Vị tướng của lòng dân

VỊ TƯỚNG CỦA LÒNG DÂN
Bạch Ngọc Hoàng Kim

Ban mai đứng trước biển
Đảo Yến trong mắt ai
Thăm thẳm một tầm nhìn
Vị tướng của lòng dân

Lời dặn của Thánh Trần
Quốc Công đạo làm tướng
Tiết Chế đức dụng nhân
Văn chương Ngọc cho đời


Biết mình và biết người
Dám đánh và quyết thắng
Kế sách một chữ Đồng
Hiền tài bút hơn gươm


Bài học lớn muôn đời
Sóng yêu thương vỗ mãi

Giấc mơ lành yêu thương
Thế giới trong mắt ai

Sông Đồng Nai yêu thương
Sông Kỳ Lộ Phú Yên
Hà Nội mãi trong tim

Đất Mẹ vùng di sản

Giếng Ngọc vườn Tao Đàn
Sớm xuân kênh Thị Nghè
Sóc Trăng Lương Định Của
Biển Hồ Ngọc Kinh Luân

Đường xuân đời quên tuổi
An vui cụ Trạng Trình
Ban mai chào ngày mới
Việt Nam con đường xanh


https://hoangkimlong.wordpress.com/category/song-yeu-thuong-vo-mai tích hợp phim hay TÔN TỬ ĐẠI TRUYỆN tập 1; tập 2, tập 3, tập 4, tập 5, tập 6, tập 7, tập 8, tập 9, tập 10, tập 11, tập 12, tập 13, tập 14, tập 15, tập 16, tập 17, tập 18, tập 19, tập 20, tập 21, tập 22 , tập 23, tập 24, tập 25, tập 26, tập 27, tập 28, tập 29, tập 30, tập 31, tập 32, tập 33, tập 34, tập 35; https://youtu.be/yVAKhwhn9A0 Bài học lớn muôn đời ; Kế sách một chữ Đồng https://youtu.be/yVAKhwhn9A0 ; Hiền tài bút hơn gươm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hien-tai-but-hon-guom; Cuộc đời cao hơn trang văn. Bảo tồn và phát triển tinh hoa di sản là niềm vui SOI SÁNG LẠI CHÍNH MÌNH, lời dặn của Thánh Trần; #cnm365 gồm những trãi nghiệm sâu sắc nhất về #vietnamhoc đất nước con người của chính mình, gia đình, người thân và thầy bạn; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hien-tai-but-hon-guom

Ngẫm binh pháp Tôn Vũ tập bốn https://youtu.be/m37NI-QUif0 ; Vị tướng của lòng dân https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vi-tuong-cua-long-dan ; tích hợp Tôn Vũ đại truyện https://youtu.be/2nkWreInsFU ; https://youtu.be/5hP1CBZ4hkE

Võ Nguyên Giáp vị tướng của lòng dân. Người dĩ công vi thượng, Biết mình và biết người; Dám đánh và quyết thắng.. Đại tướng Võ Nguyên Giáp có những câu nói bất hủ:Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ sống mãi”; “Ý định của tôi là ra lệnh hoãn cuộc tiến công ngay chiều hôm nay, thu quân về vị trí tập kết, chuẩn bị lại theo phương châm đánh chắc, tiến chắc”; “Ngày hôm đó, tôi đã thực hiện được một quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của mình!”; “Thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn nữa; tranh thủ từng phút, từng giờ; xốc tới mặt trận; giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng!”; Chúng tôi đánh theo cách đánh khác, cách đánh của Việt Nam, và chúng tôi sẽ thắng”; “Vị tướng dù có công lao lớn đến đâu cũng chỉ là giọt nước trong biển cả. Chỉ có nhân dân Việt Nam là người đánh thắng Mỹ. Các ngài gọi tôi là vị tướng thần thoại, nhưng tôi tự nghĩ tôi bình đẳng với những người lính của mình”; “Tôi sống ngày nào, cũng là vì đất nước ngày đó” Cuộc đời Người là 103 mùa xuân huyền thoại, còn mãi với non sông; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vi-tuong-cua-long-dan và video link https://www.facebook.com/watch/?v=1398179880633970 Vị Đại Tướng Của Quân Đội Du Kích Nghèo Khiến Kẻ Thù Cũng Phải Gọi Ông Là Thiên Tài Của Thế Kỷ https://www.facebook.com/MatThan.Official/videos/1992055714310314

VÕ NGUYÊN GIÁP 103 MÙA XUÂN HUYỀN THOẠI

Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911 tại làng An Xá, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, qua đời ngày 4 tháng 10 năm 2013, lúc 18 giờ 9 phút và an táng ngày 9 tháng 9 năm Quý Tỵ (nhằm ngày 13 tháng 10 năm 2013) tại mũi Rồng- đảo Yến, xã Quảng Đông, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Người trãi cuộc trường chinh thế kỷ với 103 mùa xuân huyền thoại, là nhà chỉ huy quân sự và hoạt động chính trị lỗi lạc bên cạnh chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người chỉ huy chính trong Chiến tranh Đông Dương (1946– 1954) và chiến tranh Việt Nam (1960–1975) đã trực tiếp hoặc tham gia chỉ huy Chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947), Chiến dịch Biên giới (thu đông năm 1950), Chiến dịch Trung Du (tháng 12 năm 1950), Chiến dịch Đông Bắc (năm 1951, Chiến dịch Đồng Bằng (tháng 5 năm 1951), Chiến dịch Hòa Bình (tháng 12 năm 1951), Chiến dịch Tây Bắc (tháng 9 năm 1952), Chiến dịch Thượng Lào (tháng 4 năm 1953), Chiến dịch Điện Biên Phủ (tháng 3 – 5 năm 1954), Chiến dịch Tết Mậu Thân (1968), Chiến dịch đường Chín Nam Lào (1971), Chiến dịch Trị Thiên – Huế (1972), Chiến dịch Hồ Chí Minh (1975). Nhiều tài liệu lịch sử gần đây từ hai phía đã soi thấu những góc khuất, càng thể hiện tài năng kiệt xuất của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về chiến lược, chiến dịch, chiến thuật trong suốt Chiến tranh Đông Dương (1946–1954) và chiến tranh Việt Nam (1960–1975). Sau khi Việt Nam thống nhất, đại tướng Võ Nguyên Giáp thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng năm 1980 nhưng vẫn tiếp tục là Ủy viên Bộ Chính trị đến năm 1982 và Phó Thủ tướng phụ trách Khoa học – Kỹ thuật. Năm 1983 ông được Hội đồng Bộ trưởng phân công kiêm nhiệm thêm vai trò Chủ tịch Ủy ban quốc gia dân số và sinh đẻ có kế hoạch. Năm 1991, đại tướng nghỉ hưu ở tuổi 80. Thời gian cuối đời, đại tướng vẫn quan tâm đến những vấn đề cơ bản và cấp bách của đất nước, với một loạt những tác phẩm, kiến nghị, đề xuất còn mãi với thời gian như: Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn sống mãi; Để cho khoa học thật sự trở thành động lực phát triển kinh tế xã hội, Đổi mới, tiếp tục đổi mới, dân chủ, dân chủ hơn nữa, nâng cao trí tuệ, đoàn kết tiến lên trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, Đổi mới nền giáo dục và đào tạo Việt Nam; yêu cầu kiểm định và báo cáo Đại hội Đảng Cộng sản X về Vụ PMU18; gặp gỡ và khuyến khích doanh nhân làm xuất khẩu nông sản; đề nghị dừng chủ trương xây dựng Nhà Quốc hội ở khu di tích 18 Hoàng Diệu; viết thư yêu cầu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tạm dừng Dự án khai thác bô xít ở Tây Nguyên vì lý do an ninh quốc gia và  môi trường; đúc kết Tổng tập Võ Nguyên Giáp;…

Đại tướng Võ Nguyên Giáp có các tác phẩm chính:  Tổng tập Võ Nguyên Giáp (2010); Điện Biên Phủ 50 năm nhìn lại (2004); Tổng hành dinh trong mùa xuân đại thắng (2000); Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử (2000); Đường tới Điện Biên Phủ (2001); Chiến đấu trong vòng vây (1995,2001); Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (1979); Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam (Võ Nguyên Giáp chủ biên, 2000); Những chặng đường lịch sử (1977); Vũ trang quần chúng cách mạng, xây dựng quân đội nhân dân (1972); Những năm tháng không thể nào quên (1970, 2001) Mấy vấn đề đường lối quân sự của Đảng (1970); Từ nhân dân mà ra (1964); Đội quân giải phóng (1950); Vấn đề dân cày (Trường Chinh,Võ Nguyên Giáp (1938);

VÕ NGUYÊN GIÁP VỊ TƯỚNG CỦA LÒNG DÂN

“Văn lo vận nước Văn thành Võ/ Võ thấu lòng dân, Võ hoá Văn”. Đó là đôi câu đối của cụ Hồ Cơ trên 90 tuổi, từng là Hiệu trưởng trường Trung học Nguyễn Nghiêm, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, nay sống ở phường Láng Hạ, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, khái quát tài năng, đức độ của vị Đại tướng huyền thoại, đăng trong bài” Một câu đối – Một đời người ” của VOV. Sự ra đi của Võ Đại tướng đã mở đầu cho những giá trị mới của cuộc sống như một câu đối khác cũng của nhà giáo Hồ Cơ ngưỡng vọng Người: “Trăm tuổi lừng danh Văn Đại tướng/ Nghìn thu vang tiếng Võ Anh hùng”.

Nhà văn Sơn Tùng có bức trướng: “Võ nghiệp dẹp xong ba đế quốc/ Văn tài xây đắp một nhà chung/ Võ Văn minh đạo chân Nguyên Giáp/ Nhật nguyệt vô thường một sắc không”.

Bộ Nội vụ tặng Đại tướng đôi lộc bình trên đó có ghi đôi câu đối mang ý nghĩa sâu xa : “Tâm sáng Đảng tin, đời trường thọ/ Trí cao Dân mến, sử lưu danh.” mà tài liệu Soha.vn đã trích dẫn. Nhiều bài thơ văn nhạc viết về Người và đồng đội “Lính Cụ Hồ” theo chân Người. Nhà thơ Hoàng Gia Cương (**) viết

Mãi mãi là Anh
Kính tặng anh Văn – Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Anh đã là Anh – mãi mãi Anh
Người Anh của lớp lớp hùng binh
Song toàn văn võ, thông kim cổ
Vững chí bền gan đạp thác ghềnh!

Nhiều người ứa nước mắt xúc động tiễn Bác Giáp về cõi vĩnh hằng và thấm thía lời nói của Người về lòng yêu nước và sức mạnh toàn dân:”Có lòng dân là có tất cả”.

Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, đại tá tiến sĩ Vũ Tang Bồng đúc kết: “MÃI LÀ ANH CẢ CỦA QUÂN ĐỘI, ĐẠI TƯỚNG CỦA NHÂN DÂN. Ngày 4-10-2013, Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Người Anh Cả của Quân đội nhân dân Việt Nam, Đại tướng của nhân dân, được cả dân tộc ngưỡng mộ, đã qua đời. Là người có may mắn được gặp và giúp việc cho Đại tướng trong một số lần, trong 5 năm qua, cứ vào dịp kỷ niệm ngày mất của Đại tướng, tôi thường đọc lại những bài viết, hình ảnh trên báo chí những ngày ấy, và lần nào tôi cũng không kìm nổi lòng mình. Tôi còn nhớ, ngay sau khi biết tin Đại tướng từ trần, anh Hoàng Anh, một họa sĩ trẻ đã sáng tác poster “Chào đồng bào, tôi đi” và được Báo Lao động sử dụng làm tranh bìa trong số báo ra ngày 5-10-2013. Đúng 45 phút sau, poster đó được đưa lên Facebook và lập tức gây được sự chú ý đặc biệt. Poster “Chào đồng bào, tôi đi” của người họa sĩ trẻ gây được hiệu ứng lay động bởi hình ảnh của Đại tướng rất giản dị với nụ cười thanh thản. Câu chữ trên poster cũng rất độc đáo với hai chữ “đồng bào”, mà sinh thời Bác Hồ rất thường dùng với nghĩa kêu gọi, gắn kết cội nguồn thân thương, ruột thịt. Poster ấy đã khiến mọi người khi xem đều xúc động mạnh mẽ. Nó cho thấy sự cống hiến và thanh thản của Đại tướng lúc còn sống, cũng như khi về với tổ tiên.”Qua hồi ức của các tướng lĩnh và qua các tác phẩm quân sự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, chúng ta ngày càng thấy rõ rằng, trong suốt cuộc đời cầm quân, Đại tướng không bao giờ chấp nhận một chiến thắng phải trả bằng bất cứ giá nào, hoặc phải trả bằng cái giá quá đắt xương máu của cán bộ, chiến sĩ, do những quyết định tùy tiện, hoặc thiếu thận trọng gây nên. Đừng nghĩ Đại tướng “sợ” hy sinh xương máu, hay thiếu tinh thần cách mạng tiến công! Không, hoàn toàn không! Đại tướng chưa bao giờ nhân danh việc thực hành quan điểm, cách mạng tiến công để đưa ra những mệnh lệnh chủ quan, gây thương vong nghiêm trọng cho bộ đội. Nguyên tắc bất di bất dịch trong chỉ huy và chỉ đạo cuộc chiến tranh cách mạng của Đại tướng là: Tầm cao mỗi chiến thắng phải tỷ lệ nghịch với tổng số tử sĩ, thương binh trong chiến thắng ấy.  Là một vĩ nhân, một vị tướng huyền thoại, một nhà văn hóa lớn, nên ngay cả sau khi đã nghỉ hưu, hằng ngày Đại tướng vẫn đón nhiều đoàn khách đến thăm hỏi, làm việc, gồm khách quốc tế, khách ở các cơ quan Đảng, Nhà nước, các ban ngành đoàn thể…, nhưng Đại tướng luôn dành sự ưu tiên đặc biệt cho các đoàn của cấp ủy, chính quyền và nhân dân các địa phương, trong đó nhiều đoàn không có lịch trước. Ông luôn dặn các cán bộ giúp việc tìm mọi cách bố trí để Ông có thể gặp được đồng bào, dù chỉ trong ít phút. Nhiều lần, Đại tướng phải xin lỗi các đoàn khách quan trọng, hoặc tranh thủ thời gian giải lao giữa các buổi làm việc để tiếp nhân dân. Những lời ân cần thăm hỏi, dặn dò, nhắc nhở, động viên của Đại tướng khiến đồng bào rất xúc động. Đại tướng cũng luôn nhắc các đồng chí giúp việc chụp ảnh kỷ niệm với bà con dưới gốc cây muỗm cổ thụ trong vườn; sau khi có ảnh thì gửi tặng ngay cho bà con. Đại tướng luôn chinh phục người khác bằng cách ứng xử tự nhiên và bằng tình cảm chân thành. Được chứng kiến lòng dân trong những ngày diễn ra lễ tang Đại tướng, chúng ta thấy rõ, cả dân tộc đã cùng xích lại gần nhau trong nỗi đau chung. Nhìn dòng người vào viếng Đại tướng trong những ngày đầu tháng 10-2013 cứ ngày một dài thêm, có thể thấy, không thước đo nào bằng thước đo lòng dân. Hàng triệu người dân từ già đến trẻ ở khắp mọi miền đất nước, từ miền núi đến đồng bằng, nông thôn, hải đảo đã vượt mọi khó khăn, xa xôi, vất vả, lặng lẽ, kính cẩn xếp hàng ở khu vực nhà riêng của Đại tướng và Nhà tang lễ quốc gia, chờ đến lượt vào viếng vị anh hùng, đã cho thấy cả dân tộc nắm tay nhau kết thành một khối thống nhất; qua đó, tinh thần dân tộc trong mỗi người Việt Nam càng được khơi dậy, phát huy. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đi xa, nhưng vẫn mãi là Người Anh Cả của Quân đội, Đại tướng của nhân dân, là ngọn lửa không bao giờ tắt, là nguồn cảm hứng sống và cống hiến của các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau.”

Bác Giáp là vị tướng của lòng dân mà hầu như ai cũng yêu kính rất mực.

Gia đình tôi cũng vậy. Buổi tối về nhà, nghe tin Bác Giáp mất, chúng tôi đã dừng hết mọi việc để lên thắp hương trên bàn thờ Cha Mẹ để tưởng nhớ Người và tưởng nhớ Bác Giáp. Bài viết này vào lúc một giờ khuya và nối tiếp vào sáng hôm sau. Cha tôi sinh năm 1913 nhỏ hơn Bác Giáp ba tuổi, bị máy bay Mỹ bắn chết năm 1968 vào ngày 29 tháng 8 âm lịch, trước Bác Giáp mất (30/8 al) một ngày. Sinh thời cha tôi là lính Vệ Quốc Đoàn cùng tiểu đội với bác Lê Văn Tri sau này là Phó Tư Lệnh Quân chủng Phòng Không Không Quân. Anh trai tôi là Hoàng Trung Trực và tôi sau này cũng đều tham gia quân đội. Cha vợ tôi, cụ Nguyễn Đức Hà 91 tuổi ở Đức Long, Phan Thiết, nghe tin Bác Giáp mất, cụ đã đi xe đò từ lúc 2 giờ khuya để mờ sáng kịp vào Đồng Nai cùng con cháu đi viếng Bác. Cụ là chiến sĩ quân báo của đơn vị 415 ban 2 trung đoàn anh hùng 812 tỉnh đội Bình Thuận. Cụ đã bị lao tù hai lần và chỉ được ra khỏi tù khi bộ đội vào giải phóng lao xá năm 1975. Cụ đã rất xúc động khi viết vào sổ tang của người anh Cả quân đội.

Tôi lần đầu tiên và dường như duy nhất trong đời đeo huân chương đi viếng Bác. Giáo sư Nhật Kazuo Kawano một người thân của gia đình sắn Việt Nam, người Thầy danh tiếng này đã xúc động viết về bác Giáp :”Mười năm hợp tác chặt chẽ với các đồng nghiệp chọn tạo giống sắn của tôi từ những năm 1990 và nay gặp lại họ trong chuyến đi này đã hoàn toàn thay đổi sự đánh giá của tôi về Việt Nam. Bằng chứng trong hàng loạt các báo cáo của tôi ở đây, thì họ thật siêng năng, sâu sắc, chu đáo và dường như không biết mệt mỏi để noi theo gương của Đại tướng Võ Nguyên Giáp“.(My ten years of close collaboration with my cassava breeding colleagues in the 1990s and the reunion with them in this trip completely changed my assessment of the Vietnamese. As evidenced by the series of my reporting here, they are industrious, insightful, considerate and indefatigable, as if to emulate General Vo Nguyen Giap …”.  In: Cassava and Vietnam: Now and Then)…

VÕ NGUYÊN GIÁP CÒN MÃI VỚI NON SÔNG

“Phải thật công khai, thật công phu, thật công bằng và thật công tâm khi nghiên cứu về Võ Nguyên Giáp”, câu nói này của thượng tướng Trần Văn Trà thật minh triết và thật ám ảnh. Bài viết của Lê Mai ‘Võ Nguyên Giáp trong mắt Trần Văn Trà’, tôi thường đọc lại.  Trần Văn Trà nhận định: “Suốt hai cuộc kháng chiến, tôi chưa hề thầy Bí thư Quân ủy Trung ương kiêm Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp mắc một sai lầm nào về chiến lược và chiến thuật quân sự; tôi chỉ thấy Anh Văn đi những nước cờ bậc thầy để vây hãm và tiến công quân địch”. Đó thật sự là một tổng kết rất sâu sắc của một danh tướng Việt Nam đối với Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Ngày 20 tháng 4 năm 1996 là ngày mất của Thượng tướng Trần Văn Trà (1919-1996).“Ra đi hai bàn tay trắng. Trở về một dải giang san. “Trăng xưa, hạc cũ”, dòng sông lặng. Mây nước yên bình, thiên mã thăng”.

Nhà sử học Dương Trung Quốc nhận định: “Võ Nguyên Giáp là một tên tuổi lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam và càng lớn hơn trong tâm thức những người sống cùng thời với ông. Cuộc đời Võ Nguyên Giáp là một tấm gương phản chiếu của gần trọn thế kỷ XX, thế kỹ dữ dội nhất và cũng bi hùng nhất của dân tộc Việt Nam.”

John Kennedy phỏng vấn đại tướng Võ Nguyên Giáp và đã viết bài “Trí tuệ bậc Thầy” đăng trên tạp chí George tháng 11 năm 1998, bản tiếng Việt trong sách Hữu Mai 2011 “Không là huyền thoại” (tái bản lần thứ tư) trang 564-569. John Kennedy đã viết: “Giáp từng nói: Chúng ta sẽ đánh bại địch ngay lúc chúng đông quân nhất, nhiều vũ khí nhất, nhiều hi vọng chiến thắng nhất. Bởi vì tất cả sức mạnh đó sẽ làm thành áp lực nặng nề cho địch” Bởi vậy ông chiến đấu theo cách của riêng ông, không theo kiểu của người Mỹ , giao chiến với địch ngay tại nơi và ngay khi địch ít ngờ tới nhất. Ông đã huy động tất cả mọi người tham gia cuộc chiến, làm cho lính Mỹ xa nhà hàng ngàn dặm, không bao giờ có thể cảm thấy an toàn. Ông đã duy trì cuộc chiến đấu dai dẵng, làm cho nguồn lực và nhuệ khí của địch cạn kiệt, trong khi phong trào phản chiến ở Mỹ bùng phát“. Đó là một cách lý giải về nghệ thuật chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kỳ mà tướng Giáp là trí tuệ bậc Thầy.

Trần Đăng Khoa kể về một ông già bản mà nhà thơ đã gặp trên đường vào Mường Phăng. Ông già hồ hởi: ” Chuyện Đại tướng chứ gì? Đại tướng thì tôi biết. Tôi cũng đã mấy lần gặp Đại tướng rồi. Vùng này là quê của Đại tướng đấy. Năm nọ Đại tướng có về quê. Đại tướng nói chuyện với đồng bào bằng tiếng dân tộc. Đại tướng là già làng của chúng tôi đấy. Nhà Đại tướng ở chỗ kia kìa…” Nói rồi, ông già chỉ lên núi Mường Phăng. Một dải rừng xanh um giữa mênh mông đồi trọc. Ở Điện Biên và cả mấy vùng lân cận, rừng cơ bản đã bị phá xong. Nửa đêm, tôi còn thấy những dải lửa cháy rừng rực vắt giữa lưng chừng trời. Đồng bào đốt nương đấy. Chẳng còn cách nào ngăn được. Đói thì phải phá rừng. Rừng núi nhiều nơi đã trơ trụi, nhưng Mường Phăng thì vẫn um tùm rậm rạp như rừng nguyên sinh. Tôi đã đi dưới những tầng cây ấy, nghe chim rừng hót ríu ran. Một làn suối âm thanh trong trẻo và mát rượi rót xuống từ lưng chừng trời. Không một rảnh cây nào bị chặt phá hay bị bẻ gẫy. Ở đây, người dân còn đói cơm, thiếu mặc, nhưng họ vẫn nâng niu gìn giữ khu rừng. Họ tự đặt tên cho khu rừng là “Rừng Đại tướng”. Đấy là ngôi đền thiêng, ngôi đền xanh thiên nhiên mà người dân đã tự lập để thờ ông. Đối với vị tướng trận, đó là hạnh phúc lớn. Một hạnh phúc mà không phải ai cũng có được trong cõi trần này…

Bác Giáp từng khoác áo dân sự, như ảnh chụp và lời ông Đoàn Sự nguồn VOA, nhưng dường như ngôi vị lãnh đạo tối cao ở Việt Nam, và những quyết sách quan trọng nhất về bảo tồn phát triển quốc gia còn bị chi phối bởi nhiều mối tương quan, tầm nhìn khác.

Chiến tranh đã qua lâu, đã có cả núi sách của phương Tây và Việt Nam viết về cuộc chiến này với nhiều nghiên cứu công phu về đánh giá thời cuộc. Sự khai sinh của nước Việt Nam mới và cuộc chiến giành độc lập thống nhất Tổ quốc gắn liền với tên tuổi của Võ Nguyên Giáp, con người đã sống chết trung hiếu với đất nước mình.

vonguyengiap4

VÕ NGUYÊN GIÁP TỰ TRONG SÂU THẲM

Võ Nguyên Giáp, Văn Cao  “Im lặng mà bão giông, khoảnh khắc mà trường cửu, tưởng như vô định nhưng đang thấu mọi cõi…” bức ảnh của Nguyễn Đình Toán thật đẹp và cảm khái.  Tôi cũng tưởng sẽ có một khoảng lặng mới quay lại với những bài viết về đại tướng Võ Nguyên Giáp khi tôi đã đăng liên tục mười bài về Người trên DANH NHÂN VIỆT (***) nhưng tự trong sâu thẳm vẫn không thể cưỡng được ý muốn viết tiếp đôi lời.

Giáo sư Nguyễn Huệ Chi trong bài viết “Tướng Giáp, người anh hùng của độc lập Việt Nam, đã qua đời”  có những lời thật thấm thía: “Giải tỏa tấn bi kịch vô hình khủng khiếp đè lên con người đó, bỏ qua mọi thứ “công tội” do chính cái chủ nghĩa mà con người đó theo đuổi, trả lại cho con người đó cái giá trị đích thực của một vị tướng đánh trận tài năng, phải nói chính là vòng tay ân nghĩa của nhân dân“.“Về nghỉ là thượng sách. Thử điểm lại lịch sử xưa nay có tướng nào giành được chiến công lẫm liệt mà không đi kèm thân bại danh liệt hay không?”.

Võ Nguyên Giáp ẩn số Chính Trung tinh anh của dân tộc Việt.

Võ Nguyên Giáp còn mãi với non sông. Vị tướng của lòng dân.

Hoàng Kim

Ghi chú và trích dẫn

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là e26af-vonguyengiap1.jpg

VỊ TƯỚNG CỦA LÒNG DÂN
Hoàng Kim

Hôm nay ngày Chín tháng Chín Quý Tỵ.
Bác Văn ơi thành kính tiễn Người
“Cái tôi hoàn lại đất trời
Trả tôi mặt mũi muôn đời chưa sanh”

Bác về vùng đất địa linh
Mũi Rồng Đảo Yến, Quảng Bình quê ta.

Người là Võ Đại Thánh
Hộ Quốc Đại Tướng Quân
Ở chính đạo Trung tâm
Hoành Sơn Linh Giang
Đèo Ngang gánh hai đầu Đất Nước.

Người về gặp các bậc chí nhân
Trần Quốc Tuấn,
Trần Nhân Tông,
Hồ Chí Minh, …
Thanh thản giấc muôn đời.
“Tôi bình đẳng với những người lính của tôi”

Lớp lớp cháu con
thành kính tiễn biệt Người
Lớp lớp cháu con
noi gương Người
ra chiến hào cầm súng.
Đất nước bình yên
lại trở về đời thường
cầm bút cầm cày
trong yêu thương, thanh thản.
Gìn giữ “non sông muôn thuở vững âu vàng“.
Tiễn biệt Người, vị tướng của lòng dân.

Bác Văn, vị tướng của lòng dân: Dân nhớ
Kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương
Thương đêm thiêng hạnh phúc
Tôi cô đơn như một ngọn cờ
Văn Cao Mùa xuân đầu tiên
Bác Văn cùng  bác Giàu
cặp song sinh thế kỷ
Thích Vị tướng già
Bác Văn đệm đàn
cho Trần Tiến hát
Tổng tập hồi ký
Bác lưu danh
Dạy và Học
Làm Người.
Bác Văn ơi
thành kính
tiễn Người

Hoàng Kim

Tư liệu

Chùm ảnh gia đình cùng nhân dân cả nước tiễn biệt Đại tướng

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 0fc7c-dsc02453.jpg
ViengbacGiap1


ViengBacGiap
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 29e13-nhonguoi.jpg

Báo Tuổi Trẻ ngày 13.10 Nhân dân khóc tướng Võ, đất nước tiễn anh Văn

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là aa2c6-vonguyengiap4.jpg

Báo Tiin (Theo: Quân đội nhân dân) trực tiếp lễ viếng

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là e7632-nhe1bb9bngc6b0e1bb9di2.jpg

Báo Dân Trí: Lễ viếng Đại tướng

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là eaf8b-dsc02467.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 79c15-dsc02491.jpg

Đại tướng Võ Nguyên Giáp trên Danh nhân Việt

Đại tướng Võ Nguyên Giáp trên Danh nhân Việt

1) Nhân cách lớn của đại tướng Võ Nguyên Giáp
2) Tướng Giáp trí tuệ bậc Thầy
3) Võ Nguyên Giáp sao sáng trời Nam
4) Võ Nguyên Giáp vị nhân tướng khuyến học
5) Võ Nguyên Giáp thiên tài quân sự
6) Đại tướng Võ Nguyên Giáp chân dung một huyền thoại
7) Võ Nguyên Giáp đọc lại và suy ngẫm
8) Đọc lại và suy ngẫm Tết Mậu Thân 1968
9) Võ Nguyên Giáp vị tướng của lòng dân
10) Đại tướng Võ Nguyên Giáp những câu nói bất hủ

Thơ yêu thích 

VỊ TƯỚNG GIÀ
Tiễn biệt Người, vị đại tướng của nhân dân
Anh Ngọc 94 

Những đối thủ của ông đã chết từ lâu.
Bạn chiến đấu cũng chẳng ai còn nữa.
Ông ngồi giữa thời gian vây bủa.
Nghe hoàng hôn chầm chậm xuống quanh mình.
Bàn chân đi qua hai cuộc chiến tranh.
Giờ chậm rãi lần theo dấu gậy.
Đôi bàn tay nhăn nheo run rẩy.
Đã từng gieo khủng khiếp xuống đầu thù.
Trong góc vườn mùa thu.
Cây lá cũng như ông lặng lẽ.
Tám mươi tuổi ông lại như đứa trẻ.
Nở nụ cười ngơ ngác thơ ngây.
Ông ra đi
Và…
Ông đã về đây.
Đời là cuộc hành trình khép kín.
Giữa hai đầu điểm đi và điểm đến.
Là một trời nhớ nhớ với quên quên.
Những vui buồn chưa kịp gọi thành tên.
Cõi nhân thế mây bay và gió thổi.
Bầy ngựa chiến đã chân chồn gối mỏi.
Đi về miền cát bụi phía trời xa.
Ru giấc mơ của vị tướng già.
Có tiếng khóc xen tiếng cười nức nở.
Một chân Ông đã đặt vào lịch sử.
Một chân còn vương vấn với mùa thu.

Võ Nguyên Giáp trong mắt Trần Văn Trà
Lê Văn

Báo chí cho hay, đến nay ở VN và trên thế giới đã có tới 120 cuốn sách, không kể vô số những bài báo, bài nghiên cứu về Võ Nguyên Giáp. Có một nghịch lý, hình như những sự kiện lịch sử, những yếu nhân lịch sử của VN lại được các tác giả nước ngoài nghiên cứu nhiều hơn, sâu hơn, đầy đủ hơn là các tác giả trong nước.  Vì sao vậy? Ta mà chưa hiểu hết ta. Và ta thường hay tự ca ngợi mình: “Ôi ta là ta mà ta vẫn cứ mê ta” (Chế Lan Viên).

Nhưng nghiên cứu về Võ Nguyên Giáp thì rõ ràng chưa đủ, càng không thể đầy đủ nếu chỉ căn cứ vào sách báo trong nước. Như nhiều người khác, tôi cũng có một số cuốn sách về Võ Nguyên Giáp, tỷ như Võ Nguyên Giáp của Geogres Boudarel, nhà sử học Pháp; Chiến thắng bằng mọi giá của Celcil B.Currey, một sử gia quân sự Hoa Kỳ; Võ Nguyên Giáp – một sự đánh giá của Peter MacDonald, sử gia quân sự người Anh và tất nhiên – còn nhiều cuốn sách khác của các tác giả trong nước.

Sách của các tác giả nước ngoài nhìn chung khách quan, có những phân tích, đánh giá rất sâu sắc con người, tài năng và sự nghiệp của tướng Giáp. Họ lưu ý đến nhiều vấn đề, nhiều chi tiết có khi rất nhỏ nhưng lại có ý nghĩa lớn. Họ quan tâm đủ mọi thứ. Tuy nhiên, chưa thể coi các cuốn sách ấy đã là đầy đủ, hoàn hảo về Võ Nguyên Giáp. Chắc rằng thời gian tới sẽ có rất nhiều công trình nghiên cứu về Võ Nguyên Giáp – nhất là khi ông đã về cõi vĩnh hằng.

Mong ước nghiên cứu đầy đủ, khách quan về Võ Nguyên Giáp là mong ước cháy bỏng của tướng Trần Văn Trà. Ông là một danh tướng cùng thời với Võ Nguyên Giáp, là cấp dưới của ông Giáp. Trần Văn Trà là Tư lệnh B2, địa bàn chiến lược quan trọng nhất trong cuộc chiến với người Mỹ. Sau khi Hiệp định Pari được ký kết, Trần Văn Trà được cử làm Trưởng đoàn quân sự của Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Ban Liêp hiệp quân sự bốn bên, Sài Gòn. Sau ngày 30.4.1975, có một thời gian ông là Chủ tịch Ủy ban quân quản thành phố Sài Gòn – Gia Định. Ba ông “họ Trần”: Trần Văn Giàu, Trần Văn Trà, Trần Bạch Đằng là ba nhân vật lừng danh một thời vang bóng tại Sài Gòn cũng như miền đất Nam Bộ.

Tác phẩm nổi tiếng của Trần Văn Trà: Những chặng đường lịch sử của B2 thành đồng, mới xuất bản được Tập 1: Hòa hay chiếntranh và Tập 5: Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm. Nghe nói, Lê Đức Thọ phán, cuốn sách ấy sai từ đầu đến cuối, sách bị thu hồi nhưng nay đã được in lại.

Tháng 3.1992, tướng Trà đồng ý trả lời phỏng vấn của Nhật Hoa Khanh – tác giả Gặp Tố Hữu tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng, về nhân vật lịch sử Võ Nguyên Giáp. Nhật Hoa Khanh – nhà nghiên cứu lịch sử VN hiện đại rất đặc sắc, đã công bố nhiều bài nghiên cứu rất có giá trị, hấp dẫn.

Bài trả lời phỏng vấn của Trần Văn Trà về Võ Nguyên Giáp có nhiều luận điểm cực kỳ sâu sắc, gợi lên cho giới nghiên cứu nhiều suy nghĩ. Võ Nguyên Giáp hiện lên trong mắt Trần Văn Trà đầy tài năng và nhân cách.

Nghiên cứu về Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Trà cho rằng “phải thật công khai, thật công phu, thật công bằng và thật công tâm” – bốn chữ “thật” rất đắt giá trong cách diễn đạt. Đã nghiên cứu về Võ Nguyên Giáp là phải “thật công khai”: công khai tư liệu, công khai quan điểm, công khai sự kiện; công khai trong nước, ngoài nước. “Thật công phu” vì với một trí tuệ bậc thầy, siêu việt như Võ Nguyên Giáp, nếu nghiên cứu một cách hời hợt, bề ngoài, không đi sâu vào bản chất, vào quy luật, không hiểu được những nước cờ quân sự thiên tài của ông, không rút ra được các bài học thì làm sao thuyết phục?

“Thật công bằng” nghe qua tưởng đơn giản nhưng khó làm sao! Ông Trần Bạch Đằng từng phát biểu: “Tất cả chúng ta đều có thắc mắc giống nhau: Kỷ niệm 30 năm chiến thắng Điên Biên Phủ mà không nhắc đến tên đồng chí Võ Nguyên Giáp. Lịch sử là lịch sử, nếu thiếu chân thật, sẽ ảnh hưởng đến đạo lý”. Rằng Điện Biên Phủ thắng lợi là nhờ cố vấn TQ. “Họ” không biết rằng, nếu nghe lời cố vấn TQ tấn công theo kiểu “biển người”, thất bại là chắc chắn và cuộc kháng chiến đã phải lùi lại mười năm. “Họ” còn nói, tổng tấn công năm 1975, đồng chí (…) là Bí thư Quân ủy Trung ương chứ không phải ông Giáp. Rồi cuốn Đại thắng mùa xuân của Văn Tiến Dũng nghe nói bị độc giả phản ứng, phải sửa tới 30 chỗ. Lịch sử rất công bằng. Cho nên, “thật công bằng” đi liền với “thật công tâm”.

Trần Văn Trà nhận định: “Suốt hai cuộc kháng chiến, tôi chưa hề thầy Bí thư Quân ủy Trung ương kiêm Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp mắc một sai lầm nào về chiến lược và chiến thuật quân sự; tôi chỉ thấy Anh Văn đi những nước cờ bậc thầy để vây hãm và tiến công quân địch”. Đó phải chăng là sự tổng kết rất sâu sắc của một danh tướng đối với Võ Nguyên Giáp.

Trần Văn Trà chỉ rõ, Võ Nguyên Giáp “là một Tổng tư lệnh biết đau với từng viết thương của mỗi người lính, biết tiếc từng giọt máu mỗi chiến binh”.

Đó cũng là quan điểm cốt tử trong tư tưởng quân sự Võ Nguyên Giáp: giành thắng lợi cao nhất đi đôi với tổn thất thấp nhất. Ông nói, phải sử dụng cái đầu của người lính chứ không phải thân thể họ. Nếu ông Giáp không ra lệnh hoãn cuộc tấn công, hàng loạt tướng lĩnh, chỉ huy ưu tú và bộ đội đã hy sinh ở Điện Biên. Cho nên, những tướng lĩnh và người lính coi ơn ấy là ơn cứu mạng vậy. Nếu để ông toàn quyền trong các chiến dịch Mậu Thân 68, Xuân hè 72 thì tình hình chắc đã khác. Trần Văn Trà nêu rõ: “nếu thực hiện cách đánh thận trọng hơn theo quan điểm của Anh Văn thì chắc chắn số lượng thương binh và tử sỹ sẽ ít hơn, số lượng chiến sỹ còn sống và còn khỏe sẽ nhiều hơn, chẳng những thế, chiến thắng sẽ lớn hơn nữa”.

Trần Văn Trà cũng nhận xét rất chính xác, rằng Võ Nguyên Giáp là con người bao dung, độ lượng. Đối với những người hiểu lầm hoặc cố tình hiểu lầm, ghen ghét, đố kỵ tài năng…Võ Nguyên Giáp vẫn tiếp tục cư xử một cách nhã nhặn và bình thản. Ông chỉ nói về cái tốt, cái đúng của đồng đội, chưa bao giờ thanh minh cho bản thân mình một vấn đề gì.

Một vấn đề rất lý thú nữa mà Trần Văn Trà nêu lên, đó là cách gọi Võ Nguyên Giáp như thế nào cho đúng nhất. Gọi “Đại tướng”không có gì sai nhưng không biểu hiện được vai trò đứng đầu toàn quân của Võ Nguyên Giáp và mối quan hệ rất khăng khít của ông đối với toàn quân. Nên gọi “Tổng tư lệnh” hoặc “Anh Văn”.

Gọi “Tổng tư lệnh” là cách gọi một cách trang trọng. Võ Nguyên Giáp là tư lệnh của các tư lệnh, chính ủy của các chính ủy. Ông đứng vững trên vị trí Tổng tư lệnh liên tục 30 năm, hạ đo ván 7 tướng lĩnh đứng đầu của Pháp và 3 tướng lĩnh đứng đầu của Hoa Kỳ, tài năng ấy thật phi thường, khó ai có thể so sánh. Cho nên, muốn gọi Võ Nguyên Giáp theo chức vị một cách trang trọng, “tôi cho rằng gọi Tổng tư lệnh đúng hơn cả” – tướng Trà kết luận.

Điều này hoàn toàn đúng. Càng đúng hơn vì bây giờ chúng ta thấy, VN có không ít Đại tướng, lại có cả Đại tướng chưa qua quân đội một ngày nào, nói chi đến chiến công. Ngày trước, ngay như Trần Văn Trà được phong Trung tướng năm 1959 và tới 15 năm sau ông mới được phong Thượng tướng.

Còn gọi Anh Văn là gọi một cách thân mật. Tất nhiên, không phải ai cũng có thể gọi Anh Văn, vì điều đó còn phụ thuộc vào tuổi tác, mối quan hệ công tác, quan hệ thân thuộc nữa. Gọi Anh Văn vừa nói lên vai trò Anh Cả của Võ Nguyên Giáp trong quân đội, vừa nói lên quan hệ vô cùng mật thiết của ông đối với toàn quân. Và chúng ta biết, Hồ Chí Minh thường gọi Võ Nguyên Giáp một cách trìu mến mà thâm thúy: chú Văn.

Chính vì tất cả những điều đó mà trong mắt Trần Văn Trà, Võ Nguyên Giáp giành được sự yêu mến gần như tuyệt đối của toàn quân, toàn dân. Đây là điều mà hẳn chúng ta ai cũng đồng ý và lấy làm tự hào.

Lê Mai

(Ngày 7.10.2013 – những ngày tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp)

NGẪU HỨNG TRẦN TIẾN 22
Trần Tiến

Thưa Bác

Sáng nay con đi tập thể dục. Có hai thằng cha ghét nhau, chỉ muốn giết nhau, đã ngồi hút thuốc cạnh nhau bên bờ bãi trước. Những ngón tay cứ khum khum che lửa, ngón tay của dân một đời sóng gió. Chắc họ tha thứ cho nhau trước Bác và trước Biển.

Thưa Bác,

Cả ngày con ngồi xem người Việt tiễn Bác trên ti vi. Mặc dù 20 năm nay con không xem Tivi, kể cả bọn Holywood làm phim, con mê lắm, chúng nó bỗng trở nên nhạt nhoà.

Cả nước hình như cũng vậy. Suốt ngày ở đây chỉ có tiếng nhạc cầu siêu thiêng liêng và những khúc ca một thời hào hùng. Lần đầu tiên, con được sống trong âm nhạc thanh khiết ở Vũng Tàu. Những người khoẻ mạnh đều về thành phố tiễn Bác. Con bệnh quá không đi được, đành ngồi với mấy cựu chiến binh già. Chẳng ai còn giọt nước mắt nào chảy xuống. Nhưng ở đâu, sâu thẳm trong lòng, chúng con đều có một dòng chảy ngược lên.

 Sống trên đời, nếu có thể, hãy làm một điều tốt nào đó cho người khác. Nhiều hơn cho mình.

Đêm qua, Bác về đỉnh núi nơi ở của đại bàng, lặng ngắm biển quê hương. Trên dãy núi Lớn ở đây, sáng nay, mây đen quần vũ. Thương đại bàng nơi này không có vinh hạnh ở bên Bác.

Có cậu doanh nhân cứ điện thoại cho con bằng được, để nhờ viết bài hát cầu siêu Bác. Họ đã chung tiền nhau làm một tượng lớn như đức Thánh Trần, như Quan Công của Trung Quốc. Họ bảo,còn yêu Bác hơn. Bác là vị thánh của người Việt, linh hơn, lại gần gũi hơn.

– Tôi không viết được đâu, nhờ người khác đi.

– Chúng tôi thấy hình anh ngồi chơi đàn với Đại tướng, đăng đầy trên mạng này.

– Nhưng tim tôi quá bé, không chứa nổi một nhân cách quá lớn như Bác đâu.

Con chợt nhớ bản giao hưởng “Anh hùng” của Beethoven gửi tặng Napoleon. Nhưng tác giả đã xé đi lời tặng, khi biết tin quân Pháp tràn sang Đức, quê hương. Về binh pháp và nhân cách, Napoleon còn thua xa Bác Giáp nhà mình. Con nghĩ vậy,chả biết có đúng không.

Ngày được gặp Bác, con run quá, hát câu nọ sọ câu kia. Bác ngồi lặng yên nghe. Chẳng nói gì. Rồi cả nhà bừng lên, khi cháu nội Bác bi bô bài ca Đồi Him Lam gì đó. Mắt Bác lúc đó mới thấy vui. Bác chỉ vui khi nhớ lại một thời đẹp đẽ. Cái thời dành lại độc lập sao đẹp thế, Bác nhỉ. Viết đến đây con muốn khóc. Cái thời người Việt hi sinh tất cả để có Độc lập. Sao đẹp đến thế. Bác ơi.

Cô Đặng Anh Đào dạy văn con, một hôm bảo “Tiến đến hát cho anh Văn nghe bài “Tôi cô đơn như một ngọn cờ đi”, anh Văn thích nghe bài đó lắm”. Cô là em Đại tướng phu nhân, nên con tin.

Đại tướng đệm đàn cho nhạc sỹ Trần Tiến hát “Tôi cô đơn như một ngọn cờ”.

Bây giờ, Bác xa rồi, con vẫn nhớ đôi mắt lặng yên của Bác khi nghe bài hát về nỗi cô đơn của người anh hùng. (Bài hát tôi viết, khi đọc những dòng chữ cuối cùng trong nhật ký của bác sỹ Đặng Thuỳ Trâm)

Tôi cô đơn như một ngọn cờ
Ngọn cờ bão giông
Ngọn cờ khát khao
Ngọn cờ xé nát trong lòng đạn thù
Ngọn cờ quấn quanh thi hài người lính
Ngọn cờ vút bay trong niềm khao khát Tự do…

Bác có giây phút nào cô đơn không. Chắc là không. Con người Bác lớn hơn nỗi cô đơn thường tình của người anh hùng nhiều lắm. Bác là Thánh rồi. Những ngày nằm bệnh, Bác vẫn thầm thì căn dặn. Tưởng như quanh mình, vẫn còn đó bóng đồng đội thân yêu, áo trấn thủ sờn rách, chân đi dép cao su run run cơn sốt rét.

“… Bôxit, Bô xít… Tây nguyên,… Tây nguyên.
Đừng để kẻ thù nhòm ngó nước ta…”

Bác ơi, con lại khóc rồi.

Những vị anh quân, những vua hiền như Bác, như Cụ Hồ, …cứ suốt đời lo cho người khác thế ư.

Con người có nhiều cách sống riêng.

Con thường trọng những người sống từng ngày cho người khác… Nhiều hơn cho mình.

Đọc lại và suy ngẫm
Tôi tích hợp các bài viết Vị tướng của lòng dân về chung một thư mục
“Chào ngày mới 13 tháng 5”
“Ngẫu hứng Trần Tiến 22”

521e9-muirong01
Lịch sử Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
500 năm sau, trong tâm thức người dân

hẳn còn Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp

vonguyengiap999

Võ Nguyên Giáp ẩn số Chính Trung. Chào ngày mới 25 tháng 8. Bước ngoặt lịch sử Việt Nam mới khởi đầu bằng bước ngoặt lịch sử chiến tranh Đông Dương, đọc lại và suy ngẫm. Năm 1883 Chính phủ Pháp và triều Nguyễn ký kết Hòa ước Quý Mùi, xác lập quyền bảo hộ lâu dài của Pháp trên toàn bộ Việt Nam. Năm 1911, ngày sinh Võ Nguyên Giáp, chính khách và danh tướng Việt Nam. Năm 1945,  Cách mạng tháng Tám: Bảo Đại đọc chiếu thoái vị tại Huế, kết thúc nhà Nguyễn.

Nguyen Hien viết:  “Anh Hoàng Kim ơi, Vương Triều Nguyễn đã hàng CMT8 sau gần 200 năm trị vì, mở mang bờ cỏi về phía nam và hướng ra biển, để lại cho nhân loại nền văn hóa được gọi là văn hóa Huế. Hoàng tử Vĩnh San (Hoàng Đế Duy Tân) để lại cho nhân loại án văn chương Tiếng nói của vạn vật thể hiện bằng văn phong Pháp cũng trở thành áng văn bất hủ (nhà văn Nguyên Ngọc, tác giả của Đất nước đứng lên đã chuyển ngữ sang tiếng Việt) năm 1987 nhà nước Pháp cùng với chính phủ Việt Nam đã đưa hài cốt Đức Duy Tân an táng tại Huế, một lần nữa nhà thơ Nguyễn Duy lại thể hiện trong thơ : “Bao Triều Vua phế đi rồi Người yêu nước chẳng mất Ngôi bao giờ …”

Tôi trả lời Nguyen Hien trao đổi về nhận thức của riêng mình:  Hồ Chí Minh – Ẩn số Việt Nam  đã hiểu đúng Dịch lý và giành được lợi thế trong bối cảnh quốc tế nhiễu loạn lúc đó.

https://www.youtube.com/embed/IHv3nQovuik?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent
“Đó là lãnh tụ của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thành công nhất mà chúng ta thấy trong thế kỉ này”.

Vì sao Hồ Chí Minh, Bảo Đại, Trần Trọng Kim, Ngô Đình Diệm không hợp tác được để thành lập một nước Việt Nam mới ? Nghiên cứu lịch sử đang làm sáng tỏ Minh triết Hồ Chí Minh.

Sự cân nhắc đúng tầm mức chi phối thời cuộc của Pháp, Trung Hoa Dân Quốc, Anh, Trung Hoa Cộng sản, Mỹ, Nga. Sự lợi dụng mau lẹ và kiên quyết trước phong trào vô sản quốc tế và cộng sản đang trỗi dậy, ngọn nến hoàng cung vương triều Nhà Nguyễn phong kiến đang suy tàn nhưng có những lực cản thật mạnh mẽ, hệ thống thuộc địa thực dân cũ đã lung lay và hệ thống thực dân mới đang chuyển đổi nhanh chóng, Sự đánh giá đúng tầm vóc và vị thế lịch sử của Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng,  Huỳnh Thúc Kháng, Hoàng Đế Duy Tân, Bảo Đại, Trần Trọng Kim, Ngô Đình Diệm, Hoàng Xuân Hãn, Phạm Quỳnh,  Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Trường Tam, Phan Văn Giáo …  Đó là bài học lịch sử có giá trị và tầm vóc đặc biệt to lớn.

ChinhphuHoChiMinh1961

Lãnh đạo Đảng và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bài ca mùa xuân 1961, (ảnh Phan Chí)  soi thấu bước ngoặt lịch sử chiến tranh Đông Dươngminh triết Hồ Chí Minh.

Cụ Hồ Chí Minh đã có bài thơ hay đối thoại với trăng để nói CON NGƯỜI và ĐẤT NƯỚC:“Trăng rằng tôi kính trả lời ông. Tôi đã từng soi khắp núi sông. Muốn biết tự do chầy hay chóng. Thì xem tổ chức khắp hay không. Nước nhà giành lại nhờ gan sắt. Sự nghiệp làm nên bởi chữ đồng. Tổ chức tuyên truyền càng rộng rãi. Tức là cách mạng chóng thành công”.

Ngày 7 tháng 10 năm 1946, nếu Chủ tịch Hồ Chí Minh không thoát hiểm Việt Nam sẽ đi về đâu?

Chủ tịch Hồ Chí Minh và đại tướng Võ Nguyên Giáp ngày 7 tháng 10 năm 1947, nếu không thoát hiểm thì Việt Nam sẽ đi về đâu? câu hỏi của  bước ngoặt lịch sử chiến tranh Đông Dương.

ChinhphuTranTrongKim
Ngược dòng lịch sử, ngày 17 tháng 4 năm 1945, thành phần chính phủ Trần Trọng Kim tại Huế, sau khi Phạm Quỳnh cùng toàn thể thượng thư sáu bộ trong triều đình Huế xin từ chức.

TuongGiapansoChinhTrungTướng Giáp là ẩn số Chính Trung. Cách mạng là sửa lại cho đúng để hợp thời thế. Chí Thiện là Chính Trung dĩ bất biến ứng vạn biến. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491– 1585) trong Trung Tân quán bi ký, viết năm 1543 có nói: Vẹn toàn điều Thiện là Trung, không vẹn toàn điều Thiện thì không phải là Trung. Tân là cái bến, biết chỗ dừng lại là bến chính, không biết chỗ dừng lại là bến mê… Nghĩa chữ Trung chính là ở chỗ Chí Thiện (xem thêm: Ngày xuân đọc Trạng Trình). Tướng Giáp biết nhiều, tâm đắc với “dĩ công vi thượng”. Tướng Giáp hiểu rõ Chính Trung là Chí Thiện của Hồ Chí Minh.

Tướng Giáp ba lần kiến nghị không nên khai thác bauxite Tây Nguyên. Thư thứ nhất kính gửi đồng chí Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Chính phủ ngày 5/1/2009; Thư thứ hai là điện thư gửi Hội thảo bauxite Tây Nguyên. Bức điện thư này được Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đọc tại hội thảo ngày 9/4/2009; Thư thứ ba kính gửi Ban chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, đồng kính gửi Quốc hội và Chính phủ ngày 20/5/2009. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết thư gửi đúng nơi, đúng lúc, viết đúng chính kiến và lương tâm của mình, với văn phong chuẩn mực, rõ ràng, mạch lạc.Tư liệu này hiện đã thuộc về sự thật lịch sử, lưu để đọc lại và suy ngẫm.

Tướng Giáp hồng phúc dân tộc Việt.

Hoàng Kim

(*) chùm ảnh tư liệu về đại tướng Võ Nguyên Giáp.

VoNguyenGiapthu1bauxiteTayNguyen

“Hà Nội ngày 5 tháng 1 năm 2009

Kính gửi: Đồng chí Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Chính phủ

Thời gian vừa qua báo chí đăng nhiều bài và ý kiến của các nhà khoa học và hoạt động xã hội cảnh báo nguy cơ nghiêm trọng đối với môi trường tự nhiên và xã hội của các dự án khai thác bô-xít trên Tây Nguyên.

Đầu tháng 11-2008 một số nhà khoa học và quản lý có tên tuổi đã gửi kiến nghị đến lãnh đạo Đảng và Nhà nước đề nghị cho dừng các dự án này để nghiên cứu, xem xét lại, cân nhắc lợi hại một cách toàn diện.

Tuy nhiên, các dự án này vẫn đang được triển khai, trong tháng 12-2008 đã có hàng trăm công nhân Trung Quốc đầu tiên có mặt trên công trường (dự kiến cao điểm sẽ lên tới vài nghìn tại một dự án).

Cần nhắc lại rằng, đầu những năm 1980 Chính phủ đã đưa chương trình khảo sát khai thác bô-xít trên Tây Nguyên vào chương trình hợp tác đa biên với khối COMECON. Tôi được phân công trực tiếp theo dõi chỉ đạo chương trình này. Sau khảo sát đánh giá hiệu quả tổng hợp của các chuyên gia Liên Xô, khối COMECON đã khuyến nghị Chính phủ ta không nên khai thác bô-xít trên Tây Nguyên do những nguy cơ gây tác hại sinh thái lâu dài rất nghiêm trọng, không thể khắc phục được đối với dân cư chẳng những tại chỗ mà còn cả dân cư và vùng đồng bằng Nam Trung Bộ. Chính phủ khi đó đã quyết định không khai thác bô-xít mà gìn giữ thảm rừng và phát triển cây công nghiệp (cao su, cà phê, chè…) trên Tây Nguyên.

Ý kiến phản biện của các nhà khoa học nước ta vừa qua phân tích trên nhiều phương diện, trong các điều kiện kinh tế kỹ thuật hiện nay cũng đi tới kết luận như các nhà khoa học Liên Xô cách đây 20 năm. Với những cảnh báo nghiêm trọng như vậy, chúng ta cần xem xét các dự án này một cách khách quan – cần đánh giá lại quy hoạch khai thác bô-xít trên Tây Nguyên đến 2025.

Về quy mô, quy hoạch khai thác bô-xít Tây Nguyên từ nay đến 2025 là một kế hoạch lớn, giá trị ước tới gần 20 tỷ đô-la Mỹ, sẽ tác động sâu sắc nhiều mặt còn hơn cả các công trình kinh tế lớn đã có ở nước ta.

Vì vậy nên mời thêm các tư vấn chuyên ngành quốc tế có nhiều kinh nghiệm phối hợp với các nhà khoa học và nhà quản lý của nước ta cùng thẩm định cho khách quan, sau đó báo cáo Bộ Chính trị và Quốc hội xem xét, cân nhắc kỹ càng, không thể chỉ đưa vào đề xuất của các Bộ hay tập đoàn kinh tế.

Vừa qua đồng chí Thủ tướng đã quyết định bác dự án nhà máy thép lớn của Hàn Quốc tại vịnh Vân Phong, khẳng định quyết tâm của Chính phủ phát triển kinh tế bền vững, được đông đảo nhân dân và các nhà khoa học đồng tình, ủng hộ.

Việc xác định một chiến lược phát triển Tây Nguyên bền vững là vấn đề rất hệ trọng đối với cả nước về kinh tế, văn hóa và an ninh quốc phòng. Tôi đề nghị Thủ tướng cho dừng triển khai các dự án khai thác bô-xít ở Tây Nguyên và báo cáo Bộ chính trị chỉ đạo tiến hành các nghiên cứu vĩ mô cần thiết làm căn cứ cho mọi quyết định.

Chúc đồng chí mạnh khỏe,

Võ Nguyên Giáp

VoNguyenGiapthu2bauxiteTayNguyen

“Tôi được biết, hôm nay có cuộc Hội thảo về vấn đề bô-xít ở Tây Nguyên do đồng chí Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải chủ trì.

Tôi cho đây là một vấn đề cực kỳ hệ trọng. Vấn đề này trước đây tôi đã từng nghiên cứu, tôi đã có thư gửi đồng chí Thủ tướng nhưng chưa được trả lời.

Tại cuộc Hội thảo quan trọng này, tôi mong các nhà khoa học, các nhà quản lý, các nhà hoạt động xã hội hãy nêu cao trách nhiệm trước dân tộc thảo luận một cách khoa học, nghiêm túc, thẳng thắn để kiến nghị với Đảng và Nhà nước một chủ trương đúng đắn về vấn đề bô-xít Tây Nguyên mà tôi cho là không nên khai thác.

Vì đứng về lợi ích toàn cục và sự phát triển bền vững lâu dài của đất nước, khai thác sẽ gây hậu quả cực kỳ nghiêm trọng về môi trường, về xã hội, về an ninh quốc phòng.

Xin chúc các đồng chí mạnh khoẻ.

Hà Nội, ngày 09 tháng 4 năm 2009

Đại tướng Võ Nguyên Giáp

VoNguyenGiapthu3abauxiteTayNguyen
VoNguyenGiapthu3bbauxiteTayNguyen

Kính gửi : Ban chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị,

Đồng kính gửi : Quốc hội và Chính phủ

Thời gian qua, tôi đã có thư gửi đồng chí Thủ tướng và điện gửi cuộc Hội thảo khoa học về vấn đề khai thác bô xít ở Tây Nguyên. Vừa rồi, Văn phòng Trung ương theo chỉ đạo của đồng chí Thường trực Ban bí thư đã gửi cho tôi thông báo kết luận của Bộ Chính trị. Tôi đã đọc kỹ bản kết luận, xin có kiến nghị tiếp với Bộ Chính trị và lần này kiến nghị đến Ban Chấp hành Trung ương, đến Quốc hội và Chính phủ :

1. Tôi hoan nghênh Bộ Chính trị đã lắng nghe ý kiến của các đồng chí nguyên lãnh đạo cấp cao của Đảng và các nhà khoa học, đã chủ trương rà soát, điều chỉnh quy hoạch, nêu lên một số yêu cầu quan trọng như : Bảo đảm hiệu quả kinh tế, xã hội, sử dụng thiết bị và công nghệ hiện đại của thế giới, giải quyết nguồn điện, nguồn nước ; đặc biệt quan tâm đến vấn đề an ninh quốc phòng cả trước mắt và lâu dài, đến môi trường sinh thái, môi trường văn hoá, chưa chủ trương bán cổ phần cho tập thể và cá nhân người nước ngoài v.v… Và Bộ Chính trị đã thấy tầm quan trọng của chủ trương khai thác bô xít ở Tây Nguyên nên quyết định báo cáo Trung ương và Quốc hội.

2. Tuy nhiên kết luận của Bộ Chính trị nói chung là vẫn tiếp tục tiến hành khai thác bô xít ở Tây Nguyên. Trước mắt làm thí điểm ở Tân Rai – Lâm Đồng, xem xét đánh giá lại Dự án Nhân Cơ Đắc Nông, rồi từng bước triển khai theo quy hoạch.

Vì vậy, tôi xin kiến nghị cụ thể như sau :

Chủ trương khai thác chế biến bô xít ở Tây Nguyên là một vấn đề hết sức hệ trọng sẽ có tác động lớn đến môi trường sinh thái, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và đến phát triển ổn định, bền vững của đất nước. Nhiều vấn đề mà Bộ Chính trị nêu lên cho đến nay chưa được nghiên cứu phân tích đánh giá toàn diện đầy đủ và chưa có phương án giải quyết rõ ràng, còn nhiều vấn đề bất cập. Do đó, tôi đề nghị dừng các dự án khai thác bô xít ở Tây Nguyên, kể cả khai thác thí điểm. Nên giao cho Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam tập hợp những cán bộ khoa học có liên quan tiến hành một chương trình khoa học nghiên cứu phát triển tổng thể kinh tế – xã hội ở Tây Nguyên, có tính đến quan hệ với vùng Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ, trong đó tập trung nghiên cứu vấn đề bô xít Tây Nguyên một cách đầy đủ, toàn diện những vấn đề mà Bộ Chính trị đã nêu lên. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu ấy, Trung ương, Quốc hội mới cân nhắc có nên khai thác hay không nên khai thác. Tôi thiên về chủ trương hiện nay không nên khai thác, chờ khi khoa học phát triển, có công nghệ mới hiện đại hơn sẽ tiết kiệm tài nguyên, hiệu quả cao hơn, an toàn hơn. Hiện nay chưa khai thác bô xít ở Tây Nguyên, dành tài nguyên đó cho thế hệ mai sau và không khai thác bô xít thì chúng ta vẫn tiến hành được công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Tôi đề nghị Trung ương, Bộ Chính trị, Quốc hội hãy nêu cao trách nhiệm to lớn của toàn Đảng, toàn dân thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo một cách dân chủ, khoa học. Chỉ quyết định khi đã biết được kết quả nghiên cứu phân tích đầy đủ, toàn diện các vấn đề đặt ra, lắng nghe ý kiến rộng rãi của đông đảo các nhà khoa học, của cán bộ và nhân dân hơn nữa. Làm như vậy là để tránh được quyết định sai lầm, gây nên tai hoạ lớn cho đất nước.

Mong Trung ương và Quốc hội phát huy dân chủ, bàn bạc kỹ lưỡng, có quyết định đúng đắn.

Xin chúc các đồng chí mạnh khoẻ.

Chào thân ái,

Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2009

Võ Nguyên Giáp

Ghi thêm

GSTranTheThong1ĐỌC LẠI VÀ SUY NGẪM. Hoàng Kim cám ơn anh Khai Vutrong và xin chia sẻ bài viết TÔI ĐÃ TỪNG LÀ VẬT CÁ ĐỘ nhân ngày luật sư Việt Nam 10 tháng 10. Đây là tư liệu quý về Tư pháp Việt Nam và chuyện liên quan về cụ Vũ Trọng Khánh, người Bộ trưởng Tư pháp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tướng Giáp ẩn số Chính Trung thuở làm Phó Thủ tướng phụ trách Khoa học kỹ thuật kiêm kế hoạch hóa gia đình thường đi miền Tây nhiều lần cùng giáo sư Trần Thế Thông và PGS Vũ Trọng Khải. Tướng Giáp có tặng cho Giáo sư Trần Thế Thông tài liệu “Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ sống mãi”. Tướng Giáp hẵn thấu hiểu Hiến pháp Việt Nam năm 1946 và những biến đổi theo chiều hướng nào sau này và vì sao cũng như Chủ tịch Hồ Chí Minh chấp nhận làm biểu tượng giai đoạn cuối để thuận theo xu thế thời cuộc, còn đó bài học cuộc sống thật đáng đọc lại và suy ngẫm. 

VOA Tiếng Việt . Lê Anh Hùng 3.11.2016

BẮC KINH ĐÃ NGĂN CẢN VÕ NGUYÊN GIÁP
TRỞ THÀNH TỔNG BÍ THƯ NHƯ THẾ NÀO?

Xem bình luận

Sau Hội nghị Trung ương 4 khoá XII diễn ra từ ngày 9 đến 14/10 và chuyến thăm Trung Quốc của Thường trực Ban Bí thư Đảng CSVN diễn ra từ ngày 19 đến 21/10 vừa qua, dư luận đang dấy lên đồn đoán là ông Đinh Thế Huynh đã được chọn làm người kế nhiệm Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Chưa biết tin đồn này có trở thành hiện thực hay không, nhưng dường như một lần nữa Trung Quốc lại nổi lên như một nhân tố quyết định ngôi vị lãnh đạo tối cao ở Việt Nam.Không ít người cho rằng đây là một “thông lệ” bắt đầu từ Hội nghị Thành Đô năm 1990, hội nghị mà cố Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch từng cảnh báo là sẽ đưa Việt Nam bước vào “một thời kỳ bắc thuộc mới rất nguy hiểm”. Tuy nhiên trên thực tế, Bắc Kinh đã thò “bàn tay lông lá” của mình vào chính trường Việt Nam từ trước đó rất lâu.

Ngược dòng thời gian, sau thảm hoạ diệt chủng mang tên “Cải cách ruộng đất” do Đảng Cộng sản Việt Nam phát động, Trưởng ban Cải cách Ruộng đất Trung ương Trường Chinh bị biến thành con dê tế thần và mất chức Tổng Bí thư vào tháng 10/1956. Lúc bấy giờ, trong số những trợ thủ thân cận nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nổi lên như là ứng cử viên số một để tiếp quản chiếc ghế mà ông Trường Chinh để lại. Vậy nhưng, sau một thời gian ông Hồ Chí Minh (Chủ tịch Đảng) kiêm nhiệm chức vụ Tổng Bí thư, tại Đại hội lần thứ III Đảng CSVN năm 1960, nhân vật được bầu vào vị trí Bí thư Thứ nhất lại là ông Lê Duẩn, một người mới từ Miền Nam ra Hà Nội cuối năm 1957, chứ không phải là ông Võ Nguyên Giáp, người từng sát cánh với ông Hồ Chí Minh suốt mười mấy năm.

Một số người, trong đó có Đại tá Bùi Tín, cựu Phó Tổng Biên tập báo Nhân Dân, cho rằng việc ông Võ Nguyên Giáp bị loại và ông Lê Duẩn được chọn xuất phát từ ý muốn của ông Hồ Chí Minh. Theo họ, sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trở thành một tên tuổi nổi bật trên thế giới. Uy tín của ông Võ Nguyên Giáp trong nhân dân lớn tới mức, sau thất bại thảm hại của cuộc Cải cách ruộng đất, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị đã phải cử ông thay mặt họ nhận tội và xin lỗi nhân dân tại sân vận động Hàng Đẫy vào ngày 29/10/1956. Ông Hồ Chí Minh lo sợ trước viễn cảnh một vị Tổng Bí thư với vầng hào quang chói lọi sau chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” sẽ khiến hình ảnh của mình bị lu mờ.

Tuy nhiên, trong một cuộc trò chuyện mới đây giữa chúng tôi với Đại tá Đoàn Sự, một sự thật hoàn toàn khác lại hé lộ. Đại tá Đoàn Sự là em ruột của Đại tá Lê Trọng Nghĩa, nguyên Cục trưởng Cục Quân báo (nay là Tổng cục Tình báo Bộ Quốc phòng), trợ thủ đắc lực của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và bị bắt trong vụ án “xét lại chống đảng” tháng 2/1968. Đại tá Đoàn Sự là người phiên dịch tiếng Trung tại đại bản doanh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong chiến dịch Điện Biên Phủ, và có thời gian làm thư ký cho ông. Từ năm 1955-1959, ông là phó tuỳ viên quân sự tại Đại sứ quán Việt Nam ở Trung Quốc. Ông cũng từng mấy lần tháp tùng và phiên dịch cho Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các cuộc gặp với lãnh đạo Trung Quốc.

Với vị thế đó, Đại tá Đoàn Sự là một nhân chứng lịch sử, một trong số ít người nắm được những bí mật thuộc hàng “thâm cung bí sử” của chế độ. Ông cho biết, sau khi ông Trường Chinh bị mất chức, ông Hồ Chí Minh tạm quyền Tổng Bí thư và chủ trương đưa ông Võ Nguyên Giáp lên ngồi vào chiếc ghế đó. Vì thế, ông đã bí mật cử ông Võ Nguyên Giáp sang Trung Quốc để “tham vấn” ý kiến của Bắc Kinh. Ông Hồ nói với ông Võ Nguyên Giáp: “Thôi bây giờ chú trút bỏ quân phục đi. Chú phải làm nhiệm vụ này. Nhưng trước hết là ta phải sang trao đổi với Trung Quốc, trên đường chú đi Tiệp Khắc dự Đại hội Đảng Cộng sản Tiệp Khắc.”

Sau khi trở thành đại tướng, tổng tư lệnh quân đội, ông Võ Nguyên Giáp luôn mặc quân phục mỗi khi tham gia các sự kiện hay các cuộc gặp gỡ, giao đãi. Thói quen này vẫn được ông duy trì cho đến những năm tháng cuối đời. Chuyến sang Tiệp Khắc lần đó là một dịp hiếm hoi ông mặc quần áo dân sự, mà mục đích là để tạo hình ảnh của một Tổng Bí thư tương lai.

Đoàn Việt Nam sang Tiệp Khắc dự Đại hội Đảng Cộng sản Tiệp Khắc lần thứ 11 năm 1958 gồm có Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ông Tố Hữu và một vài người khác. Cả đi lẫn về đoàn đều dừng chân ở Bắc Kinh. Mặc dù đoàn gặp Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông sau khi từ Tiệp Khắc trở lại Bắc Kinh, nhưng thực ra đó mới là mục đích chính của đoàn.

Đại tá Đoàn Sự đã gặp Mao Trạch Đông từ trước. Theo ông, đó là một con người cao to, hách dịch và ăn nói thì rất khó nghe. Tham dự cuộc gặp bên phía Trung Quốc còn có Phó Thủ tướng Lý Tiên Niệm. Phía Việt Nam còn có ông Nguyễn Khang, Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc. Đại tá Đoàn Sự làm phiên dịch cho đoàn Việt Nam. Trong cuộc gặp, Mao Trạch Đông hết lời khen ngợi ông Võ Nguyên Giáp, nào là “Võ Tổng tài ba lắm”, “Võ Tổng giỏi giang lắm”, v.v. Tuy nhiên, cuối cùng ông ta lại chốt một câu: “Nhưng tôi thấy hình như Võ Tổng chưa làm công tác lãnh đạo địa phương bao giờ cả thì phải? Chưa làm qua tỉnh uỷ… gì gì cả. Võ Tổng toàn là thân chinh bách chiến, toàn là đánh nhau cả. Cho nên tôi cũng e ngại là Võ Tổng có ít kinh nghiệm về chuyện này [làm Tổng Bí thư]. Tôi đã trao đổi với mấy người. Chúng tôi không dám có ý kiến gì về chuyện đồng ý hay không đồng ý. Nhưng chúng tôi thấy là ở Việt Nam còn nhiều đồng chí giỏi lắm mà, như đồng chí Lê Duẩn này, đồng chí Lê Đức Thọ này, v.v. Các đồng chí cũng nên cân nhắc xem thế nào.”

Đây là một cuộc gặp bí mật. Hai bên không ghi chép gì. Bên Việt Nam chỉ đến trao đổi rồi lẳng lặng ra về. Sau cuộc gặp, ông Võ Nguyên Giáp nói với ông Đoàn Sự: “Thôi thế là trật rồi. Mình giờ lại khoác quân phục rồi.” Và trước khi mặc lại quân phục, ông đã chụp ảnh kỷ niệm với người cộng sự thân tín một thời, ghi lại hình ảnh hiếm hoi của mình trong bộ quần áo dân sự.

vonguyengiapdoansu

Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Đại tá Đoàn Sự sau cuộc gặp với Mao Trạch Đông tại Bắc Kinh năm 1958. Ảnh do Đại tá Đoàn Sự cung cấp.

Thời điểm diễn ra cuộc gặp giữa Mao Trạch Đông và ông Võ Nguyên Giáp thì bà vợ hai của ông Lê Duẩn là Nguyễn Thụy Nga cũng mới sinh người con trai út Lê Kiên Trung ở Bắc Kinh. Theo thông tin mà người ta rỉ tai nhau vào lúc đó thì ông Lê Duẩn phải đưa vợ bé sang Trung Quốc và tá túc trong Đại sứ quán Việt Nam vì bị bà vợ cả đánh ghen. Tuy nhiên, sau những gì đã xảy ra cùng tiết lộ của Đại tá Đoàn Sự thì rất có thể đây là chiêu mà ông Lê Duẩn nghĩ ra để lấy được lòng tin của Bắc Kinh.

Ông Lê Duẩn đem vợ con sang Bắc Kinh như một thứ “con tin” để đổi lấy sự ủng hộ của Bắc Kinh cho ngôi vị Tổng Bí thư. Vậy ông Đinh Thế Huynh lấy gì để “thế chấp” cho các ông chủ Trung Nam Hải?

Hội nghị Trung ương 4 khoá XII kết thúc, người ta nhận thấy Bí thư Thành uỷ Hà Nội Hoàng Trung Hải, một người Hán trá hình, “cha đẻ” của Formosa Hà Tĩnh cùng hàng loạt hiểm hoạ Trung Quốc khác ở Việt Nam và là người bị tố cáo những tội ác khủng khiếp suốt hơn 8 năm nay nhưng vẫn không được giải quyết đúng pháp luật, lại xuất hiện nổi bật trên truyền thông sau một thời gian khá trầm lắng: phát biểu trong chương trình thời sự VTV 19h về tái cấu trúc nền kinh tế, chỉ đạo công an Hà Nội xử lý vụ nhân viên Vietnam Airlines bị hành hung… (Theo một nguồn tin của chúng tôi, ông Hoàng Trung Hải vẫn thường lui tới nhà ông Đinh Thế Huynh từ hồi ông ta còn làm Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương).

Tối 28/10 vừa qua, buổi lễ kỷ niệm 5 năm ngày thành lập Câu lạc bộ bóng đá No-U FC, nơi tập hợp những tiếng nói đấu tranh ôn hoà chống bá quyền Trung Quốc, dù đã phải diễn ra trong khuôn viên Nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà để đảm bảo an toàn nhưng vẫn bị chính quyền Hà Nội huy động một lực lượng an ninh hùng hậu đến bao vây và tiến hành cắt điện, ngắt Internet, phá sóng điện thoại di động. Một số nhà hoạt động thậm chí còn bị công an ngăn cản tại nhà, không cho đến địa điểm tổ chức.

Phải chăng cặp bài trùng Hoàng Trung Hải – Nguyễn Phú Trọng sắp sửa nhường sân chơi cho cặp bài trùng cũng đặc biệt nguy hiểm cho tương lai đất nước là Hoàng Trung Hải – Đinh Thế Huynh? Và “con ngựa thành Troy” Hoàng Trung Hải lại tiếp tục kiểm soát ban lãnh đạo tối cao của Việt Nam hòng tiếp tục gieo rắc tai ương cho dải đất hình chữ S này?

* Blog của nhà báo Lê Anh Hùng là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

(**)

Chủ tịch Hồ Chí Minh được tôn vinh là Người Cha thân yêu của lực lượng vũ trang “bộ đội cụ Hồ” và đại tướng Võ Nguyên Giáp là người anh Cả của quân đội như lời của nhà thơ Hoàng Gia Cương:
vonguyengiapansochinhtrung

Mãi mãi là Anh
Kính tặng anh Văn – Đại tướng Võ Nguyên Giáp –

Anh đã là Anh – mãi mãi Anh
Người Anh của lớp lớp hùng binh
Song toàn văn võ, thông kim cổ
Vững chí bền gan đạp thác ghềnh!

Tướng Giáp, người anh hùng của độc lập Việt Nam, đã qua đời
Jean-Claude Pomonti,
Le Monde, số ra ngày 4 tháng mười 2013
Đào Hùng dịch

Những tưởng BVN đã khép lại đề tài Võ Nguyên Giáp sau hơn mười ngày liên tục đưa tin kể từ khi vị Đại tướng nằm xuống. Nhưng tự trong sâu thẳm, chủ đề Võ Nguyên Giáp vẫn thôi thúc một sự suy nghĩ có tính chất phản tỉnh về nhiều mặt, ở mọi người trí thức tỉnh táo của thời đại. Công lao thì rõ rồi song cũng đâu đã được soi tỏ hết, vì nhiều luồng thông tin quá phức tạp chồng phủ lên con người ấy kể từ khi ông thất sủng mãi đến khi qua đời. Và trách nhiệm của vị tướng về hậu quả của hai cuộc chiến giành thắng lợi gian nan chật vật suốt 20 năm ròng nhằm bảo đảm cho sự lên ngôi toàn vẹn của một chính thể chuyên chế ngày càng lộ diện hà khắc, dẫn đến tình trạng bi thảm của một nước Việt Nam ngổn ngang đổ vỡ, một dân tộc bị xé nát – cả chính trị kinh tế văn hóa xã hội, cả khủng hoảng phần sống hiện thực lẫn phần sống tâm linh ở mỗi con người – trong hiện tại, chẳng lẽ ông không dự phần?

Có những người tỏ ý chế giễu cái đám đông đã lũ lượt kéo đến hầu như dài vô tận để kính viếng hương hồn vị tướng trong suốt những ngày lễ tang ông diễn ra và ngay giờ đây ở khu mộ của ông ở Vũng Chùa ngày ngày vẫn có đến 4, 5000 người khói hương không dứt; họ cho rằng đây là một hiện tượng “lên đồng” chẳng khác gì đám đông người dân Bắc Triều Tiên khóc như mưa như gió trước cái chết của Kim Il Sung. Tôi không tin lắm vào điều này. Ít ra thì có đến hai phần ba những người đến nghiêng mình trước di ảnh hoặc thi hài ông đủ khả năng chiêm ngẫm về cái chết của ông.

Không phải vì người Việt Nam không từng bị nhồi sọ đến mê muội một thời gian dài và vẫn còn tiếp tục bị nhồi sọ, nhưng người Việt Nam ra mặt “phù suy” như vừa qua là một sự kiện khó lòng tưởng tượng. Một cuộc biểu tình hiền lành nhưng lại có ý nghĩa thách thức công khai khiến những kẻ nào đó nếu còn chút hiểu biết phải hết sức choáng ngợp. Có thể là cái chết đã góp phần tạo nên một sự “thanh lọc”, mong thế lắm, có giá trị đánh thức những lương thức chưa ngủ hẳn, để giữa hai lớp người ngày càng xa cách nhau trong quan điểm may ra cùng tìm được chút ánh sáng chung phía cuối con đường hầm. Kỳ thực, phải nói ngay, đấy chỉ là huyễn vọng, khi mà nhiều chuyện xảy ra từ đó đến nay hình như lại có chỉ dấu rằng, cái chết làm cho trắng đen càng tách bạch hơn. Cái chết của một người bị chính thành tích chói lọi của mình bắt phải trả giá, bị đẩy xuống thân phận một người nằm trên bờ vực “chính” và “phản” trong gang tấc, thì không thể có giá trị hàn gắn như ở những trường hợp khác, mà chỉ báo hiệu sự phân liệt mạnh mẽ giữa một bên là những quyền lợi phe nhóm ích kỷ không thể sửa chữa và một bên là dân tộc và nhân dân. Giải tỏa tấn bi kịch vô hình khủng khiếp đè lên con người đó, bỏ qua mọi thứ “công tội” do chính cái chủ nghĩa mà con người đó theo đuổi, trả lại cho con người đó cái giá trị đích thực của một vị tướng đánh trận tài năng, phải nói chính là vòng tay ân nghĩa của nhân dân. Người viết mấy dòng này, cũng do cơ duyên dun dủi, đã từng được gián tiếp nghe một lời khuyên vị tướng của chúng ta từ nửa cuối những năm 1970, đại khái: “Về nghỉ là thượng sách. Thử điểm lại lịch sử xưa nay có tướng nào giành được chiến công lẫm liệt mà không đi kèm thân bại danh liệt hay không?”.

BVN tuy đã đăng nhiều bài về tướng Giáp nhưng vẫn còn thiếu một vài bài mở thêm cái nhìn từ thế giới bên ngoài soi vào. “Cờ ngoài bài trong” người ngoài cuộc thì thường rõ hơn một số ngóc ngách nào đấy mà người trong cuộc dễ bị khuất lấp. Bài viết đăng dưới đây của Jean-Claude Pomonti phóng viên báo Le Monde tại Đông Nam Á từ năm 1968 đến 1974 và tái xuất hiện tại Việt Nam từ 1987 rồi sau đó còn trở lại nhiều lần ít nhiều có thể bù vào chỗ thiếu khuyết nói trên.

Nguyễn Huệ Chi


Trong lịch sử ông vẫn là một trong những vị chỉ huy chiến trận lớn của thế kỷ XX, người duy nhất đã lần lượt đánh bại Pháp và đương đầu với Hoa Kỳ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã qua đời hôm thứ sáu 4 tháng mười ở tuổi 103.

Sự chiếm lĩnh cứ điểm Pháp ở Điện Biên Phủ tháng năm 1954 và sự sụp đổ của Sài Gòn tháng tư 1975 là những chiến tích của vị chỉ huy tầm cỡ đặc biệt này: uy tín cá nhân, thiên tài hậu cần, chiến thuật gia vô song. Những thắng lợi không thể chối cãi đó, đã khiến tướng Võ Nguyên Giáp trở thành người cuối cùng của một loạt các nhà chiến lược vĩ đại Việt Nam, trải qua bao thế kỷ, đã thành công trong việc chặn đứng con đường xuống phương Nam của Trung Quốc sau khi đuổi chúng ra khỏi đất nước mình. Về phần mình, tướng Giáp đã góp phần vào việc làm thất bại cuộc quay trở lại Việt Nam của Pháp, và trên đà đó, giữa lúc diễn ra chiến tranh lạnh, đã bẻ gãy sự thay thế mà người Mỹ muốn thực hiện.

Sinh ngày 25 tháng tám 1911 ở một làng miền Trung Việt Nam, trong một gia đình nhà nho khiêm tốn, Võ Nguyên Giáp đã trải qua tuổi trẻ trong một môi trường đấu tranh dân tộc: bị lôi thôi với Mật thám Pháp, hai lần ngồi tù năm 1930 và 1932. Ông đỗ tú tài (Pháp) năm 1934, rồi dạy lịch sử và tiếng Pháp ở Hà Nội, trường Thăng Long, lò hun đúc các chiến sĩ chống thực dân. Năm 1937, vào thời kỳ Mặt trận Bình dân, ông tham gia Đảng Cộng sản Việt Nam lúc đó đang ở trong vòng bí mật.

Từ đó, hành trình của ông đã được vạch ra. Tháng năm 1940, cùng với Phạm Văn Đồng, vị thủ tướng tương lai (1954-1986), Võ Nguyên Giáp sang Trung Quốc để lần đầu tiên, gặp Hồ Chí Minh, người sáng lập Đảng Cộng sản năm 1930. Năm 1939, ông kết hôn cùng với một nữ chiến sĩ cùng quê với ông, sinh được một đứa con năm 1940. Ông không bao giờ gặp lại vợ: ít lâu sau khi ông ra đi, bà bị Mật thám Pháp bắt. Bị tra tấn dã man, bà chết trong tù, theo người ta nói, là tự vẫn. Ông Giáp chỉ được tin mấy năm sau.

Say mê Bonaparte

Ở trường trung học Thăng Long, vào đêm trước Thế chiến hai, học sinh đã mệnh danh ông là “ông tướng”, hay cụ thể hơn là “Napoléon”. Nếu ông Giáp vẫn học hỏi những kinh nghiệm của các bậc tiền bối, qua bao thế kỷ, đã giáng cho bọn xâm lược Trung Quốc những đòn thảm bại, thì ông cũng nghiên cứu chi tiết các chiến dịch của Bonaparte. Những bậc tiền bối đã dạy cho ông nghệ thuật vận dụng địa hình, dựa lưng vào dãy Trường Sơn, củng cố hậu phương, lôi kéo đối phương vào cạm bẫy.

9b6db-vonguyengiap1Trong các chiến thuật của Bonaparte, ông Giáp đặc biệt ghi nhớ “yếu tố bất ngờ”. Về Điện Biên Phủ, một nửa thế kỷ sau ông đã kể lại với chúng tôi, “người đứng đầu các cố vấn của chúng tôi chủ trương tấn công nhanh” vào cứ điểm Pháp nằm trên một cánh đồng giáp Lào. Cuộc tấn công ấn định vào ngày 25 tháng một 1954, lúc 17 giờ, tức trước khi đêm xuống ít lâu. Vào phút cuối, tướng Giáp kéo dài thời hạn thêm 24 giờ đồng hồ. Rồi ông “ra lệnh rút quân, kể cả pháo”. “Đấy là quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời tổng chỉ huy của tôi”.

Tại sao? Ông đã giải thích “Để tấn công, tôi chờ nghe trên đài phát thanh tướng Navarre tuyên bố rằng làn sóng Việt Minh đã chựng lại…”. Navarre lúc đó là chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương và chính ông ta đã quyết định lập cứ điểm gần biên giới giữa Lào và Việt Nam để thu hút các sư đoàn Việt Minh. “Chựng lại”, ông Giáp mỉm cười nhắc lại. “Và tôi đã hành động ngay!” Ngày 23 tháng ba. Chỉ huy sở của tướng de Castries, chỉ huy cứ điểm, bị chiếm ngày 7 tháng năm, chưa đầy hai tháng sau.

Ông Giáp còn nói về những diễn biến sau đây. Vài tuần trước ngày “tổng tiến công cuối cùng” của Việt Cộng kết thúc bằng cuộc đầu hàng của Sài Gòn ngày 30 tháng tư 1975, hải cảng chiến lược Đà Nẵng ở miền Trung, đã bị quân đội cộng sản bao vây. “Chính quyền Sài Gòn của Nguyễn Văn Thiệu, ra lệnh cho chỉ huy địa phương, tướng Ngô Quang Trưởng phải “tử thủ”. Tôi lệnh cho sư đoàn 312 tấn công Đà Nẵng. Viên chỉ huy trả lời tôi: “Quân địch khá mạnh, tôi xin 7 ngày”. Tôi hỏi: “Tôi cho rằng Ngô Quang Trưởng sẽ rút bằng đường biển. Hắn ta phải mất bao nhiêu lâu?” “Ít ra là ba ngày”, viên chỉ huy 312 trả lời bằng điện báo. “Vậy thì tôi cho anh ba ngày. Lệnh cho các đơn vị hành tiến giữa ban ngày, xuống Quốc lộ 1. Các anh sẽ bị pháo hải quân đối phương oanh kích, nhưng không sao”, ông Giáp nói. “Như vậy, ông nói tiếp, không những cái túi Đà Nẵng bị tiêu diệt mà chúng tôi còn có thêm nhiều sư đoàn dự bị để mở cuộc tấn công cuối cùng vào Sài Gòn”. “Tôi chỉ nói đơn giản: “Tiến vào Sài Gòn!”” Một lần nữa, yếu tố bất ngờ, sự “tập trung quân”, sự “táo bạo”, đó là những gì mà ông Giáp còn ghi lại khi phân tích những chiến dịch của Bonaparte (ông không nói Napoléon đệ nhất, hoàng đế, rõ ràng khía cạnh chính trị không hấp dẫn ông).

Hoàn toàn tin tưởng các phụ tá

Chỉ được thành lập vào cuối Thế chiến hai, quân đội Việt Minh thực hiện nhiệm vụ không ngần ngại. Năm 2004, tôi rất ngạc nhiên khi ông Giáp thốt lên: “Cuộc trở về từ đảo Elbe, thật kỳ diệu!”, khi nói về việc quân đội hoàng gia do Louis XVIII điều đến để chặn đường hoàng đế và đáng lẽ phải đối đầu, thì đã gia nhập vào quân của hoàng đế Napoléon. Đối với ông Giáp, đó là một cái nháy mắt về mối quan hệ ông thiết lập với các phụ tá của mình: họ tuân lệnh ông một cách vô điều kiện, họ hoàn toàn tin tưởng ông.

Ông Giáp còn là một thiên tài về hậu cần. Một hôm ông nhắc lại với chúng tôi công thức mà Bonaparte đã sử dụng trong chiến dịch Italia: “Nơi một con dê đi qua lọt, thì một người có thể qua; nơi một người có thể qua, thì một tiểu đoàn có thể qua”. “Ở Điện Biên Phủ, ông nói tiếp, để đem một kilô gạo đến cho binh sĩ đang thiết lập vòng vây, phải tiêu thụ bốn kilô khi vận chuyển. chúng tôi đã dùng 260.000 người mang vác, hơn 20 nghìn chiếc xe đạp, 11.800 chiếc mảng, 400 xe vận tải và 500 con ngựa”. Dưới sự che chở của rừng dày, các bộ phận pháo của Việt Minh được tháo rời để khuân vác lên đồi bao quanh cứ điểm, rồi được lắp ghép lại.

Dù sao, trên lĩnh vực hậu cần, sự thực hiện đáng kinh ngạc nhất, trong những năm 60, là “con đường Hồ Chí Minh”, một hệ thống đường mòn được rừng rậm che phủ chạy từ bắc đến nam, dựa vào đất nam Lào và đông-bắc Campuchia để tránh các thiết bị phòng ngự của quân Mỹ ở miền Nam. Một con đường “đi một chiều”, mà sau này bộ đội Việt Nam nói như vậy. Nhưng người Mỹ không bao giờ chặt đứt được con đường tiếp vận đó – người, đạn dược, khí tài, xe tăng, thiết giáp – dù phải dùng đến thả bom ồ ạt, chất diệt cỏ, thả dù hàng trăm nghìn quả mìn và bẫy chống cá nhân.

Quyền uy của Hồ Chí Minh bị pha loãng

Dù sao, không ai có thể trở thành tiên tri, và ông Giáp phải nếm trải kinh nghiệm chua xót. Hồ Chí Minh, người cha của nền độc lập đã tuyên bố trước đám đông một triệu người dân Hà Nội ngày 2 tháng chín 1945, vẫn phải cơ cấu với những phần tử không khoan nhượng chiếm số đông trong Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ giữa những năm 60, uy quyền của ông bị pha loãng. Ông trở thành một thần tượng không có ảnh hưởng gì lớn nhiều năm trước khi ông mất năm 1969. Tướng Giáp mất chỗ dựa chính của mình.

Giữa Võ Nguyên Giáp và Lê Duẩn, người Tổng Bí thư vĩnh viễn của Đảng Cộng sản, sự lục đục đã xảy ra từ năm 1966, đến mức khi Việt cộng tấn công một số thành phố miền Nam năm 1968 – cuộc tấn công Tết Mậu Thân nổi tiếng – ông Giáp được điều sang Đông Âu. Ông chỉ được gọi về vị trí tổng chỉ huy, với mọi quyền hành trong tay năm 1972, để tổ chức thắng lợi công cuộc bảo vệ miền Bắc, cụ thể là Hà Nội, chống cuộc oanh kích khủng khiếp của Mỹ có pháo đài bay B-52 tham gia.

Thắng lợi năm 1975 đã đưa ông Giáp trở thành mục tiêu, giống như các nhà chiến lược Việt Nam khác, ông được đánh giá là quá xuất sắc và có ảnh hưởng quá lớn để trở thành nguy hiểm. Cụ thể đó là trường hợp của Nguyễn Trãi, nhà nho tinh tế và nhà chỉ huy vĩ đại, đầu thế kỷ XV đã bị lưu đày trong nội địa để không che mờ hình ảnh nhà vua Lê Lợi.

Năm 1976, năm thống nhất chính thức Việt Nam, ông Giáp mất chức chỉ huy quân đội. Bốn năm sau, ông bị rút khỏi Bộ Quốc phòng. Trong Đại hội V Đảng Cộng sản năm 1982, ông không được bầu lại vào Bộ Chính trị. Trước công chúng, ông Giáp không nói gì và tiếp tục dùng lời lẽ công thức cứng nhắc của người cộng sản có kỷ luật. Người ta cho ông ra mắt trong những ngày kỷ niệm chiến thắng và lời nói của ông bị kiểm duyệt. Có khi hàng tháng ông không xuất hiện trước công chúng. Luận điệu tuyên truyền chính thống còn không thừa nhận vai trò quyết định của ông trong chiến thắng năm 1975, và biến đổi một cách tài tình thành sự tháo chạy của quân đội miền Nam.

Khi Lê Đức Thọ – một trong những tiếng nói chủ chốt của hạt nhân cứng rắn trong Đảng Cộng sản và là người đối thoại với Henry Kissinger trong cuộc thương thuyết ở Paris – qua đời năm 1990, ông Giáp có ý định nắm lại Đảng. Nhưng ý đồ của ông, vào thời buổi bức tường Berlin sụp đổ, đã không thành công. Trong một cuộc họp kín của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản, một đại biểu còn giật micro khỏi tay ông, theo lời kể của Phạm Xuân Ẩn (1927-2006). Năm 1996, ông Giáp bị đuổi khỏi Ban Chấp hành Trung ương và 6 tháng sau, mất luôn vị trí Phó Thủ tướng phụ trách kinh tế.

Trở lại chính trường

Rồi thời gian đã làm nên chuyện, một thế hệ lãnh đạo mới vào vị trí, thông tin chuyển tải tự do hơn với sự phát triển theo cấp số nhân của bối cảnh. Ông Giáp vẫn ở đó. Ông được hành động tự do hơn. Vì ông vẫn tỉnh táo, ông tranh thủ để phát biểu kịp thời vào lúc này hay lúc khác. Đấy là trường hợp khi nổ ra tranh cãi năm 2009 về việc khai thác của người Trung Quốc đối với những mỏ lộ thiên bô xít trên cao nguyên phía nam.

Người Pháp, rồi người Xô Viết, đã từ chối không làm, vì sợ gây nên thảm họa môi trường. Ông Giáp đã hai lần viết thư cho Bộ Chính trị để bày tỏ sự phản đối của mình. Ông biết rõ hồ sơ: ông vẫn còn là Bộ trưởng phụ trách kinh tế, khi vào đầu những năm 90, các chuyên gia Xô Viết đến để lập báo cáo. Chiến dịch chống khai thác bô xít đặt chính phủ vào thế phòng vệ và buộc họ phải đưa ra những tham vọng khiêm tốn hơn.

Đạt đến 100 tuổi năm 2011, cơ thể rất yếu, đôi khi phải nhập bệnh viện, trên thực tế ông Giáp không xuất hiện nữa. Thời gian đó, giống như mọi người Việt Nam đã sống một cuộc đời mẫu mực, ngay từ khi còn sống, ông Giáp đã bắt đầu trở thành một thần tượng. Ông đã là thành hoàng. Để không bị tụt hậu, năm 2012 chính phủ phải quyết định lập cho ông một bảo tàng.

Ông Hồ Chí Minh đã có một phản xạ thiên tài. Khi đến gặp ông tháng sáu 1940 ở miền nam Trung Quốc, Võ Nguyên Giáp chỉ mới 29 tuổi và không được đào tạo tí gì về quân sự. Làm sao một nhà cách mạng từng trải – Bác Hồ lúc đó đã 50 tuổi – lại dám phán đoán rằng người chiến sĩ trẻ tuổi đó có cốt cách của một nhà chỉ huy lớn? Ông Hồ đã giao cho ông Giáp việc tổ chức lực lượng tự vệ, rồi thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam. Từ năm 1949, ông đã phong ông Giáp làm Đại tướng, cấp bậc ông giữ cho đến khi qua đời.

J.-C. P.
Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN.

Điện Biên Phủ 50 năm nhìn lại

QUA SÔNG CỞI GIÁP, GIÁP MAY CÒN
Hoàng Kim

“Cả nước đánh đề, đề chẳng chết / Qua sông cởi giáp, giáp may còn” là câu đối vui, nhân lời kể giai thoại của cụ Nguyễn Ngọc Hạp Làng Minh Lệ quê tôi.

Cụ Nguyễn Ngọc Hạp bô lão làng Minh Lệ, làm nghề địa chất. Cụ nay sống và viết ở Hà Nội. Cụ Hạp kể: “Dạo đó, tôi sắp đến tuổi nghỉ hưu, bà xã nghỉ trước nên kiếm việc làm thêm. Ban thuở nhỏ cùng hoc với tôi là Lê Ngoc Lăng giáo sư tiến sĩ toán giới thiệu cho đến xin nhận việc tổ đan len do cô em dâu phụ trách. Hai nhà đi lại nên biết cô là cháu gái ông Tạ Đình Đề. Tôi vốn tính tò mò lại ngưỡng mô những giai thoại về ông, nên rủ chồng cô đem tôi đến thăm.

Ông Tạ Đình Đề ở môt ngôi nhà cũ trong khu phố cổ. Tôi tò mò dẫn dắt gợi chuyện bóng đá, vì biết ông có thời đẫ phụ trách thể thao Tổng cục Đường sắt cũ.Ông say sưa kể chuyên đội bóng đường sắt của ông. Sau đó, tôi mới gợi chuyện để ông kể lại giai thoại tình báo của ông. Ông cười khiêm tốn trả lời: “Chuyện của tôi chắc mọi người đã biết, kế cả phải ra tòa vì tội bị vu cáo tham ô khi làm giám đốc xưởng sản xuất dụng cụ thể thao nửa chứ gì. Thôi chuyện qua rồi, tôi chỉ biết tôi đã làm tròn lời dạy của Bác“.

Thật quá khâm phục con người bộ đội Cụ Hồ khiêm tốn. .Dường như muốn chấm dứt câu chuyện, ông Tạ Đình Đề đã khéo léo bảo: “Anh là người xứ Bọ xứ Nghệ chắc cũng khẳng khái như cháu rể tôi, tôi ra anh câu đối : “CẢ NƯỚC ĐÁNH ĐÊ, ĐỀ KHÔNG CHẾT”. Nào thử xem con cháu cụ đổ xứ Nghệ đối đi

Quả thật là khó,vì là chuyện thực của ông và chuyến cờ bac xã hội hai ý kép trong câu rất khó nên tôi đành khất ra về. Ít lâu sau ông mất. Từ bấy đến nay, tôi nợ với ông

Hôm qua, tự nhiên sáng kiến đưa lên phây, tôi nhận đươc nhiều câu đối trong đó có vế đối của Ly Quang một cựu chiến binh thương binh ở Thượng Nông, Tam Nông Phú Thọ “Toàn dân mến Đề, Đề con sống”

Tôi thấy được nhưng chưa đủ ý nên tôi nghỉ ra câu đối của mình DÂN MẾN ĐỀ, ĐỀ SỐNG NHỜ DÂN” Các ban cho ý kiến rất cám ơn các bạn phây, Nếu được. coi như tôi đã nhờ các bạn mà trả nợ được câu đối của Tạ Đình Đề.

ĐIỆN BIÊN PHỦ 50 NĂM NHÌN LẠI

Võ Nguyên Giáp “Điện Biên Phủ 50 năm nhìn lại” là sách tổng kết chiến tranh Việt Nam. Hiếm thấy tài liệu nào ngắn gọn, giàu thông tin như sách này đã đúc kết. Hình thái chiến sự 8 năm kháng chiến chỉ trong một ít trang mà khai mở thật nhiều điều. Võ Nguyên Giáp tự trong sâu thẳm, đêm nay là đêm thiêng. Tôi chép lại những trang đầu “Điện Biên Phủ 50 năm nhìn lại” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp để thấm thía và thấu hiểu những điều lắng đọng mà thế hệ cha anh và chính chúng tôi đã trãi qua.

“Chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ đã làm cho ba tiếng Điện Biên Phủ trở thành biểu tượng của sức mạnh Việt Nam. Tinh thần Điện Biên Phủ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta” Kết thúc bài viết nhân dịp kỷ niệm lần thứ 50 chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết như vậy.

ĐIỆN BIÊN PHỦ
Hình thái chiến sự vào mùa hè năm 1953

Mở đầu tập sách, tướng Giáp viết:

“Mùa hè năm 1953, cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân ta đã bước vào năm thứ tám. Tám năm đó là tám năm chiến đấu cực kỳ gian khổ và anh dũng của quân đội và nhân dân ta chống lại quân đội xâm lược của đế quốc Pháp có can thiệp Mỹ giúp sức, lúc đầu mạnh hơn ta rất nhiều về vũ khí và trang bị.

Tuy nhiên, trãi qua tám năm kháng chiến lâu dài, trái với ý muốn chủ quan của quân địch, lực lượng của quân đội và nhân dân ta không những không bị tiêu diệt, mà ngược lại càng đánh càng mạnh, càng mạnh càng thắng; so sánh lực lượng đã dần dần thay đổi có lợi cho ta. Còn về phía địch thì ngày càng lâm vào thế bị động, càng tiếp tục chiến tranh càng gặp những khó khăn mới, đi từ thất bại này đến thất bại khác.

Ôn lại quá trình sơ lược của tám năm kháng chiến là một điều cần thiết để hiểu rõ tình hình địch, ta và hình thái chiến sự trước khi quân địch đề ra kế hoạch quận sự Nava, cũng tức là trước khi quân ta bắt đầu những chiến dịch mùa Đông năm 1953 và mùa Xuân 1954 và chuẩn bị mở chiến dịch Điện Biên Phủ vĩ đại.

Dân tộc ta là một dân tộc hết sức yêu chuộng tự do và hòa bình, lại sẵn có một truyền thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm, giành độc lập cho đất nước. Ngay sau khi cách mạng tháng Tám mới thành công, trong bản Tuyên ngôn Độc lập đọc ngày 2 tháng 9 năm 1945 trước quốc dân và thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và tài sản để giữ vững quyền độc lập ấy”.

Mọi người đều biết : chỉ không đầy một tháng, sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thì thực dân Pháp được đế quốc Anh giúp sức đã gây hấn ở Sài Gòn, mưu mô xâm lược nước ta một lần nữa. Trong khi đó, chúng cũng mưu mô trở lại xâm lược Campuchia và Lào. Chúng đã phái sư đoàn thiết giáp sang, thực hiện kế hoạch chiến lược “đánh nhanh , giải quyết nhanh”, cho rằng chỉ trong vòng 10 tuần lễ là có thể “bình địng ” xong Nam Bộ , làm bàn đạp để tiến công ra miền Bắc.

Nhưng, chúng đã tính nhầm, nhân dân Nam Bộ đã vùng dậy kháng chiến, tuy chỉ có vũ khí thô sơ nhưng vẫn không chịu khuất phục trước kẻ địch. Chiến tranh du kích dần dần được mở rộng khắp vùng châu thổ sông Cửu Long.

Đảng ta, một mặt lãnh đạo nhân dân Nam Bộ kháng chiến, động viên toàn quốc ủng hộ Nam Bộ, mặt khác ra sức lợi dụng mâu thuẩn giữa những kẻ địch, hòa hoãn với Pháp, ký kết hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946 , gạt 20 vạn quân Tưởng ra khỏi đất nước , thực hiện chủ trương “hòa để tiến“, tranh thủ thời gian để củng cố chính quyền nhân dân, củng cố lực lượng cách mạng, chuẩn bị đối phó với âm mưu xâm lược mới của địch.

Mặc dù đã công nhận nước ta là một nước tự do và có chủ quyền, thực dân Pháp vẫn không từ bỏ dã tâm đặt lại nền thống trị của chúng. “Ta càng nhân nhượng, chúng càng lấn tới” . Chúng xé bỏ hiệp định đã ký kết, tiếp tục chiến tranh ở Nam Bộ, lại thực hiện kế hoạch xâm lấn từng bước , đánh chiếm nhiều địa phương ở Trung Bộ, Bắc Bộ. Khả năng giữ vững hòa bình ngày càng trở nên mong manh. Chúng liên tiếp đánh chiếm Hòn Gai, Hải Phòng; sang tháng 12 năm 1946 tăng cường hành động khiêu khích, buộc tự vệ ta phải hạ vũ khí đầu hàng, gây hấn ở ngay giữa thủ đô Hà Nội.

Để trả lời và ngăn chặn âm mưu xâm lược của chúng, toàn dân Việt Nam ta đã vùng lên giết giặc cứu nước, theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ.

Từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc, Đảng ta đã nêu rõ: Con đường kháng chiến là con đường duy nhất để bảo vệ đất nước, bảo vệ thành quả cách mạng.

Đảng ta lại chỉ rõ: Cuộc kháng chiến của nhân dân ta là một cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính; cuộc kháng chiến đó sẽ lâu dài , gian khổ nhưng nhất định đi đến thắng lợi.

Quân đội và nhân dân ta một lòng tin tưởng về đường lối của Đảng. quân ta đã chiến đấu hết sức anh dũng để tiêu hao và tiêu diệt quân địch trên khắp các mặt trận. Đặc biệt ở thủ đô Hà Nội quân ta chiến đấu với quân địch trong hai tháng trời, giữ vững vị trí ở ngay trung tâm thành phố. Các cuộc chiến đấu đó đã có tác dụng động viên cổ vũ lớn đối với toàn dân, đồng thời tiêu hao và giam giữ lực lượng của địch, yểm hộ cho chính quyền và lực lượng của ta chuyển về nông thôn, cho nhân dân ta tiến hành mọi công tác động viên và tổ chức cần thiết. Chúng ta đã bảo toàn được chủ lực, phát động nhân dân, giữ vững và cũng cố căn cứ địa nông thôn làm chỗ đứng chân, chỗ dựa của ta để kháng chiến lâu dài.

Thu Đông năm 1947, địch huy động trên một vạn quân tinh nhuệ, mở cuộc tấn công quy mô lớn lên Việt Bắc , hòng tiêu diệt cơ quan đầu não và quân chủ lực của ta, giành lấy một thắng lợi quyết định và thúc đẩy việc thành lập chính phủ bù nhìn toàn quốc. Quân và dân Việt Bắc đã chiến đấu anh dũng và thu được thắng lợi lớn. Quân địch đã bị thất bại thảm hại. Chiến lược “đánh nhanh giải quyết nhanh” của chúng một lần nữa đã phá sản.

Với chiến thắng Việt Bắc , hình thái cầm cự dần dần xuất hiện. Chiến tranh chuyển sang giai đoạn mới.”

Bị thất bại trong âm mưu đánh nhanh giải quyết nhanh, thực dân Pháp bắt buộc phải kéo dài chiến tranh xâm lược. Chúng chủ trương tăng cường đánh phá nhằm “bình định” vùng chúng chiếm đóng, giành sức người sức của của ta, thực hiện âm mưu thâm độc “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” .

Năm 1949, trước những thắng lợi to lớn của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đang tiến xuống Hoa Nam, trước phong trào chiến tranh du kích ngày càng phát triển rộng rãi và mạnh mẽ của ta, thực dân Pháp cấp tốc phái tướng Rơve sang Đông Dương vạch ra kế hoạch mới, hòng cứu vãn tình thế. Rơve chủ trương tăng quân cho chiến trường Bắc Bộ, mở rộng phạm vi chiếm đóng ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ, tăng cường phòng thủ khu tứ giác Lạng Sơn – Tiên Yên – Hải Phòng – Hà Nội, phong tỏa biên giới Việt Trung. Kế hoạch Rơve còn đề ra vấn đề ra sức phát triển quân ngụy, sử dụng quân ngụy vào việc chiếm đóng, tập trung quân Âu Phi để xây dựng lực lượng cơ động, tích cực càn quét đánh phá nhằm đàn áp phong trào chiến tranh du kích của ta. Thực hiện kế hoạch này, địch đã mở nhiều cuộc hành binh liên tiếp và nhiều cuộc càn quét khốc liệt, mở rộng khu vục kiểm soát của chúng ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ.

Về phía ta, chúng ta chủ trương phát động chiến tranh du kích rộng rãi ở khắp các địa phương bị tạm chiếm. Phương châm đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung đã được thực hiện khắp nơi và đã đưa lại nhiều thắng lợi.

Một bộ phận bộ đội chủ lực của ta đã được phân tán thành đại đội độc lập, tiến sâu vào sau lưng địch, kết hợp tác chiến với vận động nhân dân, đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, tiêu diệt địch với xây dựng và bảo vệ cơ sở nhân dân, dìu dắt bộ đội địa phương và dân quân du kích, tiến lên phối hợp với quần chúng đấu tranh chống lại địch. Công tác địch vận, nhất là ngụy vận đã được chú trọng, coi là một nhiệm vụ chiến lược. Các cuộc chống càn quét được tiến hành có kết quả. Chiến tranh du kích phát triển rộng khắp, các căn cứ du kích và khu du kích xuất hiện sau lưng địch. Hậu phương của địch dần dần biến thành tiền phương của ta.

Trong khi các trung đội độc lập, các đại đội độc lập hoạt động phân tán khắp các chiến trường sau lưng địch ở Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ để phát triển chiến tranh du kích rộng rãi thì các tiểu đoàn tập trung cũng được xây dụng và học tập tiến lên đánh những trận tập kích, phục kích lớn hơn; các tiểu đoàn tập trung là mầm mống của đánh vận động sau này, Trong những năm 1948-1949 và đầu năm 1950 , quân ta đã bắt đầu mở những chiến dịch nhỏ có tính chất du kích: lực lượng sử dụng 3-4 tiểu đoàn hay nhiều hơn nữa, có khi lên đến 9 tiểu đoàn. trong các chiến dịch đó, ta đã nhằm những hướng sơ hở của địch mà tấn công, tiêu diệt sinh lực của chúng, mở rộng vùng căn cứ của ta . Tình hình chung trên chiến trường điểu hiện hình thái giằng co quyết liệt, trong khi Đảng ta đề ra chủ trương tích cực cầm cự  chuẩn bị tổng phản công.

Mùa Đông năm 1950,  đánh dấu một sự chuyển biến lớn trong cục diện chiến tranh. Quân ta đã lớn mạnh vượt bậc, đại thắng quân địch trong chiến dịch Biên Giới, tiếp theo đó đã mở nhiều chiến dịch lớn: Chiến dịch Trung Du, chiến dịch Đường số 18 và chiến dịch Hà Nam Ninh trong năm 1951 và mùa xuân 1952. Hình thái phản công cục bộ đã xuất hiện.

Trong các chiến dịch thắng lợi nói trên, chúng ta đã tiêu diệt gọn từng binh đoàn cơ động của địch, tiêu diệt hàng vạn tên địch, giải phóng những vùng đất đai rộng lớn trên chiến trường Bắc Bộ. Các tỉnh quan trọng ở vùng biên giới Việt Trung: Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai, tỉnh Hòa Bình nằm trên đường giao thông giữa Việt Bắc với Liên khu 4, phần lớn đất đai của miền Tây Bắc đi từ sông Thao cho đến biên giới Việt Lào đều lần lượt được giải phóng. Căn cứ địa Việt Bắc, hậu phương chủ yếu của cuộc kháng chiến đã được mở rộng và củng cố rất nhiều. Trên miền núi rừng Bắc Bộ, quân địch chỉ còn chiếm đóng tỉnh Hải Ninh ở Đông Bắc, thị xã Lai Châu và tập đoàn cứ điểm Nà Sản ở Tây Bắc.

Trong khi chủ lực ta thu được những thắng lợi lớn liên tiếp trên mặt trận chính diện thì chiến tranh du kích đã phát triển khá mạnh khắp cả chiến trường sau lưng địch ở Bắc Bộ. Đặc biệt trong chiến dịch Hòa Bình, chủ lực ta đã tiến sâu vào vùng sau lưng địch sông Hồng, phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương, tiêu diệt hàng loạt cứ điểm của địch, mở rộng căn cứ du kích và khu du kích, giải phóng hàng triệu đồng bào. Vùng tạm chiếm của địch bị thu hẹp lại chỉ còn khoảng một phần ba đất đai và làng mạc ở gần các đường giao thông và các đô thị lớn.

Trên chiến trường Bình Trị Thiên, mặc dầu điều kiện địa hình có phần không lợi cho ta, chiến tranh du kích vẫn được giữ vững. Ở miền Nam Trung Bộ bộ đội ta cũng đi sâu vào trong lòng địch, mở rộng cơ sở, xây dựng căn cứ du kích ở miền Tây Nguyên chiến lược. Ở Nam Bộ vùng tự do khu 9 được giữ vững, chiến tranh du kích phát triển rộng khắp.

Mùa hè năm 1953, Quân giải phóng Pathét Lào có các đơn vị bộ đội tình nguyên Việt Nam phối hợp, mở cuộc tấn công bất ngờ vào thị xã Sầm Nưa. Phần lớn quân đich ở đây bị tiêu diệt. Cả tỉnh Sầm Nưa và những vùng đất đai rộng lớn ở Thượng Lào gây nên một thế uy hiềp mới đối với địch.

Nhìn chung cục diện chiến trường miền Bắc thì từ mùa Đông năm 1950 trở đi, quân ta luôn luôn giữ thế chủ động, quân địch ngày càng bị hãm vào thế bị động. Quân địch ra sức cầu cứu đế quốc Mỹ và đế quốc Mỹ  đã can thiệp ngày càng sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược ở Đông Dương. Trong khi đó chính phủ Pháp đã nhiều lần thay đổi tướng tá của quân đội viễn chinh, sau chiến dịch Biên Giới , chúng đã phái danh tướng của Pháp là Đờ Lát đờ Tátxinhi sang Đông Dương. Chúng ta đều biết rằng Đờ Lát đã ra sức mở rộng quân ngụy, tập trung binh lực, xây dựng phòng tuyến, đánh ra Hòa Bình để giành lại thế chủ động, nhưng rốt cuộc đã bị quân ta đánh bại. Tướng Xalăng thay cho Đờ Lát cũng đã chứng kiến một cách bất lực những thất bại đau đớn của quân đội viễn chinh trên chiến trường Tây Bắcvà Thượng Lào.

Do phải tập trung binh lực phòng giữ đồng bằng Bắc Bộ, nên trên các chiến trường khác địch lại có nhiều sơ hở hơn trước. Hoạt động của quân ta trên các chiến trường đó đã có điều kiện để đẩy mạnh hơn, giành được những thắng lợi ngày càng lớn hơn.

Trên đây là những nét chính về tình hình chiến sự từ lúc bắt đầu kháng chiến cho đến giữa năm 1953.” (hết trích dẫn …)

VÕ NGUYÊN GIÁP TỰ TRONG SÂU THẲM

Tôi cũng tưởng sẽ có một khoảng lặng mới quay lại với những bài viết về đại tướng Võ Nguyên Giáp nhưng tự trong sâu thẳm vẫn không thể cưỡng được ý muốn trở về đọc lại đối diện với những sự thật t thực tiễn trong cuộc đời của Người. viết tiếp đôi lời. Giáo sư Nguyễn Huệ Chi trong bài viết “Tướng Giáp, người anh hùng của độc lập Việt Nam, đã qua đời”  có những lời thật thấm thía: “Giải tỏa tấn bi kịch vô hình khủng khiếp đè lên con người đó, bỏ qua mọi thứ “công tội” do chính cái chủ nghĩa mà con người đó theo đuổi, trả lại cho con người đó cái giá trị đích thực của một vị tướng đánh trận tài năng, phải nói chính là vòng tay ân nghĩa của nhân dân“.“Về nghỉ là thượng sách. Thử điểm lại lịch sử xưa nay có tướng nào giành được chiến công lẫm liệt mà không đi kèm thân bại danh liệt hay không?”.

Võ Nguyên Giáp Văn Cao


Võ Nguyên Giáp, Văn Cao  “Im lặng mà bão giông, khoảnh khắc mà trường cửu, tưởng như vô định nhưng đang thấu mọi cõi…” bức ảnh của Nguyễn Đình Toán thật đẹp và cảm khái. 

Võ Nguyên Giáp tự trong sâu thẳm; Võ Nguyên Giáp ẩn số Chính Trung; Cách mạng sắn ở Việt Nam; Việt Nam con đường xanh;… là những cảm nhận thấm thía của tôi. “Chúng tôi đánh theo cách đánh khác, cách đánh của Việt Nam, và chúng tôi sẽ thắng” Việt Nam con đường xanh là dám đánh và biết đánh thắng theo cách đánh Việt Nam.

CHUYỆN ĐỒNG DAO CHO EM

Chuyện đồng dao cho em, tôi thong thả sẽ nối tiếp bác Hạp nói cho bạn nghe: “Cả nước đánh đề, đề chẳng chết. Qua sông cởi giáp, giáp may còn”.

Thầy bạn trong đời tôi 1

Việt Nam con đường xanh; Cách mạng sắn ở Việt Nam; Lúa siêu xanh Việt Nam là những câu chuyện dài về cách đánh Việt Nam.

Sắn Việt Nam và Kawano; giáo sư Kazuo Kawano nói tại bài viết Cassava and Vietnam: Now and Then (Sắn Việt Nam hôm nay và mai sau) : “My ten years of close collaboration with my cassava breeding colleagues in the 1990s and the reunion with them in this trip completely changed my assessment of the Vietnamese. As evidenced by the series of my reporting here, they are industrious, insightful, considerate and indefatigable, as if to emulate General Vo Nguyen Giap. I might be a little too positively partial to those friends of mine. Nevertheless, I have a similar feeling toward some of my colleagues in Rayong, Thailand and Nanning, China to count a few. During the two decades of post-war Japan, we seem to have many Japanese of this category as well.” (Mười năm cộng tác chặt chẽ của tôi với các đồng nghiệp chọn giống sắn Việt Nam vào những năm 1987-1997 và cuộc hội ngộ với họ trong chuyến đi này đã thay đổi hoàn toàn đánh giá của tôi về người Việt Nam. Bằng chứng là một loạt các báo cáo của tôi ở đây, họ cần cù, sâu sắc, ân cần và năng động, như thể để thi đua Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tôi có thể là một phần quá tích cực với những người bạn của tôi. Tuy nhiên, tôi có một cảm giác tương tự đối với một số đồng nghiệp của tôi ở Rayong, Thái Lan và Nam Ninh, Trung Quốc. Trong hai thập kỷ của Nhật Bản sau chiến tranh, chúng ta dường như có nhiều người Nhật thuộc thể loại này)

Sắn Việt Nam và Howeler, giáo sư Reinhardt Howeler nói: Quản lý bền vững sắn châu Á; “Cassava in Vietnam: a successful story” xem tiếp Cách mạng sắn Việt Nam

BAN MAI ĐỨNG TRƯỚC BIỂN
Hoàng Kim

Ban mai đứng trước biển
Đảo Yến trong mắt ai
Thăm thẳm một tầm nhìn
Vị tướng của lòng dân.

Rate This

THẾ GIỚI CÒN ĐỔI THAY

Việt Nam con đường xanh
Tỉnh thức cùng tháng năm
Vị tướng của lòng dân
Minh triết Hồ Chí Minh


Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim
Nhớ lại và suy ngẫm

Năm bức ảnh kỷ niệm
Năm di sản đời người
Một lần và mãi mãi
Mai Hạc vầng trăng soi

BỨC ẢNH KỶ NIỆM Mạnh Đẩu Nguyễn
Hôm nay, Kỷ niệm 204 năm Ngày sinh Các Mác ( 05/5/1818 – 05/5/2022 ) – Nhà Triết học, Nhà Tư tưởng, Nhà Kinh tế thiên tài của nhân loại – tôi đăng lại bức ảnh chụp dưới chân Tượng đài của Ông tại Quảng trường Đỏ ở Matscova trong một lần đến nước Nga.

Tôi lần đầu tiên và dường như duy nhất chỉ một làn trong đời đeo huân chương, đó là lần đi viếng Bác https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vi-tuong-cua-long-dan/

Video yêu thích

#cakhucphothoNguyenHung
Xem trên kênh Youtube: https://youtu.be/EKF6kYiIL3Q

Cảm ơn Ruc Hung bảo tồn di sản quý. Bộ ảnh thật tuyệt vời https://www.facebook.com/photo/?fbid=3378893159102985&set=pcb.3378894445769523 Vị tướng của lòng dân https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vi-tuong-cua-long-dan/

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter