make a general assessment of Nguyen Huy Thiep’s works on historical issues due to many different viewpoints and explanations. However, we cannot omit his works, when discussing the “literary and artistic creations on historical topics” in the renovation period.
It is possible to conclude that most of Nguyen Huy Thiep’s works related to the above-mentioned figures can be recognised as “historical imitation”, “historical simulation”, or “historical parody”. To various extents, historical realities are reflected sometimes boldly and sometimes slightly. In general, he just used the historical realities as a pretext for creating new plots, new situations, and new personalities. The writer directed readers to new fates, circumstances, events, details, locations, and periods, which never existed in the official documents of history. As a result, the readers feel confused by the fictitious stories created by him, which are different from the realities. Many readers, particularly the critics, therefore, had to raise their opinions and attitudes, which are divided into debating groups that have different ways of receiving his works depending on their own professional knowledge and cultural inertia. In 1988, when Nguyen Huy Thiep released his short stories titled “Sharp Sword” (Vietnamese: Kiếm sắc), “Fired Gold” (Vietnamese: Vàng lửa), and “Chastity” (Vietnamese: Phẩm tiết) in the newspaper “Literature and Art” (Vietnamese: Văn nghệ) published by the Vietnam Writers’ Association, they immediately encountered many strong objections. There were two reasons for those objections, which were recognised unconsciously by the critics. Firstly, some critics supposed that “Fired Gold” was a memoir of historical events and well-known figures (this shows a mistake in recognising the genres), which led to an old way of receiving the story pragmatically and required the author to answer questions in an illustrative and explicit way. “What readers are interested in is mainly shown by images and literary language. They want to know: what the author has written about, whether the nature of history has been reflected truly, and whether the work brings them deep emotions?” [6, p.10]. Secondly, some critics persisted in conforming to the old viewpoint and thinking. They closely followed the previous postulates; for example, they often said: “according to our ever-present conception, …”. This makes these very critics unable to “untie themselves” so as to approach the new. It also prevents the development of artistic creative thinking” [7, p.4]. Within the general correlation, the critics have not kept pace with the orientation towards the renovation in literature and art. During the warm-up of the guideline on the development of literature and art, Nguyen Van Linh, the general secretary of the Communist Party of Vietnam, spent two days attending a conference on literature and art (on 6th and 7th October 1987) so as to understand the reality of literature and art in Vietnam. He also gave an important speech to the writers, artists, and cultural practitioners at the conference. Although the participants were mainly those who were holding management positions, and Mr. Nguyen Van Linh’s speech focused on writing activities, in a general sense, it also caused a profound impact on literary researchers and critics as well. “You have talked a lot about the untying. It surely will help you to promote your ability in your fields greatly. How should we untie? Regarding the untying, I think the Communist Party has to carry out it first. It must be performed in all the organisational activities, policies, and regulations”. At the same time, he emphasised the necessity of changes in the conception, mechanism, and policies as well as the sense of self-control, which was seen as the nature, the quality, and the skill of the practitioners in the field of literature and art. “On the other hand, I think no one else, but you have to do it in your own fields” [8, pp.11-16].
Nguyen Huy Thiep’s works on historical topics are considered very new in comparison with the works classified as “memoirs of historical figures” or “historical stories”, which were more inclined to disseminate propaganda in the particular wartime context, when the whole nation gathered up every effort for the duty of national liberation (1945 – 1975). However, they are not new at all, compared to some of the earlier works. More precisely, they can be seen as the return or the follow-up of the literary style of expressing historical topics in the first half of the 20th century. During the French colonial period, certainly, the censorship was also carried out publicly. Thus, some books were confiscated; parts of some articles were removed; and, whole pages were sometimes left empty. There were specific individuals undertaking the censorship responsibility, and the censorship was guaranteed by the legal procedures. At that time, no one was tied by others, so “being untied” and “untying” was not considered to be a matter of concern. The writers freely described various feelings, experiences, and experiments, and reproduced history in accordance with artistic creativity. This is shown clearly by the fact that many historical novels from France and other Western countries were translated and introduced widely in Vietnam. The recognition of the genres, types, and purposes in artistic consumption was seen as basic knowledge at that time. In the paper titled “Do Not Mistake Narrative Stories for Historical Records; Do Not Be Foolish to Call Me a Historian” (Vietnamese: Đừng lầm lẫn truyện ký là sử ký, đừng lẩn thẩn gọi tôi là sử gia) published 80 years ago, Truc Khe, a writer and researcher (1901 – 1947), suggested differentiating between writers and historians as well as between historical tales and historical records. Acknowledging the changes in the literary trend, he said: “many people have started to use the novel style to write historical stories” and affirmed: “In those historical novels, some details were written with the authors’ imagination, but they are not harmful at all. On the other hand, the effect is that they make more people enjoy reading and being aware of historical stories. It is, therefore, necessary to have such books in our literature” [5, p.1]. As a result, a larger number of historical novels was published. Some of typical authors and novels can be enumerated below:
Nguyen Tu Sieu (1898-1965) with “Mountain Top and Branch of Ochna Integerrima” (Vietnamese: Đỉnh núi cành mai), “Thunder at the Winter Night” (Vietnamese: Tiếng sấm đêm đông), “Dinh Tien Hoang” (Vietnamese: Đinh Tiên Hoàng), “Le Dai Hanh” (Vietnamese: Lê Đại Hành), “Tran Hung Dao’s Fighting against Mongol Invasion” (Vietnamese: Trần Nguyên chiến kỷ), and “History of Viet – Qing War” (Vietnamese: Việt Thanh chiến sử).
Ngo Dinh Chien (?) with “The Person Confronting King Gia Long Who Founded the Nguyen Dynasty: Nguyen Hue” (Vietnamese: Người đương đầu với vua Gia Long khai sáng nhà Nguyễn: Nguyễn Huệ) published in 26 issues of “Hanoi Midday Newspapers” (Vietnamese: Hà thành ngọ báo) in 1935.
Hoa Bang (Hoang Thuc Tram, 1902-1977) with “Quang Trung” published in the newspaper “Nước Nam” (Vietnam) in 1939-1940 and in the form of a book in 1944.
TchyA Dai Duc Tuan (1908-1969) with “Wreck of Gold in Sam Son” (Vietnamese: Kho vàng Sầm Sơn).
Nguyen Huy Tuong (1912-1960) with “Night of Long Tri Festival” (Vietnamese: Đêm hội Long Trì), “Vu Nhu To” (Vietnamese: Vũ Như Tô), “Copper Columns of Ma Yuan” (Vietnamese: Cột đồng Mã Viện), and “Princess An Tu” (Vietnamese: An Tư công chúa).
And, Truong Tuu (1913-1999) with “Men of Vigour in Bo De” (Vietnamese: Tráng sĩ Bồ Đề), and “Five Knights” (Vietnamese: Năm chàng hiệp sĩ) etc…
All of those novels were written with a vivid imagination, thrilling plots, and lively characters, which were very different from the historical records. It is possible to state that the patriotism, the sense of national rehabilitation, the social liberation, and the democracy in the press and publishing activities together resulted in the bumper crop of literary works on historical topics during the semi-feudal colonial period.
3. Nguyen Huy Thiep’s works on historical topics from the perspective of literary experience in the first half of the 20th century
In my opinion, Nguyen Huy Thiep’s works on historical topics are not new in comparison with the literary works of the same genre in the period from 1932 to 1945. Nguyen Huy Thiep usually started or concluded his stories with the same way, which demonstrated that “the stories were made up, but very similar to the reality”. He told, for example, he heard about or saw with his own eyes the facts, or there were witnesses and evidence for his stories. As a result, many readers misconsidered those stories to be historical records. Meanwhile, in “Wreck of Gold in Sam Son” (1940), TchyA Dai Duc Tuan provided a very vague introduction, which was stuck in the middle between the reality and the fiction by the voice of a narrator and the skills of a novelist:
“By 1934, the Government found a wreck containing gold in the seabed off the coast of Sam Son beach in Thanh Hoa province located in North Central Vietnam.
When the wreck was moved to the land, people saw hundreds of bars of gold and silver in the shape of a cuboid. Each bar was as long as a handspan. All the bars were engraved with the [Chinese] character meaning “Virtue”. There were abundant coins made in the Canh Hung era and various Chinese coins made from the era of emperor Wanli (Ming Shenzong) to the era of emperor Qianlong (Qing Gaozong)… Based on our available historical facts, the gold and silver surely belonged to the period of decline of the Later Le dynasty. If they belonged to the period of Le Quy, they must have been owned by the Tay Son brothers or Nguyen Huu Chinh, who was one of two admirals of the army.
… Chinh was left alone in Bac Ha (North Vietnam) by Nguyen Nhac due to the slander made by Vo Van Nham, who was Nguyen Nhac’s son in law. Being too scared of staying alone there, Chinh quickly embarked all the havings and left by boat for Nghe An the next day. As an ingenious person, he never took the gold with himself. On the one hand, he was afraid that it would prevent his boat from going fast. On the other hand, it might lead to the fact that his boat would be robbed and his life could be lost. Consequently, Chinh surely left the havings to his son, while taking a boat to follow Nhac quickly to home.
As explained, the wreck of gold must have belonged to Nguyen Huu Chinh. Based on the surmise, which is very probably true, I am writing this sensational story so as to commemorate the past glorious period and provide you with a new genre of historical stories”.
It is completely a story of historical fiction but closely related to the national historical records. Some parts were copied almost exactly from what Tran Trong Kim, a staunch and sage historian, wrote in his work titled “Outline History of Vietnam” (Vietnamese: Việt Nam sử lược).
“The information I have collected to create this story about the wreck of gold is not completely similar to what is mentioned in the historical records. However, I am not worried about whether it is true or false since I just want to create a history-based novel without intending using the novel to bring back the historical period.
When reading this story, you should forgive me for the above-mentioned point. My expectation is to provide you with a story with an interesting plot and an exciting narrative style. I will feel very happy if you think the expectation is fulfilled. A writer cannot be presumptuous of assuming himself to be a wise historian”. At the end of the story, additional information was also added as follows: “The second day of the fourth lunar month in the year of Binh Dan (or Bingyin) – TCHYA (Vietnamese: Ngày mùng hai tháng tư năm Bính Dần – TCHYA) (i.e. NHS emphasis) [17, pp.V-VII]
… In the story, the character named Nguyen Hue, “King of Northern Pacification”, was created by TchyA as a merciless, narrow-minded, and envious person: … “As soon as the powerful company of the army came, the king ordered his troops to go straight to the headquarters of Vo Van Nham to arrest and bring Nham to the market for decapitation.
Nham was both surprised and terrified, as he did not understand why his uncle in law mistreated him. Prostrating, he cried, told his grievances, and asked for tolerance from Nguyen Hue. The King of Northern Pacification chuckled and shook his head without saying anything. He directed his soldier to give Nham a small piece of paper, on which the following 12 [Chinese] characters were written clearly: “Bất tu đa ngôn; nhữ tài quá ngã, phi sở ngã dụng” (i.e. Do not be garrulous; you are more talented than me; thus, I cannot keep you alive).
After reading those words, Nham did not know what to say but to complain to God about his tragic destiny. He realised that all entreaties would be in vain, once Hue gave the order. In reality, Hue was not less talented than Nham. What Hue wrote in the piece of paper was just a pretext to kill Nham. One is intentional, while the other is unmindful; thus, it was impossible to avoid the misfortune planned irrationally by the other” [17, pp.135-136].
Later on, the way to name historical figures coarsely such as “Nham” or “Hue” was no longer used in the novels by writers, including Nguyen Huy Thiep. This is certainly reasonable. During the period of the Nguyen dynasty, Nguyen Hue (Quang Trung) and the Tay Son dynasty were called “the usurper” and “the dynasty of usurpers” respectively. Meanwhile, the Tay Son brothers were highly respected by the people, and Quang Trung was adored as a national hero. Particularly, the two tendencies existed concurrently in the context of the early 20th century: the image of Quang Trung was fictionalised variously in stories, while the anniversaries related to him were also held solemnly in the whole country. Both of the tendencies complemented each other without mutual exclusion, leading to new explanations and respect for Quang Trung.
As regards the stories on historical topics alone, Nguyen Huy Tuong with his works titled “The Night of Long Tri Festival” and “Vu Nhu To” was considered to have created an entire world of characters and a new picture of history, which was not only far different from the historical records but also acknowledged widely and profoundly by various social strata in all periods.
Meanwhile, the literary works of Truong Tuu were often called “historical fictions”, “historical novels”, or “historical imitations”. In essence, his two novels, including “Man of Vigour in Bo De” [20, pp.597-751], and “Five Knights” [21, pp.753-885] under the pen-name of Mai Vien, are considered historical novels with specific periods, contexts, and events related to some figures mentioned in the historical records. “Man of Vigour in Bo De” (consisting of 2 volumes and 14 chapters) was based on the historical event, in which Le Hoan, Commander of Ten Armies, seized power from the Dinh dynasty in the late 10th century. The activities carried out by the men of vigour named Bo De and Bach Hac as well as Ms Minh Tam and Ms Minh Chi, members of the Tu Bi party, which was the opposition to the Ten Armies, also show the colour of modernisation and the influence of the contemporary society. In “Five Knights”, which consisted of 2 volumes and 14 chapters and used the social and historical context under the reign of Ly Anh Tong (1138-1175), many characters were created as loyal members of the Quan Anh party mixed with a large number of activities of romantic love, espionage, assassination attempts, and overthrow. This makes the novel more similar to a detective story with forest paths and thrilling cases. In general, both of the historical stories were “novelised” to a great extent with many fictitious characters, details, and events. This is seen as the strength of Truong Tuu’s historical fictitious works among the general current of historical stories.
The above-described comparison demonstrates that before the August revolution in 1945, when creating literary works on historical topics, writers were inclined to develop the novel thinking, instead of outlining portraits of “homeland celebrities” and “national stars” or narrating historical events and figures. Thus, they tended to create a world of new characters with new viewpoints on historical events and figures. This artistic conception was also mentioned by Nguyen Huy Thiep in a fictitious section of the short story titled “Chastity”: “Quach Thi Trinh, a daughter of Quach Ngoc Minh, asked me whether I knew anything about the dead person in the grave. I felt too nervous. To understand whether you know or don’t know, although they are just historical and limited ambiguous estimations, you must be a really strict dreamer” [18, pp.242]… With three short stories titled “Sharp Sword”, “Fired Gold”, and “Chastity”, Nguyen Huy Thiep deluded readers, providing them with a new feeling, taste, and conception of literature and the relation between the literary discourse and historical experiences. Nguyen Huy Thiep did make a contribution towards the renovation and improvement of national literature, aiming at integrating it with the modern kinds of literature in the region and the world as well. His works on historical topics alone have been highly appreciated and recognised by many scholars who are specialised in Vietnamese studies. Greg Lockhart, an Australian researcher, emphasised the creativity made by Nguyen Huy Thiep in his pressing concern about the progression and humanity; he was “a Vietnamese author of the same talent as excellent international writers [9, p.115]. Evelipe Pieller, a French journalist, recognised the way Nguyen Huy Thiep reflected the “strange life of ordinary people” [12, p.152]. Sean Tamis Rose, a French critic, stated: “For him, it is a reminder of the humankind’s responsibility by the contrast” [14, p.497]. T. N. Filimonova, a Russian researcher, acknowledged: “The writer has provided three views on Vietnamese history, three different approaches and assessments” [2, p.353]. Meanwhile, Vietnamese researchers have also enhanced the capacity for adopting the new and strange literary phenomenon and whereby scientific explanations and approaches have been made, as shown in the following papers: “Reading Literary Works Should be Different from Reading Historical Records (Lai Nguyen An) [1, pp.179-187]; “Fired Gold”: “Historical Philosophy” or “Artistic Prose” (Truong Hong Quang – Nguyen Mai Xuan) [13, pp.207-230]; “Thinking of Novels and Modern Folklore” (Hoang Ngoc Hien) [3, pp.355-366]; “Is Baroque Art Found in Nguyen Huy Thiep’s Short Stories?” (Thai Hoa) [4, p.91], in which it is strongly confirmed: “Historical phenomena, events, and figures are seen from various perspectives of common and popular relations without being isolated or one-sided, helping to escape from the dogmatic and voluntarist views. Historical “stars” are lowered by the thinking and behaviour in everyday life. As a result, the gap between those idols, masters of the past, and present-day people have been shortened for contemplation. History cannot consist of only abstract things kept far away from real life” (Vuong Anh Tuan) [19, p.337]. This is entirely appropriate for the creative thinking in arts and the space in the writers’ attitude towards historical figures, as shown in Nguyen Huy Thiep’s works and the written literature on historical topics during the first half of the 20th century.
4. Nguyen Huy Thiep’s works on historical topics from the perspective of actual national history
As regards history, writers (as well as historians) can know just a part of the realities of historical figures such as Le Hoan, Le Van Thinh, Ho Quy Ly, Tran Thu Do, Tran Hung Dao, Huyen Quang, Le Loi, Nguyen Trai, Nguyen Du, Ho Xuan Huong, Hoang Hoa Tham. How are writers allowed to imagine the portraits, talents, and personalities of those figures? It is more important that writers have to choose specific points to explore and create their own characters more appropriate to the real life and national history, aiming at recognising the values of “the true, the good, and the beautiful” and paving the way for creative artistic activities.
The following part in “Complete Annals of Dai Viet” (Vietnamese: Đại Việt sử ký toàn thư) is written about Le Van Thinh:
– “Year of Hinoe-ne or Fire Rat (Vietnamese: Bính Tý), [Hoi Phong] the fifth year [1096], (the third year under the reign of Emperor Zhezong of Song). In spring, in the third month of the lunar year, Le Van Thinh conspired against the king, but he was spared and exiled in Thao Giang. The king was once sitting in a small boat in Dam Dam (Vietnamese: Dâm Đàm) lake, watching people catching fish. Suddenly, the sky was shrouded in fog and cloud. As he heard rowing sounds and thought a boat was coming from the fog, he took a lance and threw it into the fog. When the fog and cloud disappeared in a little while, everyone became too afraid as they saw a tiger on the boat. They shouted: “It’s dangerous!”. The fisherman named Mac Than cast a net to cover the tiger, which then turned out to be Grand Preceptor Le Van Thinh. The king thought Thinh was a high-ranking mandarin; whoever provided the king with help, so he did not have the heart to kill Thinh. Instead, Thinh was sent into exile in Thao Giang. Meanwhile, Muc Than was rewarded with the title as a mandarin together with money and land in Tay Ho for his landholding. Earlier, Van Thinh had a servant, who came from the Dali Kingdom and knew how to practise witchcraft; thus, Thinh intended to use the witchcraft to carry out an act of treachery [10, p.283].
”The part talking about Tran Thu Do in “Complete Annals of Dai Viet” is as follows:
– “Year of Fire Dog (Vietnamese: Bính Tuất) – the second year of Kien Trung dynastic title [1226], (the second year under the reign of Baoqing Emperor of Song). In autumn, on the 19th day of the eighth month of the lunar year, Tran Thu Do killed Ly Hue Tong in Chan Giao pagoda.The father of the Ly king said: “I will commit suicide, after reciting the Buddhist scriptures”. Afterwards, he came into the bedroom and prayed: “The country of our family has already fallen into your hands, but you are still determined to kill me. I am dying today, but your children will have the same destiny in future”. Then, he garrotted himself in the backyard of the pagoda.Thu Do ordered royal mandarins to come and cry for the father of the king. A part of the southern wall of the citadel was broken to make a hole (called “borne gate” at that time), through which the coffin containing the dead body of the king’s father was moved to Yen Hoa ward for cremation. The ash and bones were then kept in Bao Quang stupa with the posthumous title of “Hue Tong”. The queen of Hue Tong was demoted to the title of “Princess Thien Cuc” and married to Tran Thu Do; she was provided with the Lang prefecture as her landholding…”- “Year of Water Dragon (Vietnamese: Nhâm Thìn), [Kien Trung] the eighth year [1232], (From the seventh month of the lunar year, it was the first year under the reign of Thien Ung Chinh Binh; i.e. the fifth year under the reign of Shaoding emperor of Song)…Tran Thu Do killed all the Ly family members. After Thu Do kept the dictatorship for a long time, he killed Hue Tong, making the Ly family members feel melancholic and disappointed. In winter of the same year, the Ly family members carried out worship of the Ly kings in Thai Duong, Hoa Lam. They then had a meal on the floor, under which a deep hole was dug beforehand according to the order of Thu Do. When the Ly family members got drunk, Thu Do made the floor collapse, and they all were, consequently, buried alive. (Seeing that under the reign of Tran Anh Tong, a military general was a member of the Ly family; moreover, it was not mentioned by [Phan] Phu Tien, this story might not be true. It was just temporarily written here) [11, p.8]…”Herein, the following is a part talking about Tran Quoc Tuan in “Complete Annals of Dai Viet”:- “Year of Metal Pig (Vietnamese: Tân Hợi), [Thien Ung Chinh Binh] the 20th year [1251], (From the second month of the lunar year, it was the first year of the Nguyen Phong dynastic title; i.e. the 11th year under the reign of Chunyou emperor of Song or the first year under the reign of Mongke Khan)…The eldest princess Thien Thanh was arranged to get married to the Prince Trung Thanh (his real name still remains unknown). However, Quoc Tuan as a son of Prince Yen Sinh abducted her, and she then got married to Quoc Tuan. On the 15th day of the month, the king held a 7-day ceremony, where marriage-related pictures were displayed, and many games were organised so that members of the royal court and other people could come to see. The king showed his intention of marrying Princess Thien Thanh to the prince Trung Thanh. Earlier, the king sent the princess to the palace of Prince Nhan Dao, who was the father of Trung Thanh. Quoc Tuan wanted to get married to Princess Thien Thanh, but he was not allowed by the king. Thus, at night, he sneaked into the sleeping place of the princess and committed fornication.Princess Thuy Ba (the older sister of Thai Tong and the aunt of Quoc Tuan), who adopted Quoc Tuan, immediately came to the palace of the king. The doorkeeper quickly rushed and reported it to the king. When the king asked her what happened, she replied: “Unexpectedly, Quoc Tuan was so extravagant and wicked that he sneaked into the sleeping place of Thien Thanh at night. He was arrested and is now kept by Nhan Dao. I am afraid he will be harmed. Your Majesty, please condescend to send people to rescue him”. The king, in a hurry, ordered his old woman to come to the palace of Prince Nhan Dao. When she came there, it was completely quiet. Thus, she came into the sleeping place of Thien Thanh and saw Quoc Tuan staying there. Only by that time did Nhan Dao realise the fact. Next day, Thuy Ba offered 10 trays of gold to the king, submitted a proposal for Quoc Tuan’s marriage with the princess, and said: “As being in an awful hurry, we have not prepared all betrothal gifts”. The king reluctantly agreed to marry Princess Thien Thanh to Quoc Tuan, while giving 2,000 plots of land in Ung Thien prefecture to Prince Trung Thanh as a compensation for his betrothal gifts [11, p.14]”.Based on the above-mentioned historical data, the writers who want to create literary works on historical topics can further explore the personalities, skills, and capacities as well as the psychology of their own characters in the context and specific situations under the feudal regimes, avoiding the modernised writing style and a biased exaggeration. This is, certainly, neither “a desacralisation” nor “an idol dethronement”, but it aims at creating lively historical characters, while ensuring the values of the true, the good, and the beautiful as well as dealing with the relationships between the lofty and the common, the mighty and the tragic, the heroes and the artists, the extraordinary and the ordinary, the community and individuals… Based on the life of historical figures such as Nguyen Trai, Nguyen Thi Lo, Nguyen Hue, Nguyen Du, Nguyen Anh, Ho Xuan Huong, Hoang Hoa Tham, Tu Xuong, and Nguyen Thai Hoc, short stories were created by Nguyen Huy Thiep with impressive and profound artistic figures, which attract readers to the historical portraits and realities in the past.
5. Open conclusion
Reviewing Nguyen Huy Thiep’s literary works on historical topics from the perspectives of theories, historical nature, and experience, I would like to emphasise the three following points:
Firstly, it is necessary to put our trust in the writers as well as the readers of literary works on historical topics. It is nonsensical to accuse literary talents and readers of making mistakes and scheming to carry out “idol dethronement”. The goodwill will make those, who work in the same field, not exaggerate the viewpoint or put a label on the works. They, therefore, can have discussions for the purpose of finding out the most appropriate explanations.
Secondly, it is necessary to place the literary works on historical topics created by Nguyen Huy Thiep and other contemporary writers in the general current of the artistic and literary works on historical topics, at least from the perspective of the modern literary achievements and the literature written in the Vietnamese alphabet from the beginning of the 20th century up to now.
Thirdly, for ongoing controversial issues, it is necessary to have real democratic and just discussions without concealing or subsidising the truth deliberately. With a long-term vision, we need to organise many seminars, workshops, conferences, and in-depth surveys on the literary works on historical topics for specific periods, genres, authors and works. To have a progressive mechanism for administering artistic and literary activities (including also the orientations for literary and artistic creations on historical topics), it is always essential to rely on knowledge, paving the way for creation and development.
Notes
2 The paper was published in Vietnamese in Nghiên cứu Văn học, số 3-2018. Translated by Nguyen Tuan Sinh. Edited by Etienne Mahler.References
[1] Lại Nguyên Ân (2001), “Đọc văn phải khác với đọc sử”, trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Nxb Văn hoá – Thông tin, Hà Nội, tr.179-187. [Lai Nguyen An (2001), “Reading Literary Works Should be Different from Reading Historical Records”, in Pham Xuan Nguyen’s publication (collected and edited) (2001), “Quest for Nguyen Huy Thiep”. Culture and Information Publishing House, Hanoi, pp.179-187].[2] T.N. Filimonova (1993), Lịch sử Việt Nam qua truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Việt Nam truyền thống, Moskva; in lại trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Sđd, tr.342-354. [T.N. Filimonova (1993), Vietnam’s History in Nguyen Huy Thiep’s Short Stories. Traditional Vietnam, Moscow; reprinted in Pham Xuan Nguyen’s publication (collected and edited) (2001), “Quest for Nguyen Huy Thiep”. Op.cit. pp.342-354].[3] Hoàng Ngọc Hiến (2001), Tư duy tiểu thuyết và follklore hiện đại (Nhân đọc mấy truyện lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp); trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Sđd, tr.355-366. [Hoang Ngoc Hien (2001), Thinking of Novels and Modern Folklore (On the Occasion of Reading Some Nguyen Huy Thiep’s Historical Tales); in Pham Xuan Nguyen’s publication (collected and edited) (2001), “Quest for Nguyen Huy Thiep”. Op.cit. pp. 355-366].[4] Thái Hòa (1989), Có nghệ thuật ba-rốc trong các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp hay không? Tạp chí Văn học, số 2, tr.84-91, 107. [Thai Hoa (1989), Is Baroque Art Found in Nguyen Huy Thiep’s Short Stories? Review “Literature”, No. 2, pp.84-91, 107].[5] Trúc Khê (1941), Đừng lầm lẫn truyện ký là sử ký, đừng lẩn thẩn gọi tôi là sử gia. Nước Nam, số 124, ra ngày 13-9-1941, tr.1. [Truc Khe (1941), Do Not Mistake Narrative Stories for Historical Records; Do Not Be Foolish to Call Me a Historian. Newspaper “Nuoc Nam”, No. 124, on 13 Sept. 1941, p.1].[6] Tạ Ngọc Liễn (1988), Về truyện ngắn Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp. Văn nghệ, số 26, ngày 26-6-1988, tr.10. [Ta Ngoc Lien (1988), On the Short Story “Fired Gold” by Nguyen Huy Thiep. Newspaper “Literature and Arts”, No. 26, on 26 June 1988, p.10].[7] Tạ Ngọc Liễn (1988), Về mối quan hệ giữa sử và văn. Nhân dân, số 12464, ngày 28-8-1988, tr.4. [Ta Ngoc Lien (1988), On the Relations between History and Literature, Nhan Dan (People) Newspaper, No. 12464, on 28 August 1988, p.4].[8] Nguyễn Văn Linh (1988), Bài nói chuyện của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh trong cuộc gặp gỡ văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hóa (7 tháng 10 năm 1987). Tạp chí Văn học, số 1, tr.11-16. [Nguyen Van Linh (1988), General Secretary Nguyen Van Linh’s Speech at the Meeting with Artists, Writers, and Cultural Practitioners (on 7 October 1987). Review “Literature”, No. 1, pp.11-16].[9] Greg Lockhart (1989), Tại sao tôi dịch truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ra tiếng Anh? Tạp chí Văn học, số 4, tr.49-53. [Greg Lockhart (1989), Why Did I Translate Nguyen Huy Thiep’s Short Stories into English? Review “Literature”, No. 4, pp.49-53].[10] Nhiều tác giả (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập I (Ngô Đức Thọ dịch, chú). Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.283. [Many authors (1998), Complete Annals of Dai Viet, Vol. I (translated and annotated by Ngo Duc Tho). Social Sciences Publishing House, Hanoi, p.283].[11] Nhiều tác giả (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II (Ngô Đức Thọ dịch, chú). Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.8, 14. [Many authors (1998), Complete Annals of Dai Viet, Vol. II (translated and annotated by Ngo Duc Tho). Social Sciences Publishing House, Hanoi, pp. 8, 14]. [12] Evelipe Pieller (2000), Lời giới thiệu hai tập truyện ngắn của Nguyễn huy Thiệp: Trái tim hổ và Tướng về hưu, xuất bản tại Pháp. La Quinzaine Literaire, ngày 31-3; in lại trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Sđd, tr.152-153. [Evelipe Pieller (2000), Introduction of Two Nguyen Huy Thiep’s Short Stories: “Tiger Heart” and “Retired General” published in France. La Quinzaine Literaire, on 31 March; reprinted in Pham Xuan Nguyen’s publication (collected and edited) (2001), Quest for Nguyen Huy Thiep, op.cit. pp. 152-153].[13] Trương Hồng Quang – Nguyễn Mai Xuân (1989), Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp – “triết học lịch sử” hay là “văn xuôi nghệ thuật”? Tạp chí Văn học, số 2, tr.74-83. [Truong Hong Quang – Nguyen Mai Xuan (1989), Nguyen Huy Thiep’s “Fired Gold”: “Historical Philosophy” or “Artistic Prose”, Review “Literature”, No. 2, pp.74-83].[14] Sean Tamis Rose (2000), Trái tim Thiệp. Libération, ngày 18-5; in lại trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Sđd, tr.497-500. [Sean Tamis Rose (2000), Thiep’s Heart. Libération, on 18 May; reprinted in Pham Xuan Nguyen’s publication (collected and edited) (2001), Quest for Nguyen Huy Thiep, op.cit. pp.497-500].[15] Nguyễn Hữu Sơn (2000), Sáng tác về đề tài lịch sử, trong sách Điểm tựa phê bình văn học. Nxb Lao động, Hà Nội, tr.42-49. [Nguyen Huu Son (2000), Literary Works on Historical Topics, in the publication “Fulcrum for Literary Criticism. Labour Publishing House, Hanoi, pp.42-49].[16] Nguyễn Hữu Sơn (2009), Văn xuôi Trương Tửu trước Cách mạng tháng Tám 1945, trong sách Trương Tửu – Tuyển tập văn xuôi. Nxb Lao động, Hà Nội, tr.5-21. [Nguyen Huu Son (2009), Truong Tuu’s Prose before the August Revolution of 1945, in the book “Truong Tuu: Prose Collection”. Labour Publishing House, Hanoi, pp.5-21]. [17] TchyA (1953), Kho vàng Sầm Sơn. Tái bản. Nxb Nam Cường, Sài Gòn. [TchyA (1953), Wreck of Gold in Sam Son. Reprinted. Nam Cuong Publishers, Saigon].[18] Nguyễn Huy Thiệp (2001), Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (Anh Trúc tuyển chọn). Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 388 trang. [Nguyen Huy Thiep (2001), Collection of Nguyen Huy Thiep’s Short Stories (collected by Anh Truc). Women’s Publishing House, Hanoi, 388 pages]. [19] Vương Anh Tuấn (1989), Lịch sử trong quan niệm của Nguyễn Huy Thiệp. Tạp chí Văn học, số 3, tr.37-42. [Vuong Anh Tuan (1989), History in Nguyen Huy Thiep’s Conception. Review “Literature”, No. 3, pp.37-42]. [20] Mai Viên (1942), Tráng sĩ Bồ Đề. Nxb Hàn Thuyên, Hà Nội. In lại trong sách Trương Tửu – Tuyển tập văn xuôi (Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm, biên soạn). Nxb Lao động, Hà Nội, 2009, tr.597-751. [Mai Vien (1942), Man of Vigour in Bo De. Han Thuyen Publishing House, Hanoi. Reprinted in the book “Truong Tuu: Prose Collection” (collected and edited by Nguyen Huu Son) . Labour Publishing House, Hanoi, 2009, pp.597-751]. [21] Mai Viên (1942), Năm chàng hiệp sĩ. Nxb Hàn Thuyên, Hà Nội. In lại trong sách Trương Tửu – Tuyển tập văn xuôi. Sđd, tr.753-885. [Mai Vien (1942), Five Knights. Han Thuyen Publishing House, Hanoi. Reprinted in the book “Truong Tuu: Prose Collection”, op.cit., pp. 753-885] (PHOTO, 2011)
Tưởng nhớ NGUYỄN HUY THIỆP – Nhà văn Anh hùng thời Đổi mới (1950-2021)…
NHẬN DIỆN NHỮNG SÁNG TÁC VỀ ĐỀ TÀI LỊCH SỬ CỦA NGUYỄN HUY THIỆP PGS. TS. NGUYỄN HỮU SƠN (Viện Văn học)
Nguồn: Assessment of Nguyen Huy Thiep’s Works on Historical Topics. Vietnam social sciences, No3 (191)-2019, tr.80-92.
Tóm tắt:
Đánh giá sáng tác về đề tài lịch sử của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp là một vấn đề khó, không dễ thống nhất và làm thành thách thức, “phép thử” cho những quan niệm tư tưởng nghệ thuật và cách lý giải khác nhau. Tuy nhiên, không thể bỏ qua hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp một khi bàn đến chủ điểm “Sáng tạo văn học, nghệ thuật về đề tài lịch sử” từ thời Đổi mới đến nay. Về cơ bản, các sáng tác về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp có nhiều điểm tương đồng với tư duy nghệ thuật giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, đồng thời đã được cách tân, nâng cao và hiện đại hóa. Các tác phẩm này đã đi sâu khai thác, phản ánh số phận con người, dân tộc, thời đại, được công chúng bạn đọc ghi nhận, đánh giá cao, tái bản nhiều lần và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới… Từ khóa: Nguyễn Huy Thiệp, Đề tài lịch sử, Văn học thời Đổi mới
1. Mở đầu
Đi sâu khảo sát các sáng tác về đề tài lịch sử có thể nhận thấy những bước chuyển tiếp, giao thoa và phát triển đáng chú ý. Trước hết là số tác phẩm xuất hiện trong bối cảnh kháng chiến chống Pháp và Mỹ (1945-1975) thường được duy danh qua các phụ đề như “truyện danh nhân”, “danh nhân lịch sử”, “truyện lịch sử”, “truyện ký lịch sử”, “gương sáng ngàn năm”, “danh nhân quê hương”, “vì sao đất nước”… Những tác phẩm này thường lấy chính danh nhân làm đối tượng phản ánh, lấy tiểu sử và sự nghiệp làm cốt truyện và theo sát tính chính xác của các biến cố, sự kiện lịch sử, không tô vẽ, hư cấu quá xa thực tế. Tác giả của những thiên truyện này chủ yếu là các nhà khảo cứu văn hóa – lịch sử, nhà giáo am tường danh nhân (chẳng hạn, Hà Ân, Quỳnh Cư, Nguyễn Đức Hiền, Nguyên Hồng, Vũ Ngọc Khánh, Nguyễn Lộc, Bùi Văn Nguyên, Chu Thiên, Nguyễn Huy Tưởng, Thái Vũ… viết về các nhân vật lịch sử Lê Hoàn, Lý Anh Tông, Trần Hưng Đạo, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Toản, Liễu Hạnh, Nguyễn Trãi, Nguyễn Chích, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Quang Trung, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Quận He Nguyễn Hữu Cầu, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám…). Phần chủ yếu nằm ở trung tâm dòng chảy đề tài lịch sử in đậm vai trò chủ thể sáng tạo ở các tác phẩm sáng tác từ thời kỳ Đổi mới (1986) được định vị qua hệ thống các thể loại như tiểu thuyết, truyện ngắn (Chẳng hạn, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Xuân Khánh, Hoàng Quốc Hải, Ngô Văn Phú, Nguyễn Khắc Phục, Hoài Anh, Nguyễn Quang Thân, Lưu Sơn Minh…), kịch lịch sử (Chẳng hạn, Nguyễn Đình Thi, Lê Duy Hạnh và liên hệ với Hội diễn Chèo toàn quốc năm 2009 tổ chức tại thành phố Hạ Long có 12/19 vở hướng về các đề tài lịch sử, danh nhân, anh hùng chiến trận…). Trên thực tế, các sáng tác về đề tài lịch sử trong nước và trên thế giới cũng không hiếm các trường hợp gây nên những cuộc bàn cãi và cảm ứng tiếp nhận khác nhau. (Đơn cử về Thái hậu Dương Vân Nga (thế kỷ X) được coi là “bất chính” hay “nhân văn”, “đại nghĩa”? Nhân vật Janđa trong lịch sử Pháp (thế kỷ XV) được nhìn nhận là “tà đạo”, “quỷ nữ” hay là “thánh nữ”, “anh hùng giải phóng dân tộc”?…). Rõ ràng “số phận lịch sử” của kiểu sáng tác lịch sử này cần được xem xét một cách nghiêm túc trên tất cả các phương diện tâm lý sáng tạo nghệ thuật, biên giới của tưởng tượng, tâm lý tiếp nhận và khả năng phát triển của đề tài – thể tài để giúp ích cho định hướng nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn về quá khứ lịch sử và dân tộc [15, tr.42-49]…
2. Sáng tác về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp trong dòng chảy văn học thời Đổi mới.
Bàn về đề tài/ chủ đề/ thể tài lịch sử, trước hết có lẽ cần khu biệt kiểu sáng tác mà nhân vật và sự kiện lịch sử dường như chỉ là cái cớ để tác giả tưởng tượng, hư cấu một cốt truyện hoàn toàn khác; thay vì mô tả hiện thực sự thật là một hiện thực nghệ thuật giả định, thay vì nhận thức kinh nghiệm lịch sử là tâm tưởng bổ sung một cách hình dung mới về nhân vật và diện mạo lịch sử. Đây là trường hợp các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp được gợi tứ từ các nhân vật lịch sử như Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ, Nguyễn Huệ, Nguyễn Du, Nguyễn Ánh, Hồ Xuân Hương, Hoàng Hoa Thám, Tú Xương, Nguyễn Thái Học… đã tạo nên những luồng dư luận khác nhau sôi nổi một thời.Bàn đến sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp về đề tài lịch sử là một vấn đề khó, phức tạp, không dễ thống nhất và làm thành một thách thức, một “phép thử” cho những quan niệm tư tưởng nghệ thuật và cách lý giải khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế không thể bỏ qua hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp một khi bàn đến chủ điểm “Sáng tạo văn học, nghệ thuật về đề tài lịch sử” từ thời Đổi mới đến nay.Có thể nói hầu hết các tác phẩm viết về đề tài lịch sử liên quan đến các danh nhân nói trên của Nguyễn Huy Thiệp đều được lược qui về kiểu truyện “giả lịch sử”, “phỏng lịch sử”, “nhại lịch sử”… Dù mức độ đậm nhạt có khác nhau nhưng nhìn chung hiện thực lịch sử chủ yếu là cái cớ để Nguyễn Huy Thiệp sáng tạo nên những cốt truyện mới, những hoàn cảnh mới và những tính cách nhân vật kiểu mới. Nhà văn dẫn dắt độc giả đến với những số phận, cảnh đời, sự kiện, tình tiết, không gian, thời gian khác lạ, không hề có trong chính sử, tạo nên một hiện thực lịch sử nào khác và khiến bạn đọc phải băn khoăn với những trang hiện thực lịch sử giả tưởng ấy. Điều này khiến độc giả – cụ thể và chuyên nghiệp hơn là giới phê bình – buộc phải bày tỏ thái độ, phân chia chiến tuyến, trình diễn những cách tiếp nhận riêng tùy theo sở học và quán tính văn hóa của mình. Vào năm 1988, khi Nguyễn Huy Thiệp in các truyện ngắn Kiếm sắc, Vàng lửa và Phẩm tiết trên báo Văn nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam), ngay sau đó đã xuất hiện nhiều ý kiến phản bác mạnh mẽ. Căn nguyên của sự phản bác này có hai lý do mà tự nhà phê bình cũng đã thừa nhận một cách không tự giác. Thứ nhất, ý kiến nhà sử học Tạ Ngọc Liễn cho rằng: “Vàng lửa là một truyện ký danh nhân, lịch sử” (điều này thể hiện là một sai lầm trong nhận thức về bản chất thể loại) và dẫn đến lối mòn tiếp nhận thực dụng, đòi hỏi nhà văn phải trả lời câu hỏi theo lối minh họa, hiển ngôn: “Điều người đọc quan tâm chủ yếu là qua hình tượng, ngôn ngữ nghệ thuật, họ muốn biết nhà văn nói gì, giải quyết vấn đề gì, những cái đó có phản ánh đúng bản chất lịch sử hay không, có đem lại cho họ những xúc động sâu xa không?” [6, tr.10]; thứ hai, khẳng định cách nhìn, suy nghĩ, tập giảng theo lối mòn, “bắt vít” vào những định đề xưa cũ: “Theo quan niệm của chúng ta từ trước tới nay…” (điều này khiến cho bản thân nhà phê bình không biết “tự cởi trói”, không mở đường tiếp cận được với cái mới và cản trở sự phát triển của tư duy sáng tạo nghệ thuật) [7, tr.4]… Đặt trong tương quan chung, xem ra người làm phê bình lại chưa theo kịp những định hướng đổi mới của đời sống văn nghệ. Bởi lẽ từ một năm trước đó, trong quá trình khởi động và phát triển đường lối văn nghệ, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã nắm bắt thực tế tình hình văn nghệ đất nước, dành ra hai ngày tham dự hội thảo (ngày 6, 7 tháng 10-1987) và có bài nói chuyện quan trọng trong cuộc gặp gỡ văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hóa. Mặc dù đối tượng chủ yếu ở đây là các nhà quản lý và hướng đến hoạt động sáng tác nhưng tinh thần chung hoàn toàn có tác động trực tiếp và sâu sắc đến đội ngũ các nhà nghiên cứu, phê bình văn học: “Các đồng chí có nói nhiều đến sự “cởi trói”. Có như vậy mới phát huy được hết khả năng trong lĩnh vực của các đồng chí. “Cởi trói” như thế nào? “Cởi trói” nói ở đây trước hết tôi nghĩ rằng Đảng phải cởi trói. Cởi trói trong lĩnh vực tổ chức, chính sách, trong các quy chế, chế độ”; đồng thời nhấn mạnh sự thay đổi từ quan niệm, cơ chế, đường lối đến việc phát huy tinh thần tự chủ vốn được coi là bản chất và phẩm chất, bản lĩnh của người hoạt động trên lĩnh vực văn hóa văn nghệ: “Một mặt khác, tôi nghĩ, trong lĩnh vực của các đồng chí, không thể có ai khác hơn là các đồng chí phải tự làm” [8, tr.11-16]…
Về cơ bản, tôi cho rằng những sáng tác về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp rất mới nếu so với kiểu sáng tác “truyện ký danh nhân”, “truyện lịch sử” thiên về định hướng tuyên truyền trong bối cảnh đặc thù thời chiến tranh, cả dân tộc dồn toàn bộ tâm sức cho nhiệm vụ cứu nước (1945-1975) nhưng lại là không mới (đúng hơn là sự trở lại, tiếp nối phương thức nghệ thuật thể hiện đề tài lịch sử giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX). Đương nhiên thời Pháp thuộc vẫn có chế độ kiểm duyệt (có sách bị tịch thu hoặc bài báo bị cắt, phải bỏ trắng cả trang) nhưng được thực hiện công khai, có người chịu trách nhiệm và được đảm bảo bằng những qui phạm pháp luật. Một thời không có ai trói ai và cũng không ai nghĩ đến chuyện “cởi trói”, “tự cởi trói” nên nhà văn cứ hồn nhiên cảm nhận, suy tư, chiêm nghiệm, thử nghiệm, tái tạo lịch sử bằng sáng tạo nghệ thuật. Điều này được đảm bảo bằng nhiều tiểu thuyết lịch sử Pháp và phương Tây được dịch, giới thiệu khá rộng rãi ở Việt Nam. Có thể nói nhận thức về các loại hình, thể loại và tính mục đích của sự tiêu dùng nghệ thuật đã trở thành kiến thức tương đối phổ thông. Từ tám mươi năm trước, nhà văn, nhà khảo cứu Trúc Khê (1901-1947) trong bài viết Đừng lầm lẫn truyện ký là sử ký, đừng lẩn thẩn gọi tôi là sử gia từng lên tiếng phân biệt văn gia với sử gia, truyện ký với sử ký, xác định sự hình thành “tư trào văn học ở bên ngoài gần đây, có sự đổi thay, đã có nhiều nhà văn sĩ viết những truyện ký bằng lối tiểu thuyết hóa” và đi đến khẳng định: “Những quyển truyện ký này, tuy những cái chi tiết vụn vặt, họ viết bằng sự tưởng tượng ra, nhưng tưởng cũng không hại gì, mà một mặt nữa, nó đã có được cái hiệu quả là làm cho nhiều người vui đọc để biết rộng chuyện sử. Vậy thì, trong cõi văn học của ta, cũng không nên thiếu loại sách ấy” [5, tr.1]… Thế cho nên Nguyễn Tử Siêu (1898-1965) viết Đỉnh núi cành mai, Tiếng sấm đêm đông, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Trần Nguyên chiến kỷ, Việt Thanh chiến sử; Ngô Đình Chiến (?) viết Người đương đầu với vua Gia Long khai sáng nhà Nguyễn: Nguyễn Huệ (Hà thành ngọ báo, 26 kỳ, 1935); Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm (1902-1977) viết Quang Trung (in báo Nước Nam, 1939-1940; in sách, 1944); TchyA Đái Đức Tuấn (1908-1969) viết Kho vàng Sầm Sơn; Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960) viết Đêm hội Long Trì, Vũ Như Tô, Cột đồng Mã Viện, An Tư công chúa; Trương Tửu (1913-1999) viết Tráng sĩ Bồ Đề, Năm chàng hiệp sĩ, v.v… đều mở rộng trí tưởng tượng, tạo lập được nhiều cốt truyện và nhân vật ly kỳ, sinh động, khác biệt rất nhiều so với chính sử. Có thể nói ý thức yêu nước, tinh thần phục hưng dân tộc, khai phóng xã hội và dân chủ trong hoạt động báo chí, xuất bản đã hợp lực tạo nên mùa bội thu sáng tác về đề tài lịch sử dưới thời thực dân nửa phong kiến trong quá khứ.
3. Sáng tác về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp nhìn từ kinh nghiệm văn chương nửa đầu thế kỷ XX.
Tôi xác định những sáng tác về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp không mới khi đặt trong tương quan với những sáng tạo cùng kiểu thức trong văn học giai đoạn 1932-1945. Chẳng hạn, Nguyễn Huy Thiệp có lối mở đầu và kết thúc “bịa như thật”, nói rằng mình đã được nghe kể, chứng kiến, có nhân chứng, vật chứng trong hầu hết các truyện,… khiến có người nhầm tưởng đây là những cứ liệu lịch sử thì
TchyA Đái Đức Tuấn trong Kho vàng Sầm Sơn (1940) cũng có Lời nói đầu giăng mắc giữa thực và ảo, giữa tiếng nói người kể chuyện và kỹ xảo của nhà tiểu thuyết:“Vào khoảng năm 1934, ở bãi Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, phía Bắc Trung Kỳ, nhà nước có khám phá được một kho vàng chìm đắm dưới đáy bể. Khi tải sản nghiệp lớn ấy lên mặt đất người ta thấy có mấy trăm thoi vừa vàng vừa bạc, hình chữ nhật, dài độ gang tay, trên thoi nào cũng có khắc dấu chữ ĐỨC. Lại thấy rất nhiều tiền Cảnh Hưng và các thứ tiền Tàu, từ đời Vạn Lịch (Minh Thần Tôn) cho đến đời Càn Long (Thanh Cao Tôn)…
Xét trong lịch sử, kho vàng bạc kia ắt phải thuộc về đời Lê mạt. Nếu trong thời Lê Quý, sản nghiệp đó không phải của hai anh em Tây Sơn, thì chỉ còn là của Hữu Quân đô đốc Nguyễn Hữu Chỉnh.… Chỉnh bị Nguyễn Nhạc, theo lời gièm pha của rể là Võ Văn Nhậm, bỏ một mình ở lại Bắc Hà, nên ngày hôm sau sợ quá, cho cả của cải lên thuyền, chạy theo về Nghệ. Chỉnh là người có mưu trí, không bao giờ đem vàng bạc ở bên người, phần sợ thuyền nặng khó đi nhanh, phần sợ bị cướp hại đến mạng. Thế tất Chỉnh phải giao tài sản cho con trông coi hộ, mình thì cưỡi thuyền nhẹ theo Nhạc về cho mau.Cứ xem như thế, kho vàng kia tất là của Nguyễn Hữu Chỉnh.
Dựa vào lời phỏng đoán có nhiều phần đúng sự thật ấy, tôi viết bộ truyện ly kỳ này, một là để tưởng nhớ lại một thời oanh liệt đã qua, hai là để hiến các bạn một thể truyện lịch sử mới.Câu chuyện này hoàn toàn là một truyện dã sử, nhưng nó có liên lạc mật thiết với chính sử nước nhà. Có lắm đoạn, tôi phải chép gần đúng văn của ông Trần Trọng Kim nhà làm sử cương trực và uyên bác đã soạn ra bộ Việt Nam sử lược.Những vật liệu tôi góp nhặt để xây đắp câu chuyện “kho vàng” này, nó không đúng hẳn với các việc chép trong chính sử đâu; song le, dù nó đúng hay không đúng, tôi cũng không quản ngại: tôi chỉ muốn dựa vào lịch sử để tạo ra một tiểu thuyết, có phải muốn dùng tiểu thuyết ấy để làm sống một thời lịch sử đâu?
Các bạn đọc truyện này hãy nên lượng cho tôi chỗ đó. Cái cốt truyện hay, giãi bằng một thể văn không tẻ, đó là sở nguyện của tôi. Nếu bạn cho là tôi đã đạt được mục đích ấy, tôi lấy làm sung sướng lắm rồi. Một nhà văn còn đâu dám tự phụ mình cũng là một sử gia uyên bác?”, và có thêm phần lạc khoản: “Ngày mùng hai tháng tư năm Bính Dần – TCHYA” (NHS nhấn mạnh) [17, tr.V-VII…
Ở đây TchyA cũng xây dựng nhân vật Bắc Bình vương Nguyễn Huệ như một kẻ nhẫn tâm, tiểu khí, tâm địa hẹp hòi, đố kỵ người tài:… “Đại đội hùng binh vừa tới nơi, vương truyền lịnh kéo thẳng đến hành doanh Võ Văn Nhậm, trói gô Nhậm lại giải ra chợ trảm quyết.Nhậm vừa lấy làm lạ, vừa kinh sợ, không hiểu vì lẽ gì chú vợ mình lại xử tệ với mình. Y lạy phục xuống thềm, khóc lóc kể lể nỗi oan ức và xin Nguyễn Huệ khoan dung cho. Bắc Bình vương chỉ lắc đầu, cười gằn, không nói gì cả, sai lính đưa ra cho Nhậm một mảnh giấy nhỏ, trên có đề mười hai chữ rõ rệt: “Bất tu đa ngôn; nhữ tài quá ngã, phi sở ngã dụng” (Chớ khá nhiều lời; tài mày hơn tao, tao không dùng được).Nhậm mượn đọc xong, không còn biết nói thế nào, chỉ kêu trời kêu đất, oán thán phận mình. Nhậm biết rằng Huệ đã truyền lệnh, có xin van cũng vô ích. Tài Huệ nào có kém Nhậm, nhưng Huệ nói thế, chỉ để có cớ giết Nhậm mà thôi. Một người hữu ý, một kẻ vô tình; ai tránh cho khỏi tai vạ mà tha nhân đã lập tâm gieo trên đầu mình một cách quá tự nhiên, vô lý?” [17, tr.135-136]…
Về sau này, kể cả đến Nguyễn Huy Thiệp, không thấy ai gọi tên suồng sã “Nhậm, Nhậm, Huệ, Huệ…” giọng điệu tiểu thuyết như thế nữa! Điều này có lý bởi suốt thời Nguyễn, nhà Tây Sơn – Nguyễn Huệ luôn bị coi là “ngụy triều”, “ngụy tặc”, trong khi nhân dân vẫn ngưỡng vọng, tôn thờ Quang Trung là anh hùng dân tộc. Đặc biệt trong bối cảnh đầu thế kỷ XX đã diễn ra hiện tượng song hành: hình tượng Quang Trung vừa được tiểu thuyết hóa theo nhiều chiều kích khác nhau vừa vẫn được tổ chức kỷ niệm trọng thể trong cả nước; cả hai bổ sung cho nhau, không loại trừ nhau, đưa đến những cách lý giải và tôn vinh kiểu mới về Quang Trung – Nguyễn Huệ.
Với Nguyễn Huy Tưởng, nói riêng về đề tài lịch sử với những Đêm hội Long Trì, Vũ Như Tô, chưa thấy ai đi xa hơn ông trong việc sáng tạo nên cả một thế giới nhân vật, một bức tranh lịch sử mới, một hiện thực lịch sử mới khác rất xa chính sử và được ghi nhận sâu rộng ở các thời kỳ, các môi trường xã hội khác nhau.
Với Trương Tửu, ông có viết dã sử – giả sử, thường được gọi là “truyện dã sử” hay “tiểu thuyết dã sử”, “giả lịch sử”. Trong thực chất, cả hai tiểu thuyết Tráng sĩ Bồ Đề [20, tr.597-751] và Năm chàng hiệp sĩ [21, tr.753-885] (ký bút danh Mai Viên) đều thuộc dòng tiểu thuyết lịch sử, có thời gian, bối cảnh, sự kiện, có mối liên hệ với một vài nhân vật được ghi chép trong chính sử. Tiểu thuyết Tráng sĩ Bồ Đề (2 quyển, 14 chương) nương theo sự kiện Thập đạo tướng quân Lê Hoàn thay thế nhà Đinh vào giai đoạn cuối thế kỷ X. Tuy nhiên, hoạt động của các tráng sĩ Bồ Đề, Bạch Hạc và các cô Minh Tâm, Kim Chi trong đảng Từ Bi đối lập với đảng Thập Đạo nơi kinh thành cho thấy màu sắc hiện đại hóa và dấu ấn ảnh hưởng không khí xã hội đương thời. Tiểu thuyết Năm chàng hiệp sĩ (2 quyển, 14 chương) lại lấy bối cảnh lịch sử xã hội thời Lý Anh Tông (1138-1175), xây dựng nhiều nhân vật đảng viên trung kiên của đảng Quần Anh đan xen những mối tình lãng mạn, những hoạt động do thám, thủ tiêu, lật đổ. Điều này khiến thiên tiểu thuyết gia tăng chất truyện trinh thám, cốt truyện vụ án, đường rừng, đưa lại sự hấp dẫn, ly kỳ, hồi hộp cho người đọc. Nhìn chung, cả hai thiên tiểu thuyết lịch sử này đều được “tiểu thuyết hóa” ở mức độ cao, hư cấu thêm nhiều nhân vật, sự kiện, chi tiết, tình tiết. Đây cũng chính là điều sở đắc của loại tiểu thuyết lịch sử (dã sử) của Trương Tửu trong dòng tiểu thuyết lịch sử nói chung…
Đặt một sự so sánh nói trên để thấy rằng các nhà văn trước cách mạng tháng Tám 1945 khi sáng tác về đề tài lịch sử có thiên hướng phát triển tư duy tiểu thuyết chứ không chỉ dừng lại ở mức viết phác thảo chân dung “danh nhân quê hương”, “những vì sao đất nước”, “truyện ký danh nhân, lịch sử”; theo đó, họ hướng tới sáng tạo nên những thế giới nhân vật kiểu mới, đưa đến những cách hình dung mới về lịch sử và nhân vật lịch sử. Định hướng quan niệm nghệ thuật kiểu này cũng từng được Nguyễn Huy Thiệp đề cập đến và ký thác qua đoạn văn giả tưởng trong truyện ngắn Phẩm tiết: “Con gái ông Quách Ngọc Minh là Quách Thị Trình hỏi tôi có biết gì về người phụ nữ nằm trong ngôi mộ hay không? Tôi băn khoăn quá. Phải là người mơ mộng và nghiêm khắc mới hiểu rằng biết hoặc không biết, đều chỉ là những ước lệ mơ hồ, có tính lịch sử và hạn chế” [18, tr.242]… Với bộ ba truyện ngắn lịch sử Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Nguyễn Huy Thiệp đã mê hoặc người đọc, đưa đến những cách cảm nhận mới, thị hiếu mới, quan niệm mới về văn chương, khả năng hư cấu của văn chương và mối quan hệ diễn ngôn văn chương với bài học kinh nghiệm lịch sử. Chính nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã góp phần đổi mới, nâng tầm văn học dân tộc, đưa văn học Việt Nam hội nhập với nền văn học khu vực châu Á và thế giới hiện đại. Nói riêng các sáng tác về đề tài lịch sử đã được các nhà Việt học ghi nhận, đánh giá cao. Nhà nghiên cứu Greg Lockhart (Austrlia) nhấn mạnh năng lực sáng tạo của Nguyễn Huy Thiệp ở những khắc khoải về tiến bộ, nhân bản và “là một tác giả Việt Nam có tài năng ngang tầm với những nhà văn xuất sắc quốc tế” [9, tr.115]; nhà báo Evelipe Pieller (Pháp) xác định khả năng phản ánh “cuộc sống kỳ lạ của những người bình thường” [12, tr.152]; nhà bình luận sách Sean Tamis Rose (Pháp) khẳng định “đối với ông, đấy là sự nhắc nhở trách nhiệm của nhân loại theo cách contraria (tương phản)” [14, tr.497]; nhà nghiên cứu T.N. Filimonova (Nga) ghi nhận “nhà văn đã đưa ra ba cái nhìn về lịch sử Việt Nam, ba cách tiếp cận, đánh giá khác nhau” [2, tr.353]…; trong khi giới nghiên cứu Việt Nam cũng nâng tầm năng lực tiếp nhận trước một hiện tượng văn học mới mẻ, khác biệt, từ đó đề xuất những phương hướng tiếp cận, lý giải thực sự khoa học: “Đọc văn phải khác với đọc sử” (Lại Nguyên Ân) [1, tr.179-187]; “Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp – “triết học lịch sử” hay là “văn xuôi nghệ thuật”? (Trương Hồng Quang – Nguyễn Mai Xuân) [13, tr.207-230]; “Tư duy tiểu thuyết và follklore hiện đại” (Hoàng Ngọc Hiến) [3, tr.355-366]; “có một nghệ thuật (phong cách) ba-rốc trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp” (Thái Hòa) [4, tr.91] và khẳng định mạnh mẽ: “Xem xét các hiện tượng, sự kiện, nhân vật lịch sử trong cả những liên hệ phổ biến, thông thường, không cô lập, một chiều; thoát ra khỏi cách nhìn giáo điều, duy ý chí. Những “ngôi sao” lịch sử được kéo thấp xuống với nững suy tư, xử thế đời thường, rút ngắn khoảng cách giữa những thần tượng, những ông chủ của quá khứ với người hôm nay để họ chiêm nghiệm. Lịch sử không thể chỉ là những cái cao xa treo lơ lửng và trừu tượng trên đời” (Vương Anh Tuấn) [19, tr.337]… Điều này hoàn toàn phù hợp với tư duy sáng tạo nghệ thuật, tinh thần dân chủ trong phương thức và khoảng cách không gian ứng xử giữa nhà văn với nhân vật lịch sử ở trường hợp Nguyễn Huy Thiệp và văn học viết về đề tài lịch sử giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX như đã nêu trên.
4. Sáng tác về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp nhìn từ hiện thực lịch sử dân tộc
Trước lịch sử, nhà văn (kể cả nhà sử học) biết được mấy phần sự thật về một Lê Hoàn, Lê Văn Thịnh, Hồ Quý Ly, Trần Thủ Độ, Trần Hưng Đạo, Huyền Quang, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Hoàng Hoa Thám, Lê Hoan?… Nhà văn được phép hình dung bao nhiêu dáng vẻ chân dung về tài năng, nhân cách của họ? Điều quan trọng hơn, nhà văn cần chọn điểm nhìn nào để khai thác, sáng tạo, xây dựng nhân vật cho phù hợp với hiện thực cuộc sống và lịch sử dân tộc, hướng đến khẳng định những giá trị chân – thiện – mỹ và mở đường cho hoạt động sáng tạo nghệ thuật?…
Này đây, Đại Việt sử ký toàn thư ghi về Lê Văn Thịnh:- Bính Tý, [Hội Phong] năm thứ 5 [1096], (Tống Thiệu Thánh năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 3, Lê Văn Thịnh mưu làm phản, tha tội chết, an trí ở Thao Giang. Bấy giờ vua ra hồ Dâm Đàm, ngự trên thuyền nhỏ xem đánh cá. Chợt có mây mù nổi lên, trong đám mù nghe có tiếng thuyền bơi đến, tiếng mái chèo rào rào, vua lấy giáo ném. Chốc lát mây mù tan, thấy trong thuyền có con hổ, mọi người sợ tái mặt, nói: “Việc nguy rồi!”. Người đánh cá là Mạc Thận quăng lưới trùm lên con hổ, thì ra là Thái sư Lê Văn Thịnh. Vua nghĩ Thịnh là đại thần có công giúp đỡ, không nỡ giết, đày lên trại đầu Thao Giang. Thưởng cho Mục Thận quan chức và tiền của, lại cho đất ở Tây Hồ làm thực ấp. Trước đấy Văn Thịnh có gia nô người nước Đại Lý có phép thuật kỳ lạ, cho nên mượn thuật ấy toan làm chuyện thí nghịch [10, tr.283]…
Này đây, Đại Việt sử ký toàn thư ghi về Trần Thủ Độ:- Bính Tuất, [Kiến Trung] năm thứ 2 [ 1226], (Tống Bảo Khánh năm thứ 2)… Mùa thu, tháng 8, ngày mồng 10, Trần Thủ Độ giết Lý Huệ Tông ở chùa Chân Giáo…… Thượng hoàng nhà Lý nói: “Ta tụng kinh xong sẽ tự tử”. Nói rồi vào buồng ngủ khấn rằng: “Thiên hạ nhà ta đã vào tay ngươi, ngươi lại còn giết ta, ngày nay ta chết, đến khi thác con cháu ngươi cũng sẽ bị như thế”. Bèn thắt cổ tự tử ở vườn sau chùa.Thủ Độ ra lệnh cho các quan đến khóc, khoét tường thành phía nam cửa (người bấy giờ gọi là “cửa khoét”), đưa linh cữu ra phường Yên Hoa để thiêu, chứa xương vào tháp chùa Bảo Quang, tôn miếu hiệu là Huệ Tông. Giáng hoàng hậu của Huệ Tông làm Thiên Cực công chúa, gả cho Trần Thủ Độ, cho châu Lạng làm ấp thang mộc…- Nhâm Thìn, [Kiến Trung] năm thứ 8 [1232], (Từ tháng 7 về sau là Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 1, Tống Thiệu Định năm thứ 5)…Trần Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý. Khi ấy, Thủ Độ chuyên chính lâu ngày, đã giết Huệ Tông, tôn thất nhà Lý đều bùi ngùi thất vọng. Mùa đông năm ấy, nhân người họ Lý làm lễ tế các vua Lý ở Thái Đường, Hoa Lâm, Thủ Độ ngầm đào hố sâu, làm nhà lên trên, đợi khi mọi người uống rượu say, giật máy chôn sống hết.(Xét thời Trần Anh Tông còn có người họ Lý làm tướng, hơn nữa [Phan] Phu Tiên không ghi lại, việc này chưa chắc đã có thực, hãy tạm chép vào đây) [11, tr.8]…
Này đây, Đại Việt sử ký toàn thư ghi về Trần Quốc Tuấn:- Tân Hợi, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 20 [1251], (Từ tháng 2 về sau là Nguyên Phong năm thứ 1, Tống Thuần Hựu năm thứ 11, Nguyên Hiến Tông Mông Kha năm thứ 1)…
Gả trưởng công chúa Thiên Thành cho Trung Thành Vương (không rõ tên). Con trai Yên Sinh Vương là Quốc Tuấn cướp lấy. Công chúa về với Quốc Tuấn. Ngày 15 tháng ấy, vua mở hội lớn 7 ngày đêm, bày các tranh về lễ kết tóc và nhiều trò chơi cho người trong triều ngoài nội đến xem, ý muốn cho công chúa Thiên Thành làm lễ kết tóc với Trung Thành Vương. Trước đó, vua cho công chúa Thiên Thành đến ở trong dinh Nhân Đạo Vương (Nhân Đạo Vương là cha Trung Thành Vương). Quốc Tuấn muốn lấy công chúa Thiên Thành, nhưng không làm thế nào được, mới nhân ban đêm lẻn vào chỗ ở của công chúa thông dâm với nàng.
Công chúa Thụy Bà (chị ruột của Thái Tông, cô của Quốc Tuấn, nuôi Quốc Tuấn làm con) liền đến gõ cửa điện cáo cấp. Người coi cửa vội vào tâu. Vua hỏi có việc gì, Thụy Bà trả lời: “Không ngờ Quốc Tuấn ngông cuồng càn rỡ, đang đêm lẻn vào chỗ Thiên Thành, Nhân Đạo đã bắt giữ hắn rồi, e sẽ bị hại, xin bệ hạ rủ lòng thương, sai người đến cứu”. Vua vội sai nội nhân đến dinh Nhân Đạo Vương. Đến nơi, thấy yên lặng, bèn vào chỗ Thiên Thành, thì thấy Quốc Tuấn đã ở đấy. Nhân Đạo bấy giờ mới biết chuyện. Hôm sau, Thụy Bà dâng 10 mâm vàng sống, tâu rằng: “Vì vội vàng nên không sắm được đủ lễ vật”. Vua bắt đắc dĩ phải gả công chúa Thiên Thành cho Quốc Tuấn, lấy 2000 khoảnh ruộng ở phủ Ứng Thiên để hoàn lại sính vật cho Trung Thành Vương [11, tr.14], v.v…
Trên cơ sở dữ liệu lịch sử đã nêu, nhà văn sáng tác về đề tài lịch sử hoàn toàn có thể đi sâu khai thác các khía cạnh tính cách, bản lĩnh, tâm lý nhân vật đặt trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể dưới thời phong kiến, tránh lối viết hiện đại hóa, tô màu một chiều. Điều này quyết không phải là sự “giải thiêng”, “hạ bệ thần tượng” mà chính là nhằm góp phần xây dựng các nhân vật lịch sử sinh động, đảm bảo các giá trị chân – thiện – mỹ, trong đó giải quyết tốt mối quan hệ giữa cái cao cả và thông tục, cái hùng và cái bi, anh hùng và nghệ sĩ, phi thường và đời thường, cộng đồng và cá nhân… Trường hợp các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp được gợi tứ từ các nhân vật lịch sử như Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ, Nguyễn Huệ, Nguyễn Du, Nguyễn Ánh, Hồ Xuân Hương, Hoàng Hoa Thám, Tú Xương, Nguyễn Thái Học chính là đã tạo nên những hình tượng nghệ thuật ấn tượng, sâu sắc, sinh động, góp phần khơi mở, hấp dẫn người đọc về chân dung nhân vật và hiện thực lịch sử trong quá khứ xa và gần.
5. Lời kết mở
Từ thực tế những tác phẩm viết về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp đặt trong tương quan điểm nhìn lý luận, bản chất lịch sử và bài học kinh nghiệm sáng tác, xin nhấn mạnh thêm ba nội dung sau.
Thứ nhất, cần phải có niềm tin vào người sáng tác và người đọc tác phẩm viết về đề tài lịch sử. Khó mà qui kết những tài năng văn chương và cả giới bạn đọc lại nhầm lẫn và mưu mô đi “lật đổ thần tượng” của dân tộc mình làm gì. Chỉ có sự thiện chí ấy mới giúp những người cùng chung đội ngũ không nâng quan điểm, không qui chụp và có thể cùng nhau bàn luận, ngõ hầu tìm đến những cách lý giải thỏa đáng.
Thứ hai, cần đặt những sáng tác về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp và nhiều tác giả đương đại khác trong dòng chảy kinh nghiệm sáng tạo văn học – nghệ thuật về đề tài lịch sử, chí ít là những thành tựu trong nền văn học hiện đại, nền văn học Quốc ngữ từ đầu thế kỷ XX đến nay.
Thứ ba, trước những vấn đề còn đương tranh luận, cần có những cuộc trao đổi thật sự dân chủ, bình đẳng, không bao biện, bao cấp chân lý. Trong một tầm nhìn xa, cần tổ chức nhiều những cuộc hội thảo, tọa đàm, thuyết trình, khảo sát chuyên sâu những sáng tác về đề tài lịch sử ở từng thời đại, từng giai đoạn, từng thể loại, từng tác giả và từng tác phẩm cụ thể. Một cơ chế tổ chức và quản lý văn nghệ tiến bộ (trong đó gồm cả việc định hướng những sáng tạo văn học, nghệ thuật về đề tài lịch sử) bao giờ cũng cần dựa trên nền tảng tri thức, mở đường cho sáng tạo và phát triển…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lại Nguyên Ân (2001), “Đọc văn phải khác với đọc sử”, trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Nxb. Văn hoá – Thông tin, Hà Nội, tr.179-187.
[2] T.N. Filimonova (1993), Lịch sử Việt Nam qua truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Việt Nam truyền thống, Moskva; in lại trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Sđd, tr.342-354.
[3] Hoàng Ngọc Hiến (2001), Tư duy tiểu thuyết và follklore hiện đại (Nhân đọc mấy truyện lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp); trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Sđd, tr.355-366.
[4] Thái Hòa (1989), Có nghệ thuật ba-rốc trong các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp hay không? Tạp chí Văn học, số 2, tr.84-91+107.
[5] Trúc Khê (1941), Đừng lầm lẫn truyện ký là sử ký, đừng lẩn thẩn gọi tôi là sử gia. Nước Nam, số 124, ra ngày 13-9-1941, tr.1.
[6] Tạ Ngọc Liễn (1988), Về truyện ngắn Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp. Văn nghệ, số 26, ngày 26-6, tr.10.
[7] Tạ Ngọc Liễn (1988), Về mối quan hệ giữa sử và văn. Nhân dân, số 12464, ngày 28-8, tr.4.
[8] Nguyễn Văn Linh (1988), Bài nói chuyện của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh trong cuộc gặp gỡ văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hóa (7 tháng 10 năm 1987). Tạp chí Văn học, số 1, tr.11-16.
[9] Greg Lockhart (1989), Tại sao tôi dịch truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ra tiếng Anh? Tạp chí Văn học, số 4, tr.49-53.
[10] Nhiều tác giả (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập I (Ngô Đức Thọ dịch, chú). Nxb. KHXH, Hà Nội, tr.283.
[11] Nhiều tác giả (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II (Ngô Đức Thọ dịch, chú). Nxb. KHXH, Hà Nội, tr.8, 14.
[12] Evelipe Pieller (2000), Lời giới thiệu hai tập truyện ngắn của Nguyễn huy Thiệp: Trái tim hổ và Tướng về hưu, xuất bản tại Pháp. La Quinzaine Literaire, ngày 31-3; in lại trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Sđd, tr.152-153.
[13] Trương Hồng Quang – Nguyễn Mai Xuân (1989), Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp – “triết học lịch sử” hay là “văn xuôi nghệ thuật”? Tạp chí Văn học, số 2, tr.74-83.
[14] Sean Tamis Rose (2000), Trái tim Thiệp. Libération, ngày 18-5; in lại trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Sđd, tr.497-500.
[15] Nguyễn Hữu Sơn (2000), Sáng tác về đề tài lịch sử, trong sách Điểm tựa phê bình văn học. Nxb. Lao động, Hà Nội, tr.42-49.
[16] Nguyễn Hữu Sơn (2009), Văn xuôi Trương Tửu trước cách mạng tháng Tám 1945, trong sách Trương Tửu – Tuyển tập văn xuôi. Nxb. Lao động, Hà Nội, tr.5-21.
[19] Vương Anh Tuấn (1989), Lịch sử trong quan niệm của Nguyễn Huy Thiệp. Tạp chí Văn học, số 3, tr.37-42.
[20] Mai Viên (1942), Tráng sĩ Bồ Đề. Nxb. Hàn Thuyên, Hà Nội. In lại trong sách Trương Tửu – Tuyển tập văn xuôi (Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm, biên soạn). Nxb. Lao động, Hà Nội, 2009, tr.597-751.
[21] Mai Viên (1942), Năm chàng hiệp sĩ. Nxb. Hàn Thuyên, Hà Nội. In lại trong sách Trương Tửu – Tuyển tập văn xuôi. Sđd, tr.753-885. PHỤ LỤC: Bên Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp – Viện Văn học, 2011.
BILL GATES HỌC ĐỂ LÀM Hoàng Kim Tôi đọc lại, hiệu đính, bổ sung và viết thêm về Bill Gates. Một trong những chia sẻ mới của anh mà tôi yêu thích là bài viết “Leonardo là một trong những người hấp dẫn nhất từ trước tới nay” bởi Bill Gates ngày 21 tháng 5 năm 2018. Bill Gates chia sẻ suy nghĩ của mình về Leonardo da Vinci và tiểu sử mới về nhà họa sĩ và nhà triết học tự nhiên thiên tài này bởi tác giả Walter Isaacson. Tìm hiểu thêm tại https://b-gat.es/2IrUKUc.
BILL GATES VIẾT VỀ LEONADO DA VINCI
Leonardo da Vinci là thiên tài toàn năng người Ý sinh ngày 15 tháng 4 năm 1452 tại Anchiano, Ý, mất ngày 2 tháng 5 năm 1519 tại Amboise, Pháp. Ông là một họa sĩ nổi tiếng mọi thời đại, nhà sáng tạo và triết học tự nhiên, nhà điêu khắc, kiến trúc sư, nhạc sĩ, bác sĩ, kỹ sư, nhà giải phẫu. Ông là tác giả của những bức họa kiệt tác đặc biệt nổi tiếng như Mona Lisa, Bữa ăn tối cuối cùng, Người Vitruvius; Người đàn bà và con chồn; Salvator Mundi ; Thánh mẫu Benois;… Ông là người có những ý tưởng vượt trước thời đại của mình, đặc biệt là khái niệm về máy bay trực thăng, xe tăng, năng lượng mặt trời, máy tính, sơ thảo lý thuyết kiến tạo địa hình, tàu đáy kép, những đóng góp to lớn về giải phẫu học, thiên văn học, xây dựng dân dụng, quang học và thủy lực. Những sản phẩm lưu lại trong cuộc đời ông là những bức danh hoạ còn mãi với thới gian với một số quyển sổ tay chứa đựng các ký hoạ, minh hoạ về khoa học và bút ký.
Bill Gates kể rằng Leonardo là một trong những người hấp dẫn nhất từ trước tới nay. Một thời gian ngắn sau khi Melinda và Bill Gates kết hôn, Gates nói với Melinda rằng Gates đang đấu giá một chiếc máy tính xách tay có thể làm tốn rất nhiều tiền. “Chẳng phải anh đang có một chiếc máy tính xách tay tuyệt vời sao?” Melinda hỏi. Gates đã giải thích rằng ông đang say mê một “sổ tay” loại cũ, rất “lỗi thời”, thực sự cũ, khoảng 500 năm tuổi. “Sổ tay’ là một trong 32 tạp chí còn sót lại của Leonardo da Vinci. Sau khi Gates thắng thầu, ông đã đổi tên từ Codex Hammer (chủ sở hữu trước là Armand Hammer) thành Codex Leicester, cái tên nó được giữ từ năm 1719 đến năm 1980. Codex Leicester không nổi tiếng như các tác phẩm nghệ thuật kiệt tác như Mona Lisa, Bữa ăn tối cuối cùng nhưng đó là một kho tàng khoa học. Trong thực tế, có những hiểu biết, như cách máu chảy qua trái tim đã vượt xa thời điểm của Leonardo da Vinci sống. Gates rất đam mê Leonardo da Vinci nên rất say mê đọc tiểu sử mới của Walter Isaacson. Và Gates đã nói rằng ông đọc rất nhiều sách về Leonardo qua nhiều năm, nhưng chưa bao giờ thấy một cuốn sách nào thỏa đáng bao quát tất cả các khía cạnh khác nhau trong cuộc đời và công việc của Leonardo da Vinci như cuốn sách ấy. Walter Isaacson là một nhà báo tài năng tuyệt vời mà Gates đã quen biết nhiều năm từng viết về Steve Jobs và Albert Einstein. Gates khuyên chúng ta nên lùng tìm sách này để đọc. “Hơn bất kỳ cuốn sách nào khác của Leonardo da Vinci mà Gates đã đọc, “cuốn sách này giúp bạn thấy Leonardo da Vinci là một con người hoàn chỉnh và hiểu anh ấy đặc biệt đến mức nào.“ Gates nói.
Bill Gates là một thế giới trí tuệ, lắng đọng nhiều kinh nghiệm sống học để làm (learning to doing) cần được khám phá. Bill Gates bỏ học mà thành tài, giàu có mà phúc hậu, bỏ quyền lực mà làm từ thiện, sống hữu hạn mà vĩnh cữu. Nhiều giá trị lớn của ông cần được khám phá không riêng cho lớp trẻ mà mang tính phổ quát cho tất cả mọi người.
“Đừng so sánh mình với bất cứ ai trong thế giới này … nếu bạn làm như vậy, bạn đang sỉ nhục chính mình” (Don’t compare yourself with anyone in this world … if you do so, you are insulting yourself. Bill Gates).
Gates Notes và @BillGates là một trong những trang yêu thích nhất của tôi. Văn hóa mạng ngày nay đang tương tác mỗi lúc một hoàn hảo và hợp lý hơn với văn hóa đọc, đó là sự phối kết của phát triển và bảo tồn. Văn hóa mạng nhanh mạnh hiệu quả hơn, chia sẽ hơn, cần cho sự đọc mau lẹ và tiết kiệm thời gian hơn, trong khi văn hóa đọc sâu sắc, tinh tế hơn, chắt lọc hơn, cần cho bảo tồn và suy ngẫm nhiều hơn, lắng đọng tinh hoa hơn. Trang Gates Notes và @BillGates tổng hòa khá hoàn hảo điều đó.
Những câu nói Bill Gates thật đáng suy ngẫm. Cuộc đời của nhiều người không thành công và kém may mắn có thể vịn lời ông mà đứng dậy. Minh triết nhân sinh của Bill Gates thật chí thiện, trí tuệ với tư duy mạch lạc và có hệ thống khoa học. Bill Gates là chuyên gia hàng đầu của máy tính nhưng trong Gates Notes công việc đầu tư tiền bạc, công sức và thời gian của ngân quỹ Bill & Melinda Gates Foundation lại xếp hàng đầu cho nông nghiệp, thiên nhiên, đồ ăn thức uống của con người.
Sự lựa chọn này của Bill Gates làm tôi nhớ đến lời thầy Norman Borlaug: “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời”.
Bill Gates có một gia đình hạnh phúc thật sự. Bill Gates được coi là người giàu nhất thế giới, với tài sản trên 100 tỷ đô la US , tuyên bố sẽ cho đi 99% tài sản của mình và sẽ chỉ để lại cho ba đứa con một phần rất nhỏ, chưa tới 1% tổng số tài sản.
Bill Gates đã nghĩ thật thoáng và thật chuẩn mực khi được hỏi tại làm sao ông không để cho các con ông nhiều hơn thế để bảo đảm cuộc sống sung túc hơn, Bill Gates nói:
”Tôi và vợ tôi đều muốn cho con cháu có được cuộc sống thực sự của riêng chúng. Tôi không muốn chúng thành cái bóng của tôi hay suốt đời sống dựa vào (tiền của) tôi. Tôi muốn chúng có nghề nghiệp riêng, có con đường đi cho riêng mình, giàu hay nghèo do chúng tự chọn lựa. Tôi mong chúng được trải nghiệm tất cả hương vị của cuộc sống, từ những nỗ lực để vượt qua khó khăn đến những suy nghĩ cân nhắc để phát triển. Cuộc sống thực sự phải có dễ có khó, có thăng có trầm, có vui có buồn, có lúc lo lắng có lúc bình tâm … Như vậy mới thực sự là sống! Chứ nếu tôi để lại cho các con tôi nhiều tiền của quá, chúng sẽ đâm ra lười biếng và sống cuộc sống nhàm chán, vì không còn thử thách và hồi hộp hay hy vọng gì nữa! Nếu tôi làm như vậy khác nào biến các con tôi thành robot chỉ biết ăn rồi ngủ rồi đi chơi rồi chờ chết? Làm vậy là làm hại các con chứ đâu phải là thương yêu?”
Tôi thích sự học để làm, học vừa làm rất trí tuệ của ông. Câu châm ngôn hay về “sự đọc” vận vào đây thật đúng: “Trong một thế giới có đủ bình tâm, người viết nhỏ hơn người đọc, người đọc nhỏ hơn quyển truyện họ đang đọc, và quyển truyện nhỏ hơn sự đọc. Người viết và người đọc rồi chết, truyện rồi quên. Sự đọc ở lại và làm nên một phần mênh mông trong định nghĩa của việc làm người“.
Bill Gates học để làm thật thấm thía.
MƯỜI CÂU NÓI NỔI TIẾNG CỦA BILL GATE
Bill Gates – ông chủ của tập đoàn máy tính lớn nhất thế giới Microsoft – trước khi về hưu vào đầu tháng 7 năm 2008, đã đưa ra 10 lời khuyên dành cho các bạn thanh niên trên con đường lập nghiệp. Hải Hiền VNN đã đưa tin. PGS.TS. Phan Thanh Kiếm đã kịp thời chuyển tin này cho DẠY VÀ HỌC
1. Thế giới vốn không công bằng. Bạn biết điều này chứ? Dù bạn có nhận thấy sự bất công trong xã hội hay không thì cũng đừng hy vọng làm thay đổi được nó. Việc cần làm là hãy thích nghi với nó.
2. Mọi người sẽ không bao giờ ngó ngàng đến lòng tự trọng của bạn, điều mà họ quan tâm chính là thành tựu mà bạn đạt được. Do đó, trước khi có được những thành tựu thì bạn đừng nên quá chú trọng hay cường điệu lòng tự trọng của bản thân mình lên.
3. Thường thì bạn sẽ không thể trở thành CEO nếu chỉ mới tốt nghiệp trung học. Nhưng khi bạn đã trở thành một CEO thì không còn ai để ý là bạn mới chỉ có tốt nghiệp trung học nữa.
4. Khi bạn gặp khó khăn hay bế tắc trong công việc thì đừng có oán trách số phận. Điều bạn học được khi gặp trắc trở chính là kinh nghiệm và bài học để lần sau không bao giờ mắc phải nữa.
5. Nên hiểu một điều rằng: Trước khi có bạn, bố mẹ bạn không phải là những người “chán ngắt, vô vị” như bạn của ngày hôm nay đã nghĩ. Đây chính là cái giá rất lớn mà bố mẹ đã phải trả cho sự trưởng thành của bạn.
6. Khi đi học, bạn đứng thứ mấy trong lớp cũng không phải là vấn đề quan trọng. Nhưng khi đã bước chân ra xã hội thì mọi việc lại không đơn giản như vậy. Dù đi đâu hay làm công việc gì bạn cũng nên tạo đẳng cấp cho mình.
7. Khi đi học, bạn luôn mong chờ đến ngày nghỉ lễ, Tết. Khi đi làm thì hoàn toàn không giống vậy, dường như là bạn sẽ không được nghỉ ngơi. Công việc sẽ cuốn bạn đi bất cứ lúc nào kể cả ngày nghỉ.
8. Khi ngồi trên ghế nhà trường, lúc gặp khó khăn trong học tập thì có giáo viên giúp đỡ bạn. Tuy nhiên, nếu lúc đó bạn lại cảm thấy mọi khó khăn đều do những yêu cầu quá nghiêm khắc từ phía giáo viên thì bạn đừng nên đi làm sau khi tốt nghiệp. Đơn giản nếu như không có những yêu cầu nghiêm khắc từ phía công ty thì chắc chắn bạn sẽ không làm được gì và sẽ nhanh chóng thất nghiệp, hơn nữa lúc này sẽ không có ai giúp đỡ bạn cả.
9. Mọi người đều thích xem phim truyền hình, nhưng bạn không nên xem nhiều vì đó không phải là cuộc sống của bạn. Vì công việc ở công ty mới phản ánh cuộc sống thực của bạn.
10. Không bao giờ phê bình người khác sau lưng của họ, đặc biệt đừng bao giờ phê phán sếp là người không có năng lực, điều này là không đúng.
VUI VUI VUI ĐÙA VỚI BILL GATES
Quỹ Melinda và Bill Gates nâng đỡ Dự án Lúa Siêu Xanh. Thầy Giáo sư Tiến sĩ Zhikang Li là chuyên gia IRRI CAAS Giám đốc Lúa Siêu Xanh Toàn Cầu. Hoàng Long con trai tôi học tiến sĩ được học bổng Bill Gates, với thầy hướng dẫn là thầy Zhikang Li và thầy Tian Qing Zheng. Đề tài nghiên cứu của Hoàng Long là lúa siêu xanh “GSR evaluation in Vietnam and joint mapping of leaf-rolling trait in rice (Oryza sativa L.)”.
Bill Gates đi vào câu chuyện đời thường người Việt. Ngưỡng mộ Bill Gates học để làm, và vui vui vui đùa với Bill Gates theo câu chuyện của Bill Keller. Trong hạnh phúc năm trước, gia đình tôi dự cưới Hoàng Thế Toàn và Minh Anh là con trai và con dâu của anh Hoàng Trung Trực. Tôi đùa vui với Hoang Long và mọi người.
Tôi nói với Hoang Long con trai tôi: “Con sẽ kết hôn với cô gái do ba chọn.” Nó nói: “Không!”. Tôi nói với nó, “Cô ấy là con gái của Bill Gates”. Nó nói, “OK.” Tôi gọi là Bill Gates và nói, “tôi muốn ông gả con gái của mình cho con trai của tôi.” Bill Gates nói, “Không.” tôi nói với Bill Gates, con trai tôi là người lãnh đạo của Lúa Siêu Xanh ở Việt Nam “, Bill Gates nói:” OK “. Tôi gọi điện cho thầy Tiến sĩ Zhikang Li , Giám đốc Lúa Siêu Xanh Toàn Cầu và hỏi thầy để làm cho con trai tôi tôi làm CEO Lúa Siêu Xanh Việt Nam. Thầy nói, “Không.” Tôi nói với thầy, “Con trai tôi là con rể của Bill Gates. Ông nói, “OK.” Đây chính là cách mà các nhà chính trị hoạt động .
Cảm ơn Bill Keller cho câu chuyện gốc tương tự. Tôi chỉ sửa đôi chữ nguyên bản và bịa chuyện này trong một buổi tiệc vui liên quan làm ai cũng cười … Tôi sẽ gửi bạn một ít ảnh nữa bên dưới để minh họa.
( I told my son, “You will marry the girl I choose.” He said, “NO!” I told him, “She is Bill Gates’ daughter.” He said, “OK.” I called Bill Gates and said, “I want your daughter to marry my son.” Bill Gates said, “NO.” I told Bill Gates, My son is the leader of Green Super Rice in Vietnam ” Bill Gates said, “OK.” I called Dr. Li, the President of Green Super Rice and asked him to make my son the CEO. He said, “NO.” I told him, “My son is Bill Gates’ son-in-law.” He said, “OK.” This is exactly how politics works . . .
Thanks Bill Keller for the story! We love Bill Gate very much.) Video yêu thích
President Bok, former President Rudenstine, incoming President Faust, members of the Harvard Corporation and the Board of Overseers, members of the faculty, parents, and especially, the graduates:
I’ve been waiting more than 30 years to say this: “Dad, I always told you I’d come back and get my degree.”
I want to thank Harvard for this timely honor. I’ll be changing my job next year … and it will be nice to finally have a college degree on my resume.
I applaud the graduates today for taking a much more direct route to your degrees. For my part, I’m just happy that the Crimson has called me “Harvard’s most successful dropout.” I guess that makes me valedictorian of my own special class … I did the best of everyone who failed.
But I also want to be recognized as the guy who got Steve Ballmer to drop out of business school. I’m a bad influence. That’s why I was invited to speak at your graduation. If I had spoken at your orientation, fewer of you might be here today.
Harvard was just a phenomenal experience for me. Academic life was fascinating. I used to sit in on lots of classes I hadn’t even signed up for. And dorm life was terrific. I lived up at Radcliffe, in Currier House. There were always lots of people in my dorm room late at night discussing things, because everyone knew I didn’t worry about getting up in the morning. That’s how I came to be the leader of the anti-social group. We clung to each other as a way of validating our rejection of all those social people.
Radcliffe was a great place to live. There were more women up there, and most of the guys were science-math types. That combination offered me the best odds, if you know what I mean. This is where I learned the sad lesson that improving your odds doesn’t guarantee success.
One of my biggest memories of Harvard came in January 1975, when I made a call from Currier House to a company in Albuquerque that had begun making the world’s first personal computers. I offered to sell them software.
I worried that they would realize I was just a student in a dorm and hang up on me. Instead they said: “We’re not quite ready, come see us in a month,” which was a good thing, because we hadn’t written the software yet. From that moment, I worked day and night on this little extra credit project that marked the end of my college education and the beginning of a remarkable journey with Microsoft.
What I remember above all about Harvard was being in the midst of so much energy and intelligence. It could be exhilarating, intimidating, sometimes even discouraging, but always challenging. It was an amazing privilege – and though I left early, I was transformed by my years at Harvard, the friendships I made, and the ideas I worked on.
But taking a serious look back … I do have one big regret.
I left Harvard with no real awareness of the awful inequities in the world – the appalling disparities of health, and wealth, and opportunity that condemn millions of people to lives of despair.
I learned a lot here at Harvard about new ideas in economics and politics. I got great exposure to the advances being made in the sciences.
But humanity’s greatest advances are not in its discoveries – but in how those discoveries are applied to reduce inequity. Whether through democracy, strong public education, quality health care, or broad economic opportunity – reducing inequity is the highest human achievement.
I left campus knowing little about the millions of young people cheated out of educational opportunities here in this country. And I knew nothing about the millions of people living in unspeakable poverty and disease in developing countries.
It took me decades to find out.
You graduates came to Harvard at a different time. You know more about the world’s inequities than the classes that came before. In your years here, I hope you’ve had a chance to think about how – in this age of accelerating technology – we can finally take on these inequities, and we can solve them.
Imagine, just for the sake of discussion, that you had a few hours a week and a few dollars a month to donate to a cause – and you wanted to spend that time and money where it would have the greatest impact in saving and improving lives. Where would you spend it?
For Melinda and for me, the challenge is the same: how can we do the most good for the greatest number with the resources we have.
During our discussions on this question, Melinda and I read an article about the millions of children who were dying every year in poor countries from diseases that we had long ago made harmless in this country. Measles, malaria, pneumonia, hepatitis B, yellow fever. One disease I had never even heard of, rotavirus, was killing half a million kids each year – none of them in the United States.
We were shocked. We had just assumed that if millions of children were dying and they could be saved, the world would make it a priority to discover and deliver the medicines to save them. But it did not. For under a dollar, there were interventions that could save lives that just weren’t being delivered.
If you believe that every life has equal value, it’s revolting to learn that some lives are seen as worth saving and others are not. We said to ourselves: “This can’t be true. But if it is true, it deserves to be the priority of our giving.”
So we began our work in the same way anyone here would begin it. We asked: “How could the world let these children die?”
The answer is simple, and harsh. The market did not reward saving the lives of these children, and governments did not subsidize it. So the children died because their mothers and their fathers had no power in the market and no voice in the system.
But you and I have both.
We can make market forces work better for the poor if we can develop a more creative capitalism – if we can stretch the reach of market forces so that more people can make a profit, or at least make a living, serving people who are suffering from the worst inequities. We also can press governments around the world to spend taxpayer money in ways that better reflect the values of the people who pay the taxes.
If we can find approaches that meet the needs of the poor in ways that generate profits for business and votes for politicians, we will have found a sustainable way to reduce inequity in the world. This task is open-ended. It can never be finished. But a conscious effort to answer this challenge will change the world.
I am optimistic that we can do this, but I talk to skeptics who claim there is no hope. They say: “Inequity has been with us since the beginning, and will be with us till the end – because people just … don’t … care.” I completely disagree.
I believe we have more caring than we know what to do with.
All of us here in this Yard, at one time or another, have seen human tragedies that broke our hearts, and yet we did nothing – not because we didn’t care, but because we didn’t know what to do. If we had known how to help, we would have acted.
The barrier to change is not too little caring; it is too much complexity.
To turn caring into action, we need to see a problem, see a solution, and see the impact. But complexity blocks all three steps.
Even with the advent of the Internet and 24-hour news, it is still a complex enterprise to get people to truly see the problems. When an airplane crashes, officials immediately call a press conference. They promise to investigate, determine the cause, and prevent similar crashes in the future.
But if the officials were brutally honest, they would say: “Of all the people in the world who died today from preventable causes, one half of one percent of them were on this plane. We’re determined to do everything possible to solve the problem that took the lives of the one half of one percent.”
The bigger problem is not the plane crash, but the millions of preventable deaths.
We don’t read much about these deaths. The media covers what’s new – and millions of people dying is nothing new. So it stays in the background, where it’s easier to ignore. But even when we do see it or read about it, it’s difficult to keep our eyes on the problem. It’s hard to look at suffering if the situation is so complex that we don’t know how to help. And so we look away.
If we can really see a problem, which is the first step, we come to the second step: cutting through the complexity to find a solution.
Finding solutions is essential if we want to make the most of our caring. If we have clear and proven answers anytime an organization or individual asks “How can I help?,” then we can get action – and we can make sure that none of the caring in the world is wasted. But complexity makes it hard to mark a path of action for everyone who cares — and that makes it hard for their caring to matter.
Cutting through complexity to find a solution runs through four predictable stages: determine a goal, find the highest-leverage approach, discover the ideal technology for that approach, and in the meantime, make the smartest application of the technology that you already have — whether it’s something sophisticated, like a drug, or something simpler, like a bednet.
The AIDS epidemic offers an example. The broad goal, of course, is to end the disease. The highest-leverage approach is prevention. The ideal technology would be a vaccine that gives lifetime immunity with a single dose. So governments, drug companies, and foundations fund vaccine research. But their work is likely to take more than a decade, so in the meantime, we have to work with what we have in hand – and the best prevention approach we have now is getting people to avoid risky behavior.
Pursuing that goal starts the four-step cycle again. This is the pattern. The crucial thing is to never stop thinking and working – and never do what we did with malaria and tuberculosis in the 20th century – which is to surrender to complexity and quit.
The final step – after seeing the problem and finding an approach – is to measure the impact of your work and share your successes and failures so that others learn from your efforts.
You have to have the statistics, of course. You have to be able to show that a program is vaccinating millions more children. You have to be able to show a decline in the number of children dying from these diseases. This is essential not just to improve the program, but also to help draw more investment from business and government.
But if you want to inspire people to participate, you have to show more than numbers; you have to convey the human impact of the work – so people can feel what saving a life means to the families affected.
I remember going to Davos some years back and sitting on a global health panel that was discussing ways to save millions of lives. Millions! Think of the thrill of saving just one person’s life – then multiply that by millions. … Yet this was the most boring panel I’ve ever been on – ever. So boring even I couldn’t bear it.
What made that experience especially striking was that I had just come from an event where we were introducing version 13 of some piece of software, and we had people jumping and shouting with excitement. I love getting people excited about software – but why can’t we generate even more excitement for saving lives?
You can’t get people excited unless you can help them see and feel the impact. And how you do that – is a complex question.
Still, I’m optimistic. Yes, inequity has been with us forever, but the new tools we have to cut through complexity have not been with us forever. They are new – they can help us make the most of our caring – and that’s why the future can be different from the past.
The defining and ongoing innovations of this age – biotechnology, the computer, the Internet – give us a chance we’ve never had before to end extreme poverty and end death from preventable disease.
Sixty years ago, George Marshall came to this commencement and announced a plan to assist the nations of post-war Europe. He said: “I think one difficulty is that the problem is one of such enormous complexity that the very mass of facts presented to the public by press and radio make it exceedingly difficult for the man in the street to reach a clear appraisement of the situation. It is virtually impossible at this distance to grasp at all the real significance of the situation.”
Thirty years after Marshall made his address, as my class graduated without me, technology was emerging that would make the world smaller, more open, more visible, less distant.
The emergence of low-cost personal computers gave rise to a powerful network that has transformed opportunities for learning and communicating.
The magical thing about this network is not just that it collapses distance and makes everyone your neighbor. It also dramatically increases the number of brilliant minds we can have working together on the same problem – and that scales up the rate of innovation to a staggering degree.
At the same time, for every person in the world who has access to this technology, five people don’t. That means many creative minds are left out of this discussion — smart people with practical intelligence and relevant experience who don’t have the technology to hone their talents or contribute their ideas to the world.
We need as many people as possible to have access to this technology, because these advances are triggering a revolution in what human beings can do for one another. They are making it possible not just for national governments, but for universities, corporations, smaller organizations, and even individuals to see problems, see approaches, and measure the impact of their efforts to address the hunger, poverty, and desperation George Marshall spoke of 60 years ago.
Members of the Harvard Family: Here in the Yard is one of the great collections of intellectual talent in the world.
What for?
There is no question that the faculty, the alumni, the students, and the benefactors of Harvard have used their power to improve the lives of people here and around the world. But can we do more? Can Harvard dedicate its intellect to improving the lives of people who will never even hear its name?
Let me make a request of the deans and the professors – the intellectual leaders here at Harvard: As you hire new faculty, award tenure, review curriculum, and determine degree requirements, please ask yourselves:
Should our best minds be dedicated to solving our biggest problems?
Should Harvard encourage its faculty to take on the world’s worst inequities? Should Harvard students learn about the depth of global poverty … the prevalence of world hunger … the scarcity of clean water …the girls kept out of school … the children who die from diseases we can cure?
Should the world’s most privileged people learn about the lives of the world’s least privileged?
These are not rhetorical questions – you will answer with your policies.
My mother, who was filled with pride the day I was admitted here – never stopped pressing me to do more for others. A few days before my wedding, she hosted a bridal event, at which she read aloud a letter about marriage that she had written to Melinda. My mother was very ill with cancer at the time, but she saw one more opportunity to deliver her message, and at the close of the letter she said: “From those to whom much is given, much is expected.”
When you consider what those of us here in this Yard have been given – in talent, privilege, and opportunity – there is almost no limit to what the world has a right to expect from us.
In line with the promise of this age, I want to exhort each of the graduates here to take on an issue – a complex problem, a deep inequity, and become a specialist on it. If you make it the focus of your career, that would be phenomenal. But you don’t have to do that to make an impact. For a few hours every week, you can use the growing power of the Internet to get informed, find others with the same interests, see the barriers, and find ways to cut through them.
Don’t let complexity stop you. Be activists. Take on the big inequities. It will be one of the great experiences of your lives.
You graduates are coming of age in an amazing time. As you leave Harvard, you have technology that members of my class never had. You have awareness of global inequity, which we did not have. And with that awareness, you likely also have an informed conscience that will torment you if you abandon these people whose lives you could change with very little effort. You have more than we had; you must start sooner, and carry on longer.
Knowing what you know, how could you not?
And I hope you will come back here to Harvard 30 years from now and reflect on what you have done with your talent and your energy. I hope you will judge yourselves not on your professional accomplishments alone, but also on how well you have addressed the world’s deepest inequities … on how well you treated people a world away who have nothing in common with you but their humanity.
THẾ SỰ BÀN CỜ VÂY Hoàng Kim Nga phản vệ sốc thuận thiên vây hãm triệt nguồn giành thế thắng Trung Quốc liên Nga bạn Ấn kết Á Âu Phi lược trận ngư ông đắc lợi nhiều
“Đi đâu cũng không bằng Tổ quốc mình. Nói gì, làm gì cũng không bằng dạy, học và làm cho đồng bào đất nước mình. Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương. Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc. Dạy và học thực tiễn trên chính Tổ quốc mình”. Đêm trắng và bình minh Hoàng Kim lời tâm đắc
“Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Đường lối cách mạng của nước Việt Nam ngày nay thích hợp bền vững trong tình hình mới, thời đại mới, đã được Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đúc kết tinh hoa tại bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” xác định rõ đường lối, quan điểm, tầm nhìn chiến lược, cương lĩnh và kế hoạch hành động:“Đoàn kết ‘xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh’ như di nguyện của Bác Hồ kính yêu”; “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế (in đậm để nhấn mạnh HK); Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện“.
#vietnamhoc #cnm365 #cltvn VIỆT NAM THÔNG TIN KHÁI QUÁT Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim
Việt Nam thông tin khái quát tiếp nối bài Thông tin nhanh về Việt Nam thuộc nội dung VIỆT NAM HỌC Tổng quan văn hoá và kinh tế xã hội Việt Nam là tập tài liệu giảng dạy nghiên cứu Việt Nam Học: người Việt, tiếng Việt, nông nghiệp Việt Nam, văn hóa, kinh tế, xã hội, du lịch sinh thái. Mục đích tập tài liệu này nhằm đúc kết kiến thức nền Việt Nam Học, giúp việc tìm hiểu đất nước con người Việt Nam “vốn xưng nền văn hiến đã lâu; núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác” (Nguyễn Trãi, 1428) với phẩm chất văn hóa thân thiện, tốt đẹp.Việt Nam thông tin khái quát được đúc kết cập nhật theo Wikipedia tiếng Việt và các nguồn trích dẫn chính thực có liên quan tới ngày 30 tháng 6 năm.2021. Thông tin nhanh về Việt Nam và một số bài đọc thêm có liên quan lưu ở cuối trang này xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-thong-tin-khai-quat/
Võ Nguyên Giáp vị tướng của lòng dân. Người dĩ công vi thượng, Biết mình và biết người; Dám đánh và quyết thắng.. Đại tướng Võ Nguyên Giáp có những câu nói bất hủ:“Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ sống mãi”; “Ý định của tôi là ra lệnh hoãn cuộc tiến công ngay chiều hôm nay, thu quân về vị trí tập kết, chuẩn bị lại theo phương châm đánh chắc, tiến chắc”; “Ngày hôm đó, tôi đã thực hiện được một quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của mình!”; “Thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn nữa; tranh thủ từng phút, từng giờ; xốc tới mặt trận; giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng!”; “Chúng tôi đánh theo cách đánh khác, cách đánh của Việt Nam, và chúng tôi sẽ thắng”; “Vị tướng dù có công lao lớn đến đâu cũng chỉ là giọt nước trong biển cả. Chỉ có nhân dân Việt Nam là người đánh thắng Mỹ. Các ngài gọi tôi là vị tướng thần thoại, nhưng tôi tự nghĩ tôi bình đẳng với những người lính của mình”; “Tôi sống ngày nào, cũng là vì đất nước ngày đó” Cuộc đời Người là 103 mùa xuân huyền thoại, còn mãi với non sông; xem tiếphttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/vi-tuong-cua-long-dan và video https://www.facebook.com/watch/?v=1398179880633970 và Vị Đại Tướng Của Quân Đội Du Kích Nghèo Khiến Kẻ Thù Cũng Phải Gọi Ông Là Thiên Tài Của Thế Kỷ https://www.facebook.com/MatThan.Official/videos/1992055714310314
Thông tin nhanh về Việt Namquan hệ quốc tếvà một số bài đọc thêm có liên quan. Tin nổi bật:Tiêu điểm thế giới:Vì sao Nga thà đổ máu chứ không chấp nhận mất Ukraine ? | FBNChttps://youtu.be/dWLr5CUfg6A; Toàn cảnh cuộc tấn công như vũ bão của Nga ở Ukraine | FBNChttps://youtu.be/UGwCTwqY9W4; Bản Tin 24HHôm nay 15 3 2022 lúc 06:02Diễn biến mới nhất chiến sự Nga Ukraine. Một Đại Tướng (Ấn Độ) hé lộ cái kết Ukraine và vài trò của Mỹhttps://www.facebook.com/102159095707179/videos/970705496916347/; Chiến sự Ukraine dưới góc nhìn của Trung Quốc | Tiêu điểm thế giới | FBNC https://youtu.be/ean1P5yzhws . Cuộc chiến ở Ukraina nổ ra vào ngày 24/2, sau một thời gian dài đối đầu căng thẳng. Bản chất của vấn đề có nguồn gốc từ thời chiến tranh lạnh chưa được giải quyết triệt để. Thời gian đầu, Trung Quốc kín tiếng. Sau đó phát ngôn viên bộ ngoại giao của họ đổ lỗi cho Mỹ và NATO bành trướng sang phía Đông, ép Nga phải động binh. Tuy nhiên trên thực tế, họ lại không mạnh mẽ trong việc trợ giúp Nga thoát khỏi, hoặc giảm nhẹ các lệnh trừng phạt của phương Tây. Khi cuộc chiến ngày càng khốc liệt, Trung Quốc buộc phải lên tiếng thúc giục hai bên đàm phán, sử dụng con đường ngoại giao để hạ nhiệt căng thẳng. Vì sao Trung Quốc phản ứng có phần lúng túng trong vấn đề Ukraina? Góc nhìn của Trung Quốc về cuộc chiến này như thế nào?
Toàn cảnh Chiến Dịch Nga Tấn Công Ukraine Trưa 10/3: https://youtu.be/W7tX_tkZKFw Quân đội Nga chia nhóm nhỏ tấn công vào Kiev Cập Nhật Chiến Dịch Nga Tấn Công Ukraine Trưa 10/3: Mỹ cảnh báo Quân đội Nga đang bao vây Kharkiv https://youtu.be/MGrhir7M6zs; Toàn cảnh Chiến Dịch Nga Tấn Công Ukraine Trưa 10/3: Quân đội Nga chia nhóm nhỏ tấn công vào Kiev 10/3 https://youtu.be/W7tX_tkZKFw; Nga cảnh báo các nước viện trợ quân sự cho Ukraine sẽ lãnh hậu quả | VTC Now 10/3 https://youtu.be/NS1uKsR–7g; Mỹ ồ ạt triển khai máy bay tiếp dầu tới châu Âu: Động thái cực kỳ nguy hiểm? | VTC Now 10/3 https://youtu.be/sGMokQa_JFY; Cận cảnh “sát thủ trên bầu trời” ở chiến trường Ukraine | VTC Now 10/3 https://youtu.be/Z3AN5WQhlOg; Nga thông báo nhà máy điện hạt nhân Chernobyl vừa bị tấn công, ai là người ra tay? | Tv24h https://youtu.be/-i2zpLD8q1c; Toàn cảnh Nga Tấn Công Ukraine ngày thứ 15: Bệnh viện phụ sản Mariupol của Ukraine trúng bom | Tv24h https://youtu.be/b5kyMq5YMcg Tổng thống Nga nêu điều kiện ngừng xung đột tại Ukraine https://youtu.be/bCcmwGaqjcI, Cập nhật diễn biến chiến sự Nga – Ukraine mới nhất | FBNC 10/3 https://youtu.be/EG3kGnNuo9g Tin tức 24h ngày 10/3, Bộ quốc phòng Nga ‘sửa’ lời tuyên bố của TT Putin về cuộc chiến Ukraine, FBNC 10/3; Cập nhật tình hình Ukraine | Một đấu trường chính thức bùng nổ giữa Mỹ-Nga | FBNC 9/3 https://youtu.be/4IpflsBfzFg; Thiếu tướng Nguyễn Hồng Quân: Sẽ có những trận đánh lớn giữa Nga và Ukraine | VTC Now 9/3 https://youtu.be/g_SnAOaw8FQ; Tin mới nhất chiến sự Nga – Ukraine: Nga đã phá hủy 123 hệ thống phòng không của Ukraine | VTC Now https://youtu.be/CaYLIN8_0gc; Ông Tập Cận Bình kêu gọi “kiềm chế tối đa” về khủng hoảng Ukraine | VTC Now https://youtu.be/4MWDP20jTeA ;Tổng thống Ukraine không còn “mặn mà” gia nhập NATO nữa | VTC Now https://youtu.be/RT3uP5YxFgI; Bản Tin Sáng 9/3 | LHQ: Không dùng từ ‘chiến tranh’ hoặc ‘xâm lăng’ trong vấn đề Ukraine | FBNC https://youtu.be/-fmDkh2yVek Sự thật chiến sự nga ukraine 8/3. Thủ lĩnh chechnya tấn công Ukaraine hé lộ sự thật chiến trường https://youtu.be/uoXjDq64c5UTinh Hoa 24HCHUYỆN BÍ ẨN (L) Tiên tri của thần đồng Ấn Độ đã dần ứng nghiệm về khủng hoảng từ chiến tranh Nga – Ukraine ra sao, “biến” lớn vào tháng 3,4/2022 là gì? https://www.facebook.com/TinhHoa24Hours/videos/540054014000288/
https://youtu.be/u-fbvJPHdDQ; Nga – Ukraine tin mới nhất | TT Ukraine thoát chết tướng hàng đầu Nga tử trận | FBNC https://youtu.be/oZn8l8-8noM; Cập Nhật Ukraine xác nhận nga chiếm giữ nhà máy điện hạt nhân hỏa hoạn được dập tắt, Nga Ukraine mới https://youtu.be/LLP47eZmWP4; Tổng Thống Putin nói gì khi được đề nghị nhập Nato để hóa giải xung đột Nga Ukraine https://youtu.be/q3CU-vNEFBQ;Toàn cảnh vòng 2 đám phán Nga -Ukraine kết quả nhất trí lập hành lang sơ tán dân thường https://youtu.be/kPo6t_Ax-V8 Hé lộ “tuyệt chiêu bí mật” Tổng thống Zelensky dùng chống Nga để thắng lợi Diễn biến Nga Ukraine 4/3 https://youtu.be/Bn-pLL6e6y0 Cập nhật tin đồn Tướng Chechnya không qua khỏi ở Ukraine là tin giả | Tv24h https://youtu.be/2RDd8rj7pcQ NÓNG NATO chính thức tuyên bố không cung cấp bất cứ binh lính,máy bay chiến đấu nào cho Ukraine! https://youtu.be/3XCFB3ONS2k Nóng 500 máy bay Phương tây bị mắc kẹt ở Nga vì cuộc chiến căng thẳng giữa Nga và Ukraine | Tv24h https://youtu.be/WDW-M0MV_n8; Đức cân nhắc chuyển thêm 2.700 tên lửa cho Ukraine | VTC Now https://youtu.be/2lFJ_W1tVA0 Người Việt ở Ukraine bị chặn khi sơ tán? | VTC Now https://youtu.be/-fuLKEGZoyU; Tổng thống Putin tố lính đánh thuê ở Ukraine dùng dân thường làm lá chắn sống | VTC Now https://youtu.be/Gdqv0_y3oqs Nga bao vây trung tâm năng lượng và bờ biển của Ukraine | VTC Now https://youtu.be/4HIv8fbsifg Thời sự quốc tế 4/3 | Tổng thống Ukraine tiết lộ cách duy nhất để chấm dứt chiến tranh | FBNC https://youtu.be/ahBJ57YOJm0; Quan chức Mỹ cho rằng Trung Quốc sẽ trả giá nếu giúp Nga tránh lệnh trừng phạt | VTC Now https://youtu.be/BDA2varCIoc Từng có cảnh báo Nga và Eu cùng giành giật Ukraine là 1 sai lầm tai họa | VTC Now https://youtu.be/ySspmHw8V4Q; Những kịch bản có thể xảy ra với khủng hoảng ở Ukraine | VTC Now https://youtu.be/bftQ_MnMCoU; Tàu hàng nước ngoài trúng tên lửa, phát nổ tại Ukraine | VTC Now https://youtu.be/AHOwK_DFNuE Cập nhật trực tiếp chiến sự Nga – Ukraine mới nhất | FBNC https://youtu.be/LK7y7BXdhIA Nga tấn công, nhà máy điện hạt nhân lớn nhất châu Âu tại Ukraine bốc cháy | VTC Now https://youtu.be/ySspmHw8V4Q Tin quốc tế 4/3 | Cảnh báo thảm họa! Nga quyết chiếm nhà máy điện hạt nhân lớn nhất Ukraine | FBNC https://youtu.be/PCnC8jgyOvY; Vì sao Nga tiến quân không nhanh như mong đợi ? | Bình luận quốc tế https://youtu.be/93uFptCIRNc Bản Tin Sáng 4/3 | Tổng thống Nga: cuộc chiến đang theo kế hoạch | FBNC https://youtu.be/ejkD_25o6tY Cập nhật trực tiếp chiến sự Nga – Ukraine mới nhất | FBNC https://youtu.be/sqy-J09tnaE; NÓNG Bộ Quốc phòng Ukraine tuyên bố đã thu giữ “tài liệu tuyệt mật”của quân Nga,hé lộ ngày kết thúc? https://youtu.be/3wJ9tfWI_Fg;Thị trưởng Kherson xác nhận quân Nga đã kiểm soát thành phố, nắm điểm chiến lược quan trọng Biển Đen https://youtu.be/aA9rRzgUIb0; Nguy cơ lạm phát và thiếu lương thực thế giới sau xung đột Nga Ukraine và các lệnh trừng phạt? Tv24h https://youtu.be/Ae_Uykftqlk Tin mới nhất 3/3 | Bí mật sức mạnh Ukraine khiến quân Nga kinh sợ | FBNC https://youtu.be/kB5k0zk7u74 Bản tin trưa 3/3 | Vì sao Mỹ hoãn kế hoạch hạt nhân giữa xung đột Nga – Ukraine ? | FBNC https://youtu.be/3SLrpxp6V30 Mỹ viện trợ hàng trăm tên lửa phòng không cho Ukraine,Tây Ban Nha thêm vũ khí, cục diện sẽ thay đổi? https://youtu.be/WS_I2xhNG30 NÓNG hai máy bay Châu Âu vừa rơi ở Biển Đen, có phải bị bắn hạ? https://youtu.be/7pdnCVux0kQ Tv24h Toàn cảnh Chiến Dịch Nga Tấn Công Ukraine Sáng 3/3: Xảy ra loạt vụ nổ mạnh, Kiev “cảnh báo đỏ”! https://youtu.be/NQ6h-ZwIW2Q Cập Nhật Chiến Dịch Nga Tấn Công Ukraine Sáng 3/3 Thành phố Kherson Nam Ukraine chính thức thất thủ https://youtu.be/hVVaMQTtOT0 Tin tức 24h mới. Tin sáng 3/3 Cập Nhật Đàm Phán Nga Ukraine công bố nội dung đàm phán vòng 2 https://youtu.be/xInGhjYLnMI; Thành phố chiến lược Kherson của Ukraine chính thức thất thủ | VTC Now https://youtu.be/MFLbnO_TOIM Chiến dịch của Nga ở Ukraine phơi bày “gót chân A-sin” của châu Âu | VTC Now https://youtu.be/YZ019i54sXo; Liên Hợp Quốc thông qua nghị quyết kêu gọi Nga rút quân khỏi Ukraine | VTC Now https://youtu.be/O-2HPJX_OsY; Nga công bố nội dung vòng đàm phán thứ hai với Ukraine | VTC Now https://youtu.be/7jlcIAz2Yb4; Cập nhật tình hình Ukraine | Nga nêu vấn đề tiên quyết trong buổi đàm phán ngày 3/3 | FBNC https://youtu.be/rOXSG29FbLQ Năng lực tác chiến điện tử của Nga mạnh cỡ nào? | VTC Now https://youtu.be/DD17VH7W3kI; Tỷ phú Nga Abramovich xác nhận bán Chelsea | VTC Now https://youtu.be/pNyfiSkFrMs; Căng thẳng Ukaine – Nga: EU nhất trí cấm vận Belarus | VTC Now https://youtu.be/O3TM2Rf26LE; Cập nhật tình hình Ukraine | Nga bất ngờ cảnh báo về chiến tranh thế giới thứ 3 | FBNC https://youtu.be/lNwRr3E-zyE Nga – Ukraine tin mới nhất | Belarus vô tình để lộ Nga muốn tiến đánh 1 nước giáp Ukraine? | FBNC https://youtu.be/HR0r0mjotH0; Vòng đàm phán thứ hai Nga-Ukraine diễn ra vào ngày 2/3, hai bên đạt được thỏa thuận gì? | TV24h https://youtu.be/SYYHoAWYOdk Cập nhật trực tiếp chiến sự Nga – Ukraine mới nhất | FBNC https://youtu.be/PPfO7V1LiaU Tin nóng Nga Ukraine: Quân Nga chính thức làm chủ TP Kherson ở Ukraine sau màn mưa hỏa lực dữ dội https://youtu.be/RLdJ79zbSsk; Ukraine xin xoá nợ 57 tỷ USD do xung đột với Nga | VTC Now https://youtu.be/9HKn8DKQQIo; Lời tiên tri từ 8 năm trước cựu ngoại trưởng Mỹ ứng nghiệm: Muốn tồn tại, Ukraine không nên vào NATO https://youtu.be/0vildcrV2ho; Toàn văn quan điểm của Việt Nam về Ukraine tại Liên Hiệp Quốc: Kêu gọi đối thoại, giảm căng thẳng https://youtu.be/0QcJnzbJHGo; Tổng thống Putin ra lệnh tập trận tàu ngầm hạt nhân, bệ phóng trên bộ di chuyển vào vị trí bí mật https://youtu.be/Y7ZJWJJCV-8; Máy bay chiến đấu Không quân Nga “mất tích” bất thường ở Ukraine. Chuyện gì đang diễn ra? | Tv24h https://youtu.be/3RGdz08O1A8 Tin thế giới mới nhất 2/3: Ukraine dọa tung đòn tấn công phủ đầu, Belarus đưa quân áp sát biên giới https://youtu.be/r9kPVNPTCVY; NÓNG 15.000 binh sĩ Nga có thể áp sát Kiev, người dân Ukraine khẩn trương lên tàu rời thủ đô | Tv24h https://youtu.be/6cqBw6bIg44; Trung Quốc phát tín hiệu sẵn sàng làm trung gian giúp đỡ, giải quyết xung đột giữa Ukraine và Nga Phía Trung Quốc nói rằng, Ukraine yêu cầu Bắc Kinh giúp đỡ để tìm giải pháp ngoại giao. Vào ngày 1/3, Ủy viên Quốc vụ kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị đã có cuộc điện đàm với người đồng cấp Ukraine Dmytro Kuleba. Theo The Guardian, thông tin từ cuộc điện đàm cho thấy Trung Quốc đã phát đi tín hiệu sẵn sàng đóng vai trò hòa giải trong cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine.. Cụ thể, thông báo từ phía Trung Quốc cho biết, Ngoại trưởng Ukraine đã yêu cầu Trung Quốc làm trung gian trong cuộc xung đột với Nga. “Ukraine sẵn sàng tăng cường liên lạc với Trung Quốc và mong muốn Trung Quốc đóng một vai trò trong việc hiện thực hóa một lệnh ngừng bắn”, Đài truyền hình Trung ương Trung Quốc CCTV dẫn lời Ngoại trưởng Kuleba. Đáng chú ý, trong cuộc hội đàm, Ngoại trưởng Vương Nghị nhấn mạnh, Trung Quốc tôn trọng “sự toàn vẹn lãnh thổ của tất cả các quốc gia” nhưng không nêu chi tiết quan điểm của Bắc Kinh đối với lực lượng ly khai ở khu vực Donbas, miền đông Ukraine. Theo Financial Times, tuyên bố này đánh dấu sự thay đổi của Bắc Kinh về chiến dịch quân sự của Nga ở miền Đông Ukraine. Bởi khi được yêu cầu bình luận về chiến dịch quân sự này vào ngày 24/2, một phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Trung Quốc chỉ nói rằng, hành động của Nga xảy ra là “do xuất phát từ nhiều yếu tố”. https://youtu.be/tMbMUt7BxYI Tin quốc tế 2/3 | Mỹ tuyên bố phương tây đã sẵn sàng cho cuộc tấn công của Nga | FBNC https://youtu.be/LKETJk9Wn7E; Thời sự quốc tế 2/3 | “Mưa tên lửa” Nga ồ ạt rải xuống Ukraine, Mỹ cân nhắc tham chiến? | FBNC https://youtu.be/Pit3Hyx4RpI; Tổng thống Biden đọc thông điệp liên bang đầu tiên, nói “ông Putin đã sai lầm” | VTC Now Tổng thống Joe Biden nhấn mạnh, quân đội Mỹ được triển khai đến châu Âu không phải để chiến đấu ở Ukraine, mà để bảo vệ các đồng minh của Mỹ trong Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương https://youtu.be/nhegL1BU0bg; Ukraine thúc giục ông Biden quyết liệt trong thông điệp liên bang | VTC Now https://youtu.be/7NsJzBW9fko; Nga tiếp tục chiến dịch quân sự ở Ukraine, NATO hối thúc Nga chấm dứt chiến dịch ở Ukraine | VTV24 https://youtu.be/9uYy9kYeWXY; Đoàn xe quân sự Nga “chôn chân” giữa đường vì… hết nhiên liệu? | VTC Now https://youtu.be/rkDC_vKqaBc Ukraine tuyên bố loại khỏi vòng chiến 800 cơ giới Nga tại Mykolaiv, đánh tan đơn vị Chechnya ở Kiev https://youtu.be/WOZ9fN25Z1c; Tinh Hoa 24H (L) Mỹ tính tung “chiêu cuối” lên Nga, bật mí lý do kiên quyết không “động binh” với quân Putin trừ trường hợp duy nhất này https://www.facebook.com/watch/?v=374659047993586; 2 thg 3, 2022 Tháp truyền hình thủ đô Kiev trúng không kích, Nga bắt đầu tiến vào thành phố nam Ukraine. Tin mới https://youtu.be/SrW5UIMizgI Ngoại trưởng Nga lo ngại Ukraine “tìm mọi cách sở hữu vũ khí hạt nhân” cần phải hành động khẩn cấp https://youtu.be/a86MMsHhu9U; Diễn biến chiến sự Nga – Ukraine: Nga đẩy mạnh tấn công, Kiev rung chuyển vì nhiều tiếng nổ| VTC Now https://youtu.be/uUUozpIOTY4; Nga tuyên bố vừa hạ 1 Tướng Ukraine. Tên ông lập tức có trong danh sách anh hùng của Kiev | Tv24h https://youtu.be/LESKEqLxzD8; Tình báo Mỹ Hé lộ tình hình chiến sự Nga Ukraine và Tổng Thống Putin, liệu có phải sự thật? https://youtu.be/ZX-QUeVFibM; Belarus đưa thêm quân tới biên giới Ukraine | VTC Now https://youtu.be/KMR-okdmsRU; Ba Lan, Bulgaria từ chối yêu cầu viện trợ chiến đấu cơ của Ukraine | VTC Now https://youtu.be/jJVxD-npu4g; Tin tức Nga – Ukraine | Thực hư thông tin Ukraine sẽ nhận 70 chiến đấu cơ từ các nước châu Âu https://youtu.be/8S1w2ADr36c; Ukraine tuyên bố phá âm mưu ám sát Tổng thống Zelensky | VTC Now https://youtu.be/wQvRaOSeXIk; Toàn cảnh Chiến Dịch Quân Sự Nga Ukraine Ngày thứ 6:Làn sóng tấn công thứ 2 Vây tất cả thành phố lớn https://youtu.be/HI1EUl5YmS8; Tin tức 24h Mới.Tin Sáng 2/3. Tin tức Nga Ukraine Đoàn xe Quân Sự dài 65 Km Tiến vào Phong Tỏa Kiev https://youtu.be/G_ER59AQZsw; Bản Tin Sáng 2/3 | Anh: Nga tăng cường không kích, dọn đường cho bộ binh tiến vào Kiev | FBNC https://youtu.be/dtlLXnffGTA; Cập Nhật Chiến Dịch Nga Tấn Công Ukraine Sáng 2/3 Trở lại đàm phán vòng 2, có tháo ngòi xung đột ? https://youtu.be/zGORjh2LFCw; Cập nhật tình hình Ukraine | Nga rơi vào vòng xoáy khủng hoảng trầm trọng | FBNC 2 3 https://youtu.be/LvFO6e-l6HY; Bị phương Tây cô lập, Nga tiến tới ký thỏa thuận khí đốt lịch sử với Trung Quốc | VTC Now https://youtu.be/ctpSmEYHg6E; Nga có thể gia nhập hệ thống mới mà Mỹ và phương Tây cực lo ngại sau khi bị loại khỏi SWIFT | TV24h https://youtu.be/3sF3bPVdchA Tin tức 24h mới Tin tối 1/3. EU sẽ họp thượng đỉnh bàn việc kết nạp Ukraine làm thành viên | TV24h https://youtu.be/MsIjWLWP_H8; Tin Nga Ukraine mới: vì sao EU kết nạp Ukraine? Vì sao đa số người Nga vẫn ủng hộ Putin? FBNC 1/3 https://youtu.be/SxnnMznb_w0; Tổng Thống Biden nói gì khi Nga Kích Hoạt báo động Hạt nhân? | Tv24h https://youtu.be/izI8bBxi1LY; NÓNG Thổ Nhĩ Kỳ cấm tất cả các tàu chiến qua biển Đen giữa căng thẳng Ukraine, kể cả “bạn thân” Nga https://youtu.be/aHYQlCiOX78; Cập Nhật Chiến Dịch Nga Tấn Công Ukraine Chiều 1/3 Nga hành quân giữa Kherson-Mariupol rất nguy cấp? https://youtu.be/60AgnbBXYX4; Toàn cảnh tên lửa Nga tấn công Ukraine sau đàm phán, pháo kích căn cứ quân sự, bao vây Kherson https://youtu.be/Rxl7iNxZlWM; Phủ nhận xung đột Nga Ukraine là một “cuộc chiến”,Bộ trưởng quốc phòng 1 nước NATO bị sa thải. Tv24h https://youtu.be/5xbzVqMu_jE Toàn cảnh Chiến Dịch Nga Tấn Công Ukraine Trưa 1/3:Kiev cáo buộc Belarus đang trên đường tới Ukraine https://youtu.be/AuuNyek937U; Tin thế giới 1/3 | Mỹ tiếp tục hành động ‘mạnh tay’, với Nga với thế giới | FBNC https://youtu.be/4L-I0eQ-pkQ; Cập Nhật Chiến Dịch Nga Tấn Công Ukraine Trưa 1/3: Một đơn vị Ukraine vừa bị pháo binh Nga càn quét https://youtu.be/XUVwjNlj83M Tin Tức Nga – Ukraine Mới Nhất: Mỹ Trục Xuất 12 Nhà Ngoại Giao Nga Tại LHQ | ANTV https://youtu.be/EzHJjBYqXxw; NÓNG: Nga dọa “buông tay” để trạm ISS 500 tấn rơi xuống Trái đất, Mỹ và châu Âu phản ứng thế nào? https://youtu.be/kocQ4_QGf0A; Tin Tức Nga – Ukraine Mới Nhất: Nga – Ukraine Nhất Trí Tiến Hành Đàm Phán Vòng 2 | ANTV https://youtu.be/qS_PVA2c2MA; Tin Tức Nga – Ukraine Mới Nhất: Nga Và Mỹ Vẫn Hợp Tác Về Vấn Đề Hạt Nhân Iran | ANTV https://youtu.be/HHlAYt2BO7I; Ukraine và Nga Đàm Phán Ở Belarus – Đan Mạch, Thụy Điển Cung Cấp Vũ Khí Cho Ukraine | ANTV https://youtu.be/tdnYB1UbTF0; Thời sự quốc tế 1/3 | Nga nêu lí do phát động chiến dịch quân sự ở Ukraine | FBNC https://youtu.be/Gz4sFs37Kow; Phá lệ trung lập, Thụy Sĩ đóng băng tài sản Nga | VTC Now https://youtu.be/qEPZ4YjWXqU; Thị trường chao đảo sau xung đột Nga – Ukraine | VTC Now https://youtu.be/txtGo9v7vPs: Tin tức Nga-Ukraine mới nhất: Tổng thống Putin ký sắc lệnh đối phó đòn trừng phạt của phương Tây https://youtu.be/o6W138xIDhw; Tin Tức Nga – Ukraine Mới Nhất: Trung Quốc Làm Rõ Quan Điểm Với Nga Về Khủng Hoảng Ukraine | ANTV https://youtu.be/Ssun0H_FhQY; Tin tức mới nhất Ukraine – Nga: Đoàn xe quân sự dài 27 km của Nga áp sát thủ đô Kiev | VTC Now https://youtu.be/97375Np_xwU; An Ninh Ngày Mới Ngày 1/3: Nga Tuyên Bố Sẽ Vượt Qua Biện Pháp Trừng Phạt Của Phương Tây | ANTV https://youtu.be/A_AWPpjnJDk; Bình luận nổi bật. Nhân vật đang tác động đến hành động của TT Putin với Ukraine | Bình luận quốc tế https://youtu.be/lHB-U5NiYFI; Cựu Tổng thống Medvedev nói Nga không thực sự cần quan hệ ngoại giao với phương Tây | VTC Now https://youtu.be/lY5qc-paW_c; “Nếu nga giành được Ukraine, Nga sẽ là cường quốc số 1” | Bình luận quốc tế https://youtu.be/uSsIEJPWcDk; Cả 2 nhà tiên tri cùng chung 1 dự đoán. Đặt cược của TT Putin với trật tự Châu Âu. Điểm Nóng Hôm Nayhttps://www.facebook.com/watch/?v=964516967524176; Tin quốc tế 1/3 | Đông Ukraine tiếp tục đỏ lửa với loạt pháo kích nhắm vào dân thường | FBNC https://youtu.be/2bJFKf7wHO4; Bản Tin Sáng 1/3 | Đàm phán Nga – Ukraina kết thúc vòng 1, kết quả ra sao? | FBNC https://youtu.be/vp5Luf7Obm8; Cập nhật tình hình Ukraine | Nga-Ukraine đạt được gì sau 6h đàm phán? | FBNC 1 3 https://youtu.be/bokeylCI-ro; Tin tức 24h ngày 1/3 | Brazil tuyên bố không trừng phạt Nga | FBNC https://youtu.be/RN3IwgMbnFU; Nga – Ukraine tin mới nhất | Nga tấn công rocket dữ dội ngay giờ đàm phán với Ukraine | FBNC 1 3 https://youtu.be/Z4wLkbwPZRY; Tin Tức Nga – Ukraine Mới Nhất: Nga Tuyên Bố Đã Kiểm Soát Hoàn Toàn Không Phận Của Ukraine | ANTV 28 2 (công chiếu lúc 1g sáng 1 3) https://youtu.be/nWlhE7YDikA Tin Tức Nga – Ukraine Mới Nhất: Ukraine Muốn Đẩy Nhanh Giải Pháp Gia Nhập EU | ANTV https://youtu.be/t2n_UsP6Z28; Tin tức Nga – Ukraine mới nhất | Belarus có thể cho phép Nga đặt vũ khí hạt nhân https://youtu.be/MNJwfP3aLsw; Nga bao vây các thành phố lớn, Ukraine đối mặt “ngày khó khăn” | VTC Tin mới https://youtu.be/DuBahu96Up8; Tin thế giới nổi bật trong tuần | Toàn cảnh cục diện đấu đá Nga và Ukraine – NATO | FBNC https://youtu.be/nTNw2qzDg2M; NÓNG: Hé lộ thời điểm Tổng thống Nga Putin quyết định giành “thắng lợi hoàn toàn” ở Ukraine | TV24h https://youtu.be/aFfOaMEsl24; Được và mất của Mỹ, Trung Quốc, Châu Âu trong chiến tranh Nga – Ukraine | Bình luận quốc tế https://youtu.be/_znvY7IYi5E; Hé lộ sức mạnh của Belarus – nước sắp tham chiến cùng Nga tại Ukraine. Nga-Ukraine mới nhất | TV24h https://youtu.be/7kJ8gtVBLeM; Hệ quả nặng nề khi loại Nga ra khỏi SWIFT: đồng rúp Nga rớt giá thê thảm, dân đổ xô đi đổi ngoại tệ | VTC https://youtu.be/–iBlWKU1mQ; Sự thật bất ngờ về Putin Đại đế – vị Tổng thống hồi sinh và chấn hưng nước Nga | TV24h https://youtu.be/YWLMAKW3RtU; Bản tin tối 28/2 | Nga mở đường di tản dân Ukraine, báo hiệu cuộc chiến thảm khốc? | FBNC https://youtu.be/rSqLz00rzw8; Hé lộ điểm yếu chí tử khiến quân Nga có thể thất bại. Xung đột Nga-Ukraine sắp kết thúc? | TV24h https://youtu.be/DW6NKzUZSXA; Ukraine tuyên bố hạ 56 cơ giới Nga, tiêu diệt Tướng Chechnya trong ngày thứ 4 chiến dịch quân sự https://youtu.be/FvBsimstkPg; Hé lộ bí mật đội quân đặc nhiệm Chechnya sẵn sàng giúp Nga Tấn công Ukraine là ai? | VTC https://youtu.be/U-RA1iM1eyU; Nga Ukraine mới 27 quốc gia EU cấm toàn bộ máy bay Nga, đường bay thế giới thay đổi ra sao? | VTC Now https://youtu.be/DaU0XMvUrCA; Chuẩn bị tàu bay, phương án đưa công dân Việt Nam tại Ukraine về nước | VTC Now https://youtu.be/eSpxzeQDbR0; Cập nhật chiến sự Nga – Ukraine: Nga chuẩn bị phản công “bão trừng phạt” từ phương Tây | VTC Now https://youtu.be/SyozwtcGfUE; Nga tuyên bố chiếm ưu thế trên không ở Ukraine | VTC Now https://youtu.be/C304Nt1p5hU; Đây mới thực sự là cốt lõi của xung đột Nga – Ukraine | FBNC 28 2 https://youtu.be/T1HbFGx27Vg; Nga và Ukraine sẵn sàng cho cuộc đàm phán tại biên giới Belarus | VTC Tin mới https://youtu.be/ftzAP1Mm7ac; Cận cảnh máy bay lớn nhất thế giới Mriya bị phá hủy tại căn cứ không quân ở Ukraine | Tv24h https://youtu.be/BQIijR0Ww3Q; Vụ Putin dùng quân bài răn đe hạt nhân Nga nhằm đáp trả phương Tây, Nhà Trắng và NATO nói gì?. Tv24h https://youtu.be/mImlCsjaUbY; Toàn cảnh chiến dịch quân sự đặc biệt Nga tấn công Ukraine trưa 28/2: https://youtu.be/nVcY1oHbE_M; Kết quả đàm phán Nga Ukraine NÓNG nhất hôm nay 28/2 Nga và Ukraine đàm phán ở Belarus, liệu có thể chấm dứt xung đột? | Tv24h https://youtu.be/I8ToP-3btwM; Cập nhật trực tiếp chiến sự Nga – Ukraine mới nhất | FBNC 28 2 https://youtu.be/MmCZ9XxrFyI; Tin quốc tế 28/2 | Ngọn nguồn cuộc chiến Ukraine từ góc nhìn đối lập với phương tây | FBNC https://youtu.be/SDPDNrgdSrM Cập nhật những diễn biến mới nhất về xung đột Nga – Ukraine | VTC Tin mới 27 2 https://youtu.be/TMXl7EBoWzQ; Căng thẳng Nga – Ukraine: Ai sẽ là “cứu tinh” xoa dịu tình hình? | VTC Now 26.2 Không phải những siêu cường như Trung Quốc hay Đức – những quốc gia vẫn không có động thái trực tiếp về căng thẳng giữa Nga và Ukraine, liệu còn bên nào đủ tâm thế để làm trung gian hòa giải cho cả hai phía? https://youtu.be/H3pYT7GKLpg; Nóng Nga Ukraine mới nhất. Ông Medvedev hé lộ kịch bản trả đũa phương Tây cực đáng sợ | Tv24h https://youtu.be/_ZXsRlOn88w; Vì sao Mỹ, EU không loại Nga khỏi hệ thống thanh toán quốc tế SWIFT? | VTC Now https://youtu.be/oY2EzLPJFFU; Ông Putin lần đầu công khai kêu gọi lật đổ chính phủ Ukraine | VTC Tin mới Ngày 25/2, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã lần đầu lên tiếng công khai về ý muốn thay đổi chính quyền ở Kiev. https://youtu.be/NH2KsyQCy7k; Chủ tịch Hạ viện Nga: Tổng thống Ukraine Zelensky đã rời thủ đô Kiev | VTC Now Ngày 26/2, Chủ tịch Duma Quốc gia (Hạ viện) Nga Vyacheslav Volodin cho biết Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky đã rời thủ đô Kiev để tới thành phố Lvov. https://youtu.be/2d1VFT80B4A; Đoạn kết nào cho Ukraine trong xung đột với Nga? | VTC Now 26.2 https://youtu.be/o8an6Nk14P4; Cập nhật trực tiếp chiến sự Nga – Ukraine mới nhất | FBNC https://youtu.be/RvA9lWSo1JQ; Chiến sự Nga – Ukraine: Giao tranh khắp nơi, Ukraine tin sẽ không thua | VTC Tin mới Trong bản tin cập nhật ngày 26/2 về tình hình hiện tại ở các khu vực có xung đột, phía Ukraine cho biết giao tranh đang ác liệt khắp nơi nhưng khẳng định rằng Ukraine sẽ không thua. https://youtu.be/P4aH1AXIjYQ; Nga sẵn sàng cử phái đoàn đàm phán với Ucraina | VTV24 26. 2 https://youtu.be/AzOJwAAcu-E; Tin quốc tế 26/2 | Vận tải cơ Nga tiếp tục bị bắn hạ, bom đạn vang rền thủ đô Ukraine | FBNC https://youtu.be/om4SDpw04uY; Ukraine đồng ý thảo luận với Nga, sẵn sàng đàm phán ngừng bắn | VTC Now 26.2 https://youtu.be/B-z4xEpxaDo; Cập nhật mới nhất: Nga chia cắt 2 thành phố ở Đông Bắc Ukraine | VTC Now 26 2 https://youtu.be/XSmLFWuyULc; Bản Tin Sáng 26/2, Thương vong lớn trên chiến trường Nga-Ukraine, Kiev trước nguy cơ thất thủ | FBNC https://youtu.be/ayb16Axe0p4; Căng thẳng Nga – Ukraine: Không nước nào muốn tham chiến với Nga để tạo ra thảm họa! | VTC Now 25 2 https://youtu.be/d2kdykmLQlM; Lực lượng Nga tiến hai hướng vào Kiev, Ukraine sẵn sàng đàm phán | DKN Tin Thế Giới 25.2 https://www.facebook.com/DKNTinTheGioi/videos/332545865450338/; NATO làm gì để bảo vệ đồng minh, liệu có tham chiến để bảo vệ Ukraine? | TV24h https://youtu.be/w_kah3t1ZzA; Toàn cảnh Nga chiếm nhà máy điện hạt nhân Chernobyl, hiện mức phóng xạ vẫn bình thường | TV24h https://youtu.be/4n1FwejLs7I; Toàn cảnh Nga tấn công Ukraine: Kiev sẽ thất thủ trong 96 giờ, Châu Âu sẽ lâm nguy ? TV24h https://youtu.be/L0iX_ULgyZ4; Tổng hợp tin quốc tế 25/2: Tình báo Mỹ nói Nga có thể kiểm soát Kiev trong một vài ngày tới | TV24h https://youtu.be/ssGT8SCAR1Q Tin Thế Giới MỚi Nhất.Tổng Thống Putin nói sẵn sàng đàm phán, khi nào chiến dịch tấn công kết thúc ? | VTC 25/2 https://youtu.be/yq3lxqapeNI; Toàn cảnh NATO tăng cường phản ứng bảo vệ đồng minh thế nào sau chỉ trích của TT Ukraine? | Tv24h https://youtu.be/cSOhlHjxKto; Hiện trường Kiev tan hoang sau “mưa tên lửa”, Xe tăng Nga đang tiến vào, tên lửa Ukraine sẵn sàng bắn | VTC 25/2 https://youtu.be/mrnrF4NZ8kI; Tin mới nhất Tổng thống Putin nêu điều kiện tháo “ngòi nổ” xung đột với Ukraine, Đã sẵn sàng đàm phán? https://youtu.be/KMgrHcTUuYA; NÓNG nhất Quân Nga đã áp sát Kiev,mũi thọc cơ giới chỉ cách 20 dặm,Thủ đô Ukraine nhiều tiếng nổ lớn | VTC 25/2 https://youtu.be/M4qfHtRkMDM; Bản Tin Sáng 25/2 | Nóng: Nga chiếm nhiều căn cứ quân sự Ukraine, bao vây Thủ Đô Kiev | FBNC https://youtu.be/f7kfL4EPUFo; Toàn cảnh ngày đầu chiến dịch quân sự Nga ở Ukraine:Nga công bố vô hiệu hóa 83 mục tiêu trên mặt đất | VTC 25 2 2022 https://youtu.be/WZGubm7bjYM; International news 2/25 President Putin gives reasons for attacking Ukraine FBNC https://youtu.be/XvlUNJv1D-U; Latest news 2/25 The fiercest battles between Russia and Ukraine FBNC https://youtu.be/WVwmF5Gwqec; Bản tin trưa 25/2 | Quân đội Ukraine – Nga giao tranh ác liệt giành các sân bay quân sự | FBNC https://youtu.be/6OUFimEwn2w; Cập nhật trực tiếp chiến sự Nga đánh chiếm Ukraine | FBNC 24 2 2022 https://youtu.be/juj93U_LwPI. Những bài viết đáng chú ý trên trang Nghiên cứu lịch sử Lịch sử cận đại của Ukraine; Putin cho rằng Ukraine trong lịch sử luôn là một phần của nước Nga – Điều đó có phải là sự thật?;Toàn văn bài phát biểu của Tổng thống Nga Putin về Ukraine (22. 02. 2022); Quan điểm từ Ukraine: điều gì xảy ra nếu chiến tranh nổ ra vào ngày mai?; Putin phàn nàn về lời hứa không được thực hiện: Kohl và Bush đã lừa dối Nga?; Vận mệnh đứt đoạn: Lịch Sử Thế Giới Qua Mắt Người Hồi Giáo- Bài 2 ; xem tiếp thông tin cập nhật tại Thế giới trong mắt aihttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/the-gioi-trong-mat-ai/
Chiến tranh là sự chết chóc, chia lìa và tốn kém tiền bạc. Trong chiến tranh mong mỏi duy nhất của người dân là hoà bình, đoàn tụ. Để tránh được chiến tranh chúng ta phải hiểu được nguyên do của từng cuộc chiến, từ đó có ứng xử thích hợp góp phần đẩy xa nguy cơ những cuộc chiến. Bài viết chỉ là sự phân tích logic với các sự kiện đang diễn ra. Những sự kiện về Phần Lan – Liên Xô tham khảo từ cuốn Sụp đổ của Jared Diamond.
TỪ PHẦN LAN
Nhìn vào bản đồ chúng ta thấy được Phần Lan có phía Bắc giáp với Na uy, phía Tây giáp với Thuỵ Điển, phía Đông giáp với Nga. Cách vịnh Phần Lan có Estonia, Latvia, Luthuania, Belarus.
Khoảng từ năm 1100, thì Phần Lan bị Thuỵ Điển và Nga tranh giành. Phần Lan gần như bị Thuỵ Điển kiểm soát đến năm 1809 thì Nga thôn tính hoàn toàn. Cách mạng tháng 10 của Nga nổ ra Phần Lan được độc lập. Từ đó Phần Lan là một nước theo chế độ dân chủ tư bản tự do, nhưng vẫn là một quốc gia nông nghiệp nghèo nàn.
Vào tháng 8 năm 1939 Hitler và Stalin ký với nhau Hiệp ước Bất tương xâm Đức – Liên Xô bao gồm cả thoả thuận ngầm Phần Lan thuộc ảnh hưởng của Liên Xô. Việc ký kết vừa xong thì bất ngờ Đức đánh vào Ba Lan. Stalin hiểu càng phải đẩy biên giới của Liên Xô càng xa phía Tây càng tốt nhằm ngăn chặn mối đe doạ của Đức. Do đó vào tháng 10 năm 1939, Liên Xô gửi tối hậu thư yêu cầu bốn nước vùng Baltic: Phần Lan, Estonia, Latvia và Luthuania sát nhập vào Liên Xô duy nhất chỉ có Phần Lan từ chối.
Đầu tháng 10 năm 1939 Liên Xô đưa ra hai yêu sách với Phần Lan: Biên giới Liên Xô – Phần Lan ở Eo đất Karelia phải lùi xa Leningrad. Và Phần Lan phải để Liên Xô thiết lập căn cứ Hải quân trên bờ biển phía Nam Phần Lan gần thủ đô Helsinki đồng thời nhượng lại một số đảo nhỏ trong vịnh Phần Lan. Lo sợ nếu nhượng bộ một phần yêu sách sẽ phải tiếp tục nhượng bộ trong tương lai, họ từ chối.
Ngày 30 tháng 11 năm 1939 Liên Xô dùng 500.000 quân với hàng ngàn xe tăng, máy bay và pháo binh tối tân. Phần Lan không có xe tăng, máy bay, pháo binh cũng như súng chống tăng. Họ chỉ có súng cá nhân và súng máy nhưng đạn được hạn chế. Họ sử dụng chiến thuật du kích sử dụng ván trượt tuyết để kéo dài trận chiến đấu. Không có một nước nào giúp đỡ họ trong cuộc chiến này cả. Binh lính Phần Lan hiểu họ đang chiến đấu cho gia đình, cho đất nước và nền độc lập. Họ khao khát hy sinh cho nền độc lập của họ. Việc kéo dài chiến tranh làm tổn thất quân lính Liên Xô phục vụ mục đích đàm phán với Liên Xô và chờ sự chi viện các nước đồng minh. Nhưng tất cả lời hứa chi viện đều là lừa phỉnh dối trá, chẳng có quân đội và máy bay nào sẵn sàng cho việc chi viện cả. Yêu sách của Liên Xô để kết thúc chiến tranh là toàn bộ vùng đất của Karelia, số dân ở đây vào khoảng 10% dân số Phần Lan phải rời bỏ Karelia lùi về phần đất còn lại của Phần Lan (giải toả trắng). Cảng Hanko gần Helsinki được Nga sử dụng làm căn cứ hải quân.
Đến năm 1941 Phần Lan lại bị cuốn vào chiến tranh thế giới thứ 2 vì họ cũng muốn lấy lại vùng đất Karelia. Đến tháng 7 năm 1944 họ phải đến Moscow để tìm kiếm hoà bình và ký hiệp định mới. Phần Lan trả tiền bồi thường chiến tranh cho Liên Xô 300 triệu đô trong 6 năm. Đó là khoản tiền lớn đối với nền kinh tế nhỏ lẻ chưa công nghiệp hoá của Phần Lan lúc bấy giờ. Rồi chính nghịch cảnh này là động lực cho họ phát triển công nghiệp nặng như đóng tàu, các nhà máy xuất khẩu. Phần Lan phải chấp nhận 20% giao thương thương mại với Liên Xô. Phần Lan nhập khẩu dầu, đầu máy xe lửa, nhà máy điện hạt nhân và kể cả xe Moskvich của Liên Xô. Phần Lan xuất khẩu tàu thuyền, tàu phá băng, hàng tiêu dùng sang Liên Xô. Về phía Liên Xô, Phần Lan là nguồn cung cấp công nghệ và là cửa ngõ của Liên Xô đến với phương Tây.
Với họ là một đất nước nhỏ bé và yếu ớt, không nhận được sự giúp đỡ nào từ phương Tây khi bị Liên Xô xâm lược. Do đó việc duy trì sự tin tưởng của Liên Xô đòi hỏi họ phải hạ mình bằng cách hy sinh một số về kinh tế và một số tự do biểu đạt. Họ phải kiểm duyệt để truyền thông không được nói xấu Liên Xô. Họ hiểu rằng Phần Lan sẽ không bao giờ an toàn nếu Liên Xô cảm thấy không an toàn. Trong quan hệ đối ngoại, Phần Lan luôn đi trên dây giữa việc phát triển mối quan hệ với phương Tây đồng thời duy trì tin cậy với Liên Xô. Khi tổng thống của Phần Lan đang được Liên Xô tin cậy thì họ thậm chí thông qua một đạo luật khẩn cấp để gia hạn nhiệm kỳ của tổng thống Kekkonen thêm 4 năm.
Đây là một thể chế dân chủ xã hội tự do mà trong nhiều thập niên vẫn duy trì được một mối quan hệ tuyệt hảo và tin cậy với Liên bang Xô Viết trước đây và nước Nga hiện thời mà không phải trở thành một nước đàn em.
Phần Lan chỉ là một nước nhỏ, có biên giới dài với Liên Xô. Không thể trông cậy vào các nước đồng minh. Trách nhiệm sống còn của của dân tộc, của đất nước phải tự thân. Nước xa không cứu được lửa gần. Cho dù là một thành viên của EU và từng được mời gia nhập khối NATO nhưng cho đến nay Phần Lan vẫn chỉ bảo lưu lời mời đó. Họ biết rằng nếu họ gia nhập NATO thì chắc chắn Nga không để cho họ được yên ổn.
NHÌN VỀ UKRAINE
Năm 1991 Liên Xô Viết tan rã, 12 nước cộng hoà lần lượt được tách ra và tuyên bố độc lập. Ukraine là một trong số các nước cộng hoà đó tách ra từ Liên Xô. Giống như Nga sau khi được tách ra, Ukraine cũng có tình trạng kinh tế trì trệ. Hy vọng kinh tế khởi sắc nhờ việc bắt tay hợp tác với phương Tây và Mỹ. Sự thật Mỹ và phương Tây không hậu thuẫn cho Ukraine phát triển kinh tế trong hoà bình và thịnh vượng. Họ chỉ hậu thuẫn vũ khí quân sự để Ukraine đối đầu với Nga. Ukraine không học được bài học mà Phần Lan đã rút ra: họ sẽ không an toàn nếu Nga không cảm thấy an toàn.
Lịch sử không có chữ nếu, nhưng lịch sử mang lại cho chúng ta những bài học. Tại thời điểm Nga chiếm đóng bán đảo Crimea của Ukraine, sau đó sáp nhập vào Nga, nếu Ukraine chấp nhận thực tại như Phần Lan đã từng chấp nhận mất lãnh thổ, đồng thời không có ý định gia nhập vào khối NATO, làm cho Nga không cảm thấy bị mất an toàn thì sẽ không có sự kiện Putin ký sắc lệnh công nhận độc lập hai vùng ly khai Ukraine ngày hôm nay. Chấp nhận thực tại về lãnh thổ, đóng sách vở sang Phần Lan học cách phát triển bên cạnh một nước lớn mà không phải làm đàn em. Tranh thủ nguồn năng lượng giá rẻ của Nga để giảm chi phí đầu vào cho sản xuất công nghiệp. Bài học đầu tiên mà Phần Lan dạy cho Ukraine không phải là phát triển kinh tế mà: Muốn mình an toàn thì đừng để Nga cảm thấy mất an toàn từ mình và nước xa không cứu được lửa gần.
Bài học Phần Lan không được áp dụng, nên Ukraine trở thành con tốt trong bàn cờ địa chính trị giữa Nga với Mỹ và các nước phương Tây, để tự mình đứng vào những nước thuộc Thế giới hỗn loạn. Đó là những nước mà tiến hay lùi đều không được nữa. Lưu ý với các bạn rất nhiều nước thuộc Thế giới hỗn loạn có nguyên nhân từ Mỹ mà tôi có thể kể tên: Iraq, Somali, Afghastan, Syria … Ukraine sẽ không bao giờ thắng Nga trong các cuộc tranh chấp và Mỹ cùng với các nước phương Tây cũng chẳng bao giờ cho phép Ukraine thua tan tác. Họ sẽ tiếp tục hơi thổi ngạt để Ukraine ít nhất cũng sống lâm sàng với mục đích là một cái gai chọc vào sườn của Nga.
Lần lượt các nước Đông Âu trong phe CNXH cũ và những nước cộng hoà tách từ Liên Xô trở thành thành viên của EU và gia nhập khối NATO. Rào dậu biên giới, bước đệm để bảo vệ sự tấn công quân sự ngày càng siết chặt nước Nga. Kinh tế giảm sút, tiếng nói trên nghị trường Quốc tế không có giá trị, chỉ còn lại sức mạnh quân sự. Các đòn trừng phạt của Liên minh Châu Âu (EU) liên tục giáng vào Nga làm cho nền kinh tế khó khăn càng khó khăn hơn. Do đó Nga có thể cho rằng nền kinh tế của họ đã nằm ở đáy rồi, họ không còn gì mà mất về mặt kinh tế nữa, mà nếu có mất cũng không đáng kể.
Là một Quốc gia đã từng là cường quốc, Nga không thể đứng khoanh tay nhìn bản thân bị siết chặt đến mức ngạt thở. Nga sẽ không chấp nhận việc bị đe doạ về quân sự và kinh tế. Đó là lý do mà Putin ký sắc lệnh công nhận độc lập hai vùng ly khai Ukraine.
BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
Địa chính trị của Thế giới luôn biến đổi như biểu đồ chứng khoán. Không có đồng minh vĩnh viễn, chỉ có lợi ích vĩnh viễn, là một câu mà chúng ta vẫn thường nghe và nó luôn đúng. Chúng ta không từng nghĩ đến việc sụp đổ của Liên Xô và cuối cùng nó đã xảy ra. Thì chuyện Trung Quốc tan đàn sẻ nghé cũng hoàn toàn có thể đến. Do đó việc kiên trì với mục đích kéo dài hoà bình cho đất nước, tranh thủ phát triển kinh tế, mang lại cuộc sống ngày càng tốt hơn cho người dân là điều mà chúng ta cần hướng tới.
Hiện nay có một số “chí sĩ yêu nước bàn phím” tự nhận là cấp tiến, nhưng tầm nhìn không qua ngọn cỏ. Đó là những người bài Tàu một cách cực đoan, nhưng thực tế chuyên buôn hàng Tàu đểu, hay nếu bắt phải bỏ tất cả những thứ gì liên quan đến Trung Quốc ra thì họ đang khoả thân. Do nhận thức kém, do mù quáng họ luôn luôn kích động chống phá ảnh hưởng đến đường lối ngoại giao của nhà nước. Xin được nhắc lại một bài học nữa từ Phần Lan, là một nước dân chủ tự do nhưng họ phải kiểm duyệt để truyền thông không được nói xấu Liên Xô. Những người tự nhận là cấp tiến muốn nước mình phải là đồng minh của Mỹ, cho Mỹ thuê Cảng quân sự Cam Ranh với hy vọng Mỹ sẽ bảo vệ mình. Họ không biết hay quên rằng Mỹ đã từng bỏ rơi đồng minh của mình là Việt Nam Cộng hoà hay gần đây nhất là Afghanistan. Những “chí sĩ yêu nước bàn phím” này luôn muốn người phát ngôn Bộ Ngoại giao phải nói như họ nói. Sống bên cạnh thằng hàng xóm đầu gấu mà lắm tiền, thì phải ăn nói nhỏ nhẹ chứ không nó vả cho không còn cái răng nào!
Việt Nam một nước nhỏ sống bên một nước lớn Trung Quốc luôn có dã tâm xâm chiếm, vị trí địa chính trị của chúng ta tương tự như Phần Lan với Liên Xô hay như Ukraine với Nga. Do vậy chúng ta cần phải học kỹ những bài học lịch sử đã và đang diễn ra trên thế giới. Là người đã sống trong chiến tranh, có nhiều mất mát trong chiến tranh tôi luôn trân quý hoà bình. Vì vậy đối với tôi một lãnh tụ giỏi là người có đường lối ngoại giao uyển chuyển làm sao cho đất nước không chịu chiến tranh để phát triển kinh tế, từng bước cải thiện đời sống cho nhân dân!
BI KỊCH UKRAINA Phan Chí Thắng (nguồn FB Phan Chí)
Tôi chép vào đây câu chuyện có thật 100% về một gia đình Ukraina ở Jitomir. Jitomir là thành phố nhỏ nằm không xa Kiev thủ đô Ukraina. Jitomir là quê hương nhà khoa học, ông tổ của ngành du hành vũ trụ Liên Xô Koroliov. Tôi đã đến đó năm 1971.
Ông Koroliov là người Ukraina hay người Nga? Không rõ hộ chiếu ông ghi thế nào, quả thực rất khó phân định rõ ràng ông là Nga hay Ukraina.
Gia đình người Nga tôi nói ở trên cũng vậy, họ có họ tên Nga, nói tiếng Nga và đã ở Jitomir ba đời rồi. Ra đường họ nói tiếng Ukraina, về nhà vẫn nói tiếng Nga.
Đời thứ nhất, ông già là sĩ quan Liên Xô từng tham gia giải phóng Berlin, sau chiến tranh thế giới 2 bị lôi tuột sang Trung Quốc làm chuyên gia quân sự cho đến năm 1949 Trung Quốc thành lập nước mới hồi hương, phục vụ trong quân đội cho đến lúc về hưu. Ông này đã gần 100 tuổi, nghễnh ngãng và cho đến hôm nay vẫn không hiểu nổi vì sao Nga đánh Ukraina, vẫn suy nghĩ như thời Xô Viết, anh em một nhà cơ mà.
Ông sinh được hai người con, đều sang Nga học đại học và đều cùng phục vụ trong quân đội Xô Viết ngay trên đất Jitomir. Ông anh là thương bệnh binh, nay cũng già yếu. Cô em là mẹ đơn thân, có người con trai duy nhất học và làm về tin học.
Bà mẹ nay đã gần 70, sống với bố và anh trai bằng ba sổ lương hưu còm cõi. Chiến tranh xảy ra, họ không biết chạy đi đâu ở tuổi đó. Ngạc nhiên thay, chính quyền thành phố Jitomir lại có thông báo chính thức khuyên dân chúng rời thành phố, không nên chống lại lực lượng quân đội Nga (xem ảnh).
Bà mẹ tin là người Nga chỉ dọa để phế bỏ chính quyền Ukraina thân phương Tây chứ không có ý xâm lược, vẫn hàng này xuống tầng hầm để trú. Các nhà chúng cư ở châu Âu luôn có tầng hầm.
Cậu con trai 44 tuổi chưa vợ thì ngược lại, sùng sục chống Nga, ở Jitomir không được đánh Nga nên trốn về Kiev tham gia dân quân phòng thủ Thủ đô, “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh!”.
Bị kịch của Ukraina không chỉ ở tầm quốc gia quốc tế mà ở trong mỗi gia đình người dân. Mỗi thành viên trong gia đình có cách nhìn nhận và ứng xử khác nhau.
Đất nước tan vỡ khi mỗi gia đình tan vỡ.
Tôi chép lại câu chuyện này với mong muốn bạn bè tôi bớt trút giận lên những ai không cùng chính kiến về cuộc chiến Ukraina. Phe này ủng hộ Putin, phe kia lên án ông ta là đồ tể.
Việc chia phe trong nhận thức là chuyện bình thường. Gia đình người Ukraina nằm trong lòng cuộc chiến còn bị chia phe nữa là chúng ta.
Nhưng chúng ta chửi bới mắng mỏ nhau liệu có ích gì? “Chúng ta” ở đây không có tôi. Đại từ nhân xưng “chúng ta” bị dùng sai với ngụ ý những người đang lớn tiếng chửi người khác, tiếc thay, lại là bạn bè ta cả.
NHỮNG BÊN THẤT BẠI Ở UKRAINA Phan Chí Thắng (nguồn FB Phan Chí)
Cuộc chiến ở Ukraina rồi sẽ kết thúc với tất cả các bên đều thất bại.
1. Với sự ủng hộ của các nước phương Tây, rất có thể Ukraina vẫn giữ nguyên được lãnh thổ như trước khi cuộc chiến xảy ra, nghĩa là không đòi lại được Crime và không kiểm soát được hai nước cộng hoà tự xưng Donhetsk và Lugansk. Không những không mất nước mà Ukraina còn xích lại gần hơn với Liên Âu và Mỹ như mong muốn của họ. Tổng thống Zenlenski có thể tự hào là người anh hùng giữ nước. Nhưng để đất nước Ukraina rơi vào bãi chiến trường, nhiều công trình dân dụng và quân sự, sân bay cầu cống cơ sở hạ tầng bị phá hủy, tổn thất sinh mạng, hàng triệu người phải tị nạn ở nước ngoài, kinh tế thiệt hại thì đó là một thất bại của lãnh đạo đất nước này.
2. Nga có thể tìm kiếm một số chiến thắng trên chiến trường, chiếm được một vài thành phố của Ukraina nhưng chiến dịch nhằm lấy thế thượng phong để đàm phán trên thế mạnh nên không thể kéo dài, hoà ước sẽ được ký với một vài nhượng bộ của Ukraina, dằn mặt những nước láng giềng nào muốn gia nhập NATO. Nga cũng có thể coi đó là thắng lợi. Nhưng Nga đã hoàn toàn thất bại trên mặt trận ngoại giao và kinh tế. Bị cô lập, trừng phạt và cấm vận, Nga sẽ lún sâu hơn vào suy thoái kinh tế, lạc hậu công nghệ, những điều quan trọng nhất đối với một cường quốc.
3. Mỹ có thể thắng keo vật này, cô lập và làm Nga suy yếu nhưng thất bại hoàn toàn về chiến lược. Mỹ đã quên bài học của Nixon năm 1972 bắt tay với Trung Quốc, chia rẽ khối XHCN, một trong những nguyên nhân làm phe này tan rã. Lý thuyết quân sự kinh điển là chia rẽ đối phương nhưng nay khi Trung Quốc trở thành kẻ thù số một của Mỹ, đe doạ và sắp soán ngôi nền kinh tế số một thế giới, Mỹ đẩy Nga vào một liên minh (tình nguyện hay bắt buộc) gồm dân số và lãnh thổ cộng lại lớn nhất hành tinh là một thất bại của Mỹ về chiến lược. Đối phó với một mình Trung Quốc đã khó, đối phó với cả hai quốc gia cứng đầu này càng khó gấp ba.
4. Liên minh châu Âu có thể chặn được cơn thịnh nộ của Putin đại đế, đang chi viện cho Ukraina và mở rộng vòng tay đón người tị nạn từ đất nước này. Trước mắt họ có thể nhường cơm sẻ áo nhưng sẽ được bao lâu, khi dòng người tị nạn từ các nước Trung Đông chưa chấm dứt nay lại thêm mấy triệu người sẽ đến, đè nặng lên chính quyền và đời sống người dân nước sở tại. Chưa kể bị thiếu hụt khí đốt, nông sản và nguyên liệu lâu nay vẫn nhập từ Nga.
5. Nước duy nhất hưởng lợi là Trung Quốc. Về mặt ngoại giao, Trung Quốc không còn là kẻ hung hãn duy nhất, về mặt kinh tế Trung Quốc được mua khí đốt giá rẻ từ Nga (đường ống có sẵn, khí hoá lỏng mua đường biển đắt hơn nhiều) vì Nga bị bao vây kinh tế sẽ bán thêm dầu khí cho Trung Quốc. Trung Quốc có thêm cơ hội đầu tư khai thác tài nguyên miền Đông Xiberi, tận dụng cơ hội đưa người vào đây vì mục đích lâu dài Hán hoá Viễn Đông của Nga. Trung Quốc được Nga ủng hộ trên trường quốc tế, sẽ dễ bề đối phó hơn với Mỹ và đồng minh. Đến một lúc mạnh hơn hiện nay, Trung Quốc sẵn sàng vẽ lại bản đồ thế giới, trước hết là Đài Loan, Biển Đông, Đông Nam Á rồi đâu đó nữa mà họ muốn.
6. Việt Nam thì sao? Việt Nam không ủng hộ cuộc chiến ở Ukraina vì dù cuộc chiến kết thúc thế nào Việt Nam đều gặp bất lợi. Nằm kẹp giữa một bên là Mỹ và đồng minh và bên kia là liên minh Nga Trung, ở sát nách Trung Quốc, nhập siêu hàng hoá và vật tư nguyên liệu sản xuất từ Trung Quốc, vũ khí trang bị chiến tranh lại hầu hết mua của Nga. Nghĩa là ít nhiều lệ thuộc vào hai nước này. Trong bối cảnh phức tạp như vậy Việt Nam ngả về bên nào cũng hậu quả khôn lường.
Bối cảnh quốc tế chưa bao giờ khó cho Việt Nam như hôm nay. Mong lãnh đạo đất nước sáng suốt khôn khéo, một việc cực kỳ khó nhưng nếu không làm được thì vô cùng nguy hiểm.
Trên đây là ý kiến cá nhân, từ một góc nhìn chủ quan hạn hẹp, nêu ra để bạn bè tham khảo. Tôi đọc và tôn trọng ý kiến nhiều chiều của nhiều người trên trang của các bạn nhưng không tranh luận đúng sai, mong cũng được đối xử tương tự như vậy.
KHỦNG HOẢNG UKRAINA: SỰ THẬT VÀ DỐI TRÁ Tác giảThomas Ertl, người dịch Ngô Mạnh Hùng
#cnm365 Thomas Erti là người Mỹ theo đạo Cơ Đốcgiáo. Ông đãv đăng bài này trên Tạp chí Russia Insider. người dịch: Ngô Mạnh Hùng. Sự trích dẫn bởi Phó Văn Việt, 17.2 2022 và PGS Phan Thanh Kiếm. Bài viết thể hiiện quan điểm của tác giả đối với mối quan hệ Nga Ucraina ngày nay.
“Này Mỹ, hãy để Nga kết thúc quá trình phục hồi. Hãy để số phận mới của Nga đi theo hướng của nó. Một định mệnh sẽ một lần nữa đưa Nga đến một nơi như một trong những quốc gia Cơ đốc giáo vĩ đại trên thế giới”.
Trong bộ truyện trinh thám lâu đời Dragnet, nhân vật chính Sgt. Joe Friday đã trở nên nổi tiếng với câu nói của mình, “Chỉ là sự thật, thưa bà!”. Ngày nay, liệu có thể hiểu “chỉ là sự thật” về bất cứ điều gì trong thế giới phương Tây không? Không, bởi các phương tiện truyền thông công ty đồng lõa với tất cả tội ác của những chủ nhân toàn cầu của họ và đã trở thành cánh tay tuyên truyền thông tin sai lệch thúc đẩy chương trình nghị sự toàn cầu hóa của họ.
Đây là trường hợp của đế chế toàn cầu chủ nghĩa đang khiêu khích Nga bằng cách chống lại Ukraina. Tất nhiên là theo “đế chế”, ý tôi là Đế chế Anh-Mỹ-Zionist của Trật tự Thế giới Mới có trụ sở chính tại Thành phố Luân Đôn với các văn phòng ở Brussels, New York và Washington, DC.
Mục tiêu thống trị thế giới của Đế chế trong nhiều thập kỷ của thế kỷ trước đã đạt được thông qua cả sự lừa dối và vũ lực. Bằng cách sử dụng tuyên truyền và thông tin sai lệch, cùng với các cuộc cách mạng màu, Đế chế đã tài trợ cho các ủy ban được sử dụng để gây bất ổn cho các quốc gia mà họ tìm cách lật đổ và tiếp quản. Đó cũng là những gì đang xảy ra ở Ukraine ngay hiện nay. “Cuộc khủng hoảng” ngày một tăng lên này không phải vì hạnh phúc của Ukraine, mà là nỗ lực của Đế chế nhằm loại bỏ Nga và cô lập họ, vì họ là bức tường lửa đối với mục tiêu của Đế chế là khuất phục thế giới.
Vì vậy, chúng ta hãy xem xét các phương tiện truyền thông dối trá và tuyên truyền của Đế chế và đối chiếu nó với sự thật. Tôi viết từ thế giới quan của một người Mỹ theo đạo Tin lành, nghĩa là người đặt tôn giáo Cơ đốc của mình lên trên chủ nghĩa dân tộc của mình, và trên hết là SỰ THẬT.
TUYÊN TRUYỀN # 1: NGA LÀ KẺ THÙ CỦA PHƯƠNG TÂY.
SỰ THẬT: Kể từ khi Liên Xô sụp đổ và các quốc gia khác của Khối phía Đông tái độc lập khỏi Liên Xô, Liên bang Nga hiện tại, được thành lập vào năm 1991, đã không hề làm gì đe dọa Hoa Kỳ hoặc để thỏa hiệp lại các biên giới của mình. Họ đã không lập các căn cứ quân sự gần Hoa Kỳ, cũng như không gây ra bất kỳ mối đe dọa nào đối với nền kinh tế trong đất nước của chúng ta.
Đúng, Nga đang cạnh tranh với Mỹ để cung cấp khí đốt tự nhiên cho châu Âu, nhưng họ đang làm như vậy – hê hê – theo đúng cách thức của thị trường tự do tư bản chủ nghĩa. Sản phẩm của họ nhanh hơn và rẻ hơn. Hãy nhớ rằng, chính Đức đã đề nghị Nga xây dựng Nord Stream II.
Nếu câu hỏi được đặt ra, “Liên Xô có phải là kẻ thù của Mỹ không?”, thì câu trả lời sẽ là có. Nhưng đâu còn Liên Xô nữa, đất nước vĩ đại mà Reagan đã gán cho chính xác cái tên “Đế chế Ác ma” khi cáo buộc nó có các hành động xâm lược quân sự bành trướng.
Tổng thống Nga Putin đã bị chỉ trích dữ dội ở chính đất nước của mình vì đã hòa giải với Mỹ trong các bài phát biểu trước công chúng, coi Mỹ là “đồng nghiệp và đối tác”. Putin, cùng với Ngoại trưởng Sergei Lavrov, luôn hướng tới đối thoại và hợp tác hơn là hành động quân sự cưỡng bức, hối lộ bằng “viện trợ nước ngoài” hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác. Khi đối phó với Đế quốc và NATO, chính sách đối ngoại của Nga đối với Ukraina là phòng thủ nghiêm ngặt. Nhưng thời gian của họ sắp hết. Cũng giống như Hoa Kỳ vào đầu những năm 60 không muốn vũ khí hạt nhân của Nga ở Cuba, thì Nga cũng không muốn các căn cứ quân sự và tên lửa của NATO ở Ukraina.
Khi xem xét “sự thật”, những gì chúng ta thấy là sự kiên nhẫn đến khó tin của Nga trước sự xâm lược không ngừng của Đế quốc và sự kích động không ngừng của bộ máy tuyên truyền phương Tây.
TUYÊN TRUYỀN # 2: VLADIMIR PUTIN LÀ “ĐẠI MA ĐẦU”
SỰ THẬT: Câu thần chú này được các nhà bình luận bảo thủ như Bill O’Reilly, Sean Hannity, Glenn Beck và Ben Shapiro truyền tụng một cách tàn nhẫn. Tuy nhiên, khi kiểm tra, không có lời tuyên bố nào của họ được chứng minh bằng các dữ kiện hoặc bằng chứng. Tuyên truyền của họ dựa trên việc quay trở lại thời đại đã qua, những định kiến cũ về Liên Xô và những ký ức xa xôi của những thập kỷ trước.
Putin là một người Nga gốc Âu. Trong số 144 triệu người Nga, có 111 triệu người sống ở phía tây của Dãy núi Ural ở lục địa Châu Âu. Về tôn giáo và văn hóa, Putin là người châu Âu hơn nhiều so với là người châu Á. Tuy nhiên, ông ấy bị phương Tây quỷ hóa và tấn công bằng những lời nói dối trá, liên tục.
Trong bốn cuộc bầu cử tổng thống gần đây nhất của Putin từ năm 2000–2018, ông ấy có tỷ lệ phiếu bầu cao hơn so với đối thủ cạnh tranh gần nhất là 23,9%, 58,1%, 46,2% và 64,9%. Chính trị gia phương Tây nào có thể có được sự ngưỡng mộ và tôn trọng từ người dân của mình như Putin?
Putin được mẹ bí mật rửa tội khi còn là một đứa trẻ sơ sinh vào năm 1952 tại một buổi lễ dưới lòng đất của Nhà thờ Chính thống giáo. Ông ấy tự nhận mình là một Cơ đốc nhân Chính thống giáo Nga và thường tham dự các buổi lễ vào Chủ nhật ở Moscow. Đức tin của Putin có chân chính không? Điều đó là việc riêng của ông ấy với Chúa. Điều quan trọng nhất đối với người dân Nga là sự ủng hộ vững chắc của Putin đối với nhà thờ. Ông rất gần gũi và ủng hộ Nhà thờ Chính thống Nga và có công trong việc đổi mới mối quan hệ lịch sử “giao hưởng” giữa nhà thờ và nhà nước của Nga. Ở Mỹ, chính phủ tấn công nhà thờ. Ở Nga, nhà thờ và nhà nước làm việc cùng nhau để thúc đẩy một nền văn hóa Cơ đốc giáo. Người Nga biết không có Chính thống giáo Ba ngôi thì không có nước Nga. Niềm tin Cơ đốc 1.000 năm của họ là nền tảng văn hoá của họ.
Cuốn tiểu thuyết “Loạn luân” nổi tiếng năm 1984 của George Orwell có “hai phút căm ghét” nơi tâm trí của người dân được tạo điều kiện để chống lại bất cứ điều gì mà đảng cầm quyền muốn họ phản đối. Putin chính là Emmanuel Goldstein (nhân vật trong tiểu thuyết nói trên – người dịch) mới của Đế chế.
Trên thực tế, Putin sẽ đi vào lịch sử nước Nga với tư cách là một trong số những ông hoàng vĩ đại nếu không muốn nói là vĩ đại nhất. Bằng một cách thần kỳ, ông đã tách nước Nga khỏi các đầu sỏ ngân hàng phương Tây, cắt đứt nền kinh tế Nga khỏi sự ký sinh của phương Tây, khôi phục hệ thống phòng thủ của Nga, và chỉ cho quốc gia này con đường hồi phục hoàn toàn. Trong thế giới ngoại giao hiện đại, Putin là người lớn nhất trong một căn phòng gồm toàn những chàng trai phương Tây bốc đồng và những kẻ cuồng si của họ.
TUYÊN TRUYỀN # 3: UKRAINE LÀ MỘT NƯỚC TỰ DO
SỰ THẬT: Đây là một trong những lời nói dối của “người bán cá giống”. Thực tế là Ukraina hiện chỉ đang là một chư hầu của Đế chế Anh-Mỹ, và chính phủ thực sự nằm trong bóng tối của nó đang tháo chạy khỏi đại sứ quán Hoa Kỳ ở Kiev, được lãnh đạo và điều hành bởi một người Mỹ gốc Nga, Victoria Nuland, với tư cách là Thứ trưởng Ngoại giao, đặc phái viên của Hoa Kỳ.
Mọi chủ quyền mà Ukraine sở hữu đều đã biến mất khi Bộ Ngoại giao Mỹ tiến hành một cuộc đảo chính, nơi tổng thống được bầu cử dân chủ Viktor Yanukovych buộc phải bỏ trốn vào năm 2014. Những sự kiện này được gọi là “Cách mạng Maidan”. Trong các phương tiện truyền thông phương Tây, nó được gọi là “Cuộc cách mạng về phẩm giá”. Đó là một trong nhiều “cuộc cách mạng màu” của Đế chế nhằm cô lập và loại bỏ Nga cũng như mở rộng quyền bá chủ của Đế chế.
Câu chuyện chính được tạo ra bởi Đế quốc, đảng chiến tranh của Mỹ, những người theo chủ nghĩa duy tân, và các chuyên gia bảo thủ ủng hộ họ là, “Ukraine là một quốc gia có chủ quyền, và nó xứng đáng được Hoa Kỳ bảo vệ và hỗ trợ”. Tuy nhiên, điều ngược lại mới là đúng. Sự thay đổi chế độ do Hoa Kỳ lãnh đạo trong chính phủ Ukraina nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp của Hoa Kỳ, quốc gia đã gài bẫy những con rối kế tiếp của mình. Người Mỹ rất thoải mái với việc thực hiện “thay đổi chế độ” trong khi nói một cách đạo đức giả về việc “tôn trọng chủ quyền”. Sự tự mâu thuẫn ở đây là không gì có thể rõ ràng hơn.
Nếu các nhà bình luận Mỹ thực sự lo ngại về chủ quyền của Ukraina, họ có nên vạch trần những hành động chống lại chủ quyền của Ukraina trong quá khứ của Bộ Ngoại giao Mỹ và NATO hay không?
TUYÊN TRUYỀN # 4: UKRAINE NÊN ĐƯỢC TỰ DO GIA NHẬP NATO.
SỰ THẬT: Sẽ không thể hiểu được lời nói dối này một cách hiệu quả nếu không biết lịch sử của NATO (1949) và sự tan rã của Liên Xô vào năm 1991.
NATO được thành lập như một liên minh quân sự của các nước Tây Âu, bao gồm cả Canada và Mỹ, nhằm chống lại cuộc chinh phục của Stalin đối với bảy nước Đông Âu vào năm 1948.
Liên bang Xô viết bị giải thể vào năm 1991, và Liên bang Nga được thành lập với một tổng thống ủng hộ Đế chế, Boris Yeltsin, được lập nên. Vào thời điểm đó, George HW Bush, James Baker và các nhà ngoại giao Mỹ đã đảm bảo với Tổng thống Gorbachev rằng NATO sẽ không mở rộng về phía đông. Không có thỏa thuận nào trong số này được đưa ra thành văn bản (đó là sai lầm của Gorbachev) và Mỹ đã nhanh chóng trở mặt với chính cam kết của họ. NATO, khởi đầu với 12 thành viên như một câu trả lời cho các quốc gia thuộc Khối Hiệp ước Warsaw trước đây, hiện đã có 30 thành viên và đang không ngừng nỗ lực bao vây Nga và các quốc gia khác. Trong khi đó, Hiệp ước Warsaw đã bị giải thể vào ngày 1 tháng 7 năm 1991, sau khi hệ thống cộng sản sụp đổ ở khối này.
Vấn đề liên quan đến việc Ukraina trở thành thành viên NATO là điểm mấu chốt trong an ninh của Nga, bởi Điều 5 trong thỏa thuận của các quốc gia thành viên NATO. Điều 5 dựa trên các cam kết của liên minh quân sự này rằng khi một quốc gia thành viên bị tấn công, tất cả các thành viên NATO khác phải đứng ra bảo vệ. Điều ngớ ngẩn này là một con đường chắc chắn sẽ dẫn đến chiến tranh. Điều này tương tự như “các liên minh đang vướng mắc” đối với Serbia đã kéo cả châu Âu vào thảm họa của Thế chiến I.
Một liên hệ đơn giản của Quy tắc vàng sẽ làm rõ tất cả điều này trong quan điểm: Chúng ta sẽ phản ứng như thế nào nếu Nga xây dựng và củng cố các căn cứ quân sự ở Cuba, Mexico và Canada, đồng thời tích trữ tên lửa hạt nhân ở đó? Tất cả chúng ta đều biết điều đó đã diễn ra như thế nào. Vậy tại sao mọi người lại mong đợi và đòi hỏi Nga không phản ứng tương tự khi NATO tìm cách mở rộng sang Ukraina và đặt một lượng lớn thiết bị quân sự và thậm chí cả vũ khí hạt nhân ở biên giới của họ? Tại sao chúng ta không thể thành thật về điều này? Tại sao các nhà bình luận bảo thủ của chúng ta không bao giờ đưa điều này ra thảo luận?
TUYÊN TRUYỀN # 5: NGA LÀ NGƯỜI ĐỨNG SAU KHỦNG HOẢNG TRONG VỤ BREXIT CỦA ANH QUỐC.
SỰ THẬT: Lời nói dối này lại là một luận điệu lừa bịp khác. Mỹ, quốc gia điều hành Ukraina, đã đặt các đặc vụ CIA và nhiều cố vấn quân sự trên khắp Ukraina, cùng với các vũ khí quân sự tấn công và phòng thủ. Việc cung cấp thiết bị quân sự cho một quốc gia có biên giới với đối thủ, tự nó đã là một hành động chiến tranh.
Để đối phó, Nga đã phải xây dựng hệ thống phòng thủ ở đất nước của mình gần biên giới Ukraina và Belarus.
Đế chế và NATO đang tiến về sát nách Nga, chỉ cách Moscow ít dặm mà Nga lại là kẻ xâm lược? Putin hiện đã tuyên bố rằng Nga không còn nơi nào khác để rút lui. Người ta thường nói rằng bên nào bắn phát súng đầu tiên sẽ là kẻ bắt đầu cuộc chiến. Điều này không thực sự đúng. Đó là một thủ thuật mới. Người làm cho phát súng đầu tiên nổ để lấy cớ mới là người bắt đầu cuộc chiến. Mục tiêu cuối cùng của Đế chế nhằm vào Nga là bao vây, tấn công, tiêu diệt và khuất phục.
TUYÊN TRUYỀN # 6: HOA KỲ ĐANG Ở UKRAINA ĐỂ GIÚP ĐỠ NGƯỜI DÂN UKRAINA
SỰ THẬT: Tuyên bố này thật nực cười. Khi Đế chế chặt đầu một quốc gia, lắp đặt những con rối của chính họ và nắm quyền kiểm soát quốc gia, quốc gia đó cuối cùng sẽ bị cướp đoạt toàn bộ do bị phụ thuộc vào những kẻ đã chinh phục họ.
Trong những ngày của thời đại Liên Xô, và ngay cả sau khi hệ thống cộng sản Đông Âu sụp đổ vào năm 1991, Ukraina vẫn là một trung tâm nông nghiệp và công nghiệp. Kể từ năm 1991, và nhất là từ sự thay đổi chế độ do bàn tay của Đế chế vào năm 2014, Ukraine đã nhanh chóng trở thành quốc gia nghèo nhất châu Âu và mất đi 14,7 triệu người khi họ rời bỏ mảnh đất này.
Ukraina không khác gì các quốc gia khác dưới quyền bá chủ của phương Tây: phải đối mặt với đói nghèo, tê liệt hệ thống phòng thủ, mất số lớn dân và phụ thuộc vào thế giới thứ ba.
Kẻ xâm lược thực sự là ai?
Lý do duy nhất mà Bộ Ngoại giao Mỹ có mặt ở Ukraina là nhằm gây bất ổn cho Nga. Kế hoạch của Đế chế là cô lập Nga bằng nhiều cuộc cách mạng màu mà nó tổ chức ở các quốc gia giáp biên giới với Nga. Ví dụ gần đây nhất là những gì vừa xảy ra vào tháng Giêng này ở Kazakhstan. Thủ phạm của cuộc cách mạng màu Kazakhstan và các cuộc cách mạng màu khác gần đây luôn giống nhau: CIA của Mỹ, MI6 của Anh và Mossad của Israel.
TUYÊN TRUYỀN # 7: NẾU NGA ĐƯA QUÂN SỰ VÀO UKRAINA, ĐÓ SẼ LÀ MỘT SỰ CAN THIỆP BẤT HỢP PHÁP CỦA NƯỚC NGOÀI
SỰ THẬT: Không, cuộc xâm lược thực sự đã diễn ra từ năm 2005 và 2014 bởi Đế quốc và NATO. Cuộc xâm lược của Đế chế ở đây cũng tương tự như các cuộc xâm lược các nước khác: thay đổi chế độ, tiếp quản quân đội và điều hành các chính phủ bù nhìn từ các đại sứ quán Hoa Kỳ, biến Ukraina từ quốc gia có chủ quyền thành một nước chư hầu.
Nếu quân đội Nga tiến vào lãnh thổ Ukraina, nó sẽ nhằm mục đích giải phóng người dân Ukraina khỏi những kẻ xâm lược hiện tại của họ. Cuộc giải phóng sẽ diễn ra đầu tiên ở khu vực Donbas được đánh dấu bằng viện trợ nhân đạo của Nga, với một số sự giúp đỡ để xây dựng lại cơ sở hạ tầng và nền kinh tế Ukraina mà Đế chế đã phá hủy.
Nga cam kết bảo vệ người dân Nga ở Donbas của Ukraina nhưng không muốn sáp nhập Ukraina vào Liên bang Nga.
THẾ GIỚI ĐA CỰC MỚI
Các nguồn sức mạnh cho một trật tự mới trên thế giới đã sẵn sàng. Thời kỳ bá chủ của Mỹ, được thiết lập tại Bretton Woods (1944), đang hoàn toàn bị đảo ngược. Thế giới đang nhanh chóng chuyển từ cơ sở đơn cực của Đế chế sang cơ sở quyền lực đa cực của Nga, Trung Quốc, Iran và Ấn Độ.
Thật không may, sự kiêu ngạo của Đế quốc khi họ từ chối Nga đã buộc người Nga phải tiến về phía đông để gặp Trung Quốc. Tuy nhiên, Nga luôn hết sức thận trọng trong mối quan hệ mới của họ với Trung Quốc, nên không đề cập đến một “liên minh”, nghĩa là về mặt quân sự, mà chỉ là “quan hệ đối tác chiến lược”, chủ yếu là kinh tế. Nga sẽ không bao giờ dại dột tham gia vào các nghĩa vụ của một liên minh quân sự.
Động thái này đã đặt Nga vào một tình thế hơi khó khăn, đặc biệt là nếu mối quan hệ ngày càng sâu sắc. Đối với Nga là Cơ đốc giáo và Trung Quốc là vô thần. Hy vọng của Nga ở đây là sẽ có số lượng và sức mạnh ngày càng tăng của nhà thờ Chính thống giáo Trung Quốc.
Lịch sử đã chứng minh rằng khi một sự thay đổi quyền lực lớn từ trật tự cũ sang trật tự mới, thì giai đoạn chuyển giao đó không bao giờ suôn sẻ. Vì mặc dù là các nước chư hầu của trật tự cũ, các nước nhỏ hơn luôn phụ thuộc về quân sự và kinh tế vào đế chế, thì khi một đế chế mất dần quyền lực, các tranh chấp cũ ngay lập tức xuất hiện và các nền kinh tế nhỏ hơn sẽ lập tức ở vào tình trạng “rơi tự do”.
Ngoài ra, bất chấp những bước tiến của Nga ra khỏi hệ thống tài chính phương Tây, chúng vẫn bị ràng buộc với một ngân hàng trung ương theo kiểu phương Tây. Họ sẽ không bao giờ thực sự thoát khỏi Đế chế cho đến khi họ thoát được khỏi trung tâm tài chính Thành phố London. Tất cả những điều này cần có thời gian.
Nhưng điều chắc chắn là các mảng kiến tạo quyền lực hiện đã chuyển từ trật tự cũ của Đế chế sang trật tự phương Đông mới. Đế chế cũ thối nát phải sụp đổ và hy vọng một trật tự đa cực mới sẽ tạo cơ sở cho các quốc gia chung sống trong hòa bình.
PHẦN KẾT LUẬN
Những người bảo thủ Mỹ và những người theo Cơ đốc cần bắt đầu đặt Cơ đốc giáo của họ lên trên chủ nghĩa dân tộc của họ và có một cái nhìn khách quan về chính sách đối ngoại của đất nước chúng ta. Chúng ta sẽ không thể sửa chữa các chính sách quốc tế tai hại của mình trừ khi chúng ta nhìn nhận một cách trung thực những gì chúng ta đã làm.
Thời của những người bảo thủ che đậy tội ác quốc tế của Bộ Ngoại giao với việc đập ngực và la hét “Oohrah” và “USA, USA” đã qua. Chúng ta phải ngừng nghe kiểu nhà bình luận Sean Hannity-matinee, những người “không thấy gì xấu xa” khi nhìn vào chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Những khuyết điểm mới của Mỹ đã được cân nhắc trong sự cân bằng và là mong muốn phải được tìm ra. Mệt mỏi vì chiến tranh đã ập đến. Người Mỹ đã ngán ngẩm vì những cuộc chiến vô tận và vô nghĩa của họ.
Các câu hỏi đang bắt đầu được đặt ra. Tại sao quân đội Hoa Kỳ có tới hơn 750 căn cứ tại hơn 150 quốc gia? Ai đã trao cho Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ quyền thống trị thế giới? Mối quan tâm thực sự của người Mỹ đối với những nước ngoài này là gì?
Chúng ta phải đối mặt với số lượng tàn phá lớn và sự khốn khổ của con người mà Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã gây ra cho thế giới kể từ Thế chiến II. Chính sách chiến tranh, trừng phạt kinh tế, thay đổi chế độ của Hoa Kỳ, tạo ra xung đột, phong tỏa, phá giá tiền tệ và hạn chế thương mại đã dẫn đến cuộc khủng hoảng nhân đạo lớn nhất kể từ khi Thế chiến II kết thúc. Liệu những người Mỹ bình thường có nhận ra rằng chúng ta là một quốc gia bị căm ghét và khinh thường trên toàn thế giới vì sự can thiệp của chúng ta không? “Giải cứu thế giới vì dân chủ ư?”. Oh, làm ơn, không!
Tôi e rằng tâm trí bình thường của người Mỹ – đã trải qua nhiều thập kỷ tuyên truyền ca ngợi chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ như hình ảnh thu nhỏ của sự công bình với một số kiểu kêu gọi thánh thiện – sẽ không thể thoát khỏi tình trạng tinh thần hiện nay của họ. Nhưng đó là tin tốt. Đế chế Anh-Mỹ-Zionist đang trong sự sụp đổ tự do. Quân đội Mỹ và bá quyền trên toàn thế giới sắp kết thúc. Sự tan rã của NATO đang diễn ra. Hiện đã có các chính trị gia Pháp thúc đẩy Pháp rút khỏi NATO.
Tất cả các đế chế đều sụp đổ. Đế chế này cũng sẽ rơi. Các đế chế sụp đổ bởi vì họ không thể duy trì các chi phí của quyền bá chủ và họ đã tan vỡ. Thất bại của Đế chế ở Afghanistan là khởi đầu của một khuôn mẫu lớn hơn sẽ tiếp tục đến tận cùng các góc cạnh của Đế chế.
Tin tốt khác là sự gia tăng ảnh hưởng của Liên bang Nga trên toàn thế giới. Nga, dường như là tiếng nói quốc tế duy nhất trên thế giới, đã có ảnh hưởng rất ổn định trong thập kỷ qua. Nga hầu như đã chấm dứt việc Mỹ tài trợ và dẫn đầu các cuộc chiến tranh ủy nhiệm ở Trung Đông, và Nga là một trong số ít quốc gia có thể kiểm soát được nhà nước bất hảo của Israel, nơi họ buộc phải sống trong hòa bình với các nước láng giềng.
Nga cũng đã từng là một đế chế. Họ không tìm kiếm lại điều đó hoặc trở thành một đế chế khác, nhưng họ muốn có được sự an toàn cho người dân của họ khỏi những kẻ xấu xa, yêu chiến tranh, đề cao chủ nghĩa thống trị, phân biệt giới tính, khoái lạc, ủng hộ phá thai, khiêu dâm, phản gia đình, phản Chúa – các quốc gia của phương Tây.
Này phương Tây, hãy để Nga yên. Sự phục hồi của họ sau thời kỳ vô thần là điều kỳ diệu hiện đại của thời đại chúng ta. Ai có thể chứng kiến một nước Nga Cơ đốc xuất hiện từ đống đổ nát của sự sụp đổ Liên Xô, và tất cả điều đó chỉ diễn ra trong ba thập kỷ?
Mỹ, hãy để Nga hoàn thành công cuộc phục hồi. Hãy để số phận mới của Nga đi theo hướng của nó. Định mệnh một lần nữa sẽ đưa Nga đến một nơi như một trong những quốc gia Cơ đốc giáo vĩ đại trên thế giới.
Đối với Châu Âu và Châu Mỹ thời hậu Cơ đốc giáo, tất cả những gì còn lại là chịu sự phán xét. Tôi tin rằng nó là không thể thay đổi. Phương Tây đã phung phí di sản Cơ đốc giáo và các phước lành của mình. 100 năm chiến tranh không hồi kết, khủng bố do nhà nước bảo trợ và sự suy đồi được thể chế hóa đã tạo nên cơn lốc. Sự sụp đổ không đến, mà nó đã ở trên chúng ta.
Giống như Nga, phương Tây cũng có số phận sắp tới và phải chạy theo lộ trình của nó. Sau khi sụp đổ, Châu Âu và Châu Mỹ phải xây dựng lại. Có thể trong sự quan phòng ân cần của Đức Chúa Trời, một nước Nga Cơ đốc có thể là kiểu mẫu của chúng ta và hỗ trợ chúng ta trong việc canh tân một nền văn minh Cơ đốc mới.
Hai nước cộng hoà tự xưng Donetsk và Lugansk nằm trên biên giới Nga – Ukraine. Ảnh: Economist
Ngày 21/2/2022, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã công nhận hai khu vực ly khai ở miền đông Ukraine là Donetsk và Luhansk là các quốc gia độc lập.
Tổng thống Nga Vladimir Putin ngày hôm qua 21/2 thông báo, hai khu vực ly khai ở miền đông Ukraine là Donetsk và Luhansk đã được công nhận là các quốc gia độc lập và ký một sắc lệnh tuyên bố hai khu vực này không còn là một phần của Ukraine.
Ông Putin cũng đã chỉ thị cho các lực lượng vũ trang Nga thực hiện nhiệm vụ trên lãnh thổ “Cộng hòa Nhân dân Donetsk” và “Cộng hoà Nhân dân Luhansk” với mục đích “gìn giữ hòa bình”.
Việc này đã diễn ra sau khi các nhà lãnh đạo của hai nước cộng hòa tự xưng công bố video kêu gọi tuyên bố độc lập.
Tổng thống Nga Vladimir Putin ký sắc lệnh công nhận hai khu vực ly khai ở miền đông Ukraine là các quốc gia độc lập. Ảnh: Reuters
Vị trí địa lý
Các khu vực Donetsk và Luhansk – được gọi chung là Donbass – nằm ở phía đông Ukraine, gần biên giới với Nga. Khu vực này do cả Kiev và phe ly khai kiểm soát. Các ngành công nghiệp chính trong khu vực là khai thác than và sản xuất thép.
Thành phần dân số
Có 3,6 triệu người sống ở các khu vực Donetsk và Luhansk, hầu hết đều nói tiếng Nga. Đây là kết quả của việc di cư của công nhân Nga đến đây trong thời kỳ Liên Xô sau Chiến tranh thế giới thứ 2.
Theo hãng tin AP, trong những năm gần đây, Moscow đã cấp hơn 720.000 hộ chiếu Nga cho khoảng 1/5 dân cư địa phương.
Khu vực do lực lượng vũ trang ly khai kiểm soát
Những người ly khai thân Nga ở Donetsk và Luhansk đã tiếp quản các toà nhà của chính quyền tại đây vào năm 2014 và tuyên bố hai khu vực là “nước cộng hòa nhân dân” độc lập. Trước khi có tuyên bố này, Nga từng sáp nhập Crimea từ Ukraine.
Xung đột tại Donbass
Kể từ năm 2014, hơn 14.000 người đã thiệt mạng trong các cuộc đụng độ giữa lực lượng ly khai thân Nga và quân đội Ukraine ở vùng Donbass. Ukraine và phương Tây cáo buộc Nga hỗ trợ lực lượng ly khai về mặt quân sự và tài chính, nhưng Moscow bác bỏ cáo buộc này.
Trong thời gian xung đột, một máy bay chở khách của Malaysia Airlines đã bị bắn rơi ở miền đông Ukraine vào năm 2014, khiến tất cả 298 người trên máy bay thiệt mạng. Các nhà điều tra quốc tế kết luận rằng, tên lửa do Nga cung cấp và được phóng từ khu vực do lực lượng ly khai thân Nga kiểm soát. Nhưng Nga đã phủ nhận liên quan đến vụ máy bay bị bắn rơi.
Nền độc lập tự xưng
Sau khi lực lượng ly khai ở các vùng Donetsk và Luhansk giành được chính quyền tại địa phương vào năm 2014, họ đã bỏ phiếu để tuyên bố độc lập. Cho đến nay, vẫn chưa có quốc gia nào công nhận nền độc lập của họ.
Ngày hôm qua 21/2, sau cuộc họp của Hội đồng An ninh Liên bang Nga, Tổng thống Putin đã tuyên bố công nhận nền độc lập của hai khu vực. Tuyên bố của ông Putin được đưa ra sau khi các nhà lãnh đạo ly khai của hai khu vực công bố video kêu gọi công nhận nền độc lập của họ.
Các nhà lãnh đạo của hai nước cộng hòa tự xưng
Cả hai vùng đều có tổng thống tự xưng. Trong một cuộc bỏ phiếu không được Kiev công nhận vào năm 2018, Denis Pushilin đã được bầu làm Tổng thống của “Cộng hòa Nhân dân Donetsk”, còn nhà lãnh đạo của “Cộng hoà Nhân dân Lugansk” là Leonid Pasechnik.
Hai nhà lãnh đạo của các nước cộng hoà tự xưng: Leonid Pasechnik (trái) và Denis Pushilin (phải). Ảnh: Sputnik
Tiến trình hòa bình Minsk
Việc Nga công nhận nền độc lập của hai khu vực ly khai đã chấm dứt hiệu lực của Thỏa thuận Minsk. Thỏa thuận Minsk được ký kết vào năm 2014 và 2015, kêu gọi một mức độ tự trị đáng kể cho cả hai khu vực bên trong lãnh thổ Ukraine. Nhưng thỏa thuận này chưa bao giờ được thực hiện đầy đủ.
Các khu vực ly khai khác đang được Nga kiểm soát
Trước đó, Nga đã công nhận nền độc lập của hai khu vực ly khai của Gruzia là Abkhazia và Nam Ossetia sau một cuộc chiến ngắn với Gruzia vào năm 2008. Kể từ đó, Nga đã đóng quân tại các khu vực này và trao quyền công dân Nga cho người dân địa phương.
Hôm nay 13/3/2022 kỉ niệm 110 ngày sinh của luật sư Vũ Trọng Khánh(1912-1996), mời quý vị đọc bài viết này.
Vài ký ức về ba tôi PGS TS Vũ Trọng Khải
(Viết trong những ngày Vu Lan Báo Hiếu tháng 07 năm Giáp Ngọ 2014)
Có lẽ, hầu như mọi người đều có cảm giác hối tiếc, ân hận sau cái chết của cha, mẹ mình. Tại sao lúc cha, mẹ còn sống, mình đã không làm điều này hay điều kia để chăm sóc báo hiếu cha, mẹ mình. Giá mình đã làm điều này thì cha, mẹ mình sẽ vui hơn, hay có thể sống thêm được ít năm tháng nữa cùng con, cháu…! Nhưng lịch sử làm gì có chữ “nếu” hay “giá như”. Thế là, mỗi người chúng ta tiếp tục sống sau khi cha, mẹ qua đời trong niềm hối hận sâu sắc, cho đến khi mình chết và “nhường” lại niềm hối hận ấy cho con cái mình. Phải chăng điều này là muôn thuở? Là như ông bà ta đã dạy “nước mắt chảy xuôi”, “một mẹ nuôi được trăm con, nhưng trăm con không nuôi được một mẹ” …? Để bù lại, người ta lại tìm cách gặp lại cha, mẹ mình bằng cách “gọi hồn”. Người ta thường hỏi hồn cha, mẹ mình rằng cha, mẹ có điều gì buồn lòng vì con, cháu không? Chúng con có thể làm gì bây giờ để cha, mẹ được vui vẻ hạnh phúc hơn ở thế giới bên kia? Hầu như mọi người đều nhận được câu trả lời rằng: Cha, mẹ không có gì buồn phiền về con, cháu và cũng không cần con, cháu phải làm gì cho cha mẹ, ngoài việc cúng giỗ gia tiên, cửu huyền thất tổ cho tử tế!
Riêng tôi, ngoài cảm nghĩ như mọi người, tôi còn một điều ân hận là đã không hỏi ba tôi nhiều điều trong lịch sử hoạt động đầy sóng gió của ông. Đến bây giờ, ngồi nghĩ lại, nhiều vấn đề của gia tộc mình, của cha, mẹ mình mà cuộc đời của họ gắn với sự ra đời và phát triển của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, vẫn không được giải đáp thỏa đáng.
Cũng như nhiều người khác, cuộc đời cứ xô đẩy tôi mãi miết chạy theo sự nghiệp riêng, đến mức tôi đã không có thời gian để ngồi cùng ba tôi đàm đạo đầy đủ về mọi vấn đề cần thiết, để hiểu ba tôi hơn, hiểu lịch sử nước mình hơn qua quãng thời gian hoạt động của ông.
Ba tôi chỉ làm Bộ trưởng Bộ Tư pháp của chính phủ lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa 181 ngày. Trong chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do Quốc hội bầu ra năm 1946, cụ Vũ Đình Hòe, đảng viên Đảng Dân chủ, có bằng cử nhân luật, nhưng lại hành nghề dạy học và làm báo “Thanh Nghị”, là Bộ trưởng Bộ Quốc Gia Giáo dục trong chính phủ lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Tư pháp, cho đến năm 1960, khi bộ này “bị” hay “được” giải thể. Ba ơi, lúc sinh thời ba có lần kể cho con nghe lý do ba thất cử Nghị viên (đại biểu quốc hội) trong cuộc bầu cử Nghị viện (Quốc hội) của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa năm 1946. Ba nói rằng, ba không nhận sự giới thiệu và cổ động bầu cử của Mặt trận Việt Minh, mà ra ứng cử tự do, không thuộc đảng phái nào, vì ba rất tin vào uy tín của cá nhân mình trước cử tri Hải Phòng. Sau khi thất cử Nghị viên ở Hải Phòng, cụ Hồ Chí Minh có nói với ba rằng, Việt Minh sẽ giới thiệu ba ra ứng cử Nghị viên tại quê nhà Hà Đông trong đợt bầu cử bổ sung. Nhưng ba đã từ chối vì tự ái cá nhân. Do đó, ba không thể tiếp tục làm Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong chính phủ chính thức do Nghị viện bầu. Vì theo Hiến pháp 1946, Bộ trưởng trong chính phủ phải là Nghị viên. Bác Vũ Đình Hòe lại nói với con là, Quốc dân đảng muốn nắm ghế Bộ trưởng Bộ Tư pháp nên đã cho người của họ bôi lên các áp – phích cổ động bầu cử, chuyển tên ứng viên Vũ Trọng Khánh thành Vũ Hồng Khanh, một lãnh tụ gạo cội của Quốc dân đảng. Do vậy ba đã thất cử. Con nghĩ điều bác Hòe nói chỉ là một phần của lý do ba thất cử nghị viên thôi. Bởi vì người ta có thể thay tên đổi họ các ứng viên trên áp-phích cổ động, chứ không thể làm thế trên phiếu bầu.Con nghĩ, lý do chủ yếu vẫn là do ba quá tự tin, không để cho mặt trận Việt Minh giới thiệu và cổ động bầu cử cho ba, như ba đã nói với con lúc còn sống. Còn trong hồi ký, ba viết rằng Việt Minh muốn giành ghế Bộ trưởng Bộ Tư pháp cho đảng dân chủ, nhưng ba đã không hiểu ý đồ này, nên đã từ chối lời mời vào Đảng Dân chủ của bác Vũ Đình Hòe và Phan Anh. Điều này có lẽ chỉ xảy ra trong thời ký chính phủ lâm thời mà thôi. Vì mặt trận Việt Minh muốn có một chính phủ đa đảng để dễ thuyết phục các thành phần khác không nằm trong mặt trận Việt Minh. Khi đã có Quốc hội (Nghị viện), Hiến pháp 1946 đã qui định Bộ trưởng phải là đại biểu quốc hội (Nghị viên) nên ba cũng không thể được bầu là thành viên chính phủ chính thức. Còn việc soạn thảo Hiến pháp 1946, vai trò của ba thế nào? Trong giai đoạn chính phủ lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, theo sắc lệnh số 34 ngày 20/09/1945 do chủ tịch Hồ Chí Minh ký về việc thành lập ban soạn thảo Hiến pháp, ba là thành viên duy nhất (trong bảy thành viên) được đào tạo chính qui về luật học và đã có kinh nghiệm hành nghề luật sư được 5 năm. Nhưng khi có Nghị viện, năm 1946, một ủy ban soạn thảo Hiến pháp do Nghị viện cử ra bao gồm các Nghị viên. Ông Nguyễn Đình Thi, Nghị viên trẻ tuổi nhất (lúc đó ông mới 22 tuổi), tác giả bài ca “Diệt Phát Xít” nổi tiếng, là người được ban soạn thảo cử ra trình bày trước Nghị viện bản dự thảo Hiến pháp 1946. Trong giai đoạn này, ba có vai trò gì trong soạn thảo hiếp pháp 1946 nữa không? Con thấy các bản Hiến pháp của các nước văn minh theo tam quyền, phân lập, thông thường, chỉ có chủ tịch hay thủ tướng chính phủ mới phải là Nghị viên (nghị sĩ quốc hội), còn các bộ trưởng trong chính phủ, nhất thiết không thể là Nghị viên. Điều đó đảm bảo sự phân quyền, trách nhiệm rõ ràng giữa cơ quan lập pháp là Quốc hội (nghị viện) và hành pháp là chính phủ để chống lại việc lạm quyền.
Lúc soạn thảo hiến pháp năm 1946,khi đã có Quốc hội chính thức, ba có ý kiến gì về điều này không? Nếu ba cũng đồng ý thì ba đã rơi vào hoàn cảnh của Tể tướng nước Tần là Thương Ương ở bên Tàu cách đây hơn 2000 năm: Kẻ làm ra luật lại bị chính luật ấy trị mình! Còn giữa năm 1946, ba sang Pháp để làm cố vấn pháp lý cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, ba đã làm được gì? Bây giờ, đọc lại tư liệu, con thấy ba đã soạn thảo rất nhiều các sắc lệnh về tư pháp, trình chủ tịch Hồ Chí Minh ký và ba tiếp ký. Trong giai đoạn chính phủ lâm thời, chưa có Nghị viện và Hiến pháp, thì sắc lệnh là hình thức luật lệ cần thiết để quản lý xã hội. Do vậy, người ta vẫn thường nói chỉ trong 181 ngày ngồi trên ghế Bộ trưởng Bộ Tư pháp, ba đã đặt nền móng cho hệ thống tư pháp của thể chế Dân chủ Cộng hòa của nước Việt Nam. Ba cũng thường nói là trong các sắc lệnh ấy, 4 sắc lệnh quan trọng nhất là:
i. Sắc lệnh về tổ chức đoàn thể luật sư (số 46 ngày 10/10/1945)
ii. Sắc lệnh về quốc tịch Việt Nam (số 53 ngày 20/10/1945)
iii. Sắc lệnh về tổ chức tòa án và ngạch thẩm phán (số 13, ký ngày 24/01/1946)
iv. Sắc lệnh tổ chức toàn án quân sự (số 21, ngày 14/02/1946)
Nhưng con nghĩ, sắc lệnh quan trọng nhất, được đánh giá cao trong thời khắc lịch sử còn đang “trứng nước” của chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là sắc lệnh số 47 ngày 10/10/1945 về việc “Tạm thời áp dụng luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung, Nam, nếu không trái với những điều thay đổi được ấn định, cho đến khi ban hành những bộ luật pháp duy nhất cho toàn nước Việt Nam”. Một đất nước, một xã hội của bất kỳ dân tộc nào theo thể chế nhà nước pháp quyền, không thể không có luật pháp, dù chỉ 1 ngày. Còn bác Hòe thì nói: Thà luật xấu còn hơn không có luật.
Con nghĩ 181 ngày này là thời gian “hoành tráng” nhất trong cuộc đời hoạt động của ba với tư cách là 1 luật gia sắc sảo được đào tạo chính quy, tuy lúc đó ba mới chỉ 33-34 tuổi đời.
Ba ơi, trong đời thường, con vẫn nhớ ba là người cư xử nhẹ nhàng, mềm dẻo, nhưng lập luận chặt chẽ, logic. Trong công việc, bác Vũ Đình Hòe cũng nói vậy. Trong hồi ký của mình, bác Hòe có viết bài: “Vũ Trọng Khánh – ôn hòa khôn khéo bảo vệ chính nghĩa”. Bác Hòe đã viết trong bài này là “ông Lê Giản, tổng giám đốc Nha công an VN có nói: “mấy tháng cuối năm 1945, thời gian ông Vũ Trọng Khánh làm Bộ trưởng Tư pháp, quân lính mình (tức cán bộ công an của ông Lê Giản) bắt giam bừa bãi bọn Việt Quốc, Việt Cách (chúng cũng quậy lắm cơ, ỷ vào quân Tàu Tưởng), Vũ Bộ trưởng – nguyên luật sư có khác – khôn khéo, mềm dẻo, tự thân mình giảng giải phải – trái, lợi – hại, bày cho mưu mẹo hợp thức hóa. Nhờ vậy, không những mình làm “được việc”, mà còn học thêm được những bài cơ bản về pháp lý công an tư pháp”.
Ba cư xử mềm dẻo nhưng lý lẽ sắc bén trong mọi tình huống. Nhưng ba lại quá cả nể cả tin vào người đời. Ba nghĩ ai cũng tốt bụng như ba. Dễ tin người, cả nể, nên con nghĩ ba chỉ làm luật sư giỏi, không thể làm chính trị gia được. Đúng không ba?. Cũng vì dễ tin người, tin vào xã hội, nên ba đã phó thác con cho nhà trường dạy dỗ. Và ba không hề dạy con tiếng Pháp, tại sao ba? Mặt khác, ba đã giáo dục con tính tự lập, không dựa vào vị thế của ba trong xã hội để giải quyết vấn đề của mình, như chọn ngành học hay đi làm nghiên cứu sinh ở nước ngoài. Con nghĩ, chỉ có 1 lần duy nhất trong đời con buộc phải dựa vào uy tín của ba để giải quyết vấn đề của con. Đó là lần nhờ ba viết thư cho bác Bùi Quang Tạo, Bộ trưởng Bộ Kiến Trúc để xin mua vật liệu làm nhà ở làng Mọc Chính Kinh (nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội), quê mẹ con, trước khi con lấy vợ (năm 1973). Vì thế, sự thành công trong sự nghiệp khoa học của con hầu như do nỗ lực và sự nhạy bén với thực tiễn của bản thân. Con cảm ơn ba. Trong tranh luận học thuật, ba thường rất nhẹ nhàng nhưng sâu sắc. Trong cuộc tranh luận với ông Quang Đạm về tư pháp trong các năm 1948 – 1949, ba đã mở đầu 1 bài viết như thế này: “Ở đây tôi sẽ trình bày lý lẽ một cách điềm đạm và cụ thể, cố tránh lối văn hùng hồn và trừu tượng, nó chỉ khêu gợi cảm tình mà không làm cho người đọc hiểu được rõ, cũng cố tránh những lời châm biếm, nó chỉ sướng mồm kẻ nói, mất lòng người nghe mà chẳng giúp thêm lý lẽ, cho trí phán đoán của độc giả”. (Báo ST số 115, ngày 10/7/1949). Ông Quang Đạm không thừa nhận quan điểm tam quyền phân lập và tư pháp độc lập với hành pháp. Nhưng sau, ông Quang Đạm đã thấy sự sai lầm của mình và ba đã đúng. Bác Hòe viết trong hồi ký: “chính ông Quang Đạm, 40 năm sau, đã thừa nhận quan điểm pháp lý của ông lúc ấy, về lý thuyết “có phần giản đơn và siêu hình” (chỉ “về lý thuyết” và chỉ “có phần” thôi nhé, thật là nực cười ! Vũ Trọng Khải); “Còn trên thực tế phát triển cách mạng đã dẫn đến tình trạng “quyền lực của tư pháp cũng như lập pháp, xét cho cùng chỉ là “hữu danh vô thực” và bên trên cả 3 quyền lực (tức là trên cả hành pháp), mọi người nghĩ đến một “siêu quyền lực” quyết định tất cả, là cấp ủy đảng lãnh đạo” và “giới chuyên môn tư pháp cho là ông Quang Đạm đã “sám hối”; còn bác Vũ Đình Hòe coi “đó là sự phục thiện dũng cảm”. Ấy vậy mà trong cuộc chỉnh huấn năm 1953 ở ATK (An toàn khu), ba phải thừa nhận quan điểm của mình khi tranh luận với ông Quang Đạm là sai lầm, do đã thụ hưởng nền giáo dục của thực dân Pháp. Mặt khác,con nghỉ,chinh vì quan điểm tư pháp của ba thể hiện qua cuộc tranh luận với ông Quang Đạm ,nên ngừơi ta đả không để ba làm giám đốc tư pháp khu X nửa ,và điều ba về Bộ tư pháp giử cương vị”Trưởng ban nghiên cứu pháp lí”,rồi “Vụ trưởng vụ hành chính tư pháp” từ đầu năm 1949 đến đầu năm 1955,trước khi ba đi tiếp quản thành phố Hải Phòng.
Con thừa hưởng năng khiếu hùng biện, lập luận logic của ba nhưng lại tiếp nhận sự nóng nảy, phản ứng linh hoạt của mẹ. Nên lúc còn trẻ, con vẫn bị ba và cả mẹ phê bình là “hấp tấp”. Ở trường, nhất là khi học đại học và ra công tác, con đã tham dự nhiều cuộc tranh luận với những “sắc thái di truyền” từ cả ba và mẹ. Ba ơi, lẽ ra con phải học luật để làm nghề luật sư, nối nghiệp ba và chắc con sẽ thành công ba nhỉ? Vì con ăn nói hùng biện mà. Nhưng lúc ấy, (1963) Miền Bắc nước ta không có trường luật, hay khoa luật, mà chỉ có trường Cán bộ Tư pháp. Lúc đó Miền Bắc cũng không có nghề “luật sư”. Con còn nhớ, có lần ba đi bào chữa ở toà án về, đưa cho mẹ một phong bì tiền thù lao do tòa án thành phố Hải Phòng trả. Mẹ mở phong bì ra chỉ thấy có 20 đồng, liều kêu lên “ông nghiên cứu hồ sơ cả tháng trời mà chỉ được trả công 20 đồng à?”. Vì đó là mức thù lao do Bộ tài chính quy định để trả thù lao làm việc thêm giờ cho viên chưc nhà nước. Thân chủ không được phép trả thù lao cho người bào chữa cho mình. Mà hồi ấy, ba toàn bào chữa cho những người bị oan sai và nghèo túng, nên nhiều khi ba mẹ còn phải giúp đỡ họ ít nhiều. Khi cháu nội đích tôn của ba vào đại học (1992), con muốn nó nối nghiệp ba nên cho đi học luật ở Moskova (Liên bang Nga). Và ba đã rất hy vọng ở nó, viết thư hướng dẫn nó học luật, đặc biệt chú ý nghiên cứu án lệ. Nhưng thằng Vũ Trọng Minh, cháu nội đích tôn của ông, học luật nhưng lại có năng khiếu đi buôn do thừa hưởng gene của bà ngoại nó. Bây giờ nó là một international trader khá thành công. Trong khi đó, 2 đứa chắt gái ngoại của ông đi theo nghề luật sư của cụ ngoại. Chắt Hồng Trang đang là luật sư tập sự ở thành phố Hồ Chí Minh; chắt Thu Hương đang học năm thứ 4, đại học luật thành phố Hồ Chí Minh. Con có hỏi hai đứa rằng: Trường Luật có dạy tư tưởng tam quyền phân lập của Jăng – Jắc – Rút – Xô[Jean Jacques Rousseau] và Mông – tes-ki-ơ [Montesquieu] không thì chúng đều trả lời là không. Con nghĩ học hành như vậy làm sao chúng có thể theo được nghề luật của ba.
Sau đảo chánh Nhật, chính phủ Trần Trọng Kim ra đời, Hải Phòng rơi vào khoảng trống quyền lực. Ba đã nhận làm Đốc lý (Thị trưởng) vì sợ kẻ xấu nằm vị trí này có hại cho đời sống người dân và cho Việt Minh. Ba đã liên hệ với Việt Minh và trao chính quyền Hải Phòng cho Việt Minh ngày 23/08/1945 trong hòa bình. Nhưng trong cuộc chỉnh huấn năm 1953, ba lại bị phê bình và cũng tự nhận khuyết điểm là việc nhận chức đốc lý Hải Phòng chỉ làm tăng uy tín của chính phủ Trần Trọng Kim, gây khó khăn cho Việt Minh khi giành chính quyền ở Hải Phòng năm 1945.
Không hiểu lúc đó, trong thâm tâm ba nghĩ gì? Một bên là những giáo điều của tổ chức, một bên là những gì thuộc bản chất lương thiện, mềm dẻo và tri thức, tình cảm được tiếp nhận từ văn minh và văn hóa Pháp, ba đã sống thế nào?
Khổ tâm bao giờ cũng làm người ta đau đớn hơn gấp nhiều lần khổ vì thiếu ăn, thiếu mặc. Nhưng ba đã vượt qua, nên chúng con mới có cuộc đời tuy không hơn ai nhưng còn sướng hơn nhiều bạn cùng trang lứa. Con thấy ba quá cẩn trọng trong công việc. Ba lưu trữ hồ sơ công việc rất đầy đủ, tỉ mỉ. Vì thế, bây giờ con mới có cái để đọc và để hiểu thêm về cuộc đời ba.
Trong kháng chiến chống Pháp, cuộc sống rất thiếu thốn, nhưng lúc đó con còn nhỏ, không cảm nhận được. Cho nên giờ đây, đọc lại những suy nghĩ dằn vặt, trằn trọc của ba được ghi chép trong cuốn nhật ký 4 tháng chỉnh huấn ở Việt Bắc năm 1953, con muốn khóc vì thương ba quá chừng. Mẹ thì ốm yếu mà vẫn phải kiếm sống bằng đủ nghề, từ may quần áo cho bà con trong thôn xã, đến làm tương, nuôi dê, gà, trồng rau…, ba thì đi công tác vắng nhà thường xuyên, chỉ hưởng phụ cấp, không có lương. Đời sống chật vật, nhưng trong chỉnh huấn ba cứ phải nhận khuyết điểm là cá nhân, quá lo lắng đến đời sống vật chất của mình và gia đình, gây ảnh hưởng đến việc cống hiến cho công cuộc kháng chiến. Khuyết điểm này là do mình được giáo dục dưới chế độ thực dân, thấm nhuần quan điểm, lối sống tư sản, không thông cảm với đời sống của giới cần lao. Có lần ba kể với con rằng, ba đến thăm anh Huỳnh đang học phổ thông ở Tuyên Quang, thấy anh Huỳnh vừa bị hen nặng vừa đói ăn, người lả đi không còn sức sống. Ba đèo (chở) anh đến tiệm phở, sau khi ăn xong anh mới tỉnh lại. Trong nhật ký chỉnh huấn, ba cứ tự trách bản thân, lên án mình sống theo lối tư sản do nhà trường thực dân giáo dục, cố tìm ra bằng được những khuyết điểm cá nhân chủ nghĩa, như ích kỷ, tham ô vặt, để viết cho đủ 4 trang. Ba còn viết thư hỏi mẹ xem ba có khuyết điểm gì không? Không ngờ, mẹ lại còn “giác ngộ” lập trường giai cấp công – nông hơn cả ba. Ba bảo chị Hòa phải đấu tranh đòi quyền lợi thừa kế gia tài nhà chồng, vì luật pháp không phân biệt con bà cả hay con bà hai. Mẹ lại viết thư phê bình ba là của địa chủ (mẹ chồng chị Hòa) phải trả cho nông dân, chứ sao chị Hòa lại có thể nhận thừa kế!! Hay là vì mẹ sợ thư bị kiểm duyệt nên mới viết như vậy?
Ba ơi, con lại đọc được lá thư ông Hoàng Mậu, Phó bí thư, Trưởng ban Tổ chức Thành ủy Hải Phòng viết cho ba về việc ba không được giới thiệu ứng cử HĐND thành phố tháng 4/1961, vì lý do rất mơ hồ: “để tăng thêm đại biểu công nhân và nông dân trong cơ cấu HĐND”. Vì thế, đương nhiên, ba sẽ không còn là phó chủ tịch UBND Hải Phòng khi mới 49 tuổi. Bây giờ ở tuổi 49, cán bộ được coi là trẻ, được “quy hoạch” tạo nguồn cán bộ lãnh đạo. Ba vẫn bình thản, nhận làm mọi việc mà tổ chức phân công, như Phó Chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc, Hội trưởng Hội Phổ biến Khoa học Kỹ thuật, Chủ tịch Hội Luật gia Hải Phòng. Con nghĩ, với các chức vụ ấy, ba chẳng có nhiều việc hữu ích để làm. Nhưng ba đã tạo ra việc làm hữu ích thiết thực cho xã hội. Đó là áp dụng vận trù học (toán kinh tế hay kinh tế lượng) vào quản lý sản xuất của các xí nghiệp và hợp tác xã. Ba đã chấp nhận làm trưởng Tiểu ban vận trù học thuộc Ban khoa học kỹ thuật (tiền thân của Sở khoa học và công nghệ) thành phố. Qủa thực chỉ có ba mới có thể tập hợp được các giáo viên dạy toán ở các trường phổ thông và đại học tại chức Hải Phòng, như cô giáo Đàm Lê Đức, anh Nguyễn Vũ Phong … và thuyết phục các vị lảnh đạo cơ sở chấp thuận áp dụng vận trù học trong quản lý sản xuất ở nhà máy cơ khí Duyên Hải (sóng Duyên Hải, gió Đại Phong, cờ Ba Nhất) và hợp tác xã nông nghiệp An Thắng ở huyện An Lão do anh Ngô Thanh Phương làm chủ nhiệm và ở một vài đơn vị khác…
Cuộc sống thời bao cấp quá khó khăn, khi ở nơi sơ tán, lúc trở về nhà ở thành phố, không hiểu sao ba mẹ vượt qua được, mà con thật vô tình, chẳng giúp gì được. Sau khi nước nhà thống nhất, ba vào Sài Gòn chơi, và đã nảy sinh ra sáng kiến làm nghề xay bột cho trẻ em, Ba mua được mô – tơ điện đem về gắn với máy xay bột do mấy “đệ tử” là công nhân cơ khí chế tạo giúp. Con còn nhớ, điện lúc có lúc không, nên việc xay bột cũng bấp bênh. May nhờ có ông Đoàn Duy Thành (chủ tịch, rồi Bí thư thành ủy của Hải Phòng) lệnh cho Sở Điện lực “câu” 1 đường điện ưu tiên cho nhà mình, Ba chỉ dùng cho máy xay bột, còn cả nhà vẫn tối om với ánh sáng đèn dầu. Ba và mẹ thay nhau xay bột, nhiều hôm phải làm đến tận khuya 12 giờ đêm. Hồi ấy mà có công nghiệp thực phẩm như bây giờ chắc ba mẹ mất nghề.Thât khôi hai va kì lạ, một vị luật sư “ Tây học” đả thành danh,không biêt nấu cơm,không biết tiêu tiền,nhưng lại biết va phải biết xay bột cho trẻ em để kiêm sông!Thằng Cao Thiệu Tường, bạn cùng học với con hồi phổ thông, lúc đó là trưởng phòng Vật tư, thuộc Ủy ban Kế hoạch Hải Phòng, có kể với con rằng: Ba lên gặp nó xin mua 1 mô – tơ điện (và mua xi măng làm nhà vệ sinh). Hồi đó, mô – tơ điện và cả xi măng, không bán cho cá nhân thu tiền mặt, mà phân phối theo kế hoạch, thanh toán bằng séc, nhưng nó nhận ra ba và tự giới thiệu với ba là bạn học với con. Rồi nó viết và cầm lệnh phân phối mô – tơ điện lên trình ông Trịnh Thái Hưng, Phó Chủ tịch UBND, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Thành phố, ông ấy ký ngay. Khi ba đến cửa hàng mua máy, cô bán hàng ngạc nhiên không hiểu sao lại có trường hợp bán cho cá nhân, thu tiền mặt một loại vật tư quý hiếm, chỉ bán theo kế hoạch phân phối?
Nhớ lại kỷ niệm này, con thấy mình vô tích sự quá, cứ mãi mê theo những chuyện đâu đâu. Bây giờ nghĩ lại, con cũng không hiểu rằng ba lại có thể sống trong căn phòng 48m2 không có phòng ngủ riêng và không có cả nhà vệ sinh, bếp riêng. Trong khi đó, trên cương vị Phó chủ tịch UBHC TP phụ trách nhà đất, trong những năm cuối thập niên 50, đầu thập niên 60 của thế kỷ 20, ba hoàn toàn có thể nhận được 1 căn nhà tiện nghi , như những người lãnh đạo khác cùng thời với ba. Mãi nhiều năm sau, ba mới cải tạo gầm cầu thang vốn là kho để xe đạp, thành nhà vệ sinh dùng riêng, ở ngôi nhà 40 Lạch Tray (Số cũ là 42). Mà lúc ấy, xi măng cũng chỉ phân phối theo kế hoạch. Đích thân ba lại phải lên UBKH thành phố xin mua mấy bao xi măng để xây nhà vệ sinh và thằng Tường bạn học phổ thông với con lại tích cực giúp ba có phiếu mua xi măng. Ba ơi, sao ba giữ mình cẩn thận quá vậy? Rồi ba tham gia cãi nhiều vụ án, cứu được nhiều dân oan. Con còn nhớ HTX An Thắng, huyện An Lão là điển hình tiêu biểu của ngành nông nghiệp Hải Phòng. Anh Ngô Thanh Phương là chủ nhiệm của hợp tác xã này, rất năng động, nhiệt tình xây dựng nên hợp tác xã, kể cả việc ứng dụng vận trù học trong quản lý sản xuất. Nhưng tai họa đã đến với cuộc sống của anh. Khoảng những năm 70 của thể kỷ 20, xã viên hợp tác xã thiếu đói do mất mùa lúa và do chính sách lương thực của nhà nước lúc đó. Anh Phương vận động bà con gom được 3000 đồng và do quan hệ rộng, anh đã thuê máy bay trực thăng của quân đội, lên Sơn La mua sắn (khoai mì) về cho xã viên. Thế là anh bị bắt giam và kết tội vi phạm chính sách lương thực của nhà nước (nhà nước độc quyền phân phối lương thực, xóa bỏ thị trường tự do về lương thực theo nghị định 84 CP năm 1968 của Chính Phủ). Ba đã cãi cho anh được tha bổng. Thấy nhà anh Phương quá nghèo, ba mẹ còn giúp đỡ vật chất cho anh, giúp mấy đứa con của anh Phương ra Hải Phòng học nghề. Rồi anh Phương tự nhận làm con nuôi của ba mẹ. Anh Phương và các con của anh đã làm nhiều việc không tên nhưng lại rất cấp thiết phục vụ cho cuộc sống của ba mẹ, mà đáng lẽ chúng con phải làm. Con rất biết ơn anh ấy. Ba hành nghề bào chữa, lúc đó, không có thù lao từ thân chủ, mà nếu có thì tất cả thân chủ của ba lại quá nghèo. Ba mẹ còn phải giúp đỡ họ, tuy không nhiều, nhưng cũng khiến họ thêm nghị lực để vượt qua lúc hoạn nạn. Con còn nghe nhiều vụ án oan nữa, nhờ ba mà họ được giải oan, như vụ ông giám đốc nhà máy cơ khí kiến thiết HP, thầy giáo Doãn Đông Giao, quyền hiệu trưởng trường cấp 3 Thái Phiên, thời con là học sinh của trường này, bị nghi tham ô, vụ anh bộ đội phục viên, làm công nhân bốc vác ở Cảng Hải Phòng bị nghi là ăn cấp hàng hóa khi bốc xếp…
Con không hiểu khi phải về “hưu non” ở tuổi 49, ba đã vượt lên nỗi đau bằng nghị lực như thế nào để vẫn say sưa làm việc cống hiến thiết thực cho xã hội. Con thương ba quá,và cả mẹ nữa. Nếu không có cái máy xay bột cho trẻ em lại được ông Đoàn Duy Thành cấp cho dòng điện ưu tiên, chắc ba mẹ khó có thể vượt qua thời bao cấp. Đổi lại, và trên hết tất cả, ba được sự quí mến, kính trọng của người dân Hải Phòng, kể cả những người không quen. Con còn nhớ, có lần ba đi bộ trên phố Cầu Đất, bị tụt huyết áp, ngất xỉu, một ông đạp xích lô đã chở ba về nhà, không nhận thù lao. Mà trong túi lúc đó chắc ba cũng chẳng có tiền trả công cho người đạp xe xích lộ. Rồi đám “đệ tử” hay đến nhà đàm đạo với ba đủ mọi chuyện trên đời. Họ đã tự nguyện chữa máy xay bột, máy bơm nước, xe gắn máy… cho ba, mẹ, mà không nhận thù lao. Trong khi đó, chúng con lại chả giúp gì cho ba, mẹ. Cuộc sống thời bao cấp quá khó khăn, lại ở xa, đó là lý lẽ hay nhất để ngụy biện cho chúng con, ba, mẹ ạ.
Khi chuyển sang kinh tế thị trường, cuộc sống dễ thở hơn, chế độ đãi ngộ của nhà nước tốt hơn cho ba, thì ba lại ra đi ( 22 tháng 1 năm 1996 tức ngày 3 tháng Chạp, năm Ât Hợi), rồi năm sau (ngày 5 tháng 6 năm 1997 tức ngày 1 tháng 5 năm Đinh Sửu) mẹ cũng theo ba.
Không ai làm thay đổi được lịch sử, nhưng người ta đã và sẽ viết nhiều lần về một sự kiện lịch sử. Tuy quê ở làng Cự Đà, Hà Đông, nhưng toàn bộ cuộc đời của ba hầu như gắn với thành phố cảng Hải Phòng từ năm 1938 cho đến tháng 1 năm 1996, trừ những năm 1945, 1946 ba làm việc ở Hà Nội và 8 năm kháng chiến chống Pháp, ba ở Việt Bắc. Chắc chắn những nhà làm sử chân chính, đến một lúc nào đó khi viết về giai đoạn chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa lâm thời và lịch sử tư pháp Việt Nam (1945 – 1954), về lịch sử Hải Phòng, giai đoạn tiền khởi nghĩa và ngày 23 tháng 8 năm 1945 và từ 1955 cho đến trước khi “đổi mới”, sẽ đánh giá đúng sự cống hiến của ba, khôi phục lại đúng vị trí của ba trong chính sử. Nhưng dù chính sử có viết thế nào, con nghĩ phần thưởng lớn nhất mà ba đả xứng đáng có được là sự kính trọng của đồng nghiệp, của họ hàng, của người dân Hải Phòng sống cùng thời với ba.
Con viết mấy dòng này trong những ngày Vu Lan Báo Hiếu năm 2014 để tỏ lòng ân hận vì đã không làm được gì để làm giảm khó khăn trong đời sống vật chất và tinh thần của ba mẹ. Con ngàn lần xin lỗi ba mẹ và xin được ba mẹ tha thứ.
Con trai út của ba Vũ Trọng Khải
(*) ông Vũ Trọng Khánh là luật sư nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông tuyên thệ luật sư tại toà thượng thẩm Bắc Kỳ, Hà Nội ngày 26/12/1941, ở tuổi 29.
Vị trí Hồ Gươm trong bản đồ đời Nguyễn và Rùa Hồ Gươm
(*) Vùng trời nhân văn :Nguyễn Du thơ ‘Kỳ Lân Mộ” tại “Bắc Hành tạp lục”là kiệt tác văn chương, thấu tình đạt lý, sức mạnh như một đạo quân, đã làm thay đổi chính sách của vua Thanh và danh tướng Phúc Khang An tổng đốc Lưỡng Quảng, thay vì báo thù rửa hận cho Tôn Sĩ Nghị, đã giữ hòa hiếu lâu dài với Việt Nam. Nguyễn Du là bậc anh hùng quốc sĩ, kỳ tài hiếm có của dân tộc Việt. Nguyễn Du là bậc anh hùng
KỲ LÂN MỘ Nguyễn Du
Phương Chi Yên Đệ người thế nào? Cướp ngôi của cháu, đồ bất nhân. Mỗi khi nổi giận giết mười họ, Cổn to vạc lớn hại trung thần Năm năm giết người hơn trăm vạn Xương chất thành núi máu chảy tràn Nếu bảo thánh nhân Kỳ Lân xuất Buổi ấy sao không đi về Nam?
Nguyên văn chữ Hán
Hà huống Yên Đệ hà như nhân Đoạt điệt tự lập phi nhân quân Bạo nộ nhân sinh di thập tộc Đại bỗng cự hoạch phanh trung thần Ngũ niên sở sát bách dư vạn Bạch cốt thành sơn địa huyết ân Nhược đạo năng vị Thánh nhân xuất Đương thế hà bất Nam du tường?
Sự tích hồ Gươm và điềm báo quốc biến thời Lê TrịnhSỰ TÍCH HỒ GƯƠMTrần Ngọc ĐôngNhân chuyện cả nước xôn xao khi rùa Hồ Gươm chết nhằm ngày mùng 10 tháng Chạp năm nay. Nhiều người vẫn cứ cho rằng đây là con rùa có từ thời Lê Lợi đã cắp gươm báu mang đi. Nên đánh máy và trích chép lại hai câu chuyện ở trong sách ‘Tang Thương Ngẫu Lục’ của đôi bạn Phạm Đình Hổ- Nguyễn Án viết trong khoảng cuối Tây Sơn đầu đời Nguyễn nói về Hồ Gươm và rùa ở nơi đây.
Đánh máy lại theo bản khắc in năm Bính Thân 1896 triều Nguyễn. Bản dịch nghĩa của GS Trương Chính-2012Kết luận: Gươm báu đã bỏ hồ bay đi năm Bính Ngọ 1786, cách đây đã 230 năm. Năm ấy nước nhà có biến lớn, chúa Trịnh đại bại, ít lâu sau thì triều Lê mất.SỰ TÍCH HỒ GƯƠM
Trích: Tang Thương Ngẫu Lục (Phạm Đình Hổ- Nguyễn Án)Truyện 1: HOÀN KIẾM HỒ Hồ Hoàn Kiếm Thành Thăng Long ở bên cạnh phường Báo Thiên, thông với nước ngoài sông, hình thế rất to rộng. . Ấy là nơi Đức Thái Tổ Hoàng Đế tiên triều đánh rơi kiếm. Hồi Thái Tổ khởi nghĩa, ngài bắt được một thanh kiếm cổ, sau khi lên làm vua thường vẫn đeo ở bên mình. Một hôm chơi thuyền ở trong hồ, bỗng một con rùa rất lớn nổi lên mặt nước, bắn không trúng, vua lấy thanh kiếm mà chỉ. Bất đồ thanh kiếm rơi xuống nước, con rùa cũng lặn theo. Vua giận, sai lấp cửa hồ lại, đắp bờ ngang tát hết nước để tìm nhưng chẳng thấy đâu cả. Đời sau, nhân cái bờ ấy chia làm hai hồ Tả Vọng và Hữu Vọng. Cuối đời Cảnh Hưng, có một vật gì mọc lên từ cái đảo trong hồ, sáng rực rỡ rồi tắt. Người ta cho là thanh bảo kiếm đã bay đi.Phiên âm:
Thăng Long Hoàn Kiếm Hồ tại Báo Thiên phường. Tắc dữ giang thủy thông, thế thậm quảng. Hồi tiên triều hoàng Thái Tổ Hoàng Đế Trụy kiếm xứ dã. Sơ Thái Tổ khởi nghĩa thời đắc cổ kiếm nhất khẩu. Đắc quốc hậu thưởng dĩ tự bội. Nhất nhật phiếm chu hồ trung. Cự quy phiếm thủy thượng xạ chi bất trúng dĩ kiếm chi trụy thủy một. Quy tùy kiếm khứ. Đế nộ. Mệnh tắc hồ khẩu, trúc đê kiệt thủy cầu chi bất đắc. Hậu thế nhân kỳ tích phân vi nhị: Tả Vọng, Hữu Vọng. Cảnh Hưng mạt hữu vật tòng đảo khởi quang tán nhi diệt. Nhân dĩ vi bảo kiếm phi.Truyện 2: KIẾM HỒ (Hồ Gươm)
Mùa hạ năm Bính Ngọ, niên hiệu Cảnh Hưng (1786) đương nửa đêm, giữa hồ Hoàn Kiếm, bỗng có những vật đỏ ối hiện ra trên đảo, tia sáng nhoáng tỏa ra bốn phía, bay về bờ phía Nam rồi biến mất.
Sau đó sóng gió ầm ầm nổi lên. Sáng hôm sau thấy xác tôm cá nổi trên mặt nước không biết bao nhiêu mà kể. Có người nói, ở trên nóc nhà Trung Hòa Đường trong phủ Chúa cũng hiện ra những vật tương tự, ánh sáng tỏa ra bốn phía rồi tự nhiên tắt ngấm. Chưa bao lâu xảy ra việc quốc biến (*). Phiên âm: Lê Cảnh Hưng Bính Ngọ niên hạ. Kiếm Hồ dạ bán hữu vật tòng đảo khởi tứ tán phi nam ngạn nhi diệt. Ba đào hỗn dũng . Lạp nhật ngư hà phù thủy thượng bát khả thắng số. Hữu vân vương phủ Trung Hòa Đường hữu vật tòng khởi quang tán nhi diệt diệc như chi. Vị kỷ quốc biến.
(*) Quốc biến: Nguyễn Huệ ra bắc đánh nhà Trịnh
Xem thêm
RÙA ƠI Hoàng Gia Cương
Rùa ơi quá nặng phải không Cõng bia Tiến sĩ lưng còng vậy ư? Mấy trăm năm gội nắng mưa Dẫu cho mòn đá cũng chưa xao lòng!
Hoa đời như sắc phù dung Đổi thay sớm tối, khôn lường thịnh suy Ngàn năm còn mất những gì? Mà hàng bia vẫn rạng ghi tên người!
Biết ơn rùa lắm, rùa ơi Giữ cho ta một khoảng trời nhân văn Để tôn vinh bậc trí nhân Để nền văn hiến ngàn năm không nhoà!
Rùa ơi, ta chẳng là ta Nếu như đạo học lìa xa đất này!
Tổ chức Lương Thực Nông nghiệp Quốc tế (FAO) thật hoành tráng ! Bạn chỉ cần dạo qua một vòng trang viết này của FAO trên Face Book là đủ ngưỡng mộ. Đó là điểm kết nối tới website http://www.fao.org nguồn thông tin chuyên ngành nông nghiệp chọn lọc hàng đầu của thế giới, kho tri thức mênh mông như biển cả cho bất cứ ai quan tâm đến nông dân, nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là các nhà hoạch định chính sách, nhà nghiên cứu, thầy giáo, khuyến nông viên, sinh viên và nhà nông. Tôi nợ bài viết “Những người Việt FAO” đã ba năm qua vì chỉ mới lưu một điểm nhấn (note) trong tình yêu cuộc sống chuyện đời tự kể mà chưa có điều kiện viết hoàn chỉnh. Mark Zuckerberg và Facebook thật dễ thương khi nhắc tôi viết tiếp câu chuyện thú vị này để nối dài chuyện kể với bạn vì chuyện thật hay mà ít người biết rõ.
Giáo sư Tôn Thất Trình, tiến sĩ Trần Văn Đạt, tiến sĩ Nguyễn Văn Ngưu, phó giáo sư tiến sĩ Bùi Bá Bổng là những chuyên gia cao cấp tại FAO về sản xuất lúa gạo, là những diện mạo lớn của Việt Nam ở vị trí Chánh chuyên gia Tổng Thư ký của Ủy ban Lúa Gạo Quốc tế. Họ kế tiếp nhau liên tục giữ trọng trách chăm lo cho cây lúa hột gạo và chén cơm ngon của người dân. Từ câu chuyện “Giao ban cây lúa ở Viện Lúa” qua bốn đời Viện trưởng Luật Bổng Bửu Bảnh đến câu chuyện “Giao ban cây lúa ở FAO” của bốn đời Chánh chuyên gia Tổng Thư ký Ủy ban Lúa Gạo Quốc tế “Trình, Đạt Ngưu Bổng” là câu chuyện thú vị chuyển từ tầm nhìn cây lúa Việt Nam đến tầm nhìn cây lúa toàn cầu.
GIẤC MƠ THIÊNG CÙNG GOETHE Hoàng Kim
Hiểu tình yêu cuộc sống Hiền tài dày sử thi “Mọi lý thuyết đều là màu xám, chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi” Goethe trao tặng cho tôi Ngọc minh triết của Người.
Người hóa thân trong thanh thản bóng cây xanh Người đàm đạo với Norman Borlaug và cậu học trò nghèo Về ý tưởng xanh Con đường xanh Hành trình xanh Sự nghiệp xanh Nhà khoa học xanh và giấc mơ hạnh phúc
Goethe là vòm cây xanh Goethe cũng là lão nông ngồi cùng chúng ta chuyện trò trên cánh đồng xanh hạnh phúc.
Goethe và Norman Borlaug là những trí tuệ bậc Thầy. Họ không màng hư vình mà hướng tới đỉnh cao hòa bình sự an lành tiến bộ.
Anh và em cùng Goethe Ở FAO, Rome, Italy Người hóa thân thành nữ thần Tình Yêu (*)
Trời xanh tuyệt vời ! Trời nhân loại mênh mông !
(*) Hình ảnh Hoàng Kim ở Roma, Italia.
Giấc mơvề điểm hẹn
TẮM TIÊN CHƯ YANG SIN Hoàng Kim I Chư Yang Sin ơi Chư Yang Sin Phật đá khỏa thân chốn núi thiêng Con đường yêu thương* làm việc thiện Mưa xuân** đất cảm lắng tâm thiền.
TẮM TIÊN Ở CHƯ JANG SIN Hoàng Kim II Thiên Thai lạc bước đỉnh ngàn mây Hạ giới quên đường tít chim bay Vườn Tượng nai thưa sương xuống mỏng Đào Nguyên hoa kín cỏ lên dày Tiên Cô suối biếc yêu đời thế Chúa Liễu rừng thông thoải mái thay Bồng Lai nơi ấy rồng tiên ẩn Ai thích tiêu dao hợp chốn này. (***)
Chư Yang Sin là một trong 30 Vườn Quốc gia Việt Nam, đây là khu rừng đặc dụng nằm trên địa bàn các xã Yang Mao, Cư Drăm, Cư Pui, Hoà Phong, Hoà Lễ, Hoà Sơn, Khuê Ngọc Điền thuộc huyện Krông Bông và các xã Yang Tao, Bông Krang, Krông Nô, Đắk Phơi thuộc huyện Lắk, tỉnh Đăk Lăk. Nơi đây có đỉnh núi Chư Yang Sin 2.442 mét, cao nhất hệ thống núi cao cực Nam Trung Bộ. Vườn Quốc gia Chư Yang Sin được thành lập ngày 12 tháng 7 năm 2002 theo quyết định số 92/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Tắm tiên ở Chư Jang Sin, tắm mình trong nguồn năng lượng vô tận của trời xanh, cây xanh, gió mát và không khí an lành là quà tặng cuộc sống.
Tôi đã viết bài thơ ‘Con đường yêu thương’ ‘Mưa xuân’ của ngày này năm trước và ý định nối dài thêm nhưng vẫn chưa có thời gian.
CON ĐƯỜNG XANH YÊU THƯƠNG Hoàng Kim
Rời phố khi trời ưng ửng sớm Về rừng lúc đất tỏa hương khuya Mai núi nghiêng soi bên suối biếc Bình yên xóm nhỏ tiếng chim gù …
MƯA XUÂN Hoàng Kim
Được nói lời yêu, lời hờn giận Được chờ tin nhắn, ngóng câu thương Đời chợt an nhiên, người chợt hiểu Thoáng chốc mưa xuân đã ướt đường.
CÂU CHUYỆN ĐÁ NĂNG LƯỢNG Hoàng Kim trả lời anh Pine Le Xuan và anh Đặng Quang Thịnh hôm nay là ngày lành nên mời hai anh nghe chuyện đá năng lượng nhé. Đỉnh núi Chư Yang Sin 2.442 mét, cao nhất hệ thống núi cao cực Nam Trung Bộ và Vườn Quốc gia Chư Yang Sin là một địa danh thiêng ở Tây Nguyên. Người dân tộc họ tin vào thần Núi Rừng và suối nguồn tinh khiết trên núi cao và cho rằng tắm tiên ở Chu Yang Sin và ngồi lên phiến đá hình người , tưa lưng vào bản thể làm Mẹ sẽ dồi dào thêm sức khỏe và năng lượng. Anh Pine Le Xuan hỏi: Sao không thấy cô tiên nào vậy? Cô tiên là vậy đó anh. Thân chúc mọi người vui và hôm nay thật hạnh phúc.
CÂU CHUYỆN ĐÁ NĂNG LƯỢNG (tiếp theo) Câu chuyện lạ mà Hoàng Kim nói riêng với một ít người bạn, nay xin kể lại cho mọi người cùng nghe. Tai suối nước trong rừng sâu của Chu Yang Sin có một tảng đá lớn hình người mà lời truyền rằng ai ngồi lên đó sẽ được phước. Hoàng Kim có … phơi quần ướt lên đấy và hình như năng lương dồi dào hơn. Tảng đá hình người mẹ ấy như là đá năng lượng “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Bạn tin vào sự yêu thương và linh thiêng của Rừng Núi chứ? Nhà văn hóa Nguyên Ngọc có viết bài “Nước mội rừng xanh và sự sống” Tôi tin đất nước cỏ cây có năng lượng sống và có giao cảm với vũ trụ và con người , mà tôi đã kể cho bạn nghe ĐẾN VỚI TÂY NGUYÊN MỚI https://hoangkimlong.wordpress.com/category/den-voi-tay-nguyen-moi/
(***) Thông tin bài viết lần 1 và và lần 2 tại Tắm tiên ở Chư Yang Sin posted on https://hoangkimlong.wordpress.com/2017/04/14/tam-tien-o-chu-yang-sin/ Một người bạn quý nói với tôi rằng chí thiện và đá năng lượng sẽ giúp khai mở vòng luân xa thứ ba của tuệ giác. Hôm nay tôi may mắn được gặp. Mời đọc bài đối họa tuyệt vời của Phan Lan Hoa
VÃN CẢNH HỒ TRONG SƯƠNG MÂY Thơ Phlanhoa
Sớm xuân lên núi vãn hồ mây Nước biếc thiên nga sải trắng bay Khóm trúc ven bờ mây vấn lá Cầu cong lối nhỏ khói đan dày Mười hai La Hán nghiêm tư thế Di Lặc một ông đường bệ thay Ai bảo lên trời chờ tới số Bồng lai thơ thới bước tiên này.
P/s: hưởng ứng ngày hội thơ không có tụ hội
THẦY BẠN TRONG ĐỜI TÔI Hoàng Kim
Tôi viết bài này để tỏ lòng biết ơn thầy bạn dưới mái trường Nông Lâm thân thương và làm món quà nhỏ thân tặng cho các em sinh viên nghèo hiếu học.Thầy, bạn là lộc xuân mà nếu thiếu sự động viên, giúp đỡ này thì không thể có được hôm nay:“Em đã học nhiều gương sáng danh nhân. Hãy biết nhục, biết hèn mà lập chí. Thắp đèn lên đi em, ngọn đèn dầu bền bỉ. Sáng giữa đời lấp lánh một niềm tin” Thầy bạn trong đời tôi giúp ta khoảng lặng thời gian trở lại chính mình, https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-ban-trong-doi-toi/
Bóng hạc chốn xa xôi ĐÁ ĐỨNG CHỐN SÔNG THIẾNG Hoàng Kim
Con về Đá Đứng Rào Nan Cồn Dưa Minh Lệ của làng quê hương Linh Giang chảy giữa vô thường Đôi bờ thăm thẳm nối đường tử sinh
NGUỒN SON NỐI PHONG NHA Hoàng Kim
Tôi sinh quán ở làng Minh Lệ, xã Quảng Minh,.là em út của năm anh chi em trong một gia đình nông dân nghèo. Nhà cũ của cha mẹ tôi ở xóm Đình, rất gần Đình Minh Lệ, nhưng ngôi nhà tuổi thơ thì lại ở phía sau gốc bần, và rặng tre gần Chợ Mới Làng Minh Lệ, ngã ba sông Linh Giang (Sông Gianh) nơi hợp lưu của hai nhánh phụ là Nguồn Son (trái) và Rào Nan (phải) của ảnh đầu trang và ảnh này
LINH GIANG
Nhà mình gần ngã ba sông. Rào Nan, Chợ Mới, Nguồn Son, Quảng Bình Linh Giang sông núi hữu tình Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con
“Chèo thuyền cho khuất bến Son Để con khỏi chộ nước non thêm buồn“ Câu ru quặn thắt đời con Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ
Ra đi từ bấy đến chừ Lặn trong sương khói bến đò sông quê Ngày xuân giữ vẹn lời thề Non sông mở cõi, tụ về trời Nam.
Bài thơ “Linh Giang” là tâm tình sâu nặng của anh chị em chúng tôi đối với Làng Minh Lệ quê tôi . Nguồn Son nối Phong Nha là chuyện đời không thể quên: “Nghe nóng hổi nước mắt thầm vị mặn Nhớ Mẹ Cha thấm thía bữa nhường cơm Lời Cha dặn và lời Thầy nhớ mãi Một niềm tin thắp lửa giữa tâm hồn. Không vì danh lợi đua chen. Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân. Mẹ tôi mất sớm (Mồng Ba Tết Giáp Thìn 1964), cha tôi bị bom Mỹ giết hại (29 tháng 8 Mậu Thân 1968).anh chị em chúng tôi mồ côi mẹ cha và lưu lạc xa quê từ nhỏ. Lời anh Hai dặn, với tiếng dội Linh Giang “đi như một dòng sông” thao thức suốt đời chúng tôi.
NGUỒN SONVÀ CHỢ MỚI
Cha mẹ tôi sau lần chuyển nhà về Chợ Mới, thì sinh kế chính của cha tôi là chèo đò ngang từ chợ Mới qua sông và chèo đò dọc từ chợ Mới theo nguồn Son nối Phong Nha vào chợ Troóc, hoặc chèo đò chợ Mới đến chợ Đồn Thanh Khê La Hà. Cha tôi thường dậy sớm chèo đò bắt đầu từ lúc ba giờ sáng thường cho đến suốt ngày, trừ thảng hoặc những hôm làm công điểm hoặc việc khác. Cha làm nghề như vậy cốt để kiếm khoai gạo nuôi con suốt mười lăm năm từ năm 1954 cho đến năm 1968 lúc ông bị bom Mỹ giết hại. Mẹ tôi làm lụng ở đất vườn nhà và bán rau, nước lá vằng ở chợ Mới để phụ thêm. Hợp tác xã có tổ chức làm công điểm nhưng cuối vụ mới được chia và vì xã nghèo nên cũng được ít. Ai cũng vậy. Chị tôi đi học phải dắt em đi học kèm để rãnh cho mẹ chạy chợ. Tôi tuổi thơ đã chăn bò và bắt cua cá, tép ven sông, Học cấp 1 trường làng nhưng lớp năm thì lên học ở trường Thọ Linh Quảng Sơn, đi về chân trần khoảng 5 cây số. Sau này khi tôi về thăm quê, vẫn bàng hoàng lấy làm lạ là không hiểu sao thuở tôi nhỏ hơn 10 tuổi lại đã có thể ‘sáng kiến’ mấy lần nương theo bò lội qua sông Linh Giang rộng đến vậy. Tôi cũng không thể tưởng tượng nổi là sao thuở ấy cha tôi chèo chiếc thuyền nan nhỏ xíu một lá, đó dọc từ nguồn Son tới Phong Nha, chèo từ ba giờ khuya trên con sông sâu.thẳm, suốt 15 năm trời mà chỉ sơ sẩy một chút là gặp hiểm. Sau khi cha tôi mất, anh mẹt Phiếm cũng chèo đó ngang. Thuyền chìm ! Anh vớt được 9 em nhỏ đi học và anh đuối nước chết (sau này, anh Phiếm được phong liệt sĩ). Lần về quê gần đây, tôi có ghé thắp hương cho anh.
Từ bến đò Chợ Mới theo Nguồn Son nối Phong Nha ngày nay là tuyến du lịch tuyệt đẹp của đường thủy lộ nối từ Chợ Mới đến Động Thiên Đường và Động Sơn Đoòng di sản thiên nhiên thế giới ở Phong Nha Kẻ Bàng. Nhưng với gia đình tôi thì nghỉ lại là rùng mình khi cha tôi chèo đò trong đêm khuya hiểm yếu, sông sâu, thuyền nhỏ, đêm khua , trời gần sáng rất lạnh
Tôi nhớ mãi một câu chuyện tuổi thơ.
Một hôm chưa đến ba giờ khuya, cha tôi ra thuyền đón khách chợ Troóc. Cha thấy mái chèo bị vướng. Ông lần theo mái chèo thì vớt được một xác chết. Đêm tối như mực, ông ngại nhưng lòng trắc ẩn ông vớt lên loay hoay hô hấp hồi lâu, thì người chết đuối tỉnh lại. Ông vội vàng bế vào nhà cùng mẹ tôi hơ lửa cứu sống. Bà trẻ hơn mẹ tôi ít tuổi và ói mửa rất mệt. Sau hai hôm cha tôi vẫn đi chèo đò từ rất sớm. Mẹ hái rau. Chị Huyền tôi lên giúp chị Huyên. Anh Trực tôi đã đi bộ đội. Anh Dộ đi dạy học xa ở Pháp Kệ . Tôi chăn bò và bắt tép ven sông. Nhà vắng người. Bà bị chết đuối khi tỉnh lại đã tự ý bỏ nhà đi mà không một lời dặn lại.
Sau đó mấy tháng, chợt có một ông già mù dắt một đứa bé trạc tuổi tôi tìm đến nhà. Ông mời cha mẹ tôi ngồi lên ghế và hai ông cháu thụp lạy sống cha mẹ tôi. Ông nói rằng ông là cha của người phụ nữ chết đuối được cứu sống nọ. Bà là con ruột ông. Bà bị bệnh tâm thần, nay nhờ cha mẹ tôi cứu nên đã về nhà chết trẻ rồi. “Phúc đức đó , ông thầy bói mù nói rằng, ông là người mù lòa ăn mày, là thầy bói Cao Lao Hạ, ông nhà nghèo chẳng có cách gì để đền ơn, nên ông chỉ đến tạ ơn lời nói và giúp được cho ít lời khuyên.
Lời thầy Cao Lao Hạ
Ông già mù bảo tôi:– Cháu đi từ giếng này đến đường chính trước cửa nhà cho ông. Giếng là nơi góc sân trước nhà, nơi mà năm trước lụt to, tràn về làm ngập mất thành giếng. Gia đình bận chạy đồ đạc, không kịp để ý. Cháu Thung (Thung Tran) con đầu của chị Huyên tôi đã té giếng, đang chấp chới suýt chết đuối thì tôi còn bé nhưng may lúc ấy nghĩ kịp cách vội vàng đưa chân ra cho cháu níu lấy và hai cậu cháu thoát chết, may níu được túm cỏ, bò lên). Mẹ tôi vừa kể vừa khóc.
Tôi chạy chân sáo ra ngõ chính rất nhanh và về cũng rất nhanh trước mặt ông. Cụ hỏi: – Cháu tên gì? – Cháu tên là Hoàng Minh Kim. Mẹ tôi đỡ lời. – Sao ông bà đặt cho cháu tên này? – Họ và tên Hoàng Minh Kim là do tôi đặt. Cha tôi nói.
– Vì tôi sinh cháu trong nhà lợp toóc (rạ) của khung chuồng bò do ông bà ngoại cho. Nhà tôi thuở ấy ở gần Đình Minh Lệ. Mẹ tôi nói. – Tôi sinh. Ông ấy đi kêu bà mụ. Tôi đau đẻ thì thấy có một con chuột rất to chạy qua nóc nhà, mồm ngậm một cục vàng to như quả trứng gà, rất sáng. Tôi vội vái lấy vái để, cầu khẩn xin ông Tý cho tôi cục vàng. Con chuột dừng lại nhìn tôi chằm chằm, nhưng lắc đầu, rồi ôm cục vàng chạy mất.
– Họ và tên Hoàng Minh Kim là vì chuyện ấy. Cha tôi xác nhận lời mẹ.– Ông bà có mấy con và nội ngoại thân thích có những ai?. Cụ già mù hỏi cha mẹ tôi Sau khi nghe kể chuyện, cụ già mù hỏi thêm: – Các bến đò chợ Đồn, chợ Troóc , bến Lội, bến Nghè, bến Đình, … Ông chèo bến mô nhiều hơn?
– Chợ Mới đi Nguồn Son tới Phong Nha, chợ Troóc, là nhiều hơn cả. Cha tôi nói: – Bên nội, tôi có hai anh em trai và một em gái. Anh trai tôi mất sớm. Em gái út tôi thì lấy chồng chợ Troóc cũng nghèo. Bên ngoại thì khá hơn, nhưng cũng nghèo. Nhà ngoại có hai chị em gái và một cậu em út mất sớm. Hai bên nội ngoại ông bà đều chết sớm. Tôi làm nông nhưng đủ ăn qua ngày là nhờ chèo đò.
Cha tôi hỏi cụ già mù: Nhà tôi trước đây ở rất gần Đình Minh Lệ, nhà hướng nam, ngoảnh mặt về với Rào Nan và đình, nhưng sao nhà quá nghèo khổ, phải bỏ nền nhà ông nhà cha mẹ mà đi. Vợ chồng tôi chuyển nhà về xóm Chợ Mới để dễ kiếm cơm nuôi con. Nghề là làm ruộng nhưng việc chính tôi chèo đò, vợ chạy chợ, bán mớ rau, ít nước chè lá vằng, thỉnh thoảng hàng chợ phiên Troóc, Ba Đồn đưa về, để đắp đổi sống qua ngày. Nhà tôi quay lưng hướng sông ngoảnh mặt ra ngã ba đường chính ,từ hướng chợ Hòa Ninh đi vô, hướng hói Đồng đi lên, hướng ga Minh Lệ đi xuống. Mấy người nói thế là hướng sai nhưng tôi giữ lối trung chính, thuận đường. Ông đi qua bà đi lại chào hỏi nhau được. Cụ nghĩ vậy là phải chứ?
– Ông còn chuyện gì khác mà phải chuyển nhà từ xóm Đình về xóm Chợ Mới ? Cụ già hỏi.
– Không! Mưu sinh, đường sống là chính. Sang đây thêm chèo đò, chạy chợ mới sống được. Nhất cận thị, nhị cận sông mới bớt khổ. Vì vợ chồng tôi đau yếu, nghèo khổ quá. Cha tôi nói thêm.
– Tôi bị Pháp bắt đi lính khố đỏ để đi đánh nhau bên Tây. Tôi đã vô Đà Nẵng, nhưng được anh em giác ngộ nên theo Vệ Quốc Đoàn đánh Tây suốt nhiều năm mãi đến năm 1951 là bệnh binh mới giải ngũ, trên cho về quê. Bệnh sốt rét phù thủng đọa đày tôi hết mức chết đi sống lại, mẹ nó đã khổ càng thêm khổ Tôi tánh nghĩa khí, trung trực, trọng lẽ phải, cứ theo điều hay lẽ phải mà làm, im nghe người ta nói không cãi, nhưng làm thì nhất định chỉ làm điều mà mình cho là phải, khi đã làm thì quyết làm cho bằng được, không hề sợ bất cứ ai, lượng sức lựa thế mà làm, không làm liều, không nghe người ta xui. Bà nhà tôi thì đức độ, hiền từ, nết ăn ở như đọi nước đầy, làng trên xóm dưới ai cũng thương. Cụ nói đi:.Nhà tôi gần ngã ba sông lại gần ngã ba đường thì hướng nhà nên làm sao?
– Linh Giang thông đại hải. Ngũ Lĩnh tiếp Cao Sơn. Đi như một dòng sông. Cuối dòng sông là biển. Cháu nhớ khẩu quyết chứ? Cụ già không trả lời cha mà quay sang bảo tôi.
– Hướng nhà theo thế Lục Môn. Đúng. Tôi nhìn theo tay ông chỉ. Nhà tôi lưng tựa Cao Sơn, xuôi chiều theo thế nước Nguồn Son lao thẳng về, đúng là thế nước hiểm, phải cuốn theo chiều nước, đi như một dòng sông, lá về nơi vô định. Đình Minh Lệ Linh Giang thông đại hải, đình hướng chính Đông biển lớn. Ngũ Lĩnh nối Cao Sơn, Đá Đứng chốn sông thiêng là hướng ngọc phương Nam, như rồng xanh Trường Sơn cuộn mình.
– Đất này sao đã quý hiếm mà lại hiểm? Cha tôi thắc mắc. – Vì rất rất cao giá !.Gian nan nên người hay. Thời thế tạo anh hùng. Địa linh sinh nhân kiệt. Nhân kiệt sáng địa linh. Đất sông núi thiêng này phát sinh những dòng họ lớn ! Ông già xuống giọng thầm thì. Ngã ba sông Chợ Mới là hiểm địa. Đá Đứng chốn sông thiêng là rất rất hiểm địa. Ông có biết vì sao đối diện Bến Lội Đền Bốn Miếu là động Ma Ca không? Thiêng lắm đấy, vì có quá nhiều người chết. Đây là nơi chính phân tranh từ nhiều đời. Thời Cao Vương lập đá Đứng bỏ bút thần. Thời Núi Đá Bia ngón tay minh sư thệ trời xanh bước qua lời nguyền chia cắt đấy. Giá máu xương cao lắm ! Chỗ cao giá hiểm nguy. Ông già nói .
– Nguồn Son Rào Nan hợp lưu thành Linh Gianh, giữa sông lại có Cồn, đó là … của người phụ nữ. Ông nghĩa khí trung trực, bà hiền từ đức độ, nhà có phước, sẽ thành dòng họ lớn ở phương xa, không thua kém người ta, nhưng ông bà không được hưởng lộc con. Cụ già mù kết luận. Đó là điều lạ thứ hai lời dặn của ông già mù Cao Lao Hạ, tự truyện ‘Linh Giang Đình Minh Lệ’ ngoài những thông tin địa chí lịch sử văn hóa mà tôi đã đúc kết thành bài dài.
– Không phải ngẫu nhiên mà Pháp chọn Đà Nẵng làm điểm khởi đầu trong kế hoạch đánh chiếm Việt Nam đâu. Có lý cả đấy ! Vì Kinh đô Huế nằm ở Bắc Hải Vân mà thế và lực với sự thông thuộc của Nhà Nguyễn chính là đất phương Nam trong khi Hoành Sơn Linh Giang Lũy Thầy lại là tuyến ba tầng thủ hiểm che chắn Kinh đô Huế ở mặt Bắc nên Pháp không chọn đánh Thanh Khê đó thôi – Nhưng Linh Giang chính là hiểm địa, bẻ đôi Việt Nam. Ông già mù nói
. Cụ nói đúng, Bố tôi lập tức nhỏm dậy. Vì tôi đã bị bắt đi đi lính Pháp để đưa sang đánh nhau bên Tây, đóng quân ở Đà Nẵng bên sông Hàn, sau đó tôi trốn theo Vệ Quốc Đoàn nên rất thông thuộc địa hình đó. Pháp nếu đứng chân được ở Đà Nẵng thì chẹn được mặt Nam, cô lập kinh thành Huế, mẹo ‘đánh rắn giập đầu’ rất mau thắng được dân Nam..
– Trận Đà Nẵng năm 1857 tụi Pháp thua. Cha tôi nói. – Vì tướng Nguyễn Tri Phương giỏi cầm quân, Ông ấy tránh đánh trực diện mà dùng phục binh, lập kế ‘đóng cửa đánh chó’ làm “vườn không, nhà trống” triệt hết đường tiếp tế của địch, cách ly và xử nghiêm tụi gián điệp đội lốt giáo sĩ, giáo dân. Ông lại cho đắp lũy kiểu như Lũy Thầy, bao vây chẹn họng địch ra biển, vây đánh trường kỳ không cần thắng nhanh, nên trận Đà Nẵng bên mình thắng Pháp phải chuyển vào đánh thành Gia Định, chiếm dần đất đai của mình từ phương Nam theo kiểu tằm ăn lá dâu.
– Ông giỏi sử thiệt. Cụ già khen. – Tôi ít học nhưng rất thích đọc sách Tam Quốc. Cha tôi nói : – Tôi thông gia với ông mẹt Rịnh thường kêu thằng Kim đọc sách Tam Quốc cho tôi và ông Rịnh nghe. Hôm nào ông Rịnh hoặc ông Thìn đến chơi, tôi không khi nào không kêu thằng Kim đọc sách Tam Quốc và sách Kiều, đến mức nó thuộc và kể được đấy. Mẹ nó thì mê nhất Lục Vân Tiên kế đến Kiều và Phạm Công Cúc Hoa.
– Cháu đọc cho ông nghe một đoạn nào? Cụ già nói. Tôi ngước mắt nhìn Mẹ, Mẹ tôi cười khuyến khích: – Con đọc đi Tôi đọc đoạn ông quán trong thơ Lục Vân Tiên mà mẹ thích:
– Thương ông Gia Cát tài lành, Gặp cơn Hán mạt, đã đành phôi pha. Thương thầy Đồng tử cao xa, Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.
Thương người Nguyên Lượng bùi ngùi, Lỡ bề giúp nước lại lui về cày. Thương ông Hàn Dũ chẳng may, Sớm dâng lời biểu tối đày đi xa.
Thương thầy Liêm Lạc đã ra, Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân. Xem qua kinh sử mấy lần, Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.
– Địch đánh vô Thanh Khê cửa Hác không dễ. Bố tôi miên man kể. Ông nhớ thời lính tráng của ông: – Tôi dự nhiều trân đánh Pháp cùng thời và cùng đơn vị với Lâm Úy. Tôi ở đại đội 2 tiểu đoàn 274 của ông Lê Văn Tri làm tiểu đoàn trưởng thuộc Trung đoàn 18. Tôi vô sinh ra tử nhiều trận cùng anh em. Chỉ tiếc là đến năm 1951 bị đau bệnh sốt rét phù thủng ngã nước quá yếu trong khi đơn vị thiếu thốn thuốc men chữa trị và điều kiện chăm sóc nên trên mới phải cho giải ngũ về quê. Nếu không thì tôi đến nay đã nhất xanh cỏ nhì đỏ ngực rồi.
– Ông Lê Văn Tri là người Cao Hạ cùng làng với tôi. Sau này ông làm tướng rất to Cụ gìa nói – Trân Phú Trịch Là Hà, địa thế và cách dàn quân hai bên cũng lựa thế hiểm yếu như là trận Bạch Đằng. Voi trận của Đức Thánh Trần sa lầy ở Sông Hóa. Các trận địa phục kích cũng là các cồn tại các ngả ba sông hiểm yếu như Chợ Mới, La Hà Phú Trịch vậy. Lời thề trên sông Hóa “Chuyến đi này không thắng, ta thề không về lại nơi này!” của đức Thánh Trần cũng như lời thề quyết tử chiến của đội cảm tử 15 trận Phú Trịch La Hà đã chết như voi trận của đức Thánh Tràn chết vậy. Cha tôi nói
– Đá Đứng chốn sông thiêng Cầu Minh Lệ Rào Nan Bến Lội Đền Bốn Miếu là nơi rất rất hiểm. Ông già lại xuống giọng thầm thì. Ngã ba sông Chợ Mới là hiểm địa. Đá Đứng chốn sông thiêng là rất rất hiểm địa. Ông có biết vì sao đối diện Bến Lội Đền Bốn Miếu là động Ma Ca không? Thiêng lắm đấy, vì có quá nhiều người chết. Đây là nơi chính phân tranh từ nhiều đời. Thời Cao Vương lập đá Đứng bỏ bút thần. Thời Núi Đá Bia ngón tay minh sư thệ trời xanh bước qua lời nguyền chia cắt đấy. Giá máu xương cao lắm ! Chỗ cao giá hiểm nguy. Cụ già lặp lại.
Cụ già quay sang tôi, bắt tôi nhắc lại mấy lời khẩu quyết. Cao cát Mạc sơn / Sơn Hà Cảnh Thổ / Văn Võ Cổ Kim / Linh Giang thông đại hải / Ngũ Lĩnh tiếp Cao Sơn / Đình Bảng Cao Lao Hạ / Miếu cổ thủy sơn thần./ …. Mắt ông rất thành khẩn. Hốc mắt ông dường như có nước mắt. Người ông khoan thai thần bí và trầm tĩnh lạ lùng. Tôi cẩn thận lặp lại. Cha mẹ tôi im nghe và tỏ vẻ khuyến khích con. Cụ già nói chậm rãi: Ông bà thay tên cho ’em’ đi: Hoàng Kim tốt hơn Hoàng Minh Kim. Ông tánh trung trực nghĩa khí, bà tánh đức độ, hiền từ, nhà có phước đức, sẽ thành dòng họ lớn ở phương xa, con cháu có quý tử, nhưng ông bà không được hưởng lộc con, mà theo con hưởng phúc và bảo bọc che chở cho con cháu.
Cụ già dặn tôi “làm vàng ròng, ngọc cho đời, nên bớt sáng”. Đây là chuyện lạ của lời dặn thứ ba. Chuyện lạ đến mức anh hai Hoàng Ngọc Dộ đã quyết chọn Hoàng Kim làm tên gọi cho em từ lớp 10 sau khi cha mẹ mất và toàn gia lưu tán.
Tôi mồ cha mẹ từ nhỏ mất sớm. Thầy Nguyễn Khoa Tịnh khóc trên bục giảng Thầy tăng tôi cuốn sách Trần Hưng Đạo Binh Thư Yếu Lược với lời đề tặng từ tuổi thơ để tôi lưu lại Lời dặn của Thánh Trần và thầy viết bài thơ Em ơi em can đảm bước chân lên lưu những bài thơ tuổi thơ của chính tôi cho tôi. Tôi được anh trai Hoàng Ngọc Dộ và chị gái Hoàng Thị Huyền bảo bọc cưu mang từ nhỏ khi cha mẹ mất sớm, chị gái Hoàng Thị Huyên đã lấy chồng và anh trai Hoàng Trung Trực dấu chân người lính, bom đạn giữa chiến trường, Tôi gạt nước mắt ra đi, thề trước mộ cha mẹ theo Lời dặn của Thánh Trần với Lời thề trên sông Hóa. Thật xúc động ngày về quê tảo mộ tổ tiên Quảng Bình đất Mẹ ơn Người, trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ.
Dưới đây là một số ảnh Nguồn Son nói Phong Nha và một số tư liệu chọn lọc
Mẹ ơi con vội về Xa xôi đường vạn dặm Lòng Mẹ vui mãn nguyện Mẹ tắm mát đời con
Đọc thêm
Sóc Trăng Lương Định Của
LƯƠNG ĐỊNH CỦA CON ĐƯỜNG LÚA GẠO Hoàng Kim
Lương Định Của con đường lúa gạo là chuyện dài về một trí thức lớn gắn mình với ruộng đồng, giảng dạy nghề nông, hiến mình cho con đường lúa gạo Việt Nam tỏa rộng. Lương Định Của (1920 – 1975) là giáo sư tiến sỹ nông học ngành di truyền giống. Thầy là người có công lớn trong giáo dục đào tạo nhiều thế hệ học trò trở thành cán bộ đầu đàn trong lĩnh vực khoa học nông nghiệp với nhiều người xuất sắc, chọn tạo giống cây trồng và kỹ thuật thâm canh lúa, đặt nền móng cho nền nông nghiệp Việt Nam hiện đại và nghề lúa Việt Nam.
Lương Định Của cuộc đời và sự nghiệp
Giáo sư bác sĩ Nông học Lương Định Của, anh hùng lao động, giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học kỹ thuật, cuộc đời và sự nghiệp còn mãi với thời gian, với con đường lúa gạo Việt Nam đang tỏa rộng nhiều vùng đất nước kết nối lớp lớp những dâng hiến lặng lẽ tôn vinh hạt ngọc Việt. Cây lúa Việt Nam nửa thế kỷ nhìn lại (1975-2014) có tốc độ tăng năng suất vượt 1,73 lần so với thế giới. Thành tựu này có cống hiến hiệu quả của thầy Lương Định Của, nhà bác học nông dân ở chặng đường ban đầu của nước Việt Nam mới.
Giáo sư Lương Định Của (Quốc – 梁定国) sinh ngày 16 tháng 8 năm 1920 tại xã Đại Ngãi, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng, Theo văn bia gia đình thì ông nội của giáo sư là Lương Đức Ngãi, bà nội là Trịnh Thị Xuân, cha là Lương An Hùng và mẹ là Huỳnh Thị Có. Ông Lương Định Của lên Sài Gòn học xong tú tài và đã du học ở Hương Cảng (y học) rồi Thượng Hải (kinh tế) trước khi được học bổng của chính phủ Nhật Bản, sang Nhật năm 1942, được nhập ngang vào học năm thứ ba tại Trung tâm Nghiên cứu Nông học Nhiệt đới thuộc Trường Đại học Quốc gia Kyushu. Năm 1945 ông cưới vợ là bà Nobuko Nakamura (中村信子) người Nhật. Năm 1946, ông chuyển sang Trường Đại học Quốc gia Kyoto và được cấp bằng tiến sỹ nông học ở Nhật Bản. Năm 1954, ông cùng gia đình về Sài Gòn. Sau đó tập kết ra Bắc, làm Phó Giám Đốc Học Viện Nông Lâm Hà Nội , giảng dạy di truyền giống ở Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội (nay là Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam) và làm Viện trưởng Viện Cây Lương thực và Cây thực phẩm.
Giáo sư Lương Định Của là người có công lớn trong giáo dục đào tạo, Thầy đã huấn luyện được nhiều thế hệ học trò trở thành cán bộ đầu đàn trong các lĩnh vực khoa học nông nghiệp với nhiều người xuất sắc. Giáo sư Lương Định Của đã chọn tạo được nhiều giống cây trồng nông nghiệp nổi tiếng một thời như Giống lúa Nông nghiệp I lai tạo từ giống Ba thắc (Sóc Trăng – Nam Bộ) với Kun Ko (Nhật Bản) là giống lúa sớm đi vào sản xuất trên đồng ruộng Việt Nam từ những năm 60 của thế kỷ trước. Sau đó là nhiều giống mới mang tên “giống bác sĩ Của” như lúa chiêm 314 (lai giữa dòng Đoàn Kết và Thắng Lợi), NN75-1 (lai giữa giống 813 với NN1), NN8-388 (chọn giống từ IR8), lúa mùa Saisubao, lúa xuân sớm NN75-5, giống dưa lê, cà chua, khoai lang, dưa hấu không hạt, chuối, rau, táo… cùng với những ứng dụng tiến bộ kĩ thuật tam bội thể, tứ bội thể, chất kích thích sinh trưởng. Giáo sư đề xướng mô hình canh tác “bờ vùng, bờ thửa” “cấy nông tay thẳng hàng” “đảm bảo mật độ” được hàng chục triệu nông dân áp dụng trên diện rộng, tạo ra cuộc cách mạng trong nông nghiệp.
Cuộc đời của giáo sư là tấm gương sáng của một trí thức lớn dấn thân vì đại nghĩa, sống thanh đạm, giản dị, say mê, tận tuỵ với sự nghiệp trồng người và nghiên cứu khoa học tạo giống cây trồng, cải tiến kỹ thuật canh tác để mang lại đời sống tốt hơn cho người dân.
Giáo sư Lương Định Của được bầu là đại biểu Quốc hội các khoá 2, 3, 4, 5, được phong danh hiệu Anh hùng Lao động và Huân chương Lao động Hạng Nhất năm 1967 và được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học công nghệ đợt 1 năm 1996. Nhiều con đường, mái trường Việt Nam mang tên Thầy. Năm 2006, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã lập Giải thưởng Lương Định Của để hằng năm trao tặng cho những thanh niên có thành tích đặc biệt xuất sắc trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, công nghệ nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
GS Lương Định Của mất ngày 28 tháng 12 năm 1975, mai táng tại Nghĩa Trang Thành phố Hồ Chí Minh. Vợ của giáo sư, bà Nobuko Nakamura, sống cùng gia đình con trai cả Lương Hồng Việt ở thành phố Hồ Chí Minh.
Cuộc đời và sự nghiệp của nhà bác học nông dân Lương Định Của còn mãi với thời gian, với con đường lúa gạo Việt Nam đang tỏa rộng nhiều vùng đất nước kết nối lớp lớp những dâng hiến lặng lẽ tôn vinh hạt ngọc Việt. Cây lúa Việt Nam nửa thế kỷ nhìn lại (1975-2014) tốc độ tăng năng suất vượt 1,73 lần so với thế giới (Năm 2013 năng suất lúa gạo Việt Nam đạt 5,57 tấn/ ha so với năm 1975 là 2,11 tấn/ ha, gia tăng 3,46 tấn/ ha. Năm 2013 năng suất lúa gạo thế giới đạt 4,48 tấn/ ha so năm 1975 là 2,49 tấn/ ha gia tăng 1,99 tấn/ ha). Thành tựu này có cống hiến hiệu quả của nhà bác học nông dân Lương Định Của ở chặng đường đầu của nước Việt Nam mới.
Chuẩn bị xong những việc sau cùng để ngày mai cấy các bộ giống lúa mới, chúng tôi lên đường về thăm quê hương thầy Lương Định Của khi trời đã xế chiều. Chúng tôi đến thăm cụ Sáu, em gái Thầy Lương Định Của và thắp hương tại khu mộ gia đình Thầy khi trăng rằm tháng giêng lồng lộng đang lên. Ruộng lúa Đại Ngãi, Trường Khánh xanh ngát dưới ánh trăng.
Ngôi nhà niên thiếu và phần mộ tổ tiên, cha mẹ song thân của giáo sư Lương Định Của tại ấp Ngãi Hoà, cách trụ sở Uỷ ban Nhân dân xã Đại Ngãi khoảng 3 km, và phải đi bằng xe ôm vì lối đi nhỏ bé, thuần phác, khiêm nhường giữa vùng quê Nam Bộ. Xe ôm chạy hun hút dưới vòm dừa nước y như trong vườn thiêng cổ tích.
Cha và mẹ của thầy Lương Định Của là Lương An Hùng và Huỳnh Thị Có cùng ông bà nội là Lương Đức Ngãi và Trịnh Thị Xuân đều an táng tại làng quê Đại Ngãi. Chúng tôi bâng khuâng trước phần mộ tổ tiên, cha mẹ song thân của bậc anh hùng. Nơi đây mấy trăm năm trước hẳn rất hoang vu, bởi lẽ mãi cho đến tận nay, vẫn vùng quê hẻo lánh đến vậy. Tôi chợt thấm thía câu thơ Sơn Nam:
Trong khói sóng mênh mông Có bóng người vô danh Từ bên này sông Tiền Qua bên kia sông Hậu Tay ôm đàn độc huyền Điệu thơ Lục Vân Tiên Với câu chữ Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả Từ Cà Mau Rạch Giá Dựng chòi đốt lửa giữa rừng thiêng Muỗi vắt nhiều hơn cỏ Chướng khí mờ như sương Thân chưa là lính thú Sao không về cố hương?
Anh Lương Hồng Việt nói với tôi tổ tiên họ Lương của anh có nguồn gốc Phúc Kiến lánh nạn Mãn Thanh sang cư trú ở Đàng Trong hồi thế kỷ XVII. Nam Bộ là nôi nuôi dưỡng của đại gia đình các dân tộc người Việt, người Hoa, người Khơ Me. Nhiều người Hoa trong số họ đã chung sức cùng người Việt, người Khơ Me khẩn hoang, giữ gìn và sinh sống nhiều đời tại quê hương.
Từ Đại Ngãi, Sóc Trăng về Hà Tiên không xa. Đó là nơi khởi nghiệp của Mạc Cửu công thần đất Hà Tiên ”phên dậu Đại Việt đất phương Nam” và vùng danh thắng Hà Tiên thập vịnh Mạc Thiên Tích. Mạc Cửu là Tổng trấn Hà Tiên, thành hoàng lập trấn địa đầu của đất cực Nam Tổ quốc. Mạc Thiên Tích con của Mạc Cữu làm Tổng binh Đại đô đốc thời chúa Nguyễn Phúc Trú. Hai cha con Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích và dòng họ Mạc là những người có công lớn đối với non sông Việt trong sự khai khẩn và trấn giữ miền Tây Nam Bộ. “Chẳng đội trời Thanh Mãn/ Lần qua đất Việt bang/ Triều đình riêng một góc/ Trung hiếu vẹn đôi đường/ Trúc thành xây vũ lược/ Anh Các cao văn chương” (thơ Đông Hồ). Nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt đã nhận xét rất chí lý: “Nhờ có Mạc Cửu, người Việt mới bước qua bờ nam sông Tiền”.
Từ Đại Ngãi, Sóc Trăng đi lên hướng Sài Gòn – Gia Định – Đồng Nai – Biên Hòa là vùng đất khởi nghiệp lừng lẫy của Trịnh Hoài Đức công thần nhà Nguyễn, quan Thượng thư, hiệp Tổng trấn, Điền toán (chuyên coi về sự cày cấy khai khẩn đất đai Nam Bộ), nhà thơ, nhà văn, sử gia nổi tiếng với tác phẩm Gia Định thành thông chí một công trình được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao. Đó cũng là nơi có bậc danh nho Võ Trường Toản cùng với các học trò của ông cũng là những công thần lỗi lạc của nhà Nguyễn như Ngô Tùng Châu, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tĩnh, Phạm Ngọc Uẩn, Lê Bá Phẩm, những người Việt gốc Hoa noi theo gương thầy Chu Văn An đời Trần, thực lòng yêu thương cộng đồng đại dân tộc Việt Nam, cùng chung lưng đấu cật, góp xương máu, công sức xây đắp nên cơ nghiệp muôn đời. Và nay có người phụ nữ Nhật Nakamura Nobuko thuận theo giáo sư Lương Định Của “thuyền theo lái, gái theo chồng” tạo dựng nên công đức cùng chồng là vậy.
Lương Định Của những tháng năm tuổi trẻ
Ruộng lúa Trường Khánh Đại Ngãi Long Phú Sóc Trăng dưới ánh trăng rằm tháng Giêng chụp lúc 19g30 mà vẫn lồng lộng xanh mướt lạ thường, ảnh Hoàng Kim. Tuổi xuân của Lương Định Của khởi đầu ở vùng quê Đại Ngãi, Long Phú, Sóc Trăng, nơi vùng lúa Trường Khánh. Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời bắt đầu bằng tuổi trẻ. Ông là con trưởng trong một gia đình cha mẹ là điền chủ, mất sớm. Ông có hai em gái và một em trai. Ông theo học tiểu học ở Sóc Trăng, trung học ở Sài Gòn, học tiếng Anh ở Hồng Công và Thượng Hải, sống nhờ hoa lợi của số ruộng đất cha mẹ ông để lại. Sau đó ông xin được học bổng Nhật Bản theo học Khoa Nông học Trường Đại học Tổng hợp Kyushu. Kế đó, ông lấy vợ Nhật và theo học tiếp Tiến sĩ Nông học, rồi làm giảng sư Đại học Tổng hợp thành phố Kyoto.
Con đường tuổi thơ Ngãi Hòa, Đại Ngãi, Trường Khánh quê hương Lương Định Của lung linh huyền thoại, ảnh Hoàng Kim.
“ Lương Định Của sinh ngày 16-7-1919 tại làng Đại Ngãi, huyện Long Phú tỉnh Sóc Trăng trong một gia đình điền chủ theo đạo Thiên chúa. Cha mẹ mất sớm, lúc ông mới mười hai tuổi. Hồi nhỏ học Trường tiểu học Taberd ở thị xã Sóc Trăng, rồi chuyển lên Sài Gòn theo bậc trung học cũng tại Trường Taberd.
Đến năm thứ tư, Lương Định Của xin sang Hồng Công học tiếp tại trường La Salle College với ý định trau dồi tiếng Anh thật giỏi để sau này đi vào ngành thương mại. Sau khi trúng tuyển kỳ thi tuyển sinh vào đại học (tiếng Anh gọi là University Matriculation), ông rời Hồng Công lên Thượng Hải học. Ở Hồng Công thời ấy chỉ có mỗi một trường đại học, học phí rất cao, trong khi tại Thượng Hải, sinh hoạt rẻ hơn. Tại đây, ông theo học Trường đại học Saint John’s. Đang học dở chừng thì chiến tranh thế giới lan rộng và ngày càng ác liệt. Cuộc sống của lưu học sinh tại Trung Quốc trở nên bấp bênh. Lương Định Của hiểu, cần phải tìm nguồn sinh hoạt ổn định ở ngay nước ngoài, vì rất khó trông chờ vào món tiền mà ông bác ruột trích từ hoa lợi số ruộng đất cha mẹ ông để lại ở Sóc Trăng vẫn tháng tháng gửi sang cho như những năm trước. Thấy một người bạn học gửi thư xin học phí du học tại Nhật Bản và được chấp thuận dễ dàng, ông cũng nộp đơn và được chấp nhận cho sang Nhật.
Bước chân lên đất nước Phù Tang xưa kia không mấy khác nước mình, nay nhờ công cuộc duy tân đã trở thành một quốc gia hùng mạnh, chàng thanh niên Lương Định Của vẫn ôm ấp mộng làm giàu bằng con đường thương mại. Nhờ tiếp xúc với một số nhà yêu nước Việt Nam sống lưu vong, theo lời khuyên của họ, sau một năm học tiếng Nhật, ông bỏ ngành thương mại chuyển sang học ngành nông nghiệp với hoài bão rõ rệt mang vốn kiến thức về quê hương thiết thực phục vụ đất nước.”
Ông theo học Khoa Nông học Trường Đại học Tổng hợp Kyushu. Năm 1945, Nhật Bản thua trận. Nhân dân Nhật trải qua một thời kỳ cực kỳ khó khăn dưới sự chiếm đóng và cai quản trực tiếp của quân đội Mỹ. Miếng ăn hằng ngày còn chưa đủ, không ít người Nhật đói rét. Chính phủ Nhật Bản làm gì còn có học bổng ưu ái cho du học sinh nước ngoài.
“Để có thể tiếp tục theo học, cũng như mọi sinh viên khác, Lương Định Của làm đủ nghề: gia sư, biên dịch tài liệu, phiên dịch tiếng Anh… Cái vốn Anh ngữ lúc này thật sự có ích vì hồi ấy không có nhiều người Nhật sử dụng thành thạo ngoại ngữ. Sự giúp đỡ của Việt kiều ở Nhật là niềm khích lệ lớn đối với ông. Đặc biệt những người Việt Nam vì chống Pháp phải sống xa quê đã bồi dưỡng và khuyến khích lòng yêu nước vốn có trong chàng thanh niên Nam Bộ.”
Bác sĩ Nông học, Giảng sư Đại học
Sau thời kỳ tuổi xuân và những năm tháng đại học. giáo sư Lương Định Của học tiếp Tiến sĩ Nông học và làm giảng sư Đại học Tổng hợp thành phố Kyoto, Nhật Bản. Nhà báo Phan Quang trong bài Kỷ niệm đời thường về nhà khoa học Lương Định Của phần 1 viết tiếp:
“Lương Đình Của miệt mài học tập, nghiên cứu. Một nhà khoa học nổi tiếng khác, cũng là lưu học sinh cùng thời với Lương Định Của là bác sĩ Đặng Văn Ngữ, trước khi về nước phục vụ đã khuyên ông nên ráng ở lại học tập cho thành đạt rồi về sau cũng không muộn. Lương Định Của mãi biết ơn lời khuyên của bạn.
Năm 1947, tốt nghiệp cử nhân Trường Đại học Tổng hợp Kyushu, ngành nông nghiệp. Phần lớn lưu học sinh nước ngoài ở Nhật Bản hồi ấy giật được mảnh bằng đều đi kiếm việc làm hoặc về nước để sớm chấm dứt cảnh thiếu thốn nơi đất khách quê người. Lương Định Của phân vân. Ông cảm thấy vốn kiến thức của mình còn mong manh quá. Nếu muốn thật sự phục vụ đất nước thì còn phải học tập thêm nhiều.
Ông quyết định xin vào làm phụ việc ở Trường Đại học Tổng hợp thành phố Kyoto, cố đô nước Nhật và cũng là quê hương bà Của, tình nguyện làm việc không hưởng lương. Đổi lại, ông được phép đọc sách ở thư viện và dùng một số giờ nghiên cứu, thực nghiệm tại phòng thí nghiệm của nhà trường.
Một lần nữa, cái vốn ngoại ngữ lại có ích cho ông. Ngoài công việc chuyên môn hằng ngày, còn nhận biên dịch ra tiếng Anh và đánh máy các công trình, luận văn cho một số giáo sư trong trường.
Sức làm việc của chàng thanh niên Việt Nam cần cù, ít nói, gây ấn tượng và dần dần giành được lòng yêu mến của các thầy. Trường Đại học Kyoto chính thức cấp cho ông học bổng nghiên cứu sinh. Một thời gian sau, trường bổ nhiệm ông làm một chân tập sự trợ lý (sub-assistant), trong khi chờ đợi hội đủ điều kiện thi lấy bằng tiến sĩ. Một số tạp chí khoa học Nhật Bản và ở nước ngoài bắt đầu đăng tải các công trình nghiên cứu của nghiên cứu sinh Lương Định Của. Bài báo đầu tiên ông được công bố trên một tạp chí khoa học tên tuổi ở nước ngoài phản ánh phần nào sức đọc của ông.”
Đó là Thư mục về các công trình nghiên cứu di truyền học xuất bản ở Nhật Bản, thời gian 1941- 1948 (tạp chí Heredity, London, số 4 năm 1950, trang 121-133). Trong khoảng thời gian trên dưới hai năm (1950-1952), các tạp chí khoa học lớn công bố mười hai công trình của nhà nghiên cứu trẻ.
“Ông là một người rất thành thục công việc trong phòng thí nghiệm. Với thiết bị của Trường Đại học Kyoto, Lương Định Của đã chụp được ba vạn tấm ảnh nhiễm sắc thể cây trồng. Sau này có dịp sang thăm Viện Nghiên cứu Lúa gạo Hoa Nam, gặp nhà khoa học Trung Hoa chuyên gia nổi tiếng thế giới về cây lúa là Giáo sư Đình Dĩnh, bác sĩ nông học Lương Định Của được Giáo sư mời thao tác phương pháp chụp ảnh nhiễm sắc thể đã nhuộm mầu sau khi cắt tế bào tại phòng thí nghiệm cho các nhà khoa học của Viện tham khảo.”
Mùa hè năm 1951, Lương Định Của trình luận văn về công trình nghiên cứu nhiều năm của mình với chủ đề: “Cách xử lý đa bội thể di truyền nhằm tạo nên giống lúa mới”. Hội đồng khoa học Trường Đại học Tổng hợp Kyoto nhận xét, với kết quả nghiên cứu khoa học của mình, Lương Định Của đã có cống hiến lớn cho nền nông học trong việc cải thiện giống lúa, và bỏ phiếu nhất trí cấp học vị Bác sĩ Nông học cho ông.
“Cùng với học vị bác sĩ, Lương Định Của còn nhận được bằng khen và tiền thưởng của Viện Nghiên cứu Sinh học Kinhara về công trình “Sự sinh sản của giống lúa lai tạo từ hai giống lúa Japonica và Indica”.
Báo cáo khoa học của Viện khẳng định, với công trình này Lương Định Của đã giải quyết tốt một vấn đề từ năm 1930 đến lúc bấy giờ chưa có ai xử lý được. Một số kỹ thuật do Lương Định Của phát minh, trong đó có phương pháp xử lý rễ trước khi cố định trong việc nghiên cứu hình thái nhiễm sắc thể công bố lần đầu trên tạp chí Botanical Gazette (Mỹ) được ứng dụng rộng rãi tại Nhật Bản.
Kỹ sư Hồ Đắc Song, phó vịên trưởng Viện Cây Lương thực, Cây Thực phẩm, một người cộng tác nhiều năm với bác sĩ Lương Định Của, có lần cho biết: Phát minh của Lương đã được ứng dụng ngay từ hồi ấy trong việc lai tạo giống lúa tại Hoa Kỳ, gọi là phương pháp Lương Định Của.
Theo báo chí Nhật Bản, kể từ những năm đầu công cuộc duy tân đất nước thời Minh Trị thiên hoàng cho đến lúc bấy giờ (1888-1951), trong hơn sáu mươi năm, nước Nhật mới cấp học vị bác sĩ nông học cho hai trăm năm mươi người. Lương Định Của là nghiên cứu sinh trẻ tuổi nhất khi nhận học vị, và cũng là người ngoại quốc duy nhất được cấp bằng bác sĩ nông học tại Nhật bản cho đến lúc bấy giờ.
Nhà báo Phan Quang có dịp được xem những bài báo viết về sự kiện ấy, những mẩu báo cắt chữ in vẫn còn rõ nét tuy giấy đã ố vàng và cứ chực mủn ra vì được xếp lẫn quần áo trong chiếc va ly tàng tàng bất ly thân của gia đình sau mấy chục năm cùng hai ông bà Lương Định Của bôn ba chuyển dịch nhiều nơi.
Báo Mainichi Shimbun số ra ngày 26 tháng Năm năm Chiêu Hòa thứ 26 đăng chân dung lớn của nhà khoa học trẻ với vầng trán cao, chiếc cằm nhọn, khuôn mặt gầy thanh nhã. Tin đăng kèm cho biết nhà khoa học ba mươi mốt tuổi Lương Định Của là người Việt Nam đầu tiên được cấp bằng bác sĩ nông học của Nhật bản. Báo đưa khá chi tiết lý lịch của ông, nói rõ Lương được sự hướng dẫn của Giáo sư nổi tiếng Kinhara, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Sinh học mang tên ông.
Cũng báo Mainichi, một số trước đó đăng ảnh Lương chăm chú trước kính hiển vi, bên cạnh là tấm ảnh khác chụp cận cảnh những hạt lúa do ông lai tạo nên, to gấp đôi những hạt lúa so sánh.
Báo Kyoto Shimbun cũng in ảnh những bông lúa mới được lai tạo nên. Bài báo cho biết thêm, kết quả này đã được thông báo cho Tổ chức Lương Nông Quốc tế (FAO) đóng tại Rome, đồng thời cũng thông báo đến Thủ tướng Ấn Độ J.Nerhu là người đang hết sức quan tâm giải quyết vững chắc vấn đề lương thực cho năm trăm triệu dân nước Ấn Độ mới giành lại được độc lập. v.v…
Mấy tháng sau khi nhận học vị bác sĩ nông học, tháng Mười năm 1951, Lương Định Của được Bộ Giáo dục Nhật Bản bổ nhiệm làm giảng sư Trường đại học Kyoto. Ông là người ngoại quốc duy nhất thời ấy được bổ nhiệm làm giảng sư chính thức ở một trường đại học quốc lập Nhật Bản. Theo những người am hiểu, chức vị giảng sư ở Nhật tương đương với phó giáo sư (tiếng Nhật gọi là phó giáo thụ) tuy chưa phải chính ngạch, bởi Nhà nước khống chế số lượng giáo sư và phó giáo sư ở các trường đại học trong một khung biên chế nhất dịnh, chỉ khi nào có ghế khuyết thì nhà trường mới được bổ nhiệm người khác thay vào, còn lại đều gọi là chung là giảng sư.
Khi bắt đầu nhận việc với chức trách giảng sư một Trường đại học quốc lập Nhật Bản, Lương Định Của đã kết hôn với một phụ nữ địa phương dòng dõi quý tộc và đã có hai con. Cuộc sống gia đình ổn định. Tương lai xán lạn mở ra trước mắt nhà khoa học trẻ.“
Sự mô tả khá chi tiết trên đây của nhà báo bậc thầy Phan Quang đã cung cấp cho chúng ta các thông tin chân thực từ năm 1919 đến năm 1951. Điều chưa rõ là ngày sinh 16.7.1919 hay 16.8.1920 cần được xác minh thêm.
Nhà báo Nguyễn Thị Ngọc Hải trong bài Nobuko Nakamura & Luồng gió từ Hà Nội đã viết: “Một sự trùng hợp hay hay: ngôi nhà của gia đình giáo sư Lương Định Của ở TP.HCM nằm ngay trên con đường có ngôi trường mang tên ông. Ông mất đã lâu, năm 1975, lúc mới 55 tuổi, còn rất nhiều khả năng cống hiến và chưa được hưởng không khí hoà bình bao lâu. Bây giờ, trên con đường này, vợ ông – bà Nubuko Nakanura, 88 tuổi, vẫn ngày ngày được con trai đưa mẹ tập đi bộ giữa đường phố náo nhiệt. Khách qua đường mấy ai biết đó chính là người vợ Nhật Bản đã cùng chia sẻ cuộc đời lao động sáng tạo của một vị giáo sư – anh hùng lao động danh tiếng, đã rời bỏ quê hương cùng chồng trải qua cuộc chiến tranh gian khổ của Việt Nam.
Khi bước vào ngôi nhà rất khiêm tốn của con gái bà nằm trong một hẻm nhỏ, khách sẽ vô cùng ngạc nhiên thấy một cụ bà 88 tuổi chạy nhanh xuống cầu thang, nói cười vui vẻ. Bà ăn mặc đẹp, trang điểm nhẹ và mời khách lên tận thư phòng, nơi cất giữ những bộ album quý, tài liệu lưu giữ. Bà nói một ít tiếng Việt, có người con trai Lương Hồng Việt ngồi bên hỗ trợ mẹ.
Bà đưa ra một cuốn sách viết bằng tiếng Nhật, do một nhà xuất bản ở Nhật ấn hành năm 2000. “Đây là cuốn hồi ký của bà, tên sách là Luồng gió từ Hà Nội, gây tiếng vang lớn ở Nhật nhưng tiếc là chưa ai dịch ra tiếng Việt để người Việt Nam có thể đọc và thấy rõ thêm một anh hùng của dân tộc mình, một trí thức lớn lăn lộn trên ruộng đồng, dưới bom đạn để tạo ra các giống lúa mới giúp hậu phương miền Bắc đạt kỷ lục 5 tấn lúa/ha, góp phần đảm bảo lương thực cho cuộc chiến tranh.
Anh Lương Hồng Việt – cũng công tác ở Viện Cây Lương thực và Cây Thực phẩm cho biết: Bây giờ khoa học tiến bộ, có rất nhiều giống mới. Người ta không còn thấy những giống lúa của cha anh ngày xưa nữa. Nhưng trong thời kỳ kháng chiến, các giống cây trồng Lương Định Của với các loại lúa NN8- 388, các loại lúa muộn, lúa chiêm 314, các giống cây ăn quả như khoai lang, đu đủ, dưa lê… rất nổi tiếng ở miền Bắc. “Người nông dân biết tiếng ba nhiều hơn”. Có thể nói ông Lương Định Của sống trong lòng nông dân không chỉ từ giống cây mới thần kỳ, mà còn do cuộc đời mẫu mực của ông.
Trong cuốn hồi ký, bà Nubuko viết về mối tình của bà và ông Lương Định Của. Họ gặp nhau, yêu nhau khi ông du học ở Nhật nghiên cứu di truyền học tế bào. Tốt nghiệp tiến sĩ, ông về nước theo lời gọi của Bác Hồ cùng với các trí thức lớn như Trần Đại Nghĩa, Đặng Văn Ngữ, Trần Hữu Tước… Họ cưới nhau năm 1945. “Lúc ấy làm gì có ai biết đến Việt Nam và lấy người Việt Nam đâu. Nhưng gia đình tôi rất ủng hộ. Mẹ tôi tự đi chợ về nấu nướng cho đám cưới. Mẹ tôi quý con rể lắm. Nhưng chính quyền chưa có thủ tục cho đăng ký kết hôn với người Việt Nam nên phải đăng ký ở nhà thờ. Người Nhật lúc đó còn chưa biết An Nam là ở đâu”. Bà nhớ lại: “Tính tình chúng tôi khác nhau nhưng lòng tin là một. Tin cậy lẫn nhau, gian khổ cùng vượt, đồng cam cộng khổ”. Bà thêm: “Chỉ cần nói ngắn, nói ít như vậy thôi”.
Chuyện về nước của gia đình giáo sư cũng nhiều gian nan: “Từ Nhật, gia đình theo một tàu vận tải hàng của Nhật qua Hong Kong định về Trung Quốc nhưng do thiếu giấy tờ hợp lệ nên không vào được Trung Quốc. Tiền hết, đồ đạc mất hết, phải về Sài Gòn bằng máy bay do người bạn của ba giúp tiền. Ba làm việc ở Viện Khảo cứu Nông nghiệp Bộ Canh nông”, lời anh Việt.
Trích dẫn đến đây, tôi (HK) xin được ghi chú thêm một chi tiết nhỏ nhưng quan trọng. Theo hồi ức và lời kể của thầy Phan Gia Tân, giảng viên Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, sau ngày Việt Nam thống nhất 30.4.1975, thầy Lương Định Của đã vào Trường tìm gặp Giáo sư Tôn Thất Trình, người hai lần làm Bộ trưởng Bộ Canh nông chính quyền Sài Gòn, Hiệu trưởng Trường Đại học Nông nghiệp và trực tiếp giảng dạy cây lúa, nông học. Thầy Của tiếc không gặp được thầy Trình. Giáo sư Tôn Thất Trình đã ra đi. Trong cơn lốc của các sự biến, thầy Tôn Thất Trình đã không sang Mỹ, không sang Pháp mà sang làm việc ở Tổ chức Lương Nông Quốc tế (FAO) và tiếp tục giúp đỡ đất nước sau hậu chiến. Điều này tôi đã viết trong bài Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời
Năm 1954, qua liên lạc biệt động, gia đình giáo sư gửi thư xin phép đi tập kết. Anh Hồng Việt kể lại: “Từ Sài Gòn, theo biệt động đưa về Cần Thơ, xuống căn cứ Cà Mau và đi tàu Ba Lan ra Sầm Sơn, Thanh Hoá. Ấn tượng đầu tiên là hưởng luôn một trận gió mùa đông bắc. Nhưng ngày hôm sau là 1.1.1955, gia đình được chứng kiến ngày lễ tưng bừng”. Trong quyển hồi ký bằng tiếng Nhật của bà Nubuko có in hình giáo sư Lương Định Của và Thủ tướng Phạm Văn Đồng đang lội ruộng xem cây trồng vào lúc chiến tranh đang khốc liệt. Như tất cả các gia đình cán bộ lúc đó, nhà bà phải ly tán đi làm nhiệm vụ: giáo sư làm việc ở Gia Lộc, Hải Dương; các con lớn gửi vào trường học sinh miền Nam; bà cùng cơ quan sơ tán về gần chùa Thầy, Quốc Oai. Bà cũng là phát thanh viên tiếng Nhật của đài Tiếng nói Việt Nam và vinh dự là người đọc bản tin loan báo chiến thắng lịch sử 30.4.1975.
Bà Nubuko kể chuyện tình bạn với nhiều người, trong đó có mẹ con nghệ sĩ Đặng Thái Sơn và rất nhiều người khác. Bà đi du lịch khắp Việt Nam, về quê chồng ở Long Phú, Sóc Trăng, họp đồng hương ở Sài Gòn, về tận nhà người nông dân nghèo ngày xưa bà ở trọ lúc sơ tán ”
Nhà báo Phan Quang đã tái hiện chân thực cuộc sống thường ngày của nhà bác học nông dân trong phần 2 của bài “Kỷ niệm đời thường về nhà khoa học Lương Định Của”: “Tập kết ra Bắc, tiến sĩ nông học Lương Định Của được phân về nhận việc tại Học viện Nông lâm, đóng ở Gia Lâm. Là một nhà di truyền học nổi tiếng, ông được phân công phụ trách nghiên cứu và ứng dụng lai tạo giống. Ít lâu sau, Học viện tách làm đôi: Trường Đại học Nông Lâm, vẫn đóng ở địa điểm cũ, và Viện Khoa học Nông nghiệp chuyển sang bên này sông Hồng, xây dựng hoàn toàn mới ở Văn Điển. Năm 1960, ông được bầu làm Đại biểu Quốc hội tỉnh Hải Dương, khóa II, và được bầu lại liên tiếp ba khóa nữa, cho đến khi qua đời. Lương Định Của về Viện. Bà Của – tên con gái là Nakamura Nobuto, thuộc một gia đình quý tộc phá sản vì chiến tranh – giúp việc ông trong việc lai tạo giống, hưởng lương nhân viên bốn mươi đồng một tháng. Ông mang từ Nhật Bản về hai con trai sinh bên ấy. Về nước lại đẻ thêm hai đứa nữa. Vào lúc đó có chủ trương giảm biên chế. Bà Của làm công tác khoa học mà chưa có bằng đại học chuyên ngành, theo chính sách chung, đưa ra ngoài biên chế. Cả nhà sáu miệng ăn, trông vào lương ông Viện phó, cho dù đã được ưu ái xếp tận trần thì bậc lương cao nhất của Phó Viện trưởng cũng không thể vượt quá một trăm năm mươi lăm đồng. Cộng thêm năm đồng phụ cấp ưu đãi gì đó nữa, tổng cộng mỗi tháng lĩnh tròn một trăm sáu mươi đồng. Với sự chuẩn xác của nhà khoa học, bác sĩ Của ghi vào tờ khai thu nhập bình quân gia đình: Hai mươi sáu phẩy sáu đồng. Một ngày chủ nhật, Thủ tướng Phạm Văn Đồng về thăm Viện, xem giống lúa, vườn cây, đồng rau, chuồng gia súc, thí nghiệm… Phó Viện trưởng Lương Định Của hướng dẫn Thủ tướng. Đang đi trong Viện thì xe thủng lốp. Người lái xe xin Thủ tướng mười phút thay lốp xơcua. Anh Tô (*) nói: “Ta vào thăm nhà anh Của đi”. Lương Định Của vội chạy về trước. Gia đình ông được cơ quan phân cho một ngôi nhà cấp bốn ba gian, mái lợp tranh. Trên bếp lò còn chảo cơm rang buổi sáng ăn dở, ông vội vàng lấy chiếc lồng bàn úp lại. Rồi vơ cuộn vội đống chăn lũ trẻ ngủ dậy muộn chưa kịp gấp, vứt bừa bãi. Các chăn bông không còn vỏ bọc, vì chỉ đủ tiền mua những cái cốt dày chống rét miền Bắc thôi. Bà Của sửa sang áo tóc, đứng ra bên cửa cúi mình rất thấp rước Thủ tướng vào nhà. Anh Tô liếc nhìn cuộn chăn bông không có vỏ và chiếc lồng bàn úp luôn trên bếp lò, cảm ơn song không bước qua cửa mà thoái thác “Tôi muốn xem mấy cây táo”. Quả là trong vườn gia đình có trồng ba cây táo tạo dáng đẹp và rất sai quả, táo ta mà quả nào quả nấy to gần bằng trứng gà. Bác sĩ Lương Định Của nổi tiếng về mấy cây ăn trái này. Bà con hàng xóm đồn ông Của có mang hóa chất đặc biệt từ Nhật về, cho nên cây nào ông trồng cũng sai quả và quả to đến thế. Đấy, xem như rau muống là thứ phổ thông nhất, ông cho hóa chất vào, cọng rau cứ to tày thân cây sậy; rau muống ông Của chẳng đang phủ kín đồng, dùng làm thức ăn cho lợn là gì. Trả lời Thủ tướng hỏi giống táo gì đây, bác sĩ Lương Định Của đáp: “Thưa, táo Thiện Phiến, Hưng Yên đấy ạ”. Nhiều người cho là ông Của không nói thật. Ngay trên Bộ Nông nghiệp cũng có ý kiến xì xầm tay Của giỏi giấu nghề. Lương Định Của bực lắm. Ông nói: “Báo cáo Thủ tướng mà dám nói sai, tôi không sợ vào tù sao?”. Quả thật, đấy đúng là giống táo Thiện Phiến. Ông Của nhờ bạn là Trưởng Ty Nông nghiệp Hưng Yên chiết cho ba cành, ông mang về trồng trong vườn cho lũ trẻ có thêm vitamin; gia đình làm gì đủ tiền mua trái cây như thời bên Nhật Bản hoặc ở thành phố Sài Gòn. Cái quan trọng, ông nói, là biết chăm sóc và tạo dáng. Tỉa cành. Vặt bớt những quả bé đi. Và dạy cho lũ trẻ con, phải chờ cho quả thật chín mới được hái, không được bứt phá khi quả còn xanh. Thủ tướng đến thăm cữ giáp Tết, đúng vào mùa thu hoạch, cho nên ba cây táo trong vườn nhà ông mới đẹp đến vậy. Chia tay ra về, Thủ tướng Phạm Văn Đồng vỗ vai nhà nông học: “Anh Của à, anh làm nghiên cứu, thường xuyên đi với nông dân, tác phong giản dị là tốt. Nhưng nông dân ta không bẩn đâu nhé. Nhà anh bẩn lắm!”. Và người đứng đầu Chính phủ kết thúc câu nói bằng một tràng cười sang sảng quen thuộc. Lương Định Của đưa tay gãi cái trán đã bắt đầu hói, khẽ “dạ”. Từ bấy trở đi, mỗi kỳ lễ tết, anh Tô lại gửi cho cái phong bì một trăm rưởi, hai trăm đồng. Phó Thủ tướng Phạm Hùng chỉ thị chuyển bà Nakabura Nobuto, mà từ lâu rồi mọi người chỉ biết gọi là bà Của về làm việc ở Ban tiếng Nhật Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, hưởng lương cán bộ. Chưa bao giờ ai nghe Lương Định Của có một lời phàn nàn về cuộc sống. Ông chỉ buồn về những trục trặc nhỏ trong quan hệ bạn bè, đồng nghiệp. Nỗi day dứt của ông là không đủ tiền đặt mua tạp chí khoa học của nước ngoài. Đúng vào dịp này, ông viết sơ yếu lý lịch cá nhân, mục “GIA ĐÌNH – Vợ người Nhật Bản. Có bốn con. Đứa lớn học trường miền Nam số 25, lớp năm. Đứa kế học trường ở Văn Điển, lớp ba. Lương hàng tháng đủ sống, không rách rưới, thiếu thốn gì. Ở Sài Gòn còn ba em, hai gái, một trai. Đứa em gái lớn chưa có chồng, đứa em kế đó chồng đi tập kết có hai con, thằng em út thì làm sĩ quan trong quân đội Sài Gòn”.
Nhà báo Phan Quang kể tiếp về “Gánh xiếc Đông Phương Hồng” và những công việc cụ thể thường ngày của Bác Của: “Bước vào thập niên 60 thế kỷ trước, công cuộc hợp tác hóa nông nghiệp ở miền bắc vừa hoàn thành, khắp mọi nơi sôi nổi phong trào cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động nông nghiệp. Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh được phân công kiêm Trưởng ban Nông nghiệp Trung ương. Bác Hồ đích thân chỉ thị cho ông tìm cách khuấy động phong trào, tạo khí thế thi đua phát triển sản xuất, xây dựng nông thôn mới. Đội ngũ các nhà khoa học nông nghiệp, bắt đầu từ các con chim đầu đàn được đào tạo trong nước hoặc học từ nước ngoài về: Bùi Huy Đáp, Nguyễn Đăng, Lê Duy Thước, Trần Văn Hà, Dương Hồng Hiên, Trần Thế Thông, Đào Thế Tuấn, Lã Xuân Đĩnh…, mỗi vị một nghề chuyên sâu, sẵn sàng xắn quần lội ruộng. Lương Định Của là chuyên gia về giống, được phân công chỉ đạo huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa, lấy hợp tác xã Đông Phương Hồng làm thí điểm. Nhà nông học cùng mấy học trò kỹ sư có, trung cấp có lếch thếch gồng gánh đồ lề rời thủ đô về mảnh đất vốn nổi tiếng “địa linh nhân kiệt”, đã góp phần rất to lớn về hậu cần cho chiến thắng Điện Biên Phủ song nghèo thì vẫn nghèo, vì mùa màng bấp bênh, năng suất lúa bình quân thấp. Anh em trong ngành nông nghiệp và cán bộ địa phương gọi đùa đội chỉ đạo của thầy trò Ông Của là “Gánh xiếc Đông Phương Hồng”. Từ bấy, trên cánh đồng ruộng Thọ Xuân hầu như ngày nào bà con nông dân cũng thấy một người trạc tuổi trung niên dong dỏng cao, đầu đội nón lá, mình mặc sơmi mầu cỏ úa, quần xắn ống thấp ống cao quẩn quanh từ sáng đến xế chiều. Nông dân đã quên đi hoặc chẳng buồn quan tâm đến học vị cao siêu cũng như các chức danh rối rắm khác của ông trưởng đoàn chỉ đạo do Trung ương phái về mà chỉ biết đấy là Bác Của – không phải “bác” trong cụm từ thông thái “bác sĩ nông học” mà là “bác” như nông dân vùng này vẫn thường gọi nhau: bác Đỏ, anh Cò… Nông dân chấp nhận nhà bác học nói giọng Nam Bộ như một người thân thuộc bà con lối xóm của mình. Lương Định Của là một người thẳng tính. Mới về huyện Thọ Xuân, dạo quanh một vòng quan sát đồng ruộng nơi cạn nơi úng, ông nói với Bí thư Huyện ủy: “Cánh đồng của anh như cái nồi đất thủng, nấu cơm không chín đâu”. Ông chủ trương bắt đầu từ việc xây dựng đồng ruộng, làm bờ vùng bờ thửa. Hợp tác xã được chọn làm điểm chỉ đạo. Đông Phương Hồng vốn là một đơn vị làm ăn căn cơ, nhiều lần được báo chí nêu gương. Chủ nhiệm am hiểu kỹ thuật, báo cáo hay, “nói như viết trên báo”. Năng suất lúa đạt ba tấn/ha mỗi vụ – một mức khá cao thời ấy. Song chỉ cần làm một việc cực kỳ giản đơn là lấy tổng sản lượng thóc chia cho diện tích cấy trồng thì năng suất bình quân không đúng như lời chủ nhiệm báo cáo. Lương Định Của đập bàn: “Anh nói dối. Báo cáo không đúng sự thật. Thế này không chỉ đạo được. Anh làm ăn vậy thì tôi thà đi nơi khác còn hơn”. Tuy vậy chẳng mấy chốc đoàn chỉ đạo và cán bộ hợp tác xã thân thiết với nhau. Đông Phương Hồng nổi bật lên như một điểm sáng thật sự. Toàn huyện Thọ Xuân cũng đạt kết quả khá nhờ xây dựng đồng ruộng, làm thủy lợi, cải tiến đồng bộ kỹ thuật, tạo điều kiện đưa các giống mới vào cơ cấu cây trồng. Năm sau, Bộ Nông nghiệp tăng cường cho đoàn mười lăm kỹ sư mới tốt nghiệp, để bác Của cấy về các huyện khác trong tỉnh Thanh Hóa, nhân phong trào lên. Một chủ nhiệm hợp tác xã của huyện Thọ Xuân, Trịnh Xuân Bái, được tôn vinh Anh hùng Lao động hình như trước cả Lương Định Của và nhiều Anh hùng Lao động lừng lẫy khác.”
Trong bài đã dẫn với tiêu đề “ Mấy ông tượng chạy lũ” nhà báo Phan Quang kể tiếp: “Nghe chị thường trực báo có bác sĩ Lương Định Của muốn gặp, tôi vội vàng gác bút chạy ra. Nhà nông học quần xắn móng lợn ống thấp ống cao, mình vận chiếc sơ mi ngắn tay mầu dưa cải muối, trên đầu vẫn chiếc nón lá rộng vành rất thời thượng và cũng rất tiện lợi thời kháng chiến, tay xách một túi lưới bên trong lủng củng mấy vật gì cồng kềnh gói sơ sài bằng giấy báo. – Làm sao anh về được Hà Nội? – Tôi hỏi. – Thì cũng phải tạt về nhà xem bả với sắp nhỏ sống thế nào chứ, – anh Lương Định Của cười. Trận lụt lịch sử năm ấy rất ác hại. Đê sông Đuống vỡ, một phần lớn hai tỉnh Hải Hưng ngập sâu trong nước, kể cả một đoạn đường số 5 huyết mạch. Nghe tin vỡ đê, Lương Định Của đang họp ở Hà Nội, đâm bổ về Viện Cây lương thực hô anh em cứu thiết bị và các loại giống lúa quý Viện đang lai tạo dở, rồi bị kẹt luôn dưới ấy. Nước đã tràn được vào đồng trũng thì ngâm luôn lại không rút vì nước các sông đang mùa đấy, mà mặt đồng nhiều nơi lại thấp hơn mặt biển lúc triều cường. Ông Của sốt ruột, đi thuyền ra đường 5, mạn dưới Phố Nối một ít, đáp xe về Hà Nội. Tôi mời ông vào phòng khách. – Không, không, tôi chưa ghé nhà. Tiện đường, tôi tạt ngang, mang tặng anh mấy thứ này, chắc anh thích. Mà cũng để đỡ lủng củng. Ông xách cái túi lưới cồng kềnh đang đặt tạm trên chiếc ghế đá bên gốc cây đa, đưa cho tôi. Tôi ngạc nhiên vì nó khá nặng. Thú thật, nhác thấy ông Viện trưởng xách cái túi lưới, tôi ngỡ đấy là trứng vịt lộn. Hồi ấy, bổ sung chất đạm, nhất là đạm động vật, là nhu cầu của mọi người. Bác sĩ nông học Lương Định Của được giao xây dựng Viện Cây lương thực và Thực phẩm trên một cánh đồng quạnh vắng với cái vốn ban đầu ít ỏi, vấn đề lớn đầu tiên là làm sao cho anh em đủ no, đủ chất để lao động nặng nhọc. Ông cho nuôi nhiều vịt đẻ và tổ chức ấp trứng theo phương pháp học được bên Nhật, ông bảo thế, rất đơn giản mà hiệu suất cao, trứng ung chưa bao giờ vượt quá một phần trăm. Nhiều lần ông nói: “Chúng ta đều biết trứng là thức dinh dưỡng toàn diện, aliment complet, tốt lắm. Mang ấp nó lên, trong thời kỳ chuyển hóa từ quả trứng sang con vịt con, lượng dinh dưỡng của nó còn tăng lên. Cùng một quả trứng ấy, ta cho ấp, chẳng tốn kém gì mà ăn đỡ chán, lượng bổ vào cơ thể lại nhiều – thế có phải kinh tế không?”. Lần nào từ Viện Cây lương thực về, ông cũng mang cho bạn bè một ít trứng vịt lộn. Mỗi nhà hai gói. Mỗi gói một chục quả bọc trong mấy tờ báo to và dày. Mỗi quả lại được gói riêng bằng mảnh giấy nhỏ. Để vừa đỡ làm vỡ trứng lúc đi đường vừa ủ ấm cho cái phôi tiếp tục chuyển hóa. Ông đánh dấu cẩn thận và đề ngày tháng từng gói một: “Chục này luộc ăn ngay hôm nay. Chục này để đến chiều hoặc tối mai”. Mỗi lần ông không quên cẩn thận dặn dò. Nhưng lụt to thế này, gia súc gia cầm không chết đuối cũng tản mác, thóc lúa ướt hết, người còn không có cái ăn, nói gì gà vịt. Tôi mở hé gói quà. Hóa ra toàn là tượng gỗ thờ trong chùa, phần lớn phủ sơn ta, cũng có cái sơn son thếp vàng. Lương Định Của nói: – Lũ cuốn trôi chùa. Tượng nổi lềnh bềnh. Biết anh thích tượng cổ, tôi khoèo vớt mấy cái cho anh. Cũng chỉ cứu được mấy cái nhỏ nhất thôi. Có tượng Phật to và đẹp lắm, nhưng bê làm sao nổi. Tôi bọc giấy báo, kẻo đi đường dân nhìn thấy lại cho là cán bộ phá tự do tín ngưỡng. Nói xong, ông lật đật trở sang ban đối ngoại Đài Tiếng nói Việt Nam, phố Bà Triệu. Giờ này, bà Của đang làm việc bên ấy.”
“Lúc gánh xiếc Đông Phương Hồng mới về, lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa chưa tiếp xúc ngay. Bí thư Tỉnh ủy Ngô Thuyền lặng lẽ cử cán bộ quan sát cung cách làm ăn của đoàn chỉ đạo. Một tháng sau, ông cho mời bác sĩ Lương Định Của về cơ quan, tiếp đón trọng thể, và chỉ thị cho văn phòng, mỗi lần bác Của có việc ghé thị xã thì mời vào nghỉ tại nhà khách của Tỉnh ủy (hồi ấy gọi là Nhà giao tế), và được mua thêm thuốc lá Điện Biên ngoài tiêu chuẩn… Trong hoàn cảnh đầu những năm sáu mươi thế kỷ trước, như vậy đã là một sự ưu ái. Lương Định Của thành công trong việc vận động cấy lúa có chăng dây cho thẳng hàng và cầm ngửa tay bó mạ. Đó là phương pháp ông học của Nhật Bản và đã từng được áp dụng rộng rãi ở Triều Tiên. Cấy theo cách này thì cây mạ cắm nông, chóng bén rễ, lại bảo đảm mật độ quy định để đạt năng suất mong muốn cho từng loại ruộng. Mặt khác, cấy chăng dây thẳng hàng buộc phải làm đất kỹ, và có thể dùng bừa cỏ cải tiến để làm cỏ sục bùn – cũng là những yếu tố đạt sản lượng cao. Nhưng ông là một người – cũng như hầu hết các nhà nông học tên tuổi và cán bộ chỉ đạo nông nghiệp của ta thời ấy – cực lực phản đối việc “thâm canh” bằng cách cấy lúa dồn, ken cây lúa thật dày, dày tới mức trẻ con có thể đứng lên trên ngọn các bông khi lúa chín. Phương pháp “tăng năng suất” này khởi thủy từ phong trào đại nhảy vọt ở Trung Quốc, được một số người truyền bá vào và khuyến khích áp dụng tại nước ta. Có người quát: “Sáu trăm triệu nhân dân Trung Hoa làm được, tại sao ta không làm”. Lương Định Của bình tĩnh trả lời: “Thưa, tôi đã có làm thí nghiệm. Kết quả: không được”. Lương Định Của trước sau là một nhà di truyền học, một người tạo giống. Ông đạt nhiều thành tựu trong lĩnh vực ấy. Vì được giao trách nhiệm chỉ đạo cơ sở, ông buộc phải đánh lấn sang các sân khác. Cùng với tác phong đi sát thực tế, phương pháp suy luận khoa học giúp ông nhiều. Tôi nhớ, cũng vào dạo ấy, có một cuộc họp các nhà quản lý nông nghiệp và nhà khoa học đầu đàn tại nhà riêng Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, phố Lý Nam Đế. Nội dung: bàn và quyết định về chiếc cào cỏ cải tiến, để cho sản xuất hàng loạt. Đấy là chiếc cào răng sắt có trục quay đẩy hoặc kéo trên mặt ruộng mềm, vừa làm cỏ vừa sục bùn, bàn cào rộng vừa đủ để chạy giữa hai hàng lúa. Dùng công cụ này thì đỡ cho chị em nhà nông phải khom lưng cào cỏ sục bùn bằng tay, bán mặt cho đất bán lưng cho trời. Thật ra công cụ này đã được dùng phổ biến ở nước ngoài. Có hai loại. Loại một bàn tra cán dài cho người đứng thẳng đẩy bằng tay. Loại gắn nhiều bàn thì cho bò kéo. Một nhà khoa học nổi tiếng chủ trương áp dụng loại cào bò kéo, năng suất lao động sẽ cao, đáp ứng đúng yêu cầu của đất nước chuẩn bị bước vào chiến tranh. Lương Định Của đề nghị nên dùng cào đơn, người đẩy, cho gọn nhẹ. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh ngồi yên, đầu hơi cúi vừa chăm chú nghe vừa rít thuốc lá, thỉnh thoảng gật gù tán thưởng. Các nhà khoa học lần lượt trình bày xong, ông ngửng đầu dụi tắt điếu thuốc lá hút dở: “Tôi tán thành ý kiến của anh Của. Dùng loại bừa do bò kéo đúng là sẽ đạt năng suất lao động cao. Nhưng ta lấy đâu ra bò mà kéo?”. ĐU ĐỦ VÀ BƯỞI Thời gian làm việc tại Viện Cây Lương thực và Cây Thực phẩm, Lương Định Của có hai người bạn thân. Bí thư Huyện ủy Gia Lộc Lê Văn Đởm và Bí thư Huyện ủy Cẩm Giàng Nguyễn Phùng – ông Phùng ít lâu sau được điều chuyển lên tỉnh nhận nhiệm vụ Trưởng Ty Nông nghiệp. Hai ông bí thư – cũng như Lương Định Của, nay đã thành người thiên cổ – đều trưởng thành từ cơ sở lên, đặc nông dân, tiếng mỗi người đứng đầu một huyệt mà nhà vẫn rất nghèo. Một anh bạn nhà báo có lần nói với tôi: “Quái, ông Của là nhà đại trí thức, mà xem ra chơi thân thật sự với hai tay đặc nông dân. Mà ý chừng ông ấy tâm đắc với tay Phùng Sơn. Viện đóng ở Gia Lộc, tối nào rảnh rỗi, ông Của lại sang Cẩm Giàng uống rượu Phú Lộc cùng Nguyễn Phùng. Ngồi với Lê Văn Đởm chỉ thấy hai ông bàn công việc”. Riêng tôi có hiểu phần nào. Ông Đởm người cao lớn, đường bệ, đi đứng hơi chậm chạp. Ông Phùng tầm vóc nhỏ hơn, rắn rỏi, da săn, nói năng cởi mở, ham kỹ thuật mới và có điểm khác với ông Đởm là không biết (hoặc biết mà không thích) đánh tổ tôm. Một lần ông Của nói vui: “Mình nghiệm phần lớn những anh nào người quá béo tốt đều lười biếng. Thân thể nặng nề thì làm sao hoạt bát? Xem ông Đởm đấy, xong việc là đánh tổ tôm, tôi đưa cho bao nhiêu sách tối có buồn đọc đâu, chỉ đạo toàn bằng vốn cổ kinh nghiệm. Ông Phùng có vẻ chịu khó mầy mò học hỏi hơn”. Một lần ăn cơm tối với nhau, Nguyễn Phùng giả vờ cà khịa: “Ông có biết cầm ống tiêm đâu mà gọi là bác sĩ…”. Tôi phụ họa: “Cái ngành nông nghiệp các anh đến là rắc rối. Thời Tây, cùng là kỹ sư như nhau lại phân thành kỹ sư nông nghiệp và kỹ sư nông học. Nay ngành nào người ta cũng gọi thống nhất cử nhân, phó tiến sĩ, tiến sĩ, giáo sư. Riêng anh thì cứ khăng khăng bảo mình là bác sĩ…”. Lương Định Của không giận. Ông hiểu vì sao chúng tôi đề cập chuyện ấy. Nhà bác học là người không giỏi khoa ngôn từ. Trong nhóm nhỏ thân mật, ông chuyện trò rất hay, những vấn đề kỹ thuật rắc rối nhất cũng được ông giảng giải tường tận, phù hợp với trình độ người đối thoại. Nhưng cũng vấn đề ấy, mời ông lên thuyết trình tại hội nghị, có khi đã chuẩn bị kỹ nhưng trình bày lại không hấp dẫn, không mấy thuyết phục người nghe. Chúng tôi nhiều lần mời ông viết bài cho báo. Ông nhận lời, thì phải chờ nhiều hôm sau mới có bài. Bài ông ngắn gọn, nhìn bản thảo thấy những hàng chữ đều đặn viết bằng bút mực xanh, chữ hơi nghiêng về phía trái, biết là ông đã tự tay chép lại. Bởi vậy, chớ nên dại dột động bút chữa bài ông Của. Một lần, anh biên tập viên có sửa đổi vài từ, và tiện tay xóa từ bác trong bác sĩ đi, thay vào từ tiến – “gọi chung là tiến sĩ cho nó nhất quán trên mặt báo”, lý lẽ của anh giản đơn như vậy. Lương Định Của hết sức phật ý: “Các anh chẳng hiểu cái gì”. Đó là câu trách móc nặng nề của ông. Lần này ông từ tốn nói: “Bác sĩ là học vị cao nhất bên Nhật Bản. (Ông nhúng ngón tay vào cốc nước, viết hai từ bác sĩ bằng chữ Hán ra bàn ăn). Nhà nước người ta phong cho tôi như vậy thì suốt đời tôi giữ nguyên như vậy, không hơn không kém”. Thời chống chiến tranh phá hoại, xã hội thiếu thốn nhiều thứ, Lương Định Của quan tâm vấn đề dinh dưỡng cho mình cũng như cho đồng sự bạn bè, nhưng ông là người sống điều độ. Ngay đến khi lớn tuổi, ông vẫn giữ được dáng người thanh thoát, chỉ có cái trán là mỗi ngày mỗi hói và bóng hơn. Thỉnh thoảng ông có nhấm nháp vài chén hạt mít rượu ngang cùng các Bí thư huyện hoặc cánh nhà báo song để vui là chính. Một vại bia hơi đủ làm mặt ông ửng đỏ. Có lần ông mang rượu thuốc ra mời anh em: “Anh Nguyễn Tạo (Tổng cục trưởng Lâm nghiệp) vừa gửi cho cái lộc nhung. Tôi nhờ ông Phùng mua cho một vò Phú Lộc, các anh tha hồ uống”. Ít lâu sau gặp lại thấy bữa ăn suông, tôi hỏi vui: “Hết rượu lâm nghiệp rồi sao:”. Ông đáp: “Hết thế nào được. Tôi cho mang lên Hà Nội. Sợ để ở Viện đêm ngồi đọc sách một mình, buồn lại mang ra uống thì chết. Rượu bổ, uống nhiều có hại”. Lần nhà tôi sinh cháu thứ hai, tôi đi công tác xa. Một hôm bà thấy có tiếng gõ cửa. Xuất hiện một người quen quen mang cho hai quả đu đủ chín và mấy chai cà chua nghiền: “Chị dùng quả đu đủ, nhiều sữa cho cháu. Còn thứ purée này làm từ cà chua, tự tay tôi chế biến. Chị cho cháu lớn phết với bánh mì ăn sáng trước khi đi học, người Nhật vẫn dùng món này lắm…”. – Xin lỗi, anh là… Ông gãi cái trán hói: “Tôi là Của, Lương Định Của…”. Dạo ấy đồng bằng Bắc Bộ mở rộng việc trồng cà chua vào vụ đông. Được mùa, cà chua tươi không xuất khẩu được, dân bày ra bán từng đống đỏ rực hai bên đường 5, thật là trên trời dưới cà chua. Ông Của từng bày cho chúng tôi cách làm bột cà chua nghiền để dành ăn dần. Chừng này quả, ngần này đường kính, ngần này muối, ngần này tỏi, vô trùng dụng cụ thế này, cho vào lọ, phủ lớp dầu ăn mỏng lên trên để lâu không bị nấm mốc… Anh em nể ông, chăm chú nghe, có người còn ghi chép, song rắc rối quá chẳng ai thực hành. Một chiều, tan giờ làm việc, anh Hoàng Tùng, Tổng biên tập báo Nhân Dân tự dưng nảy ý, bảo tôi: “Tối nay ta đến thăm ông Của đi”. Nhà ông ở khu tập thể Kim Liên. Con đường chạy qua trước nhà ông thời ấy nay mang tên phố Lương Định Của, nó băng qua đường Phạm Ngọc Thạch để nối liền phố Đặng Văn Ngữ. Hồi mới được phân căn hộ ở đây, ông vui mừng khoe với bạn bè. “Mình ở tầng trên cùng. Thành ra tận dụng được cái trần, làm nơi tạm chứa sách”. Thời chiến tranh, điện đóm phập phù, đường trong khu tập thể tối mò, tối nhất là các cầu thang. Nhà ông không có điện thọai, không thể báo trước. Anh Hoàng Tùng theo tôi mò mẫm lên tầng năm. Lương Định Của ra mở cửa, hơi lộ vẻ ngạc nhiên song niềm nở mời vào. Nơi tiếp khách của ông chỉ có mỗi cái bàn và bốn ghế gỗ rẻ tiền cấp theo tiêu chuẩn. Chiếc đèn bão không đủ sáng. Trên bàn, ngổn ngang vỏ bưởi: nhà nông học đang bóc trái cây mời vợ. Các cháu đều theo trường học nơi sơ tán. Lương Định Của lúng túng gạt tất cả những thứ trên bàn xuống cái chậu, nói với anh Hoàng Tùng: “Ăn bưởi còn tốt hơn ăn cam”. Trong múi bưởi có nhiều chất sắt”. Tôi nghe nói, chính vì nhà không có điện thọai riêng, một tối cuối tuần ông có triệu chứng nhồi máu cơ tim, không thể gọi xe cấp cứu, khi đưa ông vào bệnh viện Bạch Mai thì đã quá muộn, mặc dù nơi ông ở chỉ cách nhà thương có một quãng đường. PHAN QUANG”
Trên đây là sự xâu chuỗi những tư liệu đời thường của giáo sư Lương Định Của, một tấm gương tận tụy gắn bó với nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Tiến sĩ Lê Hưng Quốc, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thương mại Giống Cây trồng đã xúc động viết “Lớp sinh viên đại học của chúng tôi khi ấy mới ra trường được tắm mình trong thực tiễn sản xuất, học các thao tác kĩ thuật trực tiếp ở Viện Lúa Tứ Lộc, các HTX nông nghiệp… đó là những trường học của những kĩ sư, kĩ thuật viên nông nghiệp trẻ tuổi. Thế hệ ấy sau này nhiều người đã trưởng thành những nhà khoa học có đóng góp xứng đáng như lớp thế hệ của PGS.TS Anh hùng Lao động Nguyễn Thị Trâm… Nhiều lớp cán bộ nông nghiệp do Giáo sư đào tạo đã trở thành những cán bộ đầu đàn trong nhiều lĩnh vực khoa học nông nghiệp. Giáo sư có nhiều thế hệ hoc trò xuất sắc.”
GSTS. Anh hùng Lao động Nguyễn Văn Luật trong bài Thầy Lương Định Của và tính tình Người Nam Bộ đã ca ngợi thầy Của và Người Nam Bộ: “Cách đây 3-4 thập kỷ, hồi ở miền Bắc, thầy Của ở miền Bắc lai tạo được nhiều giống lúa mới được nông dân ưa chuộng như Nông nghiệp 1, Chiêm trăng, Đoàn kết .. Gần đây, tỉnh Sóc Trăng quê hương của thầy Của lại sản sinh những con người chọn tạo ra nhiều giống lúa rất ấn tượng, mặc dầu chưa bao giờ được gặp, được thọ giáo tiền bối Lương Định Của. Đấy là nhóm chọn tạo giống lúa do KS Hồ Quang Cua đứng đầu. Đến nay nhóm này đã chọn tạo tới 22 giống ST, trong đó có nhiều giống như ST3, ST5 .. khá phổ biến, những giống ST đỏ từ lai tạo giữa giống gạo đỏ địa phương với giống năng suất cao rồi chọn ra dòng gạo đỏ vừa năng suất cao, vừa có mùi thơm lá dứa. Chân thành và khẳng khái trong cuộc sống, sáng tạo trong lao động chân tay và trí óc, nhân ái trong giao tiếp, độ lượng trong ứng xử xã hội, dũng cảm trong chống ngoại xâm, hòa nhập với cộng đồng và thân thiện với cây cỏ sông nước là những phẩm chất rất quý của con người Nam Bộ cả xưa và nay.”
Con đường, mái trường và học bổng
Nhiều mái trường trên toàn quốc mang tên Lương Định Của, hiện chúng tôi chưa thống kê đầy đủ. Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã lập giải thưởng mang tên Lương Định Của hàng năm xét trao cho 100 gương mặt tiêu biểu đại diện cho 13 triệu thanh niên nông thôn có thành tích xuất sắc trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ, xây dựng nông thôn mới. Đó là những “ông chủ mới” năng động dám nghĩ dám làm trong phong trào thanh niên nông thôn thực hiện bốn mới (kĩ thuật mới, ngành nghề mới, thị trường mới, mô hình mới).
Quận Đống Đa thủ đô Hà Nội có một đường phố mang tên Ông. Tại ngã ba Phạm Ngọc Thạch-Lương Định Của có một dãy ki-ốt kinh doanh hoa tươi bốn mùa rực rỡ sắc màu tỏa hương thơm ngát như luôn tưởng nhớ tới Lương Định Của, một nhà nông học xuất sắc, người đi đầu trong lĩnh vực cải tạo giống cây trồng của Việt Nam .
Con đường lúa gạo mang tên nhà bác học nông dân Lương Định Của ở huyện Long Phú tỉnh Sóc Trăng được tiếp nối với đường Tôn Đức Thắng tại Trường Khánh đi về Đại Ngãi. Lúa ở đây rất tốt. Đoạn đường này có công sức và tấm lòng nhân hậu của người vợ Nhật đối với quê hương chồng, thật tình nghĩa biết bao !
Rằm xuân thăm thầy Lương Định Của
Dưới đây là phóng sự ảnh của Hoàng Kim về vùng lúa Long Phú, gia tiên của thầy Lương Định Của, vùng lúa Trường Khánh Đại Ngãi, và con đường lúa gạo Lương Định Của tỏa rộng con đường lúa gạo Việt Nam.
Chuẩn bị xong những việc sau cùng để ngày mai cấy các bộ giống lúa mới, chúng tôi lên đường về thăm quê hương thầy Lương Định Của khi trời đã xế chiều.
Ngôi nhà niên thiếu và ảnh cụ Sáu, em gái Thầy Lương Định Của cùng phần mộ tổ tiên, cha mẹ song thân của Thầy tại ấp Ngãi Hoà, cách trụ sở Uỷ ban Nhân dân xã Đại Ngãi khoảng 3 km.
Xe ôm chạy hun hút dưới vòm dừa nước y như trong vườn thiêng cổ tích.
Chúng tôi đến thăm cụ Sáu, em gái Thầy và thắp hương khu mộ gia đình Thầy khi trăng rằm tháng giêng lồng lộng đang lên. (ảnh trên: bia mộ ông bà nội và bia mộ của bố mẹ giáo sư Lương Định Của; ảnh dưới: toàn cảnh khu mộ rằm nguyên tiêu 2012 )
“Dạy và học không chỉ trao truyền kiến thức mà thắp lên ngọn lửa ! Chừng nào mỗi chúng ta chưa ứa nước mắt thấm hiểu sự nhọc nhằn của người nông dân một nắng hai sương làm ra hạt gạo. Chừng nào những giá trị lao động khoa học cao quý, liên tục, âm thầm chưa mang lại đủ niềm vui cho bữa ăn của người dân nghèo. Chừng đó chúng ta sẽ còn phải DẠY VÀ HỌCCÂY LƯƠNG THỰC. Cái gốc của sự học là HỌC LÀM NGƯỜI. “
Hoàng Kim Giảng viên chính Bộ môn Cây Lương thực Rau Hoa Quả Khoa Nông học, Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh
Bóng hạc chốn xa xôi NGUYỄN HUY THIỆP CÕI RIÊNG Hoàng Kim
Tôi ngồi ở góc khuất, chọn lại mấy truyện ngắn ưa thích nhất của anh Thiệp và lắng nghe lời trò chuyện. Trang Bách khoa toàn thư mở Wikipedia đêm nhớ Nguyễn Huy Thiệp đang sửa liên tục. Nhiều người đến thăm, tưởng nhớ, thương tiếc, hồi tưởng, bàn luận, nhiều sự việc, được công bố, việc chính của người chép văn sử CNM365 là tuyển chọn và cập nhật
Nguyễn Huy Thiệp sinh ngày 29 tháng 4 năm 1950 tại Thái Nguyên, mất ngày 20 tháng 3 năm 2021 tại Hà Nội thọ 72 tuổi. Ông là nhà văn Việt Nam đương đại, về truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch với những góc nhìn mới, táo bạo. Ông xuất hiện khá muộn trên văn đàn (1986) nhưng được coi là người đạt đỉnh cao nghệ thuật của truyện ngắn với các tác phẩm nổi bật Giăng lưới bắt chim, Mưa Nhã Nam, Kiếm sắc, Những ngọn gió Hua Tat,Tướng về hưu, Thời của tiểu thuyết, Tuổi 20 yêu dấu, Những người thợ xẻ, Chảy đi sông ơi, Con gái thủy thần, Vàng lửa, Phẩm tiết, ….
1
Bạn ưa nhất văn chương anh Thiệp cuốn nào? Tôi thì chọn đầu tiên là Giăng lưới bắt chim, Văn hay lời kiệm chữ, sách này đúng ra phải là Huyền Quang, giăng lưới bắt chim. Chuyện về sư Huyền Quang. Người giăng lưới bắt chim là vua Trần Anh Tông và Trạng nguyên Tể tướng Mạc Đĩnh Chi, Chim là sư Huyền Quang Lý Đạo Tái. Tích truyện cổ có trong Thiền Uyển Tập Anh, một sách Phật học cổ có từ năm 1337, và nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã diễn đạt lại theo lối mới, dường như được rất nhiều người đồng tình, vì lối diễn đạt đúng (tôi xin được chép lại) như sau:
“…Thiền phái Trúc Lâm có ba Thiền sư kiệt xuất là Nhân Tông (Trúc Lâm Đầu Đà), Pháp Loa và Huyền Quang. Thiền phái này được xem là tiếp nối của dòng Yên Tử, dòng Yên Tử lại là sự hợp nhất của ba dòng thiền Việt Nam của thế kỉ thứ 12 – đó là dòng Thảo Đường, Vô Ngôn Thông và Tì-ni-đa-lưu-chi.
Thiền phái Trúc Lâm được xem là dạng Phật giáo chính thức của Đại Việt thời đó nên có liên quan mật thiết đến triều đại nhà Trần, phải chịu một hoàn cảnh mai một sau khi triều đại này suy tàn. Vì vậy, sau ba vị Tổ nói trên, hệ thống truyền thừa của phái này không còn rõ ràng, nhưng có lẽ không bị gián đoạn bởi vì đến thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh (1600- 1700), người ta lại thấy xuất hiện những vị Thiền sư của Trúc Lâm Yên Tử như Viên Cảnh Lục Hồ, Viên Khoan Đại Thâm và nổi bật nhất là Thiền sư Minh Châu Hương Hải (theo Nguyễn Hiền Đức).
Sau một thời gian ẩn dật, dòng Thiền này sản sinh ra một vị Thiền sư xuất sắc là Hương Hải, người đã phục hưng tông phong Trúc Lâm. Trong thế kỷ thứ 17-18, thiền phái này được hoà nhập vào tông Lâm Tế từ Trung Hoa và vị Thiền sư xuất sắc cuối cùng là Chân Nguyên Huệ Đăng….”
Khi mới xuất hiện, những sáng tác của Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã gây nên một cuộc tranh luận văn học sôi nổi. Văn phong và cách sáng tác từ trực giác của Tác giả rất lôi cuốn người đọc.
*
Sư Huyền Quang, vị tổ thứ ba của phái Trúc Lâm trước khi xuất gia là một Trạng nguyên, đã từng từ hôn công chúa Liễu Sinh. Vua Trần Anh Tông nói với quần thần:
– Người ta sống ở trong trời đất, mang khí âm, ôm khí dương, ăn thích vị ngon, mặc thích màu đẹp, đều có tình dục như thế. Đấy là lẽ thường. Chúng ta ngăn hãm một phía ham muốn ấy lại chính là để dốc lòng phụng đạo, đó là đành đi một lẽ. Riêng Huyền Quang sắc sắc không không, vậy đó là người ngăn hãm lòng dục hay là không có lòng dục?
Mạc Đĩnh Chi nói:
– Vẽ hổ chỉ vẽ được da, không vẽ được xương. Biết người chỉ biết mặt, ít biết được lòng. Vậy xin cho người thử xem.
Vua Trần Anh Tông nghe lời Mạc Đĩnh Chi, cử một nữ gián điệp xuân sắc mê hồn là nàng Thị Điểm Bích tìm đến Yên Tử để thử Huyền Quang theo kế giăng lưới bắt chim …
Huyền Quang, tên thật là gì không rõ, trong sử ghi là Lý Đạo Tái. Ông người làng Vạn Tải, huyện Gia Bình, xứ Kinh Bắc (nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Từ nhỏ nổi tiếng thần đồng, nghe một hiểu mười, nên người ta mới mệnh danh là Đạo Tái. Có sách chép Lý Đạo Tái đỗ Trạng nguyên khoa Nhâm Tý (1252) đời vua Trần Thánh Tông, lúc này mới 23 tuổi. Trong dân gian kể rằng nhà Lý Đạo Tái nghèo, không có đất cắm dùi. Khi còn hàn vi, Lý Đạo Tái từng hứa hôn với một cô gái nhưng về sau bị từ hôn, cô gái đi lấy một người nhà giàu. Cuộc nhân duyên lần thứ hai cũng thế. Chán nản, Lý Đạo Tái chuyên vào mỗi chuyện học hành rồi đỗ Trạng nguyên. Khi ấy, nhiều người đến manh mối hôn nhân nhưng ông đều từ chối, kể đến cả công chúa con vua. Nghe đồn Lý Đạo Tái đã từng ngán ngẩm than rằng:
Khó khăn thì chẳng ai nhìn
Đến khi đỗ Trạng tám nghìn nhân duyên!
Lý Đạo Tái theo đường hoạn lộ, nhiều lần đứng ra tiếp sứ thần Trung Hoa. Về sau, ông được sư Pháp Loa giác ngộ bèn xuất gia tu hành.
Sư Pháp Loa (tức Đồng Kiên Cường) là vị tổ thứ hai môn phái Trúc Lâm, đã theo vua Trần Nhân Tông khi người xuất gia ở núi Yên Tử. Vua Trần Nhân Tông, lấy pháp danh là Điểu Ngự trước khi viên tịch đã truyền y bát lại cho sư Pháp Loa, nay sư Pháp Loa giác ngộ và truyền y bát lại cho Lý Đạo Tái với pháp danh là Huyền Quang.
Huyền Quang là người có căn tu thế nào? Tại sao Huyền Quang lại trở thành vị sư tổ thứ ba trong phái Trúc Lâm, một môn phái Phật giáo có ảnh hưởng rất lớn đến thế giới tâm linh của người Việt Nam?
Bài thơ Cúc hoa của Huyền Quang nói tâm sự của một người tu đạo ở trong núi, ngắm hoa mới sực biết thời gian trôi đi:
Vong thân, vong thế dĩ đô vong
Tọa cửa tiên nhiên nhất tháp lương
Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật
Cúc hoa khai xứ nhất trùng dương.
Một người quên mình (vong thân ), quên đời (vong thế ) ngồi mãi trong rừng sâu không có lịch, không biết năm hết Tết đến, thấy hoa cúc nở mới đoán là đã đến Tết trùng dương! Vì sao người này lại ngắm hoa cúc mà không đi ngắm hoa khác?
Chủ nhân dữ vật hồng vô cảnh
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu
(Lòng người và cảnh vật vốn không xung khắc
So sánh với muôn hoa, thì cúc đứng đầu )
Theo ý tứ bài thơ thì thấy Huyền Quang không phải là người không có thiên vị, không có tình ý riêng! Cũng trong bài thơ Cúc hoa này, Huyền Quang đã có một nhận xét rất sâu sắc: Nghĩa khí bất đồng nan cẩu hợp (Nghĩa khí mà khác nhau thì khó mà hòa hợp ). Đạo Phật thường lưu tâm người ta ở hai chữ nhân duyên. Huyền Quang cũng giống mọi người, không phải là lòng dạ sắt đá gì, không phải là người không hiểu biết về lẽ nhân duyên. Trong một bài thơ khác nữa tên là Sơn vũ (Nhà trong núi) tâm tình Huyền Quang phảng phất bâng khuâng:
Thu phong ngọ dạ phật thiềm nha
Sơn vũ tiên nhiên chầm lục la
Dĩ hí thành thiền tâm nhất phiến
Cùng thanh tức tức vị thuỳ đa
(Đêm khuya, gió thu xao xác ngoài mái hiên
Nhà trong núi đìu hiu giữa lùm cây xanh
Tấm lòng tu hành từ lâu đã hóa theo Phật
Tiếng dế vì ai mà kêu rầu rĩ mãi? )
Phái Trúc Lâm là phái có nhiều đệ tử tri thức nhất, học thức nhất, danh giá nhất ở nước ta. Huyền Quang được trao y bát, trở thành sư tổ của phái này thì căn tu, công lực đại thành của Huyền Quang ắt hẳn xuất chúng.
Làm sáng tỏ Phật tính là một mệnh đề cơ bản trong Kinh Niết bàn. Việc vua Trần Anh Tông cho Điểm Bích đi thử lòng Huyền Quang cũng có thể coi là một công án nhằm làm sáng tỏ Phật tính ở vị đại sư này vậy.
Ngày xưa, có người băn khoăn về pháp môn Bất nhị của Phật pháp đã từng thỉnh vấn Đức Phật: Những người phạm tội tà dâm, giết người, trộm cướp v.v… liệu có mất hết thiện căn Phật tính hay không? Đức Phật đáp: Thiện căn có hạng thường và hạng vô thường. Phật tính chẳng thường mà cũng chẳng vô thường, cho nên không đứt đoạn, gọi là pháp Bất nhị . Một hạng thiện, một hạng bất thiện, gọi là pháp Bất nhị. Uẩn và Giới kẻ phàm cho là hai nhưng bậc trí giả thì hiểu rõ tính của nó không phải là hai. Tính không hai đó (Vô nhị chi tính ) tức là Phật tính.
Theo cách giải thích trên có thể hiểu rằng người ngu kẻ trí Phật tính vốn không khác nhau, chỉ vì mê và tỉnh không giống nhau nên mới có kẻ ngu và trí mà thôi.
Trở lại việc vua Trần Anh Tông cho Điểm Bích đến thử Huyền Quang ở núi Yên Tử thì tưởng như mưu giăng lưới bắt chim là sâu sắc nhưng thực lại là mê vậy. Chuyện rằng Điểm Bích đã dùng nhiều kế nhưng không lay chuyển được Huyền Quang nên nàng bèn về tâu dối vua. Sách Tam tổ thực lục ghi lại lời tâu ấy như sau:
… Tôi vâng chiếu chỉ đi thử thiền sư Huyền Quang. Đến chùa Vân Yên, vào ở nhờ một bà vãi già, tự xưng là con gái nhà dân, xin được theo học đạo tôn sư. Bà vãi già thường sai tôi dâng nước chè lên cho sư. Trải qua hơn một tháng, sư không hề liếc nhìn, hỏi han gì tôi cả. Một hôm nửa đêm, sư lên nhà tụng kinh, đến canh ba, sư và đám tăng ni ai nấy đều về phòng mình mà ngủ. Tôi bèn đến bên cạnh phòng của thiền sư để nghe xem động tĩnh thế nào thì thấy sư ngâm lời kệ rằng:
Vằng vặc giăng mai ánh nước
Hiu hiu gió trúc khua sênh
Người vừa tươi tốt, cảnh vừa lạ
Mâu Thích ca nào chẳng hữu tình.
Sư ngâm đi ngâm lại mãi, tôi bèn vào phòng tăng, từ biệt sư để về thăm cha mẹ, để sang năm sẽ quay lại học đạo. Sư bèn giữ tôi lại ngủ một đêm, rồi cho tôi một dật vàng.
Nhà vua nghe lời Điểm Bích tâu, lòng bực bội không vui. Nghĩ lại, nhà vua tự trách mình:
– Sự việc nếu quả như lời Điểm Bích thì đúng là ta giăng lưới ở tổ bắt chim, chim nào mà không bị hại! Nếu sự việc mà không như thế thì hóa ra ta đã làm hại quốc sư, đẩy ông ta vào mối ngờ vực oan ức! Nếu hiểu rõ pháp Bất nhị của nhà Phật thì việc thử lòng này thật là nhảm quá!
Để sửa lỗi, cũng là để minh oan chiêu tuyết cho Huyền Quang, nhà vua cho mở hội Vô Già ở kinh thành, triệu Huyền Quang về làm lễ. Nhưng trái với tục lệ nhà chùa, hôm bước vào chính lễ, nhà vua cho giết bò và lợn, dọn toàn cỗ mặn.
Huyền Quang bước vào lễ, kêu tên Đức Phật khấn rằng:
– Kẻ đệ tử này có điều gì bất chính, xin chư Phật cho đày xuống A Tì địa ngục, còn nếu không thì xin cho những cỗ mặn kia hóa thành chay tất cả.
Huyền Quang khấn xong, bỗng có gió mạnh nổi lên, trời đất tối sầm. Khi gió tàn, trời sáng, tất cả các mâm cỗ mặn đều biến thành cỗ chay tinh khiết thơm tho. Nhà vua và mọi người thấy Huyền Quang làm phép thông cảm được với trời đất thì đều vô cùng cảm phục, quỳ xuống lạy tạ.
Huyền Quang viên tịch ở tuổi 82. Cho đến ngày nay, dân gian nhiều nơi vẫn kể lại những truyền thuyết trong cuộc đời ông. Có người nói rằng các món cỗ chay làm giống cỗ thường trong ngày lễ tết ở các nhà chùa là từ sự tích này. Nhân ngày Xuân, đọc lại sách Phật ngẫm ra nhiều điều. Trong chúng sinh, căn tính người ta có người sắc bén có người cùn nhụt. Người mê chấp thì phải tu thân, học tập; còn người giác ngộ có thể đột nhiên ứng hợp; chung quy lại để nhằm tự mình nhận thức được bản thân mình, tự mình chứng kiến được bản thân mình, sống hòa hợp cùng tự nhiên với tâm hồn trong sáng.
Phía trước là cuộc sống vẫy gọi! Đấy là tương lai với đầy mơ ước cho tất cả mọi người!
2
Mưa Nhã Nam là truyện ngắn mà tôi thật yêu thích của anh Nguyễn Huy Thiệp công bố năm 2001 Văn hay lời kiệm chữ, sách này đúng ra phải là Đề Thám, mưa Nhã Nam. Chuyện về Hoàng Hoa Thám. Quan Toàn Quyền Pháp vừa trao giải đầu Đề Thám ai giết được ông thưởng 30 ngàn quan tiền vừa thách thức ông bằng cách mời ông về dự tiệc tại dinh công sứ Bắc Giang . Ông Đề Thám đã đi vào hang hùm, và nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã diễn đạt lại sự thật và huyền thoại của câu chuyện ấy (Tôi xin chép lại) như sau:
Tôi sẽ kể chuyện này cho anh, vì anh, anh bạn bởi đến năm mươi tuổi anh sẽ thành ông lão.
Tôi sẽ kể chuyện này cho chị, vì chị, chị bạn ạ, bởi đến bốn mươi tuổi chị sẽ trở thành bà lão.
Tôi sẽ kể chuyện này cho cậu, cậu câm miệng, cậu còn trẻ quá, cậu là thằng ngốc.
Tôi sẽ kể chuyện này cho cô, vì cô sẽ đi lấy chồng. Lúc ấy chỉ toàn những nhọc nhằn thôi, không ai kể chuyện cho cô nghe cả.
Ở Nhã Nam, tháng Tư có mưa. Chuyện thế này…Một câu chuyện nhỏ về Hoàng Hoa Thám.
Tôi không chắc ông Hoàng Hoa Thám, tức Đề Thám, tức Hùm xám Yên Thế trong lịch sử có giống ông Đề Thám mà tôi kể không? Còn ông Đề Thám như tôi biết (tôi biết rõ ông ta): ông ta là một anh hùng, cũng là một người nhu nhược.
Đấy là khoảng năm…, thời kỳ người Pháp giảng hòa với Đề Thám. Vốn hay đùa nhả trong chính trị, người Pháp thỉnh thoảng có mời Đề Thám về Hà Nội hoặc Bắc Giang chơi. Lần ấy, thống sứ Bắc Kỳ là ông Môren thông qua công sứ Bắc Giang có mời Đề Thám đến Bắc Giang dự một buổi tiếp tân.
Cả Dinh dẫn người đưa thư đến gặp Đề Thám.
– Có nên đi không? – Đề Thám hỏi các thủ hạ của mình.
– Đi chứ! – Những người già quả quyết.
Thế đấy, những người già! Với họ chẳng có việc gì là đáng kể. Trước mặt họ là cái chết. Những cơ hội tốt nhất trong đời họ bỏ lỡ cả rồi.
– Đi làm gì! – Cả Dinh, Cả Trọng, Cả Huỳnh cau có trả lời.
Thế đấy, các bác Cả! Các bác Cả thường rất khoảnh. Chúng ta thông cảm với họ, nếu chúng ta tự mình như họ, trần lực như họ, không có ai để bàn bạc, không có ai đáng bàn bạc, họ phải tự gánh lấy trách nhiệm của họ, nghĩa vụ của họ, giá trị của họ.
Thế còn bà? – Đề Thám hỏi bà Ba Cẩn. Bà Ba là người phụ nữ đáng kể nhất trong cuộc đời Đề Thám. Bà là người phụ nữ duy nhất có mặt nơi này, giữa những tên tuổi hào kiệt lừng danh của phong trào nông dân Yên Thế.
– ông nên làm điều có nghĩa, – Bà Ba trả lời rồi thở dài. Bà có tật như thế khi phải băn khoăn, lưỡng lự điều gì.
Đề Thám bảo mọi người lui ra để ông ngồi lại một mình. Ông nghĩ. Những ý nghĩ của ông bắt đầu phiêu lãng. Thường ý nghĩ của ông bắt đầu từ một vật gì đó cụ thể, tức thời đập vào mắt ông. Thí dụ từ bông hoa hồng.
Này bông hoa hồng Giá trị của mày là khoảnh khắc Ai biết mày khi đang hết nụ? Ai để ý mày khi mày úa tàn? Ôi hoa hồng, hoa hồng Phút giây này thật tuyệt vời May cho kẻ tình nhân gặp mày lúc này Môi hồng của thiếu nữ cũng thua mày Hương trầm kia sánh sao được vị thơm nơi nhụy hoa? Và những cánh mỏng mịn mà kia, khiến tất cả vật khác thành phàm tục Hoa hồng! Ôi hoa hồng! Ta tiếc cho kẻ vô tình quên bẵng mày Và giật mình ghen tị với kẻ vô danh nhanh tay Không biết ai hái mày hôm qua Kẻ ấy cư xử ra sao với mày? Hắn có chôn mày trong tim không? Trái tim ấy có rộng lượng không có đủ chỗ cho mày ngụ không? Trái tim ấy có đủ máu không? Ước không có giông bão lọt vào đấy Rồi mày cũng nát tan thôi, em ạ, cô em ạ, Hắn không đáng kể gì, hắn không biết cách Chơi hoa nào đã mấy người biết hoa”…
Đề Thám không nghĩ như thế, dĩ nhiên rồi. Có điều, hôm ấy trong đồn Phồn Xương ông đã cầm lên tay một bông hoa hồng. ông nghĩ về điều khác. Ông đặt mình vào vị trí của Môren, vào vị trí của những người Pháp. ông cho rằng buổi tiếp tân chẳng quan trọng gì và sự có mặt hay không có mặt của ông đều chứa hiểm họa. ông sẽ mang tiếng hèn nhát nếu ông từ chối. ông sẽ thành lố bịch nếu ông có mặt. Thế lố bịch hơn hay hèn nhát hơn? – Đề Thám tự hỏi. – Thôi thì lố bịch còn hơn hèn nhát!
Tôi sẽ đi, đi một mình, đi ngựa…Sẽ ăn mặc như một chàng rể…- Đề Thám vừa nói với bà Ba Cẩn vừa đội lên đầu chiếc khăn xếp trứ danh thửa mãi tận phố Hàng Lọng Hà Nội, chiếc khăn quái đản: không thể dùng làm mũ, cũng không thể dùng để lau mặt được.
– ông muốn đi ngựa thì đi…nhưng đến Bắc Giang tôi sẽ cho phu kiệu đón. – Bà Ba nói vậy rồi lại thở dài. Đề Thám bực mình: ông không thích người ta quan tâm nhiều quá đến mình. ông bảo:
– Đừng làm phiền tôi.
– Nhưng ông làm phiền mọi người. – Bà Ba bẻ lại.
Sự đời là thế. Bà Ba có lý của bà Ba, cũng như bà Cả có lý của bà Cả vậy. Đề Thám giật cương, thúc con ngựa ô ra khỏi cổng đồn Phồn Xương. ông cho ngựa đi bước một, lang thang trong rừng. ông thích như thế.
Đây là thiên nhiên: cành cây xòa trước mặt, tiếng chim hót, những giọt nước mưa đọng lại trên cây, mùi lá mục ẩm ướt, những con chim xanh, con chim đỏ, con chim vàng, những cánh mối ướt rụi, những con bọ nhảy, tiếng vượn kêu não nùng, bông hoa bé xíu…Tất cả hương vị, màu sắc của thiên nhiên đều chân thực, thanh khiết, đều khiến ta cảm động đến tận đáy sâu tâm hồn.
Đề Thám đi miết. Có thể ông nghĩ gì đấy về tuổi ấu thơ đắng cay tủi nhục, những ngày ông phải đi ở tận mãi Tiên Lữ, Hưng yên. Có thể ông nghĩ về Đề Nắm (Lương Văn Nắm), người đã trao quyền cho ông ở vùng Yên Thế, Nhã Nam này. Có thể ông nghĩ về cái mà ta vẫn gọi là “trường tranh đấu”, sự sống hoặc cái chết.
Đề Thám đi xuyên qua rừng mỡ, rừng dẻ, rừng lim và rừng nhội gai. ông trông thấy một cọn phượng hoàng bay qua trước mặt. ông nói:
– Nếu ta nhìn thấy mày hai mươi năm trước thì thích.
Đến giữa trưa thì Đề Thám rẽ vào nhà một người quen ở gần Kế. Đây là nhà ông đồ Hoạt. ông đồ Hoạt có nhà. Các ông đồ thường chẳng đi đâu cả: các ông ở trong bổn phận mình, trong kiến thức của mình (thực ra là của những con thú to hơn), trong thành kiến của mình, trong giá trị của mình. Ông Đồ Hoạt là người hay chữ, hay thơ. Và như thế, nghĩa là ông chẳng giàu có gì. ở nhà ông đồ, Đề Thám được đón tiếp như người nhà. Thoắt cái, đã thấy bà đồ Hoạt bưng lên một mâm lòng lợn, có cả một đa phèo nõn nà. Mùi mắm tôm chanh, mùi rau húng thơm lừng. Bà đồ Hoạt cười bảo Đề Thám:
– Chị vẫn biết chú thích món này!
Ông đồ Hoạt nói:
– Bà gọi ông Lũy với thằng Hoạt ra đây cùng ngồi.
Ông Lũy là ông hàng xóm, người nổi tiếng về tài ăn trộm trâu bò của bọn hào lý trong vùng. Hoạt là con trai duy nhất của ông bà đồ, bị khoèo tay, tính tình e thẹn.
Bữa rượu vui vẻ, thân mật. Mọi người đều ca thán về nạn sưu thuế, thói nhũng lạm, thái độ mất dạy của bọn quan liêu.
Thời dại chó má!
Mọi người đều thấy đúng là thời đại chó má.
Họ dốc vào họng thứ rượu nấu bằng sắn, thứ rượu mạnh đến nỗi có thể châm lửa đốt cháy được, để hòng làm dịu đi nỗi phiền muộn.
Đề Thám kể cho mọi người nghe chuyện bắt sống chủ bút tờ báo “L’ávenir du Ton Kin” (1) mấy năm trước, chuyện trung tá Péroz đến đồn Phồn Xương thương lượng để ký khế ước ngừng chiến.
Đang câu chuyện, Đề Thám hỏi ông Lũy:
– ông có đủ thịt ăn không?
– Nhờ giời, – tay trộm trả lời, – không phải lúc nào cũng ăn thịt bò, nhưng thịt gà thịt vịt cũng ngon.
Đề Thám nói: – Nếu ông ở chỗ tôi, tay Ba Biều sẽ nện cho ông một trận rồi tống ông vào trại. Tôi không thích trộm cắp vặt vãnh.
Ông Lũy bảo: – Tôi không đến chỗ ông vì thế, tôi biết tôi chẳng ra gì vì vướng nợ đời. Tôi giành công bằng theo lối trâu bò gà vịt chứ không phải theo lối con người. Chỉ xin ông đừng khinh tôi. – Tôi không khinh ông, – Đề Thám nói, – nhưng cũng chẳng trọng.
– Đa tạ ông. – ông Lũy đứng dậy chắp tay vái. – Ông và bác đồ cho tôi lỗi phép.
Ông Lũy đi ra. Mâm rượu còn lại ba người. Ông đồ Hoạt nói:
– Anh Đề ạ, cái đầu anh thật kiêu hãnh, thật đáng giá. Toàn quyền Đông Dương (2) thật hà tiện khi đặt giá đầu anh 30 ngàn quan.
Đề Thám cười:
– Bác vẫn làm thơ đấy chứ?
– Vẫn làm…Thế mới đê tiện. – ông Hoạt đỏ mặt. – Còn anh, anh cũng làm thơ theo lối của anh phải không?
Đề Thám nói:
– Không…Tôi không biết chữ.
Ông Đồ Hoạt lắc đầu:
– Mặc xác anh! Anh vẫn là một nhà thơ đáng kể nhất! Ai bảo anh sống thế? Anh là một tên thi sĩ ma vương.! Anh làm sao tránh được danh hiệu đáng sợ ấy! Anh đã làm những điều mà bọn văn chương suốt đời thèm muốn. Chúng không làm sao biến được ngọn bút của chúng thành ngọn giáo hay cái câu liêm!
– Giáo hay câu liêm, thì tôi có thừa, – Đề Thám nói, -nhưng tôi khát khao điều ấy.
Điều ấy, nào, bác Cả bác biết là điều gì không?
Đâu là giá trị tinh thần, vật chát nơi bác?
Chúng ta chỉ vẻn vẹn có mạng sống này thôi Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê Những con đường chúng ta đi qua Tất cả đều xám xịt lầm bụi Mỗi cung đường, mỗi vận hạn đều xám xịt, lầm bụi Mà vầng trăng kia xa lắc Vầng trăng kia lơ lửng trên đáu Có đôi mắt nào mở to trong tim ta Và mỗi cái chớp mắt đều khiến ta nhói lòng Sẽ phải khởi nghĩa thôi phải tranh đấu cùng số phận Trăm năm trước cũng thế trăm năm sau cung vậy Ta phải dấn thân, phải đốt lửa Ngọn cờ ta phất lên là giá trị cuộc đời Bác Cả, cuộc chiến này thật khốn nạn Bác có chối cũng chẳng được Làm người chỉ có một lần làm người thật khó…
Đề Thám hỏi:
– Thằng Hoạt bao giờ lấy vợ?
– Chắc nó ở vậy. – ông đồ thở dài. – Không hiểu sao đàn bà chỉ thích những tên đàn ông nhăng nhít, dê cụ, khả ố, đểu cáng…Thằng Hoạt nhà tôi lại đứng đắn quá.
Đề Thám cười:
– Tôi nhớ tôi đã ăn lễ dạm hỏi ở nhà này rồi. Thằng Hoạt sẽ làm rể Chánh Trương cơ mà?
– Đúng vậy. – ông đồ gật đầu. – Tôi đã hỏi con bé Xoan cho nó. Trầu cau đưa rồi, cuối năm nay cưới nhưng Chánh Trương lại muốn chạy làng, định gả con Xoan cho lão nghị Trường. Lão ấy góa vợ, nhà giàu nứt đố đổ vách.
– Tôi biết nghị Trường, – Đề Thám nói. – Thằng già ấy lẩm cẩm lẫn lộn, khôn như cáo, nói chuyện với ai cũng chỉ gật đầu.
– Anh Đề! Anh hãy giúp đỡ chúng tôi. – ông đồ năn nỉ. – Anh vốn hào hiệp…Anh đừng để con trai tôi xổng con bé ấy.
Đề Thám nhìn Hoạt. Cậu thanh niên e thẹn thở dài. Ngoài cổng xôn xao, trông ra đã thấy Thống Luận, Bang Kinh và mấy phu kiệu thập thò đứng đón. Bà Ba Cẩn không quên lời hứa. Đề Thám biết rằng bà Ba đã đúng trong trường hợp này: Ông không thể vào dinh công sứ Bắc Giang như một phần tử cực đoan lãng mạn, ông buộc phải tiền hô hậu ủng như một đại diện cho nhiều người.
Đề Thám lên kiệu. ông bảo ông đồ:
– Tôi sẽ gắng làm hết sức.
Hoạt chào Đề Thám, đôi mắt chứa chan hy vọng.
Đề Thám nói với Bang Kinh:
– Mang con ngựa ô đi theo. Khi về tôi về bằng ngựa.
Bảy giờ tối, Đề Thám đến dinh công sứ Bắc Giang. Các quan chức và sĩ quan Pháp đi ra đón ông. Họ ngạc nhiên trước người anh hùng nổi tiếng, người được coi là “đại diện cho tâm hồn An Nam” (3) trông y hệt một tay địa chủ nông thôn họ vẫn thường gặp: cũng khăn xếp đen, áo lương, quần trắng, đi giày Gia Định. Đề Thám khác người là ở thần thái, ở tinh thần tự chủ cao, nhãn quan bao quát rộng, nếu có kể thêm thì đấy là sự buồn nản thất vọng về phẩm cách con người nói chung thỉnh thoảng lộ ra ở khóe nhìn vô hồn nơi ông.
Đề Thám trông thấy đám quan chức người Việt đứng tụm lại thật hèn hạ. ông nhận ra nghị Trường, Chánh Trương và cả Xoan, con gái lão, người đã đính hôn với con trai ông đồ Hoạt. Tôi sẽ không kể gì về buổi tiếp tân này. Theo sử sách ghi chép thì người Pháp ở giới thượng lưu thời ấy đều nhẹ dạ, ngông cuồng, xa hoa; đa phần người Pháp “thực dân” còn lại trong các guồng máy cai trị cồng kềnh, lại vừa ngu vừa ác. Bầu không khí tinh thần của thời “thuộc địa nửa phong kiến” ấy đại để như sau: thói ham tiền hám của trộn lẫn với lòng thèm khát khoái lạc vui chơi, chế dộ nô lệ tàn bạo bày ra trắng trợn ở các hầm mỏ, đồn điền; đám nha lại người Việt coi thuế là nguồn thu chủ yếu để xây lợp mái nhà Tổ quốc, có chỗ xây lợp bằng đá thật, có chỗ xây lợp bằng các tờ báo lá cải và chứng từ kế toán giả mạo, “con rồng tre An Nam” tìm cách nhảy chồm lên trong tiếng tom chát ở các ổ chứa và tiếng vỗ tay trong các hội đoàn, thỉnh thoảng lại giật mình co lại bởi tiếng súng kíp hoặc súng hỏa mai tự chế ngoài biên giới…Việt Nam đầu thế kỷ XX là một đất nước nghèo nàn, gần như mọi rợ…
Buổi tiếp tân không làm Đề Thám thú vị chút nào. Lựa dịp thuận tiện, Đề Thám nói với Chánh Trương:
– Tôi muốn nói chuyệh với con gái ông.
Tôi không biết Đề Thám đã nói với Xoan những gì hôm ấy, chỉ biết rằng cô rất bối rối xúc động.
Cô gái, lời nói nào làm cô bối rối xúc động?
Những lưỡi dao cứa vào sĩ diện cô ư? – Không phải!
Những lời tán tỉnh rườm rà hoa mĩ ư? – Cũng không phải nốt!
Ngôn ngữ trở nên ghê tởm, nhớp nhúa trên miệng bọn tiểu nhân Tôi biết một thứ ngôn ngữ giản dị như đất Thứ ngôn ngữ mộc mạc, thẳng băng Tựa như tiếng tù và Như tiếng kèn đồng Như tiếng chuông vọng… Có một thứ ngôn ngữ thức tỉnh con người Buộc họ soi vào lòng mình như soi mặt xuống lòng hồ Có thứ ngôn ngữ của người anh hùng, của người chính trực Nó làm ta bối rối xúc động Ta không trón được Thứ ngôn ngữ không hề phù phiếm cũng chẳng tân kỳ Thứ ngôn ngữ của giống nòi lruyền lại Thứ ngôn ngữ của lương tri không bao giờ mất…
Đề Thám ra về trước khi buổi tiệc kết thúc.
Không có bất trắc gì xảy ra cho ông và các thủ hạ đi theo. Đề Thám chia tay với mọi người ở triền đê sông Thương, ông lên con ngựa ô rồi theo con đường mòn rẽ vào rừng, ở đấy có lối đi tắt về Nhã Nam. Đề Thám đến cửa rừng thì thấy Xoan đứng đó. Sự biến động trong tinh thần khiến khuôn mặt vốn trắng hồng của cô gái tái nhợt hẳn đi.
Xoan nói:
– Em van ông… Ông hãy cho em đi theo. Đi đâu cũng được…
– Cô phải về đi, – Để Thám nói. – Cô phải chọn Hoạt.
– Không.. – Xoan nức nở.
Đề Thám đón Xoan lên con ngựa ô rồi thúc con ngựa vào rừng. Đêm trong rừng mênh mông và hư ảo lắm. Tiếng côn trùng rỉ rắc. Mùi hương rừng nồng nàn. Bóng tối sẫm đen trên các tán lá cây, sẫm đen nơi hốc đá, sẫm đen eả trên mặt đất. Rừng vô tình, vô cảm, thản nhiên, lạnh lùng, tàn nhẫn. Rừng muôn đời là thế. Thiên nhiên muôn đời là thế: vô tình, vô cảm, thản nhiên, lạnh lùng, tàn nhẫn. Tất cả đều đẩy con người về nơi tận cùng ý thức cá nhân chính nó. Con người tự co lại như con sâu, cái kiến, thúc thủ trong phần sinh linh vừa bé mọn, vừa cô đơn, vừa bất lực; nó chớp đôi mắt phấp phỏng lo âu trong tâm hồn nó và tự hỏi mình: là ai? đi đâu? thế nào? làm gì? tiến đến đâu? bao giờ thành tựu? bao giờ kết thúc?
Đề Thám và Xoan đến chỗ có hai ngả rẽ một vào căn cứ Hố Chuối và một về Kế thì mưa. Mưa tháng Tư là thứ mưa đầu mùa ở vùng nhiệt đới. Nhoằng một ánh chớp, một làn gió thoảng qua là mưa liền, không sao lường được. Bắt đầu tưởng là cơn mưa bóng mây không phải ngại gì, bỗng thoắt là mưa đá, sấm rền, sét nổ. Mưa như roi quất, tàn bạo, hung hãn. Mây đen cuồn cuộn, gió giật liên hồi rồi mưa như những thác nước trên cao đổ xuống ào ào. Con ngựa không thể đi được vào trong hẻm núi. Đề Thám gầm lên một tiếng như lời chửi rủa, cũng gần như lời than thở rồi thúc đầu gối vào ức phải con ngựa cho nó chạy xuống cánh đồng, ngả rẽ về Kế. Một lúc sau, hai người đã ở trong nhà ông đồ Hoạt.
– Ta đã biết mà, – ông đồ bảo Xoan. – Ta biết con sẽ là một con người con dâu thảo hiền, tín nghĩa… Bà đồ cuống cuồng giục Xoan đi thay áo quần kẻo lạnh. Hoạt vung vẩy cánh tay khoèo, khuôn mặt tràn trề hạnh phúc.
– Anh Đề! – ông đồ nắm lấy vạt áo Đề Thám. – Anh hãy ở lại đến mai hãy về…
Không! – Đề Thám lắc đầu. Những giọt nước mưa mặn chát ướt đầm trên khuôn mặt ông. ông nhảy lên ngựa rồi phóng thẳng vào trong màn mưa dày đặc, màn đêm dày đặc.
Mưa như thế, bắt đầu từ lâu rồi Trên mặt đất, những con bọ cử bò lổm ngổm Tôi không biết con người khát khao điều gì trong cõi sống này. Hình như điều thiện bắt đầu từ tình yêu phải không? Điều thiện buồn tẻ vì nó nhạt nhẽo Điều thiện tầm thường vì nó an toàn Điều thiện tệ hại vì nó giết đi đam mê Anh có sợ điều thiện không? Chị có sợ điều thiện không? Và em nữa? Em có bao giờ ghê tởm điều thiện bằng như điều ác? Rồi mưa cùng với thời gian sẽ xóa đi thôi, xóa hết Xóa tất cả, rửa đi tất cả Người ta sẽ rửa chúng ta đi như rửa xương khi bốc mộ Trong đêm không có ánh mặt trời Chúng ta bị rửa đi như rửa xương khi bốc mộ Tất cả xương người đều như thế. Tất cả đều rời rạc, đen đúa, khô khan Chúng ta bị rửa đi như rửa xương khi bốc mộ Có cơn mưa nào. Có đôi mắt nào nhòa ướt cho anh?
Đề Thám phóng ngựa vào rừng. Mưa quất vào mặt ông bỏng rát. ông bỗng òa khóc. ông òa khóc cho mình, cho người, cho tất cả những hữu hạn của chính mình, của mỗi người. Đề Thám sụt sùi như một người thường: một anh bán bánh đa mật ở chợ Kế, một viên công chức quèn, một chàng thợ bạc vụng về, một ông giáo nghèo… Ông khóc như một người nhu nhược nhất đời, một người suốt đời thỏa hiệp, không bao giờ dám bước qua lằn ranh bổn phận, nghĩa vụ, cương tỏa. Ông khóc như chưa bao giờ là một anh hùng, một người khởi nghĩa.
Đề Thám đi suốt đêm mưa trong rừng. Người ta kể rằng sáng sớm hôm sau ông cầm đầu một toán quân đánh dồn binh Pháp ở Kép, tất cả binh sĩ trong đồn đều bị gíết sạch. Từ đấy chấm dứt thời kỳ hòa hoãn giữa ông và người Pháp.
Mấy năm trước tôi gặp bà cụ Xoan ở huyện lỵ Yên Thế gần đồn Phồn Xương, nơi bây giờ trở thành một phố chợ sầm suất. Bà cụ giờ 84 tuổi, tóc bạc trắng, trông rất hiền lành. Tôi hỏi bà cụ về cuộc đời bà cụ trải qua, bà cụ kể lể khống biết bao nhiêu những điều cơ cực nhọc nhằn xảy ra trong cuộc đời mình: nào người chồng tính nết dở hơi thô bạo, nào đói kém, nào con, nào cháu, nào tật bệnh, nào chiến tranh…
Tôi đứng trên quả đồi khô cằn toàn sỏi nơi bà cụ phát hoang để xây dựng cơ nghiệp cho gia đình mình, trong lòng vô cùng cảm động thương xót. Tôi hỏi điều gì đã làm bà cụ vượt qua được hết nhọc nhằn gian khó trong bao nhiêu nẩm tháng ấy, bà cụ cười móm mém để lộ hai hàm lợi không còn một cái răng nào rồi vạch áo cho tôi xem tấm ngực trần hom hem với đôi vú teo tóp răn reo.
Bà cụ nói: – Ông ấy muốn thế…Tôi không phụ lời tôi hứa… Ông ấy là nguồn an ủi suốt cuộc đời tôi…
– Ông ấy là ai hả cụ?
– Ông ấy kia kìa…
Bà cụ chỉ về bức tượng xi măng cốt thép đứng trên đỉnh đồi ở gần di tích Phồn Xương. – Ông ấy chẳng hề nói năng gì cả…
Tôi biết Đề Thám đã không hề nói năng gì cả từ năm 1913, hơn 80 năm rồi…
Hôm tôi ở Nhã Nam trời cũng mưa, nhưng là cơn mưa bóng mây, một thứ mưa xoàng.
Tôi kể chuyện này đến đây là hết.
* (1) Tương lai xứ Bắc kỳ. (2) Pôn Đume (Paul Doumer) (3) Lời của nghị sĩ Metsimy ở nghị viện Pháp ngày 18-11-1909.
3 Kiếm Sắc là truyện ngắn thứ ba mà tôi thật yêu thích của anh Nguyễn Huy Thiệp công bố năm 2001 Văn hay lời kiệm chữ, Sử giỏi đời cần lao. Sách này đúng ra phải là Ðặng Phú Lân Kiếm Sắc. Chuyện về Ðặng Phú Lân Kiếm Sắc là tướng thân tùy của Thế tổ Nguyễn Phúc Ánh. Lúc vào thành Thăng Long Nguyễn Phúc Ánh bảo: “Ngươi theo hầu ta thế là chín năm một trăm ngày. Chín năm không làm hỏng việc gì, còn một trăm ngày thì hỏng việc, vô tích sự. Thế là trèo lên cây mà không hái được quả, đáng tội chết”. Lân không nói năng gì, vươn cổ ra chịu chém. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp kể vậy và sóng gió dư khen chê nhiều nhất về truyện ngắn này. (Tôi xin được chép lại) như sau:
Những ngọn gió Hua Tat là truyện ngắn thứ tư mà tôi thật yêu thích của anh Nguyễn Huy Thiệp công bố năm 1989 Văn hay lời kiệm chữ, Sử giỏi đời cần lao. Sách này đúng ra phải là Chuyện đời Nguyễn Huy Thiệp. Chuyện về Chàng Khó và nàng Sinh
Những ngọn gió Hua Tat Nguyễn Huy Thiệp
Ở Tây Bắc có một bản nhỏ người Thái đen nằm cách chân đèo Chiềng Dông chừng dậm đường. Bản tên là Hua Tát.
Bản Hua Tát ở trong thung lũng hẹp và dài, ba bề bốn bên là núi cao bao bọc, cuối thung lũng có hồ nước nhỏ, nước gần như không bao giờ cạn. Xung quanh hồ, khi thu đến, hoa cúc dại nở vàng đến nhức mắt.
Từ thung lũng Hua Tát đi ra bên ngoài có nhiều lốị Lối đi chính rải đá, vừa một con trâụ Hai bên lối đi này đầy những cây mè loi1, tre, vầu, bứa, muỗm và hàng trăm thứ cây dây leo không biết tên gọi là gì. Lối đi này đã in dấu chân nhiều người. Trong số đó, từng nghe có cả một vị hoàng đế.
Thung lũng Hua Tát ít nắng. ở đây quanh năm cứ lung bung một thứ sương mù bàng bạc nên nhìn người và vật thì chỉ nhìn thấy những nét nhòa nhòa đại thể mà thôi. Đây là thứ không khí huyền thoại.
ở Hua Tát, những chuyện cổ như những bông hoa dại, màu vàng nhạt, bé như khuy áo, điểm đâu đó quanh rào trong các ngõ nhỏ. Đàn ông ngậm hoa này trong miệng uống rượu không bao giờ saỵ Nó cũng giống như những viên đá cuội trắng có gân đỏ, mảnh như sợi chỉ nằm kín đáo nơi lòng suốị Phụ nữ thích những viên sỏi nàỵ Họ nhặt nó về ủ trong áo lót đủ một trăm ngàỵ Khi làm đệm cho chồng, họ dấu viên sỏi đó vào trong. Có lời truyền rằng người chồng nằm trên đệm ấy sẽ không bao giờ mơ tưởng đến những phụ nữ khác.
Hua Tát là một bản nhỏ cô đơn. Người dân ở đây sống giản dị, chất phác. Công việc nương rẫy nhọc nhằn vất vả. Cả việc săn bắt cũng thế. Tuy nhiên, người dân ở đây lại rất rộng lòng mến khách.
Đến Hua Tát, khách sẽ được mời ngồi trên bếp lửa, uống sừng rượu cần với xeo thịt rừng sấy khộ Nếu khách là một người công minh, chính trực, chủ nhà sẽ mời khách nghe một câu chuyện cổ. Có thể những chuyện cổ ấy nói nhiều đến nỗi đau khổ con người, nhưng chính hiểu rõ những đau khổ ấy mà ở trong ta nảy nở ra sự sáng suốt đạo đức, lòng cao thượng, tình người.
Những người sống trong chuyện cổ bây giờ đều không còn nữạ ở Hua Tát, họ đều biến thành đất bụi và tro than cả (2). Tuy vậy, linh hồn của họ vẫn bay thấp thoáng trên các khau cúi (3) nhà sàn.
Như những ngọn gió. *** Sinh là một thiếu nữ mồ côi ở bản Hua Tát. Nghe nói ngày xưa mẹ nàng bị ma chài, để nàng trong rừng. Nàng gầy gò, bé nhỏ, trông rất đáng thương. Nàng không bao giờ được ăn miếng ngon, mặc váy áo đẹp. Thân phận côn hươn (1) nàng sống thui thủi như con chim cút.
ở Hua Tát, trên đường đi vào rừng ma, có cái miếu nhỏ. Miếu này thờ chàng Khó, người từng giết con hổ dữ ngày nào. Trong miếu có hòn đá nhỏ bằng nắm tay người, để trên bệ gạch. Hòn đá nhẵn thín như bào, sâu trong lớp đá có những vân đỏ li ti như mạch máu người. Ai muốn cầu xin thì sờ tay vào hòn đá, ghé sát miệng vào kể lể với nó. Hòn đá nằm trên bệ thờ từ bao đời rồi, chứng kiến rất nhiều cuộc đời, rất nhiều số phận. Hòn đá trở thành mốt thứ ngẫu vật thiêng liêng, ban đêm có người trông thấy hòn đá tỏa sáng như một cục lửá. Những nỗi đau khổ, những lời cầu xin tích tụ trong hòn đá nhỏ.
Một bận, có một người khách lạ từ dưới xuôi lên, ông ta cao lớn, cưỡi trên một con ngựa ô khỏe mạnh. ông rẽ vào nhà trưởng bản, thăm các bô lão, la cà khắp nơi đây đó, ông hiểu rất rõ phong tục ở bản. Dân bản Hua Tát đoán ông là người buôn cao hoặc lông thú hiếm. ông rất nhiều tiền, cư xử hào hiệp và sang trọng lắm. Một bữa, ông khách qua miếu chàng Khó, trông thấy hòn đá định cầm lên xem. Nhưng thật lạ lùng, ông không làm sao nhấc được hòn đá lên khỏi bệ thờ. Ngạc nhiên, ông về gọi dân bản đến xem. Người ta xúm xít xung quanh miếu nhỏ. ông khách thử cho từng người lần lượt vào miếu để nhấc hòn đá lên tay, nhưng đều bất lực. Hòn đá nặng đến kinh người.
– Chắc có chuyện gì uẩn khúc? – ông khách căn vặn mọi người. – Trong bản liệu còn có ai chưa đến miếu này nhấc thử?
Người ta soát lại thấy thiếu Sinh. Người ta quên bẵng mất nàng.
Ông khách bảo với mọi người đi tìm Sinh đến. Nàng đang đi đào củ mài mãi trong nguồn nước. Sinh đến miếu thờ. Mọi người rẽ lối cho nàng. Ông khách bảo nàng nhấc thử hòn đá. Như có phép lạ, Sinh nhấc hòn đá lên tay dễ dàng như bởn. Mọi người ngạc nhiên, tất cả reo hò sửng sốt. Sinh cầm hòn đá đưa cho ông khách. ánh sáng mặt trời chiếu vào đôi bàn tay nàng, đôi tay chai sạn, ngón không ra ngón. Sinh bóp khẽ vào cái ngẫu vật thiêng liêng. Hòn đá bỗng tan thành nước trước mắt mọi người. Những giọt nước ấy trong như nước mắt, chảy qua kẽ tay nàng rơi xuống mặt đất, in hình trên đó như những ngôi sao. Ông khách lặng người rồi khóc. ông xin dân bản được đón Sinh đi. ông sắm váy mới, áo mới cho nàng. Sinh bỗng trở nên xinh đẹp lạ thường.
* Nguyen Huu Son: Assessment of Nguyen Huy Thiep’s Works on Historical Topics. Vietnam social sciences, No3 (191)-2019, tr.80-92.
Abstract: As a challenge and a “trial” in the sphere of thoughts and art, it is not easy to make a general assessment of Nguyen Huy Thiep’s works on historical issues due to many different viewpoints and explanations. However, we cannot omit his works, when discussing the “literary and artistic creations on historical topics” in the đổi mới, or renovation, period. Basically, Nguyen Huy Thiep’s works on historical topics share many similarities with the general artistic conception in the first half of the 20th century. At the same time, his outlook was improved, renovated, and modernised. His literary works focus on exploring and reflecting people’s life, national destiny, and burning issues of the day. They have been highly appreciated by readers, republished many times, and translated into many languages.
Keywords: Nguyen Huy Thiep, historical topic, literature in the renovation period. Subject classification: Literature
1. Introduction
Carrying out an in-depth survey of the works on historical topics, we can realise remarkable transitional stages, cultural exchange, and literary development. First of all, the works written in the context of the wars (1945 – 1975) are often subtitled “stories of famous people”, “historical celebrities”, “historical stories”, “historical memoirs”, “eternal exemplars”, “homeland celebrities”, or “national stars”, etc. Those works mainly narrate famous figures as central characters, describing their lives and achievements together with historical events as the story plot without wild fiction or exaggeration. The authors of those works were mainly cultural and historical researchers or teachers, who had thorough knowledge of famous people (for instance, Ha An, Quynh Cu, Nguyen Duc Hien, Nguyen Hong, Vu Ngoc Khanh, Nguyen Loc, Bui Van Nguyen, Chu Thien, Nguyen Huy Tuong, and Thai Vu, who wrote about historic figures such as Le Hoan, Ly Anh Tong, Tran Hung Dao, Tran Khanh Du, Tran Quoc Toan, Lieu Hanh, Nguyen Trai, Nguyen Chich, Nguyen Binh Khiem, Quang Trung, Nguyen Du, Nguyen Cong Tru, Nguyen Huu Cau, Phan Dinh Phung, and Hoang Hoa Tham). The central part of the literary works on historical topics is imbued with the creative role played by the authors as shown in the literary works published during the renovation period, which began in 1986 and consists of a large number of novels and short stories (written by authors such as Nguyen Huy Thiep, Nguyen Xuan Khanh, Hoang Quoc Hai, Ngo Van Phu, Nguyen Khac Phuc, Hoai Anh, Nguyen Quang Than, and Luu Son Minh) as well as historical dramas (composed by Nguyen Dinh Thi, Le Duy Hanh, and others). For example, of all 19 dramas performed during the national festival of Chèo, a form of generally satirical musical theatre, often encompassing dance, held in Ha Long city in 2009, 13 were focused on historical events, historical figures, and heroes in battles. In Vietnam, and the world as well, it is not rare that literary works on historical topics may result in debates and different attitudes towards the reception of those works. Queen mother Duong Van Nga (10th century) is one cited example. Should we consider her a woman, who had “illicit love”, “humane spirit”, or “high national duty”? Another example is Jeanne d’Arc in the history of France (the 15th century). Should she be recognised as “a heretic”, “a female devil”, “a saint”, or “a national heroine”? Obviously, it is necessary to review seriously “the historical fate” of such type of historical creation from all aspects, including creative psychology, imaginary limits, reception attitudes, and the potentials for further development of the topics and genres, aiming at helping to provide more comprehensive and profound awareness of the history and the nation [15, pp.42-49]. This paper2 focuses on some main points, including Nguyen Huy Thiep’s works in the literary movements in the renovation period; Nguyen Huy Thiep’s works on historical topics from the perspective of literature in the first half of the 20th century; and, Nguyen Huy Thiep’s works on historical topics from the perspective of national historical reality.
2. Nguyen Huy Thiep’s works in the literary movements in the renovation period
Discussing historical topics, subjects or genres, firstly we need to isolate the works, in which the authors use historical events and characters as a pretext for imagining completely different fictional plots. Instead of describing the reality, they focus on the supposed artistic reality. And, instead of realising the historical experience, they deliberately create a new image of historical situations and characters. As a part of those works, Nguyen Huy Thiep’s short stories, created on the basis of the plot related to historical famous people such as Nguyen Trai, Nguyen Thi Lo, Nguyen Hue, Nguyen Du, Nguyen Anh, Ho Xuan Huong, Hoang Hoa Tham, Tu Xuong, and Nguyen Thai Hoc, once aroused a lot of controversy.
As a challenge and a “trial” in the sphere of thoughts and art, it is not easy to make a general assessment of Nguyen Huy Thiep’s works on historical issues due to many different viewpoints and explanations. However, we cannot omit his works, when discussing the “literary and artistic creations on historical topics” in the renovation period.
It is possible to conclude that most of Nguyen Huy Thiep’s works related to the above-mentioned figures can be recognised as “historical imitation”, “historical simulation”, or “historical parody”. To various extents, historical realities are reflected sometimes boldly and sometimes slightly. In general, he just used the historical realities as a pretext for creating new plots, new situations, and new personalities. The writer directed readers to new fates, circumstances, events, details, locations, and periods, which never existed in the official documents of history. As a result, the readers feel confused by the fictitious stories created by him, which are different from the realities. Many readers, particularly the critics, therefore, had to raise their opinions and attitudes, which are divided into debating groups that have different ways of receiving his works depending on their own professional knowledge and cultural inertia. In 1988, when Nguyen Huy Thiep released his short stories titled “Sharp Sword” (Vietnamese: Kiếm sắc), “Fired Gold” (Vietnamese: Vàng lửa), and “Chastity” (Vietnamese: Phẩm tiết) in the newspaper “Literature and Art” (Vietnamese: Văn nghệ) published by the Vietnam Writers’ Association, they immediately encountered many strong objections. There were two reasons for those objections, which were recognised unconsciously by the critics. Firstly, some critics supposed that “Fired Gold” was a memoir of historical events and well-known figures (this shows a mistake in recognising the genres), which led to an old way of receiving the story pragmatically and required the author to answer questions in an illustrative and explicit way. “What readers are interested in is mainly shown by images and literary language. They want to know: what the author has written about, whether the nature of history has been reflected truly, and whether the work brings them deep emotions?” [6, p.10]. Secondly, some critics persisted in conforming to the old viewpoint and thinking. They closely followed the previous postulates; for example, they often said: “according to our ever-present conception, …”. This makes these very critics unable to “untie themselves” so as to approach the new. It also prevents the development of artistic creative thinking” [7, p.4]. Within the general correlation, the critics have not kept pace with the orientation towards the renovation in literature and art. During the warm-up of the guideline on the development of literature and art, Nguyen Van Linh, the general secretary of the Communist Party of Vietnam, spent two days attending a conference on literature and art (on 6th and 7th October 1987) so as to understand the reality of literature and art in Vietnam. He also gave an important speech to the writers, artists, and cultural practitioners at the conference. Although the participants were mainly those who were holding management positions, and Mr. Nguyen Van Linh’s speech focused on writing activities, in a general sense, it also caused a profound impact on literary researchers and critics as well. “You have talked a lot about the untying. It surely will help you to promote your ability in your fields greatly. How should we untie? Regarding the untying, I think the Communist Party has to carry out it first. It must be performed in all the organisational activities, policies, and regulations”. At the same time, he emphasised the necessity of changes in the conception, mechanism, and policies as well as the sense of self-control, which was seen as the nature, the quality, and the skill of the practitioners in the field of literature and art. “On the other hand, I think no one else, but you have to do it in your own fields” [8, pp.11-16].
Nguyen Huy Thiep’s works on historical topics are considered very new in comparison with the works classified as “memoirs of historical figures” or “historical stories”, which were more inclined to disseminate propaganda in the particular wartime context, when the whole nation gathered up every effort for the duty of national liberation (1945 – 1975). However, they are not new at all, compared to some of the earlier works. More precisely, they can be seen as the return or the follow-up of the literary style of expressing historical topics in the first half of the 20th century. During the French colonial period, certainly, the censorship was also carried out publicly. Thus, some books were confiscated; parts of some articles were removed; and, whole pages were sometimes left empty. There were specific individuals undertaking the censorship responsibility, and the censorship was guaranteed by the legal procedures. At that time, no one was tied by others, so “being untied” and “untying” was not considered to be a matter of concern. The writers freely described various feelings, experiences, and experiments, and reproduced history in accordance with artistic creativity. This is shown clearly by the fact that many historical novels from France and other Western countries were translated and introduced widely in Vietnam. The recognition of the genres, types, and purposes in artistic consumption was seen as basic knowledge at that time. In the paper titled “Do Not Mistake Narrative Stories for Historical Records; Do Not Be Foolish to Call Me a Historian” (Vietnamese: Đừng lầm lẫn truyện ký là sử ký, đừng lẩn thẩn gọi tôi là sử gia) published 80 years ago, Truc Khe, a writer and researcher (1901 – 1947), suggested differentiating between writers and historians as well as between historical tales and historical records. Acknowledging the changes in the literary trend, he said: “many people have started to use the novel style to write historical stories” and affirmed: “In those historical novels, some details were written with the authors’ imagination, but they are not harmful at all. On the other hand, the effect is that they make more people enjoy reading and being aware of historical stories. It is, therefore, necessary to have such books in our literature” [5, p.1]. As a result, a larger number of historical novels was published. Some of typical authors and novels can be enumerated below:
Nguyen Tu Sieu (1898-1965) with “Mountain Top and Branch of Ochna Integerrima” (Vietnamese: Đỉnh núi cành mai), “Thunder at the Winter Night” (Vietnamese: Tiếng sấm đêm đông), “Dinh Tien Hoang” (Vietnamese: Đinh Tiên Hoàng), “Le Dai Hanh” (Vietnamese: Lê Đại Hành), “Tran Hung Dao’s Fighting against Mongol Invasion” (Vietnamese: Trần Nguyên chiến kỷ), and “History of Viet – Qing War” (Vietnamese: Việt Thanh chiến sử).
Ngo Dinh Chien (?) with “The Person Confronting King Gia Long Who Founded the Nguyen Dynasty: Nguyen Hue” (Vietnamese: Người đương đầu với vua Gia Long khai sáng nhà Nguyễn: Nguyễn Huệ) published in 26 issues of “Hanoi Midday Newspapers” (Vietnamese: Hà thành ngọ báo) in 1935.
Hoa Bang (Hoang Thuc Tram, 1902-1977) with “Quang Trung” published in the newspaper “Nước Nam” (Vietnam) in 1939-1940 and in the form of a book in 1944.
TchyA Dai Duc Tuan (1908-1969) with “Wreck of Gold in Sam Son” (Vietnamese: Kho vàng Sầm Sơn).
Nguyen Huy Tuong (1912-1960) with “Night of Long Tri Festival” (Vietnamese: Đêm hội Long Trì), “Vu Nhu To” (Vietnamese: Vũ Như Tô), “Copper Columns of Ma Yuan” (Vietnamese: Cột đồng Mã Viện), and “Princess An Tu” (Vietnamese: An Tư công chúa).
And, Truong Tuu (1913-1999) with “Men of Vigour in Bo De” (Vietnamese: Tráng sĩ Bồ Đề), and “Five Knights” (Vietnamese: Năm chàng hiệp sĩ) etc…
All of those novels were written with a vivid imagination, thrilling plots, and lively characters, which were very different from the historical records. It is possible to state that the patriotism, the sense of national rehabilitation, the social liberation, and the democracy in the press and publishing activities together resulted in the bumper crop of literary works on historical topics during the semi-feudal colonial period.
3. Nguyen Huy Thiep’s works on historical topics from the perspective of literary experience in the first half of the 20th century
In my opinion, Nguyen Huy Thiep’s works on historical topics are not new in comparison with the literary works of the same genre in the period from 1932 to 1945. Nguyen Huy Thiep usually started or concluded his stories with the same way, which demonstrated that “the stories were made up, but very similar to the reality”. He told, for example, he heard about or saw with his own eyes the facts, or there were witnesses and evidence for his stories. As a result, many readers misconsidered those stories to be historical records. Meanwhile, in “Wreck of Gold in Sam Son” (1940), TchyA Dai Duc Tuan provided a very vague introduction, which was stuck in the middle between the reality and the fiction by the voice of a narrator and the skills of a novelist:
“By 1934, the Government found a wreck containing gold in the seabed off the coast of Sam Son beach in Thanh Hoa province located in North Central Vietnam.
When the wreck was moved to the land, people saw hundreds of bars of gold and silver in the shape of a cuboid. Each bar was as long as a handspan. All the bars were engraved with the [Chinese] character meaning “Virtue”. There were abundant coins made in the Canh Hung era and various Chinese coins made from the era of emperor Wanli (Ming Shenzong) to the era of emperor Qianlong (Qing Gaozong)… Based on our available historical facts, the gold and silver surely belonged to the period of decline of the Later Le dynasty. If they belonged to the period of Le Quy, they must have been owned by the Tay Son brothers or Nguyen Huu Chinh, who was one of two admirals of the army.
… Chinh was left alone in Bac Ha (North Vietnam) by Nguyen Nhac due to the slander made by Vo Van Nham, who was Nguyen Nhac’s son in law. Being too scared of staying alone there, Chinh quickly embarked all the havings and left by boat for Nghe An the next day. As an ingenious person, he never took the gold with himself. On the one hand, he was afraid that it would prevent his boat from going fast. On the other hand, it might lead to the fact that his boat would be robbed and his life could be lost. Consequently, Chinh surely left the havings to his son, while taking a boat to follow Nhac quickly to home.
As explained, the wreck of gold must have belonged to Nguyen Huu Chinh. Based on the surmise, which is very probably true, I am writing this sensational story so as to commemorate the past glorious period and provide you with a new genre of historical stories”.
It is completely a story of historical fiction but closely related to the national historical records. Some parts were copied almost exactly from what Tran Trong Kim, a staunch and sage historian, wrote in his work titled “Outline History of Vietnam” (Vietnamese: Việt Nam sử lược).
“The information I have collected to create this story about the wreck of gold is not completely similar to what is mentioned in the historical records. However, I am not worried about whether it is true or false since I just want to create a history-based novel without intending using the novel to bring back the historical period.
When reading this story, you should forgive me for the above-mentioned point. My expectation is to provide you with a story with an interesting plot and an exciting narrative style. I will feel very happy if you think the expectation is fulfilled. A writer cannot be presumptuous of assuming himself to be a wise historian”. At the end of the story, additional information was also added as follows: “The second day of the fourth lunar month in the year of Binh Dan (or Bingyin) – TCHYA (Vietnamese: Ngày mùng hai tháng tư năm Bính Dần – TCHYA) (i.e. NHS emphasis) [17, pp.V-VII]
… In the story, the character named Nguyen Hue, “King of Northern Pacification”, was created by TchyA as a merciless, narrow-minded, and envious person: … “As soon as the powerful company of the army came, the king ordered his troops to go straight to the headquarters of Vo Van Nham to arrest and bring Nham to the market for decapitation.
Nham was both surprised and terrified, as he did not understand why his uncle in law mistreated him. Prostrating, he cried, told his grievances, and asked for tolerance from Nguyen Hue. The King of Northern Pacification chuckled and shook his head without saying anything. He directed his soldier to give Nham a small piece of paper, on which the following 12 [Chinese] characters were written clearly: “Bất tu đa ngôn; nhữ tài quá ngã, phi sở ngã dụng” (i.e. Do not be garrulous; you are more talented than me; thus, I cannot keep you alive).
After reading those words, Nham did not know what to say but to complain to God about his tragic destiny. He realised that all entreaties would be in vain, once Hue gave the order. In reality, Hue was not less talented than Nham. What Hue wrote in the piece of paper was just a pretext to kill Nham. One is intentional, while the other is unmindful; thus, it was impossible to avoid the misfortune planned irrationally by the other” [17, pp.135-136].
Later on, the way to name historical figures coarsely such as “Nham” or “Hue” was no longer used in the novels by writers, including Nguyen Huy Thiep. This is certainly reasonable. During the period of the Nguyen dynasty, Nguyen Hue (Quang Trung) and the Tay Son dynasty were called “the usurper” and “the dynasty of usurpers” respectively. Meanwhile, the Tay Son brothers were highly respected by the people, and Quang Trung was adored as a national hero. Particularly, the two tendencies existed concurrently in the context of the early 20th century: the image of Quang Trung was fictionalised variously in stories, while the anniversaries related to him were also held solemnly in the whole country. Both of the tendencies complemented each other without mutual exclusion, leading to new explanations and respect for Quang Trung.
As regards the stories on historical topics alone, Nguyen Huy Tuong with his works titled “The Night of Long Tri Festival” and “Vu Nhu To” was considered to have created an entire world of characters and a new picture of history, which was not only far different from the historical records but also acknowledged widely and profoundly by various social strata in all periods.
Meanwhile, the literary works of Truong Tuu were often called “historical fictions”, “historical novels”, or “historical imitations”. In essence, his two novels, including “Man of Vigour in Bo De” [20, pp.597-751], and “Five Knights” [21, pp.753-885] under the pen-name of Mai Vien, are considered historical novels with specific periods, contexts, and events related to some figures mentioned in the historical records. “Man of Vigour in Bo De” (consisting of 2 volumes and 14 chapters) was based on the historical event, in which Le Hoan, Commander of Ten Armies, seized power from the Dinh dynasty in the late 10th century. The activities carried out by the men of vigour named Bo De and Bach Hac as well as Ms Minh Tam and Ms Minh Chi, members of the Tu Bi party, which was the opposition to the Ten Armies, also show the colour of modernisation and the influence of the contemporary society. In “Five Knights”, which consisted of 2 volumes and 14 chapters and used the social and historical context under the reign of Ly Anh Tong (1138-1175), many characters were created as loyal members of the Quan Anh party mixed with a large number of activities of romantic love, espionage, assassination attempts, and overthrow. This makes the novel more similar to a detective story with forest paths and thrilling cases. In general, both of the historical stories were “novelised” to a great extent with many fictitious characters, details, and events. This is seen as the strength of Truong Tuu’s historical fictitious works among the general current of historical stories.
The above-described comparison demonstrates that before the August revolution in 1945, when creating literary works on historical topics, writers were inclined to develop the novel thinking, instead of outlining portraits of “homeland celebrities” and “national stars” or narrating historical events and figures. Thus, they tended to create a world of new characters with new viewpoints on historical events and figures. This artistic conception was also mentioned by Nguyen Huy Thiep in a fictitious section of the short story titled “Chastity”: “Quach Thi Trinh, a daughter of Quach Ngoc Minh, asked me whether I knew anything about the dead person in the grave. I felt too nervous. To understand whether you know or don’t know, although they are just historical and limited ambiguous estimations, you must be a really strict dreamer” [18, pp.242]… With three short stories titled “Sharp Sword”, “Fired Gold”, and “Chastity”, Nguyen Huy Thiep deluded readers, providing them with a new feeling, taste, and conception of literature and the relation between the literary discourse and historical experiences. Nguyen Huy Thiep did make a contribution towards the renovation and improvement of national literature, aiming at integrating it with the modern kinds of literature in the region and the world as well. His works on historical topics alone have been highly appreciated and recognised by many scholars who are specialised in Vietnamese studies. Greg Lockhart, an Australian researcher, emphasised the creativity made by Nguyen Huy Thiep in his pressing concern about the progression and humanity; he was “a Vietnamese author of the same talent as excellent international writers [9, p.115]. Evelipe Pieller, a French journalist, recognised the way Nguyen Huy Thiep reflected the “strange life of ordinary people” [12, p.152]. Sean Tamis Rose, a French critic, stated: “For him, it is a reminder of the humankind’s responsibility by the contrast” [14, p.497]. T. N. Filimonova, a Russian researcher, acknowledged: “The writer has provided three views on Vietnamese history, three different approaches and assessments” [2, p.353]. Meanwhile, Vietnamese researchers have also enhanced the capacity for adopting the new and strange literary phenomenon and whereby scientific explanations and approaches have been made, as shown in the following papers: “Reading Literary Works Should be Different from Reading Historical Records (Lai Nguyen An) [1, pp.179-187]; “Fired Gold”: “Historical Philosophy” or “Artistic Prose” (Truong Hong Quang – Nguyen Mai Xuan) [13, pp.207-230]; “Thinking of Novels and Modern Folklore” (Hoang Ngoc Hien) [3, pp.355-366]; “Is Baroque Art Found in Nguyen Huy Thiep’s Short Stories?” (Thai Hoa) [4, p.91], in which it is strongly confirmed: “Historical phenomena, events, and figures are seen from various perspectives of common and popular relations without being isolated or one-sided, helping to escape from the dogmatic and voluntarist views. Historical “stars” are lowered by the thinking and behaviour in everyday life. As a result, the gap between those idols, masters of the past, and present-day people have been shortened for contemplation. History cannot consist of only abstract things kept far away from real life” (Vuong Anh Tuan) [19, p.337]. This is entirely appropriate for the creative thinking in arts and the space in the writers’ attitude towards historical figures, as shown in Nguyen Huy Thiep’s works and the written literature on historical topics during the first half of the 20th century.
4. Nguyen Huy Thiep’s works on historical topics from the perspective of actual national history
As regards history, writers (as well as historians) can know just a part of the realities of historical figures such as Le Hoan, Le Van Thinh, Ho Quy Ly, Tran Thu Do, Tran Hung Dao, Huyen Quang, Le Loi, Nguyen Trai, Nguyen Du, Ho Xuan Huong, Hoang Hoa Tham. How are writers allowed to imagine the portraits, talents, and personalities of those figures? It is more important that writers have to choose specific points to explore and create their own characters more appropriate to the real life and national history, aiming at recognising the values of “the true, the good, and the beautiful” and paving the way for creative artistic activities.
The following part in “Complete Annals of Dai Viet” (Vietnamese: Đại Việt sử ký toàn thư) is written about Le Van Thinh:
– “Year of Hinoe-ne or Fire Rat (Vietnamese: Bính Tý), [Hoi Phong] the fifth year [1096], (the third year under the reign of Emperor Zhezong of Song). In spring, in the third month of the lunar year, Le Van Thinh conspired against the king, but he was spared and exiled in Thao Giang. The king was once sitting in a small boat in Dam Dam (Vietnamese: Dâm Đàm) lake, watching people catching fish. Suddenly, the sky was shrouded in fog and cloud. As he heard rowing sounds and thought a boat was coming from the fog, he took a lance and threw it into the fog. When the fog and cloud disappeared in a little while, everyone became too afraid as they saw a tiger on the boat. They shouted: “It’s dangerous!”. The fisherman named Mac Than cast a net to cover the tiger, which then turned out to be Grand Preceptor Le Van Thinh. The king thought Thinh was a high-ranking mandarin; whoever provided the king with help, so he did not have the heart to kill Thinh. Instead, Thinh was sent into exile in Thao Giang. Meanwhile, Muc Than was rewarded with the title as a mandarin together with money and land in Tay Ho for his landholding. Earlier, Van Thinh had a servant, who came from the Dali Kingdom and knew how to practise witchcraft; thus, Thinh intended to use the witchcraft to carry out an act of treachery [10, p.283].
”The part talking about Tran Thu Do in “Complete Annals of Dai Viet” is as follows:
– “Year of Fire Dog (Vietnamese: Bính Tuất) – the second year of Kien Trung dynastic title [1226], (the second year under the reign of Baoqing Emperor of Song). In autumn, on the 19th day of the eighth month of the lunar year, Tran Thu Do killed Ly Hue Tong in Chan Giao pagoda.The father of the Ly king said: “I will commit suicide, after reciting the Buddhist scriptures”. Afterwards, he came into the bedroom and prayed: “The country of our family has already fallen into your hands, but you are still determined to kill me. I am dying today, but your children will have the same destiny in future”. Then, he garrotted himself in the backyard of the pagoda.Thu Do ordered royal mandarins to come and cry for the father of the king. A part of the southern wall of the citadel was broken to make a hole (called “borne gate” at that time), through which the coffin containing the dead body of the king’s father was moved to Yen Hoa ward for cremation. The ash and bones were then kept in Bao Quang stupa with the posthumous title of “Hue Tong”. The queen of Hue Tong was demoted to the title of “Princess Thien Cuc” and married to Tran Thu Do; she was provided with the Lang prefecture as her landholding…”- “Year of Water Dragon (Vietnamese: Nhâm Thìn), [Kien Trung] the eighth year [1232], (From the seventh month of the lunar year, it was the first year under the reign of Thien Ung Chinh Binh; i.e. the fifth year under the reign of Shaoding emperor of Song)…Tran Thu Do killed all the Ly family members. After Thu Do kept the dictatorship for a long time, he killed Hue Tong, making the Ly family members feel melancholic and disappointed. In winter of the same year, the Ly family members carried out worship of the Ly kings in Thai Duong, Hoa Lam. They then had a meal on the floor, under which a deep hole was dug beforehand according to the order of Thu Do. When the Ly family members got drunk, Thu Do made the floor collapse, and they all were, consequently, buried alive. (Seeing that under the reign of Tran Anh Tong, a military general was a member of the Ly family; moreover, it was not mentioned by [Phan] Phu Tien, this story might not be true. It was just temporarily written here) [11, p.8]…”Herein, the following is a part talking about Tran Quoc Tuan in “Complete Annals of Dai Viet”:- “Year of Metal Pig (Vietnamese: Tân Hợi), [Thien Ung Chinh Binh] the 20th year [1251], (From the second month of the lunar year, it was the first year of the Nguyen Phong dynastic title; i.e. the 11th year under the reign of Chunyou emperor of Song or the first year under the reign of Mongke Khan)…The eldest princess Thien Thanh was arranged to get married to the Prince Trung Thanh (his real name still remains unknown). However, Quoc Tuan as a son of Prince Yen Sinh abducted her, and she then got married to Quoc Tuan. On the 15th day of the month, the king held a 7-day ceremony, where marriage-related pictures were displayed, and many games were organised so that members of the royal court and other people could come to see. The king showed his intention of marrying Princess Thien Thanh to the prince Trung Thanh. Earlier, the king sent the princess to the palace of Prince Nhan Dao, who was the father of Trung Thanh. Quoc Tuan wanted to get married to Princess Thien Thanh, but he was not allowed by the king. Thus, at night, he sneaked into the sleeping place of the princess and committed fornication.Princess Thuy Ba (the older sister of Thai Tong and the aunt of Quoc Tuan), who adopted Quoc Tuan, immediately came to the palace of the king. The doorkeeper quickly rushed and reported it to the king. When the king asked her what happened, she replied: “Unexpectedly, Quoc Tuan was so extravagant and wicked that he sneaked into the sleeping place of Thien Thanh at night. He was arrested and is now kept by Nhan Dao. I am afraid he will be harmed. Your Majesty, please condescend to send people to rescue him”. The king, in a hurry, ordered his old woman to come to the palace of Prince Nhan Dao. When she came there, it was completely quiet. Thus, she came into the sleeping place of Thien Thanh and saw Quoc Tuan staying there. Only by that time did Nhan Dao realise the fact. Next day, Thuy Ba offered 10 trays of gold to the king, submitted a proposal for Quoc Tuan’s marriage with the princess, and said: “As being in an awful hurry, we have not prepared all betrothal gifts”. The king reluctantly agreed to marry Princess Thien Thanh to Quoc Tuan, while giving 2,000 plots of land in Ung Thien prefecture to Prince Trung Thanh as a compensation for his betrothal gifts [11, p.14]”.Based on the above-mentioned historical data, the writers who want to create literary works on historical topics can further explore the personalities, skills, and capacities as well as the psychology of their own characters in the context and specific situations under the feudal regimes, avoiding the modernised writing style and a biased exaggeration. This is, certainly, neither “a desacralisation” nor “an idol dethronement”, but it aims at creating lively historical characters, while ensuring the values of the true, the good, and the beautiful as well as dealing with the relationships between the lofty and the common, the mighty and the tragic, the heroes and the artists, the extraordinary and the ordinary, the community and individuals… Based on the life of historical figures such as Nguyen Trai, Nguyen Thi Lo, Nguyen Hue, Nguyen Du, Nguyen Anh, Ho Xuan Huong, Hoang Hoa Tham, Tu Xuong, and Nguyen Thai Hoc, short stories were created by Nguyen Huy Thiep with impressive and profound artistic figures, which attract readers to the historical portraits and realities in the past.
5. Open conclusion
Reviewing Nguyen Huy Thiep’s literary works on historical topics from the perspectives of theories, historical nature, and experience, I would like to emphasise the three following points:
Firstly, it is necessary to put our trust in the writers as well as the readers of literary works on historical topics. It is nonsensical to accuse literary talents and readers of making mistakes and scheming to carry out “idol dethronement”. The goodwill will make those, who work in the same field, not exaggerate the viewpoint or put a label on the works. They, therefore, can have discussions for the purpose of finding out the most appropriate explanations.
Secondly, it is necessary to place the literary works on historical topics created by Nguyen Huy Thiep and other contemporary writers in the general current of the artistic and literary works on historical topics, at least from the perspective of the modern literary achievements and the literature written in the Vietnamese alphabet from the beginning of the 20th century up to now.
Thirdly, for ongoing controversial issues, it is necessary to have real democratic and just discussions without concealing or subsidising the truth deliberately. With a long-term vision, we need to organise many seminars, workshops, conferences, and in-depth surveys on the literary works on historical topics for specific periods, genres, authors and works. To have a progressive mechanism for administering artistic and literary activities (including also the orientations for literary and artistic creations on historical topics), it is always essential to rely on knowledge, paving the way for creation and development.
Notes
2 The paper was published in Vietnamese in Nghiên cứu Văn học, số 3-2018. Translated by Nguyen Tuan Sinh. Edited by Etienne Mahler.References
[1] Lại Nguyên Ân (2001), “Đọc văn phải khác với đọc sử”, trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Nxb Văn hoá – Thông tin, Hà Nội, tr.179-187. [Lai Nguyen An (2001), “Reading Literary Works Should be Different from Reading Historical Records”, in Pham Xuan Nguyen’s publication (collected and edited) (2001), “Quest for Nguyen Huy Thiep”. Culture and Information Publishing House, Hanoi, pp.179-187].[2] T.N. Filimonova (1993), Lịch sử Việt Nam qua truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Việt Nam truyền thống, Moskva; in lại trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Sđd, tr.342-354. [T.N. Filimonova (1993), Vietnam’s History in Nguyen Huy Thiep’s Short Stories. Traditional Vietnam, Moscow; reprinted in Pham Xuan Nguyen’s publication (collected and edited) (2001), “Quest for Nguyen Huy Thiep”. Op.cit. pp.342-354].[3] Hoàng Ngọc Hiến (2001), Tư duy tiểu thuyết và follklore hiện đại (Nhân đọc mấy truyện lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp); trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Sđd, tr.355-366. [Hoang Ngoc Hien (2001), Thinking of Novels and Modern Folklore (On the Occasion of Reading Some Nguyen Huy Thiep’s Historical Tales); in Pham Xuan Nguyen’s publication (collected and edited) (2001), “Quest for Nguyen Huy Thiep”. Op.cit. pp. 355-366].[4] Thái Hòa (1989), Có nghệ thuật ba-rốc trong các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp hay không? Tạp chí Văn học, số 2, tr.84-91, 107. [Thai Hoa (1989), Is Baroque Art Found in Nguyen Huy Thiep’s Short Stories? Review “Literature”, No. 2, pp.84-91, 107].[5] Trúc Khê (1941), Đừng lầm lẫn truyện ký là sử ký, đừng lẩn thẩn gọi tôi là sử gia. Nước Nam, số 124, ra ngày 13-9-1941, tr.1. [Truc Khe (1941), Do Not Mistake Narrative Stories for Historical Records; Do Not Be Foolish to Call Me a Historian. Newspaper “Nuoc Nam”, No. 124, on 13 Sept. 1941, p.1].[6] Tạ Ngọc Liễn (1988), Về truyện ngắn Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp. Văn nghệ, số 26, ngày 26-6-1988, tr.10. [Ta Ngoc Lien (1988), On the Short Story “Fired Gold” by Nguyen Huy Thiep. Newspaper “Literature and Arts”, No. 26, on 26 June 1988, p.10].[7] Tạ Ngọc Liễn (1988), Về mối quan hệ giữa sử và văn. Nhân dân, số 12464, ngày 28-8-1988, tr.4. [Ta Ngoc Lien (1988), On the Relations between History and Literature, Nhan Dan (People) Newspaper, No. 12464, on 28 August 1988, p.4].[8] Nguyễn Văn Linh (1988), Bài nói chuyện của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh trong cuộc gặp gỡ văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hóa (7 tháng 10 năm 1987). Tạp chí Văn học, số 1, tr.11-16. [Nguyen Van Linh (1988), General Secretary Nguyen Van Linh’s Speech at the Meeting with Artists, Writers, and Cultural Practitioners (on 7 October 1987). Review “Literature”, No. 1, pp.11-16].[9] Greg Lockhart (1989), Tại sao tôi dịch truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ra tiếng Anh? Tạp chí Văn học, số 4, tr.49-53. [Greg Lockhart (1989), Why Did I Translate Nguyen Huy Thiep’s Short Stories into English? Review “Literature”, No. 4, pp.49-53].[10] Nhiều tác giả (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập I (Ngô Đức Thọ dịch, chú). Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.283. [Many authors (1998), Complete Annals of Dai Viet, Vol. I (translated and annotated by Ngo Duc Tho). Social Sciences Publishing House, Hanoi, p.283].[11] Nhiều tác giả (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II (Ngô Đức Thọ dịch, chú). Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.8, 14. [Many authors (1998), Complete Annals of Dai Viet, Vol. II (translated and annotated by Ngo Duc Tho). Social Sciences Publishing House, Hanoi, pp. 8, 14]. [12] Evelipe Pieller (2000), Lời giới thiệu hai tập truyện ngắn của Nguyễn huy Thiệp: Trái tim hổ và Tướng về hưu, xuất bản tại Pháp. La Quinzaine Literaire, ngày 31-3; in lại trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Sđd, tr.152-153. [Evelipe Pieller (2000), Introduction of Two Nguyen Huy Thiep’s Short Stories: “Tiger Heart” and “Retired General” published in France. La Quinzaine Literaire, on 31 March; reprinted in Pham Xuan Nguyen’s publication (collected and edited) (2001), Quest for Nguyen Huy Thiep, op.cit. pp. 152-153].[13] Trương Hồng Quang – Nguyễn Mai Xuân (1989), Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp – “triết học lịch sử” hay là “văn xuôi nghệ thuật”? Tạp chí Văn học, số 2, tr.74-83. [Truong Hong Quang – Nguyen Mai Xuan (1989), Nguyen Huy Thiep’s “Fired Gold”: “Historical Philosophy” or “Artistic Prose”, Review “Literature”, No. 2, pp.74-83].[14] Sean Tamis Rose (2000), Trái tim Thiệp. Libération, ngày 18-5; in lại trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Sđd, tr.497-500. [Sean Tamis Rose (2000), Thiep’s Heart. Libération, on 18 May; reprinted in Pham Xuan Nguyen’s publication (collected and edited) (2001), Quest for Nguyen Huy Thiep, op.cit. pp.497-500].[15] Nguyễn Hữu Sơn (2000), Sáng tác về đề tài lịch sử, trong sách Điểm tựa phê bình văn học. Nxb Lao động, Hà Nội, tr.42-49. [Nguyen Huu Son (2000), Literary Works on Historical Topics, in the publication “Fulcrum for Literary Criticism. Labour Publishing House, Hanoi, pp.42-49].[16] Nguyễn Hữu Sơn (2009), Văn xuôi Trương Tửu trước Cách mạng tháng Tám 1945, trong sách Trương Tửu – Tuyển tập văn xuôi. Nxb Lao động, Hà Nội, tr.5-21. [Nguyen Huu Son (2009), Truong Tuu’s Prose before the August Revolution of 1945, in the book “Truong Tuu: Prose Collection”. Labour Publishing House, Hanoi, pp.5-21]. [17] TchyA (1953), Kho vàng Sầm Sơn. Tái bản. Nxb Nam Cường, Sài Gòn. [TchyA (1953), Wreck of Gold in Sam Son. Reprinted. Nam Cuong Publishers, Saigon].[18] Nguyễn Huy Thiệp (2001), Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (Anh Trúc tuyển chọn). Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 388 trang. [Nguyen Huy Thiep (2001), Collection of Nguyen Huy Thiep’s Short Stories (collected by Anh Truc). Women’s Publishing House, Hanoi, 388 pages]. [19] Vương Anh Tuấn (1989), Lịch sử trong quan niệm của Nguyễn Huy Thiệp. Tạp chí Văn học, số 3, tr.37-42. [Vuong Anh Tuan (1989), History in Nguyen Huy Thiep’s Conception. Review “Literature”, No. 3, pp.37-42]. [20] Mai Viên (1942), Tráng sĩ Bồ Đề. Nxb Hàn Thuyên, Hà Nội. In lại trong sách Trương Tửu – Tuyển tập văn xuôi (Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm, biên soạn). Nxb Lao động, Hà Nội, 2009, tr.597-751. [Mai Vien (1942), Man of Vigour in Bo De. Han Thuyen Publishing House, Hanoi. Reprinted in the book “Truong Tuu: Prose Collection” (collected and edited by Nguyen Huu Son) . Labour Publishing House, Hanoi, 2009, pp.597-751]. [21] Mai Viên (1942), Năm chàng hiệp sĩ. Nxb Hàn Thuyên, Hà Nội. In lại trong sách Trương Tửu – Tuyển tập văn xuôi. Sđd, tr.753-885. [Mai Vien (1942), Five Knights. Han Thuyen Publishing House, Hanoi. Reprinted in the book “Truong Tuu: Prose Collection”, op.cit., pp. 753-885] (PHOTO, 2011)
Tưởng nhớ NGUYỄN HUY THIỆP – Nhà văn Anh hùng thời Đổi mới (1950-2021)…
NHẬN DIỆN NHỮNG SÁNG TÁC VỀ ĐỀ TÀI LỊCH SỬ CỦA NGUYỄN HUY THIỆP PGS. TS. NGUYỄN HỮU SƠN (Viện Văn học)
Nguồn: Assessment of Nguyen Huy Thiep’s Works on Historical Topics. Vietnam social sciences, No3 (191)-2019, tr.80-92.
Tóm tắt:
Đánh giá sáng tác về đề tài lịch sử của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp là một vấn đề khó, không dễ thống nhất và làm thành thách thức, “phép thử” cho những quan niệm tư tưởng nghệ thuật và cách lý giải khác nhau. Tuy nhiên, không thể bỏ qua hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp một khi bàn đến chủ điểm “Sáng tạo văn học, nghệ thuật về đề tài lịch sử” từ thời Đổi mới đến nay. Về cơ bản, các sáng tác về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp có nhiều điểm tương đồng với tư duy nghệ thuật giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, đồng thời đã được cách tân, nâng cao và hiện đại hóa. Các tác phẩm này đã đi sâu khai thác, phản ánh số phận con người, dân tộc, thời đại, được công chúng bạn đọc ghi nhận, đánh giá cao, tái bản nhiều lần và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới… Từ khóa: Nguyễn Huy Thiệp, Đề tài lịch sử, Văn học thời Đổi mới
1. Mở đầu
Đi sâu khảo sát các sáng tác về đề tài lịch sử có thể nhận thấy những bước chuyển tiếp, giao thoa và phát triển đáng chú ý. Trước hết là số tác phẩm xuất hiện trong bối cảnh kháng chiến chống Pháp và Mỹ (1945-1975) thường được duy danh qua các phụ đề như “truyện danh nhân”, “danh nhân lịch sử”, “truyện lịch sử”, “truyện ký lịch sử”, “gương sáng ngàn năm”, “danh nhân quê hương”, “vì sao đất nước”… Những tác phẩm này thường lấy chính danh nhân làm đối tượng phản ánh, lấy tiểu sử và sự nghiệp làm cốt truyện và theo sát tính chính xác của các biến cố, sự kiện lịch sử, không tô vẽ, hư cấu quá xa thực tế. Tác giả của những thiên truyện này chủ yếu là các nhà khảo cứu văn hóa – lịch sử, nhà giáo am tường danh nhân (chẳng hạn, Hà Ân, Quỳnh Cư, Nguyễn Đức Hiền, Nguyên Hồng, Vũ Ngọc Khánh, Nguyễn Lộc, Bùi Văn Nguyên, Chu Thiên, Nguyễn Huy Tưởng, Thái Vũ… viết về các nhân vật lịch sử Lê Hoàn, Lý Anh Tông, Trần Hưng Đạo, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Toản, Liễu Hạnh, Nguyễn Trãi, Nguyễn Chích, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Quang Trung, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Quận He Nguyễn Hữu Cầu, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám…). Phần chủ yếu nằm ở trung tâm dòng chảy đề tài lịch sử in đậm vai trò chủ thể sáng tạo ở các tác phẩm sáng tác từ thời kỳ Đổi mới (1986) được định vị qua hệ thống các thể loại như tiểu thuyết, truyện ngắn (Chẳng hạn, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Xuân Khánh, Hoàng Quốc Hải, Ngô Văn Phú, Nguyễn Khắc Phục, Hoài Anh, Nguyễn Quang Thân, Lưu Sơn Minh…), kịch lịch sử (Chẳng hạn, Nguyễn Đình Thi, Lê Duy Hạnh và liên hệ với Hội diễn Chèo toàn quốc năm 2009 tổ chức tại thành phố Hạ Long có 12/19 vở hướng về các đề tài lịch sử, danh nhân, anh hùng chiến trận…). Trên thực tế, các sáng tác về đề tài lịch sử trong nước và trên thế giới cũng không hiếm các trường hợp gây nên những cuộc bàn cãi và cảm ứng tiếp nhận khác nhau. (Đơn cử về Thái hậu Dương Vân Nga (thế kỷ X) được coi là “bất chính” hay “nhân văn”, “đại nghĩa”? Nhân vật Janđa trong lịch sử Pháp (thế kỷ XV) được nhìn nhận là “tà đạo”, “quỷ nữ” hay là “thánh nữ”, “anh hùng giải phóng dân tộc”?…). Rõ ràng “số phận lịch sử” của kiểu sáng tác lịch sử này cần được xem xét một cách nghiêm túc trên tất cả các phương diện tâm lý sáng tạo nghệ thuật, biên giới của tưởng tượng, tâm lý tiếp nhận và khả năng phát triển của đề tài – thể tài để giúp ích cho định hướng nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn về quá khứ lịch sử và dân tộc [15, tr.42-49]…
2. Sáng tác về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp trong dòng chảy văn học thời Đổi mới.
Bàn về đề tài/ chủ đề/ thể tài lịch sử, trước hết có lẽ cần khu biệt kiểu sáng tác mà nhân vật và sự kiện lịch sử dường như chỉ là cái cớ để tác giả tưởng tượng, hư cấu một cốt truyện hoàn toàn khác; thay vì mô tả hiện thực sự thật là một hiện thực nghệ thuật giả định, thay vì nhận thức kinh nghiệm lịch sử là tâm tưởng bổ sung một cách hình dung mới về nhân vật và diện mạo lịch sử. Đây là trường hợp các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp được gợi tứ từ các nhân vật lịch sử như Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ, Nguyễn Huệ, Nguyễn Du, Nguyễn Ánh, Hồ Xuân Hương, Hoàng Hoa Thám, Tú Xương, Nguyễn Thái Học… đã tạo nên những luồng dư luận khác nhau sôi nổi một thời.Bàn đến sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp về đề tài lịch sử là một vấn đề khó, phức tạp, không dễ thống nhất và làm thành một thách thức, một “phép thử” cho những quan niệm tư tưởng nghệ thuật và cách lý giải khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế không thể bỏ qua hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp một khi bàn đến chủ điểm “Sáng tạo văn học, nghệ thuật về đề tài lịch sử” từ thời Đổi mới đến nay.Có thể nói hầu hết các tác phẩm viết về đề tài lịch sử liên quan đến các danh nhân nói trên của Nguyễn Huy Thiệp đều được lược qui về kiểu truyện “giả lịch sử”, “phỏng lịch sử”, “nhại lịch sử”… Dù mức độ đậm nhạt có khác nhau nhưng nhìn chung hiện thực lịch sử chủ yếu là cái cớ để Nguyễn Huy Thiệp sáng tạo nên những cốt truyện mới, những hoàn cảnh mới và những tính cách nhân vật kiểu mới. Nhà văn dẫn dắt độc giả đến với những số phận, cảnh đời, sự kiện, tình tiết, không gian, thời gian khác lạ, không hề có trong chính sử, tạo nên một hiện thực lịch sử nào khác và khiến bạn đọc phải băn khoăn với những trang hiện thực lịch sử giả tưởng ấy. Điều này khiến độc giả – cụ thể và chuyên nghiệp hơn là giới phê bình – buộc phải bày tỏ thái độ, phân chia chiến tuyến, trình diễn những cách tiếp nhận riêng tùy theo sở học và quán tính văn hóa của mình. Vào năm 1988, khi Nguyễn Huy Thiệp in các truyện ngắn Kiếm sắc, Vàng lửa và Phẩm tiết trên báo Văn nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam), ngay sau đó đã xuất hiện nhiều ý kiến phản bác mạnh mẽ. Căn nguyên của sự phản bác này có hai lý do mà tự nhà phê bình cũng đã thừa nhận một cách không tự giác. Thứ nhất, ý kiến nhà sử học Tạ Ngọc Liễn cho rằng: “Vàng lửa là một truyện ký danh nhân, lịch sử” (điều này thể hiện là một sai lầm trong nhận thức về bản chất thể loại) và dẫn đến lối mòn tiếp nhận thực dụng, đòi hỏi nhà văn phải trả lời câu hỏi theo lối minh họa, hiển ngôn: “Điều người đọc quan tâm chủ yếu là qua hình tượng, ngôn ngữ nghệ thuật, họ muốn biết nhà văn nói gì, giải quyết vấn đề gì, những cái đó có phản ánh đúng bản chất lịch sử hay không, có đem lại cho họ những xúc động sâu xa không?” [6, tr.10]; thứ hai, khẳng định cách nhìn, suy nghĩ, tập giảng theo lối mòn, “bắt vít” vào những định đề xưa cũ: “Theo quan niệm của chúng ta từ trước tới nay…” (điều này khiến cho bản thân nhà phê bình không biết “tự cởi trói”, không mở đường tiếp cận được với cái mới và cản trở sự phát triển của tư duy sáng tạo nghệ thuật) [7, tr.4]… Đặt trong tương quan chung, xem ra người làm phê bình lại chưa theo kịp những định hướng đổi mới của đời sống văn nghệ. Bởi lẽ từ một năm trước đó, trong quá trình khởi động và phát triển đường lối văn nghệ, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã nắm bắt thực tế tình hình văn nghệ đất nước, dành ra hai ngày tham dự hội thảo (ngày 6, 7 tháng 10-1987) và có bài nói chuyện quan trọng trong cuộc gặp gỡ văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hóa. Mặc dù đối tượng chủ yếu ở đây là các nhà quản lý và hướng đến hoạt động sáng tác nhưng tinh thần chung hoàn toàn có tác động trực tiếp và sâu sắc đến đội ngũ các nhà nghiên cứu, phê bình văn học: “Các đồng chí có nói nhiều đến sự “cởi trói”. Có như vậy mới phát huy được hết khả năng trong lĩnh vực của các đồng chí. “Cởi trói” như thế nào? “Cởi trói” nói ở đây trước hết tôi nghĩ rằng Đảng phải cởi trói. Cởi trói trong lĩnh vực tổ chức, chính sách, trong các quy chế, chế độ”; đồng thời nhấn mạnh sự thay đổi từ quan niệm, cơ chế, đường lối đến việc phát huy tinh thần tự chủ vốn được coi là bản chất và phẩm chất, bản lĩnh của người hoạt động trên lĩnh vực văn hóa văn nghệ: “Một mặt khác, tôi nghĩ, trong lĩnh vực của các đồng chí, không thể có ai khác hơn là các đồng chí phải tự làm” [8, tr.11-16]…
Về cơ bản, tôi cho rằng những sáng tác về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp rất mới nếu so với kiểu sáng tác “truyện ký danh nhân”, “truyện lịch sử” thiên về định hướng tuyên truyền trong bối cảnh đặc thù thời chiến tranh, cả dân tộc dồn toàn bộ tâm sức cho nhiệm vụ cứu nước (1945-1975) nhưng lại là không mới (đúng hơn là sự trở lại, tiếp nối phương thức nghệ thuật thể hiện đề tài lịch sử giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX). Đương nhiên thời Pháp thuộc vẫn có chế độ kiểm duyệt (có sách bị tịch thu hoặc bài báo bị cắt, phải bỏ trắng cả trang) nhưng được thực hiện công khai, có người chịu trách nhiệm và được đảm bảo bằng những qui phạm pháp luật. Một thời không có ai trói ai và cũng không ai nghĩ đến chuyện “cởi trói”, “tự cởi trói” nên nhà văn cứ hồn nhiên cảm nhận, suy tư, chiêm nghiệm, thử nghiệm, tái tạo lịch sử bằng sáng tạo nghệ thuật. Điều này được đảm bảo bằng nhiều tiểu thuyết lịch sử Pháp và phương Tây được dịch, giới thiệu khá rộng rãi ở Việt Nam. Có thể nói nhận thức về các loại hình, thể loại và tính mục đích của sự tiêu dùng nghệ thuật đã trở thành kiến thức tương đối phổ thông. Từ tám mươi năm trước, nhà văn, nhà khảo cứu Trúc Khê (1901-1947) trong bài viết Đừng lầm lẫn truyện ký là sử ký, đừng lẩn thẩn gọi tôi là sử gia từng lên tiếng phân biệt văn gia với sử gia, truyện ký với sử ký, xác định sự hình thành “tư trào văn học ở bên ngoài gần đây, có sự đổi thay, đã có nhiều nhà văn sĩ viết những truyện ký bằng lối tiểu thuyết hóa” và đi đến khẳng định: “Những quyển truyện ký này, tuy những cái chi tiết vụn vặt, họ viết bằng sự tưởng tượng ra, nhưng tưởng cũng không hại gì, mà một mặt nữa, nó đã có được cái hiệu quả là làm cho nhiều người vui đọc để biết rộng chuyện sử. Vậy thì, trong cõi văn học của ta, cũng không nên thiếu loại sách ấy” [5, tr.1]… Thế cho nên Nguyễn Tử Siêu (1898-1965) viết Đỉnh núi cành mai, Tiếng sấm đêm đông, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Trần Nguyên chiến kỷ, Việt Thanh chiến sử; Ngô Đình Chiến (?) viết Người đương đầu với vua Gia Long khai sáng nhà Nguyễn: Nguyễn Huệ (Hà thành ngọ báo, 26 kỳ, 1935); Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm (1902-1977) viết Quang Trung (in báo Nước Nam, 1939-1940; in sách, 1944); TchyA Đái Đức Tuấn (1908-1969) viết Kho vàng Sầm Sơn; Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960) viết Đêm hội Long Trì, Vũ Như Tô, Cột đồng Mã Viện, An Tư công chúa; Trương Tửu (1913-1999) viết Tráng sĩ Bồ Đề, Năm chàng hiệp sĩ, v.v… đều mở rộng trí tưởng tượng, tạo lập được nhiều cốt truyện và nhân vật ly kỳ, sinh động, khác biệt rất nhiều so với chính sử. Có thể nói ý thức yêu nước, tinh thần phục hưng dân tộc, khai phóng xã hội và dân chủ trong hoạt động báo chí, xuất bản đã hợp lực tạo nên mùa bội thu sáng tác về đề tài lịch sử dưới thời thực dân nửa phong kiến trong quá khứ.
3. Sáng tác về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp nhìn từ kinh nghiệm văn chương nửa đầu thế kỷ XX.
Tôi xác định những sáng tác về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp không mới khi đặt trong tương quan với những sáng tạo cùng kiểu thức trong văn học giai đoạn 1932-1945. Chẳng hạn, Nguyễn Huy Thiệp có lối mở đầu và kết thúc “bịa như thật”, nói rằng mình đã được nghe kể, chứng kiến, có nhân chứng, vật chứng trong hầu hết các truyện,… khiến có người nhầm tưởng đây là những cứ liệu lịch sử thì
TchyA Đái Đức Tuấn trong Kho vàng Sầm Sơn (1940) cũng có Lời nói đầu giăng mắc giữa thực và ảo, giữa tiếng nói người kể chuyện và kỹ xảo của nhà tiểu thuyết:“Vào khoảng năm 1934, ở bãi Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, phía Bắc Trung Kỳ, nhà nước có khám phá được một kho vàng chìm đắm dưới đáy bể. Khi tải sản nghiệp lớn ấy lên mặt đất người ta thấy có mấy trăm thoi vừa vàng vừa bạc, hình chữ nhật, dài độ gang tay, trên thoi nào cũng có khắc dấu chữ ĐỨC. Lại thấy rất nhiều tiền Cảnh Hưng và các thứ tiền Tàu, từ đời Vạn Lịch (Minh Thần Tôn) cho đến đời Càn Long (Thanh Cao Tôn)…
Xét trong lịch sử, kho vàng bạc kia ắt phải thuộc về đời Lê mạt. Nếu trong thời Lê Quý, sản nghiệp đó không phải của hai anh em Tây Sơn, thì chỉ còn là của Hữu Quân đô đốc Nguyễn Hữu Chỉnh.… Chỉnh bị Nguyễn Nhạc, theo lời gièm pha của rể là Võ Văn Nhậm, bỏ một mình ở lại Bắc Hà, nên ngày hôm sau sợ quá, cho cả của cải lên thuyền, chạy theo về Nghệ. Chỉnh là người có mưu trí, không bao giờ đem vàng bạc ở bên người, phần sợ thuyền nặng khó đi nhanh, phần sợ bị cướp hại đến mạng. Thế tất Chỉnh phải giao tài sản cho con trông coi hộ, mình thì cưỡi thuyền nhẹ theo Nhạc về cho mau.Cứ xem như thế, kho vàng kia tất là của Nguyễn Hữu Chỉnh.
Dựa vào lời phỏng đoán có nhiều phần đúng sự thật ấy, tôi viết bộ truyện ly kỳ này, một là để tưởng nhớ lại một thời oanh liệt đã qua, hai là để hiến các bạn một thể truyện lịch sử mới.Câu chuyện này hoàn toàn là một truyện dã sử, nhưng nó có liên lạc mật thiết với chính sử nước nhà. Có lắm đoạn, tôi phải chép gần đúng văn của ông Trần Trọng Kim nhà làm sử cương trực và uyên bác đã soạn ra bộ Việt Nam sử lược.Những vật liệu tôi góp nhặt để xây đắp câu chuyện “kho vàng” này, nó không đúng hẳn với các việc chép trong chính sử đâu; song le, dù nó đúng hay không đúng, tôi cũng không quản ngại: tôi chỉ muốn dựa vào lịch sử để tạo ra một tiểu thuyết, có phải muốn dùng tiểu thuyết ấy để làm sống một thời lịch sử đâu?
Các bạn đọc truyện này hãy nên lượng cho tôi chỗ đó. Cái cốt truyện hay, giãi bằng một thể văn không tẻ, đó là sở nguyện của tôi. Nếu bạn cho là tôi đã đạt được mục đích ấy, tôi lấy làm sung sướng lắm rồi. Một nhà văn còn đâu dám tự phụ mình cũng là một sử gia uyên bác?”, và có thêm phần lạc khoản: “Ngày mùng hai tháng tư năm Bính Dần – TCHYA” (NHS nhấn mạnh) [17, tr.V-VII…
Ở đây TchyA cũng xây dựng nhân vật Bắc Bình vương Nguyễn Huệ như một kẻ nhẫn tâm, tiểu khí, tâm địa hẹp hòi, đố kỵ người tài:… “Đại đội hùng binh vừa tới nơi, vương truyền lịnh kéo thẳng đến hành doanh Võ Văn Nhậm, trói gô Nhậm lại giải ra chợ trảm quyết.Nhậm vừa lấy làm lạ, vừa kinh sợ, không hiểu vì lẽ gì chú vợ mình lại xử tệ với mình. Y lạy phục xuống thềm, khóc lóc kể lể nỗi oan ức và xin Nguyễn Huệ khoan dung cho. Bắc Bình vương chỉ lắc đầu, cười gằn, không nói gì cả, sai lính đưa ra cho Nhậm một mảnh giấy nhỏ, trên có đề mười hai chữ rõ rệt: “Bất tu đa ngôn; nhữ tài quá ngã, phi sở ngã dụng” (Chớ khá nhiều lời; tài mày hơn tao, tao không dùng được).Nhậm mượn đọc xong, không còn biết nói thế nào, chỉ kêu trời kêu đất, oán thán phận mình. Nhậm biết rằng Huệ đã truyền lệnh, có xin van cũng vô ích. Tài Huệ nào có kém Nhậm, nhưng Huệ nói thế, chỉ để có cớ giết Nhậm mà thôi. Một người hữu ý, một kẻ vô tình; ai tránh cho khỏi tai vạ mà tha nhân đã lập tâm gieo trên đầu mình một cách quá tự nhiên, vô lý?” [17, tr.135-136]
Về sau này, kể cả đến Nguyễn Huy Thiệp, không thấy ai gọi tên suồng sã “Nhậm, Nhậm, Huệ, Huệ…” giọng điệu tiểu thuyết như thế nữa! Điều này có lý bởi suốt thời Nguyễn, nhà Tây Sơn – Nguyễn Huệ luôn bị coi là “ngụy triều”, “ngụy tặc”, trong khi nhân dân vẫn ngưỡng vọng, tôn thờ Quang Trung là anh hùng dân tộc. Đặc biệt trong bối cảnh đầu thế kỷ XX đã diễn ra hiện tượng song hành: hình tượng Quang Trung vừa được tiểu thuyết hóa theo nhiều chiều kích khác nhau vừa vẫn được tổ chức kỷ niệm trọng thể trong cả nước; cả hai bổ sung cho nhau, không loại trừ nhau, đưa đến những cách lý giải và tôn vinh kiểu mới về Quang Trung – Nguyễn Huệ.
Với Nguyễn Huy Tưởng, nói riêng về đề tài lịch sử với những Đêm hội Long Trì, Vũ Như Tô, chưa thấy ai đi xa hơn ông trong việc sáng tạo nên cả một thế giới nhân vật, một bức tranh lịch sử mới, một hiện thực lịch sử mới khác rất xa chính sử và được ghi nhận sâu rộng ở các thời kỳ, các môi trường xã hội khác nhau.
Với Trương Tửu, ông có viết dã sử – giả sử, thường được gọi là “truyện dã sử” hay “tiểu thuyết dã sử”, “giả lịch sử”. Trong thực chất, cả hai tiểu thuyết Tráng sĩ Bồ Đề [20, tr.597-751] và Năm chàng hiệp sĩ [21, tr.753-885] (ký bút danh Mai Viên) đều thuộc dòng tiểu thuyết lịch sử, có thời gian, bối cảnh, sự kiện, có mối liên hệ với một vài nhân vật được ghi chép trong chính sử. Tiểu thuyết Tráng sĩ Bồ Đề (2 quyển, 14 chương) nương theo sự kiện Thập đạo tướng quân Lê Hoàn thay thế nhà Đinh vào giai đoạn cuối thế kỷ X. Tuy nhiên, hoạt động của các tráng sĩ Bồ Đề, Bạch Hạc và các cô Minh Tâm, Kim Chi trong đảng Từ Bi đối lập với đảng Thập Đạo nơi kinh thành cho thấy màu sắc hiện đại hóa và dấu ấn ảnh hưởng không khí xã hội đương thời. Tiểu thuyết Năm chàng hiệp sĩ (2 quyển, 14 chương) lại lấy bối cảnh lịch sử xã hội thời Lý Anh Tông (1138-1175), xây dựng nhiều nhân vật đảng viên trung kiên của đảng Quần Anh đan xen những mối tình lãng mạn, những hoạt động do thám, thủ tiêu, lật đổ. Điều này khiến thiên tiểu thuyết gia tăng chất truyện trinh thám, cốt truyện vụ án, đường rừng, đưa lại sự hấp dẫn, ly kỳ, hồi hộp cho người đọc. Nhìn chung, cả hai thiên tiểu thuyết lịch sử này đều được “tiểu thuyết hóa” ở mức độ cao, hư cấu thêm nhiều nhân vật, sự kiện, chi tiết, tình tiết. Đây cũng chính là điều sở đắc của loại tiểu thuyết lịch sử (dã sử) của Trương Tửu trong dòng tiểu thuyết lịch sử nói chung…
Đặt một sự so sánh nói trên để thấy rằng các nhà văn trước cách mạng tháng Tám 1945 khi sáng tác về đề tài lịch sử có thiên hướng phát triển tư duy tiểu thuyết chứ không chỉ dừng lại ở mức viết phác thảo chân dung “danh nhân quê hương”, “những vì sao đất nước”, “truyện ký danh nhân, lịch sử”; theo đó, họ hướng tới sáng tạo nên những thế giới nhân vật kiểu mới, đưa đến những cách hình dung mới về lịch sử và nhân vật lịch sử. Định hướng quan niệm nghệ thuật kiểu này cũng từng được Nguyễn Huy Thiệp đề cập đến và ký thác qua đoạn văn giả tưởng trong truyện ngắn Phẩm tiết: “Con gái ông Quách Ngọc Minh là Quách Thị Trình hỏi tôi có biết gì về người phụ nữ nằm trong ngôi mộ hay không? Tôi băn khoăn quá. Phải là người mơ mộng và nghiêm khắc mới hiểu rằng biết hoặc không biết, đều chỉ là những ước lệ mơ hồ, có tính lịch sử và hạn chế” [18, tr.242]… Với bộ ba truyện ngắn lịch sử Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Nguyễn Huy Thiệp đã mê hoặc người đọc, đưa đến những cách cảm nhận mới, thị hiếu mới, quan niệm mới về văn chương, khả năng hư cấu của văn chương và mối quan hệ diễn ngôn văn chương với bài học kinh nghiệm lịch sử. Chính nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã góp phần đổi mới, nâng tầm văn học dân tộc, đưa văn học Việt Nam hội nhập với nền văn học khu vực châu Á và thế giới hiện đại. Nói riêng các sáng tác về đề tài lịch sử đã được các nhà Việt học ghi nhận, đánh giá cao. Nhà nghiên cứu Greg Lockhart (Austrlia) nhấn mạnh năng lực sáng tạo của Nguyễn Huy Thiệp ở những khắc khoải về tiến bộ, nhân bản và “là một tác giả Việt Nam có tài năng ngang tầm với những nhà văn xuất sắc quốc tế” [9, tr.115]; nhà báo Evelipe Pieller (Pháp) xác định khả năng phản ánh “cuộc sống kỳ lạ của những người bình thường” [12, tr.152]; nhà bình luận sách Sean Tamis Rose (Pháp) khẳng định “đối với ông, đấy là sự nhắc nhở trách nhiệm của nhân loại theo cách contraria (tương phản)” [14, tr.497]; nhà nghiên cứu T.N. Filimonova (Nga) ghi nhận “nhà văn đã đưa ra ba cái nhìn về lịch sử Việt Nam, ba cách tiếp cận, đánh giá khác nhau” [2, tr.353]…; trong khi giới nghiên cứu Việt Nam cũng nâng tầm năng lực tiếp nhận trước một hiện tượng văn học mới mẻ, khác biệt, từ đó đề xuất những phương hướng tiếp cận, lý giải thực sự khoa học: “Đọc văn phải khác với đọc sử” (Lại Nguyên Ân) [1, tr.179-187]; “Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp – “triết học lịch sử” hay là “văn xuôi nghệ thuật”? (Trương Hồng Quang – Nguyễn Mai Xuân) [13, tr.207-230]; “Tư duy tiểu thuyết và follklore hiện đại” (Hoàng Ngọc Hiến) [3, tr.355-366]; “có một nghệ thuật (phong cách) ba-rốc trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp” (Thái Hòa) [4, tr.91] và khẳng định mạnh mẽ: “Xem xét các hiện tượng, sự kiện, nhân vật lịch sử trong cả những liên hệ phổ biến, thông thường, không cô lập, một chiều; thoát ra khỏi cách nhìn giáo điều, duy ý chí. Những “ngôi sao” lịch sử được kéo thấp xuống với nững suy tư, xử thế đời thường, rút ngắn khoảng cách giữa những thần tượng, những ông chủ của quá khứ với người hôm nay để họ chiêm nghiệm. Lịch sử không thể chỉ là những cái cao xa treo lơ lửng và trừu tượng trên đời” (Vương Anh Tuấn) [19, tr.337]… Điều này hoàn toàn phù hợp với tư duy sáng tạo nghệ thuật, tinh thần dân chủ trong phương thức và khoảng cách không gian ứng xử giữa nhà văn với nhân vật lịch sử ở trường hợp Nguyễn Huy Thiệp và văn học viết về đề tài lịch sử giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX như đã nêu trên.
4. Sáng tác về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp nhìn từ hiện thực lịch sử dân tộc
Trước lịch sử, nhà văn (kể cả nhà sử học) biết được mấy phần sự thật về một Lê Hoàn, Lê Văn Thịnh, Hồ Quý Ly, Trần Thủ Độ, Trần Hưng Đạo, Huyền Quang, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Hoàng Hoa Thám, Lê Hoan?… Nhà văn được phép hình dung bao nhiêu dáng vẻ chân dung về tài năng, nhân cách của họ? Điều quan trọng hơn, nhà văn cần chọn điểm nhìn nào để khai thác, sáng tạo, xây dựng nhân vật cho phù hợp với hiện thực cuộc sống và lịch sử dân tộc, hướng đến khẳng định những giá trị chân – thiện – mỹ và mở đường cho hoạt động sáng tạo nghệ thuật?…
Này đây, Đại Việt sử ký toàn thư ghi về Lê Văn Thịnh:- Bính Tý, [Hội Phong] năm thứ 5 [1096], (Tống Thiệu Thánh năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 3, Lê Văn Thịnh mưu làm phản, tha tội chết, an trí ở Thao Giang. Bấy giờ vua ra hồ Dâm Đàm, ngự trên thuyền nhỏ xem đánh cá. Chợt có mây mù nổi lên, trong đám mù nghe có tiếng thuyền bơi đến, tiếng mái chèo rào rào, vua lấy giáo ném. Chốc lát mây mù tan, thấy trong thuyền có con hổ, mọi người sợ tái mặt, nói: “Việc nguy rồi!”. Người đánh cá là Mạc Thận quăng lưới trùm lên con hổ, thì ra là Thái sư Lê Văn Thịnh. Vua nghĩ Thịnh là đại thần có công giúp đỡ, không nỡ giết, đày lên trại đầu Thao Giang. Thưởng cho Mục Thận quan chức và tiền của, lại cho đất ở Tây Hồ làm thực ấp. Trước đấy Văn Thịnh có gia nô người nước Đại Lý có phép thuật kỳ lạ, cho nên mượn thuật ấy toan làm chuyện thí nghịch [10, tr.283]…
Này đây, Đại Việt sử ký toàn thư ghi về Trần Thủ Độ:- Bính Tuất, [Kiến Trung] năm thứ 2 [ 1226], (Tống Bảo Khánh năm thứ 2)… Mùa thu, tháng 8, ngày mồng 10, Trần Thủ Độ giết Lý Huệ Tông ở chùa Chân Giáo…… Thượng hoàng nhà Lý nói: “Ta tụng kinh xong sẽ tự tử”. Nói rồi vào buồng ngủ khấn rằng: “Thiên hạ nhà ta đã vào tay ngươi, ngươi lại còn giết ta, ngày nay ta chết, đến khi thác con cháu ngươi cũng sẽ bị như thế”. Bèn thắt cổ tự tử ở vườn sau chùa.Thủ Độ ra lệnh cho các quan đến khóc, khoét tường thành phía nam cửa (người bấy giờ gọi là “cửa khoét”), đưa linh cữu ra phường Yên Hoa để thiêu, chứa xương vào tháp chùa Bảo Quang, tôn miếu hiệu là Huệ Tông. Giáng hoàng hậu của Huệ Tông làm Thiên Cực công chúa, gả cho Trần Thủ Độ, cho châu Lạng làm ấp thang mộc…- Nhâm Thìn, [Kiến Trung] năm thứ 8 [1232], (Từ tháng 7 về sau là Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 1, Tống Thiệu Định năm thứ 5)…Trần Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý. Khi ấy, Thủ Độ chuyên chính lâu ngày, đã giết Huệ Tông, tôn thất nhà Lý đều bùi ngùi thất vọng. Mùa đông năm ấy, nhân người họ Lý làm lễ tế các vua Lý ở Thái Đường, Hoa Lâm, Thủ Độ ngầm đào hố sâu, làm nhà lên trên, đợi khi mọi người uống rượu say, giật máy chôn sống hết.(Xét thời Trần Anh Tông còn có người họ Lý làm tướng, hơn nữa [Phan] Phu Tiên không ghi lại, việc này chưa chắc đã có thực, hãy tạm chép vào đây) [11, tr.8]…
Này đây, Đại Việt sử ký toàn thư ghi về Trần Quốc Tuấn:- Tân Hợi, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 20 [1251], (Từ tháng 2 về sau là Nguyên Phong năm thứ 1, Tống Thuần Hựu năm thứ 11, Nguyên Hiến Tông Mông Kha năm thứ 1)…
Gả trưởng công chúa Thiên Thành cho Trung Thành Vương (không rõ tên). Con trai Yên Sinh Vương là Quốc Tuấn cướp lấy. Công chúa về với Quốc Tuấn. Ngày 15 tháng ấy, vua mở hội lớn 7 ngày đêm, bày các tranh về lễ kết tóc và nhiều trò chơi cho người trong triều ngoài nội đến xem, ý muốn cho công chúa Thiên Thành làm lễ kết tóc với Trung Thành Vương. Trước đó, vua cho công chúa Thiên Thành đến ở trong dinh Nhân Đạo Vương (Nhân Đạo Vương là cha Trung Thành Vương). Quốc Tuấn muốn lấy công chúa Thiên Thành, nhưng không làm thế nào được, mới nhân ban đêm lẻn vào chỗ ở của công chúa thông dâm với nàng.
Công chúa Thụy Bà (chị ruột của Thái Tông, cô của Quốc Tuấn, nuôi Quốc Tuấn làm con) liền đến gõ cửa điện cáo cấp. Người coi cửa vội vào tâu. Vua hỏi có việc gì, Thụy Bà trả lời: “Không ngờ Quốc Tuấn ngông cuồng càn rỡ, đang đêm lẻn vào chỗ Thiên Thành, Nhân Đạo đã bắt giữ hắn rồi, e sẽ bị hại, xin bệ hạ rủ lòng thương, sai người đến cứu”. Vua vội sai nội nhân đến dinh Nhân Đạo Vương. Đến nơi, thấy yên lặng, bèn vào chỗ Thiên Thành, thì thấy Quốc Tuấn đã ở đấy. Nhân Đạo bấy giờ mới biết chuyện. Hôm sau, Thụy Bà dâng 10 mâm vàng sống, tâu rằng: “Vì vội vàng nên không sắm được đủ lễ vật”. Vua bắt đắc dĩ phải gả công chúa Thiên Thành cho Quốc Tuấn, lấy 2000 khoảnh ruộng ở phủ Ứng Thiên để hoàn lại sính vật cho Trung Thành Vương [11, tr.14], v.v…
Trên cơ sở dữ liệu lịch sử đã nêu, nhà văn sáng tác về đề tài lịch sử hoàn toàn có thể đi sâu khai thác các khía cạnh tính cách, bản lĩnh, tâm lý nhân vật đặt trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể dưới thời phong kiến, tránh lối viết hiện đại hóa, tô màu một chiều. Điều này quyết không phải là sự “giải thiêng”, “hạ bệ thần tượng” mà chính là nhằm góp phần xây dựng các nhân vật lịch sử sinh động, đảm bảo các giá trị chân – thiện – mỹ, trong đó giải quyết tốt mối quan hệ giữa cái cao cả và thông tục, cái hùng và cái bi, anh hùng và nghệ sĩ, phi thường và đời thường, cộng đồng và cá nhân… Trường hợp các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp được gợi tứ từ các nhân vật lịch sử như Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ, Nguyễn Huệ, Nguyễn Du, Nguyễn Ánh, Hồ Xuân Hương, Hoàng Hoa Thám, Tú Xương, Nguyễn Thái Học chính là đã tạo nên những hình tượng nghệ thuật ấn tượng, sâu sắc, sinh động, góp phần khơi mở, hấp dẫn người đọc về chân dung nhân vật và hiện thực lịch sử trong quá khứ xa và gần.
5. Lời kết mở
Từ thực tế những tác phẩm viết về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp đặt trong tương quan điểm nhìn lý luận, bản chất lịch sử và bài học kinh nghiệm sáng tác, xin nhấn mạnh thêm ba nội dung sau.
Thứ nhất, cần phải có niềm tin vào người sáng tác và người đọc tác phẩm viết về đề tài lịch sử. Khó mà qui kết những tài năng văn chương và cả giới bạn đọc lại nhầm lẫn và mưu mô đi “lật đổ thần tượng” của dân tộc mình làm gì. Chỉ có sự thiện chí ấy mới giúp những người cùng chung đội ngũ không nâng quan điểm, không qui chụp và có thể cùng nhau bàn luận, ngõ hầu tìm đến những cách lý giải thỏa đáng.
Thứ hai, cần đặt những sáng tác về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp và nhiều tác giả đương đại khác trong dòng chảy kinh nghiệm sáng tạo văn học – nghệ thuật về đề tài lịch sử, chí ít là những thành tựu trong nền văn học hiện đại, nền văn học Quốc ngữ từ đầu thế kỷ XX đến nay.
Thứ ba, trước những vấn đề còn đương tranh luận, cần có những cuộc trao đổi thật sự dân chủ, bình đẳng, không bao biện, bao cấp chân lý. Trong một tầm nhìn xa, cần tổ chức nhiều những cuộc hội thảo, tọa đàm, thuyết trình, khảo sát chuyên sâu những sáng tác về đề tài lịch sử ở từng thời đại, từng giai đoạn, từng thể loại, từng tác giả và từng tác phẩm cụ thể. Một cơ chế tổ chức và quản lý văn nghệ tiến bộ (trong đó gồm cả việc định hướng những sáng tạo văn học, nghệ thuật về đề tài lịch sử) bao giờ cũng cần dựa trên nền tảng tri thức, mở đường cho sáng tạo và phát triển…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lại Nguyên Ân (2001), “Đọc văn phải khác với đọc sử”, trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Nxb. Văn hoá – Thông tin, Hà Nội, tr.179-187.
[2] T.N. Filimonova (1993), Lịch sử Việt Nam qua truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Việt Nam truyền thống, Moskva; in lại trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Sđd, tr.342-354.
[3] Hoàng Ngọc Hiến (2001), Tư duy tiểu thuyết và follklore hiện đại (Nhân đọc mấy truyện lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp); trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Sđd, tr.355-366.
[4] Thái Hòa (1989), Có nghệ thuật ba-rốc trong các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp hay không? Tạp chí Văn học, số 2, tr.84-91+107.
[5] Trúc Khê (1941), Đừng lầm lẫn truyện ký là sử ký, đừng lẩn thẩn gọi tôi là sử gia. Nước Nam, số 124, ra ngày 13-9-1941, tr.1.
[6] Tạ Ngọc Liễn (1988), Về truyện ngắn Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp. Văn nghệ, số 26, ngày 26-6, tr.10.
[7] Tạ Ngọc Liễn (1988), Về mối quan hệ giữa sử và văn. Nhân dân, số 12464, ngày 28-8, tr.4.
[8] Nguyễn Văn Linh (1988), Bài nói chuyện của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh trong cuộc gặp gỡ văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hóa (7 tháng 10 năm 1987). Tạp chí Văn học, số 1, tr.11-16.
[9] Greg Lockhart (1989), Tại sao tôi dịch truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ra tiếng Anh? Tạp chí Văn học, số 4, tr.49-53.
[10] Nhiều tác giả (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập I (Ngô Đức Thọ dịch, chú). Nxb. KHXH, Hà Nội, tr.283.
[11] Nhiều tác giả (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II (Ngô Đức Thọ dịch, chú). Nxb. KHXH, Hà Nội, tr.8, 14.
[12] Evelipe Pieller (2000), Lời giới thiệu hai tập truyện ngắn của Nguyễn huy Thiệp: Trái tim hổ và Tướng về hưu, xuất bản tại Pháp. La Quinzaine Literaire, ngày 31-3; in lại trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Sđd, tr.152-153.
[13] Trương Hồng Quang – Nguyễn Mai Xuân (1989), Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp – “triết học lịch sử” hay là “văn xuôi nghệ thuật”? Tạp chí Văn học, số 2, tr.74-83.
[14] Sean Tamis Rose (2000), Trái tim Thiệp. Libération, ngày 18-5; in lại trong sách Phạm Xuân Nguyên (Sưu tầm, biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Sđd, tr.497-500.
[15] Nguyễn Hữu Sơn (2000), Sáng tác về đề tài lịch sử, trong sách Điểm tựa phê bình văn học. Nxb. Lao động, Hà Nội, tr.42-49.
[16] Nguyễn Hữu Sơn (2009), Văn xuôi Trương Tửu trước cách mạng tháng Tám 1945, trong sách Trương Tửu – Tuyển tập văn xuôi. Nxb. Lao động, Hà Nội, tr.5-21.
[19] Vương Anh Tuấn (1989), Lịch sử trong quan niệm của Nguyễn Huy Thiệp. Tạp chí Văn học, số 3, tr.37-42.
[20] Mai Viên (1942), Tráng sĩ Bồ Đề. Nxb. Hàn Thuyên, Hà Nội. In lại trong sách Trương Tửu – Tuyển tập văn xuôi (Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm, biên soạn). Nxb. Lao động, Hà Nội, 2009, tr.597-751.
[21] Mai Viên (1942), Năm chàng hiệp sĩ. Nxb. Hàn Thuyên, Hà Nội. In lại trong sách Trương Tửu – Tuyển tập văn xuôi. Sđd, tr.753-885. PHỤ LỤC: Bên Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp – Viện Văn học, 2011.
Hay từ bài tuyển đầu tiên, Ánh Trăng khuya rọi khắp miền thế gian, Lạ thay thi tứ nồng nàn, Tình yêu cuộc sống muôn vàn yêu thương.
Câu thơ lắng đọng người hiền, Mạ ơi xúc động lời thương dặn dò, Cha tôi là một nhà Nho, Tìm về nguồn cội, Chớm thu … tuyệt vời !
Cội nguồn Lũng Động, Cổ Trai, Khí thiêng cõi Bắc nhớ nơi sinh thành, Vua Thái tổ Mạc Đăng Dung Hoàng chi dòng đích lưu cùng nước non.
Phố Cụt, Phố nối, Phố cong, Đi trong phố nhỏ một vòng nhân gian Rùa ơi tôn bậc trí nhân Để nền Văn hiến ngàn năm không nhòa.
Sáu mươi năm Mạ đi xa, Mạ ơi tiếng vọng không là niềm riêng.
Thời gian lắng đọng người hiền. Trăng khuya xế bóng, bình mình rạng ngời (*) Những chữ in đậm là tuyển chọn các bài tôi thích nhất trong tập thơ Theo dòng thời gian của nhà thơ Hoàng Gia Cương
Nhà thơ Hoàng Gia Cương có các tác phẩm chính: Thơ 1) Theo dòng thời gian Nxb Văn Học 2013; 2) Trãi nghiệm với thời gian Nxb Hội nhà văn 2010, 3) Cổ tích cho mai sau Nxb QĐND 2006. 4) Trong cõi vô biên Nxb Hội nhà văn 2005, 5) Lắng đọng Nxb Hội nhà văn, 2001, 7) Lặng lẽ thời gian, Nxb Thanh Niên 1997, 8) Truyện ký rãi rác nhiều năm. Tác phẩm thơ văn của Hoàng Gia Cương có mặt trên 30 tuyển tập, tập thơ văn in chung. Tôi không phải là người bình thơ, chỉ xin lưu đôi điều tâm đắc. Trước Mạc Gia Từ; Khoai. Ngọc trai bé ông tôi; Những bài thơ ám ảnh; Nhân hậu đời quên tuổi; Nhớ Ông Bà Cậu Mợ; Một gia đình yêu thương https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-gia-cuong-tho-hien/
Ở thôn Thanh Hà, xã Nam Sơn, huyện Sóc Sơn, Hà Nội có Mạc Gia Từ (còn gọi là đền Quan Quận) thờ 18 vị Quan Quận của Mạc Triều. Cạnh đó là đền Rõm được coi là ngôi đền thờ Mẫu và thờ quan quân nhà Mạc. Có thể coi nơi đây là quần thể di tích tâm linh thờ quan quân nhà Mạc trong cuộc dời đô sau khi Thăng Long thất thủ (1592). Chúng tôi đã từng nhiều lần về đây thắp hương tưởng niệm các bậc tiền nhân đã hy sinh vì Mạc tộc ( Hoàng GiaCương)..
Về làng ăn nửa rá khoai Ăn bay đĩa lạc, vơi nồi cá kho Chè xanh một ấm đứ đừ Nhâm nhi hương vị ngàn xưa đọng về!
Dặm đời phiêu bạt lê thê Cái gốc “quê Bọ” chẳng hề nhạt phai Ăn cơm mòn bát xứ người Vẫn chưa quên được vị khoai quê mình!
Khoai là “sâm” của Quảng Bình Nhờ khoai bám trụ mà thành “địa linh” Khoai làm đất đẹp người xinh Vì khoai nên nghĩa nên tình đằm sâu.
(Thơm bùi một miếng mời nhau Còn hơn “bát bảo” “trân châu” đãi đằng!) Đâu còn đói kém thiếu ăn? Đây là “đặc sản” khoai lang bạn mời.
Tôi đi khắp chốn khắp nơi Không chi thơm ngọt ngon bùi bằng khoai!
QB 5/2009
NGỌC TRAI BÉ ÔNG TÔI
Nhà thơ Hoàng Gia Cương sinh ngày 25 tháng 10 năm 1942 ở làng Minh Lệ, xã Quảng Minh, thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình, nghề kỹ sư vô tuyến điện, nghiệp hội viên hội nhà văn Hà Nội. Trong các tác phẩm nêu trên, tôi thích nhất là tập thơ “Theo dòng thời gian, Nhà Xuất Bản Văn Học Hà Nội năm 2013, 447 trang, ” “Thời gian chảy tới vô cùng Lắng bao tinh chất… Bỏ công kiếm tìm ! (Hoàng Gia Cương)“. Hoàng Gia Cương theo dòng thời gian thao thức một tầm nhìn nhân văn sâu sắc, tài hoa. Đọc sách, tôi lật xem trang đầu và trang cuối. Phụ lục 1 của sách THEO DÒNG THỜI GIAN có các câu: “Văn muốn đạt tài hoa, tâm cần sáng, tứ cần sâu, năng gạn đục khơi trong văn mới tuyệt. Nghệ mong nên tuyệt tác, trí phải minh, công phải trọng, biết tầm sư học đạo nghệ càng tinh“; “CHÍ khí một hiền MINH, vạch lối, dẫn đường, gây nghiệp lớn hồi sinh đất nước. NGUYÊN vẹn từng trụ GIÁP, xua Tây, trừ Mỹ, lập công đầu bảo vệ non sông”. “Mạc tộc dựng xây thiên kỷ tạc. Hoàng chi bồi đắp vạn đời ghi“. Trang Phụ lục cuối sách có hai vế mời đối của hai trong các câu đối, ẩn ý sâu xa thú vị: Phải từ đâu để định hướng đầu tư cho năng lượng ngày lương thêm nặng?Tô Hoài sao chẳng vẽ?
Nhà nho Hoàng Bá Chuân, bố của bảy người con trai ở câu chuyện “Cuộc đoàn tụ bất ngờ của 5 anh em ngày giải phóng thủ đô“, là em ruột của bà ngoại tôi. Chúng tôi tự hào về dòng họ Hoàng có nhiều người con trung hiếu với đất nước, quê hương và gia đình. Ông tôi thường dạy con cháu về nếp nhà phúc hậu văn hóa. Ông tôi viết: Nhà tôi sinh được bảy người con/ Quyết chí chung tình với nước non/ Kháng chiến năm con đi khắp nước/ Lớn lên trai bé sẽ xung phong… Cậu Cương ngọc trai bé của ông tôi, sau này cũng vào bộ đội Trung đoàn Thủ Đô (E102) Sư đoàn Quân Tiên phong (F308). Cậu Cương dần dà theo trọn đời nghề làm kỹ thuật vô tuyến điện nhưng cái nghiệp lắng đọng lại là thơ, theo dòng thời gian thao thức một tầm nhìn nhân văn sâu sắc, tài hoa, với một gia đình hạnh phúc, nếp nhà phúc hậu và văn chương đích thực.
Sáu
anh em ruột gia đình đến thăm đại tướng Võ Nguyên Giáp (1996). Từ trái
sang: Hoàng Gia Cương, Hoàng Thúc Cảnh, bà Đặng Bích Hà, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp, cô Võ Hồng Anh, Hoàng Thúc Cẩn, Hoàng Thúc Tấn, Hoàng Thúc
Tuệ, Hoàng Quý Thân.
Cụ Chuân là một nhà Nho thích nếp nhà thanh đạm phúc hậu, cẩn trọng
cần kiệm, nền nếp gia giáo. Các con của Cụ sau năm 1954 đều giữ trọng
trách, một gia đình trí thức cách mạng được các đồng chí lãnh đạo Đảng
và Nhà nước rất quý trọng và quan tâm. Người anh lớn ông Hoàng Thúc Cảnh
thời kỳ Việt Bắc công tác tại Văn phòng Phủ Chủ tịch, sau này làm cố
vấn Văn phòng Chính phủ suốt thời gian dài mãi cho đến khi cụ Phạm Văn
Đồng nghỉ hưu thì mới nghỉ, hai anh em ông Hoàng Thúc Cẩn và Hoàng Thúc
Tuệ đều là đại tá quân đội, ông Hoàng Thúc Tấn là Phó Chủ nhiệm Văn
phòng Chính phủ, ông Hoàng Quý Thân là tiến sỹ công tác ở Uỷ ban Khoa
học và Kỹ thuật Nhà nước, ông Hoàng Gia Cương là kỷ sư vô tuyến điện và
là nhà thơ. Chuyện triều đình tôi vắn tắt đôi điều. Tôi chỉ biết là tất
cả các cậu đều rất quý cha mẹ tôi, những nông dân lương thiện, sống có
tình có nghĩa với làng xóm và rất thương anh chị em tôi, những đứa con
mồ côi tuy cha mẹ tôi chết sớm nhưng anh em biết đùm bọc và rất thương
yêu nhau.
Anh Bu Lu Khin Nguyễn Quốc Toàn là người anh và bạn thiết của tôi rất đồng cảm về nếp nhà. Anh Toàn bên nội và bên ngoại đều thuộc dòng dõi gia thế. Gia đình anh chị Toàn Hà trưng trang trọng tự hào trong phòng thờ Tổ tiên ba chữ yêu thích “THANH THẬN CẦN Minh Mệnh châu phê”do vua Minh Mệnh ban cho vị quan trung lương dòng họ Nguyễn Quốc là quan “thanh liêm, cẩn thận, cần cù”. Lời ban khen của một ông vua phong kiến thời nay chẳng mấy ai quan tâm, nhưng gia đình anh Bu thì thực lòng kính cẩn trân trọng và tự hào về nếp nhà của dòng họ. Nơi yên nghỉ của họ nội Nguyễn Quốc bên dòng sông Gianh lưu giữ đôi câu đối cổ kính “Chu biên quốc trọng thân hầu mệnh / Đường bảng gia truyền liễu tử danh” (Dòng họ có những nhân vật giữ trọng trách với quốc gia như Thân Bất Hại thời nhà Chu/ Đời này sang đời khác có những thi nhân văn gia nỗi danh như Liễu Tông Nguyên thời nhà Đường).Tôi đọc bài anh Bu mà tâm đắc lời thơ của cậu Cương: “Cúi mình trước đấng Tổ Tông? Râm ran như được tiếp dòng máu thiêng“.
Nhà cụ Hoàng Bá Chuân ông tôi cũng
tự hào và lặng lẽ thời gian giữ lại đôi dòng vắn tắt “Hậu duệ của Hoàng
đế Mạc Đăng Dung” tại khu mộ chí họ Hoàng ở động Ma Ca dưới chân hòn Đá
Đứng ở làng Minh Lệ, nay là xã Quảng Minh, thị xã Chợ Đồn, tỉnh Quảng
Bình. Tương truyền nguồn gốc dòng họ Hoàng làng Minh Lệ là hậu duệ Hiển
tổ Mạc Đỉnh Chi (1280-1346) ở hương Lũng Động và Thái tổ Mạc Đăng Dung (1483 – 1541)
ở hương Cổ Trai, ly tán vào đất Quảng Bình cải thành họ Hoàng để tránh
sự báo thù của vua Lê chúa Trịnh, tuy làm nông nghiệp nhưng các thế hệ
con cháu vẫn giữ được truyền thống hiếu học và văn chương của dòng tộc.
Vì thế, nhà nho Hoàng Bá Chuân đã được theo đuổi Cửa Khổng sân Trình từ nhỏ, tinh thông Tứ thư Ngũ kinh,
điêu luyện các thể thơ phú, trở thành một nhà Nho được kính nể. Đó là
niềm tự hào của dòng họ Hoàng – Trần trong bốn họ chính Hoàng – Trần –
Trương – Nguyễn của làng Minh Lệ chúng tôi và đây là một câu chuyện dài…
Hoàng Gia Cương thơ hiền NHỮNG BÀI THƠ ÁM ẢNH Hoàng Kim
Tập thơ “Theo dòng thời gian” của nhà thơ Hoàng Gia Cương có nhiều bài hay. Mỗi bài thơ mà tôi tâm đắc trích dẫn dưới đây là một câu chuyện đời thường ám ảnh được kể lại bằng thơ. Tôi xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc. Thơ cậu Cương nhiều bài hay. Nhiều bài tôi thích, và hóa ra các cậu tôi cùng nhiều người làng Minh Lệ cũng thích. Theo dòng thời gian tôi muốn nhặt ra mấy viên ngọc quý mà tôi tin là ít có nhà thơ, nhà bình văn khó tính nào không cảm động. Tôi đồng tình với sự thẩm thơ của Trần Đăng Khoa, “thơ hay là thơ giản dị, xúc động, ám ảnh”.
Thế sự trong mắt ai ( Đợi một dòng tin, ảnh và thơ trong bài Hoàng Gia Cương)
Tận phương trời xa xăm, một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn đang trút xuống lương dân. Chiến tranh là đau thương, là mất mát không thể nào bù đắp, không chỉ vào thời hiện tại mà còn dai dẳng mãi mãi về sau. Trước đây, từ rất lâu rồi mình đã từng viết về một nỗi đau lặng thầm như thế:
ĐỢI MỘT DÒNG TIN
Đã có thời như trong giấc chiêm bao Em cầm phấn và anh cầm súng Nỗi xa cách trải dài theo chiến trận Đêm nhìn sao tìm ánh mắt giao nhau …
Lửa khói tan rồi em bỗng lạc nơi nao! Ngõ xóm nhỏ nay thành đường phố rộng Ngôi nhà cũ giờ chỉ còn khoảng trống Em đâu rồi Bắc Cạn? Cà Mau?
Có lẽ nào ta đành chịu mất nhau Để khoảng trống giữa dòng đời hoang mãi! Niềm khắc khoải như triều dâng vời vợi Ánh đèn nào rọi chiếu bến bờ xa?
Đêm không trăng nhoà nhạt dải Ngân Hà Trời lặng gió sao trong lòng có bão! Dù chẳng tiếc mất một phần xương máu Mà nỗi đau khôn dứt cuộc chia lìa!
Phố chờ xuân rộn rã bước người đi Cành đào biếc ngoài vườn đang hé nụ Anh ngóng đợi một dòng tin nho nhỏ Một dòng tin … Ô cửa gió lay mành!
Bài thơ Phố Cụt hay ám ảnh. Các cậu tôi một thuở chỉ khen thầm trong nhà, nay đã duyệt in sách rồi, tôi xin chép lại đây để tặng bạn đọc:
Phố cụt
Đoạn này phố cụt không tên Một bên nhà nguyện Một bên nhà chùa…
Tiếng chuông gióng tự tinh mơ Đều đều tiếng mõ cả trưa lẫn chiều
Mặt đường mưa nắng xiêu điêu Kẻ cầu Đức Phật Người kêu Chúa Trời
Vô thần tôi tự trách tôi Đọc”Tư bản luận” một đời chưa thông
Đường cong mãi vẫn hoàn cong Long đong đâu chỉ long đong kiếp mình ?
Rì rầm phía ấy cầu kinh Phía kia khấn Phật Lặng thinh phía này!
Gió nồm rồi gió heo may Lạc vào phố cụt Bụi bay mù trời !
Nguyên tiêu Kỹ Mão.
[7] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr. 177
Bài thơ “Phố cụt” trước đây tôi không thích vì tôi cho rằng thơ dù
hay đến đâu nhưng đi vào ngõ cụt bi quan yếm thế là hỏng, là không tốt,
không lợi cho nhân văn và sức khỏe. Sau này khi tôi đọc kỹ các tuyệt
phẩm “Phố nối” “Phố cong Tam Đảo” “Đi trong phố nhỏ” (mời bạn đọc tại Hoàng Gia Cương theo dòng thời giancuối
bài này) thì chợt giật mình thấy mình lầm, “Phố cụt” không cụt nữa mà
đã được hóa giải. Thơ Hoàng Gia Cương trong cõi vô biên lặng lẽ với
thời gian, trãi nghiệm với thời gian. Chùm thơ Phố theo tôi là một minh
chứng rất rõ của sự trãi nghiệm nhân văn, sâu sắc, tinh tế và tài hoa.
Đó là một chùm thơ mẫu mực.
Phố nối
Ở đây nối đất với trời Nối mưa với nắng Nối vui với buồn Tơ trời ai nối mà vương? Buộc bao số phận vào đường ngược xuôi
Hưng Yên 2/1999 [8] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr.183
Tam Đảo
Chợt nắng lóe Chợt mưa sa Chợt hun hút gió Chợt sà sà mây …
Phố cong như nhánh mai gầy Rêu phong tường đá Cỏ vây quanh tường
Chênh vênh lối bám men sườn Thông xanh ngút ngát Ngập ngừng bước chân.
Đường như rắn cuộn xa gần Sắc mầu chấm phá Bút thần nét đưa.
Thung sâu trãi rộng ô cờ Ngỡ mình bên cữa phi cơ nghiêng chào!
Chợt là thực Chợt chiêm bao Chợt xem tranh lụa Chợt vào Thiên Thai
5/2002
[9] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr.226-227.
Nhạc sĩ Ngọc Duy phổ thành ca khúc “Chiều Tam Đảo”.
Đi trong phố nhỏ
Đi trong phố nhỏ chiều xuân Cây bàng khô khẳng nhú mầm non tơ Ngỡ ngàng chú sẽ hong mưa Nghiêng tai nghe tiếng gió lùa song hiên
Phố cong chao mõi cánh chim Rêu phong theo cuộc nổi chìm tháng năm Âm âm từ cõi xa xăm Bao nhiêu cát bụi thăng trầm nổi nênh…
Đi trong phố nhỏ yên bình Lòng ta thư thái, chân mình thảnh thơi Nương thân bên suối bên đồi Hàng cây mãi miết đâm chồi trỗ hoa
Đỏ trời khóm gạo tháng ba Vàng ươm màu cúc quỳ pha ráng chiều Ngỡ ngàng trước bức tranh thêu Ai hay phố nhỏ đìu hiu … nặng tình
4/2004 [10] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr. 266
Tôi đọc “Trăng khuya” và “Chớm thu” rung động dào dạt một tình yêu thiên nhiên và yêu con người. Bài thơ “Cha tôi là một nhà Nho” và “Mạ ơi !” đọc thật xúc động, tôi thẹn lòng là chưa viết được bài thơ về mẹ cha hay được như thế. Hai bài thơ“Tìm về nguồn cội” và “Thái tổ Mạc Đăng Dung” có tầm vóc sử thi 500 năm, nhân văn sâu sắc, ân tình và tài hoa.
Trăng khuya
Chợt thấy trăng khuya ngắm trộm mình Phải chăng trăng cũng mến tân binh ? Voan mây lấp ló khuôn vành vạnh Như thể mắt ai đắm đuối nhìn.
Cát Bi 6/1/1961 [1] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr. 11.
Chớm thu
Ban mai rười rượi – thu vừa chớm Gió lạc vườn ai bỡn trái hồng Khóm trúc dáng chừng đang độ lớn Ngỡ ngàng lối ngõ đẫm hơi sương!
Mây bông lặng vén rèm che mỏng Để nắng non nghiêng liếc trộm vườn Hàng cúc xốn xang gờn gợn sóng … Hình như trời đất biếc xanh hơn!
Qua bao giông bão bao mưa lũ Đất lại hồi sinh lại mượt mà Chấp chới cánh diều loang loáng đỏ Cố giữ tầm cao, níu khoảng xa!
1998 [6] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr.101
Mùi hoa bưởi
Giữa đêm đứng gác bên sườn núi Nghe suối râm ran – ngỡ tiếng người Thoảng trong gió buốt mùi hoa bưởi Ai gửi? Sao mình thơ thẩn vui?!
Lương Sơn (HB) xuân 1963
Cha tôi là một nhà Nho
Cha tôi là một nhà Nho Người luôn tự nhận môn đồ Khổng Khâu Tứ Thư người đọc thuộc làu Ngũ Kinh người vẫn ghi sâu từng lời…
Cha tôi sinh chẳng gặp thời Chữ Nho như lá rụng rơi cuối mùa Nỗi niềm đầy ắp trang thơ Công danh sớm nắng chiều mưa nát nhòe
Cha tôi dạy trẻ nhà quê Áo nâu guốc mộc chõng tre, đèn cầy… Cơm ăn đã có vợ cày Trò thương điếu đóm một vài hào rau !
Phải thời “Tây học” tràn vào Chữ Nho bị quảng sang ao nước tù Cha tôi bỏ nghiệp thầy đồ Theo trào lưu mới mầy mò … chữ Tây !
Chữ Tây vừa ngọng vừa dài Đọc câu văn đến đứt hơi, nhạt phèo! Thôi thì nghèo giữ phận nghèo Cha tôi trồng sắn, nuôi heo qua ngày!
Cái thời đuổi Nhật đánh Tây Cha thành “tuyên huấn” miệt mài làm thơ Cha tôi lại dạy i, tờ Làm theo lời Bác xóa mù giúp dân.
Cha tôi giờ đã thoát trần Người đi tìm các vĩ nhân tôn thờ Cha tôi là một nhà thơ Cha tôi là một nhà nho cuối mùa!
6/1979 [3] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr. 40-41
Mạ ơi!
Tròn sáu mươi năm ngày Mạ đi xa
Mạ ơi sáu chục năm rồiMạ theo cánh hạc về nơi vĩnh hằng Bảy trăm hai chục mùa trăng Trăng rằm buốt lạnh đâu bằng lòng con?!
Cho dù con đã lớn khôn Vẫn là úi ít, vẫn còn ấu thơ Vẫn trông ngóng mạ từng giờ Vẫn mong tấm bánh, vẫn chờ tiếng ru…
Nhớ thời giặc giã tràn qua Gia đình ly tán, cửa nhà cháy thiêu Mạ mong khắc khoải sớm chiều Mong ngày đoàn tụ… Bỗng diều hụt dây!
Mạ mong dứt tháng đoạn ngày Mà sao định mệnh vẫn xoay phủ phàng? Bốn con biền biệt tiền phương Mỗi người mỗi phía chiến trường đạn bom!
Mạ đi trong nỗi héo hon Cái đêm rằm ấy mãi còn ngấn mưa Mạ đi trong nỗi ngác ngơ Cha con nấc nghẹn tiễn đưa quặn lòng!
Mạ về với cõi hư không Mình cha sớm tối lưng còng trở xoay Đèn khuya leo lét tháng ngày Nhà Nho lóng ngóng cuốc cày nuôi con!
Các con giờ đã lớn khôn Công cha nghĩa mẹ vuông tròn tạc ghi Dẫu cho gia thất đề huề Thiếu cha vắng mẹ còn gì tủi hơn?
Bây giờ cậu mạ không còn Hai anh con cũng… vấn vương theo cùng Sân Lai quần tụ thêm đông Chỉ buồn một nỗi thiếu ông vắng bà!
Mong gần rồi lại ngóng xa Mạ ơi ngấn lệ vẫn nhòa mắt con Sau mươi năm dạ mỏi mòn Nhớ thương, thương nhớ Mãi còn nhớ thương!
Vu Lan năm Tân Mão 2011 [2] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr. 408-409
Tìm về nguồn cội
Tìm về Lũng Động, Cổ Trai Thắp hương bái lạy bao đời Tổ Tông Biển gom nước vạn dòng sông “Thập tam thế hậu…” nhi đồng là đây.
Qua bao giông bão, tháng ngày Thay tên đổi họ chẳng thay đổi lòng Vẫn là cha, vẫn là ông Vẫn dòng máu ấy cuộn trong tim này!
Hoàng, Phan, Lều, Thạch … về đây Trăm phương như nước như mây tụ nguồn Gốc còn trên đất Hải Dương Lá cành hoa trái đã vươn khắp miền.
Ta về tìm lại Tổ tiên Tìm về nguồn cội khí thiêng sinh thành Hương dâng là nghĩa là tình Thoảng thơm như thể tinh anh giống dòng.
Cúi mình trước đấng Tổ Tông Râm ran như được tiếp dòng máu thiêng !
1998
[4] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
Thơ tuyển chọn 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr.170-171
Thái tổ Mạc Đăng Dung
Cảm nhận của người con Mạc tộc
Xuất thân ngư phủ vạn chài Ra khơi vào lộng nổi trôi bọt bèo! Vươn lên từ phận đói nghèo Đã thành tướng giỏi đã gieo Hoàng triều.
Cổ Trai xóm nhỏ đìu hiu Ai hay nhân kiệt ẩn lều rạ tre Từ tay kéo lưới đưa bè Vung đao múa kiếm ngựa xe tung hoành.
Oai hùng khiển tướng điều binh Thù trong khiếp đảm, thất kinh giặc ngoài Xứ Đông cho chí xứ Đoài Non sông một giải đẹp tươi mọi miền.
Bao nhiêu tiến sĩ, trạng nguyên Nhờ thời Minh Đức mà nên hiền tài Mượt đồng ngô lúa sắn khoai Nhà nhà hạnh phúc, người người ấm no.
Bao công xây dựng cơ đồ Vinh danh Mạc tộc, vững bờ Đại Nam Sá chi miệng thế thăng trầm Năm trăm năm … một chữ NHÂN rạng ngời !
6/2011 (Hoàng Kim chép lại với lối phân câu 6/8
thay cho thể thơ 6/8 phân câu lối tự do nhiều tầng)
[5] Hoàng Gia Cương THEO DÒNG THỜI GIAN
Thơ tuyển 2013. NXB Văn Học Hà Nội, tr. 406-407
Ghi chú: Chúng tôi tự hào về dòng họ Hoàng chi Mạc tộc làng Minh Lệ có nhiều người con trung hiếu với đất nước, quê hương và gia đình. Cụ Hoàng Bá Chuân, bố của bảy người con trai ở câu chuyện “Cuộc đoàn tụ bất ngờ của 5 anh em ngày giải phóng thủ đô“ là em ruột của bà ngoại tôi.Ông tôi thường dạy con cháu về nếp nhà phúc hậu văn hóa. Ông bà cậu ruột mẹ tôi đã trao lại di thư: “Nhà tôi sinh được bảy người con/ Quyết chí chung tình với nước non/ Kháng chiến năm con đi khắp nước/ Lớn lên trai bé sẽ xung phong…” Cậu Cương ngọc trai bé của ông tôi, sau này cũng vào bộ đội Trung đoàn Thủ Đô (E102) Sư đoàn Quân Tiên phong (F308). Cậu Cương dần dà theo trọn đời nghề làm kỹ thuật vô tuyến điện nhưng cái nghiệp lắng đọng lại là thơ, theo dòng thời gian thao thức một tầm nhìn nhân văn sâu sắc, tài hoa, với một gia đình hạnh phúc, nếp nhà phúc hậu và văn chương đích thực. Hoàng chi Mạc tộc Làng Minh Lệ có một thuở đã lạc vào tai ách “Phố cụt”. Thật may mắn trước “Phố cụt” đã có “Phố khuya” để kịp bình tâm suy ngẫm, và sau “Phố cụt” “cùng tắc biến” là “Phố nối” hóa giải “Phố cụt”, tiếp “Phố cong Tam Đảo” và xuống đến đời thường “Đi trên phố nhỏ” bình yên của một vòng tròn nhân quả. Tôi đã tâm đắc để viết nên bài thơ “Thời gian lắng đọng người hiền” trong buổi sáng cuối thu cà phê sáng với CNM365
là tác giả của chùm thơ (chữ tin đậm mà Hoàng Kim trích dẫn trên đây) > Cụ có các tác phẩm chính: Thơ 1) Lặng lẽ thời gian, Nxb Thanh Niên 1997, 2) Lắng đọng Nxb Hội nhà văn, 2001, 3) Trong cõi vô biên Nxb Hội nhà văn 2005, 4) Trãi nghiệm với thời gian Nxb Hội nhà văn 2010, 5) Theo dòng thời gian Nxb Văn Học 2013; Truyện ký 6) Cổ tích cho mai sau Nxb QĐND 2006. Tác phẩm thơ văn của Hoàng Gia Cương có mặt trên 30 tuyển tập, tập thơ văn in chung. Anh Bu Lu Khin Nguyễn Quốc Toàn viết: “Trong số thơ của Hoàng Gia Cương bu tui thích nhất bài “Phố Cụt”. Cái cụt của con đường là biểu trưng cho cái bê tắc, cái cụt lủn của khát vọng của con người. Người ta bám vào ba cái phao cứu sinh là Phật, Chúa, và Tư bản luận của Mác nhưng tất cả cũng chỉ là cơn gió bay qua “Gió nồm rồi gió heo may. Lạc vào phố cụt Bụi bay mù trời!”. Gia đình Hoàng gia Mạc tộc “thập tam thế hậu” nhờ phúc ấm tổ tông và nếp nhà nét đẹp văn hóa mà có được sự hanh thông hạnh phúc tiếp nối.
Hoàng Gia Ngọc Phương Nam
Dòng họ Hoàng và dòng họ Trần làng Minh Lệ chúng tôi có người ông ngoại sinh được ba người con. Mẹ là gái đầu đi ở cho nhà địa chủ từ nhỏ. Cậu ‘qua’ mất sớm. Dì là gái út thoát li làm cách mạng từ rất sớm. Mẹ sinh ba trai, hai gái. Dì sinh bốn trai. Mẹ tôi mất sớm đúng ngày Tết Nguyên Đán mồng Ba năm 1964. Cha nói trong nước mắt: ‘Các con gọi chồng dì bằng cậu, bởi hiếm có ai chăm sóc chị dâu tận tụy như dượng của các con’. Cha bị bom Mỹ giết hại ngày 29 tháng 8 âm lịch năm 1968. Chúng con lớn lên dưới lồng cánh cưu mang của Dì Cậu và đại gia đình Trần Hoàng Nguyễn..Trong vận mệnh của Tổ Quốc và Gia Đình, cha và cậu đã từng cầm súng, bảy con trai của mẹ và dì có năm đứa đã từng cầm súng
Gia đình tôi Hoàng gia phương Nam có bốn tộc Hoàng, Trần, Lê, Nguyễn. Bố tôi với bác tôi và người em gái bố đều rất nghèo. Bác tôi là thầy đồ nho dạy học chữ Tàu thuở tiếng Tây lên ngôi nên nhà sa sút. Cô tôi đi ở và lấy chồng Phong Nha Kẻ Bàng. Bố tôi lấy mẹ tôi cũng là người đi ở cho địa chủ và nghề của bố là chuyên chèo đò khuya chợ Mới chợ Troóc từ ngã ba nguồn Son tới Phong Nha và kịp về làm nông để nhận công điểm hợp tác xã. Bố chết bom năm 1968. Trần là họ mẹ, gốc gác họ Trần có từ thời vua Trần Dụ Tông chết trận khi đánh Chiêm Thành thì vợ vua không về Bắc nữa mà ở lại thành tộc Trần. Năm gia tộc ở Làng Minh Lệ là Trần, Hoàng, Trương, Nguyễn và Hoàng chi Mạc tộc. Cũng có thêm chi tiết của Mạc Cảnh Huống và Mạc Thị Gái nhưng sự kiểm chứng nguồn gốc Trần, Hoàng còn cần thêm thời gian. Lê là họ chị dâu cả của gia đình tôi là dân xứ biển ngoại hải Quảng Thuận gần Ba Đồn. Nguyễn là họ vợ tôi và họ của chồng chị gái Hoàng Thị Huyền. “Chúng tôi sinh thành ở Quảng Bình… Nhà mình ở ngã ba sông. Rào Nan chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình. Nay thì đoàn tụ đất phương Nam. Gia đình chúng tôi đi như một dòng sông, gìn giữ nếp nhà chân chính nhân hậu Hoàng Trung Trực đời lính
Anh Hoàng Trung Trực đã viết bài thơ “Viếng mộ cha mẹ” thật xúc động
Dưới lớp đất này là mẹ là cha Là khởi phát đời con từ bé bỏng Là lời mẹ ru dịu dàng cánh võng Là gươm đao cha một thuở đau đời
Hành trang cho con đi bốn phương trời Là nghĩa khí của cha, là nhân từ của mẹ Vẫn bầu sữa tinh thần không ngừng không nghỉ Để hành trang cho con đi tiếp cuộc đời
Cuộc đời con bươn chãi bốn phương trời Nay về lại nơi cội nguồn sinh trưởng Dâng nén hương mà lòng hồi tưởng Thuở thiếu thời dưới lồng cánh mẹ cha
“Ước hẹn anh em một lời nguyền Thù nhà đâu sá kể truân chiên Bao giờ đền được ơn trung hiếu Suối vàng nhắm mắt mới nằm yên”.
ƠN NGƯỜI
Ân quốc ân gia ân phụ mẫu Tạ thiên tạ địa tạ tiền nhân. Tổ tiên công đức muôn đời thịnh Con cháu thảo hiền vạn kiếp vinh. Minh Lệ Hưng Long hai bầu sữa Hoàng Gia đức độ một con đường. Hồn chính khí bốc lên ánh sáng Sáng choang ngọc đá giữa hoang tàn Tâm nhân văn lắng đọng tinh hoa Hoa Đất Hoa Người trong cõi Bụt.
‘Mừng Cậu tròn trăm tuổi’ là thơ Hoàng Kim kính đại thọ Cậu Hoàng Thúc Cảnh. Một câu chuyện ân tình của Cậu nhân việc mừng thọ Cậu một trăm tuổi tôi lần đầu xin kể lại: Năm 1977, Cậu Hoàng Thúc Cảnh đã lặn lội đường xa lên gặp thầy Hoàng Sỹ Oánh là Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Đại học Nông nghiệp II Hà Bắc ở Đồn Lương, Việt Yên, Hà Bắc và nói: Xin quý Thầy cho cháu Kim được chuyển trường vào Đại học Nông nghiệp 4 ở thành phố Hồ Chí Minh của nước mình vừa thống nhất. Kim mồ côi cha mẹ từ nhỏ, cha bị bom Mỹ giết hại. Anh Trực trận mạc từ rất sớm. Kim đã học trường thầy và đã xung phong nhập ngũ năm 1971. Cháu học giỏi lại trưởng thành dày dạn trong chiến đấu, nay về trường lại được quý thầy quy hoạch đào tạo là thật mừng. Nhưng mong quý Thầy chiếu cố hoàn cảnh cháu thật thương tâm, trước cơm ngày một bữa suốt năm năm, nay cả nhà vẫn lưu tán một người một nơi. Gia đình ao ước lớn nhất là tụ họp sau chiến tranh. Anh biết rõ tánh tôi ở gần gủi Bác và cụ Đồng, trọng tánh của các cụ mà chưa hề phiền lụy ai, nhưng riêng việc này nhờ anh chiếu cố. Thầy Đỗ Ánh là Hiệu trưởng kế tiếp của Trường, và thầy Võ Hùng đều cảm động. Đức nhân hậu, lòng yêu thương và tầm nhìn sáng suốt, thật biết ơn cậu, một lời gia đình đoàn tụ. MỪNG CẬU TRÒN TRĂM TUỔI“ Nhân hậu thói nhà in một nếp /Chân chính bao nhiêu phúc bấy nhiêu” Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và https://cnm365.wordpress.com/…/chao-ngay-moi-1-thang-10/
nhắm mắt lại đi em để thấy rõ giấc mơ hạnh phúc trời thanh thản xanh đêm nồng nàn thở ta có nhau trong cuộc đời này nghe hương tinh khôi đọng mật quyến rũ em và khát khao anh mùi ngây ngất đằm sâu nỗi nhớ một tiếng chuông ngân thon thả đầu ghềnh
nhắm mắt lại đi em hạnh phúc đâu chỉ là đích đến hạnh phúc là con đường trãi nghiệm vỗ về, chờ đợi, nhớ thương
nhắm mắt lại đi em trong giấc mơ của anh có em và rừng thiêng cổ tích có suối nước trong veo như ngọc có vườn trúc và ngôi nhà tranh có một đàn trẻ thơ tung tăng heo gà chó mèo ngựa trâu nhởn nhơ trên đồng cỏ tươi xanh.
nhắm mắt lại đi em, tận hưởng thú an lành.
LINH GIANG SÔNG QUÊ HƯƠNG Hoàng Kim
Nhà mình gần ngã ba sông Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình Linh Giang sông núi hữu tình Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con.
“Chèo thuyền qua bến sông Son Để con khỏi chộ nước non thêm buồn” Câu thơ quặn thắt đời con Mẹ Cha mất sớm con còn trẻ thơ.
Ra đi từ bấy đến chừ Lặn trong sương khói bến đò sông quê Ngày xuân giữ vẹn lời thề Non sông mở cõi, tụ về trời Nam.
CẦU TRỜI NỐI MẸ CHA XƯA Hoàng Kim
Cầu trời nối mẹ cha xưa Mưa dày thấm đất nắng thưa thấu trời Lời thương giao cảm lòng người Ngày Cha Mẹ suốt trọn đời trong con.
NẾP NHÀ ĐẸP VĂN HÓA Hoàng Kim
“Nhân hậu thói nhà in một nếp / Chân chính bao nhiêu phúc bấy nhiêu”/ Một gia đình yêu thương/ Nếp nhà đẹp văn hóa/ Hoa Đất thương lời hiền / Nhà Trần trong sử Việt / Mạc triều trong sử Việt/ Nhớ Ông Bà Cậu Mợ / Trăng rằm sen Tây Hồ/ Trăng rằm vui chơi giăng. Nếp nhà là thói quen của một gia đình. Nguyễn Trãi có câu “Nên thợ, nên thầy nhờ có học/ No ăn, no mặc bởi hay làm”. Làm và Học là hoạt động sống cơ bản của con người để đáp ứng nhu cầu tối thiểu ăn mặc, yêu đương, nhà ở, đi lại, chăm sóc sức khỏe và chất lượng cuộc sống. Nếp nhà xét cho cùng là sự bảo tồn phát triển tự do của mỗi cá nhân gia đình và dòng họ. Soi thấu gia tộc là soi vào văn hóa lịch sử của sự kế thừa, phát triển và biến đổi.
Tâm cơ của nếp nhà. Vạn Kiếp tông bí truyền thư của Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương, tác phẩm này còn gọi là Vạn Kiếp binh thư đã thất truyền.Bài tựa của Trần Khánh Dư trong cuốn sách này giải thích bí truyền đại sư là người thế nào: “Phàm người khéo cầm quân thì không cần bày trận, khéo bày trận thì không cần giao chiến, khéo giao chiến thì không thể thất bại, khéo thất bại thì không thương vong. Xưa kia, Cao Dao làm chức sĩ sư mà mọi người không dám trái mệnh, Văn Vương và Vũ Vương nhà Chu là bậc thầy về văn và về võ, ngấm ngầm sửa đức để khuynh loát quyền bính của nhà Thương mà lấy nghiệp vương. Đó đều có thể gọi là những người giỏi cầm quân, không cần bày trận vậy. Vua Thuấn múa lá mộc và lông trĩ mà họ Hữu Miêu tự mình tìm đến, Tôn Vũ nước Ngô đem mỹ nhân trong cung thử tập trận mà phía tây phá nước Sở hùng cường, phía Bắc ra uy với nước Tần nước Tấn, nổi tiếng khắp chư hầu. Đó đều có thể gọi là những người giỏi bày trận, không cần giao chiến vậy. Cho đến Mã Ngập nước Tấn dựa vào bát trận đồ chuyển đánh nghìn dặm, phá được Thụ Cơ Năng mà lấy lại Lương Châu. Thế gọi là người giỏi giao chiến không bao giờ thất bại vậy.Cho nên, trận nghĩa là bày ra, là khéo léo. Ngày xưa, vua Hiên Viên lập ra phép “tỉnh điền” để đặt binh chế, Gia Cát Lượng xếp đá bên sông để làm bát trận, Vệ công sửa lại làm trận Lục Hoa, Hoàn Ôn định ra trận Xà Thế, trước sau đều có trận đồ nổi tiếng, trình bày tuần tự, thành phép tắc rõ ràng. Nhưng người đương thời ít ai thông hiểu, muôn vàn đầu mối nhìn vào dường như rối loạn, chưa từng nắm được lẽ biến dịch bên trong. Ví như những phép tắc và suy luận của Lý Thuyên, người sau không ai hiểu nghĩa là gì. Vì thế, Quốc công ta bèn so sánh, kê cứu trận đồ và binh pháp của các nhà, tổng hợp lại thành một bộ sách. Tuy chép cả những điều chi tiết, nhưng người sử dụng thì nên bỏ bớt những chỗ rườm, tóm lấy thực chất. Rồi lấy năm hành ứng với nhau, chín cung câu với nhau, phối hợp cương và nhu, xoay vần chẵn và lẽ, không làm hỗn loạn âm dương và thần sát, phương lợi và sao tốt, hung thần và ác tướng, ba cát và năm hung, việc nào việc ấy thực phân minh rõ rệt. Quốc công lại còn thêm bớt với chiến thuật của thời Tam đại, nhờ đó trăm trận trăm thắng. Cho nên đương thời phía bắc làm cho Hung Nô phải sợ, phía tây làm cho Lâm Ấp phải kinh. Rồi ông đem sách này dạy bảo con em làm gia truyền, không tiết lộ cho người ngoài biết. Lại có lời dặn rằng: “Sau này con cháu và bề tôi phò tá của ta có học được bí thuật này thì nên lấy đầu óc sáng suốt, linh hoạt mà thực hành và sắp đặt nó, chứ không nên lấy đầu óc cứng nhắc, tối tăm mà cất giữ và lưu truyền. Nếu trái điều đó thì sẽ mang vạ vào thân, lại hại lây đến cả con cháu. Đó gọi là tiết lậu cơ trời vậy.” Bài tựa của Trần Khánh Dư cho Vạn Kiếp tông bí truyền thư, còn như sách Binh thư yếu lược mà người đời ngờ rằng bản thật đã bị cướp và thất lạc, đời sau chỉ có chân truyền lời này. Chùa Thắng Nghiêm (Hà Nội) nơi Trần Hưng Đạo lúc nhỏ tu học, là nơi Người hiển thánh. Ôi, đọc lại “Binh Thư Yếu lược” “Hịch Tướng Sĩ Văn” và Vạn Kiếp tông bí truyền thư, soi gương kim cổ, lắng nghe cuộc sống, đọc lại lời răn dạy nếp nhà là để biết sửa lỗi mình; Lời dặn của Thánh Trần
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm nói về phép xử thế của bậc hiền minh thuở thời thế nhiễu loạn, vàng lầm trong cát: ”Đạo trời đất là Trung Tân, vẹn toàn điều Thiện là Trung, không vẹn toàn điều Thiện thì không phải là Trung. Tân là cái bến, biết chỗ dừng lại là bến chính, không biết chỗ dừng lại là bến mê. Nghĩa chữ Trung chính là ở chỗ Chí Thiện.Trung Tân quán bi ký, 1543). Đạo ở mình ta lấy đạo trung/ Chớ cho đục, chớ cho trong (Thơ chữ Nôm, Bài số 104) Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn, người đến chốn lao xao (Thơ chữ Nôm, Bài số 79). Làm việc thiện không phải vì công tích mà ở tấm lòng. Nay vừa sau cơn loạn lạc thì chẳng những thân người ta bị chìm đắm, mà tâm người ta càng thêm chìm đắm. Các bậc sĩ đệ nên khuyến khích nhau bằng điều thiện, để làm cho mọi người dấy nên lòng thiện mà tạo nên miền đất tốt lành. (Diên Thọ kiều bi ký, 1568) An nhàn, vô sự là tiên (Sấm ký)”. Người đời sau luận chuyện Lão Tử ‘dạy’ Khổng Tử: “Ngươi cứ nhìn vào trời đất mà hiểu Đạo của ta. Kìa, có trời thì có đất, có núi thì có sông, có cao thì có thấp, có dài thì có ngắn, có cương thì có nhu, có rỗng thì có đặc, có sáng thì có tối, có thẳng thì có cong… Mọi thứ đang dịch chuyển trong sự biến hóa vô cùng. Tự nhiên tự do nhưng có trật tự và cái lí của nó. Cao thì xa, thấp thì gần, dài thì yếu, ngắn thì mạnh, cương thì gãy, nhu thì dẻo, rỗng thì âm to, đặc thì câm. Mọi thứ trong trời đất gắn kết được nhờ khác biệt, không có chuyện giống nhau mà hợp lại được với nhau“. xem tiếp Ngày xuân đọc Trạng Trình
Phúc hậu thói nhà in một nếp
Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, thanh thản, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm. Hoàng Kim đúc kết tóm tắt về nếp nhà đẹp văn hóa xây dựng gia đình hạnh phúc, cần có phúc ấm gia đình với trí tuệ phúc hậu, minh triết, tận tâm, làm việc tự ý cẩn thận, lời nói là năng lực, im lặng là trí tuệ. Cụ Hoàng Giáp Nguyễn Khắc Niêm (trong sách Hoàng Niêm đất Hương Sơn, Nhà Xuất bản Thuận Hoá, năm 2007) là cha ruột của những người con danh tiếng GS Nguyễn Khắc Dương, GS Nhà văn hoá Nguyễn Khắc Viện, GS Nguyễn Khắc Phi, Nhà văn Nguyễn Khắc Phê, nhà giáo Nguyễn Thị Dư Khánh, qua bài viết “Cụ Hoàng Giáp dạy con” của Vu Gia đã chúng ta thấy nét đẹp văn hóa của một gia đình hạnh phúc. GS. Hoàng Ngọc Hiến có bài bình giảng rất hay về nếp nhà “Nên thợ, nên thầy” “No ăn, no mặc”. Ông Lê Quang Nhung ở Bến Tre có bài “Giữ lại nếp nhà” đã trao đổi thật thấm thía “Nếp nhà là cái ở sâu trong trái tim ta, là gốc rễ của con người nhưng do mải mê với cuộc sống, nhiều khi ta quên mất. Rất đồng tình với ai đó: Xã hội là nơi cho cá nhân phát triển, còn gia đình là nơi cá nhân hình thành tính cách, tâm hồn, tư duy, tài năng, đạo đức của con người. Vì vậy, xây dựng môi trường văn hóa từ gia đình phải là một mắc xích quan trọng trong quá trình giáo dục tính cách, tình cảm, tâm hồn, đạo đức, đặc biệt là cho giới trẻ. Tu được thân mới “tề gia”, rồi đến “trị quốc”, sau cùng là “bình thiên hạ”. Sắp xếp theo trình tự như vậy cũng có cái lý của người xưa.” Nhà văn Nguyễn Khải có bài viết “Nếp nhà” nói rõ quan niệm gia đình hạnh phúc qua lời kể của một bà cụ phúc hậu “Theo bà cụ, thời bây giờ có được vài trăm cây vàng không phải là khó, cũng không phải là lâu, nhưng có được một gia đình hạnh phúc phải mất vài đời người, phải được giáo dục vài đời. Hạnh phúc không bao giờ là món quà tặng bất ngờ, không thể đi tìm, mà cũng không nên cầu xin”. Bài này là suy nghiệm cá nhân về nếp nhà đẹp văn hóa
Hoàng Kim kính mừng thọ cậu Hoàng Thúc Cảnh vượt một trăm tuổi, cháu xin kể một mẫu chuyện nhỏ ân tình đã tạo nên sự đoàn tụ của Hoàng Gia như ngày nay : Năm 1977, cậu Hoàng Thúc Cảnh đã lên Đồn Lương, Việt Yên, Hà Bắc của Trường Đại học Nông nghiệp II Hà Bắc gặp thầy Hoàng Sỹ Oánh là Hiệu trưởng đầu tiên của Trường và nói: “Xin quý Thầy cho cháu Kim được chuyển trường vào Đại học Nông nghiệp 4 thành phố Hồ Chí Minh. Cháu Kim mồ côi cha mẹ từ nhỏ, cha bị bom Mỹ giết hại. Anh Trực của cháu trận mạc từ rất sớm và Kim đã xung phong nhập ngũ năm 1971 từ Trường Thầy. Cháu học giỏi lại trãi chiến đấu, nay được quý thầy quy hoạch học tập đào tạo ở Trường là thật mừng, nhưng mong quý Thầy chiếu cố hoàn cảnh của cháu thật thương tâm, trước đây cơm ngày một bữa suốt năm năm, nay anh em lưu tán. Gia đình ao ước lớn nhất là được tụ họp sau chiến tranh. Anh biết rõ tánh tôi ở gần gũi Bác Hồ và cụ Đồng, trọng tánh của các cụ mà chưa hề phiền lụy ai, nhưng riêng việc này nhờ anh chiếu cố cho cháu xin chuyển trường“. Thầy Đỗ Ánh Phó Hiệu trưởng và thầy Võ Hùng Trưởng Khoa Nông học đều cảm động và đồng tình. Hoàng Kim được chuyển trường khiến sau này cả gia đình chúng tôi có được cơ hội đoàn tụ đất phương Nam đó là nhờ đức nhân hậu, lòng yêu thương và tầm nhìn sáng suốt.
CON SUỐI NGUỒN HẠNH PHÚC Hoàng Kim Tặng con Hoàng Tố Nguyên
Mẹ đi về quê ngoại để sinh con Trời tháng Sáu xanh một màu thương nhớ Ba mong con mấy đêm liền không ngủ Ngày hai mươi con khóc chào đời.
Con mang về Ba Mẹ một nguồn vui Hạnh phúc trăm năm, niềm ao ước lớn Mong mỏi chứa chan, tình yêu trọn vẹn Bao yêu thương âu yếm rộn trong lòng.
Ba vui mừng chọn đặt tên con Cặp tên đẹp giữa muôn ngàn từ ngữ Cái tên vì con mà thành rực rỡ Con hãy làm tên đẹp hóa bài ca.
Con Tố Nguyên của Mẹ và Ba Hoàng Tố Nguyên ngân nga niềm hạnh phúc Mẹ cùng con Thủy Nguyên thành chữ kép Con suối nguồn hạnh phúc đầu tiên
Con! Thân thương một tiếng gọi Hạnh phúc bật nên lời Lòng Cha bồi hồi Sung sướng gọi: Con!
Cha đi công tác xa Mong đợi Con, từng ngày chờ thư Mẹ Thư đến! Con ra đời! Cha run lên vì mừng Thao thức suốt đêm Không ngủ
Bạn bè vây quanh Cha Trân trọng niềm vui thiêng liêng Nâng cốc chúc Cha Hạnh phúc!
Tiếng Con ngọt ngào môi Cha Dào dạt lòng Cha vỗ mãi Có Con Nối cuộc đời Cha Gấp đôi Có Con Đan giữa cuộc đời Hạnh phúc
Con là sợi dây máu thịt Yêu thương gắn Mẹ và Cha Có Con Cha thấy cuộc đời ý nghĩa hơn Cuộc sống – Tình yêu – Sự nghiệp Hai Con là hai con mắt Cửa sổ tâm hồn Cha Dẫu đời Cha nhiều chông gai Trái chín cuộc đời vẫn ngọt Con là giấc mơ trong trẻo Là ban mai tươi vui Là viên ngọc trao đời Là hương hoa hạnh phúc
Ước vọng cuộc đời Cha Có Con đi nối con đường sự nghiệp Con đứng trên vai Cha Vươn tới những chân trời mơ ước
Hai Con Hai viên ngọc Chị con và Con Mẹ con dịu hiền hơn Mẹ con đảm đang hơn Cha bớt vụng về mỗi việc làm nho nhỏ Con trở thành ngọn lửa Sưởi ấm lòng Mẹ Cha Khi mỗi ngày khó khăn Trong trẻo tiếng Con Mẹ Cha hết mệt Con là niềm vui lớn nhất “Con hơn Cha nhà có phúc” Cha mong dồn cho Con.
Lớn lên Con sẽ hỏi Cha Sao Cha đặt tên Con là Hoàng Long? Con ơi! Tên Con là khúc hát yêu thương Của lòng Cha Mẹ Cha Mẹ thương nhau Vì qúy trọng những điều ân nghĩa Sự nghiệp và tình yêu Những ngày gian khổ Cùng nghiên cứu củ sắn, củ khoai Con là giống khoai Hoàng Long Tỏa rộng nhiều vùng đất nước Dẫu không là trái thơm qủa ngọt Nhưng là niềm vui người nghèo Để Cha nhớ về quê hương Khoai sắn bốn mùa vất vả Để Cha nhớ những ngày gian khổ Năm năm Cơm ngày một bữa Khoai sắn không phụ lòng Để Cha nhớ về Lon khoai nghĩa tình Nắm khoai bè bạn Gom góp giúp Cha ăn học Khi vào đời Cha gặp Mẹ con Cho nên: Cha muốn Con Trước khi làm những điều lớn lao Hãy biết làm củ khoai, củ sắn Hãy hướng tới những người lao động Nhớ quê nghèo cắt rốn, chôn rau
Lớn lên Con sẽ hỏi cha Sao Cha đặt tên con Hoàng Long? Long là rồng Con là đậu rồng Là công trình thứ hai Mẹ Cha nghiên cứu Mẹ con chọn hạt Cha gieo nên con Vất vả gian nan Hứa hẹn một mùa gặt hái Con là tháng ngày mong đợi Là niềm vui đóng góp cho đời Từ hạt đậu củ khoai Cha Mẹ trao Con sự nghiệp Cha nhớ câu đối trăm năm Về một gia đình hạnh phúc “Sáng khoai, trưa khoai, tối khoai ngày khoai ba bữa Cha đỗ, mẹ đỗ, con đỗ đều đỗ cả nhà” Chị con và Con Là mong ước Của Mẹ và Cha
Lớn lên Con sẽ hỏi Cha Sao Cha đặt tên con Hoàng Long? Long là rồng Nghĩa mẹ tạo nền Công cha xây móng Trước mắt con là sông dài, biển rộng Ước mong con bay lên Con hãy đi đến cùng Mục đích của con Làm được những điều cao cả Hãy cố gắng không ngừng Kiên gan Bền chí Ước mơ và hiện thực Hôm nay và mai sau Nghị lực là thước đo cuộc đời Hai chữ đầu tiên Con học làm người Phải học hai điều NHÂN NGHĨA
Cha mong Con lớn lên Ít nếm trãi khó khăn, vất vả Nhưng đừng bao giờ quên Những ngày đói khổ Thời thơ ấu của Cha Mồng Ba tháng Giêng ngày mất của Bà Hai mươi tháng Mười ngày ông Mỹ giết Ngày mà cửa nhà tan nát Đói nghèo Bác dắt dìu Cha Tuổi thơ thì bắt ốc, mò cua Lớn một chút trồng khoai, dạy học Qua danh lợi hiểu vinh, hiểu nhục Trãi đói nghèo biết nghĩa, biết ân Phan Thiết là nơi Mẹ đã sinh Con Ông Bà ngoại nuôi cho Con khôn lớn Tuổi thơ của Con lớn trong yên ấm Tao nôi êm ả, thanh bình Ru cho Con “uống nước nhớ nguồn” Khi con lớn đừng quên điều HIẾU THẢO
Cha say viết về Con Kể về Con Thơ cho Con Cô bác vây quanh Cha Gật gù Thông cảm
Thơ chắp mối Từng vần, Từng mảng Câu thơ chưa chỉnh lời Nhưng tứ thơ Dồn dập Bối hồi Hạnh phúc lớn Trong lòng Cha Ngân mãi
Thầy bạn là lộc xuân Gương sáng và bài học từ thầy như nắng tháng Ba. Noi gương Thầy tôi học làm nắng tháng Ba mang niềm vui và sắc xuân đến nông dân nông nghiệp nông thôn, tập huấn đào tạo nguồn trí thức trẻ, khơi dậy tiềm năng thế hệ mới vùng sâu vùng xa. Niềm vui và sự trưởng thành vững chắc của đội ngũ trí thức mới như biển xanh lộng gió đậm đà sắc xuân.
Niềm vui sau công việc thành công thật rạng ngời hạnh phúc. Câu chuyện sắn Phú Yên là mô hình và sự thật thực tiễn ứng dụng và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật thành công trên đồng ruộng của nhiều hộ nông dân ở vùng sâu vùng xa huyện Đồng Xuân và Sông Hinh của tỉnh Phú Yên.
Thành quả nổ lực cố gắng tận tụy làm việc cùng nông dân đã được đúc kết tốt. Đồng Xuân và Nắng tháng Ba bạn đã nhìn thấy ở báo Phú Yên niềm vui lắng đọng. Thầy Mai Văn Quyền có lối dạy và học thật giản dị, chất phát, tôn trọng tổng kết nâng tầm lý luận các mô hình sự thật thực tiễn, gương người thật việc thật, người tốt việc tốt. Thầy chuộng minh triết chân thành, lắng nghe cuộc sống không cần tô vẽ Lối dạy học để làm (Learning by Doing),
Tôi nhiều lần đến Ấn Độ, đã một lần may mắn tới được quê hương Phật, và tự mình trồng một nhánh Bồ Đề ở vườn nhà để nay cây đã lớn. Minh triết của đức Phật Lời Phật dạy trong lòng tôi là triết lý tình yêu cuộc sống, lắng đọng 27 khẩu quyết yêu thích, lan tỏa trong đời thường mà tôi thật sự tâm đắc. An nhiên đứng hàng đầu. Tôi thích nên chép lại để đọc và suy ngẫm mà chưa thật rõ nguồn gốc của những lời này sự xác tín lời nói có ở sách nào, với ai, khi nào, ở đâu, trong hoàn cảnh nào. Người Thầy tâm thức trong tôi là Trúc Lâm Trần Nhân Tông. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/truc-lam-tran-nha