Việt Nam con đường xanh

VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH
越南绿色之路 Vietnam green road
Ngữ văn Việt Trung Anh đối chiếu
#htn
#vietnamxahoihoc #cnm365 #dayvahoc #vietnamhoc, #cltvn
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim

Bác Hồ nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành“.

Việt Nam con đường xanh, tiêu ngữ “Việt Nam Dân Chủ Công Hòa Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc” đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh, trịnh trọng xác định trên tất cả các văn bản hành chính Nhà nước, kể từ ngày khai sinh nước Việt Nam mới, 2 tháng 9 năm 1945,là Minh triết Hồ Chí Minh.

Nước Việt Nam ngày nay luôn xác định chiến lược chủ đạo quốc gia “Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là đường sống, đức tin, lời thề độc lập của dân tộc Việt. Nhiệm vụ cốt lõi của chính thể là năm yếu tố chìa khóa Việt Nam học tinh hoa: An sinh xã hội; An tâm; An lạc; An toàn; An ninh.

Định hướng chiến lược quốc gia, phương hướng nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế xã hội 2021-2030 (*) Đảng Cộng Sản Việt Nam 2020, Văn kiện trình đại hội Đảng XIII của Đảng xác định 10 giải pháp cơ bản:

1) Tập trung hoàn thiện nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước và thị trường.

2) Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế;

3) Phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế;

4) Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm thực chất, hiệu quả; phát triển nền kinh tế số; thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô;

5) Phát triển kết cấu hạ tầng, kinh tế vùng, kinh tế biển, lấy các đô thi làm động lực phát triển vùng và đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới;

6) Phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân;

7) Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai;

8) Củng cố, tăng cường quốc phóng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia;

9) Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập và vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế;

10) Tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động; đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tạo đột phá trong cải cách hành chính.

Việt Nam con đường xanh tích hợp thông tin đại cương Việt Nam xã hội học, du lịch sinh thái nông nghiệp, kinh tế, văn hóa, dư địa chí, hướng dẫn Học Để Làm (Lerning by Doing) theo năm mục từ khóa #htn #cnm365 #vietnamxahoihoc #vietnamhoc #cltvn, nhằm giúp học viên tìm hiểu thuật ngữ chuyên ngành đặc thù để xử lý kịp thời và phù hợp các tình huống theo #nm365 học mỗi ngày: :Việt Nam tâm thế mớiToàn văn Bản Tuyên ngôn độc lập“; “Bài viết của Tổng Bí thư về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” “Tầm nhìn mới, bản lĩnh mới, sức sáng tạo mới“; Người giương ngọn cờ đúng thời điểm lịch sử; Muốn CNXH, nền chính trị phải thật sự dân chủ; Không thể có CNXH từ lý luận sáo mòn; “Để Việt Nam mơ giấc mơ ‘hóa rồng, hóa hổ’; Khi nào hoàn thành giấc mơ công nghiệp hóa“; Việt Nam đất nước con người; Việt Nam tổ quốc tôi; Việt Nam thông tin khái quát; Việt Nam dư địa chí; Việt Nam sáng tạo KHCN; Tin nổi bật quan tâm; Đọc lại và suy ngẫm:

Việt Nam xã hội học (越南社会学; Vietnamese Sociology) Ngữ văn Việt Trung đối chiếu là môn học bảy bài Xã hội Việt Nam ngày nay; Nông nghiệp sinh thái Việt; Ngành nghề ở Việt Nam; Vùng sinh thái Việt Nam; Du lịch sinh thái Việt; Nước Việt Nam ngày nay; Việt Nam con đường xanh với 36 tiểu mục, là sách học Việt Trung.

Bài 1 Xã hội Việt Nam ngày nay có 5 tiểu mục:1.1 Việt Nam một khái quát; 1.2 Việt Nam con đường xanh; 1.3 Việt Nam tâm thế mới;1.4 Việt Nam sáng tạo KHCN; 1.5 Việt Nam dư địa chí Việt Nam xã hội học bách khoa mở 越南社会学开放百科全书 Vietnam Sociology Open Encyclopedia tích hợp thông tin mới trên cấu trúc Việt Nam xưa và nay để bổ sung Ngữ văn Việt Trung đối chiếu phục vụ học tập giảng dạy nghiên cứu

Việt Nam con đường xanh, lĩnh vực nông lâm thủy hải sản, trọng tâm là 13 sản phẩm nông nghiệp chủ lực quốc gia đã được xác định bởi Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tại Thông tư số 37 /2018/TT /BNNPTNT ngày 25/12/2018 gồm Gạo, Cà phê, Cao su, Điều, Hồ tiêu, Chè, Rau Quả, Sắn và sản phẩm từ sắn, Thịt lợn, Thịt và trứng gia cầm, Cá tra, Tôm, Gỗ và sản phẩm từ gỗ.

Phương hướng nhiệm vụ và giải pháp chính của giai đoạn 2021- 2030 để đảm bảo khối sản phẩm chủ lực này phát huy hiệu quả giá trị nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân lao động Việt Nam là tổ chức điều hành thật tốt 5 nhóm hệ thống giải pháp chính, đã được xác định:

1) Nông sản Việt 13 ngành hàng chủ lực kết nối mạnh mẽ với thị trường thế giới, xác định lợi thế so sánh và hệ thống giải pháp bảo tồn phát triển bền vững, hiệu quả khoa học công nghệ, kinh tế an sinh xã hội môi trường và vị thế quan trọng của từng ngành hàng. Nâng cao hiệu quả, hiệu lực hợp tác đầu tư nước ngoài có trọng tâm, trọng điểm, có chọn lọc, ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, quản trị hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, kết nối Nông sản Việt đạt lợi thế cạnh tranh cao trong chuỗi cung ứng toàn cầu, có tác động lan tỏa, kết nối chặt chẽ hữu cơ với khu vực kinh tế trong nước. Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, hiệu quả, đẩy mạnh hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, kết nối với hệ thống tiêu thụ toàn cầu. Phát triển mạnh doanh nghiệp nông nghiệp, hổ trợ, khuyến khích phát triển kinh tế trang trại, hợp tác xã nông nghiệp và các tổ hợp tác. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp.

2) Phát triển mạnh nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, sạch, nông nghiệp hữu cơ, đạt tiêu chuẩn phổ biến về an toàn thực phẩm. Đổi mới chính sách quản lý và sử dụng đất trồng lúa, hàng năm sản xuất khoảng 35 triệu tấn lúa làm nòng cốt bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với lợi thế và nhu cầu thị trường, tăng khả năng chống chịu, thích ứng của nông dân với biến đổi khí hậu từng vùng, miền, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, ổn định. Tổ chức kết nối nông nghiệp với công nghiệp chế biến, thị trường xuất khẩu, chuỗi giá trị toàn cầu.

3) Phát triển chăn nuôi công nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khuyến khích phát triển chăn nuôi trang trại, gia trại hiệu quả cao, thân thiện với môi trường. Phát triển nuôi trồng thủy sản cá trên biển và mặt nước nội địa theo hướng công nghiệp, quảng canh cải tiến , sinh thái, nâng cao hiệu quả khai thác xa bờ , phát triển đánh bắt hải dương. Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ và phát triển nguồn lợi hải sản;

4) Quản lý chặt chẽ, bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng rừng trồng, nhất là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đầu, rừng phòng hộ ven biển. Chú trọng phát triển trồng rừng gỗ lớn, nâng cao hiệu quả rừng trồng, lâm đặc sản, đáp ứng cơ bản nhu cầu lâm sản trong nước làm nguyên liệu chế biến xuất khẩu. Tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào các chuỗi giá trị lâm nghiệp.

5) Đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới và quản lý sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai. Đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia thượng nguồn và các tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên nước ở lưu vực các dòng sông xuyên biên giới, nhất là sông Mê Công và sông Hồng. Nâng cao tính chống chịu và thích ứng biến đổi khí hậu của hệ thống kết cấu hạ tầng và của nền kinh tế Việt Nam, thực hiện các giải pháp thông minh để thích ứng trong nông nghiệp, thủy sản và phát triển rừng. Giảm thiểu những rũi ro do biến đổi khí hậu gây ra, đặc biệt là xâm nhập mặn, sạt lở tại Đồng Bằng Sông Cửu Long, an toàn lụt và môi sinh tại Hà Nội và vùng Đồng Bằng Sông Hồng khô hạn tại Tây Nguyên, Nam Trung Bộ,Bắc Trung Bộ Bảo vệ an ninh nguồn nước, tăng cường quản lý và khai thác, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm nguồn nước theo lưu vực sông, ngăn chặn suy giảm tài nguyên nước, tích nước điều tiết nguồn nước hợp lý phục vụ phát triển kinh tế xã hội. Quản lý chặt chẽ và nâng cao hiệu lực quản lý, hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài nguyên, nhất là đất, nước khoáng sản, theo nguyên tắc thị trường. Phát triển thị trường, đẩy mạnh thương mại hóa quyền sử dụng đất, tăng cường đăng ký quyền sử dụng đất và áp dụng định giá đất theo thị trường, bảo đảm công khai, minh bạch. Phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, mạng lướí các dự án hạ tầng trọng điểm quốc gia kết nối đồng bộ với các khu vực nông phẩm hàng hóa chính và khu đô thị, khu công nghiệp, cảng biển; Kết nối xây dựng nông thôn mới với kinh tế vùng, kinh tế biển, đào tạo nguồn lực nông nghiệp, cải tiến nâng cấp hệ thống hóa dữ liệu thông tin nông nghiệp nông dân nông thôn đáp ứng phù hợp với thời đại mới. Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới theo hướng gắn với đô thị hóa, thực chất và đi vào chiều sâu hiệu quả bền vững, lấy cư dân nông thôn làm chủ thể, tạo sự chuyển biến tích cực rõ rệt về nếp sống mới ở nông thôn; xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới cấp thôn bản. Thu hút mạnh mẽ các doanh nghiệp đầu tư vào khu vực nông thôn để tổ chức và nâng cao chuỗi gía trị “mỗi xã một sản phẩm” gắn với thương hiệu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. Chú trọng xây dựng cảnh quan sinh thái môi trường làng xã Việt xanh sạch đẹp tiến bộ an lành

Ba trụ cột cốt lõi của một quốc gia là cân đối hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội.theo kết luận của Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về Phát triển bền vững tại Johannesburg (Cộng hòa Nam Phi) năm 2002.

Bảo vệ an toàn môi trường sống và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân lao động Việt Nam là một trong ba trụ cột cốt lõi của chính sách quốc gia. Bảo vệ an toàn thức ăn, đất, nước, không khí và môi sinh là luật sống. Nguyên tắc cơ bản là: Ai gây ô nhiễm môi trường phải trả chi phí để xử lý khắc phục hậu quả, cải tạo và phục hồi. Thực thi chế tài và xử phạt nghiêm về vi phạm môi trường là quốc sách.

Tăng cường giám sát, công khai đầy đủ, kịp thời thông tin và nâng cao chất lượng môi trường, sự an toàn về thức ăn, đất nước, không khí và môi sinh ở các đô thị và vùng dân cư. Xử lý dứt điểm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Cải thiện rõ rệt tình trạng ô nhiễm môi trường, ở các cụm công nghiệp, làng nghề, lưu vực sông, khu vực nông thôn. Kiểm soát chặt chẽ các dự án khai thác tài nguyên, chủ động phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm gây ô nhiễm môi trường. Ngăn chặn suy thoái môi trường. Tối ưu hóa các mục đích sử dụng đất nông nghiệp. Đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia thượng nguồn và các tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên nước ở lưu vực các dòng sông xuyên biên giới, nhất là sông Mê Công và sông Hồng.

Việt Nam con đường xanh, thông tin này đúc kết chọn lọc các trích dẫn phù hợp với tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Định hướng tầm nhìn Việt Nam ngày nay nhấn mạnh

1) Phải phát triển hài hòa ba trụ cột “Không đánh đổi môi trường với tăng trưởng kinh tế”; “Không thể vì nghèo mà hy sinh môi trường và sức khỏe người dân”

2) Vai trò kiến tạo của Nhà nước là quyết định;

3) Vai trò của người dân lao động và cộng đồng xã hội là không thể thiếu.

Việt Nam ngày nay đề cao vai trò kiến tạo của Nhà nước là quyết định, nhấn mạnh kiểm soát quyền lực, diệt trừ tham nhũng. Việt Nam là nước có truyền thống văn hiến, tinh thần yêu nước, đại đoàn kết dân tộc “bầu ơi thương lấy bí cùng”,kinh nghiệm dựng nước, giữ nước trãi 4000 năm, làm chủ tập thể, biết thắt lưng buộc bụng để đầu tư trọng điểm.

NHỮNG TRÍCH DẪN NỔI BẬT

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Phú Trọng
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

Theo Việt Nam Net ngày 16/05/2021, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng có bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Việt Nam con đường xanh trích dẫn toàn văn bài viết quan trọng này

(VNN) Tổng Bí thư viết bài này nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh  (19/5/1890 – 19/5/2021) và bầu cử ĐBQH khoá XV và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026 vào ngày 23/5 tới đây. VietNamNet trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết quan trọng này của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một đề tài lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng, nội dung rất rộng lớn, phong phú và phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu rất công phu, nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc, khoa học.

Trong phạm vi bài này, tôi chỉ xin đề cập một số khía cạnh từ góc nhìn thực tiễn của Việt Nam. Và cũng chỉ tập trung vào trả lời mấy câu hỏi: Chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Thực tiễn công cuộc đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì?.

Như chúng ta đã biết, chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: chủ nghĩa xã hội là một học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ. Mỗi tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tùy theo thế giới quan và trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Chủ nghĩa xã hội đề cập ở đây là chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên học thuyết Mác – Lê Nin trong thời đại ngày nay. Vậy thì chúng ta phải định hình chủ nghĩa xã hội thế nào, và định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm cụ thể ở Việt Nam?

Trước đây, khi còn Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dường như không có gì phải bàn, nó mặc nhiên coi như đã được khẳng định. Nhưng từ sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Các thế lực chống cộng, cơ hội chính trị thì hí hửng, vui mừng, thừa cơ dấn tới để xuyên tạc, chống phá.

Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội, quy kết nguyên nhân tan rã của Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Mác – Lênin và sự lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó họ cho rằng chúng ta đã chọn đường sai, cần phải đi con đường khác.

Có người còn phụ họa với các luận điệu thù địch, công kích, bài bác chủ nghĩa xã hội, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản. Thậm chí có người còn sám hối về một thời đã tin theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và con đường xã hội chủ nghĩa! Thực tế có phải như vậy không? Thực tế có phải hiện nay chủ nghĩa tư bản, kể cả những nước tư bản chủ nghĩa già đời vẫn đang phát triển tốt đẹp không? Có phải Việt Nam chúng ta đã chọn con đường đi sai không?

Chúng ta thừa nhận rằng, chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học – công nghệ. Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước.

Từ giữa thập kỷ 70 và nhất là từ sau khi Liên Xô tan rã, để thích ứng với điều kiện mới, chủ nghĩa tư bản thế giới đã ra sức tự điều chỉnh, thúc đẩy các chính sách “tự do mới” trên quy mô toàn cầu; và nhờ đó hiện vẫn còn tiềm năng phát triển. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó.

Các cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục diễn ra. Đặc biệt là, năm 2008 – 2009 chúng ta đã chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế bắt đầu từ nước Mỹ, nhanh chóng lan rộng ra các trung tâm tư bản chủ nghĩa khác và tác động đến hầu hết các nước trên thế giới. Các nhà nước, các chính phủ tư sản ở Phương Tây đã bơm những lượng tiền khổng lồ để cứu các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia, các tổ hợp công nghiệp, tài chính, ngân hàng, thị trường chứng khoán, nhưng không mấy thành công.

Và hôm nay, chúng ta lại chứng kiến cuộc khủng hoảng nhiều mặt, cả về y tế, xã hội lẫn chính trị, kinh tế đang diễn ra dưới tác động của đại dịch Covid-19 và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kinh tế suy thoái đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã hội tư bản chủ nghĩa: đời sống của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu – nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc.

Những tình huống “phát triển xấu”, những nghịch lý “phản phát triển”, từ địa hạt kinh tế – tài chính đã tràn sang lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội, và ở không ít nơi từ tình huống kinh tế đã trở thành tình huống chính trị với các làn sóng biểu tình, bãi công, làm rung chuyển cả thể chế. Sự thật cho thấy, bản thân thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản không thể giúp giải quyết được những khó khăn, và trong nhiều trường hợp còn gây ra những tổn hại nghiêm trọng cho các nước nghèo; làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa lao động và tư bản toàn cầu.

Sự thật đó cũng làm phá sản những lý thuyết kinh tế hay mô hình phát triển vốn xưa nay được coi là thời thượng, được không ít các chính khách tư sản ca ngợi, được các chuyên gia của họ coi là tối ưu, hợp lý.

Cùng với khủng hoảng kinh tế – tài chính là khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái,… đang đặt ra những thách thức vô cùng lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại.

Đó là hậu quả của một quá trình phát triển kinh tế – xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội. Đó cũng chính là những đặc trưng cốt yếu của phương thức sản xuất và tiêu dùng tư bản chủ nghĩa. Các cuộc khủng hoảng đang diễn ra một lần nữa chứng minh tính không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái của nó. Theo nhiều nhà khoa học phân tích, các cuộc khủng hoảng hiện nay không thể giải quyết được một cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa.

Các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do” mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân – yếu tố bản chất nhất của dân chủ.

Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội. Đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến phong trào “99 chống lại 1” diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011 và nhanh chóng lan rộng ở nhiều nước tư bản.

Sự rêu rao bình đẳng về quyền nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó đã dẫn đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức, trống rỗng mà không thực chất. Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là “tự do”, “dân chủ” dù có thể thay đổi chính phủ nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản.

Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm.

Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hoà với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và huỷ hoại môi trường.

Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi.

Như chúng ta đều biết, nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, khó khăn, đầy gian khổ hy sinh để chống lại ách đô hộ và sự xâm lược của thực dân, đế quốc để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền thiêng liêng của đất nước, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân với tinh thần “Không có gì quý hơn Độc lập Tự do”.

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc.

Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Năm 1930, trong Cương lĩnh chính trị của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương: “Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa”.

Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không còn, phong trào xã hội chủ nghĩa lâm vào giai đoạn khủng hoảng, thoái trào, gặp rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011) trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), chúng ta một lần nữa khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.

Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội là gì và đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào?Đó là điều mà chúng ta luôn luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi, lựa chọn để từng bước hoàn thiện đường lối, quan điểm và tổ chức thực hiện, làm sao để vừa theo đúng quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản…

Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Để thực hiện được mục tiêu đó, chúng ta phải: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.

Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới.

Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển.

Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới.

Theo nhận thức của chúng ta, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ).

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội.

Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.

Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển.

Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xoá đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta coi văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hoá đồng bộ, hài hoà với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hoá thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hoá nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao.

Chúng ta xác định: Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hoá, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh.

Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội.

Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ.

Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chúng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội. Chúng ta nhận thức rằng, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân.

Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Đồng thời, chúng ta xác định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam; không ngừng thúc đẩy sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo.

Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam; Đảng ra đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Khi Đảng cầm quyền, lãnh đạo cả dân tộc, được toàn dân thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo của mình và do đó Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.

Nói như vậy không có nghĩa là hạ thấp bản chất giai cấp của Đảng, mà là thể hiện sự nhận thức bản chất giai cấp của Đảng một cách sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, vì giai cấp công nhân là giai cấp có lợi ích thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động và toàn dân tộc. Đảng ta kiên trì lấy chủ nghĩa Mác Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.

Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ. Ý thức được nguy cơ đối với đảng cầm quyền là tham nhũng, quan liêu, thoái hóa v.v…, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra yêu cầu phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, thoái hóa v.v… trong nội bộ Đảng và trong toàn bộ hệ thống chính trị.

Công cuộc đổi mới, trong đó có việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thực sự đem lại những thay đổi to lớn, rất tốt đẹp cho đất nước trong 35 năm qua.

Trước Đổi mới (năm 1986), Việt Nam vốn là một nước nghèo lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề, để lại những hậu quả hết sức to lớn cả về người, về của và môi trường sinh thái. Tôi chỉ nêu thí dụ, cho đến nay vẫn có hàng triệu người chịu các bệnh hiểm nghèo và hàng trăm ngàn trẻ em bị dị tật bẩm sinh bởi tác động của chất độc da cam/dioxin do quân đội Mỹ sử dụng trong thời gian chiến tranh ở Việt Nam.

Theo các chuyên gia, phải mất đến hơn 100 năm nữa Việt Nam mới có thể dọn sạch hết bom mìn còn sót lại sau chiến tranh. Sau chiến tranh, Mỹ và phương Tây đã áp đặt cấm vận kinh tế với Việt Nam trong suốt gần 20 năm. Tình hình khu vực và quốc tế cũng diễn biến phức tạp, gây nhiều bất lợi cho chúng ta. Lương thực, hàng hoá nhu yếu phẩm hết sức thiếu thốn, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, khoảng 3/4 dân số sống dưới mức nghèo khổ.

Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỉ đô la Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008.

Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỉ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỉ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỉ USD vào năm 2020.

Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỉ USD vào cuối năm 2020. Về cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.

Hiện dân số của Việt Nam là hơn 97 triệu người, gồm 54 dân tộc anh em, trong đó hơn 60% số dân sống ở nông thôn. Phát triển kinh tế đã giúp đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội những năm 80 và cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân. Tỉ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước).

Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ô tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Trong khi chưa có điều kiện để bảo đảm giáo dục miễn phí cho mọi người ở tất cả các cấp, Việt Nam tập trung hoàn thành xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết.

Trong khi chưa thực hiện được việc bảo đảm cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho toàn dân, Việt Nam tập trung vào việc tăng cường y tế phòng ngừa, phòng, chống dịch bệnh, hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Nhiều dịch bệnh vốn phổ biến trước đây đã được khống chế thành công. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí.

Tỉ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 3 lần. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Cũng nhờ kinh tế có bước phát triển nên chúng ta đã có điều kiện để chăm sóc tốt hơn những người có công, phụng dưỡng các Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo cho phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc.

Đời sống văn hoá cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hoá phát triển phong phú, đa dạng. Hiện Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng Internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hoá các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.

Như vậy, có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố.

Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ X (năm 2006) đã nhận định, sự nghiệp đổi mới đã giành được “những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử”. Trên thực tế, xét trên nhiều phương diện, người dân Việt Nam ngày nay đang có các điều kiện sống tốt hơn so với bất cứ thời kỳ nào trước đây.

Đó là một trong những lý do giải thích vì sao sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo được toàn dân Việt Nam đồng tình, hưởng ứng và tích cực phấn đấu thực hiện. Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng minh rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế.

Những kết quả, thành tích đặc biệt đạt được của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và suy thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu từ đầu năm 2020 được nhân dân và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Mới đây, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng một lần nữa lại khẳng định và nhấn mạnh: “Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá.

Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.

Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, trang 25 – 26).

Bên cạnh những thành tựu, mặt tích cực là cơ bản, chúng ta cũng còn không ít khuyết điểm, hạn chế và đang phải đối mặt với những thách thức mới trong quá trình phát triển đất nước.

Về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền vững; kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ; hiệu quả và năng lực của nhiều doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế; môi trường bị ô nhiễm tại nhiều nơi; công tác quản lý, điều tiết thị trường còn nhiều bất cập. Trong khi đó, sự cạnh tranh đang diễn ra ngày càng quyết liệt trong quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.

Về xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hoá, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Đặc biệt, tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch lại luôn tìm mọi thủ đoạn để can thiệp, chống phá, gây mất ổn định, thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình” nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Đảng ta nhận thức rằng, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế.

Bên cạnh các mặt thành tựu, tích cực, sẽ luôn có những mặt tiêu cực, thách thức cần được xem xét một cách tỉnh táo và xử lý một cách kịp thời, hiệu quả. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, đòi hỏi phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới. Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Hiện nay, chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng chú trọng hơn chất lượng và tăng tính bền vững với các khâu đột phá là: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nguồn nhân lực, trước hết là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội (Văn kiện Đại hội XIII, tập 2, trang 337 – 338).

Về xã hội, chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền vững, nâng cao chất lượng y tế, giáo dục và các dịch vụ công ích khác, nâng cao hơn nữa đời sống văn hoá cho nhân dân. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang ra sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, thực hiện tốt hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, nhằm làm cho tổ chức đảng và bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, giữ vững bản chất cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội.

Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng vì thấy đường lối đó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển.

Mặt khác, Đảng lãnh đạo và cầm quyền, trong khi xác định phương hướng chính trị và đề ra quyết sách, không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình, mà còn phải nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại.

Trong thế giới toàn cầu hoá như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia – dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó. Chính vì vậy, chúng ta phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi.

Và điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin – học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện.

Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống.

CÂU CHUYỆN XỨ ĐÔNG
Bộ
trưởng Lê Minh Hoan

Nông nghiệp Việt Nam, Cây Lương Thực Việt Nam #cltvn: #cnm365 cuốn hút tâm huyết, nổ lực và sự quan tâm sâu sắc của nhiều người nặng lòng với nông nghiệp nông dân nông thôn, nơi lắng đọng trầm tích của đất nước con người văn hóa giáo dục kinh tế xã hội và lịch sử địa chính trị dân tộc. “Câu chuyện xứ Đông” và câu chuyện ‘Hương mùa” trên “Việt Nam ngày nay” đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam con đường xanh thao thức trong lòng chúng ta; xem tiếp #cltvn: https://khatkhaoxanh.wordpress.com/category/viet-nam-con-duong-xanh

“Lần giở trang sách cũ, thấy người xưa nói Hà Nội là xứ kinh kỳ, là trung tâm vùng đồng bằng Bắc bộ. Bao quanh trung tâm là 4 hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc. Và ở xứ Đông đó có một địa danh gắn với chữ “tứ”, đó là Tứ Kỳ, nằm ở hạ lưu của hệ thống sông Thái Bình. Theo tra cứu từ nguyên, Tứ Kỳ theo âm Hán – Việt có nghĩa là “4 đường rẽ (ngã rẽ)”. Thực hư ra sao, chắc những nhà địa danh học mới tường tận hơn.

Một buổi sáng đầu tuần tháng 6, được về Tứ Kỳ, cùng “ra đồng” với bà con nông dân thu hoạch vụ “lúa – rươi” đầu mùa. Tiếp nối ngày hội thu hoạch cà rốt ở Cẩm Giàng cách đây 4 tháng, Hải Dương tổ chức sự kiện trải nghiệm sản xuất, gắn bó với đồng quê nông thôn, thông qua các hoạt động đa dạng khi vào vụ mùa thu hoạch.

Trên con đường đê yên bình, một sự kiện nhỏ, lại chứa đựng thật nhiều ý nghĩa. Đó là kích hoạt sự năng động cho cuộc sống làng quê, giới thiệu, quảng bá cách làm nông nghiệp bài bản, chỉn chu với du khách gần xa.

Cảm xúc biết bao khi nhìn ngắm những ruộng lúa trĩu bông đang vào vụ thu hoạch, bên dưới là rươi, là cáy. Cảm xúc biết bao khi được hoà mình vào một lễ hội bình dị, vui tươi, mà không kém phần độc đáo. Một không gian thật gần gũi, chan hoà giữa người với người, bừng lên sức sống mới, luồng gió mới, với cách làm nông nghiệp hướng tới “đa tầng”, “đa giá trị” của người Tứ Kỳ, như trong những câu thông điệp nhẹ nhàng, súc tích, điểm xuyết dọc đường đê.

“Đa tầng, đa giá trị” và triết lý nông nghiệp “vị nhân sinh”, như lời phát biểu mở hội của lãnh đạo huyện, là điều mang đến rất nhiều ý nghĩa, nhiều chiều sâu không dễ nhận ra. Sẽ có ý kiến cho rằng, làm nông là để thu hoạch sản lượng nhiều nhất, mang lại thu nhập cao nhất, thì có gì mà cao xa đâu mà cần đến triết lý, phương châm. Nhưng người Tứ Kỳ nói riêng và người Hải Dương nói chung đã dũng cảm bước ra khỏi cách nghĩ quen thuộc, cách tư duy truyền thống đó.

Đi theo đường cũ nhiều người đã đi, thì dễ. Mở ra con đường mới, để hướng đến mục tiêu mới, cần sự kiên trì và quyết tâm. Người Cẩm Giàng, người Thanh Hà, người Kinh Môn hôm qua và người Tứ Kỳ hôm nay dám chấp nhận thử thách, để tạo nên sự khác biệt.

Chọn một hướng đi, cũng giống như người Tứ Kỳ đứng giữa “4 ngã rẽ con đường”. Người Tứ Kỳ không ngã bên trái, không nghiêng bên phải, và chắc chắn càng không muốn tụt lại phía sau. Người Tứ Kỳ chọn tiến lên phía trước, theo cách riêng của mình. Từ “tư duy sản xuất” sang “tư duy kinh tế nông nghiệp”, từ tăng trưởng dựa trên “đơn giá trị” sang tích hợp “đa giá trị” và cộng với mô hình sản xuất “đa tầng” là chặng đường tìm tòi, khám phá những giá trị gắn bó với mảnh đất quê mình. Thì đó, tầng đầu là đất đai, thổ nhưỡng giàu chất dinh dưỡng nhờ con rươi, con cáy, tầng kế đến là cây lúa trĩu hạt, chất lượng cao, tầng tiếp theo là các hoạt động trải nghiệm đồng quê sinh động. Theo tính toán của bà con nông dân, nhờ mô hình kinh tế “đa tầng”, thu nhập trên một đơn vị diện tích đã tăng lên năm, bảy lần và còn có thể cao hơn.

Và chắc chắn rằng, giá trị gia tăng từ “đa tầng”, “đa giá trị” đâu chỉ dừng lại đó. Ngoài tầng doanh thu, lợi nhuận kinh tế hữu hình, còn những tầng lợi ích, giá trị vô hình. Tài nguyên bản địa độc đáo, cùng với văn hoá, lịch sử địa phương và kết cấu cộng đồng xã hội nông thôn, sẽ kết tinh thành nhiều tầng giá trị hơn nữa.

Nhiều người hay than phiền: “Địa phương tôi chẳng có gì!”, và từ đó, đôi khi cứ tìm kiếm cái mình không có. Nhưng ngày nay, người ta phát hiện ra rằng, mỗi địa phương đều có “ba nguồn lực”: “nguồn lực từ thiên nhiên” ban tặng như đất đai trù phú hay cảnh quan xinh đẹp; “nguồn lực mềm” như văn hoá đa dạng, kinh nghiệm dân gian và tri thức bản địa, truyền thống lịch sử; “nguồn lực con người” đậm tính cá nhân như ý tưởng, ý chí, tinh thần, ước mơ,…

Trong ba nguồn lực đó, có những sức mạnh “phát lộ” nhìn thấy được, nhưng có những sức mạnh cần phải liên tục “đào xới”, “vun trồng” để làm bật lên những điều tiềm ẩn vô hình nhưng chính là những tầng giá trị cao nhất.

Qua quan sát, người ta đúc rút ra một điều rằng, ngày nay, người tiêu dùng không đơn thuần tìm mua sản phẩm hữu hình, mà quan tâm, ấn tượng, cảm xúc nhiều hơn về câu chuyện kể ghi nhận quá trình tạo nên sản phẩm từ ba nguồn lực đó. Và người Hải Dương đang bắt đầu kể những câu chuyện về quả vải, củ hành, củ tỏi, củ cà rốt và hôm nay về cây lúa, con rươi, con cáy, gắn với những giá trị tiềm ẩn đó. Người Hải Dương kiên trì, chăm chút cùng nhau tạo nên giá trị tăng thêm từ những điều vô hình, những điều ít được quan tâm, những điều dễ bị lướt qua.

Chuyện kể rằng, người Hải Dương biến những mảnh đất nhỏ thành những cánh đồng lớn nhờ thoát khỏi tư duy manh mún. Chuyện kể rằng, người Tứ Kỳ biến đặc điểm riêng có của mình, thành lợi thế so sánh, chứ không tự bằng lòng với cách làm nông truyền thống bao đời, vốn không còn phù hợp với xu thế thay đổi không ngừng. Chuyện kể rằng, người Tứ Kỳ đang xây dựng thương hiệu nông sản của mình qua triết lý “nông nghiệp vị nhân sinh”, vì sự sống con người, thân thiện với môi trường, tự nhiên.

Về dự ngày hội ở Tứ Kỳ, còn có những chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý,… Mọi người vừa khám phá, vừa chung vui với người Tứ Kỳ. Doanh nghiệp về với Tứ Kỳ để kết nối đưa nông sản đi xa. Mong rằng, doanh nghiệp về làng, không chỉ dừng lại ở chuyện “thuận mua, vừa bán” đơn thuần, mà hãy cùng với bà con nông dân tạo ra giá trị cao nhất cho sản phẩm bằng những tầng giá trị gắn kết từ những điều còn tiềm ẩn.

Thương hiệu sản phẩm nông nghiệp bắt đầu từ những người nông dân, nhưng cần đến vai trò đồng hành, định hướng của doanh nghiệp, cũng như sự chung tay đóng góp của toàn hệ sinh thái.

Một nhà kinh tế nổi tiếng chia sẻ rằng, khi bạn chỉ nhìn vào một giá trị duy nhất, bạn đã bỏ qua nhiều giá trị ẩn đằng sau, mà đôi khi còn có giá trị nhiều lần hơn, giá trị ban đang nhìn thấy. Người Hải Dương đang đi tìm những giá trị vô hình đó để tích hợp “đa tầng, đa giá trị” cho từng nông sản của người nông dân, từng sản phẩm của doanh nghiệp.

Người Hải Dương chứng minh rằng “Vấn đề không phải ở chỗ bạn có thể làm hay không, mà chính là bạn có làm hay không”. Và người Hải Dương đang bắt tay làm, cùng nhau làm. Lại có câu: “Vấn đề không phải là bạn có thể làm, quan trọng là bạn đã làm”. Và người Hải Dương đã làm, đang làm và sẽ tiếp tục làm.

Cám ơn Hải Dương, cám ơn xứ Đông, một buổi sáng trong lành, bên ruộng lúa rươi Tứ Kỳ, mọi người nô nức, gửi gieo nhiều cảm xúc phấn khởi. Đường đê như rộn vang tiếng hát “ngày mùa vui thôn trang, lúa reo như hát mừng”. xem tiếp https://khatkhaoxanh.wordpress.com/category/viet-nam-con-duong-xanh

VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH
Hoàng Kim

Chúc mừng PGS TSThe Anh Dao MALICA https://vtv.vn/video/bizline-15-3-2020-427424.htm Hai bài học thực tiễn công nghệ trồng hoa tươi, kỹ thuật trồng hoa cúc, kỹ thuật trồng hoa ly và sự thảo luận của Phó Giáo sư Tiến sĩ Đào Thế Anh Phó Viện trưởng Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Kết nối Thị trường và Nông nghiệp các thành phố châu Á (Markets and Agriculture Linkages for Cities in Asia– MALICA) ở Tạp chí Kinh tế Bizline thông tin tại VTV4 ngày 15 tháng 3 năm 2020,.là chủ đề thú vị của Ứng dụng công nghệ nâng cao chuỗi giá trị nông nghiệp Technological application enhances agriculture value chain . Cách ứng dụng thông minh công nghệ thông tin trong nông nghiệp là giải pháp chìa khóa Ứng dụng công nghệ nâng cao chuỗi giá trị nông nghiệp. Việt Nam con đường xanh https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-con-duong-xanh/

CÔNG NGHỆ TRỒNG HOA TƯƠI

Kỹ thuật trồng hoa cúc
Ông Bùi Văn Sỹ một nông dân ở phường 11, thành phố Đà Lạt tỉnh Lâm Đồng với khoảng 10 tỷ đồng đã đầu tư lắp đặt nhà kính, hệ thống tưới nước, bón phân tiên tiến của Nhật, Israel cho 4 ha hoa.

Hệ thống hiện đại này giúp ông Sỹ giảm từ 10 xuống 1 nhân công .Chỉ với một nút bấm điều khiển hệ thống sẽ thực hiện mọi công đoạn từ tưới nước bón phân … Nhờ hệ thống này hoa của ông Sỹ không bị hỏng do mưa đá hay sâu bệnh, bông hoa tươi lâu hơn và được khách Hàn Quốc, Thái Lan ưa chuộng. Mỗi ha hoa cho doanh thu hơn 2 tỷ đồng trừ chi phí còn hơn 700 triệu đồng tiền lãi.

Kỹ thuật trồng hoa ly
Ông Nguyễn Minh Trí xã Xuân Thọ thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng sáng tạo trồng hoa ly trong nhà lưới hai lớp. Lớp lưới đen phía trong di chuyển được kéo ra khi mưa, kéo che khi nắng gắt.

Ông Trí lắp đặt hệ thống ống tưới nước, tưới phân nhỏ giọt tự động sát từng gốc hoa … Đặc biệt, ông Trí không trồng hoa trên đất mà trồng trên giá thể xơ dừa xử lý bằng công nghệ nano.

Trang trại hoa ly giá thể của ông Trí được chọn là mô hình mẫu về nông nghiệp công nghệ cao, cho doanh thu gần 4 tỷ đồng một năm một ha, và đã có hàng chục chủ doanh trại học hỏi, ứng dụng cách canh tác thông minh này thành công.

* Ghi chú (Notes)
Việt Nam con đường xanh
THÔNG TIN LÚA NỔI BẠT

KỸ THUẬT THÂM CANH LÚA

** Ghi chú (Notes)
Việt Nam con đường xanh
VIỆT NAM TỔ QUỐC TÔI
“Việt Nam vẫn là hình mẫu giải phóng và độc lập dân tộc” (Kissinger).

VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH
越南绿色之路 Vietnam green road
Ngữ văn Việt Trung Anh đối chiếu
#htn
#vietnamxahoihoc #cnm365 #dayvahoc #vietnamhoc, #cltvn
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ban-mai-kenh-thi-nghe

Việt Nam xã hội học (越南社会学; Vietnamese Sociology) Ngữ văn Việt Trung đối chiếu 学越中文 học văn hiến Việt Trung là môn học gồm bảy bài Xã hội Việt Nam ngày nay; Nông nghiệp sinh thái Việt; Ngành nghề ở Việt Nam; Vùng sinh thái Việt Nam; Du lịch sinh thái Việt; Nước Việt Nam ngày nay; Việt Nam con đường xanh, với 36 tiểu mục.

Bài 1 Xã hội Việt Nam ngày nay gồm có 5 tiểu mục:: 1.1 Việt Nam một khái quát; 1.2 Việt Nam con đường xanh; 1.3 Việt Nam tâm thế mới; 1.4 Việt Nam sáng tạo KHCN; 1.5 Việt Nam dư địa chí xem tiếp https://hoangkimvn.wordpress.com/category/xa-hoi-viet-nam-ngay-nay

Bài đọc thêm

VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH
Hoàng Kim, Hoàng Long

Có những hình ảnh công việc giá trị biểu tượng lắng đọng một tình nguyện nổ lực và cam kết. Việt Nam con đường xanh chúng tôi tình nguyện trong đội ngũ dấn thân ấy. “Lớp cha trước, lớp con sau, đã thành đồng đội chung câu quân hành!”. Bạn Alon Tran hỏi: “Thầy có lời khuyên gì cho thế hệ trẻ nông nghiêp, cả về tài và đức, để đóng góp được gì đó cho quê hương không Thầy? Tôi trả lời: Tôi thích triết lý giáo dục “Việt Nam con đường xanh” là xây dựng đất nước Việt Nam hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc, an sinh xã hội, cân bằng hài hòa, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, nâng cao sinh kế, thu nhập, chất lượng cuộc sống cho người dân lao động, đặc biệt là nông dân.

“Nông sản Việt Nam” và  “Nông thôn ngày nay” là hai chủ đề nóng mà anh Nam Sinh Đoàn xới lên gần đây cùng với câu chuyện “Việt Nam con đường xanh” có nhiều chủ đề nóng và gương sáng đời thường ám ảnh như Mục lục này thật lắng đọng nhiều điều nhưng tôi chưa kịp sắp xếp lại:.Nông nghiệp sinh thái Việt Nam; Một niềm tin thắp lửa; Gạo Việt và thương hiệu; Con đường lúa gạo Việt Nam; Trường tôi nôi yêu thương; Viện Lúa Sao Thần Nông; Đường tới IAS 100 năm;  Lương Định Của con đường lúa gạo; Sóc Trăng Lương Định Của; Lương Định Của lúa Việt; Thầy Tuấn kinh tế hộ; Thầy Quyền thâm canh lúa; Thầy Luật lúa OMCS OM; Bùi Huy Đáp lúa xuân Việt Nam; Chuyện cô Trâm lúa lai; Chuyện thầy Hoan lúa lai; Lúa siêu xanh Việt Nam; Lúa siêu xanh Phú Yên; Lúa Việt tới Châu Mỹ; Lúa sắn Việt Châu Phi; Lúa C4 và lúa cao cây; Thầy nghề nông chiến sĩ; Lúa sắn Cămpuchia và Lào; Bảy Nhị kênh ông Kiệt và tôi; Từ Sắn Việt Nam đến Lúa Siêu Xanh; Phạm Trung Nghĩa nhà khoa học xanh; Hồ Quang Cua gạo thơm Sóc Trăng; Những người Việt lỗi lạc ở FAO; Lê Hùng Lân gạo ngon Hoa Tiên; Kênh ông Kiệt giữa lòng dân; Ông Bảy Nhị An Giang; Thầy bạn là lộc xuân; Về miền Tây; Hoa và OngHoa Người; Hoa Lúa; Hoa Đất.

Việt Nam con đường xanh là lắng nghe cuộc sống, góp nhặt cát đá; bảo tồn và phát triển một triết lý Việt Nam vươn ra làm bạn với thế giới, bảo tồn và phát triển tinh hoa văn hóa dân tộc Việt

GreenSuperRiceinVietnam

LỜI YÊU THƯƠNG MINH TRIẾT

Giáo sư Norman Borlaug có lời dặn thật thấm thía,  trích dẫn trong Thầy bạn là lộc xuân:
Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm tiếng để đời”

Tiến sĩ  Phạm Trung Nghĩa nhà khoa học xanh,  Phó Viện Trưởng Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long nói tại Lớp học trên đồng những lời sâu sắc: “Hãy cúi xuống học trên đồng, cúi xuống học trong phòng thí nghiệm, cúi xuống học thầy, học bạn và lắng nghe tiếng nói người dân”. Chúng ta hãy cùng tiếp bước trên Con đường lúa gạo Việt Nam  theo những tấm gương sáng  Lương Định Của, Tôn Thất Trình, Bùi Huy Đáp, Nguyễn Văn Luật, Võ Tòng Xuân, Vũ Tuyên Hoàng, Mai Văn Quyền, Trần Văn Đạt, Bùi Bá Bổng, Bùi Chí Bửu, Nguyễn Thị Trâm, Lê Văn Bảnh, Trần Thị Cúc Hòa, Nguyễn Thị Lang,Trần Mạnh Báo, Nguyễn Văn Hoan, Trần Duy Quý,  … để tạo chọn được những giống lúa gạo, cây lương thực ngon hơn, tốt hơn cho người dân; nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật thâm canh tổng hợp, các giải pháp khoa học công nghệ để người dân lao động bớt nhọc nhằn hơn, giảm rũi ro và tổn thất sau thu hoạch.

conduongluagaovietnam

CON ĐƯỜNG LÚA GẠO VIỆT NAM

Việt Nam là chốn tổ của nghề lúa. Giáo sư tiến sỹ anh hùng lao động Nguyễn Văn Luật, nguyên Viện trưởng Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long,  tác giả chính của cụm công trình ‘Nghiên cứu và phát triển lúa gạo’ đoạt giải thưởng Hồ Chí Minh, đã có hai bài viết quan trọng giới thiệu về “Lịch sử cây lúa Việt Nam” và “Cải tiến giống lúa cho sản xuất lúa gạo tại Việt Nam”. Giáo sư đã đưa ra các bằng chứng và dẫn liệu ‘Việt Nam là chốn tổ của nghề lúa’ và ‘các tiến bộ của giống lúa Việt Nam những năm đầu thế kỷ 21’. Hai bộ sách: Nguyễn Văn Luật (chủ biên), xuất bản lần đầu năm 2001, 2002, 2003 Cây lúa Việt Nam thế kỷ 20, ba tập Nhà Xuất Bản Nông nghiệp, Hà Nội, 1.347 trang, và Nguyễn Thị Lang, Bùi Chí Bửu 2011. Khoa học về cây lúa, di truyền và chọn giống. Nhà Xuất bản Nông Nghiệp, 623 trang đã đúc kết về những tiến bộ này.

Việt Nam con đường xanh” “Con đường lúa gạo Việt Nam” là chùm bài lược thuật về các dâng hiến lặng lẽ của một số nhà nông học,  nhà giáo và nông dân giỏi nghề nông. Họ gắn bó cuộc đời với nông dân, nông nghiệp, nông thôn, và những sinh viên, học viên nghề nông để làm ra những hạt gạo ngon hơn, tốt hơn cho bát cơm của người dân. Tập tài liệu nhỏ này mục đích nhằm kể lại vắn tắt, chân thực những mẫu chuyện đời thường nghề nông cho các em sinh viên để đọc thêm ngoài giờ học chính.

Biển học vô bờ, siêng năng là bến. Hãy học để làm, biến quá trình học tập thành sự tự tích lũy kiến thức từ nghiên cứu, học tập đến thực hành, thành kết quả thực tiễn trên đồng ruộng. DẠY VÀ HỌC không chỉ trao truyền kiến thức mà thắp lên ngọn lửa tự giác, kiên trì dấn thân cho Việt Nam con đường xanh.  Chừng nào mỗi chúng ta chưa ứa nước mắt thấm hiểu sự nhọc nhằn của người nông dân một nắng hai sương làm ra hạt gạo. Chừng nào những giá trị lao động khoa học cao quý, liên tục, âm thầm chưa mang lại đủ niềm vui cho bữa ăn của người dân nghèo. Chừng đó chúng ta còn DẠY VÀ HỌC. Gốc của sự học là HỌC LÀM NGƯỜI.

Thầy Norman Borlaug nhà khoa học xanh, cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và thế giới tôn vinh là nhà bác học số một của nhân loại trong  cuộc chiến chống nghèo đói, đã có dặn thật thấm thía: “ Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời”.

Nam Bộ Việt Nam, quê hương của nhà bác học nông dân Lương Định Của, là nơi con đường lúa gạo Việt Nam khởi phát và tỏa rộng, là nơi mở đầu cho chùm bài viết này. Về miền TâySao anh chưa về lại miền Tây. Nơi một góc đời anh ở đó. Cần Thơ Sóc Trăng sông Tiền Sông Hậu. Tên đất tên người chín nhớ mười thương. Anh có về Bảy Núi Cửu Long. Nắng đồng bằng miên man bao nỗi nhớ. Kênh ông Kiệt thương mùa mưa lũ. Anh có về nơi ấy với em không?” (thơ Hoàng Kim).

Việt Nam con đường xanhthao thức giấc mơ Gạo Việt là nơi tỏa rộng “Con đường lúa gạo Việt Nam” .

Minhtrietsongthungdungphuchau4

GIẤC MƠ CON ĐƯỜNG XANH

Làm gì để nâng cao chất lượng cuộc sống, sinh kế và thu nhập cho nông dân Việt Nam? Việt Nam con đường xanh là xây dựng đất nước Việt Nam hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc, an sinh xã hội, cân bằng hài hòa, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, nâng cao sinh kế, thu nhập, chất lượng cuộc sống cho người dân lao động, đặc biệt là nông dân.

LevTonstoy

Đường sống” kiệt tác của Lev Tonstoi là một cẩm nang văn hóa giáo dục nên đọc lại và suy ngẫm thật thấm thía . Nó là rất cần cho ai muốn hiểu sâu hơn về lý tưởng trau dồi đức tài phụng sự xã hội.

Đường sống” là tác phẩm văn thư nghị luận chọn lọc của Lev Tolstoi do Nhà xuất bản Tri Thức ấn hành năm 2010.  Nhà văn Nguyên Ngọc nói về Tolstoi và tác phẩm Đường sống: “Đây là  cuốn sách khổng lồ  theo nhiều nghĩa, dày đến 1.180 trang, là một cuốn sách mà ai cũng nên đọc và trí thức bắt buộc phải đọc”. “Càng đọc càng thấy ông quá lớn so với những gì ta đã biết”. Ông nói: “Chúng ta ai cũng biết đến và khâm phục Lev Tolstoi với tư cách một văn hào vĩ đại, nhưng ít ai biết ông còn là một nhà tư tưởng vĩ đại không kém, thậm chí hơn thế. Không chỉ ở Việt Nam, trên thế giới mà ngay ở Nga, đã một thời gian dài người ta cố tình đề cao hết mức nhà văn Tolstoi để hạ thấp hoặc chính xác là lờ đi một Tolstoi, nhà tư tưởng” (tôi HK gạch dưới).

Những dấu ấn tư tưởng nổi bật nhất của Tolstoi trong những tiểu luận và thư từ này là sự gắn kết những tinh hoa của trí thức Nga với những tinh túy của nhân dân lao động Nga – nhất là nông dân. Tolstoi yêu người nông dân Nga và nhận rõ những giá trị của họ, nhưng không thần thánh hóa nông dân, coi đó là những giá trị tuyệt đối và phủ nhận trí thức – thành phần xuất thân của chính mình – như các nhà cách mạng dân túy cùng thời và sau này.” Nhà văn Nguyên Ngọc viết tiếp.

“Yêu lao động, hay là thắng lợi của nhà nông” (trang 319- 331, kiệt tác Đường sống của Lev Tonstoi). Hãy đổ mồ hôi trán để có được miếng ăn, cho đến khi ngươi trở về với đất, bởi từ đất ngươi đã được lấy ra. Sáng thế III, 19. …”Nếu nó vẫn cứ dùng đến mưu mẹo và bạo lực , thì bởi vì nó yêu thích mưu mẹo và bạo lực , chứ không phải vì chúng cần thiết như hiện nay.  Đối với những kẻ yếu sức, những người vì lý do nào đó  không thể làm ra được cái ăn cho mình, hoặc vì lí do nào đó miếng ăn đã mất đi , thì sẽ không còn cần thiết bán mình , bán lao động và nhiều khi bán cả linh hồn của mình để có được cái ăn.

Sẽ không còn cái ước nguyện của mọi người, như hiện giờ, bằng mọi cách giải phóng mình khỏi lao động cơm áo và trút nó sang những người khác đè chết những kẻ yếu bằng lao động và giải phóng những kẻ mạnh khỏi mọi lao động. Sẽ không còn định hướng của tư duy con người như hiện nay, khi mà mọi nổ lực trí tuệ của con người đều được hướng vào không phải việc làm dễ lao động của những người lao động , mà làm dễ và tô điểm cho sự vô công rồi nghề của những kẻ vô công rồi nghề .

Việc mọi người đều tham gia lao động cơm áo và thừa nhận nó là đi đầu trong mọi công việc của loài người sẽ làm được điều giống như một người sẽ làm với cái xe kéo bị lật ngược bị một lũ ngốc hùng hục kéo đẩy, khi anh ta sẽ lật cỗ xe lại và đặt nó lên trên bánh của nó vừa không làm hỏng cỗ xe, vừa làm cho nó đi nhẹ nhàng.” …(trích) “Bạn hãy hạ mình xuống tận hạ tầng (rời khỏi chỗ bạn tưởng là hạ tầng, nhưng đó lại là thượng tầng) hãy đứng bên cạnh những người cho những người đói ăn, cho những người rét mặc; đừng sơ một cái gì: sẽ không có cái gì xấu hơn đâu, mà sẽ chỉ tốt hơn về mọi phương diện.

Hãy đứng vào hàng , bằng hai bàn tay yếu ớt của mình hãy bắt đầu cái công việc đầu tiên là mang lại cơm ăn áo mặc cho những người đói rét- hãy thực hành trực tiếp cái lao động cơm áo , thực hành trực tiếp đấu tranh với thiên nhiên, và lần đầu tiên bạn sẽ thấy đất vững chắc dưới chân mình, cảm thấy ở nhà mình, cảm thấy được tự do, bảo đảm, không cần đi đâu hết, và bạn sẽ được trãi nghiệm những niềm vui thuần khiết, không bị đầu độc, mà bạn sẽ không tìm được ở nơi nào khác, không sau cánh của nào, không sau tấm rèm nào” … (Lev Tonstoi).

Hạnh phúc được sống Chương XXXI (trích trong Đường sống). “Chúng ta hay coi thường hạnh phúc của cuộc sống này, tưởng là ở nơi nào đó, vào lúc nào đó sẽ có được một hạnh phúc lớn hơn. Nhưng cái hạnh phúc lớn hơn như thế không thể có ở đâu và lúc nào, bởi lẽ chúng ta trong cõi người của ta đã được ban tặng một hạnh phúc vĩ đại đến thế – sự sống, mà không có và không thể có cái gì cao hơn nó“. (Lev Tonstoi). Con người bất hạnh bởi vì nó không biết là nó hạnh phúc (Dostoievsky). Nếu thiên đường không ở trong ngươi thì ngươi không bao giờ vào được thiên đường (Angelus Silesius).

Người hiền tìm kiếm tất cả trong mình, kẻ ngu tìm kiếm tất cả ở người khác (Khổng Tử). Làm điều thiện đó là một việc duy nhất mà có thể nói rằng nó chắc chắn có lợi cho ta (Lev Tonstoi). Con người cầu mong những người khác hoặc Thượng Đế cứu giúp nó; nhưng không ai có thể cứu giúp nó, ngoài chính nó, bởi vì chỉ có cuộc sống thiện lương của nó mới có thể cứu giúp nó. Mà cái đó thì chỉ nó mới làm được. (Lev Tonstoi)

Minh triết Hồ Chí Minh là trau dồi đức tài để đóng góp được gì đó cho quê hương.  Nhớ Đào Duy Từ xưa mang tâm nguyện và chí hướng lớn lao như vua Trần Thái Tông (1218-1277), vị vua sáng khởi nghiệp nhà Trần “Nếu chỉ để lời nói suông cho đời sau, sao bằng đem thân mình đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã”. Đào Duy Từ di sản để lại không chỉ là trước tác mà là triều đại. Ông là nhà thực tiễn sáng suốt có tầm nhìn sâu rộng lạ thường, rất chú trọng gắn thực tiễn với lý luận. Đào Duy Từ chỉ trong 9 năm ngắn ngủi (1625-1634) đã kịp làm nên kỳ tích phi thường: Giữ vững cơ nghiệp của chúa Nguyễn ở Đàng Trong chống cự thành công với họ Trịnh ở phía Bắc; Mở đất phương Nam làm cho Nam Việt thời ấy trở nên phồn thịnh. Đặt nền móng vững chắc cho triều Nguyễn, sửa sang chính trị, quan chế, thi cử, võ bị, thuế khóa, nội trị, ngoại giao. Sau khi ông mất (1634) triều Nguyễn còn truyền được 8 đời (131 năm), cho đến năm 1735.

ĐBSCL là vựa lúa cả nước. Năm 2014, sản lượng lúa ĐBSCL vượt ngưỡng 25 triệu tấn, tăng gần 3,5 triệu tấn so với năm 2010. Thế nhưng đầu ra nông sản rất bấp bênh; sản xuất manh mún, hạt gạo vẫn chưa có thương hiệu… Nhiều vấn đề cấp bách đang đặt ra Đầu tư lĩnh vực nông nghiệp – nông thôn vẫn chưa xứng tầm nên khoảng cách chênh lệch đời sống thành thị và nông thôn quá lớn. Đó là điểm yếu đầu tư cơ sở hạ tầng, nhân lực, dân trí. Đời sống nông dân càng khó khăn do đất trồng lúa ngày càng manh mún! TS Lê Văn Bảnh, nguyên Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, trong bài “Gấp rút xóa bỏ tình trạng sản xuất manh mún, lạc hậu” đã đánh giá vậy và tôi thật đồng tình . Điều này liên quan rất nhiều đến tầm nhìn, định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng ngành hàng lúa gạo. Vì sao giáo sư Viên Long Bình và các đồng sự chuyên gia chọn tạo phát triển giống lúa gạo Trung Quốc lại có thể làm được việc đột phá lừng lẫy trong nghề lúa thời gian qua?  Vì đó chính là vấn đề an sinh xã hội và an ninh lương thực ám ảnh chiến lược kinh tế Trung Quốc. Thế nhưng, tầm nhìn về nâng cao chất lượng cuộc sống, sinh kế và thu nhập của đông đảo người dân, nâng cao chất lượng môi trường sống, kiến tạo đường sống hòa bình cho nhân loại và tổ quốc mình lại đòi hỏi một minh triết.

“Sự vinh quang của người có học là được bà con bóc lột. Nếu không, thì học thức sẽ vô bổ, chẳng cần tích lũy kiến thức hay đào sâu suy nghĩ để tiêu hóa chúng làm gì. Tiếp theo là tìm mọi phương cách để đưa cái học đến được với thực tế cuộc sống” . “Sự hủy hoại nông thôn bắt đầu như thế, từ chuyển dịch sức lao động. Tiếc thay, chẳng một chút vốn công nghệ nào được người Việt làm chủ. Điều ấy, cho thấy Bộ Công Thương chỉ có khả năng “săp xếp bộ máy” cho con ta thăng quan, con sếp tiến chức, chứ không thể sản xuất nổi con vít. Toàn thể “công nhân” chỉ bán sức lao động rẻ và bị ức hiếp, bóc lột vô chừng dưới tay chủ nước ngoài. Hy sinh nghề nông rồi đất nước được gì hơn ? Gần đây, một Gíao sư Nhật được mời tư vấn, đã tỏ bày đề nghị cho kế hoạch kinh tế đến năm 2035 của Việt Nam, cũng chỉ là phát triển nông nghiệp hiện đại. Một nền nông nghiệp sinh thái, bảo vệ được môi sinh là không xa lạ với nhà nông chúng ta, nhưng để làm được việc dễ nhất – thực phẩm ngon lành, giá cả phải chăng – thì cũng phải dọn dẹp đi trong bộ máy này, đất nước này những thứ rác bẩn đã kể trước”.

“Phụng sự xã hội” bài viết của anh Đoàn Nam Sinh gợi lại ý kiến của ông Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng: Hiện là lúc kinh tế Việt Nam đang cho thấy có những chuyển dịch các nguồn lực “Không qua 2 vấn đề khó khăn, Việt Nam sẽ thành nền kinh tế thất bại“. Chính sách phát triển công nghiệp của Việt Nam được xem là quá nhiều ưu tiên không có trọng điểm. Ông Dương Đình Giám, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, nguyên Viên trưởng Viện chính sách công nghiệp, Bộ Công thương đề xuất Việt Nam nên trở thành nước cung cấp các sản phẩm nông sản và nông sản chế biến chất lượng cao với một số thương hiệu mạnh tầm khu vực và thế giới. Đồng thời, phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan tới nông nghiệp với ưu tiên cơ khí nông nghiệp, cơ khí hóa chất, cơ khí vận tải. Ông Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc Nghiên cứu của Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright lưu ý nên tham vấn khu vực tư nhân vì doanh nghiệp nhà nước hiện chỉ đóng góp 30% vào GDP.

Nông sản Việt Nam và các sản phẩm chế biến nông sản chất lượng cao có thương hiệu mạnh tầm khu vực và thế giới làm gì, ở đâu và khi nào để nông dân thực sự được hưởng lợi đổi đời? Đầu tư của nước ta đối với lĩnh vực nông nghiệp nông thôn thực chất chưa xứng tầm nên khoảng cách chênh lệch đời sống thành thị và nông thôn quá lớn. Vựa lúa Nam Bộ nhiều vấn đề cấp bách đanh được Đảng và Chính phủ Việt Nam mạnh mẽ chuyển đổi trong những năm gần đây tạo niềm tin lớn trong nhân dân , nhưng vẫn còn quá nhiều điều bức xúc

Thực tiễn là thước đo chân lý. Giá trị cuộc sống CHÍ THIỆN. Mục đích sau cùng của DẠY và HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc. Hãy là chính mình !

xem

VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH
Hoàng Kim, Hoàng Long

Có những hình ảnh công việc giá trị biểu tượng lắng đọng một tình nguyện nổ lực và cam kết. Việt Nam con đường xanh chúng tôi tình nguyện trong đội ngũ dấn thân ấy. “Lớp cha trước, lớp con sau, đã thành đồng đội chung câu quân hành!”. Bạn Alon Tran hỏi: “Thầy có lời khuyên gì cho thế hệ trẻ nông nghiêp, cả về tài và đức, để đóng góp được gì đó cho quê hương không Thầy? Tôi trả lời: Tôi thích triết lý giáo dục “Việt Nam con đường xanh” là xây dựng đất nước Việt Nam hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc, an sinh xã hội, cân bằng hài hòa, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, nâng cao sinh kế, thu nhập, chất lượng cuộc sống cho người dân lao động, đặc biệt là nông dân.

“Nông sản Việt Nam” và  “Nông thôn ngày nay” là hai chủ đề nóng mà anh Nam Sinh Đoàn xới lên gần đây cùng với câu chuyện “Việt Nam con đường xanh” có nhiều chủ đề nóng và gương sáng đời thường ám ảnh như Mục lục này thật lắng đọng nhiều điều nhưng tôi chưa kịp sắp xếp lại:.Nông nghiệp sinh thái Việt Nam; Một niềm tin thắp lửa; Gạo Việt và thương hiệu; Con đường lúa gạo Việt Nam; Trường tôi nôi yêu thương; Viện Lúa Sao Thần Nông; Đường tới IAS 100 năm;  Lương Định Của con đường lúa gạo; Sóc Trăng Lương Định Của; Lương Định Của lúa Việt; Thầy Tuấn kinh tế hộ; Thầy Quyền thâm canh lúa; Thầy Luật lúa OMCS OM; Bùi Huy Đáp lúa xuân Việt Nam; Chuyện cô Trâm lúa lai; Chuyện thầy Hoan lúa lai; Lúa siêu xanh Việt Nam; Lúa siêu xanh Phú Yên; Lúa Việt tới Châu Mỹ; Lúa sắn Việt Châu Phi; Lúa C4 và lúa cao cây; Thầy nghề nông chiến sĩ; Lúa sắn Cămpuchia và Lào; Bảy Nhị kênh ông Kiệt và tôi; Từ Sắn Việt Nam đến Lúa Siêu Xanh; Phạm Trung Nghĩa nhà khoa học xanh; Hồ Quang Cua gạo thơm Sóc Trăng; Những người Việt lỗi lạc ở FAO; Lê Hùng Lân gạo ngon Hoa Tiên; Kênh ông Kiệt giữa lòng dân; Ông Bảy Nhị An Giang; Thầy bạn là lộc xuân; Về miền Tây; Hoa và OngHoa Người; Hoa Lúa; Hoa Đất.

Việt Nam con đường xanh là lắng nghe cuộc sống, góp nhặt cát đá; bảo tồn và phát triển một triết lý Việt Nam vươn ra làm bạn với thế giới, bảo tồn và phát triển tinh hoa văn hóa dân tộc Việt

GreenSuperRiceinVietnam

LỜI YÊU THƯƠNG MINH TRIẾT

Giáo sư Norman Borlaug có lời dặn thật thấm thía,  trích dẫn trong Thầy bạn là lộc xuân:
Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm tiếng để đời”

Tiến sĩ  Phạm Trung Nghĩa nhà khoa học xanh,  Phó Viện Trưởng Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long nói tại Lớp học trên đồng những lời sâu sắc: “Hãy cúi xuống học trên đồng, cúi xuống học trong phòng thí nghiệm, cúi xuống học thầy, học bạn và lắng nghe tiếng nói người dân”. Chúng ta hãy cùng tiếp bước trên Con đường lúa gạo Việt Nam  theo những tấm gương sáng  Lương Định Của, Tôn Thất Trình, Bùi Huy Đáp, Nguyễn Văn Luật, Võ Tòng Xuân, Vũ Tuyên Hoàng, Mai Văn Quyền, Trần Văn Đạt, Bùi Bá Bổng, Bùi Chí Bửu, Nguyễn Thị Trâm, Lê Văn Bảnh, Trần Thị Cúc Hòa, Nguyễn Thị Lang,Trần Mạnh Báo, Nguyễn Văn Hoan, Trần Duy Quý,  … để tạo chọn được những giống lúa gạo, cây lương thực ngon hơn, tốt hơn cho người dân; nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật thâm canh tổng hợp, các giải pháp khoa học công nghệ để người dân lao động bớt nhọc nhằn hơn, giảm rũi ro và tổn thất sau thu hoạch.

conduongluagaovietnam

CON ĐƯỜNG LÚA GẠO VIỆT NAM

Việt Nam là chốn tổ của nghề lúa. Giáo sư tiến sỹ anh hùng lao động Nguyễn Văn Luật, nguyên Viện trưởng Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long,  tác giả chính của cụm công trình ‘Nghiên cứu và phát triển lúa gạo’ đoạt giải thưởng Hồ Chí Minh, đã có hai bài viết quan trọng giới thiệu về “Lịch sử cây lúa Việt Nam” và “Cải tiến giống lúa cho sản xuất lúa gạo tại Việt Nam”. Giáo sư đã đưa ra các bằng chứng và dẫn liệu ‘Việt Nam là chốn tổ của nghề lúa’ và ‘các tiến bộ của giống lúa Việt Nam những năm đầu thế kỷ 21’. Hai bộ sách: Nguyễn Văn Luật (chủ biên), xuất bản lần đầu năm 2001, 2002, 2003 Cây lúa Việt Nam thế kỷ 20, ba tập Nhà Xuất Bản Nông nghiệp, Hà Nội, 1.347 trang, và Nguyễn Thị Lang, Bùi Chí Bửu 2011. Khoa học về cây lúa, di truyền và chọn giống. Nhà Xuất bản Nông Nghiệp, 623 trang đã đúc kết về những tiến bộ này.

Việt Nam con đường xanh” “Con đường lúa gạo Việt Nam” là chùm bài lược thuật về các dâng hiến lặng lẽ của một số nhà nông học,  nhà giáo và nông dân giỏi nghề nông. Họ gắn bó cuộc đời với nông dân, nông nghiệp, nông thôn, và những sinh viên, học viên nghề nông để làm ra những hạt gạo ngon hơn, tốt hơn cho bát cơm của người dân. Tập tài liệu nhỏ này mục đích nhằm kể lại vắn tắt, chân thực những mẫu chuyện đời thường nghề nông cho các em sinh viên để đọc thêm ngoài giờ học chính.

Biển học vô bờ, siêng năng là bến. Hãy học để làm, biến quá trình học tập thành sự tự tích lũy kiến thức từ nghiên cứu, học tập đến thực hành, thành kết quả thực tiễn trên đồng ruộng. DẠY VÀ HỌC không chỉ trao truyền kiến thức mà thắp lên ngọn lửa tự giác, kiên trì dấn thân cho Việt Nam con đường xanh.  Chừng nào mỗi chúng ta chưa ứa nước mắt thấm hiểu sự nhọc nhằn của người nông dân một nắng hai sương làm ra hạt gạo. Chừng nào những giá trị lao động khoa học cao quý, liên tục, âm thầm chưa mang lại đủ niềm vui cho bữa ăn của người dân nghèo. Chừng đó chúng ta còn DẠY VÀ HỌC. Gốc của sự học là HỌC LÀM NGƯỜI.

Thầy Norman Borlaug nhà khoa học xanh, cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và thế giới tôn vinh là nhà bác học số một của nhân loại trong  cuộc chiến chống nghèo đói, đã có dặn thật thấm thía: “ Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời”.

Nam Bộ Việt Nam, quê hương của nhà bác học nông dân Lương Định Của, là nơi con đường lúa gạo Việt Nam khởi phát và tỏa rộng, là nơi mở đầu cho chùm bài viết này. Về miền TâySao anh chưa về lại miền Tây. Nơi một góc đời anh ở đó. Cần Thơ Sóc Trăng sông Tiền Sông Hậu. Tên đất tên người chín nhớ mười thương. Anh có về Bảy Núi Cửu Long. Nắng đồng bằng miên man bao nỗi nhớ. Kênh ông Kiệt thương mùa mưa lũ. Anh có về nơi ấy với em không?” (thơ Hoàng Kim).

Việt Nam con đường xanhthao thức giấc mơ Gạo Việt là nơi tỏa rộng “Con đường lúa gạo Việt Nam” .

Minhtrietsongthungdungphuchau4

GIẤC MƠ CON ĐƯỜNG XANH

Làm gì để nâng cao chất lượng cuộc sống, sinh kế và thu nhập cho nông dân Việt Nam? Việt Nam con đường xanh là xây dựng đất nước Việt Nam hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc, an sinh xã hội, cân bằng hài hòa, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, nâng cao sinh kế, thu nhập, chất lượng cuộc sống cho người dân lao động, đặc biệt là nông dân.

LevTonstoy

Đường sống” kiệt tác của Lev Tonstoi là một cẩm nang văn hóa giáo dục nên đọc lại và suy ngẫm thật thấm thía . Nó là rất cần cho ai muốn hiểu sâu hơn về lý tưởng trau dồi đức tài phụng sự xã hội.

Đường sống” là tác phẩm văn thư nghị luận chọn lọc của Lev Tolstoi do Nhà xuất bản Tri Thức ấn hành năm 2010.  Nhà văn Nguyên Ngọc nói về Tolstoi và tác phẩm Đường sống: “Đây là  cuốn sách khổng lồ  theo nhiều nghĩa, dày đến 1.180 trang, là một cuốn sách mà ai cũng nên đọc và trí thức bắt buộc phải đọc”. “Càng đọc càng thấy ông quá lớn so với những gì ta đã biết”. Ông nói: “Chúng ta ai cũng biết đến và khâm phục Lev Tolstoi với tư cách một văn hào vĩ đại, nhưng ít ai biết ông còn là một nhà tư tưởng vĩ đại không kém, thậm chí hơn thế. Không chỉ ở Việt Nam, trên thế giới mà ngay ở Nga, đã một thời gian dài người ta cố tình đề cao hết mức nhà văn Tolstoi để hạ thấp hoặc chính xác là lờ đi một Tolstoi, nhà tư tưởng” (tôi HK gạch dưới).

Những dấu ấn tư tưởng nổi bật nhất của Tolstoi trong những tiểu luận và thư từ này là sự gắn kết những tinh hoa của trí thức Nga với những tinh túy của nhân dân lao động Nga – nhất là nông dân. Tolstoi yêu người nông dân Nga và nhận rõ những giá trị của họ, nhưng không thần thánh hóa nông dân, coi đó là những giá trị tuyệt đối và phủ nhận trí thức – thành phần xuất thân của chính mình – như các nhà cách mạng dân túy cùng thời và sau này.” Nhà văn Nguyên Ngọc viết tiếp.

“Yêu lao động, hay là thắng lợi của nhà nông” (trang 319- 331, kiệt tác Đường sống của Lev Tonstoi). Hãy đổ mồ hôi trán để có được miếng ăn, cho đến khi ngươi trở về với đất, bởi từ đất ngươi đã được lấy ra. Sáng thế III, 19. …”Nếu nó vẫn cứ dùng đến mưu mẹo và bạo lực , thì bởi vì nó yêu thích mưu mẹo và bạo lực , chứ không phải vì chúng cần thiết như hiện nay.  Đối với những kẻ yếu sức, những người vì lý do nào đó  không thể làm ra được cái ăn cho mình, hoặc vì lí do nào đó miếng ăn đã mất đi , thì sẽ không còn cần thiết bán mình , bán lao động và nhiều khi bán cả linh hồn của mình để có được cái ăn.

Sẽ không còn cái ước nguyện của mọi người, như hiện giờ, bằng mọi cách giải phóng mình khỏi lao động cơm áo và trút nó sang những người khác đè chết những kẻ yếu bằng lao động và giải phóng những kẻ mạnh khỏi mọi lao động. Sẽ không còn định hướng của tư duy con người như hiện nay, khi mà mọi nổ lực trí tuệ của con người đều được hướng vào không phải việc làm dễ lao động của những người lao động , mà làm dễ và tô điểm cho sự vô công rồi nghề của những kẻ vô công rồi nghề .

Việc mọi người đều tham gia lao động cơm áo và thừa nhận nó là đi đầu trong mọi công việc của loài người sẽ làm được điều giống như một người sẽ làm với cái xe kéo bị lật ngược bị một lũ ngốc hùng hục kéo đẩy, khi anh ta sẽ lật cỗ xe lại và đặt nó lên trên bánh của nó vừa không làm hỏng cỗ xe, vừa làm cho nó đi nhẹ nhàng.” …(trích) “Bạn hãy hạ mình xuống tận hạ tầng (rời khỏi chỗ bạn tưởng là hạ tầng, nhưng đó lại là thượng tầng) hãy đứng bên cạnh những người cho những người đói ăn, cho những người rét mặc; đừng sơ một cái gì: sẽ không có cái gì xấu hơn đâu, mà sẽ chỉ tốt hơn về mọi phương diện.

Hãy đứng vào hàng , bằng hai bàn tay yếu ớt của mình hãy bắt đầu cái công việc đầu tiên là mang lại cơm ăn áo mặc cho những người đói rét- hãy thực hành trực tiếp cái lao động cơm áo , thực hành trực tiếp đấu tranh với thiên nhiên, và lần đầu tiên bạn sẽ thấy đất vững chắc dưới chân mình, cảm thấy ở nhà mình, cảm thấy được tự do, bảo đảm, không cần đi đâu hết, và bạn sẽ được trãi nghiệm những niềm vui thuần khiết, không bị đầu độc, mà bạn sẽ không tìm được ở nơi nào khác, không sau cánh của nào, không sau tấm rèm nào” … (Lev Tonstoi).

Hạnh phúc được sống Chương XXXI (trích trong Đường sống). “Chúng ta hay coi thường hạnh phúc của cuộc sống này, tưởng là ở nơi nào đó, vào lúc nào đó sẽ có được một hạnh phúc lớn hơn. Nhưng cái hạnh phúc lớn hơn như thế không thể có ở đâu và lúc nào, bởi lẽ chúng ta trong cõi người của ta đã được ban tặng một hạnh phúc vĩ đại đến thế – sự sống, mà không có và không thể có cái gì cao hơn nó“. (Lev Tonstoi). Con người bất hạnh bởi vì nó không biết là nó hạnh phúc (Dostoievsky). Nếu thiên đường không ở trong ngươi thì ngươi không bao giờ vào được thiên đường (Angelus Silesius).

Người hiền tìm kiếm tất cả trong mình, kẻ ngu tìm kiếm tất cả ở người khác (Khổng Tử). Làm điều thiện đó là một việc duy nhất mà có thể nói rằng nó chắc chắn có lợi cho ta (Lev Tonstoi). Con người cầu mong những người khác hoặc Thượng Đế cứu giúp nó; nhưng không ai có thể cứu giúp nó, ngoài chính nó, bởi vì chỉ có cuộc sống thiện lương của nó mới có thể cứu giúp nó. Mà cái đó thì chỉ nó mới làm được. (Lev Tonstoi)

Minh triết Hồ Chí Minh là trau dồi đức tài để đóng góp được gì đó cho quê hương.  Nhớ Đào Duy Từ xưa mang tâm nguyện và chí hướng lớn lao như vua Trần Thái Tông (1218-1277), vị vua sáng khởi nghiệp nhà Trần “Nếu chỉ để lời nói suông cho đời sau, sao bằng đem thân mình đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã”. Đào Duy Từ di sản để lại không chỉ là trước tác mà là triều đại. Ông là nhà thực tiễn sáng suốt có tầm nhìn sâu rộng lạ thường, rất chú trọng gắn thực tiễn với lý luận. Đào Duy Từ chỉ trong 9 năm ngắn ngủi (1625-1634) đã kịp làm nên kỳ tích phi thường: Giữ vững cơ nghiệp của chúa Nguyễn ở Đàng Trong chống cự thành công với họ Trịnh ở phía Bắc; Mở đất phương Nam làm cho Nam Việt thời ấy trở nên phồn thịnh. Đặt nền móng vững chắc cho triều Nguyễn, sửa sang chính trị, quan chế, thi cử, võ bị, thuế khóa, nội trị, ngoại giao. Sau khi ông mất (1634) triều Nguyễn còn truyền được 8 đời (131 năm), cho đến năm 1735.

ĐBSCL là vựa lúa cả nước. Năm 2014, sản lượng lúa ĐBSCL vượt ngưỡng 25 triệu tấn, tăng gần 3,5 triệu tấn so với năm 2010. Thế nhưng đầu ra nông sản rất bấp bênh; sản xuất manh mún, hạt gạo vẫn chưa có thương hiệu… Nhiều vấn đề cấp bách đang đặt ra Đầu tư lĩnh vực nông nghiệp – nông thôn vẫn chưa xứng tầm nên khoảng cách chênh lệch đời sống thành thị và nông thôn quá lớn. Đó là điểm yếu đầu tư cơ sở hạ tầng, nhân lực, dân trí. Đời sống nông dân càng khó khăn do đất trồng lúa ngày càng manh mún! TS Lê Văn Bảnh, nguyên Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, trong bài “Gấp rút xóa bỏ tình trạng sản xuất manh mún, lạc hậu” đã đánh giá vậy và tôi thật đồng tình . Điều này liên quan rất nhiều đến tầm nhìn, định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng ngành hàng lúa gạo. Tầm nhìn về nâng cao chất lượng cuộc sống, sinh kế và thu nhập của đông đảo người dân, nâng cao chất lượng môi trường sống, kiến tạo đường sống hòa bình cho nhân loại và tổ quốc mình lại đòi hỏi một minh triết.

“Sự vinh quang của người có học là được bà con bóc lột. Nếu không, thì học thức sẽ vô bổ, chẳng cần tích lũy kiến thức hay đào sâu suy nghĩ để tiêu hóa chúng làm gì. Tiếp theo là tìm mọi phương cách để đưa cái học đến được với thực tế cuộc sống” . “Sự hủy hoại nông thôn bắt đầu như thế, từ chuyển dịch sức lao động. Tiếc thay, chẳng một chút vốn công nghệ nào được người Việt làm chủ. Điều ấy, cho thấy Bộ Công Thương chỉ có khả năng “săp xếp bộ máy” cho con ta thăng quan, con sếp tiến chức, chứ không thể sản xuất nổi con vít. Toàn thể “công nhân” chỉ bán sức lao động rẻ và bị ức hiếp, bóc lột vô chừng dưới tay chủ nước ngoài. Hy sinh nghề nông rồi đất nước được gì hơn ? Gần đây, một Gíao sư Nhật được mời tư vấn, đã tỏ bày đề nghị cho kế hoạch kinh tế đến năm 2035 của Việt Nam, cũng chỉ là phát triển nông nghiệp hiện đại. Một nền nông nghiệp sinh thái, bảo vệ được môi sinh là không xa lạ với nhà nông chúng ta, nhưng để làm được việc dễ nhất – thực phẩm ngon lành, giá cả phải chăng – thì cũng phải dọn dẹp đi trong bộ máy này, đất nước này những thứ rác bẩn đã kể trước”.

“Phụng sự xã hội” bài viết của anh Đoàn Nam Sinh gợi lại ý kiến của ông Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng: Hiện là lúc kinh tế Việt Nam đang cho thấy có những chuyển dịch các nguồn lực “Không qua 2 vấn đề khó khăn, Việt Nam sẽ thành nền kinh tế thất bại“. Chính sách phát triển công nghiệp của Việt Nam được xem là quá nhiều ưu tiên không có trọng điểm. Ông Dương Đình Giám, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, nguyên Viên trưởng Viện chính sách công nghiệp, Bộ Công thương đề xuất Việt Nam nên trở thành nước cung cấp các sản phẩm nông sản và nông sản chế biến chất lượng cao với một số thương hiệu mạnh tầm khu vực và thế giới. Đồng thời, phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan tới nông nghiệp với ưu tiên cơ khí nông nghiệp, cơ khí hóa chất, cơ khí vận tải. Ông Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc Nghiên cứu của Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright lưu ý nên tham vấn khu vực tư nhân vì doanh nghiệp nhà nước hiện chỉ đóng góp 30% vào GDP.

Nông sản Việt Nam và các sản phẩm chế biến nông sản chất lượng cao có thương hiệu mạnh tầm khu vực và thế giới làm gì, ở đâu và khi nào để nông dân thực sự được hưởng lợi đổi đời? Đầu tư của nước ta đối với lĩnh vực nông nghiệp nông thôn thực chất chưa xứng tầm nên khoảng cách chênh lệch đời sống thành thị và nông thôn quá lớn. Vựa lúa Nam Bộ nhiều vấn đề cấp bách đanh được Đảng và Chính phủ Việt Nam mạnh mẽ chuyển đổi trong những năm gần đây tạo niềm tin lớn trong nhân dân , nhưng vẫn còn quá nhiều điều bức xúc, Thực tiễn là thước đo chân lý. Mục đích sau cùng của DẠY và HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc. Hãy là chính mình !

xem tiếp Nông nghiệp sinh thái Việt Nam; Một niềm tin thắp lửa; Gạo Việt và thương hiệu; Con đường lúa gạo Việt Nam; Trường tôi nôi yêu thương; Viện Lúa Sao Thần Nông; Đường tới IAS 100 năm; https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-con-duong-xanh/

CON ĐƯỜNG XANH YÊU THƯƠNG
Chúc mừng Tình nguyện hè tại Lào. Việt Nam con đường xanh. Chúc mừng các bạn trẻ tiếp bước cha anh làm người lính tình nguyện dâng hiến trí tuệ công sức cho người dân và sự hợp tác thân thiện tỏa sáng đất nước và con người Việt Nam. Chúc mừng Hoang Long , Nguyễn Văn Phu được tự hào đồng hành trong đội ngũ ấy. https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=454067431993333&id=%20261455464587865

xem thêm
Tình nguyện hè tại Lào

📨 NHẬT KÝ 30/6/2019: CỘT CHỈ CỔ TAY CHÚC CHIẾN SĨ MAY MẮN

💟 Trước khi về nhà bà con huyện Soukhouma, tỉnh Champasak để cùng sống và sinh hoạt trong vài ngày, các chiến sĩ đã được làm lễ cột chỉ cổ tay trang trọng. Đây là một truyền thống trong văn hoá Lào nhằm thể hiện sự yêu thương và cầu chúc người nhận chỉ luôn bình an, may mắn.

🌅 Trong buổi sáng, các hoạt động khám – phát thuốc miễn phí cho bà con, tập huấn nông nghiệp và tặng chế phẩm sinh học, tặng nhu yếu phẩm cho các hộ khó khăn, tổ chức sân chơi, tặng quà cho thiếu nhi địa phương đã diễn ra tại 02 huyện Soukhouma, huyện Champasak (tỉnh Champasak) và huyện Sanamxay (tỉnh Attapeu).

🎉 Tại Attapeu, đoàn cũng đã trao một “Nhà Đoàn kết Việt – Lào” cho hộ gia đình khó khăn. Mời bạn cùng xem nhật ký hoạt động ngày 30/6!

Ảnh

Về Nghĩa Lĩnh Đền Hùng
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ve-nghia-linh-den-hung

CÂU CHUYỆN NGÀY 27 THÁNG 7
https://khatkhaoxanh.wordpress.com/category/viet-nam-con-duong-xanh/


– Có 1.146.250 Liệt sỹ trên cả nước.

+ 191.605 Liệt sỹ hi sinh trong kháng chiến chống Pháp

+ 849.018 Liệt sỹ hi sinh trong kháng chiến chống Mỹ

+ 105.627 Liệt sỹ hi sinh trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (chiến tranh biên giới Tây Nam, chiến tranh biên giới phía Bắc, cuộc chiến bảo vệ chủ quyền biển đảo…)

– Hơn 200.000 hài cốt Liệt sỹ chưa được tìm thấy, thi thể các anh còn nằm lại trên các chiến trường Việt Nam, Lào, Cam pu chia, Biển Đông…

– Hơn 300.000 hài cốt Liệt sỹ đã được quy tập về các nghĩa trang nhưng chưa xác định được danh tính tên tuổi, quê quán, đơn vị…

– Tỉnh có nhiều Liệt sỹ hi sinh nhất: Tỉnh Quảng Nam có 65.000 Liệt sỹ hi sinh trong các cuộc chiến tranh. (ngoài ra tỉnh Quảng Nam còn có hơn 30.000 thương binh) (tính đến năm 2012).

– Huyện có nhiều liệt sỹ nhất cả nước là huyện Điện Bàn (tỉnh Quảng Nam) với hơn 19.800 Liệt sỹ. (tính đến năm 2012).

– Ngoài ra, trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, có khoảng hơn 4 triệu dân thường Việt Nam ở hai miền (miền Bắc và miền Nam) đã chết và bị thương tật suốt đời do bom đạn, do kẻ thù giết hại…

Có 9.637 công trình tri ân, ghi công Liệt sỹ như tượng đài, nhà bia, nghĩa trang Liệt sỹ trên địa bàn cả nước. (tính đến năm 2012)

+ Hơn 3.000 nghĩa trang Liệt sỹ trên địa bàn cả nước (hầu hết các tỉnh, thành phố, huyện, quận, xã, phường, thị trấn trên đất nước Việt Nam đều có nghĩa trang Liệt sỹ…)

– Có 9.000.000 người có công trên cả nước

– Trên 127.000 Bà Mẹ Việt Nam anh hùng có chồng, con hi sinh trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Một số Bà mẹ Việt Nam anh hùng tiêu biểu:

+ Mẹ Nguyễn Thị Thứ ở Quảng Nam có chồng, chín con đẻ, một con rể, 2 cháu ngoại là liệt sỹ;

+ Mẹ Trần Thị Mít ở Quảng Trị có chồng, sáu con đẻ, một con dâu và một cháu nội là liệt sỹ;

+ Mẹ Lê Thị Tự ở Quảng Nam có chín con là Liệt sỹ;

+ Mẹ Phạm Thị Ngư ở Bình Thuận, mẹ Nguyễn Thị Rành ở huyện Củ Chi (Sài Gòn) đều có tám con là Liệt sỹ, bản thân 2 mẹ cũng là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

– Tỉnh Quảng Nam là tỉnh có nhiều Bà mẹ Việt Nam anh hùng nhất với 11.658 mẹ (số liệu tính đến 2001).

– Gần 13.000 Anh hùng LLVTND và Anh hùng Lao động.

– Gần 800.000 Thương binh và người được hưởng chính sách như Thương binh.

– Hơn 300.000 người hoạt động kháng chiến và con đẻ bị nhiễm chất độc da cam.

– Gần 111.000 người hoạt động cách mạng, người tham gia kháng chiến bị địch bắt giam, tù đày, tra tấn trong các nhà tù nổi tiếng như (Nhà tù Hỏa Lò, Sơn La, Lao Bảo, Côn Đảo, Phú Quốc…)

Những con số trên để chúng ta thấy được cái giá của hoà bình là vô cùng quý giá.

Chúng ta đời đời ghi nhớ, tri ân sự hy sinh của các anh hùng liệt sỹ, các mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình đã cống hiến cho Tổ quốc.

Tôn trọng bản quyền giống, mở rộng sản xuất bền vững. Việt Nam con đường xanh tích hợp thông tin quan trọng náy, theo An Giang Online ngày 10 tháng 7 năm 2023. Đây là điều không mới nhưng nhiều thời sự bất cập trong thời gian qua trong lĩnh vực này. Gần đây, Công ty Cổ phần Giống cây trồng Lộc Trời liên tiếp nhận chuyển giao toàn bộ quyền đối với những giống cây trồng có danh tiếng trên thị trường, đạt hiệu quả cao trong canh tác thực tế. Qua đó, giúp doanh nghiệp đẩy mạnh phát triển, sản xuất – kinh doanh (SXKD) các giống cây trồng này, phục vụ nhu cầu giống sản xuất của nông dân, phát triển vùng nguyên liệu bền vững. https://baoangiang.com.vn/ton-trong-ban-quyen-giong-mo-rong-san-xuat-ben-vung-a366351.html;

LỜI THƯƠNG 12
Bạch Ngọc Hoàng Kim

Ai đi có đọng nỗi niềm
Ai về
còn nhớ
không quên
lời thề …

Nhớ ngày lội ruộng say mê
Nàng Tiên hương lúa, đường về Đồng Xuân

Tưởng xa mà lại nên gần
Bạn hiền một thuở, nay dần lối thân

Vầng trăng xẻ nửa xa xăm
Lời thương lắng đọng mà phân vân đời

Tưởng quên câu chuyện xứ Người
Hú nhau một tiếng
Lại ngồi chào nhau !
..

LỜI THƯƠNG 11
Bạch Ngọc Hoàng Kim

Cơm thường bún cá canh rau
#annhiên
vui khỏe
thấm câu
chân tình …

Quý nhau thích chuyện hàn huyên
Gia đình sức khỏe tri âm bạn đời

Mặc ai hám việc trên trời
Mình quen giống tốt gần nơi đất lành

Nhàn tênh thế thái nhân tình
Ngẫm câu tri ngộ trời dành phận cho

#Thungdung biết đủ vô lo
#tinhyeucuocsong
Lời thương Nhớ Người.

LỜI THƯƠNG 10
Hoàng Kim

Lời ru vui giữa đời thường
Lời yêu
Lời nhớ
Lời thương
Lời chờ ,,,

Lời trầm tĩnh, lời mơ hồ
Lời sâu sắc luận, lời thơ thẩn buồn

Đồng xuân ấm nắng thái dương
Nhớ ngôi sao mọc sớm hôm từng trời

Yêu thương tiếng Việt một đời
Học ăn học nói thành người có nhân

Cuộc đời thoáng chốc trăm năm
Lời thương còn lại …
Tri âm lâu bền

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/loi-thuong/

LỜI THƯƠNG
Hoàng Kim

Ta đi về chốn trong ngần
Để thương sỏi đá cũng cần có nhau.


Đi đâu cũng không bằng Tổ quốc mình. Nói gì, làm gì cũng không bằng dạy, học và làm cho đồng bào đất nước mình. Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương. Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc. Dạy và học thực tiễn trên chính Tổ quốc mình. Việt Nam quê hương tôi! Đó là đất nước của biết bao nhiêu thế hệ xả thân vì nước để quyết giành cho được độc lập, thống nhất, tự do và toàn vẹn Tổ Quốc. Tâm nguyện làm Người Thầy nghề nông chiến sĩ hướng đến bát cơm ngon của người dân lao động, đó là điều tôi tâm đắc nhất

*

Nhớ lớp học trên đồng Lời thương cùng tháng năm

Nông nghiệp, nông dân, nông thôn – những vấn đề không thể thiếu trong phát triển bền vững

Đào Thế Tuấn
Viện sĩ, Chủ tịch Hội Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

“Ở nước ta, phát triển nông nghiệp có liên quan mật thiết đến tính bền vững của sự phát triển. Nếu khoảng cách giữa thành thị và nông thôn ngày càng tăng, phân hóa xã hội quá mức thì dù có đạt được sự tăng trưởng cao chưa thể coi là đã có phát triển. Hơn thế nữa, nông nghiệp, nông dân và nông thôn là ba vấn đề tuy khác nhau, nhưng nếu không cùng được giải quyết một cách đồng bộ thì không thể công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước một cách thành công được.

1 – Vấn đề nông nghiệp

Hiện nay, có ý kiến cho rằng, nông nghiệp nước ta đã phát triển tương đối tốt. Đặc biệt, chúng ta xuất khẩu được nhiều nông sản trong điều kiện giá lương thực và nông sản thế giới đang tăng. Tuy nhiên, thực tế không hẳn là như vậy, vẫn còn nhiều bất cập khiến chúng ta phải quan tâm nhiều hơn đến sự phát triển của nông nghiệp. Tỷ trọng của nông nghiệp trong sản phẩm quốc nội (GDP) giảm dần, nhưng không có nghĩa là vai trò của nông nghiệp ngày càng giảm. Thực tế cho thấy, Hoa Kỳ và Pháp, hai nước có nền công nghiệp phát triển vào bậc nhất thế giới cũng là hai nước xuất khẩu nông sản lớn nhất thế giới. Ngược lại, các nước Đông Á, vốn được coi là giải quyết tốt vấn đề nông nghiệp song song với công nghiệp hóa, thì hiện nay phải nhập khẩu lương thực và nông sản ngày càng nhiều, vì nông nghiệp đã giảm sút nghiêm trọng(1). Việc các nước đã phát triển đang phải trợ cấp cho nông nghiệp rất nhiều làm cho các nước đang phát triển gặp không ít khó khăn là cái giá phải trả cho việc đã không chú ý đến nông nghiệp trong thời kỳ công nghiệp hóa.

Các nước đang phát triển hiện nay có dư lượng lao động nông thôn quá cao, và ngày càng tăng. Chẳng hạn, ở Trung Quốc, dự báo vào năm 2020, nông nghiệp trong GDP còn 5%, lao động nông nghiệp còn 35% và lao động nông thôn còn 45%. ở nước ta, theo dự báo của chúng tôi, cũng vào năm ấy, nông nghiệp trong GDP sẽ còn 10%, lao động nông nghiệp vẫn còn 23%. Như vậy, ngay khi đã công nghiệp hóa thành công, vai trò của nông nghiệp ở các nước đang phát triển vẫn còn cao, về thực chất vẫn còn là nước công – nông nghiệp. Do vậy, chúng ta không thể sao nhãng việc phát triển nông nghiệp, mà phải coi nó như một trong những mục tiêu trọng tâm của phát triển kinh tế.

Vấn đề lớn của nông nghiệp nước ta sau thời kỳ đổi mới là chất lượng nông sản còn thấp, vì chủ yếu xuất khẩu nông sản thô, quy mô sản xuất nhỏ nên giá thành cao, năng suất lao động thấp. Muốn tăng giá trị nông sản, cần cải tiến chất lượng sản phẩm bằng cách phát triển các sản phẩm có xuất xứ địa lý, sản phẩm bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh và an toàn thực phẩm quốc tế và sản phẩm hữu cơ. Để làm được việc này, cần xây dựng một thể chế quản lý chất lượng nông sản đi đôi với việc phát triển công nghiệp chế biến nông sản.

Thể chế thị trường nông sản, nếu chủ yếu chỉ dựa vào quan hệ nông dân – doanh nghiệp theo kiểu hợp đồng nông nghiệp sẽ dẫn đến sự độc quyền của doanh nghiệp chế biến và lưu thông. Nông dân, những người sản xuất trực tiếp vẫn chịu nhiều thiệt thòi. Muốn giải quyết tình trạng này, phải phát triển các hợp tác xã bao gồm cả hoạt động chế biến và buôn bán, lưu thông thì việc phân phối thu nhập mới được công bằng. Nhà nước không thể trợ giúp nông dân thông qua các doanh nghiệp nhà nước, vì thu lợi nhuận là mục tiêu chính và trước hết của doanh nghiệp, bởi vậy, phải thực hiện các hỗ trợ của Nhà nước thông qua các dịch vụ công. Hiện nay, các dịch vụ công phục vụ phát triển nông nghiệp còn yếu, đặc biệt các hộ nghèo ít được hưởng lợi. Chúng ta đã xây dựng được một số hệ thống cung cấp dịch vụ công do các tổ chức nông dân thực hiện cùng với Nhà nước và thị trường, cho phép nâng cao hiệu quả của việc cung cấp dịch vụ cho nông dân, tới đây cần nhân rộng các mô hình này.

Một vấn đề khác là, giá đầu vào của sản xuất nông nghiệp đang tăng mạnh, giá nông sản không theo kịp, nông dân không còn hăng hái với sản xuất nông nghiệp, lao động nông thôn đang bỏ ra đô thị kiếm việc làm, lao động nông nghiệp đang bị nữ hóa, già hóa và chuyển từ thâm canh sang quảng canh, chăn nuôi và nghề phụ đang bị giảm sút… Giá một số nông sản như lúa mì, ngô, đậu tương đang tăng rất nhanh trên thị trường thế giới mà chúng ta vẫn nghĩ đến việc nhập khẩu, không nhân cơ hội này để phát triển sản xuất trong nước. Nông thôn đang có xu hướng quay trở về độc canh cây lúa, từ bỏ việc đa dạng hóa sản xuất. Trong điều kiện này, chúng ta thiếu các biện pháp để chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, thiếu biện pháp để tăng năng suất lao động. Tình trạng này sẽ dẫn đến nguy cơ mất an ninh lương thực và thực phẩm như các nước công nghiệp mới ở Đông á và Đông – Nam á. Theo dự báo của các tổ chức quốc tế, trong thế kỷ XXI, thế giới sẽ thiếu lương thực, đây có phải là một thời cơ cho chúng ta phát triển nông nghiệp không?

Khoa học – kỹ thuật phục vụ nông nghiệp nước ta chưa phát triển. Các câu hỏi của công nghệ nông nghiệp thế kỷ XXI như vấn đề hướng công nghệ sinh học bảo đảm các nguy cơ đối với sức khỏe của con người và môi trường, vấn đề nông nghiệp hữu cơ với dự báo sẽ chiếm lĩnh thị trường nông sản thế giới, vấn đề phòng chống hiện tượng nóng lên của khí quyển, nước biển dâng cao làm ngập các đồng bằng – vốn được coi là những vựa lúa của nước ta, vấn đề nông nghiệp chính xác áp dụng công nghệ định vị, vấn đề nông nghiệp thẳng đứng hay không đất để giải quyết vấn đề thiếu đất và bảo vệ môi trường…., hầu hết vẫn chưa tìm được câu trả lời.

Các vấn đề biến đổi khí hậu và rủi ro trong nông nghiệp ngày càng tăng, mà chúng ta chưa có các biện pháp bảo vệ nông nghiệp, chống thiên tai và rủi ro. Hệ thống bảo hiểm chống thiên tai và rủi ro mặc dù phức tạp, nhưng không phải không có cách thực hiện được.

Chúng ta cũng chưa có một chiến lược công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn, hiện đại hóa nông nghiệp như thế nào trong điều kiện đất ít, người đông, quy mô sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp.

2 – Vấn đề nông dân

Một thực tế là, nông dân còn quá nghèo, việc giải quyết giảm nghèo chưa gắn liền với phát triển kinh tế nông thôn nên chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo vẫn còn rất cao. Nông dân là bộ phận công dân ít được hưởng phúc lợi xã hội, nhất là về giáo dục, y tế. Những vấn đề xã hội ở nông thôn chưa được giải quyết một cách cơ bản như: bảo hiểm thiệt hại do thiên tai và thị trường, bảo hiểm xã hội. Theo kinh nghiệm của các nước, không thể chỉ giải quyết các vấn đề xã hội của nông thôn bằng các biện pháp thị trường.

Nông dân thiếu việc làm ở nông thôn phải di cư ra thành thị để tìm việc, làm thuê với giá lao động rất thấp và bị đối xử như “công dân loại hai”, mặc dù họ là động lực chủ yếu của công cuộc đổi mới. Chưa có một quy hoạch chuyển đổi cơ cấu lao động, rút lao động ra khỏi nông thôn và nông nghiệp. Nông dân tham gia thị trường lao động nhưng không được đào tạo nghề, không được Nhà nước hỗ trợ như trước kia đã làm trong các chương trình kinh tế mới. Do vậy, cần có một hệ thống biện pháp đồng bộ giúp đào tạo nông dân, đó chính là biện pháp để xây dựng giai cấp công nhân mới. Đây cũng là giải pháp hữu hiệu giúp cho lớp người này không trở thành “vô sản lưu manh”, kéo theo đó là tội phạm và tệ nạn xã hội.

Một điều tối quan trọng là, quyền lợi của nông dân chưa được bảo vệ vì thiếu nghiệp đoàn nông dân. Nông dân là bộ phận yếu thế nhất, không có quyền mặc cả trên thị trường, nên quan hệ giữa thương nghiệp với nông dân đang diễn ra thiếu công bằng. Nông dân còn thiếu chủ quyền về đất đai, bị mất đất mà không có ai bênh vực. Việc đầu cơ ruộng đất làm giá bất động sản lên cao một cách giả tạo, nhưng nông dân cũng không được hưởng lợi gì từ việc này. Tình trạng này có nguyên nhân từ sự quản lý, kiểm soát của Nhà nước. Ngay ở một số nước có sở hữu đất tư nhân, nhà nước vẫn kiểm soát việc sử dụng đất một cách chặt chẽ.

Để phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa có hiệu quả và năng suất lao động cao, con đường đúng đắn không phải là xóa bỏ kinh tế hộ nông dân, phát triển trang trại, mà là tổ chức hợp tác xã kiểu mới có chế biến nông sản và buôn bán chung nhằm mở rộng quy mô sản xuất, thực hiện thương nghiệp công bằng. Hiện nay, chúng ta đang thiếu một hệ thống dịch vụ trợ giúp cho nông dân xây dựng các hợp tác xã kiểu mới, bắt đầu từ việc xây dựng các tổ hợp tác để tiến lên hợp tác xã. Đây là biện pháp cơ bản để tiếp tục phát triển kinh tế gia đình nông dân, bắt đầu từ “Khoán 10”, chuyển hộ nông dân thành nông trại gia đình như ở các nước tiên tiến.

Thế nhưng, hạn chế cố hữu của nông dân ở nước ta là tính thụ động, chờ đợi sự hỗ trợ, trừ một số vùng đặc biệt có vốn xã hội cao. Hiện nay, có nhiều vùng nông dân rất năng động nhưng chúng ta chưa thực hiện được việc tổ chức nghiên cứu các trường hợp ấy để có thể chuyển giao tính năng động sang các vùng khác.

3 – Vấn đề nông thôn

Trong quá trình đổi mới, khoảng cách giữa thành thị và nông thôn ngày càng xa nhau, do chưa có chiến lược đổi mới hiệu quả.

Nông nghiệp mâu thuẫn với phát triển nông thôn. Các vùng phát triển nông nghiệp mạnh thì không chuyển đổi được cơ cấu kinh tế nông thôn, không tạo thêm được việc làm và không tăng nhanh thu nhập của nông dân. Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn không thuận lợi cho việc nâng cao năng suất lao động nông thôn và tăng thu nhập của nông dân. Việc để nông dân đi bán sức lao động ở nơi khác với giá rẻ mạt, việc không có quy hoạch lao động, đã dẫn đến nhiều vùng thiếu lao động và giá lao động tăng mạnh.

Mức đóng góp của nông dân, nông thôn cao, phúc lợi cung cấp cho nông dân lại thấp, nông dân còn ít được hưởng lợi về đầu tư kết cấu hạ tầng và các nguồn cung cấp phúc lợi của Nhà nước.

Từ các hộ nông dân đang xuất hiện nhiều doanh nghiệp nhỏ: nông trại gia đình, doanh nghiệp nông nghiệp, doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ từ các làng nghề, nhưng các doanh nghiệp này không được các chương trình doanh nghiệp nhỏ và vừa hỗ trợ. Nông thôn còn thiếu các thể chế dựa vào cộng đồng như hợp tác xã và các tổ chức nghề nghiệp của nông dân để phụ trách việc cung cấp các dịch vụ công.

Một vấn đề nữa còn gây nhiều bức xúc là môi trường nông thôn đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Nên có các chương trình bảo vệ môi trường gắn liền Nhà nước, doanh nghiệp và các cộng đồng nông thôn cùng thực hiện việc bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, nếu giao việc bảo vệ môi trường cho các tổ chức nông dân thì có thể biến việc bảo vệ môi trường trở thành những hoạt động kinh tế tạo việc làm và thu nhập cho nông dân. Việc phát triển du lịch nông thôn cũng góp phần nâng cao được chất lượng môi trường.

Nông thôn còn thiếu mạng lưới an sinh xã hội, trong khi thu nhập tương đối giảm nhanh. Việc xây dựng hệ thống an sinh xã hội phải gắn liền với hoạt động tương trợ, với các tổ chức nông dân. Ở Pháp, từ một tổ chức bảo hiểm tương trợ đã phát triển lên thành một công ty bảo hiểm quốc tế lớn nhất châu Âu, từ một quỹ tín dụng nông nghiệp thành một ngân hàng giàu nhất châu Âu. Các tổ chức này vẫn là tổ chức tập thể của nông dân.

Các nguyên nhân gây cản trở cho việc phát triển nông nghiệp, nông thôn không thể chỉ giải quyết bằng các biện pháp tình thế, mà có thể phải thay đổi ngay từ trong đường lối cải cách kinh tế – xã hội. Có thể thấy, cuộc cải cách kinh tế của Việt Nam và Trung Quốc bị ảnh hưởng mạnh của chủ nghĩa tự do mới, quá đề cao kinh tế thị trường và sớm đồng thuận với sự rút lui của nhà nước trong quản lý, thiếu cải cách xã hội. Đó là lý do chính làm cho khoảng cách giữa thành thị và nông thôn ngày càng xa nhau. Thêm vào đó, chúng ta lại đang dựa vào ưu thế cạnh tranh trong việc phát triển công nghiệp và dịch vụ để thu hút đầu tư nước ngoài là giá lao động rẻ, giá đất rẻ và giá môi trường rẻ. Do đó, mục tiêu của việc tăng trưởng nhanh dựa vào các ưu thế cạnh tranh này đã mâu thuẫn với các mục tiêu của phát triển nông thôn. Việc thu hút quá nhiều đầu tư nước ngoài sẽ dẫn đến sự phụ thuộc chính trị và phát triển không bền vững, gây khó khăn cho các thế hệ sau vì phải gánh nợ tích lũy từ các thế hệ trước. Mặt khác, chúng ta còn thiếu một nền kinh tế mang tính xã hội, và các doanh nhân xã hội thì không thể thực hiện được việc cải cách xã hội. Không thể chỉ dựa vào việc kêu gọi các doanh nghiệp tham gia hoạt động từ thiện. Cần có một đường lối xã hội hóa công cuộc cải cách kinh tế xã hội, không lẫn lộn xã hội hóa với thị trường hóa và tư nhân hóa. Xã hội hóa là huy động sự tham gia của quần chúng. Phát triển mạnh xã hội dân sự để huy động quần chúng tham gia vào sự phát triển chính là áp dụng truyền thống quan điểm quần chúng của Đảng.

Để giải quyết các vấn đề trên, cần có một hệ thống biện pháp phát triển nông thôn có hiệu lực, theo chúng tôi, đó là:

– Nhà nước cần có chính sách phát triển nông thôn toàn diện, không chỉ tập trung vào nông nghiệp. Việc phát triển nông thôn là công việc của hầu hết các bộ chứ không phải chỉ riêng của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Hiện nay, chúng ta đã có Hội Khoa học phát triển nông thôn để huy động lực lượng quần chúng giúp nhà nước và doanh nghiệp thực hiện công việc này. Chúng ta đang được các tổ chức quốc tế và trên 399 tổ chức phi chính phủ hỗ trợ việc phát triển nông thôn, nhưng chúng ta không biết họ đang làm gì để hợp tác một cách chặt chẽ. Hội Khoa học Phát triển nông thôn đang cố gắng xây dựng cơ sở khoa học cho việc phát triển nông thôn và xây dựng một trung tâm cung cấp dịch vụ phát triển nông thôn hoạt động theo nguyên tắc của một doanh nghiệp mang tính xã hội, giống như một mô hình kiểu mới chưa có ở nước ta nhưng rất phổ biến ở các nước…

– Nhà nước phải hỗ trợ việc tăng cường năng lực cho các cộng đồng nông thôn để nông dân có thể tham gia vào việc phát triển nông thôn. Xây dựng các thể chế nông thôn dựa vào cộng đồng: hợp tác xã và các tổ chức nghề nghiệp của nông dân. Cần tổng kết các sáng kiến mới đang xuất hiện ở nông thôn như việc phát triển các cụm nông nghiệp và công nghiệp, việc hình thành các doanh nghiệp nhỏ ở nông thôn, việc phát triển du lịch nông thôn, việc áp dụng công tác khuyến nông kinh tế xã hội và tư vấn quản lý nông trại, việc đào tạo nông dân, không những để sớm có những “nhà nông” chuyên nghiệp có trình độ sản xuất, kinh doanh tiên tiến, mà còn gắn bó lâu bền với nông thôn…/.”

(1) Phi-lip-pin là một nước nông nghiệp, trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đã dành quá nhiều diện tích canh tác cho phát triển đô thị và khu công nghiệp, khu chế xuất, nhất là có quá nhiều sân golf, nay đang “đau đầu” vì thiếu lương thực một cách trầm trọng.

Đừng để nông dân thêm yếu thế trong cơ chế thị trường

GSVS. Đào Thế Tuấn trả lời phỏng vấn Báo VietNamNet,30/03/2008, Hà Yên thực hiện “Đừng để nông dân thêm yếu thế trong cơ chế thị trường”.

“Có một sự hiểu nhầm rằng, phát triển nông nghiệp và phát triển nông thôn là một, và Chính phủ giao Bộ NN-PTNT lo về phát triển nông thôn. Trên thực tế, Bộ này chưa làm được gì nhiều cả. Ngày trước, việc phát triển nông thôn do Bộ máy bên Đảng làm, có Ban Nông nghiệp TƯ lo tất cả các vấn đề về nông thôn như cải cách ruộng đất, hợp tác hoá, xây dựng nông thôn như thế nào…, được cụ thể trong Chỉ thị 100, Nghị quyết TƯ 10… Bây giờ, đưa nông thôn về Bộ NN-PTNT, trong khi Bộ hầu như chỉ lo phát triển sản xuất và phòng chống thiên tai, mà lẽ ra phòng chống thiên tai là do Bộ Tài nguyên – Môi trường phải làm. Nên mỗi lần có thiên tai, Bộ trưởng Bộ NN-PTTN lại phải chạy khắp các địa phương để chỉ đạo, không có thì giờ để lo phát triển nông thôn.

Thứ hai ở Việt Nam có sự hiểu nhầm về chuyện phát triển nông nghiệp tốt thì phát triển nông thôn tốt vì nông nghiệp đi lên kéo theo nông thôn phát triển. Thực tế không phải như vậy. Nông nghiệp là ngành sản xuất còn nông thôn là lãnh thổ. Hầu như tất cả các bộ, ngành của ta đều có bộ phận lo về nông thôn, như Giáo dục, Y tế rồi LĐ-TBXH… Vậy tại sao lại giao cho một bộ phụ trách cả công việc lớn như vậy?… Hiện nay, trong phát triển nông thôn có hai vấn đề lớn: ruộng đất và lao động, nhưng Bộ NN-PTNT lại không được quản lý.”

”Giảm thủy lợi phí và nhiều khoản thuế khác tất nhiên là tốt rồi nhưng cái đó không phải là chính . Ở Trung Quốc, thu nhập của người dân thành thị cao hơn nông thôn 3,6 lần . Họ cho rằng đó là mới tính thu nhập bằng tiền chứ chưa tính phúc lợi là giáo dục và y tế . Nếu cộng cả hai yếu tố này , khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn thành thị Trung Quốc là hơn 5 lần. Con số này ở Việt Nam hiện là 2,6 lần. Nếu tình hình vẫn như hiện nay thì sẽ giống như Trung Quốc. Theo tôi muốn giải quyết được vấn đề phúc lợi không thể làm theo kiểu kinh tế thị trường. Bây giờ Việt Nam đang lẫn lộn giữa xã hội hóa, thị trường hóa và tư nhân hóa . Nếu muốn làm phúc lợi cho nông dân phải xã hội hóa . Xã hội hóa thực chất là bắt dân đóng tiền thôi. Xã hội hóa là cả xã hội phải lo công việc đó”.

Vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn hiện nay về thực chất là vấn đề phát triển bền vững . Nếu công cuộc đổi mới của nước ta dẫn đến một sự phân hóa xã hội quá mức, tăng khoảng cách giữa thành thị và nông thôn thì sự phát triển sẽ không bền vững. Nông nghiệp, nông dân và nông thôn là ba vấn đề khác nhau, song nếu không cùng được giải quyết một cách đồng bộ thì không thể CNH-HĐH đất nước một cách vững chắc được.

“Phải xây dựng xã hội dân sự ở nông thôn”

Giáo sư viện sĩ Đào Thế Tuấn trả lời phỏng vấn Tuần Việt Nam (trích dẫn nguồn IPSARD ngày 7.7.2009, Viện Chính sách Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn, Đoan Trang thực hiện) nhân sự kiện ĐSQ Pháp ở Hà Nội đã tổ chức lễ trao Huân chương hạng nhất của Chính phủ Pháp cho Giáo sư.

“Tôi không đồng ý với cách nói “phát triển nông nghiệp vì chúng ta có lợi thế về nông nghiệp”. Nông nghiệp là ngành mà chúng ta phải duy trì và phát triển, không phải vì lợi thế cạnh tranh nào cả, mà vì phát triển nông nghiệp là chuyện bắt buộc phải làm, không là chết, vậy thôi. Người ta đã tính rằng đến năm 2050, thế giới cần lương thực gấp đôi hiện nay, đến cuối thế kỷ thì nhu cầu tăng gấp ba. Nếu cung lương thực cho thế giới thiếu thì giá chắc chắn sẽ tăng lên. Nói cách khác, nếu để mất an ninh lương thực thì sẽ phải nhập khẩu để sống sót, mà nhập khẩu thì càng ngày càng đắt. Việt Nam có 86 triệu dân, con số không hề nhỏ. Phải xây dựng được nền nông nghiệp ít nhất là bảo vệ được an ninh lương thực của nước nhà, còn nếu biết làm tốt hơn thì càng có lợi về kinh tế. Nhìn từ góc độ chính trị – xã hội, nông dân Việt Nam là những người ít được hưởng lợi từ đổi mới nhất. Nông dân còn quá nghèo, ít được hưởng phúc lợi xã hội (giáo dục, y tế…), thiếu việc làm ở nông thôn và buộc phải di cư ra thành phố làm thuê với giá lao động rẻ mạt. Nông dân đang bị bần cùng hóa, và đó là nguy cơ gây bất ổn xã hội. Như ở Trung Quốc bây giờ, bạo loạn ở nông thôn xảy ra nhiều lắm, ấy là hậu quả của sự bần cùng hóa nông dân.”

“Quá trình công nghiệp hóa ở các nước không giống nhau. Thế kỷ 17-19, các nước tư bản dùng nguồn lợi bóc lột từ hệ thống thuộc địa để làm công nghiệp hóa, ví dụ Anh, Pháp là theo cách này. Nước nào không có thuộc địa, như Đức, thì gây chiến để giành lấy thuộc địa. Thế kỷ 20, Liên Xô sau khi tiến hành Cách mạng Tháng Mười, không có nguồn lực để công nghiệp hóa nên họ buộc phải dùng nông nghiệp để làm công nghiệp. Trung Quốc từ thời Mao Trạch Đông cũng vậy, bóc lột nông dân, vắt kiệt nông nghiệp để dồn lực cho công nghiệp. Và Việt Nam ta bây giờ đang diễn lại đúng kịch bản đó”. Chúng ta tuy không có một chủ trương nào nói rằng phải dùng nông nghiệp để nuôi công nghiệp nhưng thực tế đang cho thấy đúng như vậy đó. Tất cả những câu “nông dân là lực lượng cách mạng”, “nông dân là những người khởi xướng Đổi mới”, “phải biết ơn nông dân”, “phải ưu tiên phát triển hợp lý nông nghiệp”, tôi cho đều là mị dân cả. Trên thực tế, nông nghiệp đang bị lép vế, nông dân thua thiệt đủ bề. Đó là hậu quả của việc bóc lột nông nghiệp để dồn lực cho công nghiệp hóa. Tôi nói cách khác, việc nông thôn, nông nghiệp Việt Nam bây giờ kém phát triển hoàn toàn là do cơ chế, do đường lối, quyết định của lãnh đạo mà thôi.”

“Từ kinh nghiệm chung của thế giới, tôi thấy là nếu anh làm quản lý ruộng đất tốt thì còn đất nông nghiệp tăng thêm, còn thừa đất ấy chứ. Tình trạng mất đất nông nghiệp ở ta là do đầu cơ mà ra cả. Nói sâu xa hơn thì do cách quản lý của ta là quản lý để đầu cơ. Ngay xung quanh Hà Nội đây này, tôi biết có nhiều nơi, người ta xây những ngôi mộ giả để găm đấy, chờ khi nào chính quyền lấy đất thì sẽ được đền bù.Bây giờ có lắm ý kiến nói tới việc tăng hạn điền cho nông dân. Tôi thì tôi cho rằng nhiều người nói vậy vì họ có quyền lợi liên quan tới việc đầu cơ ruộng đất. Hạn điền ở nước ta không thấp. Ngay Hàn Quốc cũng chỉ có 3 hécta, Nhật Bản 10 hécta. Mở rộng thêm để làm gì, chỉ tạo điều kiện cho đầu cơ phát triển thêm”.

“Vấn đề sở hữu tư nhân về đất nông nghiệp cũng vậy, đang được đặt ra, nhưng theo tôi là không cần thiết. Ở Việt Nam, quyền sử dụng đất còn rộng hơn quyền sở hữu đất ở Pháp. Có tập trung ruộng đất trong tay địa chủ thì cũng không đẻ ra sản phẩm. Ở nhiều nước đang phát triển, phải tồn tại nông dân nghèo không ruộng đất thì mới có người làm thuê. Ví dụ như ở Brazil, nông dân biến thành thợ. Họ ở thành phố, hàng ngày về nông thôn làm việc rồi chiều tối lại lên thành phố.”

“Thu nhập thấp, mất đất, không có việc làm. Khoảng cách thu nhập, chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn là rất lớn. Nông dân ở nông thôn không được tiếp cận rộng rãi với giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội, không có tích lũy. Nhà có người ốm đi viện một lần là của cải mất hết, trắng tay. Thêm một đứa con đi học xa, học lên cao là cả nhà lao đao. Việc làm cho nông dân là vấn đề nghiêm trọng đối với Việt Nam và cũng là vấn đề lớn với thế giới. Nhìn chung, thế giới càng công nghiệp hóa càng thừa lao động, bởi vì công nghiệp và dịch vụ sử dụng lao động ít hơn nông nghiệp. Nói cách khác, công nghiệp và dịch vụ không thể “nuốt” hết số lao động dôi dư. Thừa lao động nông nghiệp là một trong các kết quả của quá trình phát triển. Ở ta, nông thôn thừa khoảng 50% lao động, nhưng lại không phải là kết quả của sự phát triển công nghiệp, mà do họ làm nông nghiệp thì không có đất, không làm nông nghiệp thì chẳng biết dùng họ vào việc gì. Xuất khẩu lao động cũng chỉ là giải pháp tình thế thôi. Hiện giờ Âu châu hạn chế nhận lao động nước ngoài. Trung Cận Đông, Hàn Quốc và Malaysia bình thường vẫn nhận nhiều lao động di cư vì họ đang có nhu cầu phát triển, nhưng nay khủng hoảng, họ cũng gặp khó khăn. Tóm lại, thất nghiệp đang là bài toán không giải quyết được ở nhiều nước. Nông dân đang phải chịu gánh nặng cho toàn xã hội. Tôi nhấn mạnh: Lao động thừa ở nông thôn là vấn đề của toàn xã hội, cho nên cả xã hội phải góp vào mà lo chứ không chỉ Bộ NN&PTNT hay Bộ LĐ&TBXH đâu”.

Có cách nào để nâng thu nhập, từ đó nâng mức sống cho người ở nông thôn không?

Tôi cho rằng đa dạng hóa sinh kế là chìa khóa để tăng thu nhập cho nông dân. Không thể chỉ làm nông được. Nói vui, tôi biết có làng ở Nam Sách (Hải Dương), cả làng bao nhiêu hiệu làm tóc.Thật ra, ở nông thôn, có nhiều việc lắm nhưng không ai giúp nông dân làm, không ai hướng dẫn cho họ cả. Chúng tôi đang tìm cách xây dựng một cơ chế để giúp nông dân đa dạng hóa sinh kế.Du lịch nông thôn chẳng hạn. Việt Nam cũng đã có du lịch nông thôn, nhưng triển khai chưa tốt, trong khi nếu làm tốt, thu nhập của mỗi nông dân có thể tăng gấp đôi. Ví dụ ở Sapa có nhiều các điểm du lịch bán vé, nhưng tiền bán vé chính quyền và doanh nghiệp đầu tư hưởng hết, dân địa phương chẳng được gì. Dân bị coi như kẻ ăn bám vào du lịch ở địa phương, ngày ngày sống nhờ bán đồ lặt vặt cho khách.Họ không được tham gia vào hoạt động du lịch nông thôn ở địa phương, trong khi nếu hoạt động này phát triển và thu hút họ thì sẽ bảo vệ được cả văn hóa lẫn sinh thái, môi trường địa phương.Tôi còn được biết, ở Huế, nhiều nhà vườn đóng cửa với khách du lịch, bởi vì họ chẳng thu được gì, tour du lịch lấy hết rồi.Ở Hội An, tôi hỏi dân sao không tổ chức kinh doanh du lịch bằng cách cho khách thuê nhà dân ở, kiểu “home-stay”, họ bảo không được phép. Chính quyền yêu cầu nếu dân làm “home-stay” thì phải đảm bảo trang thiết bị vệ sinh, máy điều hòa. Như thế, tiền đâu mà nông dân làm? Ở Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL), có nhiều vùng cây ăn trái, tour du lịch đưa khách đi thăm, nhưng khách chỉ ngắm thôi chứ có mua về được đâu, làm sao bảo quản được mà mang về. Thế nên dân đem trái cây ra chợ bán còn thu được tiền hơn.”

“Ở Pháp, doanh nghiệp mua súp lơ của nông dân với giá 1 Franc (đồng nội tệ của Pháp trước khi chuyển sang sử dụng Euro), rồi đến khi vào siêu thị, giá súp lơ đã tăng lên 12 Franc. Như thế là bóc lột nông dân lắm.”Có nhiều việc để làm lắm nhưng không ai hướng dẫn nông dân làm cả”. GS.VS. Đào Thế Tuấn cho rằng phát triển xã hội dân sự chính là cơ chế để hướng dẫn người nông dân đa dạng hóa sinh kế.Nông dân Pháp bèn lập chợ nông thôn ngay giữa thủ đô Paris để bán hàng trực tiếp tới tay người tiêu dùng, tránh được hệ thống thu mua ở giữa.Tôi thấy các nước tiên tiến bây giờ người ta tẩy chay hệ thống doanh nghiệp buôn bán. HTX chiếm 50% công việc, tư thương chiếm 50% lĩnh vực phân phối nông sản là tốt nhất.Theo tôi, doanh nghiệp chỉ nên thực hiện khâu chế biến cao cấp, còn thu gom, buôn bán, nông dân tự làm được. Có như thế, doanh nghiệp mới mất thế độc quyền.Chứ như bây giờ ở ta, nông dân không có quyền mặc cả với tư thương. ĐBSCL chẳng hạn, nông dân trồng lúa chất lượng cao hơn trước nhưng giá bán ra thì vẫn như thế.

Vậy, tôi xin mượn lời một danh hài, “thế thì người nông dân phải làm gì”? Vấn đề quan trọng nhất của phát triển là phải có sự tham gia của cộng đồng, của người dân. Các tổ chức phi chính phủ đến Việt Nam đều nói rằng nông thôn Việt Nam không có cộng đồng.Tôi nghĩ không hoàn toàn như vậy. Ngày xưa, chúng ta đã có cộng đồng làng xã, thôn xóm đấy thôi, mà đại diện là những lý trưởng, xã trưởng. Bây giờ thì chỉ còn mấy ông bà cán bộ – ông bí thư, chủ tịch xã, chủ tịch hợp tác xã, bà tổ trưởng phụ nữ… Người dân chẳng được tham gia gì cả.Chúng ta cần phải hướng dẫn, phải tạo cơ chế để giúp nông dân tổ chức lại được với nhau, xây dựng các doanh nghiệp xã hội (social entrepreneur). Nhà nước không thu thuế đối với họ. Dĩ nhiên, họ cũng có một mức lãi nào đó, nhưng về bản chất, họ là một hệ thống các tổ chức chăm lo phát triển xã hội. Hệ thống đó là một phần của xã hội dân sự.Không thể chỉ dựa vào việc kêu gọi các doanh nghiệp tham gia hoạt động từ thiện, cần có một đường lối xã hội hóa công cuộc cải cách kinh tế xã hội, không lẫn lộn xã hội hóa với thị trường hóa và tư nhân hóa. Xã hội hóa là huy động sự tham gia của xã hội, của quần chúng.Tóm lại, điều quan trọng chúng ta cần làm ở nông thôn bây giờ là xây dựng xã hội dân sự.”

Bài toán “tam nông” thời kỳ đô thị hóa

GS-VS Đào Thế Tuấn trả lời phỏng vấn Báo Thể thao & Văn Hóa do Nguyễn Yến thực hiện trong bài viết ‘Anh hùng nông học giữa Hà thành’ ngày 2.8.2010

“Mô hình đô thị hóa hiện nay đang phổ biến ở châu Á không phải là phát triển các siêu đô thị (trên 8 triệu dân) mà là mô hình đô thị hóa phi tập trung bao gồm các thị trấn và thị tứ nhỏ có một vành đai nông nghiệp bao quanh. Hà Nội cần phát triển theo mô hình này”, GS-VS Đào Thế Tuấn khẳng định…Theo GS-VS Đào Thế Tuấn, việc điều chỉnh lại tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa là biện pháp hữu hiệu nhất để giải quyết các mâu thuẫn giữa thành thị và nông thôn trong vấn đề đất đai và lao động. Việc xây dựng các khu công nghiệp quá nhanh và đô thị hóa quá nhanh sẽ là một sự lãng phí lớn trong lúc chưa có một hướng công nghiệp hóa mới. Nhiều đô thị mới đang ở trong một tình trạng “giả tạo” chưa có tác dụng thúc đẩy sự phát triển toàn diện của cả nền kinh tế. Lấy đất xong, nhưng chưa chuyển đổi được cơ cấu lao động vì chưa chuyển đổi được cơ cấu kinh tế. Nông nghiệp vẫn sẽ là cứu cánh giúp các nước ra khỏi cuộc suy thoái kinh tế, nhu cầu lương thực ngày sẽ càng tăng nhanh dù có khủng hoảng kinh tế hay không. Theo dự báo, dân số thế giới hiện nay là 6,8 tỷ người, vào năm 2050 sẽ là 9,1 tỷ người và nhu cầu thực phẩm sẽ tăng gấp đôi hiện nay. Công nghiệp hóa dựa vào nông nghiệp sẽ là mô hình có ưu thế cạnh tranh ở Việt Nam, tạo được sự phát triển bền vững. Du lịch nông thôn cũng là một biện pháp trong phát triển đô thị, nó có thể tăng gấp đôi thu nhập của nông dân, tạo việc làm và thúc đẩy nâng cao chất lượng của nông nghiệp.”.

*

Đất lúa bỏ hoang vụ mùa vụ đông không còn thâm canh tăng vụ như trước nữa vì sản xuất vụ mùa vụ đông đã trở nên kém hiệu quả. Những thực tiễn nhức nhối nhưng người dân biết tìm giải pháp thích ứng phù hợp. Thông tin Lúa Lộc Trời là những tìm tòi cải tiến chuỗi giá trị sản phẩm lúa gạo thật hay. Tôi viết cho anh Dương Đình Tường tác giả “Hai sắc thái ruộng hoang” loạt bảy bài viết thật giá trị, và anh Dương Văn Chín (Chin Duong) “Lúa Lộc Trời Việt Nam” : Cám ơn anh Dương Đình Tường và anh Dương Văn Chín bài viết thật hay. Hoàng Kim xin chép về trang DẠY VÀ HỌC chung với bài VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH để so sánh đối chiếu cùng các bài nghiên cứu và trao đổi trước đây của giáo sư viện sĩ Đào Thế Tuấn và chùm vài giới thiệu mười thương hiệu Việt mới đây của phó giáo sư tiến sĩ Đào Thế Anh. Kinh tế hộ nông dân Việt Nam trong những trở mình hiện nay là những nhức nhối thực tiễn. Người dân, đặc biệt là hộ nông dân, chủ thể sự thay đổi, đang đối mặt các tình huống cụ thể vừa cấp bách vừa lâu dài, rất cần sự quan tâm hổ trợ chuyển đổi đúng hướng để tăng thu nhập của nông dân, tạo việc làm và thúc đẩy nâng cao chất lượng cuộc sống nông nghiệp.

Việt Nam con đường xanh, những giải pháp thích ứng?

Hoàng Kim
xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-con-duong-xanh/


Tài liệu tham khảo

HAI SẮC THÁI CỦA RUỘNG HOANG
[Bài I] Anh hùng phủ lấm bụi mờ

Dương Đình Tường

Báo Nông nghiệp Việt Nam 23/07/2019, 14:04 (GMT+7)

Như một đám cháy, tình trạng bỏ ruộng hoang đang loang nhanh ra khắp miền Bắc. Thay vì giấu giếm hay dùng những mệnh lệnh hành chính vô nghĩa để ngăn cản thì nên chăng nhìn nhận nó cả dưới góc độ tích cực là tạo tiền đề cho việc tích tụ đất đai để có được những đại điền chủ kiểu mới…

Chuyện về anh nông dân sắm ô tô đi thuê đất trồng chuối, thu 10 tỷ/năm; Những điều trông thấy mà… ngao ngán lòng!; Tiếc đứt ruột hàng trăm hecta ‘bờ xôi ruộng mật’ bỏ hoang 2 năm nay

Hào quang một thuở
Ông Phùng Đức Trình – bảo vệ UBND xã Hợp Thịnh (Tam Dương, Vĩnh Phúc) lách cách tra chìa vào ổ khóa mở cửa hội trường rồi cầm giẻ tỉ mẩn lau lớp bụi đang bám mờ trên khung kính của tấm cờ Anh hùng Lao động tặng cho HTX Hợp Thịnh thủa nào nay đã bợt bạt. Một chút ánh sáng lóe lên trong đôi mắt già nua. Chốc lát ông như được sống lại thời thanh niên sôi nổi của mình 30 năm về trước, khi còn là một nhóm trưởng sản xuất của HTX…

Ông Trình lau bụi cho lá cờ Anh hùng Lao động của HTX Hợp Thịnh (ảnh) .

Thỉnh thoảng ông lại có nhiệm vụ mở khóa như thế để cho các đoàn khách vãng lai vào đây chụp ảnh với lá cờ. “Hồi đó, chúng tôi lao động “thật hạt” vì chẳng có nghề nào khác ngoài làm nông. Đất chật, người đông nên mỗi nhân khẩu chỉ có 1,1 sào ruộng. Nhà tôi 5 người, cấy hai vụ lúa mỗi vụ thu hoạch trên 1 tấn thóc, trồng một vụ ngô đông thu hơn 1,3 tấn hạt. Lúa để người ăn còn ngô để chăn nuôi và bán.

Tôi vẫn nhớ công thợ xây khi ấy là 20.000 đồng tương đương 12 – 13kg thóc còn làm ruộng đến mùa chia thóc cho số ngày trong vụ thu nhập bình quân cũng đạt 5 – 6kg tương đương với 8.000 – 9.000 đồng. Giờ công của thợ xây đã lên 300.000 đồng trong khi thu nhập từ làm ruộng vẫn chỉ 8.000 – 9.000 đồng/ngày, chênh lệch chừng 30 lần mà dịch bệnh mỗi lúc một nhiều, đầu tư cho sản xuất mỗi lúc một cao. Vụ lúa mùa nhiều hộ đã bỏ còn vụ đông thì cả xã bỏ”, ông kể.

Chính nhờ vụ ngô đông trên nền đất ướt mà HTX Hợp Thịnh được phong anh hùng, Chủ nhiệm về sau thăng tiến lên thành Chủ tịch tỉnh. Ông Phùng Đắc Thái – nguyên Bí thư xã giai đoạn 1988 – 2005 hồi ức: Trước khoán 10 dân chán ruộng vì không thấy quyền lợi gì ở trong đó, ngày công chỉ có 2 – 3 lạng thóc. Chính quyền mới nghĩ ra cách phân loại lao động A, B, C theo giấy khám sức khỏe do Trạm trưởng Trạm Y tế xã cấp.

A phải cấy 1,2 mẫu, B phải cấy 7 sào còn C chỉ cấy 5 sào. Trong dân cứ râm ran đồn anh này, chị kia giả ốm hoặc biếu xén cái gì đó để xin được xuống hạng B, C. Hồi ấy, ông Thái đang là Phó Chủ nhiệm HTX phụ trách lao động, mỗi tháng phải ký duyệt vào chồng đơn dày cộm của các xã viên nên cũng có nghe phong thanh về chuyện đó nhưng chẳng biết thực hư thế nào.

Mức thu sản nặng nề, nhiều gia đình không thể nộp nên cứ đến mùa số quạt máy, đài, xe đạp, giường tủ, bàn ghế… lại chất đầy kho HTX. Trong giấy tờ của những gia đình này đều bị ghi dòng chữ: “Không chấp hành chủ trương, đường lối của nhà nước” khiến cho con cái họ đi đâu, làm gì cũng khó. HTX khi đó quản lý cả đất ở, đất nông nghiệp lẫn các ngành nghề, quyền hành của Chủ nhiệm còn bao trùm cả Chủ tịch xã.
Đói, đầu gối phải bò. Xã viên lũ lượt trốn đi làm thêm. Đàn ông thì xây, đàn bà thì chạy chợ khiến cho chính quyền phải cắt cử cả một đội bảo vệ đông tới 20 người ngày đêm chốt chặn các trục đường mà cũng không xuể. Kẻ nào chẳng may bị bắt phải viết kiểm điểm, nếu cố tình không chịu lao động phải è cổ đóng nghĩa vụ quy ra tiền tương đương 15 – 20 công. Vợ ông Phó Chủ nhiệm cũng đêm đêm hòa theo dòng người bí mật lẻn sang thị trấn Hương Canh của huyện bên mua chum vại rồi ngược lên tận Bắc Hà (tỉnh Lào Cai), Sơn Dương (tỉnh Tuyên Quang) đổi sắn chống đói…

Con bù nhìn cắm trên thửa ruộng hoang ở huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ (ảnh) .

Khoán 10 như một cây đũa thần biến đổi người nông dân từ ghẻ lạnh sang nặng tình với đất. Mùi bùn non mới ngấu, mùi rơm rạ mới gặt, mùi lúa mới phơi quyến rũ họ hơn bất cứ thứ mùi gì trên đời. Không một thước đất bị bỏ phí. Ngoài hai vụ lúa, dân Hợp Thịnh còn tiên phong sáng tạo nên vụ ngô đông trên nền đất ướt, mở ra một cuộc cách mạng mới về lương thực cho toàn miền Bắc đang đói kém theo công thức sáng gặt lúa, chiều trồng ngô bầu.

Đất ruộng có hạn, ông Phùng Văn Gia ở thôn Thọ Khánh đã thử nghiệm trồng ngô cả dưới…ao. Tát cạn nước, ông cắm bầu xuống bùn nhưng vì ngộ độc nên thân cây cứ còi cọc mãi. Khi thay đổi đủ mọi cách chăm sóc, tình cờ ông phát hiện ra ngâm nước tiểu với tro bếp, kali để bón thì ngô mới chịu được bùn. Vậy là từ đó người người tiết kiệm từng giọt nước tiểu đến mức đi chơi nhà hàng xóm mót đái mấy cũng cố nhịn để dành cho cái vại tro ở nhà mình. Gia đình nào cũng nuôi trâu bò để lấy sức kéo đồng thời khai thác thêm phân, nước tiểu.

Họ tát cạn hết các ao chuôm trong làng, vun bùn thành luống để trồng ngô. Khi có đoàn khách 14 tỉnh thành miền Bắc về tham quan, dân Hợp Thịnh còn bàn với đại biểu Hà Nội rằng: “Hồ Giảng Võ của các bác nhà em cũng có thể trồng ngô được”. Tiếng tăm về vụ ngô đông của xã còn bay cả đến tai đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thủ tướng Võ Văn Kiệt…

Sau mỗi vụ, nhà ai cũng mọc lên 5 – 7 “bông hoa ngô” là những thân cây tre được dựng thẳng trên đó ngô buộc cả bắp, lớp lớp, chùm chùm. Hai vụ lúa phải đóng thuế nên chỉ đủ ăn còn vụ ngô đông được miễn là nguồn chi tiêu cho cả gia đình. Có ngô là có quần áo mới, có học phí đóng cho con, có một cái tết ấm no với chai rượu cam, gói mứt, 1 – 2kg thịt bồm (thịt vụn), 1 – 2 lạng chè bồm (chè vụn) cùng 1 – 2 gói chè Hồng Đào giêng hai dành để mừng thọ… 

Ngao ngán nỗi ruộng đồng

Tối hôm ấy tôi ngủ lại nhà lão nông tri điền Nguyễn Văn Hùng ở thôn Tân Thịnh để nghe đầy tai nỗi ngao ngán ruộng đồng. Thủa nào cứ 3h sáng hai bố con đã thức dậy rồi theo xe trâu gà gật ra đồng cày, tối đến lại tranh thủ đeo đèn cấy cố mà giờ vụ này nhà ông Hùng chỉ cấy vài sào ruộng cho đủ ăn. Trưởng thôn Lê Quốc Sơn nhẩm tính thôn có 20/150 mẫu đang bỏ không ở các xứ đồng Lỗ Chối, Sống Mé, Cống Ma…

Phùng Đắc Sơn: “Bà con cứ bỏ hoang ruộng kiểu xôi đỗ, chỗ này một mảnh, chỗ kia một mảnh nên nhiều người gọi cho mượn em cũng đành chịu” (ảnh)

“Làng có láng giềng làng. Đồng có láng giềng đồng”. Những thửa ruộng hoang là nơi trú ngụ của chuột bọ, sâu bệnh để tấn công sang thửa ruộng còn cấy khiến cho vụ sau lại phải cùng bỏ hoang tiếp. Trong chừng 350 lao động nông nghiệp của làng hiện chỉ có 2 người trẻ là Phùng Đắc Sơn và Nguyễn Văn Thành.

Sơn vốn là công nhân nhưng xin nghỉ về làng sắm máy móc, thuê 4ha đất với giá chỗ tốt 50 – 70kg thóc/sào/năm, chỗ xấu 30 – 40kg thóc/sào/năm để trồng ớt, đu đủ và lúa đặc sản. Lăn lộn cùng với thiên tai, dịch bệnh, được mùa mất giá, tính ra lờ lãi cũng được khoảng 200 triệu/năm.

Nở nụ cười rất sáng trên khuôn mặt đen nhẻm, Sơn bảo: “1 lao động nông nghiệp nếu có đủ máy móc phải làm khoảng 2ha mới cho thu nhập bằng 1 công nhân nhưng vì tiếc ruộng hoang mà em cố. Khổ nỗi đất bà con cứ bỏ hoang kiểu xôi đỗ nên nhiều người gọi cho mượn cũng đành chịu”.

Ông Nguyễn Văn Trình thở dài: “Nhà tôi có 7 sào, chỉ cấy một vụ xuân mà còn thừa thóc ăn đến vụ xuân sang năm. Mất mùa với người nông dân giờ cũng không phải cái gì ghê gớm nữa bởi đi ăn 4 cái đám cưới đã tốn 800.000 đồng rồi, bằng hơn 1 tạ lúa. Xưa đến mùa còn phải đi canh trộm giờ lúa cứ phơi ngoài đường cả tấn, tối đến chỉ phủ bạt lại phòng sương chứ chẳng ai thèm xúc trộm. Ngay cả đến ăn mày hai năm nay cũng chê không nhận gạo nữa mà chỉ lấy tiền mặt. Mức cho thấp nhất cũng phải 10.000 đồng. Nếu ai cho 5.000 đồng thì vừa ra đến cổng đã có tiếng nói xéo: “Cho thế này chẳng mua nổi một hai que kem”.

Ruộng hoang bỏ nhiều chỗ nhưng trên giấy tờ lại không hề thể hiện, ngay cả cán bộ Phòng Nông nghiệp Tam Dương cũng khẳng định rằng không. Tích tụ đất đai khó khăn khiến cả huyện mới chỉ có 1 mô hình mang chút công nghệ cao là trang trại rau hoa 2ha của anh Đỗ Trung Kiên ở thị trấn.

Chị Nguyễn Thị Chung có 5 sào ruộng chỉ cấy 2 sào còn 3 sào cho một công ty thuê trồng dược liệu. Nhà có 4 khẩu, chồng đi xây, 2 con đi công nhân còn chị đi thêu cho một công ty ngoại quốc. Công việc khá nhàn hạ, làm 8 tiếng được 135.000 đồng còn tăng ca mỗi tiếng được thêm 30.000 đồng, cuối tháng lĩnh trung bình 5 – 6 triệu.

Tuy nhiên, ngày 1/5 vừa qua, 22 chị em tuổi từ 50 như chị đã bị sa thải đột ngột với lý do là kém mắt, kém sức nhưng thực ra là để không phải tăng lương. Sau 10 năm gắn bó họ vẫn không hề được đóng bảo hiểm mà chỉ hợp đồng theo thời vụ 3 tháng một. Mỗi đợt trên về kiểm tra định kỳ thì công ty lại báo cho nghỉ, kiểm tra đột xuất thì bảo lẻn trốn về từng người… 

Gánh nặng trên đôi vai
Lão nông Nguyễn Anh Đài ở thôn Thọ khánh tâm sự rằng ngày trước không biết nghị lực ở đâu, sức mạnh ở đâu mà gia đình mình có thể cấy tới 2,8 mẫu ruộng trong khi chỉ có mỗi đôi bàn tay trắng. Không có đồng hồ nên vợ chồng ông trông vào ánh trăng để thức giấc, ăn chập chuội bát cơm nguội rồi đi làm. Có buổi cày xong 2 – 3 sào ruộng rồi mà mãi vẫn không thấy mặt trời đâu, hóa ra cả hai đã bị ánh trăng sáng đánh lừa.

Anh Hùng đi trên thửa ruộng hoang chỉ còn sót lại ít lúa chét từ vụ trước ở khu đồng Sậy  (ảnh)

Giờ thì ông bà vẫn làm ruộng nhưng trong cơn chán nản: “Con trai tôi làm kẻ biển quảng cáo, con dâu làm thợ may, mỗi tháng chúng kiếm được 14 triệu đồng tương đương với 2 tấn thóc trong khi bố mẹ cấy 8 sào, trừ hết các khoản mỗi vụ không lãi nổi 100.000 – 200.000 đồng. Thằng con tôi cày không biết, ngâm ủ mạ không biết, cấy không biết, đến cào lúa cũng không biết cách cầm bàn chang, nó bảo: “Nắng lắm! Bố cứ đi thuê hết đi, con trả tiền!”. Lớp già bỏ ruộng thì xót nhưng cánh trẻ không gắn bó như nó sao thấy chạnh lòng được?

Hợp Thịnh có 230 ha lúa, vụ này bỏ khoảng 30ha. Chán nhưng nông dân không dễ “nhả” ruộng ra cho người khác thuê. Cách đây 2 năm có công ty về muốn thuê 10ha đất trồng rau, trả tới 140kg thóc/sào/năm và cam kết sử dụng lao động địa phương. Họp xã, họp thôn, họp lên, họp xuống cuối cùng vẫn không thuyết phục được dân nên doanh nghiệp đành phải ngậm ngùi rút.

Tôi gặp Nguyễn Ngọc Hùng khi anh đang vác cái thuyền trên lưng như một con rùa vác cái mai khổng lồ. Chỉ cho tôi 7 mẫu ruộng bỏ không ở đồng Sậy ngay dưới chân mình, anh tiếc rẻ: “Của 100 hộ đấy, tôi định hỏi thuê rồi sắm máy móc trồng một vụ lúa, thả một vụ cá nhưng nhà đồng ý, nhà lại không…”.


Anh Hùng bơi thuyền kiểm tra cá thả trên ruộng hoang ở khu đồng Sậy (ảnh)

Xưa thiếu việc làm nên nông dân sống chết bám vào đồng ruộng, ngay cả muốn đi phụ vữa cũng phải sắp cái lễ gồm ván xôi, con gà, chai rượu đến bàn thờ tổ nhà ông thợ cả. Giờ có quá nhiều việc để lựa chọn, thợ cả sáng phải đến tận cổng nhà mời ăn, chiều mời đi uống, thợ chỉ việc xỏ tay túi quần mà chẳng cần mang theo thùng đồ nghề gì nữa.

[Bài II] Khi đồng ruộng không khác Viện Dưỡng Lão

Nông nghiệp Việt Nam cập nhật: 13:05, Thứ 4, 24/07/2019
Những khuôn mặt già nua, những đôi mắt đục mờ chẳng còn lóe lên tia hi vọng, cảm giác cả cánh đồng bao la ở phường Hội Hợp của thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc là một viện dưỡng lão khổng lồ, chán chường và buông xuôi.

Làm lúa mỗi ngày thu nhập 2000đ/sào

Bà Liên ở phường Hội Hợp đang buộc lại hàng rào ni lông chống chuột quanh ruộng nhà mình (ảnh)

Trên bờ, cây xấu hổ ken dày cao ngang bụng người, dưới ruộng cỏ dại mọc đua chen cùng với lúa, lố nhố những vết răng chuột gặm ngang thân, xén ngọt như có máy cắt. Bà Phùng Thị Liên 63 tuổi ở xóm An Phú đang đi kiểm tra hàng rào ni lông quây quanh ruộng nhà mình xem có thủng chỗ nào không mà đã bị phá đến non nửa.

Nhà bà có 7 sào ruộng, vụ này cấy 3 sào còn bỏ trắng 4 sào. “Giờ cái gì giá cũng cao, cày bừa lên 180.000 đồng/sào, cấy lên 300.000 đồng/sào… Chuột phá quá nên tôi phải đi nhặt hết thân lúa bị cắn vứt đi rồi quãi thêm tí phân vào xem có được cây nào thì ăn cây đấy vậy!”. Bà than thở. 

Sản xuất nông nghiệp hiện nay đã nhàn hơn ngày trước nhiều. Cày, cấy, gặt những công đoạn nặng nhọc nhất của nhà nông phần lớn dân làng đều thuê cả, đến mùa xe lôi kéo lúa về tận cổng nhà, chỉ mỗi việc phơi xong rồi đút vào hòm. Thế mà nhiều nhà vẫn bỏ ruộng hoang do công sức và thu nhập không gặp nhau.

Bà Liên ở phường Hội Hợp đang vơ đám lúa bị chuột cắn ngang thân (ảnh) .

Hơn thế việc nhà nông toàn những thứ lặt vặt nhưng bìu díu nhau nên dù ra đồng 1 tiếng cũng là mất nguyên nửa buổi chẳng thể làm nổi việc gì khác ra tiền. Hiện giá đền bù mỗi sào ruộng ở Hội Hợp chỉ 83,7 triệu nhưng vẫn nhiều người mong ngóng công nghiệp, đô thị vào lấy vì gửi tiền đó vào trong ngân hàng còn lãi hơn trực tiếp trồng lúa.

Ông Nguyễn Gia Bảo – Chủ tịch Hội đồng quản trị HTX Nông nghiệp Hội Hợp trăn trở: “Dân bỏ ruộng một vụ là dấu hiệu sẽ bỏ ruộng lâu dài. Cánh đang làm ngày càng già, càng yếu rồi sẽ mất dần đi còn cánh trẻ lại không còn ham muốn. Đến như hai con của tôi cũng chẳng đứa nào thèm làm ruộng cả…”.


Ông Bảo – Chủ tịch Hội đồng quản trị HTX Nông nghiệp Hội Hợp bên một thửa ruộng tuy gieo trồng mà cỏ còn mọc tốt hơn cả lúa.

Hội Hợp chính là phần tách ra của xã Hợp Thịnh nổi tiếng năm nào về chuyện làm vụ đông, HTX từng được phong tặng Anh hùng lao động. Ánh hào quang thủa xưa nay đã lịm tắt.

Ông Nguyễn Tuấn Hải – Bí thư kiêm Chủ tịch Hội Hợp cắt nghĩa: “Người nông dân bỏ ruộng lỗi một phần của chính quyền bởi tuyên truyền chưa tốt, chưa làm thay đổi nhận thức được của nhân dân cộng với chưa thực hiện được dồn điền đổi thửa  khiến ruộng đồng quá manh mún. Nhưng cái chính là do hiệu quả của việc trồng lúa hiện nay đang quá thấp, tính chi li ra cấy lúa giỏi mỗi vụ 1 sào thu được 2,5 tạ thóc, trừ chi phí hết hơn 1 tạ, lợi nhuận trên mỗi ngày chỉ còn được khoảng 2.000 đồng”.

Khó ngăn cản

Nông dân ở đây đang được hưởng khá nhiều ưu đãi như miễn thủy lợi phí, mua phân bón chậm trả, cải tạo giao thông, thủy lợi nội đồng, có bảo vệ ngày đêm ngăn trâu bò phá hoại nên sản xuất không phải suy nghĩ… thế mà vẫn bỏ ruộng.

Vụ mùa năm 2018 phường Hội Hợp bỏ 170ha, vụ mùa năm nay bỏ khoảng 100ha trên tổng diện tích 200ha khiến cho đích thân Bí thư Thành ủy yêu cầu phải khắc phục: “Theo quy định của nhà nước bỏ ruộng 1 năm thì mới bị thu hồi đất nhưng người dân ở đây chỉ bỏ có một vụ nên chúng tôi không biết phải xử lý thế nào”, ông Hải băn khoăn.

Công nghiệp như thỏi nam châm khổng lồ hút rỗng nhân lực của các làng xã. “Đói” lao động nên giờ các công ty về Hội Hợp tuyển vét  bằng cách hạ tiêu chuẩn đến mức thấp nhất, trên 40 tuổi cũng lấy, học chỉ xong cấp II, thậm chí cấp I cũng lấy. Trước nguy cơ ruộng hoang lan tràn, chính quyền kêu gọi doanh nghiệp, cá nhân vào thuê đất nhưng chỉ được hơn 7ha.

Cỏ dại mọc đầy ven đường nội đồng ở phường Hội Hợp (ảnh) .

Đằng thẳng ra mà nói, năm 2016 cũng có một công ty muốn làm ăn lớn là DKC ở huyện Yên Lạc về Hội Hợp thuê 80ha trồng bí. Ngặt nỗi chi phí sản xuất lớn mà sản phẩm bán ra rẻ mạt 2.000 đồng cũng chẳng có ai thèm mua nên được một vụ là phải bỏ để mặc dân thích hái bao nhiêu thì hái. Hội nghị mở rộng của Đảng ủy phường ông Bí thư phải vò đầu bứt tai trước nhiều câu hỏi rằng bí đỏ đang để chật hết gầm giường nhà dân lẫn nhà cán bộ mà không biết giải quyết thế nào?

Hiện nông nghiệp chỉ chiếm 2% trong cơ cấu kinh tế của Hội Hợp. Ông Hải ước tính khoảng 90% người làm nông bây giờ để lấy cái ăn, chỉ 10% là xác định có thể làm giàu. Bởi thế thuyết phục nông dân bám ruộng mà nói đến góc độ kinh tế là thua mà phải “đánh” vào tình cảm.

Cứ gần đến ngày mùa, đảng ủy phường lại nhắc các chi bộ triển khai công việc nông gia đến những đảng viên bên dưới. 5 ban ngành đoàn thể cũng xúm lại họp bàn để mà cùng giúp sức cho ủy ban. Ngoài đồng biết nhà ai có lúa chín rũ chưa gặt là các tổ liên gia của ngõ lại đến nhắc nhở từng hộ: “Trai tráng khỏe khoắn thế này ngày mùa về anh giúp vợ con một tí đi chứ! Miếng chín rồi đừng để nó rụng rơi”. 

Phường dành sẵn 1/3 diện tích đường, dành luôn cả sân vận động để cho dân kịp phơi thóc. Nhưng không khí chộn rộn của những ngày mùa xưa cũ khi ai ai cũng háo hức đợi chờ đến ngày được ăn no, được bán thóc đi mua sắm  quần áo mới chẳng bao giờ có thể trở lại nữa. Có chăng chỉ là sự trễ nải, ơ thờ.  

Trên kêu gọi xây dựng cánh đồng mẫu lớn nhưng Hội Hợp lại có hàng ngàn mảnh ruộng rải rác khắp các xứ đồng, có mảnh nhỏ đến nỗi máy cày xong vẫn còn chành ra 4 góc không thể xoay được buộc người phải cầm cuốc ra làm nốt. Để gỡ bí cho việc dồn điền đổi thửa xã đã vời cả giáo sư ở một viện chính sách về phân tích cho bà con mặt lợi, mặt hơn.

Tuy nhiên theo ông Hải thì: “Người Việt mình vốn sợ sự chuyển đổi, sợ cái mới. Định làm cái gì cũng sợ thiệt, định nuôi con gì, trồng cây gì cũng sợ gặp rủi ro nên chỉ thiên về kiểu cũ, bởi thế đến giờ 60% diện tích của Hội Hợp vẫn còn cấy Khang Dân (giống lúa nhập khẩu có tuổi đời cỡ trên dưới 30 năm) năng suất không cao, cơm ăn không ngon nhưng được cái là dễ làm”.

Sức nóng ở Vĩnh Tường
Còn nóng hơn cả tiết hè oi ả của năm nay là tình hình ở huyện trọng điểm lúa Vĩnh Tường nơi vụ này đang bỏ trên dưới 700ha. Đây cũng là địa phương đầu tiên thí điểm dồn điền đổi thửa của tỉnh Vĩnh Phúc nhưng gặp vô vàn vướng mắc, đặc biệt là tại Phú Đa. Giao ruộng muộn cộng với tâm lý bất mãn nên dân xã này chỉ cấy có 44/210ha…

Tổng hợp tiến độ gieo trồng vụ mùa năm 2019 của Vĩnh Phúc tính đến ngày 7/7 chỉ thực hiện được 24.138/25.700ha kế hoạch, nhiều huyện thị đạt kém là Vĩnh Tường 83,7%, Yên Lạc 89,4%, Vĩnh Yên 90%…

Anh Nguyễn Văn Tứ – Phó chủ tịch xã Yên Lập kể, nước dẫn vào tận ruộng, nông dân được hỗ trợ 70% giá trị giống nhưng chỉ đăng ký 3,8 tấn, có hộ ném mạ rồi bỏ không cấy.

Trên hỗ trợ thuốc diệt chuột, xã mua lúa rồi giao cho trưởng thôn, phó thôn luộc lên, đeo găng tay vào mà trộn bả xong gọi dân đến lấy nhưng cũng có hộ không đến, cán bộ phải đi rải hộ.

Vụ mùa năm 2018 Yên Lập bỏ 20ha, vụ mùa năm nay bỏ chừng 60 – 70ha. Hội nghị nào từ xã đến thôn đều lồng ghép chuyện chống bỏ ruộng mà vẫn đành chịu vì vụ mùa hay bị ngập do nước sông Phan tràn vào, vì nhiều sâu bệnh, chuột bọ…


Tôi gặp bà Bùi Thị Ninh người thôn Phủ Yên 3 khi đang gò lưng đẩy xe chở mấy phân chuồng đi quãi cho lúa. Đồng trên bà bỏ trắng 3 sào, đồng dưới bà chỉ cấy 1 sào còn 2 sào gặt xong chờ để lúa rong (lúa chét tái sinh). Đồng làng giờ nhiều nhà bỏ hóa, cấy một mình chuột bọ dễ sinh sôi nên vụ này bà cũng chẳng có hi vọng.

Cạnh đó, bà Khổng Thị Hoạt 63 tuổi người cùng thôn đang rẫy lớp lúa lơ thơ còn sót lại để trồng 8 thước bí, mồ hôi ướt đẫm mặt dưới  chiều hè nắng quái. Bà có 5 người con, 4 gái đã yên phận nhà chồng giờ chỉ còn hi vọng mỗi thằng út là có thể tiếp nối nghiệp. Ngày bé nó cấy rất dẻo hệt như mẹ nhưng càng lớn càng căm ghét ruộng đồng, cứ nằng nặc đòi đi sang tận Bắc Ninh làm công nhân.

Già cả không thể kham nổi hơn 5 sào ruộng nên bà Hoạt mới cho người ta mượn 3 sào ruộng thả bèo làm thức ăn cho cá còn cấy 2,6 sào để lấy thóc ăn.

Gương mặt đẫm mồ hôi của bà Hoạt bên mảnh ruộng bỏ hoang (ảnh) .

Vụ xuân năm ngoái ngoài đổ đầy được cái hòm 5 tạ bà còn dư ra một bao thóc nhưng vụ mùa sau đó lại dính sâu bệnh thất thu đến nỗi phải đi ngắt từng gié, từng bông một, không buồn gặt. Bởi thế, vụ mùa này bà bỏ không cấy, cặm cụi vỡ ít đất chuyển sang trồng bí lấy ngọn mong có chút tiền tiêu. 10 ngọn bí có giá 2.000 đồng, một buổi còng lưng hái giỏi được 200 ngọn tương đương với 40.000 đồng mà cũng chỉ thu được 4 đợt là tàn cây.

Không có sổ tiết kiệm hay khoản tiền lận lưng đáng kể nào, tài sản lớn nhất của nhà bà là chiếc xe máy trị giá 18 triệu. Vì vậy, mọi chi tiêu đều phải tằn tiện. Sáng họ ăn cơm nguội, trưa chiều bữa đậu, bữa rau, thi thoảng mới được tí thịt nên trung bình mỗi ngày chỉ tiêu hết có 15.000 – 20.000 đồng. Đến bữa, hai vợ chồng già cùng người bà chị chồng ngót 80 tuổi bày ra ba cái bát, ba đôi đũa rồi ngồi lặng lẽ ăn.

Hai ba tháng thằng con bà mới từ Bắc Ninh về thăm một lần rồi lại quầy quả đi ngay. “Sức chúng tôi còn làm được mấy hơi nữa hả chú? Vài năm nữa có khi đi còn chẳng nổi thế mà gọi thằng út bảo về làm ruộng, lấy vợ thì nó giẫy nẩy lên. Năm nay nó đã 26 rồi chứ còn bé bỏng gì…”.

Bà Hoạt đang khai hoang ít đất để trồng bí (ảnh) .
Việc tích tụ ruộng đất ở Vĩnh Phúc đang gặp nhiều khó khăn bởi lý do chính là nhiều nông dân chán nhưng vẫn chưa hoàn toàn bỏ ruộng mà phổ biến chỉ bỏ vụ mùa, vụ đông hoặc bỏ hoang một phần, vẫn sản xuất vụ xuân để lấy thóc ăn cho cả năm nên chưa muốn cho thuê dài hạn hoặc chuyển nhượng. Tính đến nay diện tích tích tụ của toàn tỉnh ước chỉ đạt khoảng 4 – 5%. 

[Bài III] Xã bỏ 100% vụ mùa, có cho tiền dân cũng không cấy

DẠY VÀ HỌC theo Báo Nông nghiệp Việt Nam 25/07/2019, 14:25 (GMT+7). Anh Nguyễn Tiến Hưng – Chủ tịch xã Phù Ninh (huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ) – tươi cười khẳng định với tôi rằng: “Bây giờ nếu có cho thêm 200.000đ/sào bảo cấy vụ mùa, dân chúng tôi cũng không cấy nữa”. Ngay cổng Ủy ban xã là một cánh đồng bát ngát cỏ hoang dễ đến 10 vụ mùa nay như minh chứng cho câu nói của anh.

Cố cấy vụ mùa là gieo nợ

Một con bù nhìn của vụ trước còn sót lại trên thửa ruộng hoang ở xã Phù Ninh (ảnh) .

Đây là năm thứ tư liên tiếp Phù Ninh bỏ 100% vụ lúa mùa. Trước đây mỗi vụ xã thường cấy cỡ 110 ha nhưng rồi cứ xuống thang dần, 90, 80, 70, 50 ha…và năm 2015 đã đánh dấu cho sự chấm hết của thói quen này.

Vụ đó, thấy người dân và cán bộ đều uể oải với lúa mùa, lãnh đạo xã đã phải trích khẩn một khoản ngân sách khoảng 40 triệu ra sang Thái Nguyên mua 2,5 tấn giống Bao Thai về cấp không. Loa phát thanh ời ời thúc giục, dân người làm người bỏ nhưng Đảng viên, cán bộ trong Đảng ủy, Ủy ban cũng như các chi bộ bên dưới thôn xóm đều phải răm rắp chấp hành. Bản thân nhà anh Chủ tịch xã cũng cấy dù cho vợ con có đôi chút cằn nhằn.

Anh Nguyễn Tiến Hưng (ảnh), Chủ tịch xã Phù Ninh, không phải ngẫm ngợi lâu trước câu hỏi tại sao bỏ ruộng của tôi mà trả lời thẳng: “Để ruộng không là lựa chọn của người dân. Bỏ một đồng chi phí ra mà không thu nổi một đồng về thì có ép cũng chẳng thể được. Người dân đã đúng! Nếu cứ bắt cấy tiếp vụ mùa thì chẳng khác nào gieo nợ cho họ”.

Nhưng bao công sức bỏ ra lại không được trời thương. Vụ mùa đó khi dân vừa cấy nước đã ngập băng đồng phải gieo lại mạ, khi lúa đang chuẩn bị trổ bão tố lại kéo về. Cuối vụ, nhiều nhà không được nổi một cọng rơm còn phổ biến năng suất chỉ rơi vào cỡ 70-80 kg/sào. 2 sào cấy cố của nhà Chủ tịch xã thu được 1,5 tạ thóc, tính ra lỗ mất gần 200.000đ còn toàn dân vụ đó lỗ khoảng 200-300 triệu. Vậy là bỏ, bỏ trắng hết!

Mấy năm đầu bởi Phù Ninh bỏ hết vụ mùa, Huyện ủy, Ủy ban huyện giục giã rất căng, xếp loại Đảng bộ không bao giờ lọt vào vòng khen thưởng. Nhưng giờ mọi thứ đã dần nguôi vì đã quen. Anh Nguyễn Tiến Hưng, Chủ tịch xã Phù Ninh, phân tích: Xưa không có công ăn việc làm nên phải bám vào đồng ruộng, phải tận dụng trâu bò lấy sức kéo, lấy phân.

Ngày nay có quá nhiều công việc để cho nông dân lựa chọn. Làm ruộng giờ hầu hết các công đoạn đều đi thuê, chi phí sản xuất cao, giá thóc gạo lại rẻ nên họ bỏ luôn vụ mùa.

Vụ xuân cỡ 10 năm nay tuy vẫn cấy nhưng gần như không còn ai đeo bình đi phun thuốc trừ sâu nữa bởi sợ độc hại, ngay cả rau màu cũng thế…Lao động đi hết, đến mùa gặt toàn thuê dân ở nơi khác, có lúc gấp quá còn phải nhờ cả đơn vị bộ đội gần đó giúp một tay.

Chẳng lăn tăn an ninh lương thực

Bỏ vụ mùa 100% nhưng vụ xuân Phù Ninh lại cấy hơn 100% diện tích bởi một số mượn thêm được những thửa ruộng giáp ranh của người dân xã An Đạo kề bên, ngại cấy vì quá xa làng.

Như nhà anh Chủ tịch xã cấy 4 sào lúa xuân thu được 1 tấn thóc cộng với để lại gốc rạ cho lúa chét tái sinh 30 ngày sau thu tiếp được 2 tạ nữa. 4 khẩu trong gia đình  anh cùng với đàn gà nuôi ăn mãi cũng chưa hết được. Đó là chuyện lương thực của một nhà, còn của ngàn gia đình trong xã thì sao, tôi hỏi.
Anh Hưng đưa cho tôi bài giải đã có sẵn ở trong đầu mình: Bỏ vụ mùa nên tổng lượng thóc và ngô của Phù Ninh giờ chỉ còn khoảng 1.400 tấn/năm hụt so với trước đây chừng 200 tấn. Tuy thế, vẫn còn thừa để nuôi 4.600 khẩu nông nghiệp của xã với định mức trung bình 2,6 tạ/người/năm

Nhờ có bà con bỏ ruộng mà anh Khôi mượn được 9 ha để thả cá vụ (ảnh).

Chất lượng cuộc sống tăng lên, 200 tấn thóc thiếu so với trước đây khi còn cấy vụ mùa suy cho cùng cũng chỉ bằng giá trị của một căn nhà trung bình trong làng, cỡ 1,2 tỉ. Ở quê tôi giờ toàn người già với trẻ con, chỉ ngày chủ nhật mới thấy bóng thanh niên.

Bởi thế mọi lịch họp hành, mọi đám cưới cũng phải bố trí vào ngày đó. Còn đột xuất như đám ma thì trưởng khu phải đánh kẻng lên để tập hợp mấy ông trung niên đến mà khiêng giúp…

Từ hồi toàn dân không chịu cấy vụ mùa nữa, đại lý vật tư nông nghiệp cấp làng của ông Nguyễn Xuân Thị ở khu 12 ngoài bán phân còn trưng lên tấm biển thu mua đồng nát để kiếm thêm đồng ra, đồng vào.

Trước đây mỗi khi vào vụ, ông bán phân theo bao, tháng cũng được khoảng 1-2 tấn các loại, giờ dân chỉ mua lẻ theo cân về bón rau, tháng  bán được có 2-3 tạ.

Hỏi chuyện ruộng đồng, ông vui vẻ mà rằng: “Bài toán lợi ích cả thôi. Vụ xuân cấy đủ ăn cả năm rồi, vụ mùa cố cấy làm gì khi sâu bệnh nhiều, có năm không được gặt mà phải đi ngắt từng bông, chẳng hiệu quả bằng để lúa tái sinh? Như nhà tôi 3 người cấy một vụ đã thừa ăn rồi…”.

Đại lý vật tư nông nghiệp của ông Nguyễn Xuân Thị ở khu 12 giờ thu mua cả đồng nát. (ảnh)

Toàn dân bỏ vụ mùa tạo điều kiện thuận lợi cho một số nhà mượn lại ruộng để thả cá vụ. Phù Ninh có khoảng 10 mô hình như thế với tổng diện tích khoảng 40 ha, số khác thì chuyển đổi sang trồng màu nên thực tế đồng hoang không làm gì chỉ rơi vào chừng 40 ha.

Anh Khuất Ngọc Khôi – Chủ nhân của hồ cá rộng tới 9 ha ở cánh đồng Chiềng – là một ví dụ tiêu biểu về sự thích ứng với ruộng hoang. Trước đây, ở vụ mùa 1/3 cánh đồng này vẫn còn cấy, nhưng giờ đến vụ, đợi chừng 100 hộ gặt rồi thu lúa chét xong là anh mượn lại ruộng, chặn để trữ nước và thả những con cá giống có trọng lượng 1-2 kg xuống.

Nước được dâng từ từ để ruộng thấp ngập trước, khi cá ăn hết lúa tái sinh, sâu bọ rồi mới dâng nước lên, ngập ruộng cao. Cuối năm anh chỉ việc tháo cạn nước là thu hoạch. Trung bình kiếm được khoảng 150 triệu, sau khi trừ hết chi phí giống 60 triệu còn lãi khoảng 80-90 triệu. Khỏe re!

Người dân khi cho mượn ruộng kiểu này cũng thích bởi nếu bỏ hoang thì đến vụ xuân phải rẫy cỏ, làm đất rất vất vả còn thu hoạch cá xong chỉ việc cào là có thể cấy ngay, hơn thế đất lại tốt hơn vì có nhiều mùn bã. Bờ bao thì trước khi cho mượn dân đã đóng mấy cái cọc tre để làm mốc, sau khi nhận lại chỗ nào bị sạt lở be lại một chút là xong.

Loay hoay giải “bài toán” bỏ ruộng

Lũ trâu vầy bùn trên cánh đồng bỏ hoang ở xã Phù Ninh (ảnh) .

Ngoài Phù Ninh, bỏ vụ mùa còn xảy ra nhiều ở các xã Phú Lộc, Phú Nham…trong đó có những nơi 100% diện tích. Bởi thế, trước mỗi mùa vụ, Huyện ủy đều phải ra nghị quyết chỉ đạo chống bỏ nhưng cũng khó vì xu thế giống như một bánh xe lịch sử đang quay nhanh. Hơn thế, theo quy định về điều kiện để hỗ trợ vật tư, giống phải là phải liền vùng, liền khoảnh có diện tích từ 10 ha mà ruộng hoang thì bà con toàn bỏ kiểu xôi đỗ, chẳng ai thèm nhận cấy.

Trưởng Phòng Nông nghiệp và PTNT Phù Ninh, anh Hán Trung Kết cho hay, kế hoạch vụ này huyện cấy 1.175 ha nhưng mới thực hiện được khoảng 800 ha, bỏ chừng 30%.

Diện tích 30% này cũng không hẳn bỏ hết mà một số được tận dụng để làm lúa tái sinh theo công thức: Gặt lúa bằng tay để tránh nát gốc rạ, quãi 5-7 kg NPK, 2-3 kg đạm rồi cắm cái biển cấm thả trâu bò, đợi 30 ngày sau thu hoạch lúa tái sinh (lúa chét). Với năng suất chừng 50 kg/sào nhân với giá 6.000đ/kg (do tỷ lệ hao hụt cao nên lúa tái sinh có giá bán rẻ hơn lúa cấy-PV) được 300.000đ, trừ chi phí phân mất 40.000đ, gặt mất 1 công 160.000đ, còn lãi được 100.000đ.

Trong khi đó nếu cấy lúa mùa, cày bừa mất 200.000đ, giống 30.000đ, cấy 300.000đ, phân 100.000đ, thuốc 100.000đ, công phun 4-5 lần 100.000đ, thu hoạch 300.000đ… Phần thu được 1,7-1,8 tạ/sào nhân với giá 7.000đ/kg được khoảng 1,25 triệu, sẽ là lỗ nếu phải đi thuê nhiều công đoạn.

3-4 năm về trước, khi tình trạng bỏ ruộng hoang bắt đầu loang ra, tỉnh Phú Thọ đã chỉ đạo Sở Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ thành lập đoàn công tác đi các huyện để rà soát, có biện pháp kìm chế. Nhưng chỉ hãm được tốc độ của “đoàn tàu” bỏ ruộng một chút rồi lại lao dốc tiếp.

Lúc đầu diện tích bỏ vụ mùa vào khoảng 1.000 ha, chủ yếu thuộc các chân đất xấu, trũng cấy lúa bấp bênh, cao quá nước lúc có lúc không hoặc xen kẹt ven đồi, chuột bọ nhiều khi hay quấy phá.

Giờ thì ngay cả những chỗ dễ làm, đất tốt dân cũng bắt đầu bỏ. Theo kế hoạch vụ này tỉnh cấy 29.500 ha nhưng ước chỉ đạt khoảng 28.000 ha, để không chừng trên dưới 1.500 ha trong đó những huyện, thị bỏ nhiều gồm Thị xã Phú thọ, Thanh Thủy, Phù Ninh…, không ít diện tích đã bỏ liền hai, ba vụ.
Một cán bộ nông nghiệp của tỉnh này phân tích với tôi rằng: Chỉ đạo chống bỏ ruộng bằng mệnh lệnh hành chính là rất khó vì ruộng đã giao cho dân rồi, không còn như thời hợp tác xã.

Chuyện bỏ ruộng có hai mặt. Mặt tích cực là chứng tỏ dân đã có tư duy kinh tế, tính đến yếu tố hiệu quả của sản xuất chứ không còn cấy bằng mọi giá, nó thúc đẩy cho việc phải thay đổi cơ cấu cây trồng. Không chỉ có thế, bỏ ruộng theo vụ (chủ yếu là vụ mùa) còn cắt đứt quá trình sinh trưởng của sâu bệnh, lượng thóc thu từ lúa chét (lúa tái sinh) có khi còn lãi hơn là cấy tiếp vụ mùa. Còn mặt tiêu cực là dân bỏ nhưng không trả lại đất, không cho mượn, không cho thuê, không muốn bán nên những người có tâm huyết  không có cơ hội mà tích tụ. Hệ thống thủy lợi bị bỏ lãng phí cả vụ mùa lẫn vụ đông.

Thêm vào đó ruộng hoang là nơi chứa chấp chuột để chúng tràn sang các thưa ruộng giáp ranh còn cấy để cắn phá. Tình trạng dân tự phát bỏ ruộng đã phá vỡ quy hoạch sản xuất lúa của cả tỉnh bởi theo dự kiến năm 2020 diện tích lúa hai vụ của Phú Thọ khoảng 65-66.000 ha nhưng hiện nay đã ở mức dưới ngưỡng và còn bỏ xa trong tương lai.

Ngày 18/6/2019 UBND tỉnh Phú Thọ ra văn bản số 2671 trong đó ghi rõ: “Trong nhiều năm qua, vụ mùa, vụ đông là các vụ sản xuất quan trọng, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho các hộ nông dân, mang lại hiệu quả kinh tế cao…Tuy nhiên trong 2-3 năm trở lại đây tình trạng người dân bỏ ruộng ngày càng nhiều, diện tích cây vụ đông có xu hướng ngày càng giảm nguyên nhân do sản xuất vụ mùa nhiều sâu bệnh, hiệu quả không cao, sản xuất vụ đông nhỏ lẻ, tích tụ đất đai khó…Để phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch sản xuất vụ mùa, vụ đông và cả năm 2019, bù đắp cho ngành chăn nuôi đang bị ảnh hưởng do dịch tả lợn châu Phi… Chủ tịch UBND tỉnh yêu cầu Giám đốc Sở NN và PTNT, thủ trưởng các sở, ngành có liên quan, Chủ tịch UBND các huyện, thành, thị quan tâm chỉ đạo…”.

[Bài IV] Xã có 155 lá đơn xin trả lại ruộng
Báo Nông nghiệp Việt Nam 26/07/2019, 08:01 (GMT+7)

Năm 2013 Báo Nông nghiệp Việt Nam tiên phong viết về nông dân huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương làm đơn xin trả lại ruộng. Vừa qua tôi mới hay một xã ở tỉnh Thái Bình có tới 155 lá đơn xin trả lại ruộng, lá đầu tiên viết cách đây đúng 15 năm.

Những lá đơn đầu tiên xin trả lại ruộng của người dân xã Hòa Bình, viết cách đây đã 15 năm.

Ông Vũ Đình Mầm – cựu cán bộ địa chính xã Hòa Bình (huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình) giở chiếc túi mở cho tôi xem chồng đơn dày cộm. Cái đánh máy, cái viết tay trên giấy học trò. Mấy lá đầu tiên nét chữ siêu vẹo như những luống cày vụng đã nhòe mờ đi còn mấy lá gần đây vẫn còn thơm mùi mực mới. Tôi cùng hai cán bộ nông nghiệp đếm một hồi lâu mới thống nhất chốt ở con số 155 lá đơn. Hộ ít trả lại vài miếng còn hộ nhiều trả lại tới 9 sào.

Hầu như tháng nào ông Mầm cũng nhận được những lá đơn như vậy cho đến tận gần đây. Để tăng thêm sức nặng, phần cuối nhiều lá đơn còn chua thêm dòng chữ: “Nếu về sau Nhà nước có lấy đất với mục đích gì tôi cũng không có ý kiến”.

Thực tế vừa rồi ở Hòa Bình quy hoạch một khu dân cư khoảng 1,5 ha có lấy vào diện tích của những hộ dân đã viết đơn trả lại ruộng nhưng không ai đòi hỏi quyền lợi gì. Dù tiền đền bù ở đây đang vào khoảng 38 triệu đồng/sào cộng thêm một số khoản hỗ trợ khác. Dù xã vẫn còn chừng 2% hộ thuộc diện nghèo.

Có hai loại đối tượng không cấy, thứ nhất viết đơn xin trả lại, thứ hai chỉ bỏ không. Lúc đầu, người ta trả lại một phần diện tích, phần lớn là chỗ đất bạc màu, trũng hay ngập úng hoặc cao hay thiếu nước.

Cấy tay, giờ đây đã rất nhiều người bỏ.(ảnh)

Vài năm gần đây, ruộng tốt, nằm sát chân đường rộng thênh thang vẫn cứ nằng nặc trả, mà trả lại bằng hết. Lúc đầu, đối tượng trả lại là người già hoặc ốm thì giờ đây theo ông Mầm ước đến 60-70% trả ruộng là người trẻ, khỏe để đi làm công nhân hay làm ngoài. Con cái cũng không còn cấy hộ bố mẹ nữa mà chỉ muốn cất khỏi gánh nặng ruộng đồng.

Tổng diện tích làm đơn xin trả lại ruộng của xã khoảng trên dưới 20 ha nằm rải rác khắp xứ đồng. Những lá đơn đầu tiên năm 2004 viết bởi dân thôn Nam Tiền nhưng hiện nay viết nhiều lại thuộc về thôn Việt Hưng. Lẽ thường, có người chán phải có kẻ thèm nhưng suốt 15 năm trời nhận 155 đơn xin trả lại ruộng ông Mầm khẳng định chẳng nhận  một đơn nào xin ruộng cả.

Tại sao là Hòa Bình?

Một người dân đi qua cánh đồng bị bỏ hoang (ảnh) .

Nhiều xã của Thái Bình bỏ ruộng nhưng tại sao lại chỉ có Hòa Bình xuất hiện đơn xin trả lại ruộng? Tôi hỏi một cán bộ nông nghiệp đi cùng thì chị trả lời do lãnh đạo xã này mấy nhiệm kỳ trước muốn quản lý thật chặt chẽ đất đai, lãnh đạo về sau cứ thế mà tiếp nối khiến cho dân quen nề, quen nếp: “Đó là một điều rất tốt để có thể rút đất của người chán ra, kết nối với nhu cầu của người thèm”.

Còn ông Mai Văn Vinh, Giám đốc HTX Dịch vụ Nông nghiệp Hòa Bình, thì giải thích: Tất cả những người không có nhu cầu cấy ruộng cần phải viết đơn để chính quyền tổng hợp lại, tạo điều kiện cho các cá nhân khác có nhu cầu nhận đất yên tâm cải tạo, không lo bị đòi lại giữa chừng.

Theo thống kê của Phòng Nông nghiệp Kiến Xương vụ xuân năm ngoái huyện bỏ 108 ha, vụ mùa bỏ 129 ha… Còn vụ mùa năm nay ước lượng diện tích bỏ cũng tương tự, tập trung ở các xã An Bồi, Bình Minh, Hòa Bình, Thanh Nê, Vũ An, Vũ Quý… trong đó có nhiều ha bỏ hẳn. Toàn tỉnh Thái Bình vụ xuân 2018 bỏ hoang 490 ha tập trung ở Quỳnh Phụ, Kiến Xương, Đông Hưng, Thái Thụy…

Ai mà không có đơn trả lại, vẫn coi như là đang cấy, vẫn phải đóng 3 khoản dịch vụ bắt buộc của HTX gồm thủy nông 13,5 kg thóc/sào/năm (thủy lợi phí đã được miễn nhưng đây là để duy tu hệ thống, tưới, tiêu nước vào ruộng-PV), khoa học kỹ thuật 1 kg thóc/sào/năm, bảo vệ thực vật 1,5 kg thóc/sào/năm. 

Sau khi có diện tích bị trả lại, trưởng thôn được mời lên để bố trí  dồn đổi lại một chỗ nếu có thể. Chuẩn bị vào vụ mới, loa các thôn lại ra rả thông báo ai có nhu cầu nhận ruộng thì đăng ký nhưng chẳng có ai hồi đáp. Điều này khác hẳn với không khí của một thời chưa xa, hồi chia đất năm 1993, khi ruộng đồng và nông dân là một thực thể không thể tách biệt…

Xưa muốn đi làm công nhân phải rời làng lên thành phố, giờ chẳng phải đi đâu, công ty, nhà máy đã về ngay giữa làng. Sáng ăn cơm nhà rồi đi làm, trưa tranh thủ về ăn cơm nhà rồi đi làm tiếp, chiều lại về nấu nướng cho kịp bữa tối để ăn xong còn ghé mắt xem con cái học hành. Mỗi tháng đút túi 5-6 triệu, chẳng rủi ro giông gió, được mùa mất giá như làm nông thì sao lại không chọn?

Kẻ “lạ” về làng

Chị Xá bên những thửa ruộng hoang ở xã Hòa Bình (ảnh) .

Những lúc đi chỉ đạo dịch bệnh, chị Nguyễn Thị Xá cán bộ Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ Thực vật tỉnh Thái Bình thấy xót cho những cánh đồng lau sậy ở xã Hòa Bình. Chị mơ ước khi về hưu sẽ hồi sinh, biến chúng thành cánh đồng lúa chín vàng. Vậy là trước khi cầm sổ hưu, chị đến đặt vấn đề với xã xin mượn đất. Dù khá ngạc nhiên nhưng địa phương vẫn ủng hộ hết lòng về mọi thủ tục. 

Trên cánh đồng hoang đó, diện tích thuộc những hộ làm đơn xin trả lại ruộng thì không vấn đề gì nhưng của khoảng 100 hộ không có đơn  lại khá phức tạp. Thôn phải tổ chức họp để chị Xá gặp gỡ từng người xin chữ ký suốt từ tháng 10 đến tháng 12 năm 2018 mới xong. Tất cả được hơn 10 ha, tương đối liền vùng, liền khoảnh. Lúc này, khó khăn không ở dưới thôn xã nữa mà đến từ phía sau lưng, gia đình chị.

Hay tin vợ mượn đất khai hoang, lo cho sức vóc đã không lấy gì làm khỏe của chị, người chồng lập tức triệu tập ngay hai đứa con trên Hà Nội về họp mặt gia đình và tuyên bố: Nếu mẹ chúng mày không từ bỏ chuyện mượn ruộng thì sau này đừng trách bố…

Đến nước này, chị chỉ còn mỗi nước van xin: “Biến cánh đồng cỏ dại thành cánh đồng lúa chín vàng là ước nguyện của cả đời em. Có gì chỉ mong anh giúp đỡ em về mặt tinh thần mà thôi”. Mềm lòng trước sự tha thiết ấy, người chồng đành gật đầu nhưng chỉ cho chị thời hạn một vụ trong khi hợp đồng mượn ruộng lại kéo dài tới 5 năm.

Lúc đầu máy cắt cỏ xuống làm nhưng lau sậy ken dày tầng tầng, lớp lớp cao gấp rưỡi, gấp đôi thân người, chuột bọ làm ổ lúc nhúc bên trong khiến lưỡi cưa không thể quay nổi. Vậy là chị phải thuê máy có công suất lớn hơn, cắt từng đoạn lau sậy một rồi lôi dần ra. Cắt xong đến đâu, cho máy cày xuống nhưng nó cứ hộc lên như thú dữ, khói phun mịt mù mà chỉ nhúc nhích được chút ít vì rễ cây kết lại dày như những tấm đệm, vơ lại, chất từng đống to như đụn rạ.

Khó khăn nào đâu đã hết, làm đất xong cấy lúa xuống cây mạ cứ vàng như bị luộc vì ngộ độc hữu cơ phải phun chế phẩm vi sinh để xử lý. Rồi úng ngập phải mua mạ cấy dặm, rồi chuột bọ từ các gò hoang xung quanh ồ ạt tràn xuống…

Chị Xá ngập người trong thửa ruộng hoang mọc đầy lau sậy ở xã Hòa Bình (ảnh) .

Đợt mẹ chị ốm nặng, bệnh viện trả về, phải đưa sang cấp cứu ở một bệnh viện khác, thấy vợ cứ cầm điện thoại gọi mua mạ, chỉ đạo cấy, chỉ đạo phun anh chồng đã nóng mắt bảo: “Chẳng lẽ lại đập cái điện thoại đi”. Chị phải vội vã phân bua: “Nếu bây giờ bỏ ruộng mà cứu được mẹ thì em bỏ ngay nhưng em không phải là bác sĩ. Là kỹ sư em có thể cứu được lúa anh à…”.

Khó khăn chồng chất khó khăn khiến chị nhiều phen ngồi khóc tu tu giữa cánh đồng nhưng rồi lại tự động viên mình. Làm ngày làm đêm, đến tối 29 Tết người ta vẫn còn thấy bóng chị ở ngoài ruộng, sáng mồng 3 Tết lại đến tiếp. Chị làm bởi tình yêu ruộng đồng, bởi suy nghĩ mình là cán bộ chỉ đạo nông nghiệp mà thất bại thì dân sẽ cười chê.

Sau bao “giông gió”, vụ đầu tiên chị xuất được trên 30 tấn lúa giống cho một công ty, thu hơn 200 triệu đồng, trừ chi phí cũng lãi khoảng 30-40 triệu. Đến lúc này, chồng chị liền nhắc lại lời hứa lúc nào. Tiếc đứt ruộng bởi khai hoang là công đoạn khó nhọc nhất, tốn kém nhất, bao mồ hôi, nước mắt đã vượt qua vụ đầu thì những vụ sau chỉ việc đều đặn sản xuất rồi thu lời thế mà chị vẫn phải chuyển nhượng ruộng cho một người khác…

Ông Trần Mạnh Báo – Chủ tịch Tập đoàn ThaiBinh Seed: Tôi thấy chuyện bỏ ruộng có nhiều yếu tố tích cực
Ngày nay người nông dân vẫn ở nông thôn nhưng không còn thiết tha với đồng ruộng và con trâu, cái cày. Tuy nhiên, không phải lo lắng về việc họ bỏ ruộng. Điều đó chứng tỏ đời sống nông dân đã thay đổi, đã tốt hơn, không phải lo nồi cơm đầy vơi nữa. Đó là tất yếu của sự phát triển xã hội ở nông thôn, chứng tỏ kinh tế ở khu vực này đã thay đổi về bản chất.

Tôi tin rằng đến một lúc nào đó vấn đề sẽ được giải quyết bằng cách chuyển giao lại đất của những hộ bỏ ruộng sang cho các hộ yêu ruộng. Lao động trong nông nghiệp sẽ ít đi nhưng ruộng đất sẽ lớn lên, phù hợp để tổ chức lại sản xuất.

Đừng sợ tích tụ đất đai sẽ hình thành địa chủ bởi vì ngày xưa địa chủ đi cùng sự bần cùng hóa người nghèo, bóc lột bằng cách cho thuê để lấy địa tô cao. Còn ngày nay Nhà nước làm sao để kiểu bóc lột đó có ngóc đầu lên được? Sự tích tụ đất đai vì thế chỉ là tổ chức lại sản xuất mà thôi.

Tất cả những gì đang diễn ra ở Việt Nam cũng từng diễn ra trên thế giới. Hai năm trước, tôi có dịp sang Mỹ, được cán bộ khuyến nông của trường Đại học Missouri dẫn đi thăm một doanh nghiệp nông nghiệp. Gia đình này đã 5 đời làm nông nghiệp, hiện trở thành một công ty nông nghiệp  có 600 ha đất nhưng chỉ cần 4 người làm. Mọi người trong gia đình làm và hưởng lương theo kết quả làm việc của mình, được chia cổ tức theo cổ phần. Việc hình thành công ty này bắt đầu từ tích tụ đất.

Sau khi kinh tế phát triển, những người nông dân không muốn làm nông nghiệp đã vào thành phố ở và bán ruộng cho những người thích làm nông nghiệp ở lại sản xuất, kinh doanh và chuyển thành doanh nhân nông nghiệp.

Do có diện tích rất lớn nên sản xuất ở đây được cơ giới hoá toàn bộ từ làm đất, tưới nước, phun thuốc trừ sâu, thu hoạch, chế biến đến bảo quản theo một chu trình khép kín với những máy móc hiện đại và được ứng dụng công nghệ mới nhất 4.0. Việc ra đời những công ty gia đình làm nông nghiệp kiểu này ở Mỹ rất phổ biến.

[Bài V] Chuyện đồng ruộng với cựu Chủ tịch tỉnh sống ở giữa làng

Báo Nông nghiệp Việt Nam 29/07/2019, 12:10 (GMT+7)

Khi biết ông chuẩn bị về hưu, có sửa sang lại căn nhà ở quê, một số người quen khuyên: “Không sống được ở làng đâu, anh lên thành phố Vĩnh Yên hoặc ra Hà Nội mà sống”. Ông chỉ cười. “Hết quan, hoàn dân”, lẽ đời là thế nhưng giờ đây ít có quan chức to to nào lại về sống ở giữa làng…

Thước đo lòng dân

Ông Phùng Quang Hùng-cựu Chủ tịch Vĩnh Phúc. Ảnh tư liệu của Kiên Cường. Lời khuyên chân tình đó xuất phát từ thực tế một số lãnh đạo ở các tỉnh, thành một thời “thét ra lửa” nhưng đến khi về hưu, nhà riêng còn bị người đến quấy nhiễu, ném này nọ vào buộc phải chuyển đi. Từ tâm lý khá phổ biến của dân ta bây giờ là rất chăm nghe đài, đọc báo, lướt mạng xem hôm nay có… kỷ luật ai không. Vậy mà, làng đã là điểm tựa để ông vượt qua những sóng gió trên trường đời mà điển hình nhất là vụ bị kỷ luật cảnh cáo khi đã về hưu.

Tôi ngẫm, suy cho cùng, thước đo đúng đắn nhất với cán bộ chính là lòng dân. Về làng, lúc ông làm ấm trà với các cụ già, khi rít điếu thuốc cùng với đám thanh niên, bận rộn nhưng vẫn sắp xếp đi ăn cỗ cưới hầu như không sót nhà nào và cửa vườn luôn mở để đón lũ trẻ vào tập đá bóng. Không gì vui bằng tiếng trẻ con cười giòn giữa một chiều hè lộng gió. Lân la tôi hỏi lý do tại sao xã có hai sân vận động rộng thênh thang mà lại đến đây để đá bóng, chúng hồn nhiên trả lời: “Chú không biết à? Sân này cỏ rất êm lại có sẵn nước lạnh uống miễn phí, thỉnh thoảng còn được cho ổi, khế, xoài nữa…”.

Ông là Phùng Quang Hùng – cựu Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc hiện đang sống ở giữa làng tại xã Hợp Thịnh, huyện Tam Dương nơi năm xưa từng giữ chức chủ nhiệm hợp tác xã, nức tiếng cả miền Bắc với vụ ngô đông trên nền đất ướt. Ngày hợp tác xã đón danh hiệu anh hùng lao động, lợn mổ phát cho toàn dân mỗi nhà 1kg, rượu tưng bừng, sân vận động đặc kín người nghe ca sĩ tận thủ đô về cầm micro biểu diễn. Vậy mà, giờ đây Hợp Thịnh là xã đầu tiên trong huyện bỏ trắng vụ đông, vụ mùa cũng đang bỏ tiếp, chung cảnh ngộ với nhiều tỉnh thành…

Vai trò lịch sử của khoán 10 đã hết

Ruộng đồng manh mún nên thu nhập của nông dân vẫn bọt bèo.

Tôi “vào đề” luôn chuyện nông dân đang chán ngán ruộng đồng, ông trầm giọng rằng chuyện đó không mới vì mười mấy năm trước khi còn làm Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT đã thấy manh nha. Bởi thế nên ông mới nghĩ đến chuyện phải miễn thủy lợi phí cho nông dân bởi nếu không họ sẽ bỏ tiếp: “Vướng mắc ghê lắm vì bỏ thủy lợi phí là chống lại các hợp tác xã bởi đang có thu nhập tốt từ nguồn này. Tôi thuyết phục hội đồng nhân dân tỉnh, chơi bài “khích tướng” với Bí thư, Chủ tịch tỉnh rằng miễn thủy lợi phí không đáng bao nhiêu, tính ra chỉ mất hơn 30 tỉ mà dân ơn các anh cả đời, mà Vĩnh Phúc trở thành địa phương đi tiên phong trong việc này”.

Nhận được sự chấp thuận từ bên trong, bên ngoài ông “đi đường ngầm” với các chuyên gia, các lãnh đạo liên quan đến ngành thủy lợi, vòng cuối cùng mới đến Bộ trưởng Bộ NN-PTNT lúc ấy, ông Cao Đức Phát.

Tại cuộc họp, khi ông đề xuất ý kiến miễn thủy lợi phí ngay lập tức nhiều đại biểu xúm lại phản đối rầm rầm vì bảo đang hội nhập WTO mà hỗ trợ cho nông dân thế là vi phạm. Cũng may trước đấy ông đã cẩn trọng giao cho cấp phó tìm hiểu nát nước các tài liệu xem thế giới này bao nhiêu quốc gia tham gia WTO, bao nhiêu miễn, giảm thủy lợi phí. Châu Á có Thái Lan, Malaysia còn Nga thì miễn một nửa… nên lúc đó mới tự tin “cãi” lý: “Mấy nước đó có phải là WTO hay là WC? Sao họ lại miễn, giảm được thủy lợi phí?”.

Nhóm phản biện đang hăng hái bỗng thấy hớ đành phải ngồi im còn hội trường được một mẻ cười ồ lên khoái trá. “Ông Phát bực lắm, ra giải lao bảo với tôi rằng: “Anh Hùng làm thế này rối tinh, rối mù cả nước lên, không có tiền thủy lợi phí thì lấy nguồn nào ra mà kiên cố hóa kênh mương?”. Tôi trả lời: “Vĩnh Phúc kiên cố hóa xong rồi. Anh không gỡ chuyện thủy lợi phí dân sẽ bỏ ruộng. Quê tôi bắt đầu bỏ ruộng. Thuế nhà nước miễn hết rồi thì đóng thủy lợi phí là khoản đóng góp nặng nhất, 1 sào 20 kg/vụ, không miễn cho dân thì họ thu nhập cái gì?”.

Ông Phát bảo: “Làm gì có chuyện dân bỏ ruộng?”. Vừa hay ông Đặng Kim Sơn – Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Nông nghiệp và PTNT ở gần đó nghe thấy liền nhắc: “Có nhiều tỉnh đã bắt đầu bỏ ruộng rồi anh ạ!”. Thấy thế ông Phát mới thôi, tôi tranh thủ nói luôn: “Cái chúng tôi cần ở Bộ là sự ủng hộ còn kinh phí thì tỉnh lo được anh ạ”… Năm 2006 Vĩnh Phúc miễn thủy lợi phí toàn tỉnh thì đến 2008 Thủ tướng quyết định miễn thủy lợi phí toàn quốc…”, ông Hùng hồi ức.

Sau hơn 10 năm áp dụng, chính sách miễn thủy lợi phí có nhiều ý kiến trái chiều bởi ý thức bảo vệ, duy tu công trình thủy lợi có kém đi. Trước đây, khi chưa miễn việc quản lý, tu sửa mương máng thuộc trách nhiệm của hợp tác xã nhưng từ hồi miễn đã giao cho các công ty thủy lợi, đôi khi là quá xa tầm tay với của họ. Quản lý lỏng lẻo, phí duy tu thấp dẫn tới hệ thống kênh mương xuống cấp, kêu lên trên cũng không được sửa chữa ngay, không ít địa phương lâm vào tình trạng chưa mưa đã úng, chưa nắng đã hạn.

Thêm một điều quan trọng nữa, do kinh phí được ngân sách cấp bù nên việc sử dụng khá lãng phí và không cân bằng. Những hộ dân ở đầu nguồn thường có tâm lý sử dụng nước vô tội vạ trong khi các hộ dân ở cuối nguồn hay lâm vào tình trạng thiếu nước.

Tuy nhiên nói gì thì nói, miễn thủy lợi phí đã cất đi một chút gánh nặng trên vai người nông dân trong bối cảnh khoảng cách thu nhập nông nghiệp với các ngành nghề khác ngày càng rộng. Tôi nghĩ thế nhưng dằn lòng không nói ra với ông bởi câu chuyện giữa chúng tôi đang trên đà hào hứng…

Tôi kể với ông về chuyện nông dân miền Bắc có những đặc tính rất đặc biệt là chán ruộng, bỏ ruộng nhưng phần lớn không muốn “nhả” ra bởi hai lý do chính: Đề phòng con cái lên thành phố làm ăn chẳng may sau này thất nghiệp còn có chỗ mà quay lại; đề phòng các khu công nghiệp, khu đô thị sau này mở rộng sẽ lấy vào ruộng còn được đền bù.

Ông cười mà rằng: “Phải có quy hoạch lâu dài, vĩnh viễn cho đất, chỗ nào làm khu đô thị, khu công nghiệp, chỗ nào trồng lúa thì người dân sẽ thôi mong ngóng chuyện đền bù. Tuy nhiên, quy hoạch thì có nhưng lại thường xuyên thay đổi nên đã phá vỡ lòng tin của người dân. Họ nghĩ lãnh đạo đời này không làm khu công nghiệp, đô thị ở đó nhưng đời sau biết đâu lãnh đạo khác lên lại thay đổi chính sách nên mình cứ giữ lại ruộng để phòng thân.

Xã Hợp Thịnh mấy tháng đầu năm mà đã xây gần trăm cái nhà, cái nào cũng 1-1,2 tỉ thậm chí 2 tỉ. Thứ nhất bởi họ có thu nhập đặc biệt là lớp trẻ ra ngoài làm công ty rất biết cách tích cóp. Thứ nữa là tâm lý muốn bằng anh, bằng em, bằng bạn, bằng bè, bằng hàng xóm. Tôi cũng thế, đến nhà ai chúc Tết cũng xui họ làm nhà. Miền Bắc nói chung là khác miền Nam ở điều đó! Tuy có nợ nần nhưng nông thôn vẫn có tiềm lực bởi vì bán ruộng, bởi có đất giãn dân được phân với giá rẻ 200-300 triệu nhưng bán lại cái là tiền tỉ. Nông dân chán ruộng nhưng việc tích tụ đất đai hiện nay rất khó bởi những người không có việc làm vẫn ở lại quê cấy tí ruộng lấy thóc ăn. Tư duy đó không phải ngày một ngày hai là có thể mất đi được.

Một hiện tượng khá phổ biến hiện nay là chỉ cấy vụ xuân, lấy ít thóc sạch để ăn còn vụ mùa, vụ đông bỏ trắng. Còn chuyện con cái một khi đã lên thành phố rồi về sau mà chẳng may thất nghiệp thì cũng sẽ chẳng quay lại với đồng ruộng đâu bởi vì sợ lỗ, sợ vất vả. Bố mẹ có giao lại đất chúng lại cho người khác thuê hoặc bán hết thôi…”.

Người ta đang hi vọng chuyện dồn điền đổi thửa sẽ cải thiện được tình trạng chán ruộng của nông dân? Tôi gợi mở. Ông lắc đầu rồi kể lại chuyện năm 1997 Tỉnh ủy Vĩnh Phúc ra nghị quyết dồn ghép ruộng đất, lấy huyện Vĩnh Tường làm thí điểm.

Lúc ấy đang là Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy mới 42 tuổi ông đã một mình một ý kiến phản đối rằng lòng dân đang không yên vì rất sợ chia lại ruộng bởi bao năm khoán rồi, cứ năm nay ruộng này, năm sau ruộng khác. Đến năm 1993 khi được chia đất lâu dài họ rất mừng, chăm lo hết sức cho ruộng đồng, đổ nhiều công, nhiều phân bón xuống nên ngại phải chuyển sang cho nhà khác.

Thứ nữa năm 1988 nghị quyết 10 (Khoán 10) hợp tác xã rất mạnh, chủ nhiệm là “vua” của địa phương, bao quát hết sân còn chủ tịch xã không là gì cả. Hợp tác xã chỉ đạo việc chia ruộng lúc đó rất hợp với lòng dân đang muốn bung hết ra sau thời bao cấp. Còn năm 1997, gió đã đổi chiều, hợp tác teo tóp, chủ nhiệm hết quyền lực, chủ tịch ủy ban xã mới lên, ít có kinh nghiệm nông nghiệp nên rón ra rón rén.

“Mà suy cho cùng đổi kiểu đó cũng không có mấy ý nghĩa bởi thửa to cũng chỉ là 2-3 sào. Những nhà đổi ruộng cũng chẳng có thu nhập gì hơn mà chỉ là gọn vùng, gọn thửa tí nhưng lại mất công phải đi đổi chác, thủ tục lằng nhằng nên dân không thích, thôn xã cũng ngại. Vất vả được cái gì? Người chỉ đạo không có, người thực hiện không có, dân không đồng tình thì chỉ có nước thất bại.

Hai năm sau tổng kết, y như rằng Vĩnh Tường chỉ làm được 1/3 rồi chịu chết. Bây giờ tình hình vẫn cứ như thế thôi. Vĩnh Phúc đã “bơm” nhiều tiền cho dồn điền đổi thửa rồi vẫn chưa thành công. Theo tôi Nhà nước không nên nhúng tay trực tiếp vào việc này mà chỉ cần có chính sách rồi để sao cho người dân tự nguyện dồn đổi”, ông nhận định.

Nông nghiệp miền Bắc kém vì không tích tụ được ruộng đất. Thời phong kiến bao đất đai địa chủ lấy hết nên khi mới được chia ruộng nông dân rất quý, giờ lại sinh chán. “Chúng ta đang lúng túng trong việc giải quyết hậu Khoán 10 là ruộng đồng manh mún. Hơn nữa sản xuất nông nghiệp thu nhập chẳng mấy, đụng vào đất đai là đụng vào phức tạp, ai sẽ làm đây? Ta cứ nói sửa Luật Đất đai mà từ lâu có sửa được đâu?”, ông hỏi ngược lại tôi.

Mạch chuyện đang tuôn trào, ông khoát tay bảo: “Thôi ra ao câu cá, được con nào tí còn có cái nấu cho mà ăn không thì đói”. Sau khi 3-4 con rô phi to bằng chiếc dép được giật lên, giãy đành đạch trên bờ, vài nắm rau trong vườn đã được vặt, câu chuyện giữa chúng tôi lại tiếp tục.

Doanh nghiệp phải là đầu tàu
Tôi hỏi ông một chính sách đột phá cho khu vực tam nông tương tự như Khoán 10 tiếp theo phải chăng là đến lúc phải có, ông lắc đầu…

Tích tụ ruộng đất kiểu trang trại, gia trại, nông hộ theo hình dung của ông sẽ chỉ chiếm một phần nhỏ còn phần chính phải là doanh nghiệp – yếu tố quyết định cuộc chơi này bởi họ sống chết vì thương hiệu của mình. Để khuyến khích, Nhà nước phải có chính sách cụ thể hóa về đất đai, chuyển nhượng thì thế nào, cho thuê thì thế nào, bao nhiêu năm.

Anh nông dân đuổi theo con nghé mới tậu trên thửa ruộng hoang. Bán ruộng giờ cũng không mấy ai mua, nếu có cũng phần lớn là nông dân ham ham gom ít một nhưng sản xuất không ăn thua bởi kiến thức không có, vốn không có, thị trường không có, tuổi tác lại cao. Vì thế vẫn phải doanh nghiệp nhảy vào bởi họ có sẵn đầu ra, vốn và tư tưởng đổi mới
Riêng với thuê phải có giấy tờ bảo lãnh kiểu bìa xanh, bìa tím hay bìa vàng để xác nhận với thời gian cho thuê ít nhất từ 20 năm trở lên để nông dân và doanh nghiệp cùng yên tâm. Một khi doanh nghiệp muốn thuê trả mức giá gấp rưỡi, gấp đôi so với lợi nhuận từ việc trồng lúa, ruộng đất sau khi hết thời gian vẫn là của mình thì làm sao dân lại không hưởng ứng?

“Hồi tôi còn làm Chủ tịch tỉnh, anh Phạm Nhật Vượng ở tập đoàn Vingroup có liên lạc bảo đại ý rằng bạn bè xung quanh nhiều người đã chết vì ung thư nên rất muốn được tham gia vào sản xuất nông nghiệp sạch.

Tôi trả lời Vĩnh Phúc đang có diện tích đất nông nghiệp chừng 40.000ha đấy. Anh Vượng mới bảo 40.000ha thì Vingroup thừa sức làm được, tới đây sẽ xây dựng hệ thống siêu thị ở 63 tỉnh thành để đem nông sản sạch vào trong đó bán…

Tôi mới bàn hãy làm thử trước 500ha đã. Tuy anh Vượng không biết gì về nông nghiệp cũng như chắc không biết gì về cả ô tô lẫn máy bay nhưng vẫn cứ đầu tư vào bởi có kinh tế khắc sẽ có nhiều chuyên gia tìm đến giúp. Đáng tiếc là hệ thống nhà lưới rất hiện đại của Vingroup ở Vĩnh Phúc hiện nay không mở rộng thêm được là bao bởi vì vướng mắc nhiều thứ.”

Tại sao pháp luật cho phép sự chuyển nhượng đất nông nghiệp nhưng lại không hình thành nên thị trường như chúng ta mong muốn? Là bởi người hăng say làm ruộng giờ có ít. Thêm vào đó là trình độ nông dân còn thấp. Suy cho cùng, thấp là đúng. Bao nhiêu năm sống trong bao cấp nên lứa tuổi lớn thì sợ sệt, chậm đổi mới còn lớp trẻ thì phần lớn thoát ly ra thành phố làm công nghiệp, dịch vụ. Cũng sẽ đến một lúc nào đó chúng trở về nhưng chưa phải bây giờ. Quê tôi, kể cả dân miền núi vẫn chờ công nghiệp vào lấy đất. Con cái đi công nhân hết, không chịu làm ruộng nữa chỉ còn lại những người 40-50 tuổi trở lên. Chỉ gọi là có ít thóc đủ ăn khỏi đong còn tiền thì tìm cái khác, làm công nghiệp, làm dịch vụ và làm tất cả những nghề có thể nên vẫn cứ giữ ruộng”.

Không có thực tiễn là dễ “ăn đòn”

Bất cứ chính sách gì nếu không xuất phát từ thực tiễn chỉ như một cái cây không có rễ, chẳng sớm thì muộn sẽ chết? Câu hỏi của tôi khiến ông bật cười ha hả: “Tôi kể với anh một chuyện rằng, năm 2004, ngành nông nghiệp họp tại Thái Bình để phát động phong trào xây dựng cánh đồng 50 triệu. Hội nghị rất lớn, ngồi bàn chủ tọa có tới 1 ủy viên Bộ Chính trị và 4 ủy viên Trung ương gồm các ông Lê Huy Ngọ – Bộ trưởng Bộ NN-PTNT, ông Nguyễn Đức Triều – Chủ tịch Hội Nông dân, ông Đinh Thế Huynh – Tổng Biên tập Báo Nhân dân, ông Bùi Sĩ Tiếu – Bí thư Tỉnh ủy Thái Bình… Cuộc họp đó người ta vẽ ra viễn cảnh quê hương cánh đồng 5 tấn thóc năm xưa giờ sẽ là quê hương của cánh đồng 50 triệu.

Toàn báo cáo điển hình nào là trồng thuốc lào 200 triệu/ha, trồng hoa hồng 150 triệu/ha, rồi hoa nọ, rau kia. Phấn đấu xã 50 triệu, huyện 50 triệu, tỉnh 50 triệu, đảng bộ nào trong sạch vững mạnh phải có cánh đồng 50 triệu… Trưa hôm đó ông Trần Mạnh Báo – Tổng giám đốc Công ty giống Thái Bình rủ tôi đi ăn cơm, mấy anh em có đôi chén, mặt phừng phừng mãi 1h30 mới về để kịp họp lúc 2h. Vừa vào đến cửa ông Lã Văn Lý lúc đó là Chánh văn phòng Bộ NN-PTNT đã gọi toáng lên: “Hùng, Hùng, tôi tìm mãi mà không thấy chú đâu? Ông Ngọ đang bắt tôi đi tìm chú để phát biểu”.

Ngồi chưa nóng chỗ, tôi đã bị gọi lên. Tôi dẫn chứng, Vĩnh Phúc có 370ha hoa hồng của huyện Mê Linh 15 năm nay mà vẫn chỉ dừng lại ở 370ha, không phát triển thêm được. Lúc đắt thì 10 bông bán được 1.000đ còn lúc rẻ gần như là cho không. Thế mà bây giờ Thái Bình, Hải Dương mở ra trồng hoa hồng khắp tỉnh thì bán cho ai? Thuốc lào đâu đâu cũng phát triển thì để dân hút thay cơm à?

Một người nông dân dừng tay nghỉ chốc lát khi đang khai hoang ruộng.

Tôi cũng nghe một số người dự buổi ngày hôm đó thuật lại, các chủ tọa sau khi bị ông Hùng “quại” cho một thôi một hồi thì giật mình nghĩ lại. Bí thư huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình hồi đó mới chân ướt chân ráo đi tham quan mô hình trồng hoa hồng ở huyện Mê Linh về trồng có 20ha mà còn đang “chết” nặng nên nghe thấy thế không lên phát biểu nữa. Còn lãnh đạo Thái Bình lúc ra giải lao mới nhăn nhó bảo rằng: “Hôm nay chú dội nước đá lên đầu anh rồi!”. Ông Hùng cười: “Em nói thật với anh, nói cái gì cũng phải có thực tiễn kẻo mà ăn đòn đấy!”.

Bởi ông nhớ năm 1992 khi còn là Phó Chủ tịch huyện Tam Dương đã cùng với ông Trần Văn Đăng – Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú cũ và mấy Bí thư huyện nữa về Thái Bình học tập. Hồi ấy, ở Thái Bình người ta đang khoán sản 1 năm thu 1 sào tới 90kg thóc, trong đó 18kg chi riêng cho thuốc trừ sâu. Lạ quá, ông mới hỏi thu nhiều thế thì lo được gì cho dân? Họ trả lời: Lo phun thuốc định kỳ, trong đó phun trên mạ xuân hồi tháng chạp hết 3kg/sào, lúc thời tiết rét chẳng có sâu bệnh gì sống nổi cả.
Xã ông hồi trước cũng có lạm thu như thế nhưng kể từ năm 1988 khi lên làm Chủ nhiệm HTX Hợp Thịnh (huyện Tam Dương) thay vì tiếp tục thu 90kg/sào ông đã cắt xuống còn 60kg, rồi xuống 40kg, vụ cuối cùng chỉ còn lại 17kg/sào. Nhận thấy càng thu nhiều dân lại càng chây ỳ không nộp, một cái xã bé tí thế mà nợ tới 1.096 tấn thóc sản nên ông mới đề ra chính sách ai đang nợ 1 tấn thóc sản chẳng hạn, nếu nộp luôn sẽ được trừ ngay cho 7 tạ. Thấy hợp lý, dân tình ai cũng hồ hởi khiêng thóc đi nộp.

Quay trở lại chuyện Thái Bình, thu nhiều khiến dân kiệt quệ ông mới nhận định kiểu gì cũng có chuyện. Mấy năm sau dân Thái Bình “nổi lên” thật. Sự kiện đã thức tỉnh Trung ương phải có những chính sách mới thích hợp hơn, nâng cao chất lượng đời sống cho nông dân toàn quốc. Nhân chuyện này, ông Trần Mạnh Báo – Tổng giám đốc Công ty giống Thái Bình mới có mấy câu thơ dịp gặp ông Hùng rằng: “Thái Bình là đất ăn chơi/ Tay gậy tay bị khắp nơi tung hoành/ Gậy Thái Bình đập tan tham nhũng/ Bị Thái Bình làm sáng nội cương. Bao giờ đất nước ấm êm/ Nhân dân cả nước biết ơn Thái Bình”…

[Bài VI]: Sự thấp thỏm của những đại điền chủ kiểu mới
Báo Nông nghiệp Việt Nam 30/07/2019, 14:55 (GMT+7)

Rút bớt nông dân ra khỏi nông nghiệp, khuyến khích tích tụ ruộng đất là quy luật tất yếu để cho người nông dân cùng cánh đồng của họ lớn lên trong cơ chế thị trường. Tuy nhiên, những đại điền chủ kiểu mới ấy vẫn còn thấp thỏm bởi chưa có một chính sách nào “bảo hiểm” cho họ…

Máy bay đi phun thuốc

Anh Trần Xuân Lưỡng kiểm tra khu gieo mạ khay 

Chiếc máy bay nhỏ gắn 4 cánh quạt bốc thẳng lên trên mặt ruộng, cách ngọn cây lúa chừng 1m rồi nhả ra một luồng khí đều và căng như một dải lụa. Trên bờ, người già, trẻ nhỏ và cả đám thanh niên vừa chăm chú dõi mắt theo vừa chỉ trỏ, nói cười về chuyện lần đầu tiên được thấy trong đời. Đó là cảnh máy bay đi phun thuốc trừ sâu trên khu ruộng nhà anh Trần Xuân Lưỡng ở xã Quang Hưng, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

Với tốc độ 15 phút/1ha, vừa bay vừa nghỉ để đổ tiếp thuốc nên hơn 13ha của anh chỉ cần nửa buổi là xong, thay cho 10 lao động phải vất vả đeo bình phun đi mấy ngày ròng rã thân ngập trong hóa chất như trước. Mỗi vụ 2-3 lần máy bay của một công ty giống có trụ sở ở Bắc Giang lại về phun thuốc thuê cho anh như vậy.

Vốn là một hàng xáo có hạng chuyên đi thu mua lúa trong vùng, tính anh Lưỡng xởi lởi, dễ gần nên cứ tháng ba, ngày tám bà con hay tìm đến hỏi vay tiền và hứa đến mùa sẽ trả bằng lúa. Nhưng rồi người trả, người không, nợ lai rai qua nhiều vụ mà xét hoàn cảnh của ai khó khăn quá anh cũng chẳng nỡ đòi riết. Cũng trong quá trình đi thu mua lúa ấy, thấy cánh đồng Lò Gạch người bỏ không, người cho thuê kiểu “xôi đỗ”anh mới quyết định thuê lại để cấy.

Tại cuộc họp của hai thôn có diện tích trên đồng Lò Gạch, anh thuyết trình: “Thưa bà con, thay vì cho bà con vay tiền rồi đến vụ thu lại bằng lúa kiểu mua lẻ như trước giờ đây tôi muốn chuyển sang được thuê ruộng để đủ thóc cho hoạt động xay xát của mình, mong bà con ủng hộ cho”.

Thấy giá anh đề xuất hợp lý, ruộng đồng lại đang cấy vụ ăn, vụ thua nên bà con nhất loạt gật đầu, ký tên vào hợp đồng. Tiếng là thời gian thuê 15 năm nhưng có lẽ cũng là suốt đời họ bởi với giá 200.000 đ/sào/năm tính ra vẫn còn lãi hơn tự cấy mà lại nhàn hạ, ung dung không lo gì giông gió.

Giai đoạn đầu anh tích tụ được 12,5ha, về sau thuê thêm 1ha nữa, đủ rộng để quây vùng, chủ động tưới tiêu, làm lệch vụ với bà con phần để tiện cách ly về thời gian cho lúa giống, phần để giảm giá thuê lao động lúc cao trào.

Với 2 máy cấy, 2 máy làm đất, 1 máy gặt anh không chỉ dư sức làm hết diện tích nhà mình mà còn có thể “ôm” thêm 10-20ha nữa nếu liền vùng, liền thửa. Lãnh đạo nhiều xã hay các giám đốc hợp tác xã cứ chuẩn bị đến vụ lại gọi điện cho anh đến nóng ran cả máy, bảo rằng có ruộng bà con bỏ, mời đến cấy. Ngặt nỗi thửa hình chữ nhật, thửa hình thang, thửa hình tam giác lại nằm rải rác khắp các xứ đồng nên dù muốn mở mang thêm diện tích anh cũng đành bó tay…

Cái nhà kho bỗng thành tro bụi


Vết tích cái nhà kho bị đốt trụi của anh Lưỡng
“Nhà nước nên khuyến khích hỗ trợ người tích tụ đất tiền điện để bơm lấy nước, tiêu nước, một phần tiền mua máy bay phun thuốc (giá trị vài trăm triệu/cái-PV) như đang hỗ trợ với các loại máy móc nông nghiệp khác”  Anh Trần Xuân Lưỡng

Biết đoàn khách nào đến tham quan, xã, huyện cũng thường dẫn đến mô hình của anh Lưỡng, tôi hỏi, có được hỗ trợ gì không? Anh chỉ cười buồn, ngậm ngùi: Trừ năm 2017 lúa bị bệnh lùn sọc đen mất mùa 100% tôi được hỗ trợ 12 triệu, ngoài ra không được một cái gì cả! Nước tưới hay tiêu bà con kêu một tiếng với trưởng thôn là được đáp ứng ngay, đằng này tôi phải tự túc hết. Ruộng dân cấy hợp tác xã phải mang máy bơm ra phục vụ, ruộng của tôi phải tự mua máy bơm, tự kéo điện 3 pha ra. Viết đơn xin được hỗ trợ điện cho thủy lợi huyện lại bảo về xã, xã lại bảo không nằm trong đối tượng được.

Đường giao thông nội đồng nhỏ chỉ hơn 1m nhiều đoạn sạt lở mà không ai nhòm ngó, tu bổ kể từ khi cho tôi thuê khiến ngay cả một cái xe lôi cũng không vào nổi, viết đơn gửi lên xã xin đề nghị làm mãi cũng không chấp nhận. Chỉ cách có một bờ thửa mà ruộng của dân được nhiều ưu ái còn của tôi thì không thì bất công quá…”.
Không chỉ thế, ở nông thôn không tránh khỏi hiện tượng ghen ăn, tức ở. Tối ngày 26/12/2017 kho chứa vật tư nông nghiệp và dụng cụ sản xuất của gia đình anh bỗng dưng bốc cháy, tổng thiệt hại lên đến hơn 100 triệu đồng.Theo anh, công an có về xác minh hiện trường sau đó thông báo vụ cháy không phải do chập điện mà là do có sự tác động từ bên ngoài. Tuy nhiên từ đó đến nay vẫn không tìm ra thủ phạm.

Anh Lưỡng đang vận hành máy bơm nước.

Ngày 9/4/2018 công an mời anh lên để cho biết tin tạm đình chỉ điều tra.Trong lá đơn kêu cứu gửi UBND tỉnh Thái Bình, anh viết: “Là một nông dân đi đầu trong phong trào tích tụ ruộng đất và sản xuất nông nghiệp cánh đồng mẫu lớn, tôi phải vất vả đầu tư công sức và tiền của mới có được cánh đồng như ngày hôm nay và cũng để làm gương cho bà con. Nhưng bị kẻ xấu đốt cháy, làm hại gia đình, tôi không biết kêu ai…

Hiện giờ gia đình tôi rất lo sợ, nếu còn bị kẻ xấu làm hại thế này thì tôi không có thể an tâm lao động, sản xuất được vì số tiền và công bỏ ra để sản xuất 12ha ruộng quá nhiều… Các công ty tôi ký hợp đồng làm lúa giống họ cũng rất ái ngại đầu tư…

Xin quý lãnh đạo thương đến người nông dân chân lấm, tay bùn, bán mặt cho đất bán lưng cho trời, dầm mưa dãi nắng mà chẳng được là bao, nay lại bị thiệt hại hết này, xin giúp gia đình tôi tìm ra thủ phạm để an tâm tiếp tục sản xuất”. 

Đất đai như … vịt đuổi đồng

Chân dung chị Lanh – người cấy nhiều lúa nhất nhì tỉnh Thái Bình (Ảnh)

Chị Trần Thị Lanh – Trưởng thôn Giáo Nghĩa của xã Bình Minh kể, năm 2012 địa phương tiến hành dồn điền đổi thửa, mỗi hộ chỉ còn 1-2 thửa, năm 2015 các công ty bắt đầu về tận làng mở xưởng đã lác đác thấy có người chán ruộng, bỏ ruộng. Là chủ cơ sở sản xuất gạch, những ngày mùa, công nhân của chị đồng loạt xin nghỉ để về cấy bằng tay, thu hoạch cũng bằng tay, hầu hết công đoạn nặng nhọc đều bằng tay hết.

Thấy thế, chị mới sắm máy làm đất, máy gặt để làm dịch vụ, giải phóng sức lao động cho bà con. Tuy nhiên, sau mỗi một vụ, các thôn bỏ ruộng mỗi lúc một nhiều. Tiếc của chị đánh tiếng xin mượn để vỡ hoang, bà con hay tin gọi cho tơi tới. Từ 5 sào phút chốc lên 5 mẫu là quá sức của gia đình chị vì bà con bỏ ruộng mỗi mảnh một vùng, một cánh đồng…

Đầu tiên, chị thuyết phục các đồng nghiệp cùng là trưởng thôn ở trong xã rằng: “Các bác cố gắng dồn bà con đang cấy vào một chỗ tốt, còn chỗ xấu thì để em mượn, khi nào Nhà nước sờ đến thì em sẽ trả lại ruộng ngay”.

Sau đó, các trưởng thôn họp dân lại để phổ biến: “Cô Lanh muốn mượn ruộng hoang của làng ta để sản xuất nhưng ngặt nỗi toàn kiểu “xôi đỗ”, khó làm nên bà con dồn đổi ruộng tốt, ruộng gần vào một chỗ để mình cấy, còn ruộng xấu cũng dồn lại một chỗ để cô ấy cấy…”. Lời nói phải nhưng người nghe, kẻ không nên mới có những thửa ruộng “hoa báo” nằm giữa vùng canh tác của mình chị Lanh cũng đành phải chịu.

Có ruộng lớn ở 6 thôn,chị mạnh tay mua sắm máy móc với 2 máy cày, 1 máy gieo hạt, 20.000 khay mạ, 3 máy cấy 3 trong 1 vừa cấy, vừa phun, vừa bón phân, 2 máy gặt đập liên hợp, 1 máy sấy công suất hơn 10 tấn/mẻ… Cơ giới hóa đồng bộ giúp cho chị làm đất một lèo, cấy xong chỉ trong vài buổi.

Máy cấy xuống đồng. Chị Lanh: “Mượn ruộng chẳng khác gì chăn vịt thả đồng”

Những thửa ruộng xen kẹt của dân bên trong không còn là bạn đồng cùng các thửa ruộng của chị nữa vì bà con cấy tay chậm dẫn đến không cùng trà, khi thu hoạch cũng thế, còn sót mỗi mình chưa kịp gặt, chuột bọ thi nhau vào cắn phá. Bởi thế dần dà chủ của những thửa ruộng này cũng muốn đổi đất để ra chỗ cấy riêng của những người vẫn còn nặng nghiệp nông gia.

“Cấy lúa mà chỉ có 2 – 3ha, máy móc sẽ thường xuyên bị “đói” dẫn đến không có hiệu quả kinh tế, phải từ 10ha trở lên máy móc mới “no mồi”, sản xuất mới có nhiều lãi”.
Chị Trần Thị Lanh nói.

Vụ trước chị cấy 25ha, mới đây bà con gọi cho mượn thêm 2ha thành ra 27ha, thuộc vào dạng cấy nhiều nhất nhì tỉnh Thái Bình. Vẫn còn có nhiều người đánh tiếng cho mượn ruộng nhưng vì ở đó thôn chưa tổ chức dồn đổi được nên chị chưa dám gật đầu.

Khác với cách thuê ruộng của anh Lưỡng, cách mượn ruộng của chị Lanh không tốn một đồng nào dựa trên nguyên tắc cùng có lợi. Người vẫn cấy thì được ruộng gần, ruộng tốt còn người không cấy cho chị mượn ruộng được lợi là lúc cần cấy lại sẽ không phải vỡ hoang, đỡ được vài chục ngàn đồng/sào không phải đóng 4 khâu dịch vụ bắt buộc là thủy lợi nội đồng, khoa học kỹ thuật, bảo vệ thực vật và diệt chuột nữa. Còn chị được lợi là có tới 27ha để cho máy móc thỏa sức vẫy vùng.

Ruộng lớn, với 3 khâu cơ bản nhất của nhà nông là cày, cấy và gặt tự làm bằng máy đã đỡ được cho chị Lanh khoảng 400.000 đ/sào lại thêm được cái thuận lợi mua phân gio, giống má, vật tư nông nghiệp với giá bán sỉ. Lúc trước, còn manh mún, chị cấy lúa thương phẩm, nay tích tụ được nhiều chị chuyển sang sản xuất giống. Ngoài làm cho mình, chị còn dịch vụ thêm bên ngoài khoảng 70ha nữa, tổng lãi cũng được khoảng 500-600 triệu/năm.

Tôi ra cánh đồng thôn Phương Ngải, thửa nào của chị tít tắp chẳng thấy bờ bao giống như ở trời tây còn thửa nào của dân thì nhỏ bé, thấp thoáng những ông bà già còng lưng cắm cúi. Bà Lê Thị Tám có 3 sào ruộng ở Hậu Đồng giải thích về chuyện đổi ruộng cho chị Lanh như sau: “Lúc trước, vì thửa ruộng của tôi nằm ở giữa khiến cho máy móc của cô Lanh khó di chuyển. Cô ấy dùng mạ khay, cấy máy nên tốc độ nhanh còn nhà mình mạ sân, cấy tay, tốc độ chậm, làm cái gì cũng thành sau, thành muộn nên tôi vui vẻ đổi”. Còn bà Phạm Thị Hồng kể vụ này cho chị Lanh mượn 3 sào ở khu Tiền Đồng mà chỉ cấy có 4 sào.

Rất nhiều người già đang lom khom cấy tay trên cánh đồng này chỉ để lấy gạo ăn như thế, không chỉ cho bản thân mà còn gửi chút “gạo sạch” cấp cho con cháu trên phố. Mùa đến, mùa đi, họ thêm ốm o và sẽ có lúc phải ngã xuống trong khi lớp trẻ nhất định không chịu tiếp nối nghiệp của mình.

Chị Lanh (bìa trái) đang nói chuyện với hai người đổi ruộng, cho mình mượn ruộng.
Với bình quân mỗi khẩu 1,5 sào ruộng thì để có được 27ha chị phải mượn bằng miệng của 500 người. Nhiều người cho mượn mà còn rối rít cảm ơn chị bởi không chỉ đỡ phải đóng phí cho hợp tác xã, đỡ phải làm cỏ khi cấy lại mà còn đỡ ảnh hưởng đến những người xung quanh bởi mỗi thửa ruộng hoang là một cái bẫy tự nhiên dẫn dụ chuột bọ.

Tôi hỏi chị Lanh với cách mượn ruộng này có thực sự yên tâm sản xuất, chị trả lời rằng nó không khác gì nuôi vịt thả đồng. Đầu tư tới hơn 2 tỉ nhưng vẫn phải vất vả chạy đồng vì nay người ta cho mượn, mai lại có thể đòi. Bởi thế chị gửi gắm ước vọng Nhà nước làm sao phải tuyên truyền cho người dân rằng họ chỉ có hai con đường khi muốn từ bỏ ruộng đồng là bỏ hoang thì sẽ bị thu hồi còn muốn giữ lại thì phải tìm người cấy hộ. Làm sao để những người thuê ruộng hay mượn ruộng như chị có khoảng thời gian ít nhất 5-10 năm, có những chính sách đảm bảo cho việc tích tụ dài lâu.

Theo báo cáo năm 2018 của Thái Bình, diện tích đất đã tập trung, tích tụ theo hình thức thuê và chuyển nhượng được 1.792,8ha trong đó: Tích tụ từ 10ha trở lên: 454,96ha. Tích tụ từ 2ha đến dưới 10ha: 1.337,84ha. Chủ yếu là thuê với giá từ 60 đến 80kg thóc/sào/năm hoặc từ 300.000 đến 500.000 đồng/sào/năm, thời hạn bình quân 5 năm.
Hầu hết các mô hình tích tụ đều có hiệu quả hơn từ 1,5 đến 2 lần so với sản xuất thông thường bởi áp dụng đồng bộ được các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, tiết kiệm được chi phí, kiểm soát được đầu vào và đầu ra của sản phẩm. Tuy nhiên diện tích đó vẫn còn quá ít và chuyện tích tụ còn nhiều bấp bênh.

[Bài VII] Đất đai chưa mang lại yên bình và giàu có cho nông dân!

Báo Nông nghiệp Việt Nam 31/07/2019, 13:55 (GMT+7)

Nước mình là nước nông nghiệp, đa số dân là nông dân nên cái gì động chạm đến nông nghiệp, nông dân trong đó có đất đai đều có ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài đến toàn xã hội…


GS.TS.Nhà giáo nhân dân Trần Đức Viên nói.

Đất đai là hồn cốt

Đất ngoài là tài sản đối với người Việt nó còn là quê hương, là máu thịt, là tâm linh (với mồ mả ông cha trong đó), là văn hóa, là tâm hồn… nên chúng ta mới có hai từ “đất nước” để chỉ Tổ quốc mình. Có lẽ do vậy, mà cha ông ta đã đi theo cách mạng, sẵn sàng hy sinh cả mạng sống, sẵn sàng vác dao bầu, đòn gánh, gậy gộc lên phủ huyện cướp chính quyền để mong một mảnh đất cắm dùi.

“Người cày có ruộng” đã làm nên sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần vô địch của tầng lớp cần lao. Từ người nông dân ngày hôm qua vác dao bầu, đòn gánh, gậy gộc lên phủ huyện cướp chính quyền để mong có được “mảnh đất cắm dùi” ấy thì nay không ít con cháu họ lại không thiết gì với đất nữa. Có lạ không? Không lạ! Có buồn không? Rất buồn!

Nhiều nông dân vẫn cấy lúa thủ công.

Nông thôn đang xảy ra ba hiện tượng hàng ngày có liên quan đến đất đai: Hiện tượng thứ nhất là nông dân mất đất bởi việc mở rộng các khu công nghiệp, đô thị. Việc qui hoạch đất đai hay giá đền bù giải phóng mặt bằng nói là theo pháp luật nhưng ở nhiều nơi là do ông Chủ tịch tỉnh hay thành phố quyết định, đương nhiên là phải thông qua Hội đồng nhân dân nữa. Có nơi thu hồi không được thì cưỡng chế. 

Về làng, điển hình là ngày tết, chỉ mồng hai thôi đã thấy lạnh lẽo rồi. Trước đây, tết từ ngày ông Công ông Táo cho đến rằm tháng Giêng, người lớn tất bật, vui vẻ, thanh niên, trẻ con háo hức. Người ta đánh cờ người, đấu vật, xúm quanh chiếu chèo, kéo co… Rất nhiều trò chơi xưa nay đã biến đi đâu hết. Thanh niên quê giờ có tâm lý không muốn làm ruộng vì không thấy ai làm giàu từ ruộng được, đặc biệt là nơi chỉ cấy lúa. Bởi thế phải ly hương tuy vẫn giữ ruộng bởi hai lý do: Nhỡ sau này nhà nước quy hoạch lấy vào đất của mình sẽ được cục tiền; Nhỡ sau này con cháu lên thành phố bị thất nghiệp, về làng còn chỗ nương thân.

Hiện tượng thứ hai là nông dân chán đất, không thiết tha gì với đồng ruộng nữa mà loạt bài “Hai sắc thái của ruộng hoang” do Báo NNVN đang phản ánh. Người nông dân không thiết gì đất bởi đất không nuôi nổi người, đất chưa mang lại cho họ sự yên lành và giàu có.

Nông dân hoặc chán hoặc đầu độc, bóc lột đất tối đa bằng sử dụng thuốc trừ sâu và phân hóa học quá mức miễn để lấy được giá trị thặng dư cao hơn, không cần biết đến tương lai. Nếu đất kiệt quệ rồi thì bán, bán không ai mua thì cho thuê, không ai thuê nữa thì bỏ hoang…

Hiện tượng thứ ba là nông dân chán quê. Làng quê giờ đây tuy tiện nghi đầy đủ hơn, nhà cao cửa rộng nhiều hơn, nhiều người khá giả hơn nhưng dường như không còn yên ấm như xưa vì cây xanh thưa thớt, vắng bóng lũy tre làng, nhà cửa hình ống rồi “củ hành củ tỏi”, lai căng, trọc phú. Nếu về làng không vào dịp hội hè hay tết nhất thì chỉ gặp toàn người già với trẻ con, những ai có sức khỏe bỏ lên thành phố, khu công nghiệp… để kiếm sống.

Ngày xưa, theo như những gì được mô tả trong cuốn sách “Người nông dân Bắc Kỳ” của Gourou, một ngôi làng vùng đồng bằng sông Hồng điển hình bao giờ cũng được bao bọc bởi lũy tre, có cổng làng, có đình chùa miếu mạo, có giếng làng, có cây đa, sang nữa thì thêm bến nước…

Hồn vía của làng ẩn sau lũy tre, dưới mái đình, trên cánh đồng làng. Làng của ta bây giờ tre không còn nữa vì sợ chạm vào dây điện nên chặt đi. Những cây cổ thụ không còn nữa vì sợ bão đập ngả vào dây điện. Nhà kiểu quê xưa ngày một ít đi mà thay bằng nhà kiểu phố, hình ống, ngất ngưởng 2-3 tầng.

Tiện nghi ở nông thôn tốt hơn, tối có đèn sáng, có nước sạch, đường làng không còn lầy lội, hơn hẳn ngày xưa nhưng đời sống pha tạp kiểu phố phường, kiểu tây tầu, có cái gì đó sâu thẳm trong tâm hồn người làng đã bị xói mòn, mai một.

Nông dân cần thực quyền

Từ lâu rồi đã hình thành “thị trường” đất đai ở nông thôn, quê tôi người ta đang bán 35 – 40 triệu đồng/sào tùy vị trí. Một trong các lý do người nông dân không thiết tha với đồng ruộng có lẽ cũng vì họ chưa có thực quyền. Thân phận mảnh đất là do nhà đầu tư định đoạt. Sắp tới, dù muốn hay không, chúng ta cũng phải làm rõ vấn đề này. Khi nhà nước cần đất có thể đền bù theo giá thị trường. Người nông dân cũng phải được tham gia vào quá trình quy hoạch đất đai. Như hiện nay quy hoạch thế nào hầu như là do địa phương, nhà đầu tư quyết cả.

Ngoài ra tôi còn nghe bà con nhiều làng quê phàn nàn, là ở thành phố khi có bất cứ chuyện gì như ô nhiễm môi trường, xử lý rác thải, điện đường trường trạm đều là nhà nước làm hết, làm tận ngõ, vào tận nhà. Nhưng ở nông thôn lại khác. Động tí gì đến môi trường, đến điện đóm, đến đường thôn ngõ xóm, họ cũng phải lo đóng góp, phải lo thực hiện “xã hội hóa”.Gọi là xã hội hóa nhưng thực tế là kêu gọi nông dân đóng góp bằng thu nhập ít ỏi của họ. Trong khi vẫn con người ấy nếu ra thành phố thì họ không phải đóng góp gì cả, đã có nhà nước lo.Khi nông dân cảm thấy không có thực quyền, cảm thấy bất an, vì có thể vào một ngày đẹp trời mảnh đất ấy không phải đất của họ nữa. Có lẽ vì thế nên họ không chăm chút đất, nên bóc lột đất đai chăng? Bây giờ nếu trả lại cho họ tất cả các giá trị thực ấy, tôi tin là người nông dân sẽ yêu quý đất.

Một ý tôi muốn nhấn mạnh nữa là đất công. Ngày xưa các cụ ở ta có công điền, công thổ. Làng nào, tổng nào, xã nào bao giờ cũng có đất công điền (ruộng công), công thổ (đất ở công) với một tỷ lệ khoảng 20-30%. Ngay nước Mỹ phát triển như thế vẫn giữ đất công khoảng 40%. Nhưng chúng ta bây giờ diện tích đất công theo thống kê chỉ còn khoảng 5%. Tháng trước, tôi có đi tỉnh Điện Biên, thấy đồng bào định cư ở đây theo chương trình di dân lòng hồ thủy điện phá rừng làm nương rẫy dữ quá. Hỏi ra mới biết, có cam kết với đồng bào rằng đến nơi ở mới có điều kiện sinh sống và canh tác tốt hơn nơi ở cũ, mỗi gia đình được 400m2 làm nhà ở và 2ha đất canh tác. Nhưng huyện xoay xở mãi cũng không đủ 400m2 đất thổ cư cho một đầu hộ, không đủ 2ha đất luân canh rừng – rẫy và canh tác nông nghiệp vì không còn đất công nữa. Ở vùng xa xôi mà còn như vậy, thì các tỉnh đồng bằng và ven đô chắc là đất công, ruộng công còn hiếm hơn nữa… Nếu sau này cần đất để làm các công trình công cộng thì lấy đâu ra?

Học các nước cũng dùng đủa như mình

Theo tôi điều kiện của ta gần gũi với Hàn Quốc, Nhật Bản, những cư dân dùng đũa, có lẽ cũng nên học hỏi họ ít nhiều trong phát triển nông thôn. Ở Nhật có chương trình phát triển nông nghiệp dài hạn. Quá trình đi lên trở thành một nền nông nghiệp hàng đầu thế giới của họ được bắt đầu từ những thay đổi ở tầm chính sách vĩ mô sau chiến tranh thế giới lần thứ II.

Trong thập niên 70, nhiều tỉnh của Nhật Bản đã hình thành và phát triển phong trào “Mỗi làng một sản phẩm”, điều đó không những đã góp phần quan trọng vào việc phát triển nông nghiệp, thay đổi bộ mặt nông thôn mà còn góp phần phần phát triển chung cho kinh tế-xã hội trong nhiều thập niên của cả nước Nhật.

Bước đầu tiên là thực hiện cải cách đất nông nghiệp để cho nhà nông tự chủ (16 năm). Cơ giới hóa bằng việc đưa máy móc vào canh tác để nhà nông có nhiều thời gian tham gia nghề phụ, chế biến nông sản hay thành công nhân công nghiệp. Thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ sản phẩm nông nghiệp giá trị gia tăng thấp sang sản phẩm nông nghiệp có giá trị gia tăng cao (trong 30 năm).

Một trang trại trồng hoa ở huyện Tam Dương, Vĩnh Phúc (ảnh) .

Từ những năm 1990, Nhật Bản luôn áp dụng “nguyên lý thị trường” trong sản xuất nông nghiệp, đảm bảo sự hài hòa giữa đời sống nông thôn và thành thị. Từ năm 2000, quốc gia này thực hiện chính sách nông nghiệp “Takebe” hướng tới mục tiêu cung cấp lương thực ổn định. Ban hành luật pháp về an toàn thực phẩm, luật pháp về giáo dục chế độ ăn uống, bảo đảm hài hòa giữa thành thị và nông thôn, môi trường nông thôn gần gũi với tự nhiên. Việc tái cơ cấu do doanh nghiệp nông nghiệp dẫn dắt ngày càng hoạt động hiệu quả…

Giờ rất lạ, cái gì là truyền thống lại không được coi trọng mà cứ giống mới, nhập ngoại là thích, chạy theo năng suất. Nông dân ta tự bơi, tự lo mọi thứ. Hệ thống khuyến nông mới chỉ làm mỗi việc trồng cây gì, nuôi con gì kiểu trình diễn thôi chứ không kết nối được nông dân với thị trường. Người nông dân làm hôm nay không biết ngày mai sản phẩm của họ đóng gói thế nào, bán cho ai, ở đâu, giá cả ra làm sao…

Quan tâm hỗ trợ việc tạo giá trị gia tăng cho nông dân thay vì chỉ gia tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp công nghiệp và thương mại. Người Nhật không có “cánh đồng mẫu lớn” qui mô hàng trăm, hàng ngàn ha mà nông dân vẫn cặm cụi trên mảnh đất không lớn của họ, lo duy trì và nâng cao chất lượng, sản lượng nông sản trong các Noukyou (Nông hiệp) một hình thức liên kết các hộ liền bờ liền thửa kiểu HTX.

Nông hiệp lo tổ chức sản xuất, kết nối với doanh nghiệp, lo đầu vào, đầu ra để người nông dân có thu nhập cao nhất. Chính quyền lo chính sách để người nông dân được hưởng lợi nhiều nhất, không can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các nông hiệp hay của hộ nông dân.

Hiện nay, chỉ có khoảng 3% dân số Nhật Bản làm nông nghiệp nhưng lại cung cấp lương thực, thực phẩm chất lượng cao dư thừa cho dân số hơn 127 triệu người cùng xuất khẩu. Ngoài phát triển các sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao, hiện nay chính phủ Nhật còn hỗ trợ phát triển “du lịch nông nghiệp”, mục tiêu xây dựng 500 vùng nông thôn thực hiện chương trình “home stay”, người du lịch đến ở cùng nông dân vào năm 2020. Số khách du lịch gần đây đã tăng lên nhanh chóng khoảng trên 20 triệu người trong năm 2016 và dự kiến đạt 40 triệu lượt người năm 2021.

Trong chính sách nông nghiệp, quy định về các khoản trợ cấp, trợ giá của chính phủ thể hiện ở rất nhiều văn bản, các quỹ hỗ trợ được mở rộng dần tới một số lượng lớn các mặt hàng nông sản. Hay nói cách khác, các khoản hỗ trợ đóng vai trò đáng kể vào sự hình thành vốn nông nghiệp, đặc biệt là đầu tư vào cơ hạ tầng, đất đai, môi trường. Trong đó bao gồm 3 chính sách chính thông suốt quá trình phát triển gồm: 1. Chính sách hỗ trợ nông nghiệp; 2. Chính sách cải cách pháp lý trong nông nghiệp, 3. Chính sách cải cách hành chính trong nông nghiệp.

Điều rõ nhất của quốc gia này là đã khôn khéo đầu tư cho nông nghiệp ngay từ đầu trong công cuộc phát triển đất nước, không “hi sinh” nông nghiệp, nông thôn cho công nghiệp hóa, đô thị hóa. Trí thức hóa nông thôn để làm ra những sản phẩm có giá trị cao. Họ khẳng định bằng thực tiễn nông thôn là nơi đáng sống.

Những cư dân đô thị, nhất là tầng lớp trí thức đều có xu hướng muốn quay về nông thôn để sinh sống và làm việc. Ngay cả trong lòng cố đô Kyoto, có một đêm tháng năm đang nằm tôi bỗng ngửi thấy hương thơm ngào ngạt giống hệt mùa lúa ở quê mình nên dậy đi tìm và thấy ruộng lúa…

Người Nhật rất trân trọng những sản phẩm địa phương, bản địa như bò Kobe, bò Miyazaki, giống lúa, giống cam, giống nho… đều là của Nhật. Họ bằng mọi cách để nâng cao chất lượng của chúng lên, cải tiến hợp với thị hiếu người tiêu dùng trong nước và quốc tế. Ngay từ đầu họ đã gắn nông dân với thị trường nội địa và toàn cầu rồi, làm hôm nay biết ngày mai sản phẩm được đối xử thế nào.

GS.TS NHÀ GIÁO NHÂN DÂN TRẦN ĐỨC VIÊN
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Dương Đình Tường (ghi)

[BDNG-200719] Công ty TNHH nghiên cứu và sản xuất giống ứng dụng công nghệ cao Hưng Thịnh ( gọi tắt là Công ty Hưng Thịnh) là một liên doanh giữa Tập đoàn Lộc Trời và tỉnh Long An có trang trại thực nghiệm tại huyện Tân Hưng tỉnh Long An .Trong 5 năm qua từ khi thành lập ( 2014) , Công ty Hưng Thịnh luôn tìm kiếm và đưa về thực nghiệm trên đồng ruộng của mình những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhằm mục đích gia tăng năng suất, tăng chất lượng nông sản , hạt giống , giảm chí phí , giảm giá thành , gia tăng lợi nhuận , bảo vệ môi trường sinh thái . Công ty đã mua 1 máy phun xịt trên đồng ruộng hiệu Maruyama từ Nhật Bản có công suất phun 20 ha / ngày . Máy đã hoạt động rất tốt hai năm qua . Trong quá trình hợp tác với Hưng Thịnh, các nhà khoa học Nhật Bản đã suy nghĩ, cải tiến để thỏa mãn nhu cầu sản xuất. Trên nền tảng máy kiểu cũ đã hoạt động tốt trên đồng ruộng Việt Nam, các nhà khoa học thuộc Maruyama đã nâng cấp thêm tính năng gieo sạ hạt giống và bón phân, hình thành kiểu máy 3 trong 1. Máy 3 trong 1 này đã được trình diễn sáng ngày 17/7/2019 tại Hưng Thịnh. Trong ngày này, công ty Agras.VN cũng trình diễn máy bay không người lái (drone) để phun xịt thuốc bảo vệ thực vật trên ruộng lúa ( Xin vui lòng xem hình và video clips )

Nguồn:
DẠY VÀ HỌC theo bài và ảnh Dương Đình Tường bài ‘Hai sắc thái của ruộng hoang’, báo Nông nghiệp Việt Nam; Bài Thông tin Lúa Lộc Trời của PGS TS.Dương Văn Chín (Chin Duong)  Việt Nam con đường xanh, xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-con-duong-xanh/

ĐÊM TRẮNG VÀ BÌNH MINH
Hoàng Kim

Mời bạn thưởng thức món quà “Đêm trắng và bình minh”, câu chuyện về Ghent thành phố khoa học công nghệ; Sắn quà tặng thế giới người nghèo; Đêm trắng và bình minh phương Bắc. Nhà văn Nga Dostoievski viết “Những đêm trắng” với sự sâu sắc lạ lùng mà tôi khi được trãi nghiệm mới thấu hiểu. Ông trò chuyện về du lịch mà thực ra đang nói về nhân tình thế thái, về những đêm trắng và ảo ảnh bình minh phương Bắc. Bạn hãy ngắm nắng ấm và vườn cây trong bức ảnh lúc 7 giờ chiều chụp tiến sĩ Claude Fauquet với tôi. Ông là Chủ tịch Hội thảo Sắn Toàn cầu, Tổng Giám đốc của Viện Nghiên cứu Khoa học lừng danh ở Mỹ, người đã dành cho tôi sự ưu ái mời dự Hội thảo và đọc báo cáo. Bạn cũng hãy xem tiếp phóng sự ảnh chụp lúc gần nửa đêm mà ánh sáng vẫn đẹp lạ thường để đồng cảm cùng tôi về đêm trắng và bình minh. Bắc Âu là vùng đất lành có triết lý nhân sinh lành mạnh, chất lượng cuộc sống khá cao và những mô hình giáo dục tiên tiến nổi tiếng thế giới. Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương. Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc. Dạy và học thực tiễn trên chính Tổ quốc mình. Tôi tâm đắc với thầy Nguyễn Lân Dũng “Bác Hồ với hạnh phúc của dân”, tâm đắc với nhà văn Trần Đăng Khoa những suy tư chấn hưng giáo dục qua bài viết “Mở cửa nhìn sang nhà hàng xóm” trao đổi về dạy và học ở Bỉ và Ngoảng lại mà ngắm… Bạn cũng sẽ bắt gặp đêm trắng và bình minh trong những trăn trở suy tư của nhà báo Nguyễn Chu Nhạc ở câu chuyện “Hà Lan ký sự” và “Brussels, trái tim EU” trong thiên phóng sự “Châu Âu du ký” mà anh mới kịp viết phần đầu “Trở lại xứ Gà trống Gô-loa” trong năm 2012. Tôi biết tự lượng sức mình nên đã dành trọn khoảng lặng hôm nay để viết tản văn này. Tôi nhớ nhà thơ Việt Phương: “Yêu biết mấy những đêm dài thức trắng/ Làm kỳ xong việc nặng sẵn sức bền/ Bình minh đuổi lá vàng trên đường vắng/ Như vì ta mà đời ửng hồng lên”. “Thăm làng, ta ghé trại mồ côi, Các cháu má hồng môi rất tươi. Nhưng một thoáng buồn trong khóa mắt, Ta biết rằng ta nợ suốt đời…”.”Trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ. Đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sĩ”. Cửa Mở thao thức lòng tôi Đêm trắng và Bình Minh. Ai đi mang mang trên đời. Nghị lực, nhân từ, khờ dại mãi thôi. Hoàng Kim.

Ghent thành phố khoa học công nghệ

Tôi phải trả 400 đô la Mỹ cho bài học lãng phí đầu tiên đi xe taxi ở Ghent, thành phố khoa học và công nghệ sinh học (City of Science and Biotechnology) tại Bỉ vì đã không tận dụng phương tiện công cộng. Thất bại đáng tiếc này xẩy ra khi tôi vận dụng lặp lại kinh nghiệm thành công trước đó của mình tại thủ đô Luân Đôn “thành phố sương mù” ở Vương quốc Anh, tại thủ đô Helsinki thành phố di sản “Con gái của Baltic” đẹp nhất Bắc Âu ở Phần Lan và tại Roma “thủ đô của các bảo tàng nổi tiếng thế giới” ở Ý.

Sự khôn vặt của tôi là kiểu của Hai Lúa người Việt. Tôi tính mình chỉ cần bỏ ra một vài trăm đô thuê taxi “không thèm đi tàu điện ngầm vì chẳng chụp ảnh và thăm thú được gì cả”. So với tiền của chuyến bay xa xôi từ Việt Nam sang Bắc Âu cao ngất ngưỡng do phía bạn chi trả thì số tiền mình tự bỏ ra trả thêm cho việc học là rất hời. Bạn tính nhé. Giá của một tour du lịch trọn gói từ thành phố Hồ Chí Minh đến thủ đô Helsinki (Phần Lan) thăm cố đô Turku (thành phố cổ nhất của Phần Lan được xây dựng từ năm 1280, cũng là cửa khẩu thông thương quan trọng nhất giữa Phần Lan và Thuỵ Điển) và trở về thành phố Hồ Chí Minh trong 5 ngày 4 đêm chí ít là 53,70 triệu đồng. Giá tour của máy bay khứ hồi đi Anh hoặc đi Ý cũng tương tự, cao hoặc thấp hơn một chút. Đó là tài sản lớn của những nghề lương thiện và những người chân lấm tay bùn muốn mở cửa nhìn ra thế giới. Do vậy, ở nhiều lần đi trước tôi đã quyết ý tự chi thêm một vài trăm đô khi có điều kiện để thăm được một số địa danh lịch sử văn hóa mà tôi ngưỡng mộ, để e rằng sau này mình hiếm có dịp quay trở lại.

Nhờ thế tôi đã đến được cung điện Buckingham, đại học Oxford, Bảo tàng Nam Kensington, Nhà thờ Thánh Paul (ở Anh), thăm toà nhà Quốc hội City Hall và Parliament House, đến Phủ Chủ tịch The Presidential Palace, biểu tượng Railroad Station, ghé nhà thờ Uspenski ở trung tâm thủ đô Helsinki, thăm ông già Noel tại Santa Claus, 96930 Artic Circle, Finland cách thành phố Rovaniemi khoảng 8km xứ sở Lapland (ở Phần Lan). Tôi cũng chụp nhiều ảnh ở Đấu trường La Mã và Khải hoàn môn Arco di Costantino. Đài phun nước Trevi, một trong những đài phun nước nổi tiếng nhất thế giới. Đài tưởng niệm liệt sĩ Vittorio Emanuele II. Bảo tàng Vatican (tại thủ đô Roma của Ý) và các địa danh khắp bốn biển, bốn châu của nhiều lần khác …

Ghent có hệ thống giao thông công cộng giá hợp lý phát triển rất cao nên kinh nghiệm đi taxi trước đó của tôi trở thành nguyên nhân lãng phí. Giống như Tiệp Khắc (Czech Slovakia cũ), hầu hết mọi người đi học, đi làm đều bằng phương tiện công cộng, có chuyện cần kíp mới đi taxi, rất hiếm thấy Honda. Giá taxi ở Ghent cao gấp nhiều lần so với giá taxi ở Việt Nam và cũng cao hơn nhiều so với giá taxi ở Anh, Pháp, Mỹ, Nhật là những nơi giàu có và thành phố có tiếng đắt đỏ. Mô hình tổ chức giao thông thành phố hiện đại và hiệu quả ở Ghent đã được nghiên cứu học tập của nhiều nước và thành phố. Ngoài xa kia, đường phố rộng rãi, thỉnh thoảng mới thấy một chiếc xe ô tô chạy qua. Bạn thấy những cô gái và ông bà già dẫn chó đi dạo. Những đôi thanh niên đi xe đạp nhởn nhơ trò chuyện như không còn ai khác ngoài họ ở trên đời. Bạn tinh ý còn thấy trong tấm hình chụp tại cổng vào trường đại học, trên thảm cỏ xa xa có một cặp uyên ương đang sưởi nắng và … tự nhiên yêu đương.

Ghent là thành phố khoa học và công nghệ sinh học nổi tiếng. Đây là thành phố lớn nhất của tỉnh Đông Flanders và trong thời Trung cổ đã từng là một trong những thành phố lớn nhất và giàu nhất của Bắc Âu. Ngày nay Ghent là thành phố có diện tích 1205 km2 và tổng dân số 594.582 người kể từ ngày 1 tháng Giêng năm 2008 đứng thứ 4 đông dân nhất ở Bỉ. Ghent là viên ngọc ẩn ở Bỉ tuy it nổi tiếng hơn so với thành phố chị em của nó là Antwerp và Bruges, nhưng Ghent lại là một thành phố năng động, xinh đẹp về khoa học, nghệ thuật, lịch sử và văn hóa. Hàng năm có mười ngày “Ghent Festival” được tổ chức với khoảng hai triệu du khách tham dự.

Ghent được UNESCO công nhận là Di sản thế giới năm 1998 và 1999. Các điểm nhấn nổi bật là kiến trúc hiện đại của những tòa nhà trường đại học Henry Van de Velde và một số công trình liền kề. Louis Roelandt, kiến trúc sư nổi tiếng nhất của Ghent thế kỷ XIX đã xây dựng hệ thống các trường đại học, khu hội nghị, nhà hát opera và tòa thị chính. Bảo tàng quan trọng nhất ở Ghent là Bảo tàng Mỹ thuật Voor Schone Kunsten với các bức tranh nổi tiếng của Hieronymus Bosch, Peter Paul Rubens, kiệt tác của Victor Horta và Le Corbusier, Huis van Alijn. Nhà thờ Saint Bavo lâu đài Gravensteen và kiến trúc lộng lẫy của bến cảng Graslei cũ là những nơi thật đáng chiêm ngưỡng. Đó là sự pha trộn tốt đẹp giữa sự phát triển thoải mái của cuộc sống và lịch sử, mà không phải là một thành phố bảo tàng. Giở lại những trang sử của Ghent năm 1775, các bằng chứng khảo cổ cho thấy sự hiện diện của con người trong khu vực hợp lưu của Scheldt và Lys trong thời kỳ đồ đá và đồ sắt. Hầu hết các nhà sử học tin rằng tên cũ của Ghent có nguồn gốc từ ‘Ganda’ có nghĩa là hợp lưu có từ thời La Mã. Khoảng năm 650, Saint Amand thành lập hai tu viện tại Ghent đó là Saint Peter Abbey và Saint Bavo Abbey. Khoảng năm 800, Louis Pious con trai của Charlemagne đã bổ nhiệm Einhard, người viết tiểu sử của Charlemagne, làm trụ trì của cả hai tu viện. Trong những năm 851 đến 879, thành phố bị tấn công và cướp phá hai lần sau đó được phục hồi và phát triển rực rỡ từ thế kỷ 11. Cho đến thế kỷ 13, Ghent là thành phố lớn nhất ở châu Âu sau Paris, lớn hơn Luân Đôn và Mạc Tư Khoa. Thời Trung Cổ, Ghent là một trong những thành phố quan trọng nhất châu Âu đối với ngành công nghiệp len và dệt may. Vào năm 1500, Charles V, Hoàng đế La Mã và vua Tây Ban Nha đã được sinh ra ở Ghent. Sau nhiều thăng trầm của lịch sử và sự tàn phá của các cuộc chiến tranh Ghent kết thúc vai trò của một trung tâm địa chính trị quân sự quan trọng quốc tế và trở thành một thành phố bị chiếm đóng, bị giành giật giữa các thế lực. Sau khi trận chiến Waterloo, Ghent trở thành một phần của Vương quốc Anh và Hà Lan suốt 15 năm. Lạ kỳ thay, chính trong giai đoạn tổn thương nghiêm trọng này, Ghent thành lập trường đại học cho riêng mình năm 1817 để khai sáng văn minh dân tộc. Họ cũng chấn hưng kinh tế bằng quyết tâm kết nối cảng biển năm 1824-1827. Sau cuộc Cách mạng Bỉ, với sự mất mát của cảng biển nền kinh tế địa phương bị suy sụp và tê liệt. Ghent bị chiếm đóng bởi người Đức trong cả hai cuộc chiến tranh thế giới nhưng đã tránh được sự tàn phá nghiêm trọng và đã được giải phóng bởi Vương quốc Anh ngày 6 tháng 9 năm 1944. Điều bền vững trường tồn cùng năm tháng chính là con người, văn hóa và giáo dục. Phần lớn kiến trúc thời Trung cổ của thành phố hiện vẫn còn nguyên vẹn và được phục hồi, bảo tồn khá tốt cho đến ngày nay.

Ghent còn là thành phố lễ hội thường xuyên hàng năm với các nhà hàng ẩm thực nổi tiếng. Nhiều sự kiện văn hóa lớn như Lễ hội âm nhạc, Liên hoan phim quốc tế, Triển lãm lớn thực vật, Hội thảo Trường Đại học Ghent và các Công ty nghiên cứu … đã thu hút đông đảo du khách đến thành phố. Khoa học công nghệ và nghệ thuật thực sự được tôn trọng. Bạn có thành quả gì đóng góp cho chính sức khỏe, đời sống, niềm vui con người được vui vẻ đón nhận một cách thân thiện, hứng thú. Du lịch ngày càng trở thành ngành sử dụng lao động lớn tại địa phương.

Ghent cũng là vùng đất địa linh với quá nhiều những người nổi tiếng. Charles V, Hoàng đế La Mã và vua Tây Ban Nha đã được sinh ra ở Ghent năm 1500. Một danh sách dài những người đã và đang hóa thân cho sự phồn vinh của quê hương xứ sở với đủ loại ngành nghề khác nhau.

Phương Bắc đấy! Đi xa về Bắc Âu đến Phần Lan, Thụy Điển, Hà Lan, Đan Mạch, Na Uy là cả một vùng thiên nhiên, văn hóa mới lạ. Nơi đó không gian văn hóa thật trong lành. Chất lượng cuộc sống tốt hơn nhiều vùng tôi đã qua.

Tôi ngồi vào bàn và lưu lại điểm nhấn: “Đến Ghent nhớ những đêm trắng và bình minh phương Bắc cùng với phóng sự ành Memories from Ghent để hẹn ngày quay lại ngẫm và viết. Ghent lúc này đã gần nửa đêm tương ứng với Việt Nam khoảng bốn năm giờ sáng nhưng bầu trời mới bắt đầu tối dần như khoảng 7 giờ chiều ở Việt Nam. Ánh sáng trắng đang nhạt đi và trời như chạng vạng tối. Đẹp và hay thật !

Sắn quà tặng thế giới người nghèo

Hội nghị khoa học đầu tiên của các đối tác sắn toàn cầu (First Scientific Meeting of the Global Cassava Partnership GCP1) với chủ đề “Sắn đáp ứng các thách thức của thiên niên kỷ mới” (Cassava: Meeting the Challenges of the New Millennium) được mở ra ở Trường Đại học Ghent vương quốc Bỉ với hơn một ngàn người tham dự. 115 báo cáo và hơn 200 áp phích (poster) và gian hàng được trình bày, giới thiệu liên tục tại 13 tiểu ban trong ba ngày.

Tiến sĩ Claude Fauquet và tiến sĩ Joe Tohme có hai báo cáo thật ấn tượng: Cây sắn quà tặng của thế giới và cơ hội cho nông dân nghèo; Cây sắn quà tặng của thế giới và thách thức đối với các nhà khoa học. Những vấn đề khủng hoảng năng lượng toàn cầu, an ninh lương thực, môi sinh – môi trường đang thách thức thế giới hiện đại. Những câu hỏi đặt ra nhằm cải tiến cây sắn là cây chịu hạn, giàu tinh bột và năng lượng, đề mang lại thu nhập tốt hơn cho người dân nghèo.

Tôi tham dự hội nghị với ba bài viết S3-2 (trang 54) SP3-9 (trang 60) và SP03-16 trang 63) gồm một báo cáo trước hội nghị toàn thể và hai áp phích. Việt Nam là điển hình quốc tế về sự đột phá sản lượng và năng suất sắn với sản lượng sắn tăng gấp năm lần và năng suất sắn tăng gấp đôi sau tám năm (2000-2008). Đó quả là một điều kỳ diệu cho toàn thế giới! Việc chọn tạo và phát triển các giống sắn mới của Việt Nam đã mang lại bội thu cao trong sản xuất ước vượt trên 2.000 tỷ đồng mỗi năm từ năm 2003 (đạt quy mô 270 ngàn ha x 8,9 tấn bội thu/ha x 50 USD/ tấn x 16.000 VND/USD). Sự cần cù, năng động, chịu thương chịu khó của nông dân Việt Nam thật đáng tự hào.

Thành tựu sắn Việt Nam gắn liền với những bài học kinh nghiệm quý giá của đông đảo bà con nông dân, các nhà khoa học, khuyến nông, quản lý, doanh nghiệp … trong Chương trình Sắn Việt Nam (VNCP). Nước ta đã thành một trường hợp nghiên cứu điển hình (key study) của châu Á và Thế giới. Tôi bị vây kín giữa những người bạn suốt các lần giải lao một cách sung sướng và đáng thương. Đội ngũ đi họp của mình quá mỏng (chỉ một mình tôi) so với những đội hình sắn vững chãi của nhiều nước khác như Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ, Brazil, Thái Lan, Nigeria, Colombia, … Bài báo mà tôi viết chung với PGS.TS. Nguyễn Văn Bộ (Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam), tiến sĩ Reinhardt Howerler và tiến sĩ Hernan Ceballos (là hai chuyên gia nông học và chọn giống sắn hàng đầu của CIAT và thế giới) đã gây ấn tượng tốt và được nhiều người trao đổi, hỏi đáp.

Buổi tối tiến sĩ Boga Boma, giám đốc của một dự án sắn lớn của châu Phi đã mang đồ đạc sang đòi “chia phòng ngủ” với tôi để “trao đổi về bài học sắn Việt Nam và cùng cảm nhận đêm trắng”.

Boga Boma giàu, nhỏ tuổi hơn tôi, tính rất dễ thương, người cao lớn kỳ vĩ trên 1,90 m như một hảo hán. Lần trước Boga Boma làm trưởng đoàn 15 chuyên gia Nigeria sang thăm quan các giống sắn mới và kỹ thuật canh tác sắn của Việt Nam, đúc kết trao đổi về cách sử dụng sắn trong chế biến nhiên liệu sinh học. Anh chàng hảo hán này vừa ra đồng đã nhảy ngay xuống ruộng giống mới, đề nghị tôi nhổ thử một vài bụi sắn bất kỳ do anh ta chỉ định của giống mới KM140 (mà sau này đoạt giải Nhất VIFOTEC của Hội thi sáng tạo khoa học kỹ thuật toàn quốc lần thứ 10 trao giải ngày 19.1.2010 ở Hà Nội). Boga Boma ước lượng năng suất thực tế mỗi bụi sắn này phải sáu ký. Anh đo khoảng cách trồng rồi hồ hởi đưa lên một ngón tay nói với giọng thán phục “Sắn Việt Nam số 1”

Sau buổi tham quan đó, Boga Boma ngỏ lời đề nghị với tôi cho đoàn Nigeria được đến thăm nhà riêng để “tìm hiểu cuộc sống và điều kiện sinh hoạt làm việc của một thầy giáo nông nghiệp Việt Nam”. Anh chàng chăm chú chụp nhiều ảnh về tài liệu sắn của bảy Hội thảo Sắn châu Á và mười Hội thảo Sắn Việt Nam trong một phần tư thế kỷ qua. Anh cũng chụp bếp đèn dầu dùng ga của gia đình tôi. Boga Boma cũng như Kazuo Kawano, Reinhardt Howerler, Hernan Ceballos, Rod Lefroy, Keith Fahrney, Bernardo Ospina, S. Edison, Tian Ynong, Li Kaimian, Huang Jie, Chareinsak Rajanaronidpiched, Watana Watananonta, Jarungsit Limsila, Danai Supahan, Tan Swee Lian, J. Wargiono, Sam Fujisaca, Alfredo Alves, Alfred Dixon, Fernando A, Peng Zhang, Martin Fregene, Yona Beguma, Madhavi Sheela, Lee Jun, Tin Maung Aye, Guy Henry, Clair Hershey, … trong mạng lưới sắn toàn cầu với tôi đều là những người bạn quốc tế thân thiết. Hầu hết họ đều đã gắn bó cùng tôi suốt nhiều năm. Sự tận tâm công việc, tài năng xuất sắc, chân thành tinh tế của họ trong ứng xử tình bạn đời thường làm tôi thực sự cảm mến.

Bẳng đi một thời gian, Boga Boma thông tin Nigeria hiện đã ứng dụng bếp đèn dầu dùng cồn sinh học từ nguyên liệu sắn cho mọi hộ gia đình Nigeria trong toàn quốc. Nigeria đã thành công lớn trong phương thức chế biến sắn làm cồn gia đình phù hợp với đất nước họ, làm tiết kiệm được một khối lượng lớn xăng dầu với giá rất cạnh tranh cho tiêu thụ nội địa và xuất khẩu.

Lần này trong đêm trắng ở Ghent, Boga Boma lại hí húi ghi chép và ngẫm nghĩ về ba bài học kinh nghiệm sắn Việt Nam 6M (Con người, Thị trường, Vật liệu mới Công nghệ tốt, Quản lý, Phương pháp, Tiền: Man Power, Market, Materials, Management, Methods, Money), 10T (Thử nghiệm, Trình diễn, Tập huấn, Trao đổi, Thăm viếng, Tham quan hội nghị đầu bờ, Thông tin tuyên truyền, Thi đua, Tổng kết khen thưởng, Thiết lập mạng lưới người nông dân giỏi) và FPR (Thiết lập mạng lưới thí nghiệm đồng ruộng và trình diễn để nghiên cứu cùng nông dân chuyển giao tiến bộ kỹ thuật sản xuất sắn).

Buổi chiều Yona Beguma cùng các bạn châu Phi say mê trò chuyện cùng tôi về bài học sắn Việt Nam được giới thiệu trên trang của FAO với sự yêu thích, đặc biệt là “sáu em”(6M), “mười chữ T tiếng Việt” (10T) và “vòng tròn FPR dụ dỗ”. Sau này, anh chàng làm được những chuyện động trời của cây sắn Uganda mà tôi sẽ kể cho bạn nghe trong một dịp khác.

Nhìn lớp trẻ thân thương đầy khát vọng tri thức đang vươn lên đỉnh cao giúp xóa đói giảm nghèo và làm giàu cho quê hương xứ sở. Ngắm nhìn sự mê mãi của Boga Boma lúc bình minh vừa rạng lúc anh chàng đã thức gần trọn đêm. Tôi chợt nhớ câu thơ Việt Phương: “Yêu biết mấy những đêm dài thức trắng/ Làm kỳ xong việc nặng sẵn sức bền/ Bình minh đuổi lá vàng trên đường vắng/ Như vì ta mà đời cũng ửng hồng lên”.

Đêm trắng và bình minh phương Bắc

Tôi lục tìm trong khoang tư liệu, đọc lại trích đoạn “Những đêm trắng” của nhà văn Nga Dostoievski và đoạn viết về hiện tượng cực quang của bình minh phương Bắc: “Ở vùng cực của trái đất, ban đêm, thường thấy hiện tượng ánh sáng có nhiều màu sắc: trắng, vàng, đỏ, xanh, tím, rực rỡ có hình dáng như một bức rèm hoặc một cái quạt rất lớn. Có khi những tia sáng lại xòe ra như hình nạn quạt. Cái quạt ánh sáng ấy lấp lánh rung chuyển nhè nhẹ như một bàn tay khổng lồ rũ xuống rũ lên, lập lòe làm thành một quang cảnh kỳ vĩ lạ thường. Màn ánh sáng ấy trong suốt đến nỗi nhìn qua thấy rõ tất cả các ngôi sao trên bầu trời. Hướng của những tia sáng nói chung trùng với hướng của các đường sức của từ trường trái đất. Loại ánh sáng này xuất hiện từ độ cao 80 đến 1.000 km và nhiều nhất là ở độ cao trên dưới 120 km. Ở nước Nga thời trước người ra cho rằng đó là ánh hào quang của những đoàn thiên binh thiên tướng kéo đi trong không gian. Còn nhân dân Phần Lan cho đó là mặt trời giả của người xưa làm ra để soi sáng cho đêm trường Bắc Cực. Vì loại ánh sáng này chỉ thấy trong những miền gần hai cực nên gọi là cực quang. Ở Na Uy và Thụy Điển thì người ta gọi là ánh sáng “bình minh phương Bắc”.

Qua Ghent mới thấy đêm phương Bắc đến chậm và sớm nhanh Việt Nam như thế nào, mới thấm hiểu sự sâu sắc của Dostoievski nhà văn bậc thầy văn chương Nga và thế giới: Ông nói chuyện trời mà cũng là nói chuyện người. Ông trò chuyện về du lịch mà thực ra đang nói về nhân tình thế thái, những đêm trắng và ảo ảnh bình minh phương Bắc. Đó là câu chuyện thật như đùa và đùa như thật, ảo giác mà tưởng thật, thật mà tưởng ảo giác. Nhân loại đã đi qua vùng sáng tối đó, ánh sáng của thiên đường, những đêm trắng nối liền bình minh phương Bắc.

Thực ra, khi bạn đến thủ đô Helsinki của Phần Lan vào tháng 6,7 thì đêm trắng và ảo ảnh bình minh phương Bắc rõ hơn nhiều. Bạn hãy đến đúng dịp hè và chuẩn bị sẵn máy ảnh loại tốt, độ phân giải lớn, khẩu độ rộng để săn ảnh. Tôi buộc phải sử dụng chùm ảnh du lịch Phần Lan vì máy ảnh họ chụp tốt hơn những tấm ảnh đẹp mê hồn về đêm trắng, trời tím và ngủ lều tuyết.

Ở Phần Lan, nhiệt độ trung bình của tháng nóng nhất khoảng 15 độ C, và tháng lạnh nhất khoảng -9 độ C. Trung bình mỗi năm ở Phần Lan có hơn 100 ngày tuyết phủ ở phía nam và tây nam, còn ở phía bắc vùng Lappi thì tới hơn 200 ngày có tuyết. Nhiệt độ ban ngày và ban đêm chênh nhau tới 20 độ C, ngày lạnh nhất và ngày ấm nhất chênh nhau 80 độ C. Mặt trời mọc tháng 1, 2 lúc 9h30 sáng và lặn lúc 3h30 chiều là những ngày ngắn nhất trong năm. Tháng 6,7 mặt trời mọc lúc 4h00 sáng và lặn lúc 10h30 tối là những ngày dài nhất trong năm. Cá biệt ở phía Bắc vùng đất Lapland có những đêm trắng vào mùa hè, mặt trời không bao giờ lặn trong khoảng 60 ngày đêm nên có thể ngắm mặt trời lúc nửa đêm. Tiếp đó là khoảng thời gian chạng vạng không nhìn thấy mặt trời kéo dài trong khoảng 6 tháng vào mùa thu và đông. Không riêng gì Phần Lan mà hầu hết các nước Bắc Âu khí hậu lạnh và thời tiết thay đổi thất thường không được ấm áp thường xuyên như Việt Nam. Tôi lấy làm lạ khi sau này một số người đọc chưa hiểu đúng về sự khái quát cực kỳ tinh tế của Bác: “Nước ta: ở về xứ nóng, khí hậu tốt/ Rừng vàng biển bạc, đất phì nhiêu/ Nhân dân dũng cảm và cần kiệm/ Các nước anh em giúp đỡ nhiều.

Tại Ghent của vương quốc Bỉ, nơi thành phố khoa học và công nghệ sinh học thì ấm hơn nhưng sự tiếp biến đêm trắng và bình minh phương bắc vẫn còn rất rõ nét. Ở đó, mặt trời tháng bảy mọc lúc hừng đông 4g30 -5g00 và lặn lúc 8g00- 9g00. Săn ảnh vào lúc bình minh vừa rạng cũng như ngắm mây ngũ sắc huyền thoại lúc mặt trời sắp lặn ở Việt Nam. Bạn hãy ngắm dòng tinh vân xinh đẹp lạ thường trước lúc bình minh.

Sau này ở Việt Nam tôi chỉ có cơ hội nhìn thấy được sự chuyển màu từ tối tím sang bảy màu, sang màu xanh ngọc và trắng hồng lúc 4g30 sáng ngày 18 tháng 1 năm 2010 tại chòm cao nhất của non thiêng Yên Tử. Tôi chụp trên 100 tấm ảnh mới chọn được tấm ảnh ưng ý nhất. Đó là dịp may hiếm có của đời người. Sau này chúng ta sẽ nhiều dịp trở lại với Trần Nhân Tông và Bình minh trên Yên Tử để học được bài học vô giá của ông cha mình.

Chúng tôi được giáo sư Marc Van Montagu, nhà bác học lừng danh thế giới cha đẻ GMO, vị chủ tịch của Liên đoàn Công nghệ sinh học châu Âu và hiệu trưởng của Trường Đại học Ghent hướng dẫn thăm quan lâu đài cổ, bảo tàng nghệ thuật và trường đại học nơi Ghent được UNESCO tôn vinh là di sản văn hóa thế giới năm 1998, 1999 và mời dự tiệc chiêu đãi. Tôi được mời ngồi bên cạnh ông và ba con người kỳ dị khác. Đó là Claude Fauquet (DDPSC, St Louis USA), Joe Tohme (CIAT, Colombia), G. Hawtin (CIAT, Colombia). Họ quá nổi tiếng trong số những con người đang làm thay đổi thế giới về bức tranh cây sắn và khoa học cây trồng những năm đầu thế kỷ 21. Tôi thực sự ngần ngại vị trí ngồi chung này và muốn thoái thác nhưng họ vui vẻ thân tình mời đại diện các châu lục. Họ đối xử với tôi và các đồng nghiệp với một sự tự nhiên, quý mến, trân trọng, và thực lòng ngưỡng mộ những kết quả đã đạt được của sắn Việt Nam (sau này khi nghĩ lại tôi ứa nước mắt hãnh diện về dân tộc mình đã cho chúng tôi cơ hội “O du kích bắn đại bác”). Tôi biết rõ những tài năng ưu tú xung quanh mình. Họ dung dị bình thường, thân tình lắng nghe nhưng đó là những con người khoa học đặc biệt. Họ không ham hố giàu sang và quyền lực mà chăm chú tận tụy giảng dạy và nghiên cứu, phát triển những thành tựu khoa học nông nghiệp mới, góp phần cải biến chất lượng thực phẩm thế giới theo hướng ngon hơn, tốt hơn, rẻ hơn và thân thiện môi trường hơn (HarvestPlus) nâng cao cuộc sống chúng ta. Tiến sĩ Rajiv J.Shah, giám đốc của Chương trình Phát triển Toàn cầu, Quỹ Bill Gate và Melinda (nơi tài trợ chính cho chuyến đi này của tôi) đã nói như vậy. Tôi ngưỡng mộ và tìm thấy ở họ những vầng sáng của trí tuệ và văn hóa.

Chợt dưng tôi nhớ đến Bernadotte với vợ là Déssirée trong tác phẩm “Mối tình đầu của Napoléon” của Annemarie Selinko. Vợ chồng hai con người kỳ vĩ này với lý tưởng dân chủ đã xoay chuyển cả châu Âu, giữ cho Thụy Điển tồn tại trong một thế giới đầy biến động và nhiễu nhương. Bắc Âu phồn vinh văn hóa, thân thiện môi trường và có nền giáo dục lành mạnh phát triển như ngày nay là có công và tầm nhìn kiệt xuất của họ. Bernadotte là danh tướng của Napoleon và sau này được vua Thụy Điển đón về làm con để trao lại ngai vàng. Ông xuất thân hạ sĩ quan tầm thường nhưng là người có chí lớn, suốt đời học hỏi và tấm lòng cao thượng rộng rãi. Vợ ông là Déssirée là người yêu đầu tiên của Napoleon nhưng bị Napoleon phản bội khi con người lừng danh này tìm đến Josephine một góa phụ quý phái, giàu có, giao du toàn với những nhân vật quyền thế nhất nước Pháp, và Napoleon đã chọn bà làm chiếc thang bước lên đài danh vọng. Bernadotte với vợ là Déssirée hiểu rất rõ Napoleon. Họ đã khéo chặn được cơn lốc cuộc chiến đẫm máu tranh giành quyền lợi giữa các tập đoàn thống trị và các nước có lợi ích khác nhau. Bernadotte và Déssirée đã đưa đất nước Thụy Điển và Bắc Âu thoát cuộc tranh giành. Họ đã khai sáng một vầng hào quang bình minh phương Bắc.

Việt Nam và khối Asean hiện cũng đang đứng trước khát vọng mở mang của “con sư tử phương Đông trỗi dậy” và sự vần vũ của thế giới văn minh nhiều cơ hội hơn cho người dân nhưng cũng tiềm ẩm lắm hiễm họa khó lường. Điều này dường như rất giống của thời người hùng Napoleon của một châu Âu và khao khát của nước Pháp muốn phục hưng dân tộc và mở rộng phạm vi ảnh hưởng. Bài học Bắc Âu miền đất trong lành, nước Bỉ trái tim của EU, và Ghent thành phố khoa học công nghệ là chỉ dấu minh triết chưa bao giờ sáng tỏ và cấp thiết như lúc này. Trước những khúc quanh của lịch sử, các dân tộc tồn tại và phát triển đều biết khéo tập hợp những lực lượng tinh hoa và sức mạnh dân chúng để thoát khỏi hiễm họa và bảo tồn được những viên ngọc quý di sản truyền lại cho đời sau. Trong vùng địa chính trị đầy điểm nóng tranh chấp biên giới hải đảo, sự tham nhũng chạy theo văn minh vật chất và nguy cơ tha hóa ô nhiễm môi trường, nguồn nước, bầu khí quyển, vệ sinh thực phẩm, văn hóa giáo dục và chất lượng cuộc sống thì bài học trí tuế càng cấp thiết và rõ nét. Ông José António Amorim Dias, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Cộng hòa Dân chủ Timor-Leste tại UNESCO và Liên minh châu Âu trên chuyến tàu tốc hành từ Brussels đến Paris chung khoang với tôi đã trò chuyện và chia sẽ rất nhiều điều về triết lý nhân sinh và văn hóa giáo dục.

Đi đâu cũng không bằng Tổ quốc mình. Nói gì, làm gì cũng không bằng dạy, học và làm cho đồng bào đất nước mình. Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương. Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc. Dạy và học thực tiễn trên chính Tổ quốc mình. Việt Nam quê hương tôi! Đó là đất nước của biết bao nhiêu thế hệ xả thân vì nước để quyết giành cho được độc lập, thống nhất, tự do và toàn vẹn Tổ Quốc làm người Thầy nghề nông chiến sĩ hướng đến bát cơm ngon của người dân lao động, đó là điều tôi tâm đắc nhất !

Nhân loại đã có một thời đi trong đêm trắng ánh sáng của thiên đường, đêm trắng bình minh phương Bắc. Sự chạng vạng tranh tối tranh sáng có lợi cho sự quyền biến nhưng khoảng khắc bình minh là sự kỳ diệu mở đầu cho Ngày mới,

Một ngày khởi đầu bằng ban mai tỉnh thức  Tôi đã đi qua một vòng trái đất, một vòng cuộc đời, một vòng đêm trắng để bây giờ một ngày mới bắt đầu từ Bình minh.

Hoàng Kim

CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM (#cltvn)
Hoàng Long, Hoàng Kim (chủ biên) và đồng sự
http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong

HOÀNG LONG CÂY LƯƠNG THỰC
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-long-cay-luong-thuc

CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM

Cây Lương thực Việt Nam #CLTVN chủ yếu có lúa ngô, sắn, khoai. Ẩm thực Việt, nguồn thức ăn đồ uống Việt (Food & Drink) bao gồm gạo ngô, sắn, khoai, cây đậu đỗ thực phẩm, rau hoa quả, thịt, cá, … Dạy và học cây lương thực ngày nay đòi hỏi sự hiểu biết chuyên sâu hệ thống và kết nối liên ngành, nhằm nâng cao giá trị hiệu quả thực tiễn sản xuất chế biến cung ứng và tiêu thụ sản phẩm thành chuỗi giá trị ngành hàng. Mục tiêu nâng cao giá trị chất lượng cuộc sống người dân, tỏa sáng Việt Nam đất nước con người ra thế giới về chất lượng giống, khoa học kỹ thuật công nghê thâm canh cây lương thực Việt, ẩm thực Việt, thương hiệu Việt, sinh thái nông nghiệp Việt, hiệu sách Việt, ngôn ngữ, lịch sử văn hóa Việt Nam.

Cây Lương thực Việt Nam #cltvn thương hiệu Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh một số sản phẩm chính được nghiên cứu phát triển, trồng chủ lực thương mại / hoặc phổ biến rộng rãi trong sản xuất những năm gần đây (hình).Giống lúa GSR65, GSR90, Giống sắn KM419, KM440, Giống khoai lang HL518 (Nhật Đỏ), HL491 (Nhật Tím), Hoàng Long. Đó là lời biết ơn chân thành của các tác giả đối với Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm trên 67 năm (19/11/1955 -19/11/2022) ngày thành lập Trường, và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam chuẩn bị kỷ niệm một trăm năm nông nghiệp Việt Nam IAS đường tới 100 năm (1925-2025) Bài viết này giới thiệu đúc kết tư liệu dạy và học Cây Lương thực Việt Nam giúp bạn đọc tiện theo dõi, hòa niềm vui chung với thầy bạn và đông đảo bà con nông dân.

KHOAI HOÀNG LONG, LÚA SIÊU XANH, NÚI THÁI SƠN

“Khoai Hoang Long, Lúa Siêu Xanh, Núi Thái Sơn là ba điểm đến yêu thích nhất của Hoàng Kim và Hoàng Long tại đất nước Trung Hoa. Vợ chồng Hoàng Kim Nguyễn Thị Thủy bắt đầu sự nghiệp nghiên cứu đời mình bằng giống khoai Hoàng Long và lấy tên khoai Hoàng Long đặt tên cho Hoang Long con trai của mình. Con chúng tôi lại bắt đầu sự nghiệp cuộc đời con Hoàng Long cây lương thực bằng kết quả chọn tạo và phát triển giống Lúa Siêu Xanh Việt Nam (Green Super Rice GSR) GSR65, SR90 với chín năm học tập chọn tạo và thử nghiệp phát triển. Hai cha con chúng tôi ước muốn tạ ơn bằng sự leo núi Thái Sơn đêm trăng rằm Phật Đản 2018 ở đất nước Trung Hoa sau khi Hoàng Long bảo vệ thành công luận án tiến sĩ ở Viện Hàn Lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc (CAAS). Hoàng Kim đã nói với thầy Li và thầy Zheng như vậy. Chùm ảnh này lưu lại những kỹ niệm chính đời người không bao giờ quên.

Ai bảo chăn trâu là khổ? https://hoangkimlong.wordpress.com https://youtu.be/4AppOs_jQ-Y

Giống khoai Hoàng Long

Giống khoai lang Việt Nam Giống khoai lang HL518; Giống khoai lang HL491; Giống khoai Hoàng Long; Giống khoai lang HL4; Giống khoai Bí Đà Lạt

Giống lúa siêu xanh GSR65

Nguồn gốc giống: Giống lúa GSR65 có nguồn gốc từ giống lúa Huang Hua Zhang (HHZ) cải tiến HHZ5-DT11-SAL2-7, được lai tạo và nhập nội nguồn gen từ chương trình chọn tạo giống lúa siêu xanh (GSR) của Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) với Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc (CAAS). Giống lúa GSR65 được Mạng lưới Nghiên cứu Lúa Siêu Xanh Việt Nam tuyển chọn và phát triển thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu tại Việt Nam (Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long và ctv. 2018a, Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long và ctv. 2018b; Hoang Long et al. 2015). Giống lúa siêu xanh GSR 65 đã được tuyển chọn qua bảy vụ tại Phú Yên với sáu khảo nghiệm cơ bản (12 giống lúa trong ba vụ tại hai điểm); bốn khảo nghiệm sản xuất (5 giống lúa tuyển chọn trong hai vụ tại hai điểm), bốn trình diễn xây dựng mô hình sản xuất thử (trong hai vụ tại hai điểm). Giống lúa GSR65 đang được Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Yên chủ trì phối hợp với Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại Học Nông Lâm Huế, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Sóc Trăng, Viện Hàn Lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc lập hồ sơ công nhận giống lúa mới.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-13.jpg

Đặc điểm giống: Giống lúa siêu xanh GSR65 năng suất cao chất lượng tốt thích hợp vùng thâm canh và vùng mặn, vùng hạn. Giống có thời gian sinh trưởng 95 – 100 ngày đối với lúa sạ và 100 – 105 ngày khi cấy. Giống có chiều cao cây 98 – 100 cm. Giống có 336 – 354 bông/m2, trọng lượng 1000 hạt khoảng 24 – 25g. Tỷ lệ gạo lật, tỷ lệ gạo xát và tỷ lệ gạo nguyên đều đạt tốt, chất lượng gạo loại 1. Giống GSR65 đạt mức protein cao trên 7%, có hàm lượng amylose trung bình, có mùi thơm và cơm ngon. Giống có đặc điểm nông sinh học tốt dạng hình lúa siêu xanh, bộ lá xanh lâu bền (điểm 1), thấp cây (điểm 1), cứng cây không đổ ngã (điểm 1), độ thoát cổ bông cao (điểm 1), dạng hạt gạo thon dài. Giống GSR65 kháng vừa rầy nâu, có phản ứng nhiễm vừa với bệnh đạo ôn hại lúa. Giống lúa GSR65 tại Phú Yên trong khảo nghiệm cơ bản đạt năng suất thực thu bình quân là 8,70 tấn/ ha vượt 30,12% so với đối chứng ML48 đạt 6,69 tấn/ha, trong mô hình trình diễn khảo nghiệm sản xuất thử đạt năng suất thực thu bình quân là 7,98 tấn/ ha vượt 11,92% so với đối chứng ML48 đạt 71,3 tạ/ha.

Giống lúa siêu xanh GSR90

Nguồn gốc giống: Giống lúa GSR90 được lai tạo từ tổ hợp OM9921x GSR38 thực hiện tại Việt Nam (GSR38 có nguồn gốc là giống lúa Huang Hua Zhang (HHZ) cải tiến HHZ5-Y7-Y3 nhập nội từ chương trình chọn tạo giống lúa siêu xanh (GSR) của Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) với Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc (CAAS). Giống lúa GSR90 được Mạng lưới Nghiên cứu Lúa Siêu Xanh Việt Nam lai tạo, tuyển chọn và phát triển thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu tại Việt Nam (Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long và ctv. 2018a, Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long và ctv. 2018b; Hoang Long et al. 2015). Giống lúa siêu xanh GSR 90 đã được tuyển chọn qua bảy vụ tại Phú Yên với sáu khảo nghiệm cơ bản (12 giống lúa trong ba vụ tại hai điểm); bốn khảo nghiệm sản xuất (5 giống lúa tuyển chọn trong hai vụ tại hai điểm), bốn trình diễn xây dựng mô hình sản xuất thử (trong hai vụ tại hai điểm). Giống lúa GSR90 đang được Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Yên chủ trì phối hợp với Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửa Long, Trường Đại Học Nông Lâm Huế, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Sóc Trăng, Viện Hàn Lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc lập hồ sơ công nhận giống lúa mới tại Việt Nam.

Đặc điểm giống: Giống lúa siêu xanh GSR90 năng suất cao chất lượng tốt thích hợp vùng thâm canh và vùng mặn, vùng hạn. Giống có thời gian sinh trưởng khoảng 99 – 102 ngày đối với lúa sạ và 101 – 105 ngày khi cấy. Giống có chiều cao cây 103 – 105 cm. Giống có 309 – 351 bông/m2 trọng lượng 1000 hạt khoảng 28 – 29 g. Tỷ lệ gạo lật, tỷ lệ gạo xát và tỷ lệ gạo nguyên đều đạt tốt, chất lượng gạo loại 1. Giống GSR90 đạt mức protein cao trên 7%, có hàm lượng amylose trung bình, có mùi thơm và cơm ngon. Giống có đặc điểm nông sinh học tốt dạng hình lúa siêu xanh, bộ lá xanh lâu bền (điểm 1), thấp cây (điểm 1), cứng cây không đổ ngã (điểm 1), độ thoát cổ bông cao (điểm 1), dạng hạt gạo thon dài. Giống GSR90 ít sâu bệnh hại ngoài đồng ruộng, kháng vừa rầy nâu, có phản ứng nhiễm bệnh đạo ôn hại lúa. Giống lúa GSR90 tại Phú Yên trong khảo nghiệm cơ bản đạt năng suất thực thu bình quân là 8,36 tấn/ha vượt 25,01% so với đối chứng ML48 đạt 6,69 tấn/ha; trong mô hình trình diễn khảo nghiệm sản xuất thử đạt năng suất thực thu bình quân là 8,17 tấn/ ha vượt 14,58% so với đối chứng ML48 đạt 7,13 tấn/ha.

Thông tin tại: 1) Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Văn Minh, Đặng Văn Mạnh, Ngô Thị Bích Diễm, Lê Thanh Tùng, Hoàng Kim, Tian Qing Zheng, Zhikang Li. 2018. Nghiên cứu hai giống lúa siêu xanh GSR65, GSR90 năng suất cao, chất lượng tốt và quy trình kỹ thuật thâm canh lúa thích hợp tại cánh đồng Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên (Two Green Super Rice varieties GSR65, GSR90 with high productivity and quality and appropriate technical process of cultivation in the Tuy Hoa fields, Phu Yen province) Trong sách: Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Tạp chí Khoa học và Công nghệ. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, số 10, trang 47- 55; Science and Technology Journal of Agriculture & Rural Development , MARD, No 10, p. 47-55, ISSN0866-7020 ; 2) Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Phạm Thị Thỏa, Đàm Thanh Tồn, Hoàng Kim 2018. Tuyển chọn giống lúa siêu xanh năng suất cao chất lượng tốt thích ứng điều kiện biến đổi khí hậu ở tỉnh Phú Yên (Phần 2). Selection of Green Super Rice (GSR) with high yield, good qualities, and adaptation to climate condition in Phu Yen province (Part Two). Trong sách:Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển, JAD Tập 17 Số 4, 15-24 (2018) Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh pISSN 2615-9503 ∗ eISSN 2615949X ; 3) Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Phạm Thị Thỏa, Đàm Thanh Tồn, Hoàng Kim 2018. Tuyển chọn giống lúa siêu xanh năng suất cao chất lượng tốt thích ứng điều kiện biến đổi khí hậu ở tỉnh Phú Yên (Phần 1) Selection of Green Super Rice (GSR) with high yield, good qualities, and adaptation to climate condition in Phu Yen province (Part one). Trong sách: Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển, JAD Tập 17 Số 4, 15-24 (2018) Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh pISSN 2615-9503 ∗ eISSN 2615949X

Lúa Siêu Xanh Việt Nam giống tốt và kỹ thuật thâm canh là khâu trọng yếu, đầu tiên để cải tiến chuỗi giá trị sản phẩm lúa gạo Việt Nam, bảo tồn và phát triển bền vững ngành lúa gạo, thích ứng với biến đổi khí hậu, thích hợp với các vùng sinh thái nông nghiệp Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ Việt Nam khẳng định tầm nhìn, cơ chế, chính sách mới nhằm khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn tại Nghị định 57/2018 / ND-CP. Theo đó, trục sản phẩm chính nhắm đến các sản phẩm chính quốc gia, trong khi lúa gạo vẫn tiếp tục là ngành chính của nông nghiệp Việt Nam, giá đỡ của an sinh xã hội và phát triển kinh tế, là sinh kế chính của vùng nông thôn rộng lớn, lao động và việc làm. Chuỗi giá trị sản phẩm lúa gạo ở cấp tỉnh cần đủ lớn, liên kết các khu vực nguyên liệu thô với các thương hiệu, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao và đào tạo nguồn nhân lực. Mục tiêu hướng tới sự đáp ứng tốt nhất chất lượng cuộc sống của người lao động, đạt hiệu quả cao trong tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường, tiến bộ và công bằng xã hội. Mục đích của tài liệu này là nhằm cung cấp thông tin về các kết quả nghiên cứu đã được xác định rõ ràng để giúp người nông dân nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất lúa gạo đi đôi với việc bảo vệ đất đai và môi trường. Tài liệu được thiết kế như một cẩm nang nghề lúa gạo cần thiết cho các nhà nghiên cứu, cán bộ khuyến nông, cán bộ tổ chức phi chính phủ làm việc về phát triển nông nghiệp, cũng như các hộ nông dân trồng lúa quy mô nông hộ sản xuất lớn và nhỏ. Tài liệu nhằm cung cấp một thông tin  tham khảo kỹ lưỡng về thực hành sản xuất lúa thân thiện môi trường. Từ việc trình bày ngắn gọn tầm quan trọng lúa gạo trên thế giới và Việt Nam; sản xuất tiêu thụ lúa gạo trên thế giới và Việt Nam; thành phần dinh dưỡng và giá trị kinh tế lúa gạo; nguồn gốc vùng phân bố và phân loại cây lúa; Sinh học cây lúa: Đặc điểm thực vật học cây lúa (rễ, thân, lá, hoa, hạt) Các giai đoạn sinh trưởng phát triển của cây lúa Đặc điểm sinh lý của ruộng lúa năng suất cao; Khí hậu và đất lúa, tầm quan trọng của nó trong khu vực để đề xuất chi tiết về quản lý đất nước và cây trồng, giống mới và kỹ thuật thâm canh lúa. Tài liệu mỏng này cung cấp một bằng chứng thực nghiệm mạnh mẽ của chính tác giả và đồng sự sau mười năm nghiên cứu ứng dụng lúa siêu xanh (Green Super Rice) vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp Việt Nam, với một số kết quả bước đầu đã được xác định để tiếp tục sự nghiên cứu, giảng dạy, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới, bảo tồn phát triển lúa siêu xanh Việt Nam cho thương hiệu gạo Việt. Kính chúc bà con nông dân những mùa thu hoạch bội thu.

Anh Nam Sinh Đoàn viết : “Ngoài đồng giống lúa không thuần, nhà nông lười khử giống bị lẫn, giống dại. Cộng với nhà lái mua vào để lẫn, hoặc cố tình pha lẫn lấy lời. Ai đời trộn lẫn hột dài với hột hơi tròn, gạo dẽo với gạo cứng cơm, gạo cũ với gạo mới, … Chính vì vậy mà nồi cơm nào cũng chỗ nhão chỗ khô, hạt mềm nhẽo cạnh hạt còn tim bột. (Chưa kể phun thêm hương liệu, chất chống mốc mọt,…thay đổi cả đặc tính hạt gạo khi đun nấu). Nhiều năm làm lúa với anh Hồ Quang Cua, mới có dịp học hỏi về việc làm giống, giữ đặc trạng của từng giống, cách thức trồng trọt – thu hoạch – tồn trữ – xay xát – lựa lọc – bao bì,…cả chục việc đòi hỏi phải chắc tay. Thế mà khi thí nghiệm trên bàn của nhóm chuyên gia còn lòi ra bao thứ khác: thời gian ngâm, tỉ lệ nước, thời gian đun và cách đun nấu, … Ví dụ, với cùng một thứ gạo, nhưng có dòng nở ít, thì chỉ 70-71% nước. Loại nào nở cơm thì ngâm trước 15 phút, loại nở búp chỉ cần mươi phút là được. Lại còn tùy loại gạo, để ăn xào với rau, gia vị cho có màu mùi như kiểu châu Âu thì nấu bằng nồi hơi như nồi hong. Để còn làm cơm xào, cơm chiên thì chớ ngâm nhiệt, tức là ngâm gạo, đun nước vừa nóng chừng 50 độ hãy cho gạo vào theo đúng tỉ lệ, mới đạt yêu cầu. Câu nói: Cơm lành canh ngọt tưởng dễ mà khó thay”. Tôi (Hoàng Kim) trả lời: Thưa anh, xin hãy nhìn tấm ảnh, từ hạt gạo đến bát cơm chỉ là một phần ngắn trong chuỗi “hoa lúa, bùn, hột lúa, cây lúa, hạt gạo, bát cơm”. Hai khâu khó nhất và nhọc nhằn nhất là hoa lúa và bùn. Mời đọc bài tiếp nối Từ Sắn Việt Nam đến Lúa Siêu Xanh; Lúa Siêu Xanh Việt Nam

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chien-luoc-chon-tao-lua-sieu-xanh-vietnam.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-gsrgvn.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-6.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-8.jpg

Hoàng Long bảo vệ thành công luận án tiến sĩ ở Viện Hàn Lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc (CAAS), Bắc Kinh, Trung Quốc năm 2018, ngay trước rằm Phật Đản

Giáo sư viện sĩ Zhikang Li là nhà di truyền chọn giống cây trồng hàng đầu Trung Quốc, IRRI và Thế giới, nhà khoa học chính của Dự án IRRI Green Super Rice GSR, và Phó Giáo sư Tiến sĩ Tian Qing Zheng là Trưởng nhóm nghiên cứu GSR vùng Châu Á và Châu Phi, quản lý nguồn gen lúa gạo GSR của Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc, Bắc Kinh, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. 


Lên Thái Sơn hướng Phật

Hoàng KimHoang Long

Đường trần thênh thênh bước
Đỉnh xanh mờ sương đêm
Hoàng Thành, Trúc Lâm sáng
Phước Đức vui kiếm tìm.

Đêm Thái Sơn cha con tôi đã có một chuyến leo núi thật tuyệt vời, một trãi nghiệm không bao giờ quên và một giấc ngủ thật ngon dưới gốc tùng ở Thái An, Sơn Đông. Nhớ về kỷ niệm cũ khoai lang, tôi gom ba bài viết cũ ‘Giống khoai lang ở Việt Nam‘, ‘Thơ cho con‘, ‘Đến Thái Sơn nhớ Đào Duy Từ” vào phần ba, với một số hình ảnh đẹp chụp cảnh xưa thu hoạch khoai Hoàng Long  tại Sơn Đông cùng với nông dân và các chuyên gia khoai lang Trung Quốc, CIP năm 1996, ảnh đẹp chụp ở ‘Khổng miếu’ với giáo sư khoai lang  Ấn Độ, ảnh đẹp chụp ‘Khổng Lâm’ với giáo sư khoai lang nổi tiếng  Rasco người Philippine. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/len-thai-son-huong-phat/

Đến Thái Sơn nhớ Người
Hoàng Kim và Hòang Long

Ngược gió đi không nản
Rừng thông tuyết phủ dày
Ngọa Long cương đâu nhỉ?
Đầy trời hoa tuyết bay!

Chúng tôi hành hương lên Thái Sơn hướng Phật để thấu hiểu và giác ngộ. Lên Thái Sơn hướng Phật là con đường di sản soi thấu trên 5000 năm lịch sử văn hóa Trung Quốc mà tôi và Hoang Long đã may mắn được thực hiện trong trong đêm Phật đản năm 2018. Hoàng Long vừa hoàn thành thật tốt việc bảo vệ luận án tiến sĩ về đề tài lúa siêu xanh (Green Super Rice GSR) với sự hướng dẫn của hai chuyên gia di truyền chọn giống lúa lỗi lạc hàng đầu của đất nước Trung Hoa. Học để làm (Learning to Doing), học bởi làm (Learning by Doing) là nguyên lý giáo dục hiện đại gắn kết ngành hàng với chất lượng thương hiệu sản phẩm, giá trị kinh tế, hiệu quả sản xuất đích thực.

Núi Thái Sơn là di sản thế giới hỗn hợp, đáp ứng đủ 7 tiêu chuẩn,và đạt nhiều tiêu chuẩn nhất hiện nay của UNESCO, với hai hai yếu tố nổi bật về văn hóa và thiên nhiên. Đó là điểm đến du lịch nổi bật bậc nhất tại Trung Quốc. Núi Thái Sơn cùng với Vùng hoang dã ở Tasmania của Úc là 2 di sản thế giới hỗn hợp đáp ứng đủ 7 tiêu chuẩn của UNESCO, nhưng Tasmania thì đáp ứng tất cả các tiêu chuẩn di sản thiên nhiên còn Thái Sơn thì đáp ứng đủ 7  tiêu chuẩn di sản thiên nhiên và văn hóa.  Do vậy, núi Thái Sơn năm 1988 đã được UNESCO công nhận là di sản đứng đầu trong số 9 khu di sản tổng hợp của thế giới, là điểm du lịch thiên nhiên văn hóa nổi  tiếng, mà nhiều người thích leo núi trên 4 tiếng đi bộ từ chân núi lên đỉnh núi vào ban đêm, để ngắm mặt trời mọc vào sáng sớm.

Trung Quốc một suy ngẫm
Hoàng KimHoang Long

Tuyết rơi trên Vạn Lý
Trường Thành bao đổi thay
Ngưa già thương đồng cỏ
Đại bàng nhớ trời mây.

Hồ Khẩu trên Hoàng Hà
Đại tuyết thành băng giá
Thế nước và thời trời
Rồng giữa mùa biến hóa.

Lên Thái Sơn hướng Phật
Chiếu đất ở Thái An
Đi thuyền trên Trường Giang
Nguyễn Du trăng huyền thoại

Khổng Tử dạy và học
Đến Thái Sơn nhớ Người
Kho báu đỉnh Tuyết Sơn
Huyền Trang tháp Đại Nhạn

Tô Đông Pha Tây Hồ
Đỗ Phủ thương đọc lại
Hoa Mai thơ Thiệu Ung
Ngày xuân đọc Trạng Trình

Quảng Tây nay và xưa
Lên đỉnh Thiên Môn Sơn
Ngày mới vui xuân hiểu
Kim Dung trong ngày mới

Bình sinh Mao Trạch Đông
Bình sinh Tập Cận Bình
Lời dặn của Thánh Trần
Trung Quốc một suy ngẫm

BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN SẮN
Sán Việt Nam ngày nay. Giống sắn Việt Nam phát triển qua 50 năm. Vietnamese cassava today Vietnamese cassava varieties progression across 50 years; see more

see more https://vietnamscience.vjst.vn/index.php/vjste/article/view/1186 & https://vietnamscience.vjst.vn/index.php/vjste/article/view/1186/441 & https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-19-thang-3/

  • Long Hoang*
  • Mai T.T. Nguyen
  • Doan. N.Q. Nguyen
  • Kim Hoang
  • Clair Hershey
  • Reinhardt Howeler

Abstract

Vietnamese cassava varieties constitute the fundamental and pivotal element in the sustainable development programme for cassava. This article aims to encapsulate the advancements made over nearly five decades in breeding and enhancing Vietnamese cassava varieties. It delineates the suitable cassava variety structures for each period and ecological region. The selection of cassava varieties exhibiting high starch yield and disease resistance, coupled with the establishment of a suitable and efficient cassava cultivation model, exemplified by 10T for Vietnamese cassava varieties KM568, KM539, KM537, KM569, and KM94, stands as a cornerstone for sustaining cassava development over the years. Presently, we advocate for farmers to cultivate promising cassava varieties such as KM568 or KM539 (an enhanced version of the International Center for Tropical Agriculture (CIAT) cassava variety C39, refined through multiple breeding cycles from 2004 onwards), KM537, KM569, or HN1 (originally known as TMEB419), alongside popular cassava varieties: KM440, KM419, KM94, KM7, STB1, KM414, KM98-7, KM140, KM98-5, KM98-1. We have conducted Distinctness, Uniformity, and Stability (DUS) and Value for Cultivation and Use (VCU) tests, showcasing outstanding cassava varieties in large-scale farming, thereby providing compelling evidence for the prudent conservation and sustainable development of cassava. Vietnamese cassava progression (1975 to date) has traversed six stages, with five waves of restructuring cassava varieties, aligning with target orientations, farming conditions, and market demands, culminating in 16 popular cassava varieties and four promising cassava varieties KM568, KM539, KM537, and KM569.

Keywords:

Cassava varieties, Distinctness, Uniformity, and Stability (DUS) and Value for Cultivation and Use (VCU), progression, Vietnam

DOI:

https://doi.org/10.31276/VJSTE.66(1).59-76

Classification number

3.1

Author Biographies

Long Hoang

Faculty of Agronomy, Nong Lam University – Ho Chi Minh City, Quarter 6, Linh Trung Ward, Thu Duc City, Ho Chi Minh City, Vietnam

Mai T.T. Nguyen

Department of Agriculture and Rural Development of Phu Yen Province, 64 Le Duan Street, Tuy Hoa City, Phu Yen Province, Vietnam

Doan. N.Q. Nguyen

Faculty of Economics, Phu Yen University, 18 Tran Phu Street, Ward 7, Tuy Hoa City, Phu Yen Province, Vietnam

Kim Hoang

Faculty of Agronomy, Nong Lam University – Ho Chi Minh City, Quarter 6, Linh Trung Ward, Thu Duc City, Ho Chi Minh City, Vietnam

Vietnam National Cassava Program (VNCP), 121 Nguyen Binh Khiem Street, Dakao Ward, District 1, Ho Chi Minh City, Vietnam

Clair Hershey

International Center for Tropical Agriculture (CIAT), Kilometro 17, Straight Cali – Palmira, Apartado Aéreo 6713, Cali, Colombia

Reinhardt Howeler

International Center for Tropical Agriculture (CIAT), Kilometro 17, Straight Cali – Palmira, Apartado Aéreo 6713, Cali, Colombia

Downloads

Published

2024-03-15

Received 22 October 2023; revised 20 November 2023; accepted 15 February 2024

Vietnamese cassava varieties progression across 50 years
Giống sắn Việt Nam phát triển qua 50 năm
SẮN VIỆT NAM BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Vietnamese cassava varieties progression across 50 years
. Greeting from Hoang Kim Vietnam to Reinhardt Howeler and my teachers and friends. Best wish to you and your family on New Days; Good friends are hard to find, harder to leave, and impossible to forget, see moresee more https://vietnamscience.vjst.vn/index.php/vjste/article/view/1186 & https://vietnamscience.vjst.vn/index.php/vjste/article/view/1186/441 and https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietnamese-cassava-today — with Hoang Long, Nguyen Thi Truc Mai, Nguyen Nu Quynh Doan, Clair Hershey, and Reinhardt Howeler.

Welcome to read ….

Article Sidebar

Ngày xuất bản: 26-02-2024

DOI: 10.52997/jad.1.01.2024

Trích dẫn

Nguyễn, M. T. T., Hoàng, L., Nguyễn, Đoan N. Q., & Hoàng, K. (2024). Kết quả chọn tạo và khảo nghiệm các giống sắn triển vọng KM568, KM539, KM537 tại tỉnh Phú Yên. Tạp Chí Nông nghiệp Và Phát triển 23 (1), 1-13.

Số tạp chí

Tập 23 – Số 1 (2024)

Chuyên mục

Nông học, Lâm Nghiệp

Main Article Content

Tóm tắt

Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh chính, phù hợp với điều kiện sản xuất của tỉnh Phú Yên là quan trọng và cấp bách. Mục tiêu nhằm chọn tạo được giống sắn có năng suất tinh bột cao (vượt hơn đối chứng KM419 và KM94 tối thiểu 10%), kháng được sâu bệnh chính, điểm bệnh cấp 1 – 2 đối với bệnh khảm lá (CMD) và bệnh chồi rồng (CWBD). Phương pháp nghiên cứu thực hiện theo chuẩn của Chương trình sắn Việt Nam và Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới quốc tế (CIAT) về quy trình công nghệ chọn tạo và nhân giống sắn lai. Kết quả đã tuyển chọn được ba giống sắn triển vọng KM568, KM539 và KM537. Giống sắn KM568 con lai của KM440 x (KM419 x KM539), có năng suất củ tươi 54 tấn/ha với hàm lượng tinh bột 28,4% lúc 10 tháng sau trồng. Giống sắn KM539 là C39* chọn lọc của C39 nhập nội từ CIAT và có năng suất củ tươi 45,9 tấn/ha với hàm lượng tinh bột 27,9%. Giống sắn KM537 là con lai của (KM419 x KM539) x KM440, có năng suất củ tươi 51,3 tấn/ha với hàm lượng tinh bột 28,5%. Cả 3 giống này đều kháng bệnh CMD cấp 1,5 và kháng bệnh CWBD cấp 1. KM568, KM539 và KM537 lần lượt có 8 – 14 củ/bụi, 7 – 12 củ/bụi và 7 – 12 củ/bụi. Tất cả các giống này đều đạt kiểu hình cây lý tưởng, thịt củ trắng, cây thẳng, tán gọn, lóng ngắn và ít phân cành. Ngoài ra, chiều cao cây của KM568, KM539 và KM537 lần lượt là 2,3 – 2,7 m, 2,7 – 3,0 m và 2,5 – 2,9 m.

Từ khóa: DUS và VCU, Giống sắn, KM568, KM539, KM537

Article Details

Tài liệu tham khảo

FAO (Food and Agriculture Organization of the United Nations). (2022). FAOSTAT. Rome, Italy: FAO.

Hoang, K. (2003). Technology of cassava breeding. In Ngo, D. T., & Le, Q. H. (Eds.). Varietal technology of plant, animal and forestry (Vol. 2, 95-108). Ha Noi, Vietnam: Agricultural Publishing House.

Hoang, K., Nguyen, B. V., Hoang, L., Nguyen, H. T., Ceballos, H., & Howeler, R. H. (2010). Current situation of cassava in Vietnam. In Howeler, R. H. (Ed.), Proceedings of The 8th Regional Workshop on A New Future for Cassava in Asia: Its Use as Food, Feed, and Fuel to Benefit The Poor (100-112). Vientiane, Lao PDR: International Center for Tropical Agriculture (CIAT) and the National Agriculture and Forestry Research Institute (NAFRI). Retrieved February 15, 2022, from http://ciat-library.ciat.cgiar.org/Articulos_Ciat/biblioteca/A_new_future_for_Cassava_in_Asia_Its_use_a_food_freed_and_fuel_to_benefit_the_poor-compressed.pdf.

Hoang, K., Nguyen, M. T. T., Nguyen, M. B., & Howeler, R. H. (2011). Cassava conservation and sustainable development in Vietnam. In Howeler, R. H. (Ed.), Proceedings of The 9th Regional Workshop on Sustainable Cassava Production in Asia for Multiple Uses and for Multiple Markets (35-56). Guangxi, China: International Center for Tropical Agriculture (CIAT) and the Chinese Cassava Agrotechnology Research System (CCARS). Retrieved April 20, 2022, from http://ciatlibrary.ciat.cgiar.org/Articulos_Ciat/biblioteca/Sustainable_cassava_production_in_Asia_for_multiple_uses_and_for_multiple_markets.pdf

Hoang, L., Nguyen, M. T. T., Nguyen, M. B., Hoang, K., Ishitani, M., & Howeler, R. H. (2014). Cassava in Vietnam: production and research; an overview. In Howeler, R. H. (Ed.), Proceedings of Asia Cassava Research Workshop (15). Ha Noi, Vietnam: ILCMB- CIAT-VAAS/AGI.

Howeler, R. H. (2011). Proceedings of the 9th regional workshop on sustainable cassava production in Asia for multiple uses and for multiple markets. Retrieved April 20, 2022, from http://ciatlibrary.ciat.cgiar.org/Articulos_Ciat/biblioteca/Sustainable_cassava_production_in_Asia_for_multiple_uses_and_for_multiple_markets.pdf

Howeler, R. H., & Aye, T. M. (2014). Sustainable management of cassava in Asia – From research to practice. Ha Noi, Vietnam: News Publishing House.

MARD (Ministry of Agriculture and Rural Development). (2022). Report on production situation and directing the prevention of harmful organisms on cassava. Gia Lai, Vietnam: MARD and People’s Committee of Gia Lai Province.

Nguyen, M. B. (2018). Research on cultural techniques to scatter harvest season for cassava in Dak Lak province (Unpublished doctoral dissertation). Tay Nguyen University, Dak Lak, Vietnam.

Nguyen, M. T. T. (2017). Study on the selection of high yielding cassava varieties and intensive cultivation techniques in Phu Yen province (Unpublished doctoral dissertation). University of Agriculture and Forestry, Hue University, Hue, Vietnam.

Nguyen, M. T. T., Hoang, L., Nguyen, D. N. Q., & Hoang, K. (2021). Phu Yen cassava solutions for sustainable development. Phu Yen, Vietnam: Phu Yen Provincial People’s Committee.

Nguyen, V. A., Le, T. N., Nguyen, H., Do, T. T., Nguyen, H. T., Pham, H. T. T., Nguyen, H. T., Seki, M., & Le, H. H. (2021). Characterization of some popular cassava varieties in Vietnam. Journal of Vietnam Agricultural Science and Technology 3(124), 1-17.

Tran, Q. N., Hoang, K., Vo, T. V., & Kawano, K. (1995). Selection results of the new cassava varieties KM60, KM94, KM95 and SM937-26. In Proceedings of Vietnam Agricultural Research Workshop. Lam Dong, Vietnam: Ministry of Agriculture and Rural Development.

VNA (Vietnam National Assembly). (2018). Law No. 31/2018/QH14 dated on November 19, 2018. Law on crop production. Retrieved May 24, 2022, from https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Luat-Trong-trot-2018-336355.aspx.

VNFU (Central Vietnam Farmer’s Union). (2021). New rural magazine – Farmer’s scientist links take off together. Ho Chi Minh City, Vietnam: Youth Publishing House.

CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM
#cltvn #Vietcassava tích hợp thông tin Phú Yên Online I Kết quả bước đầu trong chọn tạo giống sắn kháng bệnh xem tiếp tin và ảnh tại https://baophuyen.vn/79/310545/ket-qua-buoc-dau-trong-chon-tao-giong-san-moi-khang-benh.html

Đề tài khoa hc, công ngh cp tnh Nghiên cu chn to ging sn năng sut tinh bt cao, kháng được sâu bnh hi chính, phù hp vi điu kin sn xut ti tnh Phú Yên đang nhn được s quan tâm ca ngành Nông nghip, h dân trng sn và m ra nhiu trin vng cho cây sn Phú Yên.

Đài Truyền Hình Phú Yên Khoa học và Cuộc sống tháng 11/2023 “Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên” https://youtu.be/gZZk9OL_4fg

#Vietcassava Phu Yen 18 11 2023

KM568 năng suất tinh bột cao kháng cao CMD CWBD cây và củ kiểu hình lý tưởng

KM569 ăn ngon ruột vàng kháng khá CMD CWBD với KM568 năng suất tinh bột cao kháng cao CMD CWBD củ và cây chuẩn được lão Nông chấp nhận tuyển chọn

KM539 năng suất bột cao kháng cao CMD CWBD tuyển chọn dạng cây thấp ít phân nhánh

Cụ Bình với KM539-10 Đồng Xuân

Giống sắn HN1 năng suất tinh bột cao, kháng cao CMD CWBD nhưng nhược điểm cao cây dễ đổ ngã

Older information

Tay Ninh Cassava Workshop 04-06 October 2023 Establishing Sustainable Solution to Cassava Disease in Mainland Southeast Asia. Project Review and Research Symposium, see more Vietnamese cassava today https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietnamese-cassava-today/

Dự án thiết lập các giải pháp bền vững xử lý sâu bệnh hại khoai mì khu vực Đông Nam Á:

Chọn tạo được 6 giống mì kháng bệnh khảm lá  Cập nhật ngày: 05/10/2023 – 08:38

BTNO – Sáng 4.10, UBND tỉnh Tây Ninh tổ chức hội nghị tổng kết Dự án thiết lập các giải pháp bền vững xử lý sâu bệnh hại khoai mì (sắn) khu vực Đông Nam Á.
(Nguồn: Báo Tây Ninh: https://baotayninh.vn/chon-tao-duoc-6-giong-mi-khang-benh-kham-la-a164224.html) tích hợp thông tin tại Vietnamese cassava today https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietnamese-cassava-today/

Ông Trần Văn Chiến – Phó Chủ tịch UBND tỉnh phát biểu tại hội nghị.

Dự hội nghị có ông Lê Văn Thiệt- Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật; ông Trịnh Xuân Hoạt- Phó Viện trưởng Viện Di truyền thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT); đại diện Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp quốc tế Úc (ACIAR), đơn vị tài trợ dự án; Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT), chuyên gia nông nghiệp các nước Campuchia, Lào, Indonesia, Philippines, và một quốc gia châu Phi.

Về phía Tây Ninh có ông Trần Văn Chiến- Phó Chủ tịch UBND tỉnh; ông Nguyễn Đình Xuân – Giám đốc Sở NN&PTNT và nông dân trồng mì trên địa bàn tỉnh.

Phát biểu tại hội nghị, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Trần Văn Chiến cho biết, dự án Thiết lập các giải pháp xử lý bệnh hại trên cây mì tại các nước khu vực Đông Nam Á do ACIAR tài trợ, thực hiện trong giai đoạn 2019 – 2023, có sự tham gia của Trung tâm Nghiên cứu thực nghiệm nông nghiệp Hưng Lộc, Viện Di truyền nông nghiệp, Viện Bảo vệ thực vật và Sở NN&PTNT Tây Ninh. Dự án nghiên cứu, khảo nghiệm và đánh giá một số giống mì tiềm năng có khả năng kháng bệnh phù hợp với điều kiện tự nhiên của khu vực Đông Nam bộ. Kết quả bước đầu của dự án chọn tạo được 6 giống mì kháng bệnh khảm lá, gồm: HN1, HN3, HN5, HN36, HN80, HN97.

Ông Trần Văn Chiến hy vọng trong thời gian tới, Trung tâm ACIAR và CIAT sẽ tiếp tục hỗ trợ nghiên cứu và phát triển lĩnh vực nông nghiệp nông thôn trên địa bàn tỉnh; đồng thời, phối hợp triển khai có hiệu quả trong lĩnh vực nghiên cứu, lai tạo, trồng khảo nghiệm và sản xuất các giống mì mới sạch bệnh cho năng suất, hàm lượng tinh bột cao, có khả năng thích ứng tốt với điều kiện canh tác tại Tây Ninh.

Ông Jonathan Newby – Giám đốc Chương trình sắn Quốc tế, Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT) trao đổi với ông Bùi Công Ngọc-(người được chuyển giao thí điểm nhân giống mì kháng khảm).

Ông Nguyễn Đình Xuân – Giám đốc Sở NN&PTNT Tây Ninh cho biết, diện tích trồng mì hàng năm của tỉnh khoảng 60.000 ha, tập trung tại các huyện Tân Châu, Tân Biên, Châu Thành và Dương Minh Châu. Năng suất trung bình từ 33 – 35 tấn/ha (cao gấp 1,7 lần năng suất trung bình của cả nước), chiếm 10% diện tích và 20% tổng sản lượng, đóng góp 50% vào tổng thu nhập quốc gia.

Theo ông Xuân, bệnh khảm lá đã ảnh hưởng đáng kể đến năng suất tinh bột mì, từ 30% -70%. Do đó, việc triển khai dự án thiết lập các giải pháp bền vững xử lý sâu bệnh hại mì khu vực Đông Nam Á giúp tìm ra được nhiều giống mới, kháng được bệnh, năng suất cao hơn đáng kể so với các giống được trồng phổ biến trước đây.

Ông Jonathan Newby- Giám đốc Chương trình sắn quốc tế, Trung tâm CIAT cho biết, kết quả dự án cho thấy việc trồng trọt bằng nguồn giống sạch sẽ cho năng suất củ tươi và hàm lượng tinh bột cao hơn đáng kể đối với tất cả các giống được thử nghiệm. “Chúng tôi đang trong giai đoạn đàm phán cuối cùng để thành lập Trung tâm Nghiên cứu sắn ở tỉnh Tây Ninh, có sự tham gia của nhà nước, doanh nghiệp và các nhà đầu tư nghiên cứu”- ông Jonathan Newby nói thêm.

Nông dân tham gia khảo sát bất ngờ về bộ củ của cây mì HN1.

Tại hội nghị, UBND tỉnh ký kết biên bản thoả thuận hợp tác với Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT) giai đoạn 2024 – 2028. Theo đó, hai bên thống nhất thành lập một ban điều hành bao gồm các thành viên của CIAT, UBND tỉnh Tây Ninh, đại diện của các doanh nghiệp nhằm hỗ trợ và điều phối các hoạt động nghiên cứu tại địa phương trong giai đoạn 2024-2028.

Minh Dương

Báo DÂN VIỆT 4.10 2023 . Tính đến tháng 12/2022, diện tích trồng sắn sử dụng các giống kháng bệnh khảm lá còn trên đồng là 117,5 ha; gồm các giống HN3, HN5, HN1, HN 80, HN 97. Trong đó, giống HN5 có diện tích nhiều nhất, 70ha. Trong năm 2023, giống sắn kháng khảm HN36 được phép lưu hành, nâng tổng số lượng giống kháng khảm được phép lưu hành tại vùng Đông Nam Bộ lên 6 giống: HN1, HN3, HN5, HN36, HN80, HN97.

Thành lập Trung tâm Nghiên cứu sắn ở Tây Ninh

Ngành nông nghiệp khuyến khích, hỗ trợ kỹ thuật cho người dân tham gia cùng sản xuất, tăng khả năng cung cấp giống kháng khảm cho khoảng 2.000ha trên địa bàn tỉnh “Tính theo cấp số nhân gấp 10 lần (1 cây sắn giống có thể cho ra 10 hom giống – PV), diện tích giống sắn kháng bệnh khảm có thể tăng lên 10.000ha, thậm chí cao hơn vào niên vụ 2023 – 2024”, ông Xuân cho biết.

xem tiếp https://danviet.vn/da-co-175-giong-san-khang-duoc-benh-kham-la-nong-dan-het-noi-lo-voi-loai-dich-benh-nguy-hiem-nay-20231004130310515.htm?fbclid=IwAR2yWSzwIFyveo6Q78ftQuRp9C0B_ZVAqmJ0Z6rlCj_JEhsNDq6vqFcXL7Q

HOÀNG TỐ NGUYÊN TIẾNG TRUNG
黄素源 (越南) Hoàng Tố Nguyên Việt Nam
Dạy và học tiếng Trung trực tuyến
#htn Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung https://hoangkimvn.wordpress.com/category/hoang-to-nguyen-tieng-trung/https://hoangkimlong.wordpress.com/tag/htn. Bài học mới mỗi ngày https://hoangkimvn.wordpress.com/

VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH
Hoàng Kim


Bạn hỏi: “Thầy có lời khuyên gì cho thế hệ trẻ nông nghiệp, cả về tài và đức, để đóng góp được gì đó cho quê hương không Thầy? Tôi trả lời: Mời bạn “Đọc Những người lính sinh viên của Lê Anh Quốc“, bài thơ tuyệt hay và lời bình thơ thật thấm thía của anh Phan Chí Thắng đã thay lời muốn nói. Cám ơn anh Lê Anh Quốc và anh Phan Chí Thắng. xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-con-duong-xanh/

Chúng tôi thuộc thế hệ ‘Những người lính sinh viên’ trở về nông nghiệp Người thầy khoa học xanh chiến sĩTrận chiến hôm qua bạn góp máu hồng. Lớp học hôm nay bạn không trở lại. Trách nhiệm trong mình nhân lên gấp bội. Đồng đội ơi tôi học cả phần anh“. Tôi viết cho anh Trần Mạnh Báo mà cũng chính là lời khuyên cho chính bản thân mình : “Bao nhiêu bạn cũ đã đi rồi Nhớ để mà thương cố gắng thôi Nhà khoa học xanh gương trung hiếu Người thầy chiến sĩ đức hi sinh Dưới đáy đại dương là ngọc quý Trên đồng chữ nghĩa ấy tinh anh Doanh nghiệp Thái Bình chăm việc thiện Giống tốt bội thu vẹn nghĩa tình“.

Nhà khoa học xanh Norman Borlaug là nhà nhân đạo, nhà nông học Mỹ, cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và Tổng thống Mỹ trao tặng huân chương cao quý nhất của nước Mỹ, thế giới tôn vinh là nhà bác học số một của nhân loại trong cuộc chiến chống nghèo đói. Thầy suốt đời nghiên cứu giảng dạy về chọn tạo và phát triển cây lương thực, góp phần cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập cho hàng trăm triệu nông dân nghèo ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Thầy là người sáng lập Giải thưởng Lương thực Thế giới và tổ chức nhiều hoạt động thiết thực thắp sáng niềm tin yêu cuộc sống.

Lời Thầy dặn thật thấm thía: “ Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao . Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời”.

Đọc NHỮNG NGƯỜI LÍNH SINH VIÊN của Lê Anh Quốc
Phan Chí Thắng

Tôi hoàn toàn không quen biết người lính Lê Anh Quốc, càng không biết có nhà thơ tên là Lê Anh Quốc. Vô tình đọc được thơ anh trên Facebook, tôi không thể làm được việc gì khác ngoài việc viết cảm nhận về trường ca hơn 500 câu “Những người lính sinh viên” của anh.

Tôi rất ít khi bình thơ, phải xúc động lắm mới viết.

Được biết anh nhập ngũ năm 1971, khi đang là sinh viên.
Một người lính sinh viên, một nhà thơ lính. Một người trong số hơn 10.000 sinh viên các trường đại học của Hà Nội lên đường vào Nam chiến đấu từ năm 1970 đến năm 1972. Hơn một nửa đã hy sinh tại các mặt trận, nhưng nhiều hơn cả là hy sinh tại chiến dịch bảo vệ Thành cổ Quảng Trị những tháng ngày đỏ lửa.

Tôi gõ tên anh cùng tên bài trường ca của anh trong Google. Không thấy.

Nghĩa là anh không nổi tiếng, thơ anh thuộc loại “chưa được xếp hạng” theo cách xếp hạng của giới tự phong cho mình là chuyên nghiệp.

Thơ về chiến tranh có hai giai đoạn. Giai đoạn trong chiến tranh và giai đoạn sau chiến tranh.

Thơ chiến tranh trong chiến tranh mang tính động viên ca ngợi với âm hưởng chủ đạo là cảm hứng sử thi. Phạm Tiến Duật: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm!” hay Nam Hà “Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi Việt Nam ơi!”.

Thời kì hậu chiến, khi đã có độ lùi của thời gian, bối cảnh xã hội và tâm thế sáng tạo cho phép người viết được tái hiện chiến tranh thiên về chất trữ tình triết lí, chiêm nghiệm. Cốt truyện không còn là điều quan trọng như trong trường ca truyền thống mà mang yếu tố tự sự nhiều hơn.

Trường ca Những người lính sinh viên nằm trong số đó.

Tác giả không nhận mình là thi sĩ chuyên nghiệp:

“Chúng tôi đi đánh giặc những tháng năm dài
Phút khuây khỏa
Làm thơ trên báng súng.
Đời chẳng tĩnh
Nên câu thơ quá động.
Lục bát trèo
Lên võng
Đung đưa…”

Lục bát trèo lên võng đung đưa là thơ nó tự trèo lên người lính. Câu thơ thật hay, chuyên nghiệp chắc gì nghĩ ra.

Thơ anh tự sự nhưng không phải tự sự của “tôi” mà là của “chúng tôi”, những người người lính có học mà anh gọi là lính sinh viên, từ ruột gan người lính. Những vần thơ mộc mạc, tự nhiên như chính đời lính gian khổ, đói rét, hy sinh, ngời sáng tình đồng đội thiêng liêng cao thượng.

Nói về thế hệ mình, anh tự hào:

“Thế hệ chúng tôi !
Ai cũng dễ thương,
Thơm thảo như hoa,
Ngọt ngào như trái.
Tình đồng đội lòng không cỏ dại,
Nghĩa đồng bào – Bầu, Bí thương nhau.”

Anh nói về sự hy sinh của các chị các em các mẹ mà anh cho là cao cả hơn sự hy sinh của người đàn ông:

“Thế hệ chúng tôi phụ nữ muộn chồng
Nhiều đứa quá thì nên cầm lòng vậy
Đời con gái chín dần trong cây gậy
Rụng xuống đường lọc cọc tiếng đơn côi.”

Chỉ người đàn ông đích thực mới nhìn thấy cái mất mát đáng sợ do chiến tranh mang lại cho người đàn bà:

“Con dâu nằm chung với mẹ chồng,
Tay bó gối phòng lúc mình mê ngủ.
Hai cái thiếu chẳng làm nên cái đủ.
Dưới mái nghèo năm tháng vắng đàn ông.”

Hình ảnh chiếc võng được lính liên tưởng như vầng trăng khuyết, như con thuyền chở lòng căm thù giặc, như cánh cung mà mỗi người lính là một mũi tên.

Người lính còn biết mơ mộng một ngày đỗ đạt vinh quy bái tổ ngồi trên võng. Thương quá những chàng sinh viên gác bút nghiên đi đánh giặc!

Nói về sự lạc quan của người lính, khó ai có thể nói hay hơn:

“Chúng tôi cười
Cười chật đất
Cười chật sông
Cười chật suối…”

Về cái đói của lính, anh cũng có cách nói rất độc đáo đồng thời lại rất thật:

“Không sợ giặc, không sợ đạn bom rơi,
Cái sợ nhất lúc này là đói.
Đói vàng mắt,
Đói long đầu gối,
Đói phạc phờ,
Đói thừa cả chân tay…!
Mà lạ chưa?
Vào chính lúc này,
Chúng tôi lại đánh lui quân giặc.”

Kết thúc chiến tranh, anh không quá say sưa chiến thắng mà nói về làng quê, về đời sống của người dân và đương nhiên là nói về mẹ:

“Bây giờ mắt mẹ đã mờ,
Nhìn tôi bằng “ngón tay rờ” run run”

Câu thơ tuyệt hay. Cần gì phải nói bao năm chờ đợi mẹ khóc đến mù hai mắt, chỉ cần hình ảnh nhìn bằng tay là đủ lay động lòng người.

Anh có một “nỗi buồn chiến tranh” giống mọi người:

“Bao cô gái
Bao chàng trai
Lứa tuổi đôi mươi
Đã nằm xuống dưới bạt ngàn nấm mộ
Những cái tên…
ngày nào xanh nhãn vở
Giờ xếp hàng
Đỏ rực nghĩa trang.”

Không phải rất nhiều nấm mộ mà là chỉ một nấm mộ thôi nhưng bạt ngàn. Thơ đấy chứ đâu, nghệ thuật đấy chứ đâu nữa!

Và một nỗi buồn rất khác. Các anh trở về với luống cày cây lúa. Thời trai trẻ đã qua đi, không được học hành như mơ ước. Trong thời đại công nghệ, tiến bộ khoa học kỹ thuật, các anh bị lạc hậu:

“Không thể đem việc đổi xạ – bóp cò,
Làm công nghiệp trong thời mở cửa.
Ta sẽ chẳng vượt qua đói khổ,
Nếu chân mình còn nặng đế cao su!”

Đau hơn cả là cái tương lai tươi sáng mà vì nó các anh đã chiến đấu hy sinh vẫn còn xa chưa đến:

“Ta đã qua dài rộng rừng sâu,
Chân đã thuộc những nẻo đường ngang dọc,
Mà bây giờ trước đồng, trước ruộng
Sao ta đi, đi mãi… chẳng đến bờ?

Vẫn chỉ là muôn thuở: Đói hay No?
Mà lăn lóc cả đời với đất
Từ mặt trận,
mang Cái còn – Cái mất
Trở về làng đánh đổi Cái có – Cái không…”

*****

Tôi bỏ cả ăn sáng, viết cho xong bài này.

Hãy cho tôi một lần được làm người bình thơ, hãy cho tôi thắp nén tâm nhang cho anh, người lính thơ, nhà thơ lính.

Có thể anh không có danh xưng nhà thơ (tôi không rõ lắm) nhưng anh là nhà thơ trang trọng trong tôi, trong những người bình thường và những người yêu thơ.

Chúng ta căm ghét chiến tranh, chúng ta mong con cháu mình không bao giờ phải cầm súng, không muốn rồi sẽ có những người lính sinh viên như anh. Nhưng để mong muốn đó thành hiện thực, chúng ta phải trân quý những người như anh – người lính vô danh, nhà thơ thầm lặng!

Bài thơ rất dài nhưng tôi khuyên bạn nên đọc

KHOẢNG TRỜI NGƯỜI LÍNH

Chương 1 : KHÚC DẠO ĐẦU

Thế hệ chúng tôi!
Chưa kịp lớn lên,
Bom đạn Mỹ xé rách trời, nát đất.
Vừa buông nách đứa em bé nhất,
Trên đầu mình,
Già dặn khoảng trời xanh.

Thế hệ chúng tôi- Thế hệ chiến tranh.
Hoa lau trắng những ngày tiễn biệt
Người lên đường – Đất Nước là Tiền tuyến
Người ở nhà – Tổ quốc hóa Hậu phương

Thế hệ chúng tôi !
Ai cũng dễ thương,
Thơm thảo như hoa,
Ngọt ngào như trái.
Tình đồng đội lòng không cỏ dại,
Nghĩa đồng bào – Bầu, Bí thương nhau.

Thế hệ chúng tôi con gái cũng “mày râu”
Chẻ lạt lợp nhà, đốn cây, bổ củi
Đêm trăng lên nhoi nhói câu thầm hỏi:
– Mình đàn bà sao bóng tựa đàn ông?

Thế hệ chúng tôi phụ nữ muộn chồng
Nhiều đứa quá thì nên cầm lòng vậy
Đời con gái chín dần trong cây gậy
Rụng xuống đường lọc cọc tiếng đơn côi.

Thế hệ chúng tôi…
Meo mốc bình vôi,
Mùa cau lại vàng,
Mùa trầu lại đỏ,
Mẹ cần chổi gom những mùa lá đổ,
Đợi con về …
Run rẩy quét thời gian.

Ngôn ngữ Tình Yêu
thời của chúng tôi:
Một đôi chim bay trên áo gối,
Một bông hồng thả hương bối rối,
Một khoảng tròn quanh những chiếc khung thêu.

Thế là thương
Là nhớ
Là yêu
Là gánh vác việc nhà người ra trận.
Dẫu không hóa làm thân Núi Vọng,
Cũng một đời chín đợi, mười trông.

Đêm.
Con dâu nằm chung với mẹ chồng,
Tay bó gối phòng lúc mình mê ngủ.
Hai cái thiếu chẳng làm nên cái đủ.
Dưới mái nghèo năm tháng vắng đàn ông.

Thệ chúng tôi,
Ra ngõ gặp Anh hùng.
Đâu cũng thấy hy sinh cho Tổ quốc.
Người trước ngã,
Người sau không bỏ cuộc.
Trận đánh này,
Phải TOÀN THẮNG ngày mai …

Ngày mai
Ngày mai
Ngày mai…
Có thể là gần
Có thể xa vời vợi…
Sẽ chẳng tới nếu ta ngồi chờ đợi.
Chỉ con đường duy nhất phải vượt lên !
Dù ngày mai sẽ chẳng vẹn nguyên,
Những cô gái, chàng trai tuổi xuân hơ hớ.
Dù ngày mai sẽ bạt ngàn nấm mộ.
Những con người của thế hệ chúng tôi.

Mặc gian nan!
Mặc đạn bom rơi!
Đích phải đến là TỰ DO – ĐỘC LẬP.
Là Đất Nước sạch bóng quân xâm lược.
Là Bắc – Nam sum họp một nhà.

Mẹ sẽ vui
Ngày mai .
Khải hoàn ca !
Chúng con hát dọc đường về thăm mẹ.
Ta tưng bừng,
Ta thương người lặng lẽ.
Bởi
Mất – Còn,
Cũng đến một ngày mai…

Chương hai: KHOẢNG TRỜI NGƯỜI LÍNH

1- ĐƯỜNG VÀO

Đêm đầu tiên,
Ngủ giữa rừng cây
Chúng tôi níu rừng vào hai đầu cánh võng.
Chống chếnh thế,
Những ngôi nhà của Lính,
Gió hướng nào thổi đến cũng thông thênh.
Khoảng trời vuông trên mỗi “mái tăng”
Không che được hạt mưa xiên xối xả.
Đêm đầu tiên nên ai cũng lạ,
Giấc ngủ chập chờn như lá rừng rơi …

Anh lính gác hết đứng lại ngồi,
Nghe tí tách mưa rơi trên áo bạt;
Cách dăm nhà có ai khe khẽ hát.
Đêm bỗng òa…
Một thoáng nhớ xôn xao …
Lại đằng kia có tiếng rít thuốc lào,
Đêm vo lại,
đỏ lừ mắt điếu.
Ước gì có chiếc Hồ lô Kì diệu,
Hút Đêm vào cho Lính khỏi chờ lâu…

Đêm không ngủ.
Là đêm rất sâu,
Lính hóm hỉnh nghĩ ra đủ chuyện.
Đứa thì bảo,
Võng như hình trăng khuyết
Treo giữa rừng và thức với ngàn cây.
Đứa thì bảo,
Võng như con thuyền đầy,
Chở hờn căm trên dòng sông cạn.
Dòng sông ấy là Đường ra Mặt trận.
Bao Con Thuyền mải miết vượt bằng chân…
Đứa lại nói
Võng như cánh cung.
Đêm để ngửa,
bình minh lên sẽ “úp”
Còn Người Lính
là mũi tên vun vút,
Phút bình minh
là lao thẳng ngực thù!
Có đứa láu lỉnh đến lạ chưa?
Bảo,
Mái Tăng giống như chiếc lọng,
Lính xếp bằng ngồi trên cánh võng,
Chẳng khác gì Quan Trạng ngày xưa.
Thì, bây giờ nào có kém chi
Khoa Đánh giặc,
đậu nhiều Dũng sĩ.
Ngày bái tổ,
Ngày Ta thắng Mỹ,
Dũng sĩ về còn hơn Trạng vinh qui…

Đêm va vào xoong chảo đằng kia
Vỡ từng tiếng.
Lanh canh trên bếp lửa…
Chúng tôi hiểu,
Bình Minh về gọi cửa,
Chỉ tích tắc thôi,
Nhà Lính dỡ xong rồi.

Chúng tôi lại đi…
Náo nức những dòng người.
Bình tông nước nối hai đầu Binh trạm.
Nắm cơm vắt tòng teng trên lưng bạn,
Biết độ đường còn mấy “đoạn dao quăng”.

Gửi Đại Ngàn,
những đêm phía sau.
Phía Nỗi nhớ cứ dài vào vô tận.
Bao gương mặt cỏ cây chưa kịp nhận.
Đã vội ào đi trước lúc trời hừng.
Để lại những địa danh
– Khắc lên cây rừng.
Những dấu thời gian còn tươi roi rói.
Hàng Lốc lịch treo trên lưng chừng núi.
Dọc đường vào
Năm tháng cũng vào theo !
—–

2. TÂN BINH

Thắc thỏm quá.
Trận đánh đầu tiên.
Những tân binh chưa thạo bắn.
Giặc tràn lên
sọc sằn như đàn rắn.
Chúng tôi rợn người!
Nhắm mắt!
Ngồi im…!

Bên chiến hào, người Lính Cựu thản nhiên.
Anh thủ thỉ,
” Lần đầu, ai chả thế!”
Nói cho biết,
” Tớ chẳng bằng Cánh Trẻ.
Còn tệ hơn. Tè cả ra quần!…”
Tôi thoáng nhìn, những cựu quân nhân.
Gương mặt các anh như tạc bằng đá núi.
Nét phong trần, làn da xẫm lại.
Trước chúng tôi. Các anh hóa thiên thần!
Bọn giặc ào lên!
Mỗi lúc một gần.
Lệnh phát hỏa!
Chúng tôi ào ào bắn!
Những viên đạn xả nòng không cần ngắm …
Phía bên nào cũng có tiếng rên la …

Nghe gằn đầy âm thanh AK
Mà trận đánh tưởng chừng còn rất dữ …
Mãi sau này chúng tôi mới rõ,
Cánh tân binh,
đã bắn phứa lên trời.
Rồi trận đánh nào cũng kết thúc thôi.
Chỉ huy bảo:
“ Chúng ta đã thắng…”
Bãi chiến trường ngổn ngang xác giặc.
Ta cũng nhiều chiến sĩ hy sinh

Chúng tôi đi tìm Đồng đội của mình.
Lóng ngóng quá,
Những vòng tay ôm bạn.
Người Lính Cựu đã dạn dày bom đạn,
Bế đứa này…
Rồi bồng đứa kia …

Chàng lính ví mình như Quan Trạng xưa,
Một trận thôi đã thành liệt sĩ.
Ngày trở về,
Ngày Ta thắng Mỹ
Anh chẳng thể làm “Trạng vinh qui”
Trước mộ các anh,
chúng tôi lặng đi.
Nhớ chuyện hôm xưa làm ai cũng khóc…

Hoàng hôn xuống.
Đỏ mọng từng con mắt.
Đêm nặng đè lên mỗi “cánh cung” …
—–

3. TIẾNG CƯỜI CỦA LÍNH

Cuộc đời lính.
Đạn trước mặt.
Bom trên đầu.
Mìn vùi dưới đất …
Sống và chết đo bằng gang tấc.
Thắng và thua đọ ở sức người.

Có phải thế?
Chúng tôi cười
Cười chật đất
Cười chật sông
Cười chật suối…
Đường ra trận nào ai tính tuổi ?
Nên tiếng cười cứ lẫn cả vào nhau …

Nếu gom được
– Xin giữ cho mai sau.
Phòng có giặc hãy phát làm vũ khí,
Nếu còn sống nhớ mang về quê tớ,
Những trận cười rừng rực sức trai …

Những nụ cười
hình hoa mơ, hoa mai
Rụng trăng gốc
vẫn khát ngày xây quả
Những nụ cười thấm cả vào máu đổ
Chôn dưới mồ
vẫn cứ vút bay lên!

Những nụ cười mang hình mũi tên
Làm thế trận bủa vây quân giặc
Những nụ cười nối phương Nam – Phương Bắc
Cứ trùng trùng …
Theo bước những đoàn quân
Những nụ cười nuôi từ Lòng Dân
Thành sức mạnh
Kẻ thù nào thắng được?
Những nụ cười của Bốn ngàn năm Dựng nước.
Hóa thành đồng
Muôn thuở
Việt Nam ơi!

Những nụ cười làm khô giọt lệ rơi.
Ngày TOÀN THẮNG nếu con không về nữa
Mẹ lắng nghe trong từng làn gió
Có tiếng cười của đứa con yêu …

4. THI SĨ

Chúng tôi đi đánh giặc những tháng năm dài
Phút khuây khỏa
Làm thơ trên báng súng.
Đời chẳng tĩnh
Nên câu thơ quá động.
Lục bát trèo
Lên võng
Đung đưa…

Có phải vì quen với nắng mưa
Nên câu thơ biết xòe ô cho bạn?
Có phải quanh mình ùng oàng bom đạn,
Nên trong thơ
khao khát một nụ hồng!

Có phải vì thương,
vì nhớ cháy lòng
Nên lửa cứ bập bùng nơi ta viết?
Có phải vì anh yêu da diết
Nên bài nào cũng nói về em?

Chẳng tài đâu!
Làm mãi rồi quen
Như đánh giặc lâu ngày thành lính cựu.
Trước cuộc sống
Bao cái Hùng tề tựu
Dẫu chẳng là Thi Sĩ …
Cũng Thơ!

Ẫy là nói những đứa ngu ngơ
Chứ thế hệ thì thiếu gì đứa giỏi.
Đánh giặc cừ
Làm thơ cũng sõi,
Dũng Sĩ và Thi Sĩ rất xứng danh.

Đêm bồi hồi bên cánh rừng xanh
Náo nức quá!
Nghe Chương trình văn nghệ
“ Thơ Chiến sĩ ”?
Sao nhạc buồn đến thế?
Lính nhớ nhà…
càng nhớ nhà hơn!

Ơi!
Tiếng đàn bầu
Nỉ non
Nỉ non…
Đem thân phận thả vào đêm chiến trận
Này Cung Nhớ!
Này Cung Thương!
Này Cung Hờn!
Này Cung Hận!
Hỏi cung nào Người Lính chẳng từng qua ???
——

5. ĐÓI

Trận đánh này.
Chúng tôi giữ điểm cao,
Quần cả tháng,
lương ăn không còn nữa!
Giặc vây chốt đông như đàn kiến lửa
Phía chúng tôi …
Còn lại mấy đứa thôi.

Không sợ giặc, không sợ đạn bom rơi,
Cái sợ nhất lúc này là đói.
Đói vàng mắt,
Đói long đầu gối,
Đói phạc phờ,
Đói thừa cả chân tay…!
Mà lạ chưa?
Vào chính lúc này,
Chúng tôi lại đánh lui quân giặc.
Có lẽ vì chẳng cách nào khác được!
Có lẽ vì… Còn – Mất đó thôi…
Phía chân đồi, giặc đã rút rồi.
Cái Đói lại xông lên ngợp chốt.
Không thể bắn,
Và cũng không thể giết
Muốn cầm hòa…
Cái Đói
Chẳng buông tha !

Đồng đội tôi gục xuống giữa chiều tà…
Gạo vừa tới, cơm còn đang nấu dở
Boong canh rừng lục bục sôi trên lửa
Bạn đi rồi…
Chẳng kip bữa cơm no !
Ôm xác bạn chúng tôi khóc hu hu!
Người đói chết trên tay người đói lả
Chôn bạn xong… Đói tràn lên cỏ
Tôi cầm cành cây,
đói lả trước mồ …

Chúng tôi thường cúng bạn cả nồi to
Cơm đấy, canh đấy…
Bạn ăn đi khỏi đói !

Sống giữ chốt
Chết thành ma đói
Đêm đứt rời …
Bởi những cơn đau….

6. TIẾN VỀ THÀNH PHỐ

Từng trận đánh,
cứ nối tiếp nhau
Như mùa lũ ngập dần đôi bờ đất
Từng chiến dịch mở bung mặt trận
Như gió ngàn ồ ạt thổi võng thung.

Mùa mưa đi qua.
Khô khát những cánh rừng.
Cây trút lá bên đường tơi tả.
Đất như choàng tấm chăn màu đỏ.
Những nấm mồ đồng đội rực lên!

Tiến về Sài gòn
Từ khắp nẻo Trường Sơn.
Đại bác
Xe tăng
Chuyển rung thành phố
Rầm rập những Binh đoàn
Ào ào thác đổ
Cả nước dồn về
Trùng điệp quân đi.

Các hướng tấn công
Thần tốc – diệu kỳ
Ngày mai hiện dần
Bằng xương
Bằng máu
Ngày mai sẽ về
Gang tấc nữa thôi!

Gang tấc nữa thôi!
Cờ giải phóng tung bay dinh Độc Lập
Tổ quốc tưng bừng niềm vui thống nhất
Chúng con sẽ về
Bên mẹ
Mẹ hiền ơi!

Gang tấc nữa thôi!
Ác liệt lại ngàn lần ác liệt
Sào huyệt cuối cùng
Sào huyệt lửa bung ra.
Máu Người Lính đã thấm rừng già,
Nay lại đổ dọc đường vào Thành Phố !
Người lính cựu,
Mang nửa đời chữ thọ,
Có ai ngờ!
Ngã xuống,
Trước ngày mai.

Chúng tôi nghiêm trang
Đứng trước thi hài
Người Đồng đội,
Người Anh,
Người Thầy trong trận mạc.
Giữa Sài Gòn – 30 THÁNG TƯ.

Chương ba: SAU CHIẾN TRANH

1. LÀNG XƯA

Giặc tan rồi
Chúng tôi trở về quê
Bồi hồi quá!
Những bàn chân lính
Chiếc ba lô trên lưng nhẹ tếch
Chỉ nặng nhiều là mấy búp bê.

Khao khát gì mà bồng bế thế kia?
Hay ở rừng lâu ngày không bóng trẻ?
Ngoài mặt trận nào ai thành bố – mẹ
Tìm đâu ra tiếng bé khóc chào đời.

Hay tuổi xuân ta
trầm bổng cuối trời?
Như hạt mưa sa xuống vườn đồng đội
Hay vì thương cây
tháng năm ngóng đợi?
Mùa hoa về
cho tươi lại cành xanh.

Thôi!
Gác lại một thời chiến tranh,
Ào về nơi chôn nhau, cắt rốn.
Để ngắm Mẹ
Cho hả hê nỗi nhớ.
Để nhìn Cha
Cho đã buổi thương Người.

Để được gặp,
Nàng mặc áo nâu tươi
Khoe với Em rằng: chỉ thêu vẫn thắm,
Rằng: hai đứa chẳng còn xa ngàn dặm,
Rằng: hôm nay thuyền đã cập bến rồi.

Đây mái nhà tuổi thơ của tôi.
Đây bậu cửa chắn ngang thời lẫm chẫm.
Đây hình vẽ ngu ngơ thời chấy rận,
Màu than đen còn nhánh đến bây giờ.

Đây hàng cau cha trồng từ ngày xưa.
Rụng đỏ đất…
Những mùa đành để lỡ.
Đây vườn trầu mẹ ươm hồi ta nhỏ,
Rơi vàng trời
như thể khát tìm cau.

Đây con đường nối sang nhà nhau.
Bên ấy, bên này
đi về một ngõ.
Đêm.
Họp Đoàn cùng chung đuốc tỏ,
Ta soi cho Em về tới sân nhà.

Đây xóm làng lam lũ của ta.
Những bữa cơm còn đầy mâm rau má.
Người ra trận vẫn mang manh áo vá.
Trẻ tới trường,
quyển sách đọc thay nhau.

Mùa đông về chăn chưa đủ ấm đâu,
Mùa hạ đến chẳng đủ màn ngăn muỗi.
Ta gặp ai cũng già trước tuổi.
Biết: Hy sinh đâu chỉ ở chiến trường!

Ơi! Xóm làng mà ta gọi Quê hương,
Người ra trận đông hơn người ở lại,
Đã kín vách BẢNG VÀNG DANH DỰ,
Giờ lại nhiều BẰNG TỔ QUỐC GHI CÔNG.

Bao hố bom chằng chịt trên đồng,
Nghe lành lạnh tiếng cá cờ búng nước.
Hiểu hạt gạo nuôi quân ngày chiến cuộc,
Đã chan hòa,
Máu với Mồ hôi.

2. MẸ

Con về với Mẹ hôm nay
Thật đây! Sao Mẹ tưởng ngày…mình mơ.
Bây giờ mắt mẹ đã mờ,
Nhìn tôi bằng “ngón tay rờ” run run.

Như là để thật tôi hơn
Mẹ rờ vết sẹo vai con ngày nào.
Nhận ra, mắt Mẹ lệ trào
Rưng rưng…
vào khoảng khát khao con về.
Và tôi cứ thế lặng đi
Trước pho Tượng Phật từ bi giữa nhà.

Mấy năm đánh giặc đường xa
Chẳng ngờ đâu
Mẹ tôi già thế kia?
Hàm răng đen nhánh ngày xưa
Đi đâu vội,
để nắng mưa cối trầu?
Hạt sương kéo sợi trên đầu
Bảo tôi:
Đời Mẹ dãi dầu đấy thôi.
Mắt huyền xưa buộc Cha tôi
Bây giờ,
Mẹ buộc lá rơi ngoài thềm.
Mỏng manh chiếc áo vải mềm,
Tuổi thơ tôi để trong nền yếm nâu.
Yếm Người nào có rộng đâu.
Mà sao như thửa đất giàu mênh mông…
Ở đây cũng thể Thành đồng
Ở đây nuôi những Anh hùng nước non.
Yếm vuông cho giọt sữa tròn
Đọng trong mỗi dấu chân con tháng ngày.

Con về với Mẹ hôm nay
Thật đây!
Sao Mẹ tưởng ngày mình mơ!
Mẹ tôi giờ, mắt đã lòa
Nhìn tôi bằng ngón tay già…
rưng rưng…

3. MẶT TRẬN KHÔNG TIẾNG SÚNG

Chúng tôi về với việc nhà nông,
Đông hơn cả,
Vì đồng rộng lắm
Những người lính một thời chiến trận
Giờ lại về cuốc bẫm cày sâu.

Ruộng có bờ,
Việc chẳng có bờ đâu
Buổi lật cỏ đã lo ngày bắc mạ.
Gieo trên đất những mầm vui hối hả,
Những lo toan, thắc thỏm, trông chờ.
Tưởng đã quen rồi, sao vẫn gặp bất ngờ?
Bất ngờ hạn – mặt đồng khô như ngói.
Bất ngờ úng – lúa chìm trong tê tái.
Bất ngờ sâu – đau thắt ruột người trồng.

Cấy cây lúa
Là cấy phận nhà nông.
Xòe bàn tay tính từng ngày, từng tháng.
Mặt trời lên
đến thâu đêm
lại sáng.
Bóng người còng,
mơ…
lúa tròn bông.

Hạt gạo dẻo thơm?
nào dễ hiểu đồng,
Khi chưa có một lần với lúa.
Khi cuộc đời lượt là trong nhung lụa,
Đã chắc gì hiểu nổi bát cơm bưng ?
Đã chắc gì biết cái rét cuối đông?
Chân mẹ nẻ ngậm bùn rét giá.
Đã chắc gì biết những chiều nắng hạ?
Áo cha dầy thêm mỗi bận mồ hôi.

Về với đồng mới hiểu hết đồng ơi!
Bát cơm chan mồ hôi – nước mắt
Lại có chuyện… những người khuất tất
Lại bão giông… rình rập trên đầu…

Ta đã qua dài rộng rừng sâu,
Chân đã thuộc những nẻo đường ngang dọc,
Mà bây giờ trước đồng, trước ruộng
Sao ta đi, đi mãi… chẳng đến bờ?

Vẫn chỉ là muôn thuở: Đói hay No?
Mà lăn lóc cả đời với đất
Từ mặt trận,
mang Cái còn – Cái mất
Trở về làng đánh đổi Cái có – Cái không…

Phải vượt lên thôi!
Mình tự cứu mình.
Than phận làm gì cho thêm yếu lính?
Đất Nước chiến tranh ra đi đánh giặc.
Đất Nước hòa bình, tất cả dựng xây.
Nào tập đi!
Cho thẳng những đường cày
Cho con trâu khỏi nhắc người: vắt – diệt
Cho vụ mùa gối tiếp nhau mải miết
Cho đồng làng bông lúa gọi : đời no!

Nào học đi!
Ta mới chỉ i tờ.
Nghề nhà nông còn bao điều mới lạ,
Muốn xênh xang từ cọng rơm, gốc rạ.
Phải hiểu đồng,
như hiểu chiến trường xưa.

Ta đã nghe !
Nhiều đồng đội gần, xa
Bát ăn đủ rồi, giờ thêm bát để.
Đã rộng cửa nhà,
Đã yên dâu – rể,
Đã ông – bà…
còn rất lính mà Em!

Ta lại nghe.
Từ phía mặt trời lên
Tiếng tần tảo gõ vang đường xuống chợ
Những mảnh vườn cho mùa chín đỏ
Thơm chật gùi…Đồng đội địu trên lưng.

Và đằng kia,
trên khắp nẻo núi rừng,
Bao trang trại mở đường vào giàu có.
Nhiều người lính đã thành ông chủ.
Cũng đình huỳnh xe máy hon đa.

Vườn-Ao-Chuồng xây cất Vi la,
Ai bảo lính không biết làm kinh tế?
Bao doanh nghiệp tư nhân
Bao nhiêu nhà tỷ phú
Cũng đều từ những Cựu Chiến binh.

Ta dõi theo vóc dáng những công trình.
Bao người lính trở về xây thủy điện
Đời lại thắp những NGỌN ĐÈN trước biển
Sóng gầm gào…
Đèn vẫn sáng lung linh.

Ấy là khi
Ta tự biết vượt mình
Trước cuộc sống
Có bao điều Cầu ước.
Nếu được ước
Xin ước cho tất cả
Đừng hóa mình xa lạ với Nhân Dân.

Chương 4: HỒI TƯỞNG

Thế hệ chúng tôi, Đi qua Chiến Tranh.
Đời mỗi đứa là một thời để nhớ
Về đồng đội,
Về những ngày khói lửa
Về những hy sinh,
… không nói hết bằng lời.

Bao cô gái
Bao chàng trai
Lứa tuổi đôi mươi
Đã nằm xuống dưới bạt ngàn nấm mộ
Những cái tên…
ngày nào xanh nhãn vở
Giờ xếp hàng
Đỏ rực nghĩa trang.

Có những hy sinh
Âm ỉ với thời gian
Người trở về trên mình đầy thương tích
Chiếc nạng gỗ gõ dọc chiều cơn lốc
Hiểu con đường đang chín giọt mồ hôi.

Có đứa về lành lặn hẳn hoi
Nào ai hay?
Chất độc vùi trong bạn
Lúc làm cha mới biết mình trúng đạn
Vết thương
– Là con anh.

“Vì Nhân Dân quên mình! Vì Nhân Dân hy sinh!”
Bài hát gọi ta về quân ngũ.
Cuộc sống Lính có khi nào đầy đủ?
Thiếu thốn nhiều nên cũng phải quen đi!

Cũng phải quen.
Như thể chẳng thiếu gì
Vì khi ấy chiến trường cần phải thế!
Ngày trở về Ta không còn trai trẻ.
Giữa đời thường cái thiếu lại thiếu thêm.

Những hy sinh không thể bắc lên cân.
Càng không thể quy thành tem phiếu.
Những người lính có bao giờ định liệu
Cái giá mình trước Tổ Quốc, Nhân Dân!

“Vì Nhân Dân quên mình!
Vì Nhân Dân hy sinh!”
Lẽ sống ấy làm nên Nhân cách Lính.
Ngay cả khi mình không mang quân phục,
Nhưng Lính thì chẳng lẫn với ai đâu?

Không biết người ta sống mai sau,
Có đời hơn thời chúng tôi đang sống?
Rồi đến lúc phải quên đi tiếng súng,
Ta vẫn tin!
Đồng đội chẳng quên nhau!

Nhân Dân mình sống có trước có sau.
Cứ nhìn những Nghĩa trang, những Tượng đài thì biết.
Và cả những Tượng đài thơm hương tha thiết,
Cho người sống,
Cho người còn
mà chết tuổi thanh xuân.

Nếu Cuộc đời biết vì Nhân Dân
Thì Nhân Dân cũng vì ta năm tháng.
Như mặt trời cho cỏ cây nguồn sáng,
Cỏ cây nào chẳng cho đất những mùa hoa?

Bom đạn tạnh đi rồi
Chiến tranh đã lùi xa!
Cuộc sống mới bảo chúng tôi đổi mới!
Không thể đem những ngày lửa khói
Giữa thị trường đánh đổi lấy ấm no!

Không thể đem việc đổi xạ – bóp cò,
Làm công nghiệp trong thời mở cửa.
Ta sẽ chẳng vượt qua đói khổ,
Nếu chân mình còn nặng đế cao su!

“Vì Nhân Dân quên mình! Vì Nhân Dân hy sinh!”
Bài ca ấy đã trở thành lẽ sống!
Chúng tôi hát từ buổi tò te lính.
Đến bây giờ vẫn hát
– Những Cựu binh.

Lê Anh Quốc
Thị xã Yên Bái – Tháng 1-2000

Bài viết mới trên DẠY VÀ HỌC
https://hoangkimvn.wordpress.com bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Việt Nam con đường xanh

XUÂN SỚM NGỌC PHƯƠNG NAM
Kim Hoàng

Trời trong vắt và xuân gần gũi quá
Đóa hoa xuân lặng lẽ nở bên thềm
Giọt sương ngọc lung linh trên lộc nõn
Đất giao hòa xuân sớm hóa mênh mông

CHUNG SỨC TRÊN ĐƯỜNG XUÂN
Hoàng Kim

Chung sức bao năm một chặng đường
Cuộc đời nhìn lại phúc lưu hương
Ngô khoai chẳng phụ dày công Viện
Lúa sắn chuyên tâm mến nghĩa Trường
Dạy học tinh hoa giàu trí tuệ
Chuyển giao chuyên nghiệp khiếu văn chương
Người chọn vãng sanh vui một cõi
Ai theo cực lạc đức muôn phương

Thầy bạn nhà nông mến dặm đường
Tình yêu cuộc sống đức lưu hương
Trình, Đào thanh thản nương thời vận
Tô, Nguyễn thung dung nhẹ đoạn trường
Lúa sắn ngô khoai yêu khoa học
Mai lan cúc trúc thú văn chương
Tâm bình minh triết thành công quả
An vui trí sáng đức muôn phương.

NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ: HIỆN TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN
Nguyễn Văn Bộ, Ngô Doãn Đảm

ĐẶT VẤN ĐỀ

Nông nghiệp hữu cơ là một hệ thống canh tác đã gây nên sự chú ý ngày càng tăng ở nhiều quốc gia trong 2 thập kỷ qua, nhất là các nước phát triển, khi mà áp lực về lương thực giảm đi, song áp lực về vệ sinh an toàn thực phẩm, chất lượng nông sản và môi trường lại tăng lên. Nhiều nước ở châu Âu, Bắc Mỹ, châu Đại dương đã khuyến khích nông dân áp dụng nông nghiệp hữu cơ. Tuy nhiên ở nhiều quốc gia khác, nông nghiệp hữu cơ là câu chuyện còn rất mới mẻ, khái niệm về loại hình canh tác này được hiểu rất khác nhau. Với Việt Nam điều này cũng không là ngoại lệ. Hiện tại có rất nhiều định nghĩa khác nhau về nông nghiệp hữu cơ. Phần lớn các nhà khoa học đều hiểu nông nghiệp hữu cơ là một nền nông nghiệp không sử dụng hóa chất, các nguồn hữu cơ được tái sử dụng một cách triệt để. Theo khái niệm này, trong suốt quá trình sản xuất chỉ được phép sửdụng phân bón hữu cơ, làm cỏ bằng tay hoặc cơ giới và phòng trừ sâu bệnh bằng biện pháp sinh học. Gần đây, nông nghiệp hữu cơ còn không chấp nhận việc gieo trồng các cây đã biến đổi gene. 

Tuy nhiên, bản chất của bất kỳ một nền sản xuất nào cũng phải gắn với năng suất, chất lượng của sản phẩm cuối cùng và tính bền vững của môi trường. Cùng với sự phát triển của khoa học, khi mà kiến thức con người đã dần chi phối được các qui luật của tự nhiên thì khái niệm hữu cơ cũng được hiểu theo nghĩa rộng hơn, tổng hợp hơn. Xem xét bản chất của quá trình sử dụng dinh dưỡng của cây trồng chúng ta thấy rằng, chất dinh dưỡng dù sử dụng ở bất kỳ dạng nào, hữu cơ hay vô cơ thì chúng đều phải trải qua một quá trình chuyển hóa về dạng ion (anion hoặc cation) trước khi được cây trồng hấp phụ. Thêm nữa, chất lượng nông sản không hoàn toàn phụ thuộc vào dạng phân bón sử dụng mà lại phụ thuộc vào liều lượng, chủng loại, tỉ lệ, phương pháp và thời kỳ bón cho cây trồng. Với thuốc bảo vệ thực vật là loại chế phẩm không hoặc ít độc hại, thời gian phân hủy ngắn… và phải đảm bảo thời gian cách ly. Như vậy, sản phẩm sạch đáp ứng yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm không hoàn toàn không có chứa các yếu tố độc hại mà là sản phẩm có hàm lượng các chất độc hại dưới ngưỡng cho phép theo tiêu chuẩn quốc gia hay quốc tế.

Xuất phát từ những lý do trên, theo chúng tôi, nông nghiệp hữu cơ là một hệ thống sản xuất cho phép khai thác tối ưu các nguồn tài nguyên như đất, năng lượng, các chất dinh dưỡng, các quá trình sinh học diễn ra trong tự nhiên với một phương pháp quản lý hợp lý nhất nhằm mục đích tạo ra sản phẩm đáp ứng yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm, đồng thời cũng đảm bảo cho hệ thống sản xuất bền vững về môi trường, xã hội và kinh tế. Theo định nghĩa này thì nông nghiệp hữu cơcòn có thể hiểu là nông nghiệp sinh thái. Như vậy, thuật ngữ“hữu cơ” không chỉ đề cập đến dạng dinh dưỡng cung cấp cho cây trồng mà được mở rộng ra như là một quan điểm, trong đó tính bền vững là hạt nhân. 

Theo Dumanski, nhà thổ nhưỡng học thì “sự bền vững để lại cho các thế hệ tương lai ít nhất là những cơ hội như chúng ta đang có”. Đây là quan điểm rất thực tiễn, đảm bảo tổng tài sản ở 4 dạng (tài sản thiên nhiên, tài sản do con người làm ra, bản thân con người và xã hội) luôn được bảo toàn trong suốt quá trình phát triển. Thật tiếc, chúng ta đã và đang khai thác triệt để tài nguyên, gần như không cớ cơ hội cho thế hệ sau.

Còn theo N.H. Lampkin (1994) thì: “Canh tác hữu cơ là một phương pháp tiếp cận với nông nghiệp nhằm mục tiêu tạo lập hệ thống sản xuất nông nghiệp tổng hợp, bền vững về môi trường, kinh tế và nhân văn; cho phép khai thác tối đa nguồn tài nguyên có thể tái tạo được cũng như quản lý các quá trình sinh thái cùng với sự tác động qua lại của chúng để đảm bảo năng suất cây trồng, vật nuôi và dinh dưỡng cho con người ở mức chấp nhận được đồng thời bảo vệ chúng khỏi sâu, bệnh”. 

HIỆN TRẠNG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ TRÊN THẾ GIỚI 

Theo số liệu công bố năm 2012 (FiBL và IFOAM, 2012) [7] của Viện Nghiên cứu và Truyền thông nông nghiệp hữu cơ (Communication, Research Instituteof Organic Agriculture FiBL) và Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ Quốc tế (International Federation of Organic Agriculture Movements IFOAM), hiện trạng sản xuất và thương mại sản phẩm nông nghiệp hữu cơ toàn cầu như sau: 

1. Về sản xuất 

Năm 2010 toàn thế giới có 160 nước được chứng nhận có sản xuất nông nghiệp hữu cơ (NNHC), tăng 6 nước so với năm 2008. Về diện tích, hiện tại có 37,3 triệu ha NNHC chiếm 0,9% diện tích đất sản xuất nông nghiệp toàn cầu, trong đó 2/3 (23 triệu ha) là đất trồng cỏ và chăn thả đại gia súc. Có 2,72 triệu ha NNHC cây hàng năm, gồm 2,51 triệu ha ngũ cốc (trong đó có lúa) và 0,27 triệu ha rau. Diện tích canh tác hữu cơ cây lâu năm là 2,7 triệu ha (0,6% tổng diện tích NNHC) và tăng 0,6 triệu ha so với năm 2008, trong đó 3 cây quan trọng nhất là: cà phê (0,64 triệu ha), ô-liu (0,5 triệu ha) và cây lấy hạt có dầu (0,47 triệu ha. Có 7/160 nước đạt diện tích NNHC cao trên 10%. 

Tại châu Âu, có 10 triệu ha NNHC với 219.431 hộ/trang trại. Những nước có diện tích NNHC lớn là: Tây Ban Nha (1,46 triệu ha), Italia (1,113 triệu ha) và Đức (0,99 triệu ha). Có 7 nước đạt diện tích NNHC cao hơn 10% là: Công Quốc Liechtenstein (27,3%), Áo (19,7%), Thụy Điển (12,6%), Estonia (12,5%), Thụy Sỹ(11,4%) và Séc (10,5%).

Bắc Mỹ (gồm Mỹ và Canada) có 2,652 triệu ha NNHC, trong đó Mỹ1,948 triệu ha và Canada 0,702 triệu ha. 

Châu Á có 2,8 triệu ha NNHC với 460.764 trang trại/ hộ sản xuất, trong đó dẫn đầu là Trung Quốc (1,39 triệu ha) và Ấn Độ(0,78 triệu ha). Nước có tỷ lệ diện tích NNHC cao nhất là Đông Timor (7%). 

Châu Phi có khoảng 1,1 triệu ha NNHC được chứng nhận với khoảng 544 ngàn trang trại. Các nước sản xuất NNHC chủ lực là Uganda (228.419 ha), Tunisia (175.066 ha) và Ethiopia (137.196ha). 

Mỹ La tinh có 8,389 triệu ha NNHC với 272.232 hộ/trang trại, trong đó Argentina 4,177 triệu ha, Brazil 1,76 triệu ha và Uruguay là 930.965 ha (2009). Ba nước có tỷ lệ giá trị sản phẩm NNHC cao so với GDP nông nghiệp là Malvinas (35,7%), Cộng hòa Đô-mi-ca-na (8,3%) và Uruguay (6,3%). 

Các châu Đại Dương bao gồm: Úc, Niu-di-lân, các quần đảo Fiji, PaPua New Guinea, Tonga, Vannuatu… có 12,144 triệu ha NNHC, trong đó 97% là của Oxtrâylia và là đất đồng cỏ tự nhiên với 8.432 trang trại đang sản xuất. 

Ngoài diện tích NNHC, thế giới còn có 43,0 triệu ha đất rừng nguyên sinh để khai thác sản phẩm hữu cơ tự nhiên (tăng 1,1 triệu ha so với năm 2009 và 11,1 triệu ha so với năm 2008). 

Hiện có 1,6 triệu hộ và trang trại NNHC, tăng 0,2 triệu hộ so với năm 2008. Phân bố của số trang trại NNHC theo châu lục như sau: Châu Á 29%, châu Phi 34%, châu Mỹ 18%… Ba nước có nhiều trang trại hoặc hộ sản xuất NNHC là: Ấn Độ(400.551), Uganda (188.625), Mehico(128.862, sốliệu 2008). 

2. Về thị trường 

Doanh thu năm 2010 từ việc bán thực phẩm và đồ uống có nguồn gốc hữu cơ đã đạt 59,1 tỷUSD, tăng 4,2 tỷUSD so với năm 2009 và gấp hơn 3 lần năm 2000 (18 tỷUSD). Các nước tiêu thụ nhiều sản phẩm hữu cơ nhất là Mỹ(26,7 tỷUSD), Đức (8,4 tỷUSD) và Pháp (4,7 tỷUSD); nhưng tính theo đầu người thì cao nhất là Thụy Sỹ, Đan Mạch và Luxemburg (tương ứng đạt 213, 198 và 177 USD/người/năm). 

Tại châu Âu, giá trị thương mại năm 2010 của các sản phẩm NNHC đạt khoảng 19,6 tỉ €, trong đó Đức 6,02 tỉ, Pháp 3,38 tỉ và Anh 2 tỉ €. Đan Mạch, Áo và Thụy Điển có giá trị sản phẩm NNHC cao hơn 5% GDP nông nghiệp. 

Chính phủ các nước Cộng đồng chung châu Âu và một số nước hỗ trợ cho NNHC thông qua tài trợ các chương trình phát triển nông thôn, hỗ trợ phát triển thể chế và kế hoạch hành động quốc gia. Một nghiên cứu gần đây cho thấy các nước châu Âu hiện có 26 bản kế hoạch hành động quốc gia về phát triển NNHC. 

Giá trị sản phẩm NNHC của Mỹ năm 2010 đạt 29,0 tỷ USD, trong đó có 10,6 tỷ USD (xấp xỉ 30%) là rau và quả hữu cơ, đáp ứng 12% thị phần rau và quả tiêu thụ nội địa, cộng với 1,947 tỷUSD là các sản phẩm phi thực phẩm. Giá trị sản phẩm NNHC được tiêu thụ của Canada ước đạt khoảng 2,6 tỷ đôla Canada. 

Phần lớn sản phẩm NNHC được chứng nhận của châu Phi là để xuất khẩu và chủ yếu sang thị trường châu Âu; riêng Uganda đạt doanh thu 37 triệu USD năm 2010. NNHC có vai trò quan trọng đểgiúp châu Phi cải thiện an ninh lương thực và ứng phó tốt hơn với biến đổi khí hậu. Vì vậy, Hội nghị NNHC Châu Phi lần thứ2 đã được tổ chức tại Zambia từ 15-19/5/2012, nhằm thúc đẩy nghiên cứu và phát triển lĩnh vực này. 

Tại châu Á, mặc dù lượng sản phẩm NNHC còn chiếm thị phần nhỏ và chủyếu tiêu dùng nội địa, song Chính phủ đã nhận thức rõ cần phải đầu tư cho nghiên cứu – phát triển lĩnh vực này. Có 7 nước (Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines, Đài Loan và Malaysia) đã ban hành và áp dụng qui định bắt buộc về gắn nhãn mác các sản phẩm NNHC trước khi tiêu thụ. Một số nước như Sri-Lanka, Nepal, Thái Lan và Indonesia đã thành lập các cơ quan giám sát và cấp chứng chỉ chất lượng sản phẩm NNHC. 

Tại Mỹ La tinh, phần lớn sản phẩm NNHC cơ được xuất khẩu sang châu Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản với các các ngành hàng chủ lực là: quả nhiệt đới, ngũ cốc, cà phê, ca cao, đường và thịt. Đã có 18 nước thuộc khu vực ban hành và hiện có thêm 5 nước đang hoàn thiện khung pháp lý. Hỗ trợ phát triển NNHC tại các quốc gia này thông qua chương trình thúc đẩy sản xuất và hỗ trợ xuất khẩu sản phẩm. 

Tại châu Đại dương, phần lớn sản phẩm NNHC được chứng nhận là để xuất khẩu, thị trường tiêu thụ nội địa chưa phát triển và trong một số trường hợp thậm chí chưa được hình thành. Sản phẩm NNHC thường được bán dưới dạng sản phẩm “truyền thống”, không có sự khác biệt về giá so với các sản phẩm thông dụng. Thị trường tiêu thụ nội địa chủ yếu là để phục vụ cho nhu cầu của khách du lịch.

3. Các nỗ lực phát triển thể chế và chứng nhận tiêu chuẩn 

Hiện tại có 84 nước xây dựng xong và 24 nước khác đang hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn quốc gia cho sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Trong những năm gần đây đã hình thành nhiều tổ chức (chủ yếu từ Châu Âu) cung ứng dịch vụ chứng nhận sản phẩm nông nghiệp hữu cơ đạt chuẩn. Tính tới 2010 có tổng số 549 tổ chức cung cấp dịch vụ này (tăng 17 tổ chức so với con số 532 của năm 2009) và chủ yếu thuộc EU, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Canada và Brazil (riêng Nhật Bản có 61 tổ chức cung ứng dịch vụ). 

Quản lý chất lượng chuỗi giá trị hữu cơ theo phương pháp Hệ thống bảo đảm cùng tham gia (Participatory Guarantee System-PGS) đang được nhiều nước quan tâm và áp dụng, nhằm đáp ứng nhu cầu gia tăng nhanh chóng về số trang trại nông nghiệp hữu cơ tại các nước đó. Đi đầu trong áp dụng thành công PGS là các nước khu vực Mỹ La tinh (nổi bật là Bra-xin) và Ấn Độ, với nhiều bước tiến quan trọng trong việc ban hành thể chế cho áp dụng phương pháp này.

SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ Ở VIỆT NAM 

1. Hiện trạng sản xuất, chứng nhận chất lượng, tiêu thụ và chính sách về nông nghiệp hữu cơ 

Về sản xuất, giống như nhiều nước khác trên thế giới, nông dân nước ta được hiểu là đã biết canh tác hữu cơ theo cách truyền thống từ hàng nghìn năm nay, nhưng sản xuất nông nghiệp hữu cơ theo khái niệm hiện tại của Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ Quốc tế (IFOAM) thì còn rất mới mẻ. nông nghiệp hữu cơ theo khái niệm của IFOAM thực ra mới chỉ được bắt đầu ởViệt Nam vào cuối những năm 1990 với một vài sáng kiến, chủ yếu tập trung vào việc khai thác các sản phẩm tự nhiên, chẳng hạn như các loại gia vị và tinh dầu thực vật, để xuất khẩu sang một số nước châu Âu (Simmons và Scott, 2008) [11]. 

Theo số liệu IFOAM công bố năm 2012 (FiLB và IFOAM, 2012) [7], năm 2010 Việt Nam có 19.272 ha sản xuất nông nghiệp hữu cơ được chứng nhận (tương đương 0,19% tổng diện tích canh tác), cộng với 11.650 ha mặt nước nuôi trồng thủy sản hữu cơ/ sinh thái và 2.565 ha rừng nguyên sinh để khai thác các sản phẩm hữu cơ tự nhiên. Báo cáo của FiBL-IFOAM không nêu tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm hữu cơ của Việt Nam, nhưng theo báo cáo của Hiệp Hội nông nghiệp hữu cơ Việt Nam thì ước đạt khoảng 12 – 14 triệu USD. Các sản phẩm hữu cơ đang được xuất khẩu là chè, tôm, gạo, quế, hồi, tinh dầu, tuy nhiên số lượng còn rất hạn chế. 

Về chứng nhận chất lượng: Hiện nước ta vẫn chưa có hệ thống các tiêu chuẩn quốc gia và khung pháp lý cho sản xuất, chứng nhận và giám sát chất lượng sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Đầu năm 2007, Bộ NN – PTNT ban hành Tiêu chuẩn ngành số 10 TCN602-2006 [3] cho các sản phẩm hữu cơ tại Việt Nam, nhưng tiêu chuẩn này còn rất chung chung, đồng thời kể từ đó đến nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể cho việc cấp chứng nhận hữu cơ, để làm cơ sở cho các đơn vị sản xuất, chế biến và các đối tượng quan tâm khác thực hiện. Hiện cả nước có 13 tổ chức là các nhóm nông dân sản xuất và các doanh nghiệp được các tổ chức quốc tế chứng nhận đạt chuẩn để xuất khẩu sản phẩm hữu cơ sang các nước châu Âu, Mỹ… Theo Cục Trồng trọt (2013) [2], BộNN – PTNT đang tiến hành xây dựng qui chuẩn mới cho sản phẩm nông nghiệp hữu cơ được sản xuất tại Việt Nam, dựa theo tiêu chuẩn quốc tế IFOAM. Dự kiến, cuối năm 2013 đầu 2014, qui chuẩn này sẽ được ban hành. BộNN – PTNT cũng đã có kế hoạch thiết lập một hệ thống giám sát và cấp chứng chỉ chất lượng cho sản phẩm nông nghiệp hữu cơ đạt chuẩn, tuy nhiên lộ trình thời gian và bước đi cho việc thực hiện kế hoạch này vẫn chưa được xác định. Một số công ty tư nhân như Qualiservice, gần đây đã cố gắng năng cao năng lực dịch vụ để hỗ trợ nông dân được cấp chứng chỉ chất lượng (theo hướng “hữu cơ” hoặc “ViệtGAP”) cho sản phẩm trồng trọt và thủy sản đạt chuẩn.

Tiêu dùng: Thị trường nội địa cho sản phẩm nông nghiệp hữu cơ hiện chưa phát triển. Hiện không có số liệu thống kê chi tiết về chủng loại và số lượng sản phẩm hữu cơ được sản xuất và tiêu thụ hàng năm, tuy nhiên dễ nhận thấy rằng các sản phẩm rau hữu cơ là để tiêu thụ nội địa, còn các sản phẩm hữu cơ khác như chè, tôm, gạo… là để xuất khẩu. Hiện cũng không có số liệu về chủng loại và số lượng sản phẩm hữu cơ được nhập khẩu cho tiêu dùng trong nước, mặc dù có báo mạng thông tin rằng việc nhập khẩu và tiêu dùng các sản phẩm như vậy đang ngày càng tăng ởTP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. 

Chính sách: Chính phủ Việt Nam luôn ủng hộ mạnh mẽ các nỗ lực phát triển một nền nông nghiệp bền vững và thân thiện môi trường, nâng cao năng suất và sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp, trong đó có nông nghiệp hữu cơ. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu các chính sách cụ thể về định hướng chiến lược và kế hoạch hành động quốc gia, để thực sự thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hữu cơ phát triển. Gần đây đã xuất hiện một số tín hiệu tốt về sự ủng hộ của Nhà nước cho nông nghiệp hữu cơ, cuối năm 2011 Chính phủ cho phép thành lập Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ Việt Nam và từ đầu năm 2012 Hiệp hội bắt đầu đi vào hoạt động. Đầu năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 01/2012/QDTTg [13] về một số chính sách hỗ trợ việc áp dụng Quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản, trong đó có nông nghiệp hữu cơ. Gần đây, Bộ NN & PTNT khẳng định sự hỗ trợ có phần mạnh mẽ hơn đối với nông nghiệp hữu cơ, thông qua việc phê duyệt Chương trình khung nghiên cứu khoa học và công nghệ ngành Nông nghiệp và PTNT giai đoạn 2013-2020, trong đó có nông nghiệp hữu cơ.

Các cơ quan, tổ chức hoạt động về nông nghiệp hữu cơ

Các cơ quan nhà nước có liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp hữu cơ gồm: Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ Khoa học – Công nghệ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Giáo dục và Đào tạo… Hầu hết các viện và cơ sở nghiên cứu quan tâm đến nông nghiệp hữu cơ đều trực thuộc Bộ NN & PTNT, với chức năng nhiệm vụ liên quan đến đối tượng cây trồng, vật nuôi và thủy sản, gồm Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS) và các viện/ trung tâm nghiên cứu trực thuộc, Viện Chăn nuôi, các Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản (RIA1, RIA2, RIA3…) và các trường đại học nông nghiệp. 

Các tổ chức phi chính phủ và doanh nghiệp quan tâm đến nông nghiệp hữu cơ gồm: Hội Nông dân Việt Nam (VNFU) cho rau hữu cơ, Công ty ECOMART cho chè hữu cơ; Organik Đà Lạt cho rau hữu cơ; Doanh nghiệp Trang trại Xanh Viễn Phú cho gạo hữu cơ và các mô hình nuôi tôm sinh thái tại tỉnh Cà Mau… Có rất ít các cơ quan, tổchức quốc tế hỗ trợ phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam, ngoại trừ tổ chức ADDA của Đan Mạch, GTZ của Đức và gần đây là Tổng cục Phát triển Nông thôn RDA của Hàn Quốc. 

2. Hiện trạng nghiên cứu và đào tạo về nông nghiệp hữu cơ 

Trong khi sản xuất nông nghiệp nước ta thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, song lĩnh vực nghiên cứu và đào tạo để thúc đẩy phát triển nông nghiệp hữu cơ chưa nhận được sự quan tâm và đầu tư đúng mức. Thông tin về hoạt động nghiên cứu và đào tạo/huấn luyện về nông nghiệp hữu cơ được công bố chính thức trên các tạp chí trong nước và quốc tế hiện còn quá ít. Các chương trình, đề tài nghiên cứu và phát triển đã và hiện đang được tiến hành chủ yếu tập trung vào việc chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi mới và xây dựng biện pháp kỹ thuật sản xuất phù hợp với giống cây trồng, vật nuôi đó; sản xuất sản phẩm cây trồng có chất lượng cao và an toàn dựa theo các nguyên lý ICM hoặc GAP. Những kết quả nghiên cứu trên được biên soạn, tổng kết để khuyến cáo bổ sung cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ. 

Lĩnh vực đào tạo huấn luyện về nông nghiệp hữu cơ cũng đang trong tình trạng tương tự. Đại học Nông nghiệp Hà Nội gần đây đã thành lập Trung tâm thúc đẩy và nghiên cứu nông nghiệp hữu cơ (COAPS), tuy vậy Trung tâm hiện rất thiếu nguồn lực hoạt động. 

3. Một số mô hình nông nghiệp hữu cơ tiêu biểu 

3.1. Dự án ADDA – VNFU về canh tác hữu cơ

Với sự hỗ trợ của chính phủ Đan Mạch thông qua Tổ chức hỗ trợ phát triển nông nghiệp châu Á (ADDA), Hội Nông dân Việt Nam đã thực hiện dự án này trong 7 năm, từ 2005 đến 2012. Mục đích của dự án là nhằm nâng cao nhận thức và hiểu biết kỹ thuật về canh tác nông nghiệp hữu cơ cho các nhóm/ hộ nông dân, đồng thời hỗ trợ họ sản xuất được các sản phẩm hữu cơ đạt chuẩn. Người dân tham gia dự án được tập huấn về các khâu của quá trình sản xuất, thị trường, tiêu thụ và liên kết khách hàng. Dự án đã tạo được sự quan tâm phối hợp của Hội Nông dân 9 tỉnh/ thành phố (Lào Cai, Tuyên Quang, Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Hà Nội, Hòa Bình và Hà Tĩnh). Dự án đã tổ chức được 155 lớp tập huấn cho nông dân và các đối tượng khác tham gia về canh tác nông nghiệp hữu cơ. Đã xây dựng được nhiều nhóm sản xuất sản phẩm hữu cơ trên tổng diện tích 70 ha mô hình tại 9 tỉnh, đối tượng là rau, lúa, cam, vải, nho, chè và cá nước ngọt. Theo báo cáo, sản phẩm từ các mô hình được sản xuất theo tiêu chuẩn sản phẩm hữu cơ, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng đô thị. Một số nhóm nông nghiệp hữu cơ đã hoạt động khá thành công, ví dụ như nhóm rau hữu cơ của xã Đình Bảng, Bắc Ninh đã sản xuất rau an toàn trên diện tích 5000m2, cung cấp sản phẩm thường xuyên cho các khu công nghiệp và nhà hàng/ khách sạn trong vùng. Nhóm rau hữu cơ tại Hà Nội và Hòa Bình thường xuyên cung cấp 2,5 – 3 tấn rau/ngày cho thị trường Hà Nội, đảm bảo thu nhập ổn định cho nông dân tham gia dự án. 

Kết quả thành công nhất là Dự án đã xây dựng, áp dụng thí điểm phương pháp quản lý chất lượng chuỗi giá trị hữu cơ theo Hệ thống bảo đảm cùng tham gia (Participatory Guarantee System-PGS) với 25 nhóm nông dân ở Sóc Sơn, Hà Nội và Lương Sơn, Hòa Bình và các công ty tư nhân tham gia dự án, để sản xuất rau và một vài sản phẩm nông nghiệp hữu cơ khác. Dự án chứng nhận chất lượng sản phẩm hữu cơ dựa trên việc xem xét mức độ tham gia tích cực của các đối tác và trên cơ sở lòng tin, mạng lưới hoạt động xã hội và chia sẻ hiểu biết với nhau (IFOAM PGS Task Force, 2008). Dự án đã xây dựng và phát hành Sổ tay hướng dẫn thực hành PGS – Việt Nam (version 3) bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh.

Việc áp dụng hệ thống kiểm soát chất lượng theo PGS đã tỏ ra có hiệu quả trong việc giúp đỡ nhiều nhóm nông dân thực hành các nguyên lý và đòi hỏi của phương pháp PGS, và trong thực tế nhiều nhóm hộ nông dân đã sản xuất và tiêu thụ khá thành công sản phẩm rau hữu cơ. Một trong các ví dụ thành công này là Nhóm hộ nông dân ở xã Tân Đức tỉnh Phú Thọ. Xã thành lập tổ sản xuất rau hữu cơ từ tháng 1/2008, đến năm 2010. Nhóm đã quy hoạch được 3 vùng sản xuất rau hữu cơ với tổng số 198 hộ nông dân tham gia. Nhóm nông dân sản xuất rau hữu cơ của xã hiện đã có thể tự vận hành được công việc, từ khâu lựa chọn vùng trồng thích hợp (bao gồm cảviệc thuê phân tích chất lượng mẫu đất và mẫu nước), chuẩn bị phân hữu cơ hoai mục, thực hiện nghiêm quy trình sản xuất và quản lý, truy nguyên nguồn gốc sản phẩm, phát triển mạng lưới thị trường và đáp ứng yêu cầu vềchất lượng theo tiêu chuẩn PGS. 

3.2. Ecolink-Ecomart với sản phẩm chè và rau hữu cơ

Ecolink được thành lập năm 2003 để hỗ trợ các hộ nông dân nhỏ sản xuất và tiêu thụ chè. Ecomart Việt Nam hiện nay được hình thành từ việc sáp nhập giữa Ecomart cũ và Ecolink. Ecomart cũ được thành lập thông qua thực hiện 1 dự án do NZAID tài trợ trong giai đoạn 2002 – 2006, nhằm giúp Bộ NN-PTNT xây dựng bộ tiêu chuẩn sản phẩm nông nghiệp hữu cơ quốc gia (Tiêu chuẩn ngành 10 TCN602-2006). Hoạt động chính của Ecolink-Ecomart hiện nay là sản xuất chè hữu cơ để xuất khẩu sang thị trường Âu và Mỹ. Thời gian đầu Công ty sản xuất chè hữu cơ tại tỉnh Thái Nguyên, gặp nhiều khó khăn vì nông dân ở đây quen với tập quán trồng chè thâm canh, do vậy họ không tuân thủ nghiêm ngặt quy trình sản xuất chè hữu cơ. Vì vậy, công ty đã chuyển vùng sản xuất về huyện Bắc Hà của tỉnh Lào Cai (300ha) và huyện Quang Bình của tỉnh Hà Giang (500ha). Đây là 2 huyện có địa hình núi cao, khí hậu mát mẻ và hoàn toàn cách ly với các vùng trồng chè thâm canh truyền thống. Công ty đã xây dựng 2 nhà máy chè: một tại Bắc Hà (với công suất 15 tấn búp tươi/ngày) và một tại Quang Bình (20 tấn búp tươi/ngày, tương đương 4 tấn búp khô/ngày). Sản phẩm chè hữu cơ của công ty được đóng gói thành bao cỡ30-40kg để xuất khẩu sang Châu Âu và Mỹ, từ đó sẽ được đối tác nước sở tại đóng thành các gói nhỏ gắn logo và quy cách phù hợp với thị trường nội địa nước đó. 

Các đặc điểm đặc trưng nhất trong hoạt động sản xuất chè hữu cơ của Ecolink-Ecomart là: Chỉ sử dụng một giống chè địa phương Shan Tuyết, sản xuất với các hộ nông dân đã đăng ký và được đào tạo. Các trang trại chè chỉ bón phân hữu cơ ủ mục, không dùng phân khoáng và không phun thuốc trừ sâu hóa học. Công ty thu mua chè búp tươi đạt tiêu chuẩn về chế biến tại nhà máy và theo quy trình của công ty. Sản phẩm của Công ty đã được cấp giấy chứng nhận hữu cơ của tổ chức ICEA (Ialia) từ năm 2009. Chiến lược của công ty trong việc đảm bảo chất lượng là: cố gắng thỏa mãn tiêu chuẩn chất lượng của từng đối tượng khách hàng, thông qua việc áp dụng nghiêm ngặt qui trình kiểm soát chất lượng và thanh tra nội bộ, tiến tới được cấp chứng chỉ chất lượng theo tiêu chuẩn của mỗi đối tượng khách hàng.

Bên cạnh chè hữu cơ là sản phẩm chính, Ecolink – Ecomart hiện đang sản xuất và tiêu thụ 20 chủng loại rau hữu cơ, đáp ứng nhu cầu rau xanh giao tận nhà cho khoảng 2000 khách hàng (trong đó có khoảng 500 khách hàng thường xuyên), kể cả việc mua bán qua mạng. Với sản phẩm rau hữu cơ, công ty đang áp dụng phương pháp PGS để kiểm soát và đảm bảo chất lượng. Công ty cho biết giá tiêu thụ chè hữu cơ sang châu Âu và Mỹ đạt khoảng 5,5 – 6,0 USD/kg so với 2,2 – 3,0 USD cho 1 kg chè thường xuất sang thị trường Ai Cập. Sản phẩm chè hữu cơ của công ty được tiêu thụ trong nước chưa đáng kể, có lẽ do người tiêu dùng chưa chấp nhận giá cao. 

3.3. Organik Đà Lạt với sản phẩm rau hữu cơ

Công ty Organik Đà Lạt đóng tại phường Xuân Thọ, thành phố Đà lạt, tỉnh Lâm Đồng, là địa bàn lý tưởng để sản xuất rau theo phương pháp hữu cơ. Chủ công ty là TS. Nguyễn Bá Hùng, bắt đầu sự nghiệp bằng việc nghiên cứu sản xuất và tiêu thụ cây giống rau từ năm 1997, sản xuất rau trên đất thuê từ năm 2003 và mua đất lập trang tại sản xuất rau từtháng 10-2006. Ý tưởng của ông Hùng về việc thành lập công ty bắt nguồn từ việc quan sát thấy có nhiều khách hàng và nhà hàng, khách sạn 5 sao ở Đà Lạt cần mua các sản phẩm rau hữu cơ được sản xuất ngay tại địa phương. Với ý tưởng đó, ông Hùng đã thành lập và phát triển Organik Đà Lạt khá thành công. Công ty cho biết hiện đang sản xuất khoảng 150 chủng loại rau các loại, cung cấp cho nhiều khách sạn cao cấp tại các thành phố: Đà Lạt, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hà Nội, Công ty cổ phần suất ăn hàng không của hãng Pacific và khoảng 1000 khách hàng ngoại quốc đang làm việc tại Việt Nam. Công ty cũng đang xuất khẩu sản phẩm rau hữu cơ sang thị trường Đài Bắc và một số nước láng giềng. 

Organik Đà Lạt có trang thiết bị khá hiện đại cho sản xuất rau hữu cơ, bao gồm nhà lưới, thiết bị xử lý rác thải và xử lý nước tưới. Công ty sử dụng phân hữu cơ, hoàn toàn không sử dụng hóa chất và thuốc BVTV có nguồn gốc hóa học, thực hành tốt các nguyên lý và phương pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM), luân canh cây trồng để loại trừ cây ký chủ nguồn bệnh, dùng các loại cây hoa có màu sắc để xua đuổi côn trùng…. Công ty có hệ thống sổ sách ghi chép chi tiết về quá trình sản xuất mỗi sản phẩm, nhằm đảm bảo lòng tin cho khách hàng và độ an toàn của sản phẩm được cung ứng. Công ty đã được cấp chứng chỉ HACCP cho sản phẩm rau hữu cơ do HACCP của Hà Lan cấp. Tuy vậy, hiện tại công ty chưa có kế hoạch rõ ràng (mặc dù rất muốn) về việc mở rộng qui mô sản xuất, do thiếu vốn để đầu tư thiết bị và đảm bảo kiểm soát chất lượng sản phẩm một cách chặt chẽ. Công ty hiện cũng có ý tưởng sẽ tiến hành nghiên cứu và phát triển sản phẩm gạo, đường và muối hữu cơ. 

3.4. Viễn Phú Green Farm với sản phẩm gạo hữu cơ

Tuy đã trở thành một trong các nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, lĩnh vực sản xuất lúa gạo hữu cơ hiện vẫn còn rất mới mẻ đối với Việt Nam. Công ty Viễn Phú đã đi đầu trong việc gia công, chế biến và sản xuất gạo hữu cơ để xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Trang trại của công ty được đặt tại huyện U Minh, tỉnh Cà Mau trên diện tích 320ha, trong đó 200 ha để canh tác cây trồng. Công ty bắt đầu sản xuất lúa hữu cơ với 80 ha trong vụ hè thu 2011 và khoảng 200 ha năm 2012. Lúa hữu cơ được sản xuất theo quy trình riêng của công ty, kể cả giống lúa do công ty tuyển chọn, sử dụng phân hữu cơ Agrostim nhập khẩu (được Viện Nghiên cứu Vật liệu hữu cơ của Mỹ cấp chứng chỉ) để sản xuất, không sử dụng phân hóa học và thuốc trừ sâu hóa học trong quá trình sản xuất. Sản phẩm lúa gạo hữu cơ của công ty được các tổ chức chứng nhận quốc tế theo tiêu chuẩn EU và USDA kiểm tra, giám sát và công nhận. 

Công ty hiện có kế hoạch đầu tư trang thiết bị và cải tạo đồng ruộng, mở rộng quy mô sản xuất lúa hữu cơ trên toàn bộ diện tích 320 ha đất của công ty và hợp đồng với nông dân trong vùng trên diện tích 10.000-20.000 ha trong thời gian tới. Sản phẩm chính của công ty là gạo hữu cơ đạt chuẩn chất lượng theo tiêu chuẩn của châu Âu và Mỹ, có các thương hiệu “Hoa Sữa trắng”, “Hoa Sữa đen”, “Hoa Sữa Tím”, “Hoa Sữa Đỏ”… Tuy vậy, hiện công ty vẫn còn gặp nhiều khó khăn về kỹ thuật, về việc xác định đúng nhu cầu thị hiếu của khách hàng, việc đảm bảo ổn định và duy trì chất lượng đạt chuẩn. 

THÁCH THỨC VÀ CƠ HỘI CHO SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ Ở VIỆT NAM 

1. Thách thức

Hiện nay, Nông nghiệp hữu cơ thực sự là một cơ hội cho Nông nghiệp Việt Nam, nhất là khi giá bán các nông sản đang xuống thấp, chất lượng và vệ sinh an toàn chưa được kiểm soát hiệu quả. Tuy nhiên, nông nghiệp hữu cơ với qui mô nào, đối tượng nào, và quan trọng hơn là có thị trường không? Cùng với sự đồng thuận và ủng hộ của người tiêu dùng, hỗ trợ của Nhà nước là những điều kiện vô cùng quan trọng. 

Có thể nói, hữu cơ là một chỉ tiêu quan trọng bậc nhất của độ phì nhiêu đất Việt Nam. Nó không chỉ đảm bảo ổn định độ phì nhiêu đất, nâng cao khả năng giữ dinh dưỡng, tăng cường hiệu lực phân hóa học mà còn giảm thiểu ảnh hưởng của các yếu tố độc hại như sắt, nhôm, mangan… thông qua quá trình tạo phức hữu cơ. Tuy nhiên, hữu cơ trong đất Việt Nam lại chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽcủa quá trình khoáng hoá nên hàm lượng của chúng suy giảm nhanh chóng, nhất là trên đất đồi núi, nơi vừa chịu ảnh hưởng của quá trình khoáng hóa, vừa chịu ảnh hưởng của quá trình rửa trôi.

Trước đây, Việt Nam với dân số ít, các giống cây trồng, nhất là lúa là những giống truyền thống, năng suất không cao nên việc bón một lượng phân hữu cơ hay phân xanh (8 tấn/ha/vụ) là đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu của cây trồng. Chính vì vậy, đã từng có thời gian phân chuồng, bèo dâu, điền thanh là những loại phân bón chính cho cây lương thực hay phân bắc, nước tiểu là những loại phân bón chính cho rau… Tuy nhiên hiện nay, cùng với việc gieo trồng các giống mới và tăng 2-4 vụ/năm thì dinh dưỡng cung ứng từ phân chuồng và đất không đáp ứng đủ, trong khi việc sản xuất phân xanh lại thu hẹp, do thiếu lao động cũng như diện tích đất trồng. 

Việt Nam là một nước nông nghiệp, đất chật người đông và diện tích đất nông nghiệp trên đầu người ngày càng suy giảm, từ 0,13ha năm 1980 xuống còn khoảng 0,1 ha hiện nay, chỉ bằng 8,7% trung bình của thế giới. Đó là chưa kể ở những vùng sản xuất nông nghiệp tập trung như Đồng bằng sông Hồng thì chỉ còn gần 400 m2/người. Xu thế biến đổi đất canh tác của thế giới cũng có chiều hướng tương tự. Trong 25 năm qua (1965-1990), diện tích đất canh tác của toàn thế giới tăng được có 9,4%, trong khi dân số lại tăng 68,5% trong cùng thời gian, làm cho bình quân diện tích đất canh tác trên đầu người giảm 35,1% hay 1,4%/năm. Để đảm bảo an ninh lương thực, các nước có thể dựa vào 2 yếu tố là tăng diện tích và năng suất. Với Việt Nam hiện tại chỉ còn có một con đường duy nhất là tăng năng suất. Xu thế này cũng là xu thế của các nước đang phát triển trên thế giới, tức là đóng góp của yếu tố diện tích, kể cả tăng vụ đã ngày càng chiếm tỉ trọng thấp hơn. Theo xu thế này, ngay cả Trung Quốc, một quốc gia được coi là xuất xứ của nông nghiệp hữu cơ truyền thống cũng đã phải giảm dần tỉ trọng của dinh dưỡng từ phân hữu cơ trong tổng lượng dinh dưỡng sử dụng, từ 98,6% năm 1949 xuống còn 38% năm 1990 và hiện tỉ lệ này chỉ còn dưới 20%. 

Như vậy, để đảm bảo an ninh lượng thực, các quốc gia đông dân, đất nông nghiệp hạn chế cả về số lượng và chất lượng sẽ phải đi theo con đường thâm canh với việc tăng cường sử dụng giống mới năng suất cao, phân bón vô cơ và hoá chất bảo vệ thực vật. Hay nói cách khác là đi theo con đường hóa học hóa nông nghiệp. Việt Nam cũng đã đi theo hướng này trong vài thập kỷ qua. Nhìn lại lịch sử, Việt Nam mới bắt đầu sử dụng phân hóa học trong một vài đồn điền của Pháp vào đầu thế kỷ trước còn phần lớn đồng ruộng của nông dân chỉ được bón phân chuồng, một vài loại phân xanh như bèo dâu, điền thanh. Phế phụ phẩm nông nghiệp chủ yếu dùng cho nhu cầu lợp nhà, làm nhiên liệu. Phân hóa học chỉ thực sự được sửdụng rộng rãi sau khi thống nhất đất nước (1975). Tuy nhiên tốc độ sử dụng phân bón lại tăng quá nhanh. Năm 2012 chúng ta sử dụng gần 12 triệu tấn phân bón các loại và gần nửa tỉ USD cho thuốc bảo vệ thực vật. Một điều đáng lo ngại là khuyến nông phân bón chưa được chú ý đúng mức nên việc sử dụng phân bón rất tùy tiện, không cân đối, không đúng cây, đúng đất nên hệ số sử dụng phân bón rất thấp. Hiện tại, hệ số sử dụng đạm chỉ trên 40%, phân kali khoảng 55-60%. Nhưng phân lân còn thấp hơn nhiều. Như vậy, hàng năm đã mất đi gần một nửa lượng phân bón do rửa trôi, bay hơi hay cố định chặt. Tác hại này không chỉ gây thiệt hại vềvật chất do lãng phí mà còn gây ra những tác hại khác như dễ bị sâu bệnh, lốp đổ, chất lượng sản phẩm giảm hay dưỡng phú nguồn nước. Bản thân sửdụng hữu cơ cũng có những nguy cơ gây ô nhiễm môi trường như tích lũy kim loại nặng, vi sinh vật độc hại (trứng giun, E.coli…) hay quá trình phú dưỡng nguồn nước. Hiện nay nhiều người vẫn lầm tưởng rằng chỉ có phân đạm hoá học mới là nguồn gây ô nhiễm nitrat. Thực ra, nitrat có thể tạo ra từ hữu cơ đất, phân chuồng, từ phế phụ phẩm nông nghiệp… Ở Runnels, bang Texas (Mỹ) người ta phát hiện thấy trong nước ngầm tới 3.000mg NO3/lít (theo tiêu chuẩn của WHO là 50mg NO3/lít) mà nguyên nhân chính là do phân giải chất hữu cơ sau khi cầy vùi phế phụ phẩm. Các nghiên cứu với N15 của PPI (1996) cũng thấy phần lớn NO3 bị rửa trôi lại không phải trực tiếp từ phân đạm khoáng bón vào mà là từ các chất hữu cơ. Kết quả nghiên cứu của trại Rothamsted (Anh) cũng có kết luận tương tự: nguồn NO3 rửa trôi hầu hết là từ chất hữu cơ và tàn dư thực vật. N từ các nguồn này trong chu trình phân giải lại dễ bị rửa trôi và tích luỹ lâu dài hơn từ phân bón vô cơ. Do vậy, việc bón phân hữu cơ, phế phụ phẩm nông nghiệp trong điều kiện nhiệt độ cao, lượng mưa lớn sẽ là nguồn cung cấp NO3 rất lớn.

Ngoài những yếu tố nêu trên, nông nghiệp hữu cơ cũng đúng trước một thách thức lớn là nông dân thờ ơ với loại hình sản xuất này do chi phí sản xuất cao, thu nhập thấp vì thịtrường cho sản phẩm của nông nghiệp hữu cơ không ổn định, Nhà nước chưa có chính sách khuyến khích, hỗ trợ. Đó là chưa kể đến hệ thống cấp chứng chỉ chưa hoàn chỉnh, công tác quản lý chất lượng kém, lòng tin của người tiêu dùng chưa được đảm bảo. 

2. Cơ hội 

Như vậy, việc lạm dụng phân bón và hóa chất BVTV đã và đang gây ra ô nhiễm môi trường và làm suy giảm chất lượng nông sản. Do vậy, phát triển nông nghiệp sinh thái bền vững là một xu thế tất yếu nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và giảm thiểu tác động tiêu cực đến sức khỏe cộng đồng cũng nhưmôi trường sống. Với Việt Nam, để chuyển thành công nền sản xuất tựcấp tự túc sang một nền sản xuất hàng hóa, định hướng xuất khẩu thì vấn đề an toàn thực phẩm cũng như nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu cầu của thị trường trong nước và quốc tế sẽ ngày càng cấp thiết. 

Cơ hội cho phát triển nông nghiệp hữu cơ còn phải kể đến nhu cầu trong nước và quốc tế tăng cao đối với những sản phẩm an toàn. Chính vì vậy, một số sản phẩm hữu cơ đã có chỗ đứng vững trên thị trường như rau sạch, chè hữu cơ, thịt sạch… Tuy nhiên, có thể nói nông nghiệp hữu cơ vẫn còn chiếm một tỉ trọng rất nhỏ/không đáng kể trong tổng sản lượng nông nghiệp. Năm 2012, kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam đạt 27,5 tỉUSD, nhiều ngành hàng đứng trong nhóm đầu của thế giới như gạo, cao su, cà phê, hồ tiêu, điều, chè…. Tuy nhiên, hầu hết nông sản chúng ta xuất khẩu ở dạng thô, chưa qua chế biến, chất lượng chưa cao, do vậy giá trị gia tăng rất thấp. 

Sắp tới, trong chiến lược phát triển nông nghiệp của Việt Nam, đảm bảo an ninh lượng thực quốc gia, nâng cao hiệu quả sản xuất và tăng thu nhập của người dân là ưu tiên hàng đầu. Tuy nhiên, đang có xu hướng giảm diện tích gieo trồng lúa, giảm xuất khẩu gạo để gieo trồng nhiều hơn các giống lúa chất lượng, nâng cao ti lệ giống đặc sản, bản địa có chất lượng. Chúng ta không thể cứ xuất khẩu gạo với giá dưới 500USD, trong khi nhiều thành phố lại nhập về gạo trên 1000USD. Và như vậy, cơ hội trở lại canh tác hữu cơ với một số giống lúa là hiện hữu. 

Với điệu kiện tự nhiên và xã hội của Việt Nam, nông nghiệp hữu cơ có cơ hội cho ngành hàng rau, quả, chè núi cao, cây gia vị, cây làm thuốc, thủy sản theo phương thức nuôi sinh thái và một tỉ lệ nhất định với cà phê, hồ tiêu. Một yếu tố rất quan trọng là sự quan tâm của Nhà nước và người dân đã được nâng lên đối với nông nghiệp hữu cơ. Minh chứng là, ngày 22/5/2013 Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ Việt Nam đã chính thức được thành lập. Bộ Nông nghiệp và PTNT ban hành Tiêu chuẩn ngành 10 TCN 602-2006: Hữu cơ-Tiêu chuẩn về sản xuất Nông nghiệp Hữu cơ và chế biến vào ngày 29 tháng 12 năm 2006 là một cơ sở pháp lý quan trọng. Nhiều doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư vào sản xuất, chế biến và xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp hữu cơ.

QUAN ĐIỂM, NỘI DUNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ Ở VIỆT NAM 

Có thể nói nông nghiệp hữu cơ là phương thức sản xuất đỏi hỏi những yêu cầu khắt khe với người sản xuất và do vậy thị trường rất hạn chế. Nhìn vào sự phát triển của nông nghiệp hữu cơ toàn cầu với trên 160 quốc gia và vùng lãnh thổ, song có thể thấy rất rõ, thị trường nông nghiệp hữu cơ tập trung ở các nước phát triển, dân số không cao, còn sản xuất hữu cơ lại chủyếu ở các nước đất rộng, người thưa, không chịu áp lực về dân số, an ninh lương thực. Để có thể sản xuất nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam rất cần quan điểm rõ ràng và hệ thống giải pháp cụ thể. 

1. Quan điểm 

i) Việt Nam là đất nước đất canh tác trên đầu người thuộc loại thấp nhất trên thế giới, dân số tăng nhanh, do vậy phát triển nông nghiệp cần hài hòa, bền vững, trong đó sản xuất theo hướng thâm canh, hóa học hóa vẫn là chủyếu. 

ii) Nắm bắt cơ hội phát triển cho nông nghiệp hữu cơ ởViệt Nam với sự lựa chọn chính xác chủng loại sản phẩm và vùng sản phẩm thích hợp cho các thị trường xác định. Bài học thành công của nông nghiệp Việt Nam thời gian qua là biết khai thác lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên, xã hội. Do vậy, chúng ta nên tập trung sản xuất sản phẩm hữu cơ với các loài bản địa, gắn với nông nghiệp du lịch, sinh thái.

iii) Phát triển nông nghiệp hữu cơ là quá trình, đòi hỏi sự quan tâm ủng hộ của Nhà nước và các địa phương trong qui hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ chế biến và thương mại sản phẩm. Thịtrường là yếu tốquyết định nhất đến sự thành bại của nông nghiệp hữu cơ Việt Nam. 

2. Các nội dung cần quan tâm trong tổ chức sản xuất nông nghiệp hữu cơ 

Để phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam thành công, theo chúng tôi, rất cần quán triệt các quan điểm nêu trên và tập trung vào các nội dung sau: 

i) Bảo vệ và cải thiện độ phì nhiêu đất đai, trong đó có các giải pháp ổn định hàm lượng hữu cơ trong đất (đặc biệt là đất đồi núi) do hữu cơ không chỉ cải thiện cấu trúc đất, tăng cường khả năng giữ ẩm, giữ dinh dưỡng mà còn giảm các yếu tố độc hại thông qua quá trình tạo phức.

ii) Tăng cường chu trình hữu cơ với việc sử dụng công nghệ sinh học nhằm khai thác tối đa nguồn phân chuồng, phân xanh, phế phụ phẩm nông nghiệp cũng như các nguồn hữu cơ khác để đảm bảo cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng đủ về lượng và cân đối về tỉ lệ. Nguyên tắc trả lại phế phụ phẩm được xem là nguyên tắc tối ưu cho phép hoàn trả đúng những chất dinh dưỡng (đặc biệt là vi lượng) mà cây trồng đó đã lấy đi, trong khi phân bón khó có thể đáp ứng được.

iii) Thực hiện tốt nhất chế độ luân canh nói chung và với cây bộ đậu nói riêng nhằm khai thác khả năng cộng sinh đạm sinh học cũng như hạn chế phát sinh sâu bệnh, phát huy lợi thế so sánh của điều kiện thời tiết, khí hậu. 

iv) Ngoài việc sử dụng giống bản địa, cổ truyền cần sử dụng các giống vừa có năng suất và chất lượng cao lại có khả năng kháng sâu bệnh để tăng khả năng huy động dinh dưỡng từ đất và phân bón. Tăng cường việc áp dụng IPM và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học, thiên địch. 

v) Tăng cường phát triển chăn nuôi, thủy sản sinh thái tạo tiền đề cho sự phát triển nông nghiệp ổn định (thông qua sửdụng sản phẩm trồng trọt làm thức ăn chăn nuôi, thủy sản và cung cấp phân hữu cơ). Các mô hình trồng trọt-chăn nuôi-thủy sản bền vững cần được khuyến khích. 

vi) Ở những nơi có điều kiện, khai thác tối đa nguồn nước phù sa để tưới cho cây trồng. Giải pháp này vừa đảm bảo cung cấp dinh dưỡng từ cặn phù sa, vừa cho phép cải thiện môi trường và làm trẻ hóa đất. 

3. Giải pháp 

i) Về chính sách 

Có thể nói sản xuất nông nghiệp hữu cơ không còn là vấn đề kỹ thuật mà là vấn đề chính sách. Chính phủ và các Bộ, Ngành có liên quan đến nông nghiệp hữu cơ, như BộNông nghiệp và PTNT, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Y tế cần sớm ban hành các chính sách cụ thể, khả thi để hỗ trợ nông nghiệp hữu cơ phát triển, các chính sách nên tập trung vào: 

– Qui hoạch và bảo vệ đất đai và nguồn nước hiện chưa hoặc ít bị ô nhiễm và còn thích hợp cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ theo hướng hàng hóa.

– Nền sản xuất nông nghiệp hữu cơ Việt Nam còn quá nhỏ bé, các doanh nghiệp vừa nhỏ về qui mô, vừa ít về số lượng và hầu như chưa nhận được sự quan tâm và đầu tư của Nhà nước nên chưa có lãi, chưa thu hút các nhà đầu tư. Đó là chưa kể mức độ rủi ro cao về thị trường với ngành hàng này, do vậy, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ vốn sản xuất, ưu đãi trong giao và cho thuê đất và miễn giảm thuế thu nhập cho các tổ chức, cá nhân tham gia sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Đồng thời trong thời gian đầu có thể cần đến quĩ bảo hiểm sản xuất nông nghiệp hữu cơ. 

– Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, qui chuẩn sản xuất, chế biến, chứng nhận chất lượng, thanh tra, giám sát liên quan đến nông nghiệp hữu cơ. 

– Phần lớn các sản phẩm hữu cơ tiềm năng của Việt Nam đều nằm ở các vùng khó khăn về giao thông, điều kiện bảo quản, tạm trữ, chế biến không thuận lợi, do vậy, Nhà nước cần hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, nhất là hạ tầng cho chế biến phân bón hữu cơ, phân sinh học, vi sinh vật tại chỗ để giảm chi phí vận chuyển. 

– Giúp đỡ doanh nghiệp xây dựng thương hiệu, phát triển thị trường và quảng bá sản phẩm. 

– Sản xuất nông nghiệp hữu cơ cũng cần các yếu tố đầu vào đảm bảo. Do vậy, những doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh liên quan đến phân bón hữu cơ, sinh học, vi sinh vật, chế phẩm bảo vệ thực vật sinh học cũng cần được quan tâm hỗ trợ trong sản xuất. Tất nhiên, cần có sự liên kết giữa doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp hữu cơ với các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh phân bón, thuốc BVTV liên quan. 

ii) Về nghiên cứu và đào tạo 

– Thị trường là yêu cầu quan trọng nhất cho phát triển nông nghiệp hữu cơ, do vậy Nhà nước cần giao Bộ Thương mại qua hệ thống thương vụ tìm hiểu thị trường, yêu cầu về chủng loại sản phẩm, tiêu chuẩn chất lượng, số lượng sản phẩm nông nghiệp hữu cơ để có thể giúp doanh nghiệp đàm phán ký kết hợp đồng xuất khẩu. 

– Tổ chức nghiên cứu hệ thống chính sách, qui chuẩn, tiêu chuẩn, chứng nhận chất lượng và thương mại sản phẩm nông nghiệp hữu cơ của các nước để rút ra bài học cho Việt Nam trong việc hoạch định chiến lược phát triển và lựa chọn ngành hàng thích hợp.

– Đánh giá toàn diện về kinh tế, tổ chức, quản lý, thương mại sản phẩm nông nghiệp hữu cơ của các doanh nghiệp hiện đang sản xuất để tìm ra các khó khăn, vướng mắc đề xuất giải pháp phù hợp cho phát triển nông nghiệp hữu cơ trong thời gian tới. 

– Trên cơ sở tài liệu của nước ngoài, kinh nghiệm thực tiễn của Việt Nam cần sớm biên soạn tài liệu kỹ thuật – khuyến nông phục vụ sản xuất nông nghiệp hữu cơ. 

– Về đào tạo, các Trường Đại học Nông nghiệp sớm mở thêm môn học về sản xuất nông nghiệp hữu cơ tiến tới hình thành chuyên ngành đào tạo về nông nghiệp hữu cơ trong tương lai. Bằng nguồn kinh phí trong nước và thông qua dựán HTQT, các viện nghiên cứu và trường đại học lựa chọn gửi sinh viên đi đào tạo thạc sỹ/ tiến sỹ về lĩnh vực này ở nước ngoài. 

iii) Về tăng cường năng lực hoạt động của Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ Việt Nam 

Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ cần thông qua các doanh nghiệp có mô hình thành công, giúp họ quảng bá, giới thiệu sản phẩm, qua đó nâng cao sự hiểu biết và quan tâm của toàn xã hội, nhất là các cơ quan quản lý đến sản phẩm của nông nghiệp hữu cơ. 

Hiệp hội cần xây dựng mạng lưới cộng tác viên trong và ngoài nước, các tổ chức NGO để cập nhật thông tin, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tiếp cận xu thế phát triển nông nghiệp hữu cơ của các nước, các công nghệ mới và nhất là các qui chuẩn, tiêu chuẩn mà mỗi nước nhập khẩu đề ra. 

Sản phẩm nông nghiệp hữu cơ cũng cần hướng đến gần 90 triệu dân trong nước và tương lai không xa là 130 triệu. Nhu cầu về sản phẩm an toàn, chất lượng, được chứng nhận và cam kết truy xuất được nguồn gốc là rất lớn, nhất là tại các thành phồ lớn, người có thu nhập cao, các nhà hàng, khách sạn, bệnh viện, trường mẫu giáo, Việt kiều cũng như người nước ngoài sống tại Việt Nam.

iv) Về hợp tác quốc tế

Với một nền sản xuất nông nghiệp hữu cơ hiện đại, có chứng nhận thì Việt Nam là nước đi sau rất nhiều quốc gia. Do vậy, việc trao đổi kinh nghiệm, đào tạo nguồn lực, hỗ trợ phát triển thị trưởng và kiểm soát chất lượng rất cần sự hỗ trợ của các quốc gia, tổ chức quốc tế. Chúng ta có thuận lợi là IFOAM đang quan tâm đến các nước đang phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ, đề nghị IFOAM hỗ trợ Việt Nam trong việc hoàn thiện thể chế, đề xuất chính sách, tăng cường năng lực về kiểm soát chất lượng. Giúp các doanh nghiệp Việt Nam giao lưu, học hỏi các doanh nghiệp có lịch sử phát triển lâu đời và thành công tại các quốc gia khác nhau. 

Đề nghị kết nối trang web của Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ Việt Nam với trang web của IFOAM để nông nghiệp hữu cơ Việt Nam được tiếp cận nhiều hơn và nhanh hơn với cộng đồng quốc tế. 

KẾT LUẬN 

Từ nhiều thế kỷ nay, nông dân Việt Nam đã có tập quán sử dụng phân hữu cơ như phân chuồng, phân xanh, phân bắc và phế phụ phẩm nông nghiệp. Tuy nhiên, do áp lực ngày càng tăng của dân số, đất canh tác hạn hẹp… nền nông nghiệp hữu cơ với lịch sử hàng ngàn năm đã không thể đảm bảo an ninh lượng thực cho quốc gia và do vậy, nông nghiệp Việt Nam đã phải chuyển từ một nền nông nghiệp dựa vào đất, dựa vào hữu cơ sang một nền nông nghiệp dựa vào phân bón (chủ yếu là vô cơ). Chính phân bón hóa học như là một yếu tố quan trọng của thâm canh đã góp phần làm nên những thành tựu to lớn của nông nghiệp thời gian qua, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới. 

Tuy nhiên, do đã xuất hiện những cơ hội mới cho sản phẩm nông nghiệp hữu cơ trong phạm vi khu vực và thế giới, nông nghiệp hữu cơ của Việt Nam bắt đầu có điều kiện phát triển cho dù trước mắt còn rất nhiều khó khăn và thách thức. Chúng tôi cũng hy vọng rằng với sự giúp đỡ của các tổ chức Quốc tế, đặc biệt là IFOAM, trong việc huấn luyện, cung cấp công nghệ và nhất là tiếp cận thị trường và sự ủng hộ mạnh mẽ, thiết thực của Nhà nước sẽ thúc đẩy nông nghiệp hữu cơ Việt Nam từng bước phát triển. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 

1. Bộ NN-PTNT (2007), Tiêu chuẩn ngành số10 TCN602-2006 về sản xuất và chế biến các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ Việt Nam. 

2. Bộ NN-PTNT (2013): Quyết định số1259 QĐ-BNN-KHCN của Bộ trưởng Bộ NN-PTNT phê duyệt Chương trình khung nghiên cứu khoa học và công nghệ ngành Nông nghiệp và PTNT giai đoạn 2013-2020.

3. Thủ tướng Chính phủ, 2012. Quyết định số 01/2012/QD-TTg về một số chính sách hỗ trợ việc áp dụng Quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản. 

4. Balu L. Bumb and Carlos A. Baanante. 1996. The Role of Fertilizer in Sustaining Food Security and Protecting the Environment to 2020. International Food Policy Research Institute, Washing ton D.C.,. 

5. Nguyễn Văn Bộ, 2002. Nông nghiệp hữu cơ ởViệt Nam: Thách thức và cơ hội. Báo cáo Hội thảo: Sản xuất và xuất khẩu nông sản hữu cơ. Hà Nội, 17 tháng 7 năm 2002. 

6. Nguyễn Văn Bộ, 1999. Những nguy cơ ô nhiễm môi trường từ phân bón. Kết quả nghiên cứu khoa học. Viện Thổ nhưỡng nông hoá, Q.3. NXB Nông nghiệp, 1999. 

7. Ngo Doan Dam, Doan Xuan Canh, Nguyen Thi Thanh Ha, Nguyen Van Tan, Nguyen Dinh Thieu, 2012: Vietnam Organic Agriculture:An overview on current status and some success activities. Proceeding of International Workshop on World Organic agriculture status and prospective. Published by Korean Association of Organic Agriculture, pp 346-360. 

8. Nguyễn Bá Hùng, 2012: Kỹ thuật canh tác rau và sản phẩm hữu cơ tại công ty ORGANIC Đà Lạt. Kỷ yếu Hội thảo “Thúc đẩy nghiên cứu và phát triển nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam”, Viện KHNN Việt Nam tháng 2 năm 2012, trang 25-45. 

9. I. J. Kimmo. Environmentally Friendly Fertilization through Balanced Fertilizer Use. Paper prepared for Regional FADINAP Workshop, Hue, Vietnam, 8-10 November 1995. 

10. Thân Duy Ngữ (2012). Kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất chè hữu cơ của công ty ECOMARD.Kỷ yếu Hội thảo “Thúc đẩy nghiên cứu và phát triển nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam”, Viện KHNN Việt Nam tháng 2 năm 2012. 

11. Từ Thị Tuyết Nhung, 2012: Phát triển hệ thống đảm bảo PGS trong dự án Nông nghiệp Hữu cơ- ADDA. Kỷ yếu Hội thảo“Thúc đẩy nghiên cứu và phát triển nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam”, Viện KHNN Việt Nam tháng 2 năm 2012, trang 13-18. 

12. FiLB and IFOAM, 2012: The World Organic Agriculture: Statistics and emerging trends 2012. 

13. ADDA -VNFU Project, at https://sites.google.com/site/pgsvietnam/

14. ECOMART at http://www.ecomart.vn

15. CAMIMEX, 2012: Qui trình nuôi tôm sinh thái và hệ thống kiểm soát chất lượng nội bộ trong Dự án nuôi tôm sinh thái tại tỉnh Cà Mau, Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo “Thúc đẩy nghiên cứu và phát triển nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam”, Viện KHNN Việt Nam tháng 2 năm 2012, trang 130 – 133. 

16. Organik Dalat at http://www.organikvn.com

17. Simmons and Scott, 2008: Organic agriculture and “safe” vegetable in Vietnam: Implications for agro-food system sustainability. Available online at: http://oacc.info/Docs/Guelph2008SocialSciences/Simmons%20and%20Scott%20 (2008).pdf

18. Vien Phu Green Farm at http://vienphugreenfarm.com

ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC VÀ NGHIÊN CƯU KHOA HỌC ỨNG DỤNG PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO VÀ CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM,TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN LANG
Phan Phước Hiền [1]*, Châu Tấn Phát1
1 Viện Khoa học Công nghệ Ứng dụng, Trường Đại học Văn Lang

[1]* PGS.TS. Phan Phước Hiền. Viện trưởng Viện Khoa Học Công Nghệ Ứng Dụng – Trường đại học Văn Lang. Email: hien.pp@vlu.edu.vn; TS. Châu Tấn Phát – Giảng viên Viện Khoa Học Công Nghệ Ứng Dụng – Trường đại học Văn Lang. Email: phat.ct@vlu.edu.vn

(Trong sách: Kỷ yếu Hội thảo Khoa học: Đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học phục vụ phát triển Nông nghiệp Công nghệ cao và Công nghệ Thực phẩm; Nhà Xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, trang 15-34)

  1. Sự cần thiết về việc mở đào tạo nguồn nhân lực cho ngành NNCNC và CNTP

1.1 Tình hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao và CNTP trên thế giới và Việt Nam

Những năm giữa thế kỷ XX, các nước phát triển đã quan tâm đến việc xây dựng các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao nhằm thúc đẩy sáng tạo khoa học công nghệ giúp cho kinh tế phát triển. Đầu những năm 80, tại Hoa Kỳ đã có hơn 100 khu khoa học công nghệ. Ở Anh quốc, đến năm 1988 đã có 38 khu vườn khoa học công nghệ với sự tham gia của hơn 800 doanh nghiệp. Phần Lan đến năm 1996 đã có 9 khu khoa học nông nghiệp công nghệ cao. Phần lớn các khu này đều phân bố tại nơi tập trung các trường đại học, viện nghiên cứu để nhanh chóng ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ mới và kết hợp với kinh nghiệm kinh doanh của các doanh nghiệp để hình thành nên một khu khoa học với các chức năng cả nghiên cứu ứng dụng, sản xuất, tiêu thụ và dịch vụ. Năm 2015, 98% nông dân Pháp sử dụng Internet để phục vụ công việc nhà nông như cập nhật thông tin thời tiết, tình hình sản xuất nông nghiệp, biến động của thị trường nông sản, thực hiện các giao dịch ngân hàng qua mạng.Hiện nay, châu Âu đặc biệt khuyến khích xu hướng áp dụng công nghệ cao trong nông nghiệp với chương trình Chính sách nông nghiệp chung PAC(Common Agricultural Policy). Theo số liệu mới đây, có nhiều nông dân sử dụng Internet để điền đơn xin trợ giúp của PAC. Tuy nhiên, so với người làm nông bên kia bờ Đại Tây Dương (Mỹ, Canada….), việc ứng dụng Internet tại châu Âu còn hạn chế, đắt đỏ và chưa thực sự phổ cập. Ngoài ra, các nguyên nhân như hạ tầng cơ sở kém, độ tuổi nông dân tại “lục địa già” khá cao (chỉ có 6% nông dân châu Âu ở độ tuổi dưới 35)… dẫn tới hạn chế khả năng ứng dụng công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Trong tương lai, châu Âu sẽ tiếp tục phát triển hạ tầng kỹ thuật số, khi nhiều thanh niên bày tỏ họ sẵn sàng làm công việc nhà nông, nhưng không phải với điều kiện như những năm 90 của thế kỷ trước. Bên cạnh các nước tiên tiến, nhiều nước và khu vực lãnh thổ ở châu Á cũng đã chuyển nền nông nghiệp theo hướng số lượng là chủ yếu sang nền nông nghiệp chất lượng, ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ tự động hoá, cơ giới hoá, tin học hoá… để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, an toàn, hiệu quả. Tiêu biểu như các nước thuộc khu vực Đông Á và Đông Nam Á như Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan… Đặc biệt, từ những năm 1990, Trung Quốc đã rất chú trọng phát triển các khu NNCNC, đến nay đã hình thành hơn 405 khu NNCNC, trong đó có 1 khu NNCNC cấp quốc gia, 42 khu cấp tỉnh và 362 khu cấp thành phố. Ngoài ra, còn hàng ngàn cơ sở ứng dụng công nghệ cao trên khắp đất nước. Những khu này đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nền nông nghiệp hiện đại của Trung Quốc. Sản xuất tại các khu NNCNC đạt năng suất kỷ lục. Ví dụ như ở Israel năng suất cà chua đạt 250 – 300 tấn/ha, bưởi đạt 100 – 150 tấn/ha, hoa cắt cành 1,5 triệu cành/ha… đã tạo ra giá trị sản lượng bình quân 120.000 – 150.000 USD/ha/năm. Riêng ở Trung Quốc đạt giá trị sản lượng bình quân 40 – 50.000 USD/ha/năm, gấp 40 – 50 lần so với các mô hình trước đó. Chính vì vậy, sản xuất nông nghiệp theo hướng ứng dụng công nghệ cao và sự phát triển các khu NNCNC đã và đang trở thành mẫu hình cho nền nông nghiệp tri thức thế kỷ XXI [6].

Tại Việt Nam, sau 30 năm đổi mới, nông nghiệp nước ta đã đạt được mức tăng trưởng nhanh và ổn định trong một thời gian dài, cung cấp sinh kế cho gần 10 triệu hộ dân nông thôn và 68,2% số dân, đóng góp khoảng 22% GDP cho nền kinh tế và 23%-35% giá trị xuất khẩu. Sự phát triển trong nông nghiệp thực sự là cơ sở tạo tiền đề nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nông dân, góp phần xóa đói giảm nghèo và làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Nhưng từ năm 1990 đến nay, tốc độ tăng năng suất trong nông nghiệp nước ta đã chậm lại và chậm hơn so với hầu hết các nước cùng trình độ phát triển trong khu vực. Nếu so sánh với Hàn Quốc, Trung Quốc, tốc độ tăng năng suất trong nông nghiệp nước ta chưa bằng một nửa của họ. Có sự chênh lệch lớn như vậy là bởi sản xuất nông nghiệp của Việt Nam vẫn chủ yếu là nhỏ lẻ, manh mún, việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, chế biến nông – lâm – thủy sản chưa cao và đang phải đối mặt với những thách thức lớn như (1) Dân số tăng, nhu cầu về nông sản thay đổi cả về số lượng và chất lượng. Dân số nước ta hiện nay trên 90 triệu người, dự kiến đến năm 2020 sẽ vào khoảng 100 triệu người. Do dân số tăng, hàng năm nước ta có thêm ít nhất 0,9 triệu lao động tăng thêm ở khu vực nông nghiệp và nông thôn, trong khi quỹ đất nông nghiệp tiếp tục giảm do công nghiệp hóa và đô thị hóa. (2) Biến đổi khí hậu đã và đang diễn ra cũng ảnh hưởng lớn đến diện tích đất nông nghiệp. Theo các nhà khoa học, nếu nước biển dâng lên 1m thì 9 tỉnh Bến Tre, Long An, Trà Vinh, Sóc Trăng, Thành phố Hồ Chí Minh, Vĩnh Long, Bạc Liêu, Tiền Giang và Cần Thơ sẽ bị ngập từ 24,7% đến 50,1% diện tích trên tổng số 11.475 km2. (3) Do dân số tăng nên nhu cầu về lương thực, thực phẩm của nước ta sẽ tăng lên ít nhất 11% – 12% so với hiện nay nên đòi hỏi nông nghiệp không chỉ tăng về số lượng mà cả chất lượng. Nhu cầu thực phẩm sạch cũng “nóng” lên hàng ngày. Hàng nông sản làm sao phải ngon, bổ, rẻ, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm. Diện tích đất bị thu hẹp do đô thị hóa, do biến đổi khí hậu, sức cạnh tranh chất lượng hàng nông – lâm – thủy sản ngày càng quyết liệt, đó quả là những thách thức, sức ép rất lớn với nông nghiệp Việt Nam. Nếu cứ sản xuất manh mún, không đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi… và không phát triển nông nghiệp công nghệ cao thì nông nghiệp nước ta không tăng trưởng mà còn thụt lùi xa hơn nữa với khu vực và thế giới. Vì thế đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao như Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Israel… là lời giải đúng nhất của nông nghiệp nước nhà. Như Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói tại khu nhà kính trồng rau sạch của dự án VinEco – Hà Nam ngày 2/2/2017: “Không để tồn tại mãi hình ảnh con trâu đi trước cái cày theo sau”. “Chúng ta khuyến khích khởi nghiệp trong nông nghiệp, áp dụng điện toán đám mây vào nông nghiệp để có một nền nông nghiệp thông minh ở Việt Nam”. “Nông nghiệp thông minh” hay còn gọi là “Nông nghiệp công nghệ cao” là nền sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại, với sự tích hợp của nhiều ngành từ công nghệ cơ khí, điện tử, tự động hóa, hóa học, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, khí tượng, tài chính – quản trị kinh doanh, chế biến, bảo quản… để làm ra sản phẩm nông nghiệp chất lượng và hiệu quả cao.[10]

Bên cạnh đó, ngành Công nghệ thực phẩm đã và đang giành được sự quan tâm lớn của Chính phủ và được Bộ trưởng Bộ Công thương ban hành Quyết định số 202/QĐ-BCT ngày 08/01/2014, phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành Kỹ nghệ thực phẩm Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Trong Quy hoạch đã xác định rõ mục tiêu “Xây dựng ngành Kỹ nghệ thực phẩm phát triển, đủ khả năng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa, giảm nhập khẩu và tăng giá trị tăng thêm của ngành”, trên cơ sở khai thác tối đa lợi thế về nguồn nguyên liệu và tăng cường liên kết giữa các vùng miền để đảm bảo cung cấp đủ nguyên liệu cho ngành kỹ nghệ thực phẩm, góp phần thúc đẩy ngành tăng trưởng với tốc độ cao, có tỷ trọng đóng góp trong cơ cấu ngành ngày càng tăng và góp phần tạo thêm việc làm cho xã hội.Công nghệ thực phẩm là một trong những ngành học có tính ứng dụng cao và đa dạng. Ở nước ta, ngành Công nghệ thực phẩm bao gồm một số ngành kinh tế kỹ thuật chính: Công nghệ sản xuất rượu bia – nước giải khát, Công nghệ chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa, Công nghệ chế biến thịt và các sản phẩm từ thịt, Bảo quản và chế biến thủy sản, Bảo quản và chế biến rau quả, Bảo quản và chế biến lượng thực, Sản xuất mía đường – Bánh kẹo, Chế biến trà – cà phê, Đồ hộp thịt, cá, rau quả,… Đến nay, Việt Nam đã hình thành hệ thống công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản công suất thiết kế, đảm bảo chế biến khoảng 120 triệu tấn nguyên liệu mỗi năm, với 7.500 doanh nghiệp quy mô công nghiệp gắn với xuất khẩu và hàng vạn cơ sở chế biến nông sản nhỏ, hộ gia đình…, ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản Việt Nam đang duy trì tốc độ tăng trưởng 5-7%/năm. Phần lớn dự án đầu tư vào lĩnh vực chế biến thực phẩm tập trung ở những thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Long An….Với nguồn nguyên liệu nông sản dồi dào, Việt Nam là quốc gia có tiềm năng lớn để phát triển ngành thực phẩm và đồ uống, đặc biệt tại các thành phố và thị trấn, nơi có mức sống ngày càng được cải thiện. Trong những năm gần đây, ngành thực phẩm và đồ uống tại Việt Nam đang tăng trưởng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Năm 2018, tiêu thụ thực phẩm và đồ uống tăng trưởng mạnh với mức tăng 18%.Song theo đó, trong những năm gần đây ngành sản xuất rau, hoa, quả của Việt Nam đạt được mức tăng trưởng tích cực cả về số lượng, chất lượng và kim ngạch xuất khẩu. Năm 2018, xuất khẩu rau quả Việt Nam đạt 3,8 tỷ USD. Cả nước hiện có khoảng 145 cơ sở chế biến rau, quả quy mô công nghiệp, với tổng công suất thiết kế 800.000 tấn sản phẩm/năm. Riêng miền Nam có 71 cơ sở chế biến. Ngoài ra, còn có hàng ngàn cơ sở chế biến quy mô nhỏ.Riêng đối với Thành phố Hồ Chí Minh, hiện nay ngành Chế biến tinh lương thực – thực phẩm cũng được xếp vào một trong 4 nhóm ngành công nghiệp trọng yếu, có hàm lượng khoa học – công nghệ và giá trị gia tăng cao ưu tiên phát triển.

1.2 Nhu cầu nguồn nhân lực của Nông nghiệp công nghệ cao và Công nghệ thực phẩm

+ Nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao về nông nghiệp công nghệ cao cho xã hội: Dự kiến năm 2020, cả nướccó 200 doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, 10 khu nông nghiệp công nghệ cao. Tuy nhiên, theo ông Ngô Tiến Dũng, Tổng thư ký Hiệp hội Nông nghiệp công nghệ cao, hiện cả nước mới chỉ có 22 doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao, trong số hàng ngàn doanh nghiệp nông nghiệp. Trong thời gian tới, để các doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao phát triển mạnh mẽ hơn nữa, cần tập trung vào một trong những vấn đề trọng tâm là cần có chính sách đào tạo lại lao động cho những vùng đưa công nghệ cao vào nông nghiệp. Nếu doanh nghiệp đứng ra đào tạo trực tiếp thì phải có chính sách hỗ trợ kinh phí đào tạo, đồng thời có chính sách đi kèm để giải quyết lao động dư thừa. Thực tiễn nhiều năm và ở nhiều ngành đã cho chúng ta những bài học đắt giá khi thiếu nhân lực. Đã có rất nhiều chương trình, dự án rủng rỉnh tiền bạc, đất đai, thậm chí chính sách và hành lang pháp lý khá hoàn chỉnh, nhưng lại thiếu chiến lược phát triển nhân lực cho chính ngành sản xuất đó và vì thế rủi ro rất cao. Điểm lại về các cơ sở đào tạo nhân lực nông nghiệp công nghệ cao ở nước ta đang hết sức chắp vá. Ở đó thiếu một sự hợp tác điều phối vĩ mô giữa các trường đại học đào tạo về nông nghiệp tích hợp cùng với các ngành khoa học kỹ thuật công nghệ khác để chuẩn bị nhân lực lãnh đạo quản lý, khoa học kỹ thuật… như mong muốn của Chính phủ. So sánh về điều kiện tự nhiên để làm nông nghiệp công nghệ cao, chúng ta hơn hẳn Israel, Nhật Bản… nhưng chúng ta thiếu nhân lực. Ngay cả doanh nghiệp nông nghiệp Nhật Bản qua Việt Nam để làm nông nghiệp công nghệ cao cũng gặp khó khăn về nguồn nhân lực được đào tạo.Trong khi đó số trường đại học liên quan đến đào tạo nông nghiệp còn có con số ít ỏi hơn số trường trung cấp liên quan. Với số lượng ít ỏi như vậy cho nên ai sẽ là người áp dụng, sáng tạo và trực tiếp chuyển giao kỹ thuật nông nghiệp công nghệ cao cho nông dân? Ai là người lao động trực tiếp trong doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao?

Nhật Bản vốn là một nước công nghiệp, vậy mà cách đây không lâu, Thủ tướng Shinzo Abe trong chính sách phát triển kinh tế của mình đặt ra mục tiêu tăng gấp đôi giá trị xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp và mong muốn tăng gấp đôi thu nhập của nông dân Nhật Bản trong vòng 10 năm. Trung Quốc hiện có khoảng 300 trường đào tạo nghề nông nghiệp, trong đó có 134 trường cao đẳng, người học trong các cơ sở này được miễn học phí và có thể được trợ cấp từ chính phủ. Sắp tới đây sẽ có nhiều dự án, đề án về nông nghiệp công nghệ cao được đệ trình các cấp quản lý. Nhưng cần lưu ý là phải đầu tư tốt hơn, bài bản hơn cho nguồn nhân lực. Đó mới là chìa khóa để biến ước mơ nông nghiệp công nghệ cao thành sự thật.

+ Nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao về công nghệ thực phẩm cho xã hội: Ngành Chế biến thực phẩm nước ta tồn tại những nút thắt trong chuỗi giá trị sản xuất, như sản phẩm thô, chất lượng nguyên liệu và sản phẩm chế biến còn thấp…; đối mặt với thách thức do nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến chưa ổn định, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp hạn chế, thị trường tiêu thụ phụ thuộc một số nước… Cụ thể là vùng Đồng bằng sông Cửu Long – là trung tâm sản xuất lương thực thực phẩm, thủy sản và cây ăn trái nhiệt đới lớn nhất cả nước với nguồn nguyên liệu dồi dào. Cho đến nay, công nghiệp chế biến ở vùng này chỉ ở mức sơ chế là chủ yếu, tỉ lệ chế biến chuyên sâu còn thiếu và yếu nên chưa tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao, gây lãng phí lớn đối với nguồn tài nguyên phong phú của vùng.Do vậy, nhu cầu nhân lực trình độ cao cho ngành này vẫn còn là một bài toán chung cho các công ty, nhà máy, trường học, viện nghiên cứu và các cơ quan quản lý nhà nước thuộc lĩnh vực thực phẩm. Bên cạnh đó, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay thì vấn đề cạnh tranh về chất lượng và giá cả hàng hóa càng trở nên gay gắt. Sản phẩm của các công ty nước ngoài hay các công ty liên doanh chiếm một ưu thế nhất định. Nguyên nhân chính là do chênh lệch về trình độ công nghệ, trong đó ngoài những trang thiết bị hiện đại, những quy trình công nghệ tiên tiến phải kể đến đó là nguồn nhân lực. Chúng ta đang thực sự thiếu những kỹ sư, những cử nhân, những người lao động có trình độ chuyên môn, trình độ tay nghề vững vàng. Tính đến 30/11/2019, trên địa bàn thành phố đã có 42.022 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới [11]. Việc phát triển doanh nghiệp mới và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ tạo ra nhiều chỗ việc làm mới thu hút người lao động vào làm việc…Bên cạnh đó, theo Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động Tp. Hồ Chí Minh (2019) [12] cần lao động ngành Chế biến lương thực – Thực phẩm chiếm 2,28% trong tổng nhu cầu nhân lực, tập trung ở các vị trí như: kỹ sư công nghệ thực phẩm, công nhân sản xuất – chế biến thực phẩm, công nhân đóng gói sản phẩm,… Bên cạnh đó, các doanh nghiệp chú trọng tuyển dụng lao động qua đào tạo và có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa và tiến đến cách mạng công nghiệp 4.0, chất lượng lao động càng được chú trọng. Theo kết quả phân tích nhu cầu nhân lực năm 2019, cho thấy doanh nghiệp chú trọng tuyển dụng lao động đã qua đào tạo chiếm 83,99% (tăng 7,82% so với năm 2018), tập trung ở một số ngành: Cơ khí; Điện lạnh – Điện Công nghiệp; Điện tử – Công nghệ thông tin; Kế toán; Hành chính văn phòng; Quản lí điều hành; Tài chính – Ngân hàng; Kiến trúc kỹ thuật công trình xây dựng; Vận tải; Công nghệ thực phẩm. Trong đó, nhu cầu nhân lực có trình độ Đại học trở lên chiếm 21,72%, Cao đẳng chiếm 19,03%, Trung cấp chiếm 28,44%, Sơ cấp nghề chiếm 14,80%. Hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp về công nghệ thực phẩm thông qua nhiều kênh thông tin tuyển dụng chuyên môn ở nhiều vị trí khác nhau, nhất là nhu cầu tuyển dụng nhân viên nghiên cứu phát triển sản phẩm thực phẩm (R&D). Những vị trí này rải đều khắp các kiểu doanh nghiệp từ công ty tư nhân vừa và nhỏ, tập đoàn quốc doanh đến các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và cả các doanh nghiệp nước ngoài. Theo Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động Thành phố Hồ Chí Minh (2018), trong giai đoạn 2019-2025, ngành Chế biến tinh lương thực – thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh cần đến 12.000 người/năm. Song theo đó, các khu vực lân cận Thành phố Hồ Chí Minh như vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn 2019-2025 có nhu cầu nhân lực 500.000 người/năm nhằm phục vụ phát triển các ngành chế biến nông sản, thủy hải sản xuất khẩu cùng với các ngành Công nghiệp cơ khí phục vụ nông nghiệp, Công nghệ sinh học, Công nghệ hóa, Cơ khí, Tài chính, Thương mại, Ngân hàng, Nông nghiệp, Thủy sản,… Và dự báo ngành Chế biến thực phẩm sẽ nằm trong nhóm 10 ngành nghề “hot” của thị trường lao động Việt Nam trong 5 năm tới. Hiện nay tại thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều trường đào tạo nhóm ngành công nghệ thực phẩm bậc đại học và tỷ lệ việc làm của ngành công nghệ thực phẩm trong những năm vừa qua khá cao, luôn trên 90% sinh viên có việc làm ngay sau tốt nghiệp và cũng không ít sinh viên sau khi tốt nghiệp tiếp tục học nâng cao trình độ [13,14]. Từ những lý do trên, ngành Công nghệ thực phẩm đang là ngành đứng thứ hai trong ba nhóm ngành dẫn đầu về nhu cầu nhân lực đến năm 2025 của Việt Nam [12].

1.3 Phát triển đào tạo nguồn nhân lực NNCNC và CNTP phù hợp với chiến lược phát triển của Trường đại học Văn Lang

            Tọa lạc tại Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế, văn hóa hàng đầu Việt Nam, Trường Đại học Văn Lang có kế hoạch chiến lược phát triển của Trường giai đoạn 2020-2025, tầm nhìn đến 2030 với mục tiêu là trở thành một trong những trường đại học trẻ được ngưỡng mộ nhất Châu Á, là nơi đào tạo những con người toàn diện, học tập suốt đời, có đạo đức [15].Trường Đại học Văn Lang với sứ mệnh là đào tạo những con người mang lại tác động tích cực và truyền cảm hứng cho xã hội [16]. Tầm nhìn đến năm 2030, Trường Đại học Văn Lang sẽ trở thành một trong những trường đại học trẻ được ngưỡng mộ nhất Châu Á. Với sứ mệnh, tầm nhìn và mục tiêu chiến lược của trường như đã nêu trên thì việc mở ngành mới “Nông nghiệp Công nghệ cao” và “Công nghệ thực phẩm” là phù hợp với chiến lược phát triển của Trường Đại học Văn Lang. Song song, đại học Văn Lang cũng đã đầu tư cơ sở vật chất hiện đại cùng với đội ngũ giảng viên có trình độ chuyên môn cao và sự liên kết với nhiều đơn vị đào tạo nghiên cứu trong và ngoài nước uy tín tạo cho người học một môi trường học tập rất tốt cả về lý thuyết lẩn thực hành, vui chơi giải trí lành mạnh hiệu quả.

1.4 Một số điểm nổi bật và khác biệt của chương trình đào tạo ngành NNCNC và CNTP

Trường Đại học Văn Lang xây dựng chương trình đào tạo ngành Nông nghiệp công nghệ cao và Công nghệ thực phẩm hướng đến việc cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu theo xu thế phát triển của ngành cho xã hội ở hiện tại và trong thời gian tới. Đi đôi với việc trang bị cho người học về kiến thức, kỹ năng nghiên cứu và khả năng ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tế tại doanh nghiệp, các kỹ năng mềm như sắp xếp công việc, quản lý thời gian, thuyết trình, trình bày báo cáo, giao tiếp tốt, ngoại ngữ trôi chảy cũng được trang bị cho người học để đáp ứng sự mong đợi của nhà tuyển dụng đối với một sinh viên mới ra trường. Ngoài ra, các bạn sinh viên trong thời gian học tập tại trường còn có nhiều cơ hội được nhận học bổng của trường cho ngành của mình đang theo học và cơ hội đi thực tập ở các cơ sở nước ngoài theo nguyện vọng. Chương trình đào tạo của 02 ngành được xây dựng theo tiêu chí sau:

  • Ứng dụng:  CTĐT Có nhiều môn học ứng dụng được so với các trường khác: chuyên đề về canh tác không đất, ứng dụng công nghệ GIS trong nông nghiệp, Phát triển sản phẩm, CN chế biến thịt và bảo quản thịt, Khởi nghiệp, Thương mại hóa SP…và 100% Sinh viên phải làm khoá luận/đồ án.. tốt nghiệp
  • ·  Hội nhập: Ngành học được thiết kế mang tính hội nhập cao, người học sau khi tốt nghiệp sẽ tự tin làm việc ở môi trường trong và ngoài nước thông qua khả năng giao tiếp bằng tiếng Anh và ứng dụng các kinh nghiệm mang tính thực hành ứng dụng cao đã được trải nghiệm và truyền đạt trong suốt quá trình học tập từ đó làm gia tăng khả năng hội nhập của người học sau khi hoàn thành chương trình đào tạo. Cụ thể:
  • Đào tạo 21 tín chỉ tiếng Anh thông qua 07 học phần anh văn trải dài trong suốt quá trình học [tiếng Anh cơ bản-12 tín chỉ, tiếng Anh chuyên ngành – 9 tín chỉ]. Sinh viên Khoá 26 của 02 ngành NNCNC và CNTP khi tốt nghiệp ra trường phải đạt trình độ tương đương IELTS 6.0
  • Một số môn học chuyên ngành sẽ được dạy song ngữ.  
  • ·       Khởi nghiệp: sinh viên sẽ có cơ hội khởi nghiệp với ý tưởng sáng tạo ban đầu được nghiên cứu trong suốt quá trình học đại học.
  • Liên kết doanh nghiệp: nhàtrường có những chương trình liên kết với các doanh nghiệp thông qua học kỳ doanh nghiệp tạo điều kiện là nơi thực hành cho sinh viên trong quá trình học tập sau khi học xong lý thuyết, sinh viên có cơ hội tích lũy kinh nghiệm thực tế thông qua việc tham gia các dự án nghiên cứu liên quan tới việc phát triển sản phẩm thực phẩm trong các phòng thí nghiệm công nghệ thực phẩm. Sinh viên có thể thực tập và làm việc tại nhiều công ty nổi tiếng về chế biến thực phẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận. Đây chính là cơ hội nghề nghiệp cao hơn cho sinh viên sau khi tốt nghiệp thông qua những kinh nghiệm đã học được trong quá trình trải nghiệm thực tế với doanh nghiệp.
  • Nghiên cứu khoa học ứng dụng phục vụ phát triển ngành NNCNC và CNTP
    • Định hướng NCKH phục vụ đào tạo ngành NNCNC và CNTP

Hiện tại, Viện Khoa học công nghệ ứng dụng đã thành công và đang tiếp tục triển khai nghiên cứu ứng dụng hoặc chuyển vào thực tiển các hướng nghiên cứu chính  làm cơ sở phục vụ đào tạo cho 02 ngành NNCNC và CNTP như sau:

+ Một số nghiên cứu về lúa gạo [7]

– Bốn (04) Dự án Quốc tế do Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Nông nghiệp Quốc tế Cộng Hòa Pháp, Viện Nghiên cứu Lương thực Hàn Quốc, Viện Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) tài trợ và hợp tác nghiên cứu, đã hoàn thành (2005-2019)

– Chín (09) Dự án cấp Nhà nước về “Ứng dụng Tiến bộ KHKT Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nông nghiêp phát triển toàn diện KTXH nông thôn các tỉnh ĐBSCL: Sóc Trăng, Kiên Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh…” đã hoàn thành (1993-2003), đã hoàn thành.

– Một (01) Dự án cấp Bộ (Bộ NN và PTNT) về “Xây dựng các mô hình sản xuất các giống lúa cực sớm ngắn ngày tại ĐBSCL”(1997-1998), đã hoàn thành.

– Một (01) đề tài cấp tỉnh (Thừa Thiên Huế): “Ứng dụng các phương pháp phân tích hiện đại bước đầu tuyển chọn và cải thiện chất lượng một số giống lúa phù hợp với điều kiện sinh thái nông nghiệp ở Thừa Thiên Huế”. Phục hồi Giống lúa Tiến Vua (Lúa Gie An Cựu) (2008-2011), đã hoàn thành.

– Một (01) dự án về Nghiên cứu sản xuất Cơm tươi ăn liền do Công ty CB HXK Cầu Tre tài trợ (2016-2017), đã hoàn thành.

– Một (01) đề tài nghiên cứu phân tích hàm lượng 2-AP trong lá dứa (Pandanus amaryllifolius) và gạo thơm bằng SPME-GC/GCMS và SDE-GC/GCMS [9]

– Một (01) dự án:“Sản xuất thử nghiệm và phát triển giống lúa OM5451 và OM6600 tại đồng bằng sông Cửu Long“ tại Viện lúa ĐBSCL (2001), đã hoàn thành. [4]

– Ứng dụng BAC clone trong việc chọn lọc gen mùi thơm trên cây lúa“.Luận án tiến sĩ của giảng viên trong Viện. [1]

– Hai (02) nghiên cứu:“ Ảnh hưởng cửa bệnh lem hạt đối với chất lượng các giống lúa mới chọn tạo tại ĐBSCL“

– Một (01) nghiên cứu:“ Ảnh hưởng các biện pháp gieo sạ đến năng suất lúa tại ĐBSCL“. [5]

+Các nghiên cứu về Dược chất thiên nhiên và Trà Olong:

– Một (01) Đề tài trọng điểm cấp Bộ “Nghiên cứu chiết xuất và sử dụng các hoạt chất thứ cấp từ một số loài thực vật của Việt Nam phục vụ sản xuất nông nghiệp và thực phẩm”. Mã số: B2004 – 21-85TĐ, (2005-2008), đã hoàn thành [2]

– Một (01) đề tài cấp tỉnh *Bà Rịa Vũng Tàu (2010-2012) “Đánh giá hiện trạng, tiềm năng sử dụng hợp lý, nghiên cứu đặc điểm sinh hóa và sản xuất thử nghiệm rượu và các sản phẩm khác từ cây Thiên niên kiện tại Vườn Quốc gia Côn Đảo” do 03 đơn vị hợp tác thực hiện: Bộ môn Công nghệ Hóa Sinh Hóa Dược, Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM, Vườn Quốc Gia Côn Đảo, Trung tâm Sâm và Dược liệu, Viện Dược Liệu Việt Nam.

– Có (02) dự án do Công ty Cầu Tre Tp. Hồ Chí Minh (sau này là Tập đoàn CJ-Cầu Tre) đặt hàng và tài trợ: 

* Dự án 1 (2013-2014): Nghiên cứu các biện pháp nâng cao năng suất và chất lượng (chế biến) trà Oolong tại Nhà máy Trà Cầu Tre, Bảo Lâm, Bảo Lộc Lâm Đồng [2]

* Dự án 2 (2014-2015):Nghiên cứu phát triển xúc xích cá tiệt trùng, xúc xích chay tiệt trùng và cá Tra fillet xông khói

– Dự án Kongplong, Kontum (2017-2018) gồm 04 nội dung: (1) Bào chế cao Hồng đẳng sâm; (2) Chế biến các loại kẹo viên ngậm tăng lực Hồng đẳng sâm; (3) Chế biến trà hoà tan từ Hồng đẳng sâm; viên hoà tan Hồng đẳng sâm và mật ong rừng Măng Búk; (4) Chế biến bột gạo đỏ GABA Măng Búk, Kongplong, Kontum

+ Nghiên cứu về Mật Ong: (2015-2017) [8]

– Đề tài cấp Tỉnh, Thành phố: Quy trình nuôi trồng, bảo quản, chế biến mật ong ngoại nhập theo hướng sản xuất hàng hóa:tại tỉnh Bạc Liêu. Đã hoàn thành.

+ Các nghiên cứu Ứng dụng tổng hợp kim loại hữu cơ và hấp thu nhanh trong xử lý kháng sinh: làm sáng tỏ bản chất có tính chọn lọc cao của phức kim loại-hữu cơ gốc bạc để phát hiện các ion kim loại (tác dụng hiệp đồng của các liên kết axit dicarboxylic): 14 công trình công bố quốc tế về chủ đề này.

+ Một số nghiên cứu trên thuỷ sản đã thực hiện trên đối tượng ghẹ xanh và tôm sú: 06 công trình được công bố trên các tạp chí có uy tín trong nước.

+Một số nghiên cứu đã và đang triễn khai thử nghiệm chưa chính thức công bố khoa học

  • Công nghệ sản xuất phân bón BUIK lên men siêu tốc của Nhật Bản: Công nghệ BUIK là gì?“BUIK” is combined of the first letter of 3 Director (B = Bacteria; U = Uchishiro; I = Ichinose; K = Kondoh). Công nghệ BUIK của Nhật Bản là một tiến bộ Khoa học Công nghệ rất mới trên thế giới cách đây trên 05 năm (hiện nay vẫn là mới trên thế giới), là bước đột phá trong công nghệ sản xuất phân bón sinh học và thức ăn gia súc hiện đã bắt đầu áp dụng tại Nhật bản và Đài Loan, (ở An Giang cũng có thử nghiệm một lần) cụ thể là: BUIK nghiên cứu sản xuất chế phẩm hổn hợp gồm những dòng vi khuẩn đột biến bằng kỹ thuật hạt nhân có khả năng phân giải cực nhanh các chất hữu cơ cao phân tử kể cả polyssacharide và protein ở nhiệt độ cao 75-800C. Đây là một tập đoàn trên 40 dòng vi khuẩn ở dạng bào tử, nhà sáng chế gọi là Bacterial Mass A tạm dịch là “sinh khối A”, được phân lập từ môi trường tự nhiên và cải biến tính chất sinh học bằng kỹ thuật hóa sinh hiện đại của Nhật Bản với các tính năng vượt trội so với giống gốc tự nhiên ban đầu. Các bào tử tạo ra trong sinh khối A ở nhiệt độ cao có thể tồn tại và trở nên hoạt động rất mạnh và nhân sinh khối cực nhanh khi đưa ra ngoài đồng ruộng trong điệu kiện tự nhiên.Hiện nay công nghệ này đang được ươm tạo và sản xuất thành công trên các lại phế liệu từ chế biến và nuôi trồng thủy sản tại Vườn ươm Công nghệ Công nghiệp Việt Nam Hàn Quốc tại TP. Cần Thơ [8]
  • Cơm tươi ăn liền: Dự án (2016-2017): Phát triển các sản phẩm chế biến từ lúa gạo: Cơm ăn liền và bữa ăn sẵn(Ready meal/Ready-to-eat meal), bảo quản nhiệt độ thường. Các đơn vị tài trợ: Công ty Cổ phần Chế biến Hàng Xuất khẩu Cầu Tre, TP.HCM (2016-2017), Viện Nghiên cứu Lương thực Quốc gia Hàn Quốc (KFRI) và một số doanh nghiệp Hàn Quốc (2017-2018).Sản phẩm chính của dự án: Cơm tươi hoặc bún tươi, khô ăn liền/ Instant fresh rice hoặc fresh rice noodle là một trong sản phẩm của dự án. Trong 2019-2020 nhóm nghiên cứu phát triển thêm các dòng sản phẩm có chứaGABA và Gluten free [3].

+ Về Bảo quản và chế biến trái cây nhiệt đới

Trái cây Việt Nam hiện đã có mặt ở 60 quốc gia trên thế giới, mức tăng trưởng bình quân là 15%/năm. Để có thể giữ được mức tăng trưởng này, toàn ngành đã đặt mục tiêu xuất khẩu sản phẩm trái cây đa dạng, thay vì chỉ xuất khẩu trái cây tươi, thời gian bảo quản ngắn như hiện nay.Như vây, mặc dù ngành trái cây Việt Nam có tiềm năng lớn nhưng chưa phát triển đúng mức để có thể trổi dậy trở thành một thành phần chủ lực trong cơ cấu nền kinh tế của đất nước được vì rất nhiều nguyên nhân, trong đó việc chưa thành công trong nghiên cứu kéo dài thời gian sử dụng cũng như chưa tiếp thu và triển khai mạnh mẻ các thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại đột phá trong công nghệ chế biến sâu nhằm tạo ra các chủng loại sản phẩm đa dạng có giá trị gia tăng cao đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trên thế giới là một trong những thách thức lớn đối với các nhà khoa học.

Từ thực tế và đặt hàng của VAS, VINA AGRITECH TP.HCM và hợp tác xã Mãng cầu Thạnh Tân Tây Ninh, trong năm 2019 và 06 tháng đầu năm 2020, nhóm nghiên cứu của Viện Khoa học Công nghệ Ứng dụng phối hợp với Trung tâm CNSH TP. Hồ Chí Minh đã tiến hành các nghiên cứu in vitro nhằm tăng thời gian sử dụng và các công nghệ chế biến sâu đã đạt được một số kết quả sau [8]:

– Về thời gian bảo quản: Xoài có thể lên đến 40 ngày, Mảng cầu ta: 12-15 ngày (đã thực hiện đang chuẩn bị công bố) và có khả năng áp dụng cho nhiều loại trái cây khác.

– Vế chế biến: đã hoàn thiện quy trình công nghệ các loại nước trái cây đóng lon, rượu, trà, bột sinh tố, yagourt đóng hộp mãng cầu ta và đang sẵn sáng chuyển giao công nghệ (đã ký hợp đồng chuyển giao)

2.2 Một số liên kết hợp tác nghiên cứu khoa học gắn liền với sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

Viện Khoa học công nghệ ứng dụng đã ký kết hợp tác cụ thể với 05 doanh nghiệp lớn có nhu cầu nhân lực kỹ thuật chuyên ngành Công nghệ thực phẩm với số lượng cụ thể (30-50 kỹ sư/năm) đối với sinh viên Công nghệ thực phẩm sau khi ra trường, cụ thể là:  Công ty Cổ phần Capital Seaweed Consumer Việt Nam (MOU được ký kết ngày 5/03/2020); Công ty Cổ phần Thực phẩm Tashun (MOU được ký kết ngày 5/03/2020); Công ty Cổ phần Tân Việt Sin Foods (MOU được ký kết ngày 5/03/2020);  Công ty TNHH Thương Mại Thoại An (MOU được ký kết ngày 5/03/2020);  Công ty ACC (Asia Chemical Corporation) (MOU được ký kết ngày 11/5/2020). Ngoài ra, Viện KHCNUD cũng đã ký kết vớicác đơn vị khác làm cơ sở thực hành thực tập ngoài trường cho sinh viên của 02 ngành NNCNC và CNTP: Ban quản lý khu Nông nghiệp công nghệ cao Tp. Hồ Chí Minh (MOU được ký kết vào ngày 11/06/2019);Trung tâm Công nghệ sinh học Tp. Hồ Chí Minh (MOU được ký kết ngày 11/6/2019);Vườn ươm Công nghệ công nghiệp Việt Nam – Hàn Quốc (MOU được ký kết vào ngày 10/07/2019);Công ty Cổ phần Thực phẩm CJ Cầu Tre (MOU được ký kết vào ngày 11/06/2019);Công ty Cổ phần Vina Agritech, TP.Hồ Chí Minh (MOU được ký kết vào ngày 20/12/2019);Công ty TNHH Tinh dầu Thiên Hương Gia Lai (MOU được ký kết ngày 17/11/2019);Công ty Cánh Buồm Vàng (MOU được ký kết vào ngày 5/09/2019);Công ty Global Network Technology – GNT (MOU được ký kết vào ngày 24/05/2019)

  • Kết luận

Xuất phát từ yêu cầu bức thiết phát triểnsản xuất Nông nghiệp Công nghệ cao và Công nghệ Thực phẩm trong nước, khu vực và quốc tế, Viện Khoa Học Công Nghệ Ứng Dụng thuộc Trường đạihọc Văn Lang đã được Bộ GD&ĐT và Hội đồng trường cho phép mở 02 ngành đào tạo bậc đại học về NNCNC và CNTP (theo hướng ứng dụng) gắn với nghiên cứu khoa học ứng dụng và chuyển giao công nghệ theo chiến lược phát triển của Nhà trườngnhằm đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội. Các chương trình đào tạo này đã được nghiên cứu xây dựng và định hướng nghiên cứu ứng dụng, hội nhập, theo chuẩnquốc tế AUN-QA và quốc gia với nhiểu điểm khác biệt và nổi bật so với những chương trình đào tạo đang được xây dựng triễn khai ở nước ta trong thời gian qua ở nước ta. Do vậy, rất kỳ vọng các chương trình đào tạo và nghiên cứu ứng dụng này ngày càng minh chứng hiệu quả và thu hút được ngày càng nhiều người họcđồng hành, góp phần tích cực trong sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực NNCNC và CNTP cho đất nước./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Chau Tan Phat, Nguyen Thi Lang, Trinh Thi Luy, Bui Chi Buu (2014), “Approviation of BAC clones to cloning the aromatic gene on Oryza sativa L.”, Journal of Vietnam Agricultural Science and Technology, Vol. 04, 2014.
  2. Hien Phan Phuoc et al (2019), “Use of micro wave for fixation of polyphenol oxidase in processing Olong tea in Vietnam”,  4th World Summit & Expo on Food Technology and Probiotics, October 24-25th 2019 Bangkok Thailand (Hội nghị Toàn cầu lần thứ 4 về Công nghệ Thực phẩm và Probiotics 2020 tại Thái Lan), pp (15).
  3. Ho T.N. Tram, Ho.T.H Trang, Vu. T. L. An, and Phan P. Hien (2019), “Influence of the Biochemical conditions on GABA biosynthesis in Huyet Rong Brown Rice of Vietnam“, 4th World Summit & Expo on Food Technology and Probiotics, October 24-25th 2019 Bangkok Thailand (Hội nghị Toàn cầu lần thứ 4 về Công nghệ Thực phẩm và Probiotics 2020 tại Thái Lan), pp (16-22).
  4. Huynh Van Nghiep, Le Van Banh, Nguyen Thi Duong, Đang Thi Tho, Mai Nguyet Lan, Tran Ngoc He, Nguyen Đinh Yen, Chau Tan Phat, Nguyen Bao Ho, Đinh Thi Thuy Duong (2013), “Experimental producing and developing OM5451 and OM6600 in Mekong delta”, The national workshop on crop science No.I , Ha Noi, 2013.
  5. Ki Yull Yu, Nguyen Le Van, Dang Minh Tam, Chau Tan Phat and Phan Phuoc Hien (2019), “Effect of seeding methods on rice yield in Mekong delta”, Southeast-Asian Journal of Sciences, Vol. 7, No. 2 (2019), pp: 190-198, ISSN: 2286-7724

NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ SINH HỌC CHO PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO

PGS.TS. Dương Hoa Xô
Trung Tâm Công nghệ Sinh học TP. HCM

(Trong sách: Kỷ yếu Hội thảo Khoa học: Đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học phục vụ phát triển Nông nghiệp Công nghệ cao và Công nghệ Thực phẩm; Nhà Xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, trang 35-47)

1- Nông nghiệp công nghệ cao là gì?

Theo Vụ Khoa học Công nghệ – Bộ Nông nghiệp và PTNT cho rằng Nông nghiệp công nghệ cao: “Là nền nông nghiệp được áp dụng những công nghệ mới vào sản xuất, bao gồm: công nghiệp hóa nông nghiệp (cơ giới hóa các khâu của quá trình sản xuất), tự động hóa, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học và các giống cây trồng, giống vật nuôi có năng suất và chất lượng cao, đạt hiệu quả kinh tế cao trên một đơn vị diện tích và phát triển bền vững trên cơ sở canh tác hữu cơ”.

Hiện nay, khái niệm “công nghệ cao” được hiểu và sử dụng rộng rãi là sự kết hợp và ứng dụng các công nghệ trên để nâng cao hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp nhằm tạo ra bước đột phá về năng suất, chất lượng hàng hóa, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người, đặc biệt là đảm bảo sự phát triển nông nghiệp bền vững.

Nội dung phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao:

 Để phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá, ứng dụng công nghệ cao ở nước ta hiện nay bao gồm những nội dung chủ yếu như sau:

– Lựa chọn ứng dụng vào từng lĩnh vực sản xuất nông nghiệp hàng hoá những công nghệ tiến bộ nhất về giống, công nghệ canh tác, chăn nuôi tiên tiến, công nghệ tưới, công nghệ sau thu hoạch – bảo quản – chế biến. Từng bước ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, xây dựng thương hiệu và xúc tiến thị trường.

– Sản phẩm NNCNC là sản phẩm hàng hoá mang tính đặc trưng của từng vùng sinh thái, đạt năng suất và hiệu quả kinh tế cao trên đơn vị diện tích, có khả năng cạnh tranh cao về chất lượng với các sản phẩm cùng loại trên thị trường trong nước và thế giới, có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất và sản lượng hàng hoá khi có yêu cầu của thị trường.

– Sản xuất NNCNC tạo ra sản phẩm phải theo một chu trình khép kín, trong sản xuất khắc phục được những yếu tố rủi ro của tự nhiên và hạn chế rủi ro của thị trường.

Như vậy, công nghệ cao trong nông nghiệp được hiểu là:

Áp dụng một cách hợp lý các kỹ thuật tiên tiến nhất (TBKT mới) trong việc chọn, lai tạo ra giống cây trồng vật nuôi mới, chăm sóc nuôi dưỡng cây, con bằng thiết bị tự động, điều khiển từ xa, chế biến phân hữu cơ vi sinh cho cây trồng thức ăn gia súc, gia cầm, thủy hải sản, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, công nghệ tự động trong tưới tiêu, công nghệ chế biến các sản phẩm vật nuôi, cây trồng và xử lý chất thải bảo vệ môi trường. Trong đó, công nghệ sinh học đóng vai trò chủ đạo.

Sơ đồ tóm tắt khái niệm nông nghiệp công nghệ cao ( Tham khảo ).

2- Vai trò của công nghệ sinh học trong phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao

Công nghệ sinh học trong nông nghiệp là công nghệ sử dụng sinh vật         ( hay sử dụng một phần sinh vật ) để tạo ra hoặc chế biến các sản phẩm nhằm cải thiện các giống cây trồng và vật nuôi hoặc phát triển vi sinh vật cho các mục đích cụ thể. Công nghệ sinh học trong nông nghiệp, nhất là công nghệ sinh học hiện đại đã có nhiều ứng dụng và đang tạo nên những bước tiến nhảy vọt, ảnh hưởng to lớn trong năng suất nông nghiệp.

– Ứng dụng đầu tiên của công nghệ sinh học là cấy mô tế bào thực vật và nhân giống in vitro. Cấy mô tế bào là một quá trình nuôi trồng những tế bào, phôi hoặc cơ quan thực vật bằng phương pháp dinh dưỡng có công thức đặc biệt. Từ đó hàng ngàn hàng vạn cây con được nhân nhanh có đặc tính tương tự như cây mẹ ban đầu và phát triển hàon chỉnh trong thời gian rất ngắn. Cây trồng theo phương pháp nhân giống in vitro tỏ ra thích ứng nhanh hơn, phát triển đồng đều hơn, tăng trưởng mạnh hơn và có chu kỳ tăng trưởng ngắn hơn, cho sản lượng tốt hơn giống cây thường.

Ứng dụng kỹ thuật đánh dấu phân tử và lựa chọn nhân tố hỗ trợ trong công tác lai tạo giống cây trồng ( molecular breeding and marker assited selection ): nhờ có kiến thức rõ ràng hơn về cấu trúc phân tử DNA của cây trồng các nhà nghiên cứu có thể tìm hiểu được liên kết di truyền và dự đoán được các tinh trạng cụ thể trên một mẫu tế bào từ những cây con mới nảy mầm, không cần phải đợi khi cây con lớn mới kiểm nghiệm những tính trạng cụ thể đó. Như vậy sẽ rút ngắn được thời gian lai tạo giống cây trồng mới.

            – Kỹ thuật di truyền và cây trồng biến đổi gen ( genetic engineering and GM crop ): Kỹ thuật di truyền cho phép chuyển trực tiếp một hoặc một số ít gen mục tiêu, giữa các sinh vật có quan hệ gần gũi hoặc không gần lắm. Nhờ vào kỹ thuật di truyền mà tạo được tính trạng mong muốn trên một giống cây trồng nào đó. Bằng kỹ thuật di truyền, nhiều tính trạng có thể kết hợp vào một cơ thể thực vật. Loại cây trồng biến đổi gen với những tính trạng tổng hợp đã có mặt trên thị trường thế giới. Ví dụ nhưng cây bắp, đậu nành, bông chuyển gen kháng sâu, kháng thuốc diệt cỏ… Theo ISAAA 2018, diện tích trồng cây công nghệ sinh học đã tăng ~ 113 lần kể từ năm 1996, với diện tích tích lũy là 2,5 tỷ ha, cho thấy cây trồng công nghệ sinh học là công nghệ cây trồng được áp dụng nhanh nhất trên thế giới. Ở các quốc gia có số năm áp dụng cao, đặc biệt là Mỹ, Brazil, Argentina, Canada và Ấn Độ, tỷ lệ áp dụng các loại cây trồng chính ở mức gần 100%, cho thấy rằng nông dân ưa chuộng cây trồng này hơn các giống thông thường. Nhu cầu của nông dân và người tiêu dùng ngày càng tăng, các loại cây trồng công nghệ sinh học đa dạng hơn với các đặc tính khác nhau đã có mặt trên thị trường vào năm 2018. Các cây trồng công nghệ sinh học này bao gồm khoai tây có các đặc tính không bị thâm, không bị nâu hoá, giảm acrylamide và kháng bệnh mốc sương; mía kháng sâu, chịu hạn tốt; táo không bị thâm; và cây cải dầu và cây hướng dương có axit oleic cao.

            – Công nghệ chỉnh sửa gen (Genome editting): Công nghệ tạo giống cây trồng mới – Sự bắt đầu cuộc cách mạng về thế hệ thứ 2. Chỉnh sửa bộ gen (còn gọi là chỉnh sửa gen) là một nhóm công nghệ cung cấp cho các nhà khoa học khả năng thay đổi DNA của một sinh vật. Những công nghệ này cho phép vật liệu di truyền được thêm vào, loại bỏ hoặc thay đổi tại các vị trí cụ thể trong bộ gen. Theo đó, công nghệ chỉnh sửa gen cho phép các nhà khoa học “chỉnh sửa” bộ gen của cây trồng để tạo ra các tính trạng mong muốn nhằm nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng, tăng cường khả năng chống chịu với sâu bệnh và điều kiện ngoại cảnh bất lợi cũng như tạo ra các đặc điểm và tính trạng mới cho cây trồng… Đặc biệt, các dòng cây mang các tính trạng nông học quý được tạo ra bằng công nghệ này không chứa đựng bất kỳ đoạn ADN ngoại lai nào trong hệ gen nên không được xem là cây trồng biến đổi gen và được sử dụng như các giống cây trồng tạo được bằng các phương pháp truyền thống.

– Công nghệ sinh học cũng đã góp phần vào sự phát triển kỹ thuật chẩn đoán bệnh cây trồng. Kỹ thuật này giúp cho nông dân kiểm soát các loại dịch bệnh ảnh hưởng đến cây trồng. Hiện nay, nhiều kỹ thuật chẩn đoán dựa trên phát hiện nhanh protein và DNA của từng mầm bệnh, loại bệnh. Như bộ kit ELISA ( xét nghiệm chất hấp thu miễn dịch liên kết enzyme ) dùng để chẩn đoán nhanh bệnh trên cây trồng.

– Nhờ vào công nghệ vi sinh đã tìm ra và phân lập các loại vi sinh vật thân thiện, có lợi cho cây trồng để sản xuất các loại phân bón vi sinh, phân bón hữu cơ sinh học. Đây là mảng công nghệ được áp dụng khá rộng rãi trong canh tác cây trồng.

– Các loại thuốc trừ sâu có nguồn gốc sinh học: trong đó được chia ra các nhóm dựa vào vi khuẩn, nhóm dựa vào nấm và nhóm dựa vào virus cũng đang được ứng dụng rộng rãi trong công tác bảo vệ thực vật.

3- Một số kết quả nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại TP. Hồ Chí Minh

            Lĩnh vực trồng trọt:

Hai đơn vị chính của Thành phố là Trung tâm Công nghệ Sinh học và Khu Nông nghiệp công nghệ cao đã tập trung nghiên cứu chọn tạo các giống hoa kiểng, cây dược liệu, rau các loại bằng kỹ thuật công nghệ sinh học.  

            Tính đến tháng 6/2020, Trung tâm Công nghệ Sinh học Thành phố đã xây dựng bộ sưu tập nguồn gen các giống lan với hơn 380 giống các loại, hơn 120 giống kiểng lá, 117 giống hoa nền và trên 100 giống dược liệu quý. Có 7 tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực trồng trọt được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận. Hàng năm, Trung tâm sản xuất bình quân 300.000 – 400.000 cây giống cấy mô các loại: hoa lan, cây kiểng, dược liệu, chuối. Nghiên cứu thành công 20 quy trình kỹ thuật nhân giống cấy mô các loại hoa lan, hoa nền và cây dược liệu. Đặc biệt là Quy trình nhân sinh khối và tạo rễ tóc sâm Ngọc Linh đã cho ra các sản phẩm như nước uống, thuốc dạng viên nang trong khuôn khổ Dự án FIRST của Bộ Khoa học Công nghệ. Trung tâm cũng đã ứng dụng công nghệ chuyển gen, công nghệ chỉnh sửa gen ( gene editing), để lai tạo các giống hoa mới như lan kháng virus…; công nghệ nuôi cấy túi phấn, công nghệ chiếu xạ gây đột biến, kỹ thuật chỉ thị phân tử để tạo các dòng thuần, dòng đột biến các giống rau, hoa. Đã lai tạo được 20 tổ hợp lan Dendrobium lai và được cấp bằng bảo hộ 12 giống lan mới; Chọn tạo được 15 dòng thuần dưa lưới; tạo được 7 tổ hợp lai dưa lưới thành giống mới chuyển giao cho sản xuất; 09 dòng cà chua bi thuần, 09 tổ hợp lai F1 cà chua bi có năng suất và canh tác phù hợp với điều kiện trong nhà màng.

Các đơn vị thuộc Ban Quản lý Khu Nông nghiệp Công nghệ cao cũng đã tiến hành công tác sưu tập chọn tạo các giống hoa lan, cây kiểng, dược liệu, rau quả các loại. Đã thực hiện sưu tập và di thực mẫu hơn 20 giống cây được liệu, nghiên cứu thành công các quy trình nhân giống bằng kỹ thuật nuôi cấy mô tế bào thực vật đối với các cây Nần Nghệ, Hoài sơn, Cốt khí củ, Khôi Nhung, Xạ đen, Gấc, Gừng… Đối với các giống rau ăn quả: Đã sưu tập và khảo nghiệm 25 giống cà chua, 30 giống khổ qua, 07 giống cây ăn quả phù hợp với điều kiện của Thành phố và các vùng lân cận. Đã tiến hành chọn tạo thành công dưa lưới (đã lai tạo dòng thuần đến đời I7), Dưa leo (đã lai tạo dòng thuần đến đời I5), Ớt cay, Cà chua (đã lai tạo dòng thuần đến đời I5), các giống này đang được tiếp tục đánh giá về khả năng phối hợp của các dòng cũng như đánh giá độ thuần… Ngoài ra tính đến cuối năm 2019, Ban Quản lý Khu Nông nghiệp Công nghệ cao đã cung cấp 2.288.200 cây giống gieo ươm (Bầu, Bí gieo ươm 353.550 cây, Ớt gieo ươm 1.409.500 cây), 786.659 cây lan hậu cấy mô (Ngọc điểm, Dendrobium, Mokara, Hoàng hậu, Hương cát cát, Hồ điệp, Giả hạc và lan cắt cành), 15.411 cây hoa nền (hoa Chuông, Hương thảo, Hương tuyết cầu,..) cho các tổ chức/cá nhân có nhu cầu trên địa bàn Thành phố.

Sở Khoa học Công nghệ thành phố cũng đã dành kinh phí hàng năm cho các đề tài nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn tạo giống cây trồng: dưa leo, khổ qua, mướp hương, các giống ngô ngọt, hoa lan, dưa lưới, cà chua bi… Ngoài ra, Sở Khoa học và Công nghệ còn tập trung đầu tư cho các đề tài nghiên cứu nhằm phát triển các giống cây dược liệu bằng nhiều kỹ thuật hiện đại vào nhân giống các cây dược liệu có khả năng thương mại, phục vụ cho ngành dược liệu như: sùng thảo, nưa konjac, rễ tóc sâm Ngọc Linh, sinh khối Đinh Lăng, thìa canh, rễ ké hoa đào, cây trầu không, …

Thành phố hiện có 35 cơ sở nhân giống cấy mô tế bào thực vật (in vitro) với quy mô khoảng 15 triệu cây giống cấy mô/năm. Đã hoàn thiện và ứng dụng trong sản xuất 40 quy trình nhân giống in vitro để sản xuất cây giống hoa kiểng, dược liệu, chuối…, góp phần cung ứng giống cho sản xuất tại Thành phố và các tỉnh.

Ứng dụng công nghệ sinh học trong kiểm soát dịch bệnh trên cây trồng có nhiều tiến bộ. Các quy trình chẩn đoán virus gây bệnh trên hoa lan, khoai tây, dưa leo, cà chua, chanh dây, hồ tiêu và khoai mì bằng kỹ thuật sinh học phân tử đã được phát triển và áp dụng cho công tác nghiên cứu cũng như dịch vụ chẩn đoán virus gây bệnh trên cây trồng. Bên cạnh đó, quy trình phát hiện 11 sự kiện biến đổi gen (GMO) cây trồng đã được Trung tâm Công nghệ Sinh học Thành phố xây dựng thành công phục vụ cho công tác quản lý cây trồng biến đổi gen.

Ứng dụng vi sinh vật trong trồng trọt cũng được đẩy mạnh nghiên cứu và tạo được nhiều chế phẩm sinh học như nấm đối kháng Trichoderma, chế phòng phòng trừ tuyến trùng- sâu hại, phân giải lân, cố định đạm,… Đã chế tạo thành công các chế phẩm tăng trưởng và kích kháng bệnh thực vật công nghệ cao có nguồn gốc sinh học gồm oligoalginate từ rong biển, oligochitosan từ vỏ tôm/cua, oligo-b-glucan từ tế bào nấm men và oligopectin từ vỏ bưởi. Nghiên cứu chế tạo thành công chế phẩm nano làm chất trừ bệnh sinh học an toàn hiệu quả cao ứng dụng trong trồng trọt (nano LDH cố định hoạt chất salicylate, nano bạc/oligochitosan và nano bạc/Diatomite). Hiện nay các chế phẩm này đã được sử dụng rộng rãi trong sản xuất nông nghiệp.

Lĩnh vực chăn nuôi

Thành phố thực hiện chủ yếu tập trung vào lĩnh vực ứng dụng công nghệ sinh học trong công tác điều trị – phòng bệnh, lai tạo giống, quy trình chăm sóc nuôi dưỡng, nâng cao chất lượng sản phẩm cho các đối tượng heo, bò sữa, bò thịt và dê sữa nhằm hướng đến dòng sản phẩm có nguồn gốc an toàn, chất lượng. Nhiều hoạt động nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật sản xuất trong lĩnh vực chăn nuôi đạt kết quả cao.

Đầu tư và hỗ trợ chương trình nghiên cứu giống bò, heo cho Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam, Trung tâm Kiểm định giống vật nuôi và cây trồng, Phân viện Chăn nuôi Nam bộ. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của kiểu gen ESR, FSHB và kết hợp phương pháp BLUP để chọn lọc giống lợn Yorkshire và Landace có khả năng sinh sản cao được áp dụng thử nghiệm tại Trại heo giống Quốc gia Bình Minh; Công ty TNHH chăn nuôi Nhật Minh cho thấy: mức độ chính xác của phương pháp đánh giá chọn lọc di truyền đã đem đến hiệu quả cải tiến di truyền các tính trạng sinh sản vượt trội so với đàn giống xuất phát, tăng tương ứng từ 6,5 – 14,5% theo từng chỉ tiêu sinh sản; giá thành tương đương 20% so với giống nhập khẩu.

       Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam đã nghiên cứu các chế phẩm có nguồn gốc thảo dược nhằm thay thế và hạn chế việc sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi như chế phẩm chiết xuất từ dược liệu Xuyên tâm liên, Chùm ngây….  Nghiên cứu tận dụng phụ phế phẩm trong nông nghiệp, nâng cao giá trị dinh dưỡng sản phẩm khô dầu đậu nành lên men bán rắn phục vụ ngành chăn nuôi.

       Ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong chăn nuôi như cho ăn theo khẩu phần hỗn hợp hoàn chỉnh (TMR), cân đối dinh dưỡng nhất là đảm bảo thức ăn thô xanh đang được các hộ nông dân ứng dụng triển khai nhân rộng (do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam nghiên cứu). Nghiên cứu xây dựng hố ủ chua cỏ để dự trữ thức ăn thô, nghiên cứu công thức TMR cho khẩu phẩn thức ăn cho bò đã có những tác động mạnh mẽ, nhiều hộ chăn nuôi bò sữa đã xây dựng chuồng trại thiết kế đúng theo yêu cầu của chăn nuôi bò sữa, kết hợp các hệ thống xử lí biogas nhằm tận dụng khí đốt và giảm ô nhiễm môi trường.

       Trung tâm Công nghệ Sinh học đã tiến hành các nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật thoát màng nhằm tăng khả năng đậu thai của bò sữa được cấy chuyển phôi; Nghiên cứu ứng dụng quy trình sinh thiết phôi nang và xác định giới tính phôi bò từ các phôi bào sinh thiết, nhằm chủ động trong việc tạo ra giới tính mong muốn cho bò con. Trung tâm đã nghiên cúu thành công tạo được chế phẩm interferon có hiệu quả trong phòng và điều trị các bệnh do virus cho gia cầm và gia súc. Kết hợp với công ty thuốc thú y triển khai thử nghiệm hiệu quả sử dụng của CHICKEN-FERON và PIG-FERON trên gà và heo, bước đầu thu nhận kết quả khả quan, bảo vệ được đàn gia cầm, gia súc trước các nguy cơ lây nhiễm dịch bệnh. Tạo chế phẩm vi sinh BIMIX giúp xử lý mùi hôi chuồng trại trong chăn nuôi được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn  công nhận đưa vào Danh mục được phép sản xuất và lưu hành.

Lĩnh vực thuỷ sản:

       Tập trung đầu tư nghiên cứu khoa học ứng dụng công nghệ sinh học trong tạo giống cá cảnh quý hiếm, thủy sản có giá trị kinh tế cao bằng hình thức sinh sản nhân tạo như: cá Dĩa, Còm, Chạch, Thái Hổ, Neon, loài cá tỳ bà bướm… Đã xây dựng danh mục cá cảnh nuôi phù hợp với điều kiện sinh thái từng vùng, từng hệ thống nuôi; cẩm nang hướng dẫn kỹ thuật sản xuất giống, nuôi thương phẩm; Ngoài ra, Thành phố còn chú trọng đầu tư ứng dụng công nghệ sinh học nhằm nâng cao chất lượng, phòng chống một số bệnh nguy hiểm cho các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao như: tôm, cua, cá..  Việc nghiên cứu chiết xuất thông đỏ để kích thích cua lột xác hoặc sản xuất thức ăn công nghiệp kích thích cua lột xác giúp sản phẩm thức ăn có giá thành thấp hơn 20% so với chi phí mua thức ăn truyền thống, giúp người nuôi chủ động khâu thu hoạch. Sản xuất cá toàn đực bằng phương pháp xử lý hormon sinh dục được các cơ sở sản xuất cá giống ở Thành phố ứng dụng để sản xuất ra các dòng cá rô phi toàn đực cung cấp cho thị trường trong nước. Sản xuất giống tôm càng xanh toàn đực bằng phương pháp vi phẫu tạo con cái giả; gia hóa tôm bố mẹ, áp dụng mô hình nuôi tại huyện Nhà Bè, Cần Giờ… Đã nghiên cứu thành công ứng dụng qui trình sản xuất giống cá Bá chủ (Pterapogon kauderni), cá thủy tinh, cá neon… giúp tái tạo nguồn lợi các loài cá cảnh biển, cá cảnh nước ngọt và áp dụng sản xuất nhân tạo cá cảnh biển, cá cảnh nước ngọt phục vụ xuất khẩu cá cảnh.

         Trung tâm Công nghệ Sinh học Thành phố đã nghiên cứu thành công và đưa vào sản xuất 12 bộ kit PCR phát hiện 4 loại bệnh virus trên tôm (đốm trắng, hoại tử vỏ, còi, viêm gan tụy); đã đăng ký bản quyền sáng chế cho chủng Edwardsiella ictaluri nhược độc (WZM) có tiềm năng làm vaccine ngừa bệnh gan thận mủ trên cá tra. Tạo được chủng vi khuẩn Aeromonas hydrophila đột biến để sản xuất vacxin phòng bệnh nhiễm trùng huyết trên cá tra; chủng vi khuẩn Vibrio harveyi đột biến ứng dụng trong nghiên cứu vacxin phòng bệnh đốm trắng trên tôm. Nghiên cúu tạo được cá sóc Việt Nam (Oryzias curvinotus) mang gen phát sáng huỳnh quang màu lục lam, màu đỏ, màu cam; Chế phẩm probiotic đối kháng bệnh gan thận mủ cho cá tra; 09 giống tảo phục vụ ương nuôi động vật thủy sản. Nghiên cứu hoàn thiện Quy trình ương nuôi cá tra sạch bệnh bằng thức ăn tự nhiên trên bể composite, Quy trình ương nuôi tôm sú sạch bệnh trên hệ thống bể composite. Chế phẩm nano bạc/PVA và nano bạc/Diatomite có hoạt lực diệt khuẩn cao đối với các loại vi khuẩn gây bệnh trong nước nuôi trồng thủy sản.

4– Một số đề xuất cụ thể trong việc nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ nông nghiệp công nghệ cao các tỉnh phiá Nam

          a) Lĩnh vực trồng trọt:

+ Sưu tập, bảo quản và xây dựng các nguồn gen quý sử dụng kỹ thuật công nghệ sinh học để phục vụ công tác lai tạo các giống mới ( công nghệ gen, chỉ thị phân tử, công nghệ nuôi cấy túi phấn; xử lý chiếu xạ gây đột biến.. ) thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu của khu vực (chịu hạn, chịu nhiệt).

+ Ứng dụng công nghệ nuôi cấy mô tế bào thực vật, công nghệ gieo ươm cây con giống (giâm cành, khí canh ..) để nhân nhanh các giống rau, hoa chất lượng cao phục vụ sản xuất.

          + Nghiên cứu chế tạo các chế phẩm sinh học (phòng trừ dịch hại, phân bón thế hệ mới) phục vụ cho canh tác cây trồng. Từng bước ứng dụng công nghệ vi sinh, công nghệ enzym và protein, chế phẩm vi sinh, công nghệ sinh học trong phòng, trừ sâu bệnh hại cây trồng.

+ Biện pháp đấu tranh sinh học (sử dụng nấm đối kháng, thiên địch).

+ Nghiên cứu chế tạo các bộ kít phát hiện nhanh dịch hại trên cây trồng và dư lượng các chất có hại trong nông sản.

          b) Lĩnh vực chăn nuôi:

            + Nghiên cứu, ứng dụng công nghệ gen, chỉ thị phân tử trong việc xác định tính trạng ưu thế phục vụ cho công tác chọn tạo và nhân giống vật nuôi,

            + Nghiên cứu công nghệ phôi, công nghệ tinh giới tính, phương pháp BLUP phục vụ công tác chọn giống chất lượng cao ( giống heo, bò sữa, bò thịt… ).

+ Nghiên cứu các bộ kít để chẩn đoán, ứng dụng trong phòng trừ bệnh hại trên vật nuôi cũng như phát hiện các chất cấm sử dụng trong chăn nuôi.

            + Nghiên cứu chế tạo các chế phẩm sinh học, phytogenic, probiotic phục vụ chăn nuôi.

          + Ứng dụng rộng rãi các công nghệ xử lý chất thải chăn nuôi (công nghệ khí sinh học, chế phẩm sinh học), nhằm giảm thiểu nguy cơ gây ô nhiễm môi trường.

          c) Lĩnh vực thuỷ sản:

            + Kỹ thuật chuyển đổi giới tính bằng kích dục tố và kỹ thuật nhiễm sắc thể; Phương pháp tiêm sợi đôi iRNA chuyển giới tính tôm càng xanh đực.

            + Nghiên cứu sinh sản nhân tạo một số đối tượng cá có giá trị kinh tế cao. Chọn lọc và phát triển các dòng cá cảnh bản địa; sử dụng kỹ thuật sinh học phân tử để đánh giá tính trạng di truyền các loài cá cảnh, tôm giống bố mẹ.

+ Nghiên cứu chế tạo các loại vacxin thế hệ mới phòng ngừa bệnh trên tôm, cá các loại ( tập trung cho các con chủ lực: tôm sú, tôm thẻ chân trắng, cá tra ).

            + Nghiên cứu chế tạo các bộ kit phát hiện nhanh bệnh, chế phẩm sinh học xử lý môi trường nuôi, dinh dưỡng, phòng trừ bệnh trên tôm, cá, cá cảnh.

 TÀI LIỆU THAM KHẢO

1- Ban Quản lý khu Nông nghiệp công nghệ cao. ( 2020) : Báo cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Chỉ thị số 50 – CT/TW ngày 04 tháng 3 năm 2005 của Ban Bí thư về việc đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tại Khu Nông nghiệp Công nghệ cao. Ban Quản lý Khu Nông nghiệp công nghệ cao TP. Hồ Chí Minh, tháng 3/2020.

2- Phạm Công Hoạt, Nguyễn Thị Bích Ngọc, Phạm Lê Anh Tuấn, Lê Huỳnh Thanh Phương, Phạm Văn Tiềm, 2020. Triển vọng ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen ( CRISPR/Cas) phục vụ chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi tại Việt nam. Tạp chí Khoa học – Công nghệ Việt nam, số 1+2/2020: 61-63.  

3- ISAAA, 2018. Brief 54: Global Status of Commercialized Biotech/GM Crops: 2018. Báo cáo Tổ chức quốc tế về tiếp thu các ứng dụng CNSH trong nông nghiệp, 2018.

4- Sở Khoa học và Công nghệ. (2020) Báo cáo số 227/SKHCN-QLKH ngày 07/02/2020 về việc triển khai thực hiện Chỉ thị 50-CT/TW về nghiên cứu ứng dụng phát triển công nghệ sinh học. Sở Khoa học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh, tháng 2/2020.

5- Trung tâm Công nghệ Sinh học TP. Hồ Chí Minh.( 2020). Báo cáo 15 năm thực hiện Chỉ thị 50-CT/TW về nghiên cứu ứng dụng phát triển công nghệ sinh học. Trung tâm Công nghệ Sinh học TP. Hồ Chí Minh, tháng 3/2020.

6- Dương Hoa Xô, 2016. Phát triển công nghệ sinh học phục vụ nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Báo cáo tham luận Hội thảo ” Tổng kết chương trình ứng dụng Công nghệ Sinh học tại An Giang 2016 “.

7- Dương Hoa Xô, 2019. Trung tâm Công nghệ Sinh học Thành phố Hồ Chí Minh: 15 năm xây dựng và phát triển. Tạp chí Khoa học và công nghệ Việt nam số 10A/2019 (727): 43-45.

Việt Nam con đường xanh
MỘT SỐ THÔNG TIN MỚI

1) Hơn 103.000 tỷ đồng cho chương trình giống giai đoạn 2021 – 2030

2) Nông nghiệp hữu cơ hiện trạng và giải pháp nghiên cứu phát triển của tác giả PGS..TS Nguyễn Văn Bộ, TS Ngô Doãn Đảm ; Đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học ứng dụng phục vụ phát triển nông nghiệp công nghệ cao và công nghệ thực phẩm tại Trường Đại học Văn Lang” của tác giả PGS.TS Phan Phước Hiền và TS Châu Tấn Phát, “Nghiên cừu ứng dụng công nghệ sinh học cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao” của PGS.TS. Dương Hoa Xô, Trung Tâm Công nghệ Sinh học TP. HCM (3 bài chi tiết đã trích dẫn trên);

3) Ngày 30 tháng 7 năm 2020, tại Hà Nội, Thủ Tướng Chính Phủ Nguyễn Xuân Phúc gặp mặt Trí thức, nhà khoa học văn nghệ sĩ tiêu biểu năm 2020 nhân dịp kỉ niệm 90 năm ngày truyền thống của ngành Tuyên Giáo,

4) VOH, Tuyết Nhung, Thời sự 11g00 29/7/2020 Tiến sĩ Lê Quý Kha, Phó viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Miền Nam, góp ý cho Dự thảo (lần 2) Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Đảng bộ TPHCM lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020-2025 đề xuất “mục tiêu đến 2020- 2025 tầm nhìn 2030, không phải là tận dụng thời cơ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, mà phải là áp dụng sâu rộng các lĩnh vực về công nghiệp 4.0”. (https://radio.voh.com.vn/audio/ts-le-quy-kha-gop-y-du-thao-lan-2-bao-cao-chinh-tri-dhdb-dang-bo-tphcm-thoi-su-11g00-29-7-2020-372608.htm)

5) Chủ đề nông nghiệp nổi bật “Ứng dụng công nghệ nâng cao chuỗi giá trị nông nghiệp” (Technological application enhances agriculture value chain), do Phó Giáo sư Tiến sĩ Đào Thế Anh, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, giới thiệu tại VTV4 https://vtv.vn/video/bizline-15-3-2020-427424.htm. và diễn đàn MALICA (Markets and Agriculture Linkages for Cities in Asia Kết nối Thị trường và Nông nghiệp các thành phố châu Á).

6).“Tạp chí Khoa học Phát triển Nông thôn Việt Nam: Một năm nhiều cảm xúc, khó khăn thách thức và những nỗ lực vươn lên”, kỳ này, có số chuyên đề “Hệ thống thực phẩm các thành phố Việt Nam, những thay đổi lớn” đặt mua tại tapchivaas@gmail.com,

7) Sách SAE 2020 Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh có 167 báo cáo tóm tắt đúc kết.thông tin Hội thảo Quốc tế Nông nghiệp và Môi trường bền vững ngày 18 tháng 11 năm 2020; giới thiệu Tạp Chí Nông Nghiệp Và Phát Triển, Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tiếng Việt và tiếng Anh http://journal.hcmuaf.edu.vn/ là cơ sở dữ liệu thông tin trực tuyến rất mạnh mẽ cho quý bạn đọc.

8) Doanh nghiệp Nấm Ngọc http://namngoc.vn/ 0932624540 Viện Công nghệ Sinh học Lâm nghiệp Phân hiệu Trường Đại học Lâm nghiệp.tại thị trấn Trảng Bom,tỉnh Đồng Nai Chuyên cung cấp sản phẩm, thực phẩm có nguồn gốc thiên nhiên là nguồn dinh dưỡng, dược chất quý giá cho sức khỏe, giữ gìn sắc đẹp Việt. Sản phẩm uy tín chất lượng. Doanh nghiệp Nấm Ngọc đã giới thiệu·Quy trình thu hoạch Nấm Đông Trùng Hạ Thảo tại https://www.facebook.com/Nấm-Ngọc-100947838617009

9) Lễ cột chỉ cổ tay trang trọng của thiện nguyện giảng day chuyển giao TBKT Việt Lào. Trước khi về nhà bà con huyện Soukhouma, tỉnh Champasak để cùng sống và sinh hoạt trong vài ngày, các chiến sĩ đã được làm lễ cột chỉ cổ tay trang trọng. Đây là một truyền thống trong văn hoá Lào nhằm thể hiện sự yêu thương và cầu chúc người nhận chỉ luôn bình an, may mắn. Trong buổi sáng, các hoạt động khám phát thuốc miễn phí cho bà con, tập huấn nông nghiệp và tặng chế phẩm sinh học, tặng nhu yếu phẩm cho các hộ khó khăn, tổ chức sân chơi, tặng quà cho thiếu nhi địa phương đã diễn ra tại 02 huyện Soukhouma, huyện Champasak (tỉnh Champasak) và huyện Sanamxay (tỉnh Attapeu) Tại Attapeu, đoàn cũng đã trao một “Nhà Đoàn kết Việt – Lào” cho hộ gia đình khó khăn.https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=454067431993333&id=%20261455464587865

Hoang Long Nguyễn Văn Phu đang tham gia tình nguyện hè ở Lào giảng dạy chuyển giao tiến bộ kỹ thuật sắn lúa khoa học cây trồng. Trúc Mai đề tài sắn Phú Yên chọn tạo và phát triển giống tốt năng suất tinh bột cao tích hợp kháng sâu bệnh. BM Nguyễn dự hội thảo sắn châu Á.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là duong-song.jpg

10) Lev Tonstoy đường sống

Đường sống” là tác phẩm văn thư nghị luận chọn lọc của Lev Tolstoi do Nhà xuất bản Tri Thức ấn hành năm 2010.  Nhà văn Nguyên Ngọc nói về Tolstoi và tác phẩm Đường sống: “Đây là  cuốn sách khổng lồ  theo nhiều nghĩa, dày đến 1.180 trang, là một cuốn sách mà ai cũng nên đọc và trí thức bắt buộc phải đọc”. “Càng đọc càng thấy ông quá lớn so với những gì ta đã biết”. Ông nói: “Chúng ta ai cũng biết đến và khâm phục Lev Tolstoi với tư cách một văn hào vĩ đại, nhưng ít ai biết ông còn là một nhà tư tưởng vĩ đại không kém, thậm chí hơn thế. Không chỉ ở Việt Nam, trên thế giới mà ngay ở Nga, đã một thời gian dài người ta cố tình đề cao hết mức nhà văn Tolstoi để hạ thấp hoặc chính xác là lờ đi một Tolstoi, nhà tư tưởng” (tôi HK gạch dưới). “Những dấu ấn tư tưởng nổi bật nhất của Tolstoi trong những tiểu luận và thư từ này là sự gắn kết những tinh hoa của trí thức Nga với những tinh túy của nhân dân lao động Nga – nhất là nông dân. Tolstoi yêu người nông dân Nga và nhận rõ những giá trị của họ, nhưng không thần thánh hóa nông dân, coi đó là những giá trị tuyệt đối và phủ nhận trí thức – thành phần xuất thân của chính mình – như các nhà cách mạng dân túy cùng thời và sau này.”

Người hiền tìm kiếm tất cả trong mình, kẻ ngu tìm kiếm tất cả ở người khác (Khổng Tử). Làm điều thiện đó là một việc duy nhất mà có thể nói rằng nó chắc chắn có lợi cho ta (Lev Tonstoi). Con người cầu mong những người khác hoặc Thượng Đế cứu giúp nó; nhưng không ai có thể cứu giúp nó, ngoài chính nó, bởi vì chỉ có cuộc sống thiện lương của nó mới có thể cứu giúp nó. Mà cái đó thì chỉ nó mới làm được. (Lev Tonstoi). Hạnh phúc được sống Chương XXXI (trích trong Đường sống). “Chúng ta hay coi thường hạnh phúc của cuộc sống này, tưởng là ở nơi nào đó, vào lúc nào đó sẽ có được một hạnh phúc lớn hơn. Nhưng cái hạnh phúc lớn hơn như thế không thể có ở đâu và lúc nào, bởi lẽ chúng ta trong cõi người của ta đã được ban tặng một hạnh phúc vĩ đại đến thế – sự sống, mà không có và không thể có cái gì cao hơn nó“. (Lev Tonstoi). Con người bất hạnh bởi vì nó không biết là nó hạnh phúc (Dostoievsky). Nếu thiên đường không ở trong ngươi thì ngươi không bao giờ vào được thiên đường (Angelus Silesius), “Yêu lao động, hay là thắng lợi của nhà nông” (trang 319- 331, kiệt tác Đường sống của Lev Tonstoi). Hãy đổ mồ hôi trán để có được miếng ăn, cho đến khi ngươi trở về với đất, bởi từ đất ngươi đã được lấy ra. Sáng thế III, 19. …”Nếu nó vẫn cứ dùng đến mưu mẹo và bạo lực , thì bởi vì nó yêu thích mưu mẹo và bạo lực , chứ không phải vì chúng cần thiết như hiện nay.  Đối với những kẻ yếu sức, những người vì lý do nào đó  không thể làm ra được cái ăn cho mình, hoặc vì lí do nào đó miếng ăn đã mất đi , thì sẽ không còn cần thiết bán mình , bán lao động và nhiều khi bán cả linh hồn của mình để có được cái ăn. Sẽ không còn cái ước nguyện của mọi người, như hiện giờ, bằng mọi cách giải phóng mình khỏi lao động cơm áo và trút nó sang những người khác đè chết những kẻ yếu bằng lao động và giải phóng những kẻ mạnh khỏi mọi lao động. Sẽ không còn định hướng của tư duy con người như hiện nay, khi mà mọi nổ lực trí tuệ của con người đều được hướng vào không phải việc làm dễ lao động của những người lao động , mà làm dễ và tô điểm cho sự vô công rồi nghề của những kẻ vô công rồi nghề. Việc mọi người đều tham gia lao động cơm áo và thừa nhận nó là đi đầu trong mọi công việc của loài người sẽ làm được điều giống như một người sẽ làm với cái xe kéo bị lật ngược bị một lũ ngốc hùng hục kéo đẩy, khi anh ta sẽ lật cỗ xe lại và đặt nó lên trên bánh của nó vừa không làm hỏng cỗ xe, vừa làm cho nó đi nhẹ nhàng.” …(trích) “Bạn hãy hạ mình xuống tận hạ tầng (rời khỏi chỗ bạn tưởng là hạ tầng, nhưng đó lại là thượng tầng) hãy đứng bên cạnh những người cho những người đói ăn, cho những người rét mặc; đừng sơ một cái gì: sẽ không có cái gì xấu hơn đâu, mà sẽ chỉ tốt hơn về mọi phương diện. Hãy đứng vào hàng , bằng hai bàn tay yếu ớt của mình hãy bắt đầu cái công việc đầu tiên là mang lại cơm ăn áo mặc cho những người đói rét- hãy thực hành trực tiếp cái lao động cơm áo , thực hành trực tiếp đấu tranh với thiên nhiên, và lần đầu tiên bạn sẽ thấy đất vững chắc dưới chân mình, cảm thấy ở nhà mình, cảm thấy được tự do, bảo đảm, không cần đi đâu hết, và bạn sẽ được trãi nghiệm những niềm vui thuần khiết, không bị đầu độc, mà bạn sẽ không tìm được ở nơi nào khác, không sau cánh của nào, không sau tấm rèm nào” … (Lev Tonstoi).

giaobancaylua
vienluathambacgiap

VIỆN LÚA SAO THẦN NÔNG
Hoàng Kim

Viện Lúa Sao Thần Nông 45 năm từ thành lập đến nay (1977-2021) luôn là lá cờ đầu nông nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực chọn tạo giống lúa, nghiên cứu quy trình kỹ thuật canh tác lúa; hệ thống canh tác thích hợp hiệu quả cho vùng ĐBSCL. Viện Lúa Sao Thần Nông bảo tồn và phát triển trong 45 năm qua đã góp phần đưa năng suất lúa của vùng nàỳ từ 2 – 3 tấn/ ha/ vụ tăng lên 6 – 7 tấn/ha/ vụ, tăng sản lượng lúa ở ĐBSCL lên hơn gấp 6 lần, từ 4 triệu tấn/ của năm 1977 vượt lên trên 25 triệu tấn/năm của mỗi năm liên tục từ năm 2017 đến nay.

Nông nghiệp ĐBSCL ngày nay đang bị ảnh hưởng rất sâu sắc của ranh mặn đã lấn rất sâu vào đất liền. Bản đồ dự báo xâm nhập mặn ĐBSCL mùa khô năm 2020-2021, do Phòng Dự báo Thủy văn Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ cung cấp đã cho thấy điều rõ Sự biến đổi khí hậu và nguồn nước sông Mekong bị điều tiết nghiêm trọng bởi hệ thống đập thủy điện trên sông, cùng với việc suy kiệt thảm rừng thực vật đầu nguồn đã gây nên hiệu ứng kép của môi sinh môi trường biến đổi.

Viện Lúa ĐBSCL tiếp tục là địa chỉ xanh tiêu biểu của nông nghiệp toàn vùng. Viện tiếp tục phát huy những kết quả nổi bật trọng tâm về chọn tạo giống lúa và chuyển giao giống lúa tốt vào sản xuất. Theo đó, Viện Lúa ĐBSCL có 11 giống lúa tốt được công nhận chính thức và 23 giống lúa tốt được bảo hộ..Giống lúa OM của Viện Lúa ĐBSCLchiếm tỉ lệ trên 70% tổng diện tích lúa gieo trồng ở ĐBSCL. Giống lúa OM của Viện Lúa ĐBSCL không chỉ được trồng tốt ở vùng ĐBSCL và lan tỏa nhiều vùng trong cả nước.Đặc biệt, trong tình hình hạn mặn vừa qua, Viện đã kịp thời khuyến cáo và cung cấp các giống lúa có khả năng chống chịu mặn ở mức độ từ 2-4‰ như các giống: OM6976, OM11735, OM9582, OM9577, OM429, OM380, OM18 đã đáp ứng kịp thời và hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do hạn mặn gây ra. Viện Lúa ĐBSCL tiếp tục nghiên cứu chọn tạo giống lúa theo hướng nâng cao chất lượng gạo phù hợp với biến đổi khí hậu cho vùng ĐBSCL và nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu. Phục tráng các giống lúa mùa đặc sản của địa phương và xây dựng những vùng sản xuất gạo đặc sản chuyên canh có giá trị hàng hóa cao. Đánh giá tiềm năng dinh dưỡng của các giống lúa và phát triển các sản phẩm có giá trị cao từ gạo và các phế phụ phẩm trong sản xuất và chế biến lúa gạo”, Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL tiến sĩ Trần Ngọc Thạch khẳng định.

VIỆN LÚA BÀI HỌC QUÝ

Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long là địa chỉ xanh Việt Nam rạng danh Tổ Quốc tại xã Tân Thạnh, huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ Điện thoại: 0710 3861954; Fax: 0710 3861457; Website: http://www.clrri.org thành viên Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam. Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long có tiền thân là Trung tâm kỹ thuật Nông nghiệp ĐBSCL thành lập ngày 31/1/1977. Trong gần nửa thế kỷ xây dựng và phát triển Viện Lúa đã bảo tồn hơn 3.000 mẫu giống lúa được đánh giá và tư liệu hóa, đã chọn tạo và được công nhận đưa vào sản xuất 166 giống lúa, phần lớn là giống lúa OM thời gian sinh trưởng ngắn 90 – 100 ngày; các giống lúa OMCS cực sớm.

Viện Lúa đạt thành tựu to lớn như hôm nay là do tập hợp và phát huy được năng lực của một đội ngũ chuyên gia tuyệt vời đầy tài năng và một đội ngũ các lãnh đạo qua các thời kỳ thật tâm huyết. Thầy Trần Như Nguyện, nguyên Giám đốc Trung tâm kỹ thuật Nông nghiệp ĐBSCL, Giáo sư Tiến sĩ  Nguyễn Văn Luật, Anh hùng lao động, nguyên Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, Giáo sư Nguyễn Thơ,  Phó Giáo sư Tiến sĩ Bùi Bá Bổng, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp & PTNT, nguyên Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, Giáo sư Tiến sĩ Bùi Chí Bửu, nguyên Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, nguyên Viện trưởng Viện KHKTNN Miền Nam, nguyên Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL; Tiến sĩ Đặng Kim Sơn, nguyên Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Nông nghiệp và PTNT, nguyên Phó Viện trưởng Viện Lúa; Phó Giáo sư Tiến sĩ  Nguyễn Minh Châu, nguyên Viện trưởng Viện Cây Ăn Quả Miền Nam, Tiến sĩ  Nguyễn Xuân Lai, Viện trưởng Viện Nông hóa Thổ nhưỡng, nguyên Phó Viện trưởng Viện Lúa, Tiến sĩ Nguyễn Trí Hoàn, Viện trưởng Viện Cây Lương thực và Cây thực phẩm, Phó Giáo sư Tiến sĩ Phạm Văn Dư, nguyên Cục phó Cục Trồng trọt, Tiến sĩ Lê Văn Bảnh, Cục trưởng Cục Chế biến, Thương mại Nông Lâm Thủy sản và Nghề muối, nguyên Viện trưởng Viện Lúa, Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thị Lang  nhà khoa học nữ xuất sắc của Việt Nam đạt Giải thưởng Khoa học quốc gia 2016 L’Oreál – UNESCO Vì sự phát triển phụ nữ trong khoa học, cùng với một đội ngũ đông đảo những chuyên gia giỏi, những trí thức nông nghiệp tài năng tận tụy dấn thân vì đại nghĩa, sống thanh đạm, giản dị, say mê  với sự nghiệp trồng người và nghiên cứu khoa học tạo giống cây trồng, cải tiến kỹ thuật canh tác để mang lại đời sống tốt hơn cho người dân.

Chúc mừng thành tựu lúa gạo Việt Nam, các gương thầy bạn thân thiết, Chúc mừng Viện Lúa với lớp trẻ đang tiếp bước thầm lặng vươn tới tầm cao mới khoa học nông nghiệp, tận tâm cống hiến cho quê hương. Viện Lúa sao Thần Nông là bài học cao quý của sự đoàn kết một lòng hoàn thành tốt nhiệm vụ của các thế hệ cán bộ viên chức người lao động Viện Lúa, sự quan tâm của Đảng, Chính phủ và các cấp lãnh đạo Trung ương, địa phương và doanh nghiệp, sự cộng hưởng, giúp đỡ và liên kết thật tuyệt vời của thầy cô, bạn hữu, đồng nghiệp bạn nhà nông với đông đảo nông dân từ khắp mọi miền đất nước: Thành quả đào tạo cán bộ khoa học của Viện có nhiều đóng góp vào thành tựu chung cho nền nông nghiệp nước nhà. Một số cán bộ khoa học sau này lãnh đạo nhiều đơn vị trực thuộc Bộ NN-PTNT, Viện lúa ĐBSCL đến năm 2021 đã chọn tạo được trên 180 giống lúa và phát triển trên 180 giống lúa các loại. Trong đó có 82 giống được công nhận giống quốc gia. Hiện nay trong 10 giống lúa được trồng phổ biến trên cả nước, Viện Lúa đóng góp 5 giống.

oitiengvietnhubunvanhulua

VỀ MIỀN TÂY YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim

Sao anh chưa về miền Tây.
Nơi một góc đời anh ở đó.
Cần Thơ, Sóc Trăng, sông Tiền, Sông Hậu,…
Tên đất tên người chín nhớ mười thương.

Anh hãy về Bảy Núi, Cửu Long,
Nắng đồng bằng miên man bao nỗi nhớ.
Kênh ông Kiệt thương mùa mưa lũ….
Anh có về nơi ấy với em không?.

*

Mình về với đất phương Nam.
Ninh Kiều thắm nước, Sóc Trăng xanh đồng.
Về nơi ấy với em không ?
Bình minh Yên Tử mênh mông đất trời.

Ta đi cuối đất cùng đời
Ngộ ra hạnh phúc thảnh thơi làm Người.

omluagiongcongoc

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on witter

Việt Nam con đường xanh

VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH
Cô Nguyễn Thị Trâm người Thầy lúa lai
Hoàng Kim

Việt Nam con đường xanh, Cô Nguyễn Thị Trâm người Thầy lúa lai là một nghiên cứu điển hình (key study), Tuyển chọn giống lúa lai Hương Cốm và các giống lúa lai Việt Nam cung cấp trên 1000 tấn hạt giống lai/ năm cho nông dân các tỉnh phía Bắc, tạo lợi thế canh tranh cho lúa lai Việt Nam, góp phần hiệu quả cải tiến chuỗi giá trị sản phẩm lúa gạo Việt, trọng điểm cho vùng núi và trung du phía Bắc. Chúng ta tiếp nối đội ngũ, theo gương sáng thầy bạn là lộc xuân cuộc đời, tỏa rộng Con đường lúa gạo Việt Nam, tôn vinh giá trị hạt ngọc Việt.

Cô Trâm vẫn trên đường xa với những cống hiến không mệt mỏi cho hạt ngọc Việt cây lúa Việt Nam. Sinh ra và lớn lên ở thị xã Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, người con của mảnh đất này đã dùng sự kiên trì đáng khâm phục của mình để góp phần mang lại những thành công lớn trong giảng dạy đào tạo nguồn lực di truyền chọn giống và nghiên cứu khoa học chọn giống lúa lai Việt Nam. PGS. TS Nguyễn Thị Trâm là một trong những chuyên gia nông nghiệp Việt Nam hàng đầu về lĩnh vực này. Cô nguyên là giảng viên Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội (nay là Học Viện Nông nghiệp Việt Nam), nguyên Phó Viện trường Viện Sinh học Nông nghiệp, đã nghỉ hưu năm 2004 nhưng đến nay vẫn tỏa sáng.  Thông tin điểm trình diễn giống lúa lai hai dòng thơm TH6-6 tại Hòa Bình mới đây là bí quyết thành công của cô: đó là đầu tư thời gian, và không bao giờ bỏ cuộc.

Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là co-nguyen-thi-tram-nguoi-thay-lua-lai.jpg

Cô Nguyễn Thị Trâm trên FB (Tram Nguyen) thông tin kết quả trình diễn mới đây nhất (28-5.2018) giống lúa thơm cốm TH6-6 thật kiệm lời nhưng đầy ắp thông tin: “Cảm ơn tất cả. Vì hạt lúa bao đêm thao thức, tôi đi theo trọn đời. Ôi những hạt lúa vàng. Muôn ngàn thế hệ”.

CÔ TRÂM LÚA THƠM HƯƠNG CỐM

PGS.TS Nguyễn Thị Trâm là nhà giáo, nhà nông học chọn tạo giống lúa lai nổi tiếng của Việt Nam với thành tựu nổi bật là đã nghiên cứu tạo chọn và phát triển giống lúa lai hai dòng TH3-3 cùng với qui trình nhân hạt giống bố mẹ và qui trình sản xuất hạt lúa lai được công nhận năm 2005, được trình diễn trên 26 tỉnh và được nông dân chấp nhận. Sau TH3-3 là TH3-4, TH3-5, TH5-1, TH7-2 và lúa thơm Hương cốm. Những giống lúa mới này có thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất cao, chất lượng tốt, thích ứng rộng, tạo nên bước đột phá mới cho công nghệ sản xuất lúa lai ở Việt Nam. Sự kết nối sản xuất giống lúa lai từ Viện Trường tới các Công ty Giống Cây trồng Nông nghiệp địa phương đã mở ra những vùng sản xuất hạt giống lúa lai rộng lớn, từ miền núi phía Bắc đến đồng bằng, miền Trung và Tây Nguyên, tạo công việc làm và thu nhập tốt hơn cho hàng vạn lao động nông nghiệp. PGS.TS Nguyễn Thị Trâm đã nói những lời tâm huyết: “Nghề nông ở nước ta hiện nay vẫn đang chiếm tỷ lệ lớn và luôn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, rủi ro vì biến đổi khí hậu diễn ra nhanh và vô cùng khốc liệt… Để xây dựng và phát triển một nền nông nghiệp bền vững ổn định cần có đội ngũ các nhà khoa học nông nghiêp yêu nghề, dám hy sinh suốt đời cho nghiên cứu khoa học …”. Đoạn

Bài phát biểu của cô Nguyễn Thị Trâm tại Đại hội Thi đua yêu nước lần thứ VIII đối với chúng tôi thật xúc động và ám ảnh:

BÀI PHÁT BIỂU TẠI ĐẠI HỘI THI ĐUA YÊU NƯỚC LẦN THỨ VIII

PGS.TS. Nguyễn Thị Trâm, ĐHNN Hà Nội Đoạn

“Kính thưa: Quí vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước,
Kính thưa Đoàn chủ tịch Đại hội và Quí vị Đại biểu Đại hội

Được sự đồng ý của Ban tổ chức tôi xin phép trình bầy trước Đại hội đôi điều về những chặng đường làm giảng dậy và nghiên cứu khoa học của tôi.

Gia đình tôi quê ở Hà Nam, vùng đồng chiêm nghèo nên cha mẹ “tha phương cầu thực” đến Thị xã Thái Nguyên kiếm sống. Khi 3 tuổi, cha tôi đi kháng chiến, tôi theo mẹ chạy giặc vào vùng núi Võ Nhai, hòa bình lập lại mới được đến trường, vào Đại học ở tuổi 20, được xếp học ngành Cây lương thực, khoa Trồng trọt, tôi nghĩ đây là ngành phù hợp với mình nên cố gắng học hành với mong ước góp phần làm cho người dân có bữa cơm no. Khi đó, dân ta còn đói lắm, cơm độn ngô khoai sắn mà vẫn đứt bữa thường xuyên, trong khi tỷ lệ dân làm nghề nông chiếm tới 90%. Tình yêu nghề nông của tôi bắt đầu từ những bài thực tập chọn giống, lai ngô, lai lúa, ghép cây… Ra trường, được làm việc tại Viện Cây Lương thực và Cây Thực phẩm nên tôi có cơ hội thực hiện khát vọng của mình. Tập sự xong, làm nghiên cứu tại bộ môn “Chọn tạo giống lúa” dưới sự hướng dẫn của thầy Lương Định Của, nhà Di truyền – chọn giống nổi tiếng từ Nhật trở về, Thầy đã truyền đạt cho tôi kiến thức khoa học cơ bản, phương pháp thực hành xác thực giúp biến kết quả nghiên cứu thành sản phẩm phục vụ xã hội. Tấm gương làm nghiên cứu khoa học mẫu mực đầy sáng tạo của Thầy và các nhà khoa học Nông nghiệp thế hệ trước luôn thôi thúc tôi làm việc tận tụy vì nông dân.

Năm 1980, đi học nghiên cứu sinh tại Liên xô, tôi chọn đề tài nghiên cứu giống lúa để có cơ hội học lý thuyết cơ bản làm cơ sở cho chuyên môn sau này. Tốt nghiệp xong, tôi trở lại Trường Đại học Nông nghiệp làm giảng viên khi tuổi đã 40, tự rèn luyện ngay từ ngày đầu lên lớp, tích lũy kiến thức thông qua tài liệu trong, ngoài nước, cập nhật thông tin từ thực tế sản xuất, tìm phương pháp truyền đạt dễ tiếp thu để sinh viên hiểu bài. Sau giờ giảng, sinh viên tiếp thu được kiến thức, phương pháp mới, lôi cuốn họ say mê học bài đọc tài liệu, viết tiểu luận, nghiên cứu khoa học…Tôi luôn tìm những nội dung hay nhất mới nhất của môn học để truyền đạt, phân tích mở rộng giúp cho người học suy nghĩ tìm tòi cái mới. Trên lớp tôi dùng hình ảnh để diễn giải lý thuyết, dùng thí nghiệm cụ thể để minh họa và thực hành. Nhờ vậy, ngay từ năm đầu vào nghề giảng dậy tôi đã lôi cuốn nhiều học sinh tham gia nghiên cứu khoa học,và đã hướng dẫn họ rất tận tụy để họ có cơ hội sáng tạo từ khi còn rất trẻ.

Cuộc sống thời niên thiếu của tôi gắn liền với núi rừng, cây cối đã nuôi dưỡng trong tôi tình yêu thiên nhiên, ham muốn cải tạo sinh vật phục vụ con nguoi. Ngoài giờ giảng trên lớp, tôi đạp xe xuống nông thôn, giúp đội giống ở các HTX chọn lọc, bình tuyển giống, rút dòng, nhân hạt giống tốt cung cấp cho nông dân. Dẫn sinh viên xuống nông thôn làm đề tài, nêu câu hỏi, yêu cầu các em phân tích đánh giá, tìm giải pháp nâng cao năng suất.

Những năm 1990, tiến bộ kỹ thuật về lúa lai tràn vào nước ta, nhu cầu hạt giống lúa lai gia tăng ở mọi miền đất nước, hạt giống lai từ nước ngoài tràn vào thị trường ồ ạt tạo sức ép cho ngành giống cây trồng của Việt Nam. Năm 1993, được Bộ Nông nghiệp cho tham dự lớp huấn luyện kỹ thuật lúa lai tại Trung Quốc, quan sát thực tế tại Trung tâm, trao đổi trực tiếp với các nhà chọn giống giầu kinh nghiệm đã gợi mở trong tôi những ý tưởng mới vể chọn tạo giống lúa. Sau đợt học, tôi thu được nhiều kiến thức, tài liệu, phương pháp để bước vào hướng nghiên cứu mới: Tìm kiếm, xác định, chọn tạo cải tiến các vật liệu di truyền để tạo dòng bố mẹ và tạo giống lúa lai. Lúc này niềm đam mê chọn giống cuốn hút mọi thời gian và suy nghĩ của tôi. Tôi tự hỏi: Không có lẽ người Việt Nam lại không thể tạo được giống lúa lai cho chính mình ? Mặc dù chưa biết lấy phương tiện và kinh phí nghiên cứu từ đâu nhưng tôi nghĩ phải bắt đầu ngay. Tôi gieo trồng vật liệu, tổ chức sinh viên lai tạo, đánh giá, chọn lọc… Một số việc tỉ mỉ mất thời gian như tuốt dòng, phơi cá thể, sắp xếp, đo đếm bông hạt…tôi phải nhờ chính mẹ mình làm. Mẹ tôi rất tậm tâm làm thí nghiệm giúp con, bà cần cù, cẩn thận, minh mẫn và tận tụy. Có lẽ giờ đây ở đâu đó Bà vẫn dõi theo công việc của tôi.

Biết được khó khăn, thiếu thốn và quyết tâm của tôi, ông Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Nguyễn Công Tạn đã mời hiệu trưởng trường tôi lên gặp để cấp cho 9.000 đô la (quĩ riêng của Bộ trưởng vì ông muốn ủng hộ ý tưởng mới của tôi nhưng tôi lại không thuộc Bộ Nông nghiệp theo phân công của Nhà nước). Nhờ số tiền này chúng tôi đã mua sắm một số trang bị tối thiểu cho nghiên cứu, đã xây được 360m2 nhà lưới, xây tường rào chống chuột bảo vệ 1 mẫu lúa giống, xây 1 buồng điều hòa nhiệt độ để đánh giá các dòng vật liệu mới. Sự quan tâm của Bộ trưởng thúc đẩy tôi làm việc miệt mài hơn. Tại một cuộc họp tổng kết sản xuất của Bộ, ông tuyên bố sẽ giành phần thưởng xứng đáng cho người chọn tạo được lúa lai cho Việt Nam. Việc này đã thôi thúc sự nôn nóng của tôi và nhiều nhà chọn giống khác. Năm 1996, tôi chọn ra 2 dòng bố, mẹ trong vườn vật liệu và sản xuất được 12 kg hạt lai F1 đưa lên Bộ để tham gia trình diễn tại Hà Tây cùng với giống của các tác giả khác. Lúa trình diễn sinh trưởng phát triển rất nhanh, cây khỏe, bông to trỗ đều. Bộ tổ chức Hội nghị đầu bờ mời nhiều tỉnh đến thăm và đánh giá. Mọi người khen ngợi lúa lai Việt Nam, ông Bộ trưởng phấn khởi lắm và rút tiền mặt thưởng tôi ngay trong hội thảo trước nhiều nhà lãnh đạo, đồng nghiệp, học sinh của tôi và nông dân. Tôi thực sự mừng vui xúc động. Thật không may, chỉ sau 1 tuần, lúa của tôi bị bệnh bạc lá làm “cháy” gần hết cả mẫu ruộng, lá không còn màu xanh để quang hợp, làm gì còn năng suất ! Tôi lo lắng, xấu hổ đến bẽ bàng vì sự nóng vội của mình. Tôi ngậm ngùi ân hận và lên xin Bộ trưởng để được trả lại tiền thưởng, ông không khiển trách mà động viên rằng: “Phần thưởng này ông giành cho người tạo ra giống lúa lai đầu tiên ở Việt Nam chứ chưa phải là thưởng cho giống lúa lai tốt”. Lời nhắc nhở rất khéo của ông khiến tôi ngượng ngùng xấu hổ, không còn cách nào từ chối mà âm thầm thúc đẩy tôi tìm cách nghiên cứu cải tiến mọi đặc tính của giống nhất là tính chống chịu sâu bệnh và thận trọng hơn khi đưa giống ra sản xuất đại trà.

Tuy nhiên để tạo giống lúa vừa có năng suất cao, chất lượng tốt lại vừa chống chịu sâu bệnh, và thích ứng cho nhiều vùng, nhiều vụ thì cần thời gian dài lắm mà tôi lại đã đến tuổi nghỉ hưu, quĩ thời gian làm việc đã hết, vậy làm thế nào để thực hiện? Tôi quyết định giành thời gian còn lại của cuộc đời để thực hiện ý tưởng chọn tạo thành công giống lúa lai cho Việt Nam. Tôi xin Nhà trường ở lại làm việc tiếp với điều kiện được sử dụng gần 1 ha ruộng trồng lúa, 1 phòng thí nghiệm nhỏ để nghiên cứu, chỉ hưởng lương hưu, dùng kết quả nghiên cứu của mình để tạo ra tiền chi trả mọi kinh phí nghiên cứu, trả lương cho cộng tác viên và mọi chi phí cần thiết khác phục vụ hoạt động nghiên cứu.

Đề nghị của tôi được Trường chấp nhận, tôi ở lại làm việc vô tư hết mình như thời còn trẻ, không kể thời gian, mưa nắng, khó khăn, tôi liên hệ với đồng nghiệp ở Bộ Nông nghiệp tham gia nghiên cứu cùng với họ. Đồng thời nhận hướng dẫn đề tài làm luận văn tốt nghiệp cho sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh của Trường để tận dụng nguồn nhân lực có kiến thức khoa học, có khả năng tư duy sáng tạo phục vụ cho nghiên cứu của mình và cũng là để truyền đạt sự hiểu biết, kinh nghiệm và “nghệ thuật” chọn giống cho họ. Các vấn đề nghiên cứu của tôi đã trở thành những đề tài hay để họ làm luận án tiến sĩ, thạc sĩ, giúp họ học thêm nhiều điều có ích cho sự nghiệp về sau. Ngoài ra, tôi giành thời gian đi Khuyến nông, đi giảng các lớp huấn luyện ngắn hạn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho nông dân, hướng dẫn sản xuất hạt giống… Các hoạt động này giúp mở rộng quan hệ và hiểu biết thực tiễn cho học trò của tôi, cho cán bộ trẻ trong Phòng, hơn nữa còn thu được tiền để nuôi đội ngũ kỹ sư mới tuyển, giúp họ học thêm và làm viêc tốt hơn.

Tôi giành nhiều thời gian, công sức, trí tuệ cải tiến những nhược điểm của từng vật liệu, chọn lọc, đánh giá lặp lai nhiều lần và cuối cùng sự cố gắng không mệt mỏi đã đem lại thành công là tạo ra các dòng bất dục đực, các dòng cho phấn mới, các giống lúa lai, lúa thuần có giá trị sử dụng cao. Giống lúa lai hai dòng TH3-3 cùng với qui trình nhân hạt giống bố mẹ và qui trình sản xuất hạt lai được công nhận năm 2005, được trình diễn trên 26 tỉnh và được nông dân chấp nhận. Sau TH3-3 là TH3-4, TH3-5, TH5-1, TH7-2 và lúa thơm Hương cốm. Các giống mới có thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất cao, chất lượng tốt, thích ứng rộng nên nhu cầu về hạt giống tăng cao. Chúng tôi không còn đủ năng lực sản xuất và cung ứng kịp cho nông dân nên đã quyết định chuyển nhượng bản quyền cho Doanh nghiệp để tập trung thời gian cho nghiên cứu chọn tạo các giống mới tốt hơn. Doanh nghiệp có điều kiện tốt về tài chính, có kinh nghiệm kinh doanh, có thể mở rộng sản xuất đáp ứng yêu cầu của nông dân. Việc chuyển nhượng bản quyền đã tạo ra bước đột phá mới trong nghiên cứu khoa học. Kết quả nghiên cứu đưa được đến tận tay người sản xuất, diện tích sử dụng giống mở rộng nhanh rõ rệt, năm 2009 diện tích sản xuất hạt lai của 2 giống được chuyển nhượng chiếm trên 60% tổng diện tích sản xuất hạt lai trong nước, cung cấp trên 1000 tấn hạt giống lai/năm cho nông dân các tỉnh phía Bắc, tạo lợi thế canh tranh cho lúa lai Việt Nam. Các Công ty mở ra nhiều vùng sản xuất hạt giống lai rộng lớn, từ miền núi phía bắc đến đồng bằng, miền Trung và Tây Nguyên tạo công việc làm cho hàng vạn lao động nông nghiệp có tay nghề cao, thu nhập cao hơn. Nhờ chuyển nhượng bản quyền, Nhà trường thu hồi được kinh phí sự nghiệp khoa học, Nhà nước thu thuế bản quyền, Viện chúng tôi có tiền mua ô tô, xây thêm phòng làm việc, kho tàng và mở rộng nghiên cứu theo nhiều hướng mới. Cán bộ nghiên cứu có thêm lương, thưởng, được cấp học bổng học cao học, huấn luyện nâng cao trình độ ở trong nước và cả nước ngoài. Phòng nghiên cứu của chúng tôi trở thành đơn vị đi đầu thực hiện có hiệu quả chỉ thị 115 của chính phủ, chỉ thị về giao quyền tự chủ tự chịu trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học phục vụ sản xuất của các cơ quan nghiên cứu khoa học.

Sau 10 năm làm việc ở tuổi nghỉ hưu, một nhóm nghiên cứu bé nhỏ từ 3 người, đã lớn mạnh thành một Phòng nghiên cứu vững vàng về lý luận, có tay nghề chọn tạo và sản xuất giống lúa giỏi với 2 tiến sĩ; 6 thạc sĩ; 4 kỹ sư; 1kỹ thuật viên. Trong thời gian đó nhóm chúng tôi vừa nghiên cứu, vừa học tập nâng cao trình độ vừa lai tạo, chọn lọc, mở rộng sản xuất các giống lúa mới, vừa phổ biến kiến thức trồng lúa, sản xuất hạt giống lúa lai cho nông dân. Đồng thời đã tham gia viết sách, viết bài giảng, công bố các công trình nghiên cứu có giá trị tham khảo tốt cho ngành chọn giống và sản xuất giống nước nhà.

Kính thưa Đại Hội,

Nghề nông ở nước ta hiện nay vẫn đang chiếm tỷ lệ lớn và luôn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, rủi ro vì biến đổi khí hậu diễn ra nhanh và vô cùng khốc liệt… Để xây dựng và phát triển một nền nông nghiệp bền vững ổn định cần có đội ngũ các nhà khoa học nông nghiêp yêu nghề, dám hy sinh suốt đời cho nghiên cứu khoa học. Thế nhưng khoa học nông nghiệp là khoa học ứng dụng, đòi hỏi phải đầu tư nhiều thời gian thâm nhập thực tế, phải kiên trì thử nghiệm trên đồng ruộng ở nhiều vùng, nhiều vụ khác nhau nên khi thành đạt thì đa số tuổi đã quá cao. Những thách thức đó thật vô cùng khắc nghiệt, Nhà nước cần quan tâm nhiều hơn giúp nhà khoa học có điều kiện thử nghiệm, hiện thực hóa các ý tưởng mới táo bạo của mình.

Phụ nữ làm khoa học nông nghiệp phải chịu quá nhiều vất vả gian nan và cả sự đố kỵ… Trước những thách thức đó cần có một tình yêu nghề nồng cháy, một mục tiêu rõ ràng để theo đuổi, một phương pháp chính xác và luôn được bổ sung, phải bình tĩnh suy xét, lựa chọn biện pháp ứng xử hợp lý để vượt qua khó khăn thách thức và chắc chắn sẽ thành công. Đoạn

Kính thưa Đại hội

– Để có được những đóng góp nêu trên, tôi đã nhận được sự giúp đỡ rất nhiều. Từ trái tim mình, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đối với Đảng, Nhà nước, đối với các thầy cô giáo, những người đã tận tụy dậy dỗ, cho tôi hưởng một nền giáo dục mới để làm một người công dân tốt, một nhà giáo, nhà khoa học có ích.

– Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới các cấp lãnh đạo Bộ Nông nghiệp & PTNT, Bộ Giáo dục & ĐT, các cục vụ chuyên môn của hai Bộ, những người đã tìm mọi cách nâng đỡ các ý tưởng mới, táo bạo khuyến khích tôi trong suốt thời gian làm nghiên cứu, triển khai, mở rộng và phát triển sản xuất ở các địa phương.

– Xin cảm tạ bà con nông dân trên mọi miền đất nước, những người đã sẵn sàng dùng đất đai, lao động của mình thử nghiệm sản xuất hạt giống, gieo trồng giống mới, ứng dụng các kỹ thuật mới trên đồng ruộng, không ngại rủi ro giúp chúng tôi thành công. Xin bày tỏ lòng biết ơn đối với bạn bè đồng nghiệp các thế hệ sinh viên, học viên cao học ,NCS đã đóng góp sức lực, trí tuệ cùng nghiên cứu giải quyết các vấn đề trong thực tế sản xuất nông nghiệp của nước nhà.

– Cuối cùng Xin kính chúc Quí vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước, quí vị đại biểu sang năm mới sức khỏe dồi dào, hạnh phúc và thành công mới.

Xin trân trọng cảm ơn.

Nguyễn Thị Trâm”

NGUYỄN THỊ TRÂM MỘT GHI GHÉP NHỎ

Trở thành kỹ sư nông nghiệp năm 1968, PGS. TS Nguyễn Thị Trâm công tác tại Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm của Bộ Nông nghiệp cho đến năm 1980. Ở đây, với việc nghiên cứu chọn tạo giống lúa, cô đã cùng đồng nghiệp chọn tạo thành công các giống lúa như: NN8 -388, NN23, NN9, NN10, NN75-6. Tất cả các giống lúa này đều được đưa vào ứng dụng trong sản xuất, trong đó giống lúa NN75-6 đã đem lại cho cô bằng tác giả sáng chế năm 1984.

Trong thời gian đi nghiên cứu sinh ở nước ngoài trong 4 năm từ năm 1980 đến 1984 cô Trâm đã mang về tấm bằng góp thêm vào học vị của mình với việc thực hiện đề tài: “Nghiên cứu lúa lùn và sử dụng lúa lùn trong chọn tạo giống lúa thâm canh” tại Đại học Nông nghiệp Kuban và Viện Nghiên cứu Lúa toàn Liên Xô, Thành phố Kratsnodar (Liên Xô cũ).

Sau khi về nước, trở thành Tiến sĩ Nông nghiệp PGS. TS Nguyễn Thị Trâm công tác tại trường Đại học Nông nghiệp 1. Cô làm cán bộ giảng dạy các bộ môn Di truyền chọn giống Khoa Nông học của trường. Thời gian này cô Trâm đã cống hiến rất nhiều tâm lực của mình trong việc nghiên cứu, giảng dạy cũng như hướng dẫn các sinh viên làm đề tài tốt nghiệp. Trong số đó có rất nhiều tiến sĩ và thạc sĩ bảo vệ thành công luận án của mình và được tốt nghiệp với những tấm bằng loại ưu. Bên cạnh đó cô còn viết các giáo trình và sách tham khảo cùng giáo trình bài giảng cho cao học các chuyên ngành Trồng trọt, chọn giống. Cùng các đồng nghiệp, cô đã nghiên cứu chọn tạo thành công các giống lúa thuần như nếp thơm 44, tẻ 256, ĐH 104 và được đưa ra sản xuất.

Làm phó Viện trưởng Viện Sinh học Nông nghiệp và Trưởng phòng nghiên cứu ứng dụng ưu thế lai tại trường Đại học Nông Nghiệp 1 Hà Nội cho đến năm 2004 cô Trâm lĩnh sổ lương hưu trí. Sau khi nghỉ hưu cô vẫn muốn góp thêm sức lực và trí tuệ của mình để phục vụ cho ngành nghiên cứu khoa học nước nhà nên cô đã nhận lời mời tiếp tục làm Trưởng phòng Nghiên cứu ứng dụng ưu thế lai, và tiếp tục nghiên cứu để tạo ra các giống lúa mới. Viết thêm những tài liệu và giáo trình để phục vụ giảng dạy và hướng dẫn cho các học viên thực tập tốt nghiệp kiêm hướng dẫn nghiên cứu sinh… Đoạn

Mười tỉ đồng, một giống lúa, và mười bảy năm nghiên cứu lúa lai. Nhìn cảnh cô Trâm đếm từng hạt lúa, bạn sẽ thấy 10 tỉ đồng chuyển giao công nghệ không hề nhiều. Trong chương trình Người đương thời, bạn sẽ được nghe cô Trâm tiết lộ bí quyết lúa lai của Việt Nam. Và quan trọng hơn, bạn sẽ biết bí quyết thành công của cô: đó là đầu tư thời gian, và không bao giờ bỏ cuộc.

Việt Nam con đường xanh, Cô Nguyễn Thị Trâm người Thầy lúa lai là một nghiên cứu điển hình (key study), Tuyển chọn giống lúa lai Hương Cốm và các giống lúa lai Việt Nam cung cấp trên 1000 tấn hạt giống lai/ năm cho nông dân các tỉnh phía Bắc, tạo lợi thế canh tranh cho lúa lai Việt Nam, góp phần hiệu quả cải tiến chuỗi giá trị sản phẩm lúa gạo Việt, trọng điểm cho vùng núi và trung du phía Bắc. Chúng ta tiếp nối đội ngũ, theo gương sáng thầy bạn là lộc xuân cuộc đời, tỏa rộng Con đường lúa gạo Việt Nam, tôn vinh giá trị hạt ngọc Việt.

Hoàng Kim
Việt Nam con đường xanh

Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là ca-pha-viet-phu-thien.jpg

CÀ PHÊ VIỆT PHÚ THIỆN
Hoàng Kim

Chúc mừng và cám ơn Trương Phú Thiện Cà phê Việt Thế Kỷ XXI văn hóa & kỹ thuật; Tình yêu Cà phê Việt. Sách hay. Có những trang sách đọc lại để hoàn thiện chính mình. Có những con người tỉm gặp để trau dồi tính sáng. Dạy và học Cà phê Việt Phú Thiện để cải tiến chuỗi giá trị sản phẩm . Sách hay người giỏi. (còn nữa…)

Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là ca-phe-viet-phu-thien.jpg
Trương Phú Thiện tác giả Cà phê Việt Thế Kỷ XXI văn hóa & kỹ thuật; Tình yêu Cà phê Việt (người đứng đầu bên trái, cùng Huỳnh Hồng, Hoàng Kim, Lâm Cúc và Nguyễn Sang) tại Vườn Tao Đàn
Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là bi-mat-cao-bien-trong-su-viet.jpg

BÍ MẬT CAO BIỀN TRONG SỬ VIỆT
Hoàng Kim
Cao Biền (Thiên Lý, Cao Vương , Tịnh Hải Quân) là một danh tướng, đại sư, cũng là nhà phong thủy trứ danh và nhà tiên tri thời hậu Đường đã lưu dấu ở đất Việt đậm nét nhất tại Đầm Môn (Phú Yên) mả Cao Biền, thành Đại La & Hoàng thành Thăng Long (Hà Nội), Vân Đồn & Hải Phòng (Quảng Ninh) là hệ thống cứ điểm liên hoàn kết nối phức hợp Tĩnh Hải quân và Lĩnh Nam Đông đạo (Quảng Châu, Quảng Đông ngày nay)
xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bi-mat-cao-bien-trong-su-viet/

Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là hoang-tran-le-nguyen-dat-phuong-nam.jpg

BÀI THƠ KHÔNG QUÊN
Hoàng Kim
giới thiệu tấm ảnh “Hoàng Trần Lê Nguyễn đất phương Nam” và sáu bài thơ không quên: “Viếng mộ cha mẹ” “Mẹ” “Ba nén hương”, “Thơ của người ra trận” “Thắp đèn lện đi em” “Em ơi em can đảm bước chân lên”. https://cnm365.wordpress.com/2016/07/19/bai-tho-khong-quen-2/

“Viếng mộ cha mẹ” là bài thơ của đại tá Hoàng Trung Trực rút trong tập thơ “Dấu chân người lính”. “Mẹ” là bài thơ của nhà thơ chiến sĩ Tô Hoàn, rút trong “Tuyển tập thơ lục bát Việt Nam” tái bản tháng 7 năm 2000, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin ấn hành. “Ba nén nhương” là bài thơ của nhà thơ thương binh Hoàng Cát đăng trên báo và trang thơ Nguyễn Trọng Tạo.”Thư của người ra trận” là bài thơ do anh Lê Trung Xuân đọc và Hoàng Kim chép lại theo trí nhớ sau khoảng thời gian hơn bốn mươi năm. Bốn người bạn Xuân, Chương, Trung, Kim đều cùng là sinh viên đại học nhập ngũ tháng 9 năm 1971. Chúng tôi cùng trong một tổ chiến đầu bốn người. Hai anh Xuân và Chương đều hi sinh năm 1972 tại Quảng Trị, còn Phạm Huy Trung và Hoàng Kim trở về trường cũ sau ngày đất nước thống nhất . Anh Xuân ra đi đã mang theo bí mật của bài thơ tình “Thư của người ra trận” mà cho đến nay chúng tôi vẫn chưa biết rõ ai là tác giả. “Thắp đèn lên đi em” là bài thơ của Hoàng Kim.  “Em ơi em can đảm bước chân lên” là bài thơ của thầy giáo Nguyễn Khoa Tịnh. “Tháng Bảy mưa ngâu” là bài thơ của Hoàng Kim.

Bức ảnh và chùm Bảy bài thơ không quên tháng Bảy này nối đôi bờ sinh tử, nối các khát vọng cháy bỏng của đời người; đó là lòng biết ơn và yêu thương, là dấu lặng cuộc sống.

VIẾNG MỘ CHA MẸ
Hoàng Trung Trực

Dưới lớp đất này là mẹ là cha
Là khởi phát đời con từ bé bỏng
Là lời mẹ ru dịu dàng cánh võng
Là binh nghiệp cha một thuở đau đời

Hành trang cho con đi bốn phương trời
Là nghĩa khí của cha, là nhân từ của mẹ
Vẫn bầu sữa tinh thần không ngừng không nghỉ
Để hành trang cho con đi tiếp cuộc đời

Cuộc đời con bươn chãi bốn phương trời
Nay về lại nơi cội nguồn sinh trưởng
Dâng nén hương mà lòng hồi tưởng
Thuở thiếu thời dưới lồng cánh mẹ cha

“Ước hẹn anh em một lời nguyền
Thù nhà đâu sá kể truân chiên
Bao giờ đền được ơn trung hiếu
Suối vàng nhắm mắt mới nằm yên”.

MẸ
Tô Hoàn

Con về thăm mẹ chiều mưa
Mới hay nhà dột gió lùa bốn bên
Hạt mưa sợi thắng sợi xiên
Cứ nhằm vào mẹ những đêm trắng trời

Con đi đánh giặc một đời
Mà không che nổi một nơi mẹ nằm!

BA NÉN HƯƠNG
Hoàng Cát

Nén hương này con thắp giỗ mẹ
Bom ập đến mẹ về cõi thế

Nén hương này anh thắp giỗ em
Ở lại miền Nam không có mộ để anh tìm

Nén hương này tôi thắp giỗ thân tôi
Chiến tranh cướp đi hai chục năm rồi

Ba nén hương một mình tôi làm giỗ
Giỗ chính mình, giỗ mẹ, giỗ em tôi !

THƯ CỦA NGƯỜI RA TRẬN
(Bài thơ chưa rõ tác giả)

Anh viết cho em lá thư dài tâm sự
Trời Lục Nam đêm này khó ngủ
Cũng mơ màng như nét bút anh biên.

Ở quê hương giờ chắc đã lên đèn
Sau vất vả một ngày lao động
Đêm nay nhé cùng anh em hãy sống
Những ngày đầu thơ ấu của tình yêu.

Nhớ lắm em ơi những sớm những chiều
Ta sánh bước dưới trời cao trong vắt
Anh nắm tay em, em cười trong mắt
Trăng thẹn thùng lẫn vội bóng mây trôi

….

Rồi từ đó bao đêm thao thức bồi hồi
Anh mơ được cùng em xây tổ ấm
No đói có nhau ngọt bùi khoai sắn
Một căn nhà đàn con nhỏ líu lô

Tấm lòng em là cả một bài thơ
Anh muốn viết như một người thi sĩ
Ruộng lúa nương khoai tấm lòng tri kỷ
Có bóng em đi thêm đẹp cả đất trời.

Nhưng em ơi khi ta bước vào đời
Đâu chỉ có bướm có hoa có trời có đất
Đâu chỉ có mơ màng những đêm trăng mật
Mà đất trời đã nổi phong ba

Tạm biệt em, anh bước đi xa
Khi thửa ruộng luống cày còn dang dỡ
Khi mầm non tình ta vừa mới nhú
Khi căn nhà còn tạm mái tranh.

Quê hương ơi xóm nhỏ hiền lành
Có biết chăng người yêu ta ở đó
Một nắng hai sương giải dầu mưa gió
Mắt mỏi mòn ai đó ngóng trông nhau.

Anh đi biển rộng sông sâu
Con thuyền nhỏ vẫn mong ngày cập bến
Đò có đông em ơi đừng xao xuyến
Nắng mưa này đâu chỉ có đôi ta.

Anh đi bão táp mưa sa
Chỉ thương em một cánh hoa giữa trời
Đời là thế đó em ơi
Buồn thương xa cách chia phôi lẽ thường.

Anh gửi cho em lời nhắn lên đường
Bức thư của người ra trận
Dù mai sau trong niềm vui chiến thắng
Anh chưa về nhưng đã có thư anh …

THẮP ĐÈN LÊN ĐI EM !
Hoàng Kim

Thắp đèn lên đi em!
Xua tăm tối, giữa đêm trường ta học
Vũ trụ bao la đèn em là hạt ngọc
Cùng sao khuya soi sáng mảnh đất này
Dù sớm chiều em đã học hăng say
Dù ngày mệt chưa một hồi thanh thản
Đèn hãy thắp sáng niềm tin chiến thắng
Em thắp đèn lên cho trang sách soi mình.

Thắp đèn lên đi em!
Xua tăm tối giữa đêm trường ta học
Em đâu chỉ học bằng ánh mắt
Mà bằng cả lòng mình, cả khối óc hờn căm
Thù giặc giết cha, bom cày sập tung hầm
Nhà tan nát, sân trường đầy miệng hố
Hãy học em ơi, dù ngày có khổ
Lao động suốt ngày em cần giấc ngủ ngon
Nhưng đói nghèo đâu có để ta yên
Và nghị lực nhắc em đừng ngon giấc
Nợ nước thù nhà ngày đêm réo dục
Dậy đi em, Tổ quốc gọi anh hùng.

Thắp đèn lên đi em!
Xua tăm tối giữa đêm trường ta học
Mặc cho gió đêm nay lạnh về tê buốt
Tấm áo sờn không đủ ấm người em
Vùng dậy khỏi mền, em thắp ngọn đèn lên
Để ánh sáng xua đêm trường lạnh cóng
Qua khổ cực càng yêu người lao động
Trãi đói nghèo càng rèn đức kiên trung
Em đã đọc nhiều gương sáng danh nhân
Hãy biết nhục, biết hèn mà lập chí
Thắp đèn lên đi em, ngọn đèn dầu bền bỉ
Sáng giữa đời lấp lánh một niềm tin.

Thắp đèn lên đi em!

EM ƠI EM CAN ĐẢM BƯỚC CHÂN LÊN
Nguyễn Khoa Tịnh
Thầy ước mong em noi gương Quốc Tuấn

Đọc thơ em, tim tôi thắt lại
Lòng nghẹn ngào, nước mắt chảy rưng rưng
Nửa xót xa nhưng nửa lại vui mừng
Xót xa vì đời em còn thơ dại
Mới tuổi thơ mà cuộc đời đầy khổ ải
Mới biết cười đã phải sống mồ côi
Như chiếc thuyền giữa biển tự trôi
Như chiếc lá bay về nơi vô định
Bụng đói” viết ra thơ em vịnh:

Cơm ngày một bữa sắn trộn khoai
Có biết lòng ta bấy hỡi ai?
Vơi vơi lòng dạ, cồn cào bụng
Kể chi no đói, mặc ngày dài”

Phải!
Kể chi no đói mặc ngày dài
Rất tự hào là thơ em sung sức
Rất tự hào là em tôi đầy nghị lực
Đã hiển lộ mình qua “Cái chảo rang

Trung dũng ai bằng cái chảo rang
Lửa to mới biết sáp hay vàng
Xào nấu chiên kho đều vẹn cả
Chua cay mặn ngọt giữ an toàn
Ném tung chẳng vỡ như nồi đất
Quăng bừa xó bếp vẫn nằm ngang
Tốt đẹp đâu cần danh tiếng hão
Bạn cùng lửa đỏ, nóng chang chang

Phải!
Lửa to mới biết sáp hay vàng!
Em hãy là vàng,
Mặc ai chọn sáp!
Tôi vui sướng cùng em
Yêu giấc “Ngủ đồng
Hiên ngang khí phách:

Sách truyền sướng nhất chức Quận công
Ta sướng khi ra ngủ giữa đồng
Lồng lộng trời hè muôn làn gió
Đêm thanh sao sang mát thu không
Nằm ngữa ung dung như khanh tướng
Lấy mấy vần thơ tỏ nỗi lòng
Tinh tú bao quanh hồn thời đại
Ngủ đồng khoan khoái ngắm gương trong

Tôi biết chí em khi “Qua đèo Ngang
Ung dung xướng họa với người anh hùng
Đã làm quân thù khiếp sợ:

Ta đi qua đèo Ngang
Cũng gặp Người trèo qua núi hiểm
Đỉnh dốc chênh vênh
Xe mù bụi cuốn
Có lẽ thiên nhiên đã định bao giờ
Một dãy Hoành Sơn bát ngát trận đồ
Điệp điệp núi cao
Trùng trùng rừng thẳm.
Người thấy
Súng gác trời xanh
Gió lùa biển lớn
Nông dân rộn rịp đường vui
Thanh Quan nàng nhẽ có hay
Cảnh mới đã thay cảnh cũ.
Ta hay
Máu chồng đất đỏ
Mây cuốn dặm khơi
Nhân công giọt giọt mồ hôi
Hưng Đạo thầy ơi có biết
Người nay nối chí người xưa

Tới đây
Nước biếc non xanh
Biển rộng gió đùa khuấy nước
Đi nữa
Đèo sâu vực thẳm
Núi cao mây giỡn chọc trời

Nhớ thù nhà, luống thẹn làm trai
Thương dân nước, thà sinh phận gái
“Hoành Sơn cổ lũy”
Hỏi đâu dấu tích phân tranh?
Chỉ thấy non sông
Lốc cuốn, bốn phương sấm động.

Người vì việc nước ra đi
Ta muốn cứu dân nên thăm trận thế
Điều không hẹn mà xui gặp mặt
Vô danh lại gặp hữu danh
Cuộc đời dài ắt còn sẽ gặp nhau
Nay hội ngộ giữa đỉnh cao trời đất
Anh em ta ngự trên xe đạp
Còn Người thì lại đáp com măng
Đường xuyên sơn
Anh hùng gặp anh hùng
Nhìn sóng biển Đông
Như ao trời dưới núi.

Xin kính chào
Bậc anh hùng tiền bối
Ta ngưỡng mộ Người
Và tỏ chí với non sông
Mẹ hiền ơi!
Tổ Quốc ơi!
Xin tiếp bước anh hùng!”

Hãy cố lên em!
Noi gương danh nhân mà lập chí
Ta với em
Mình hãy kết thành đôi tri kỷ!
Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương
Tôi tự hào bài “Tỏ chí” của em:

Quốc Tuấn ngày xưa chí vững bền
Thù nhà, nợ nước chẳng hề quên
Đến bữa quên ăn, đêm quên ngủ
Thương dân, yêu nước quyết báo đền
Văn hay thu phục muôn người Việt
Võ giỏi kinh hồn lũ tướng Nguyên
Mươi năm sau nữa ơi ông Tuấn
Nối chí ông, nay cháu tiến lên!

Tôi thương mến em
Đã chịu khó luyện rèn
Biết HỌC LÀM NGƯỜI !
Học làm con hiếu thảo.
Mười lăm tuổi đã “Tập làm thầy giáo

Vui gì hơn buổi đầu làm thầy giáo
Của lớp vở lòng đất mẹ yêu thương
Trưa nắng luyến các em cùng đến lớp
Giọng líu lo như chim hót ven đường.

Đứng trước các em tuổi nhỏ đáng yêu
Mà đã tưởng tới bao nhiêu người lớn
Nghe em đọc giọng thanh thanh dễ mến
Mà đã nghe đất nước xuyến xao mình ! ”

Tổ Quốc đang chờ em phía trước.
Em ơi em, can đảm bước chân lên!

(*) Bụng đói, Cái chảo rang, Ngủ đồng, Qua đèo Ngang, Tỏ chí, Tập làm thầy giáo
là những bài thơ Hoàng Kim trích dẫn in nghiêng trong bài này.

THÁNG BẢY MƯA NGÂU
Hoàng Kim

Tháng bảy mưa ngâu
Trời thương chúng mình
Mưa giăng
Ướt đầm vạt áo
Bảy sắc cầu vồng
Lung linh huyền ảo
Mẹ thương con
Đưa em về cùng anh.

Chuyến xe tốc hành
Chạy giữa trăm năm
Chở đầy kỷ niệm
Chở đầy ắp tình em
Từ nơi chân trời
Góc biển

Chàng Ngưu hóa mình vào dân ca
Con ngựa, con trâu
Suốt đời siêng năng làm lụng.
Thương con gà luôn dậy sớm
Biết ơn con chó thức đêm trường.

Em ơi !
Những câu thơ ông bà gửi lại
Đã theo chúng mình đi suốt thời gian.

Tháng bảy mưa ngâu
Đầy trời mưa giăng giăng
Thương nàng Chức Nữ
Em là tiên đời thường
Đầy đặn yêu thương.

Tháng bảy mưa ngâu
Nhớ thương ai góc biển chân trời
Những cuộc chia ly
Đong đầy nỗi nhớ …
Chiêm bao mơ về chuyện cũ
Khói sương mờ ký ức thời gian
Chốn nào chúng mình hò hẹn
Nơi em cùng anh xao xuyến yêu thương
Ngắm mưa Ngâu tháng bảy
Mưa, mưa hoài , mưa mãi
Mưa trong lòng người
Nên mưa rất lâu
Mưa rơi như dòng lệ trắng
Đất trời thương nối một nhịp cầu

Em ơi
Lời tình tự của nghìn năm dân tộc.
Như sắc cầu vồng
Nối hai miền xa cách
Để xa nên gần
Vời vợi nhớ thương.

(*) “Tháng Bảy mưa Ngâu” là bài thơ tình của Hoàng Kim viết tặng cho những đôi lứa yêu thương cách xa nhau và khát khao ngày gặp mặt. Bài thơ cũng là lời biết ơn những anh hùng liệt sĩ nhân ngày 27.7. Ngưu Lang Chức Nữ là chuyện tình cảm động trong dân gian Việt Nam. Truyện nàng tiên Chức Nữ xinh đẹp, phúc hậu, nết na yêu thương chàng trai Ngưu Lang khôi ngô, hiền lành, chăm chỉ. Họ yêu nhau say đắm, bất chấp sự xa xôi nghìn trùng của cõi Trời và cõi Người. Cảm động trước tình yêu son sắt thủy chung của hai người, mỗi năm Trời Phật đã nối duyên cho họ gặp nhau một lần vào tiết tháng Bảy mưa ngâu trước rằm Trung Thu tháng Tám. Đó là dịp Trời gom góp của nhà Trời và sự cần mẫn suốt năm của Ngưu Lang Chức Nữ để làm thành chiếc cầu vồng bảy màu nối liền đôi bờ thăm thẳm. Muôn vạn con quạ, cò, vạc, bồ nông, ngỗng trời đã hợp lực ken kín cầu Ô Thước để giúp Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau. Những giọt nước mắt mừng tủi của hai người cảm động đất trời đã hóa thành mưa ngâu…

Hình ảnh này chưa có thuộc tính alt; tên tệp của nó là nguyenthitrucmai71.jpg

TÌM LẠI CHÍNH MÌNH GIẤC MƠ HẠNH PHÚC
Hoàng Kim

Thầy Mai Văn Quyền, thầy Trần Ngọc Ngoạn và chúng tôi đến thăm vợ chồng thầy Trần Văn Minh giáo sư tiến sĩ nông học, nhà giáo nhân dân, cựu hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm Huế. Câu chuyện quanh bàn trà sau hàn huyên trở về dạy và học. Tôi lắng nghe thật tâm đắc: Con người là nhân tố quyết định, Huế và miền Trung là đất học, về miền Trung thân thiết vẫy gọi tìm lại chính mình giấc mơ hạnh phúc.

Bài viết mới trên CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimlong.wordpress.com
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây   cập nhật mỗi ngày

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Video nhạc tuyển

Việt Nam con đường xanh

VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH

Lúa siêu xanh Việt Nam là câu chuyện khởi đầu đã trên 15 năm, hôm nay nhân vui chuyên với anh Nam Sinh Đoàn và quý bạn đọc cùng lãng du trong câu chuyện câu lúa siêu xanh thích ứng với biến đổi khí hậu, đọc lại và suy ngẫm. Thích ứng cây trồng trước biến đổi khí hậu Báo Nhân Dân ngày 5 tháng 6 năm 2015, đưa tin về vấn đề này trong khi chương trình tuyển chọn giống lúa siêu xanh thích ứng biến đổi khí hậu ở Việt Nam đã khởi động năm 2009 sáu năm trước đó.  Biến đổi khí hậu (BĐKH) đang diễn ra ngày càng khốc liệt, đe dọa an ninh lương thực và có tác động toàn diện đến sự phát triển bền vững của đất nước. Để ứng phó, giảm nhẹ tác động tiêu cực của BĐKH lên sản xuất nông nghiệp, thích ứng cho cây trồng là biện pháp, hướng mở có ý nghĩa rất quan trọng và hiệu quả. (xem tiếp… https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-con-duong-xanh/

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-13.jpg

LÚA SIÊU XANH VIỆT NAM
Hoang Long, Hoàng Kim và đồng sự

Giống lúa siêu xanh GSR65

Nguồn gốc giống: Giống lúa GSR65 có nguồn gốc từ giống lúa Huang Hua Zhang (HHZ) cải tiến HHZ5-DT11-SAL2-7, được lai tạo và nhập nội nguồn gen từ chương trình chọn tạo giống lúa siêu xanh (GSR) của Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) với Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc (CAAS). Giống lúa GSR65 được Mạng lưới Nghiên cứu Lúa Siêu Xanh Việt Nam tuyển chọn và phát triển thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu tại Việt Nam (Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long và ctv. 2018a, Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long và ctv. 2018b; Hoang Long et al. 2015). Giống lúa siêu xanh GSR 65 đã được tuyển chọn qua bảy vụ tại Phú Yên với sáu khảo nghiệm cơ bản (12 giống lúa trong ba vụ tại hai điểm); bốn khảo nghiệm sản xuất (5 giống lúa tuyển chọn trong hai vụ tại hai điểm), bốn trình diễn xây dựng mô hình sản xuất thử (trong hai vụ tại hai điểm). Giống lúa GSR65 đang được Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Yên chủ trì phối hợp với Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại Học Nông Lâm Huế, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Sóc Trăng, Viện Hàn Lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc lập hồ sơ công nhận giống lúa mới.

Đặc điểm giống: Giống lúa siêu xanh GSR65 năng suất cao chất lượng tốt thích hợp vùng thâm canh và vùng mặn, vùng hạn. Giống có thời gian sinh trưởng 95 – 100 ngày đối với lúa sạ và 100 – 105 ngày khi cấy. Giống có chiều cao cây 98 – 100 cm. Giống có 336 – 354 bông/m2, trọng lượng 1000 hạt khoảng 24 – 25g. Tỷ lệ gạo lật, tỷ lệ gạo xát và tỷ lệ gạo nguyên đều đạt tốt, chất lượng gạo loại 1. Giống GSR65 đạt mức protein cao trên 7%, có hàm lượng amylose trung bình, có mùi thơm và cơm ngon. Giống có đặc điểm nông sinh học tốt dạng hình lúa siêu xanh, bộ lá xanh lâu bền (điểm 1), thấp cây (điểm 1), cứng cây không đổ ngã (điểm 1), độ thoát cổ bông cao (điểm 1), dạng hạt gạo thon dài. Giống GSR65 kháng vừa rầy nâu, có phản ứng nhiễm vừa với bệnh đạo ôn hại lúa. Giống lúa GSR65 tại Phú Yên trong khảo nghiệm cơ bản đạt năng suất thực thu bình quân là 8,70 tấn/ ha vượt 30,12% so với đối chứng ML48 đạt 6,69 tấn/ha, trong mô hình trình diễn khảo nghiệm sản xuất thử đạt năng suất thực thu bình quân là 7,98 tấn/ ha vượt 11,92% so với đối chứng ML48 đạt 71,3 tạ/ha

Giống lúa siêu xanh GSR90

Nguồn gốc giống: Giống lúa GSR90 được lai tạo từ tổ hợp OM9921x GSR38 thực hiện tại Việt Nam (GSR38 có nguồn gốc là giống lúa Huang Hua Zhang (HHZ) cải tiến HHZ5-Y7-Y3 nhập nội từ chương trình chọn tạo giống lúa siêu xanh (GSR) của Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) với Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc (CAAS). Giống lúa GSR90 được Mạng lưới Nghiên cứu Lúa Siêu Xanh Việt Nam lai tạo, tuyển chọn và phát triển thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu tại Việt Nam (Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long và ctv. 2018a, Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long và ctv. 2018b; Hoang Long et al. 2015). Giống lúa siêu xanh GSR 90 đã được tuyển chọn qua bảy vụ tại Phú Yên với sáu khảo nghiệm cơ bản (12 giống lúa trong ba vụ tại hai điểm); bốn khảo nghiệm sản xuất (5 giống lúa tuyển chọn trong hai vụ tại hai điểm), bốn trình diễn xây dựng mô hình sản xuất thử (trong hai vụ tại hai điểm). Giống lúa GSR90 đang được Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Yên chủ trì phối hợp với Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửa Long, Trường Đại Học Nông Lâm Huế, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Sóc Trăng, Viện Hàn Lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc lập hồ sơ công nhận giống lúa mới tại Việt Nam.

Đặc điểm giống: Giống lúa siêu xanh GSR90 năng suất cao chất lượng tốt thích hợp vùng thâm canh và vùng mặn, vùng hạn. Giống có thời gian sinh trưởng khoảng 99 – 102 ngày đối với lúa sạ và 101 – 105 ngày khi cấy. Giống có chiều cao cây 103 – 105 cm. Giống có 309 – 351 bông/m2 trọng lượng 1000 hạt khoảng 28 – 29 g. Tỷ lệ gạo lật, tỷ lệ gạo xát và tỷ lệ gạo nguyên đều đạt tốt, chất lượng gạo loại 1. Giống GSR90 đạt mức protein cao trên 7%, có hàm lượng amylose trung bình, có mùi thơm và cơm ngon. Giống có đặc điểm nông sinh học tốt dạng hình lúa siêu xanh, bộ lá xanh lâu bền (điểm 1), thấp cây (điểm 1), cứng cây không đổ ngã (điểm 1), độ thoát cổ bông cao (điểm 1), dạng hạt gạo thon dài. Giống GSR90 ít sâu bệnh hại ngoài đồng ruộng, kháng vừa rầy nâu, có phản ứng nhiễm bệnh đạo ôn hại lúa. Giống lúa GSR90 tại Phú Yên trong khảo nghiệm cơ bản đạt năng suất thực thu bình quân là 8,36 tấn/ha vượt 25,01% so với đối chứng ML48 đạt 6,69 tấn/ha; trong mô hình trình diễn khảo nghiệm sản xuất thử đạt năng suất thực thu bình quân là 8,17 tấn/ ha vượt 14,58% so với đối chứng ML48 đạt 7,13 tấn/ha.

Thông tin tại: 1) Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng, Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Văn Minh, Đặng Văn Mạnh, Ngô Thị Bích Diễm, Lê Thanh Tùng, Hoàng Kim, Tian Qing Zheng, Zhikang Li. 2018. Nghiên cứu hai giống lúa siêu xanh GSR65, GSR90 năng suất cao, chất lượng tốt và quy trình kỹ thuật thâm canh lúa thích hợp tại cánh đồng Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên (Two Green Super Rice varieties GSR65, GSR90 with high productivity and quality and appropriate technical process of cultivation in the Tuy Hoa fields, Phu Yen province) Trong sách: Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Tạp chí Khoa học và Công nghệ. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, số 10, trang 47- 55; Science and Technology Journal of Agriculture & Rural Development , MARD, No 10, p. 47-55, ISSN0866-7020 ; 2) Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Phạm Thị Thỏa, Đàm Thanh Tồn, Hoàng Kim 2018. Tuyển chọn giống lúa siêu xanh năng suất cao chất lượng tốt thích ứng điều kiện biến đổi khí hậu ở tỉnh Phú Yên (Phần 2). Selection of Green Super Rice (GSR) with high yield, good qualities, and adaptation to climate condition in Phu Yen province (Part Two). Trong sách:Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển, JAD Tập 17 Số 4, 15-24 (2018) Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh pISSN 2615-9503 ∗ eISSN 2615949X ; 3) Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Đức Thắng Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Phạm Thị Thỏa, Đàm Thanh Tồn, Hoàng Kim 2018. Tuyển chọn giống lúa siêu xanh năng suất cao chất lượng tốt thích ứng điều kiện biến đổi khí hậu ở tỉnh Phú Yên (Phần 1) Selection of Green Super Rice (GSR) with high yield, good qualities, and adaptation to climate condition in Phu Yen province (Part one). Trong sách: Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển, JAD Tập 17 Số 4, 15-24 (2018) Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh pISSN 2615-9503 ∗ eISSN 2615949X

Lúa Siêu Xanh Việt Nam giống tốt và kỹ thuật thâm canh là khâu trọng yếu, đầu tiên để cải tiến chuỗi giá trị sản phẩm lúa gạo Việt Nam, bảo tồn và phát triển bền vững ngành lúa gạo, thích ứng với biến đổi khí hậu, thích hợp với các vùng sinh thái nông nghiệp Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ Việt Nam khẳng định tầm nhìn, cơ chế, chính sách mới nhằm khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn tại Nghị định 57/2018 / ND-CP. Theo đó, trục sản phẩm chính nhắm đến các sản phẩm chính quốc gia, trong khi lúa gạo vẫn tiếp tục là ngành chính của nông nghiệp Việt Nam, giá đỡ của an sinh xã hội và phát triển kinh tế, là sinh kế chính của vùng nông thôn rộng lớn, lao động và việc làm. Chuỗi giá trị sản phẩm lúa gạo ở cấp tỉnh cần đủ lớn, liên kết các khu vực nguyên liệu thô với các thương hiệu, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao và đào tạo nguồn nhân lực. Mục tiêu hướng tới sự đáp ứng tốt nhất chất lượng cuộc sống của người lao động, đạt hiệu quả cao trong tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường, tiến bộ và công bằng xã hội. Mục đích của tài liệu này là nhằm cung cấp thông tin về các kết quả nghiên cứu đã được xác định rõ ràng để giúp người nông dân nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất lúa gạo đi đôi với việc bảo vệ đất đai và môi trường. Tài liệu được thiết kế như một cẩm nang nghề lúa gạo cần thiết cho các nhà nghiên cứu, cán bộ khuyến nông, cán bộ tổ chức phi chính phủ làm việc về phát triển nông nghiệp, cũng như các hộ nông dân trồng lúa quy mô nông hộ sản xuất lớn và nhỏ. Tài liệu nhằm cung cấp một thông tin  tham khảo kỹ lưỡng về thực hành sản xuất lúa thân thiện môi trường. Từ việc trình bày ngắn gọn tầm quan trọng lúa gạo trên thế giới và Việt Nam; sản xuất tiêu thụ lúa gạo trên thế giới và Việt Nam; thành phần dinh dưỡng và giá trị kinh tế lúa gạo; nguồn gốc vùng phân bố và phân loại cây lúa; Sinh học cây lúa: Đặc điểm thực vật học cây lúa (rễ, thân, lá, hoa, hạt) Các giai đoạn sinh trưởng phát triển của cây lúa Đặc điểm sinh lý của ruộng lúa năng suất cao; Khí hậu và đất lúa, tầm quan trọng của nó trong khu vực để đề xuất chi tiết về quản lý đất nước và cây trồng, giống mới và kỹ thuật thâm canh lúa. Tài liệu mỏng này cung cấp một bằng chứng thực nghiệm mạnh mẽ của chính tác giả và đồng sự sau mười năm nghiên cứu ứng dụng lúa siêu xanh (Green Super Rice) vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp Việt Nam, với một số kết quả bước đầu đã được xác định để tiếp tục sự nghiên cứu, giảng dạy, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới, bảo tồn phát triển lúa siêu xanh Việt Nam cho thương hiệu gạo Việt. Kính chúc bà con nông dân những mùa thu hoạch bội thu.

Anh Nam Sinh Đoàn viết : “Ngoài đồng giống lúa không thuần, nhà nông lười khử giống bị lẫn, giống dại. Cộng với nhà lái mua vào để lẫn, hoặc cố tình pha lẫn lấy lời. Ai đời trộn lẫn hột dài với hột hơi tròn, gạo dẽo với gạo cứng cơm, gạo cũ với gạo mới, … Chính vì vậy mà nồi cơm nào cũng chỗ nhão chỗ khô, hạt mềm nhẽo cạnh hạt còn tim bột. (Chưa kể phun thêm hương liệu, chất chống mốc mọt,…thay đổi cả đặc tính hạt gạo khi đun nấu). Nhiều năm làm lúa với anh Hồ Quang Cua, mới có dịp học hỏi về việc làm giống, giữ đặc trạng của từng giống, cách thức trồng trọt – thu hoạch – tồn trữ – xay xát – lựa lọc – bao bì,…cả chục việc đòi hỏi phải chắc tay. Thế mà khi thí nghiệm trên bàn của nhóm chuyên gia còn lòi ra bao thứ khác: thời gian ngâm, tỉ lệ nước, thời gian đun và cách đun nấu, … Ví dụ, với cùng một thứ gạo, nhưng có dòng nở ít, thì chỉ 70-71% nước. Loại nào nở cơm thì ngâm trước 15 phút, loại nở búp chỉ cần mươi phút là được. Lại còn tùy loại gạo, để ăn xào với rau, gia vị cho có màu mùi như kiểu châu Âu thì nấu bằng nồi hơi như nồi hong. Để còn làm cơm xào, cơm chiên thì chớ ngâm nhiệt, tức là ngâm gạo, đun nước vừa nóng chừng 50 độ hãy cho gạo vào theo đúng tỉ lệ, mới đạt yêu cầu. Câu nói: Cơm lành canh ngọt tưởng dễ mà khó thay”. Tôi (Hoàng Kim) trả lời: Thưa anh, xin hãy nhìn tấm ảnh, từ hạt gạo đến bát cơm chỉ là một phần ngắn trong chuỗi “hoa lúa, bùn, hột lúa, cây lúa, hạt gạo, bát cơm”. Hai khâu khó nhất và nhọc nhằn nhất là hoa lúa và bùn. Mời đọc bài tiếp nối Từ Sắn Việt Nam đến Lúa Siêu Xanh; Lúa Siêu Xanh Việt Nam

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chien-luoc-chon-tao-lua-sieu-xanh-vietnam.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-gsrgvn.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-1.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-4a.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-1.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là gsr90.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là anhbongvacua.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-6.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-7.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-8.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-9.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-10.jpg

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-11-luachiumanpy3.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-hoang-long-34a.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là lua-sieu-xanh-viet-nam-11-1.jpg

Sau bảy năm (2012-2018) đánh giá và tuyển chọn giống lúa siêu xanh (GSR Green Super Rice) Việt Nam, ngày 24 tháng 5 năm 2018 tại Viện Khoa học Cây trồng, Viện Hàn lâm Nông nghiệp Trung Quốc (CAAS) tiến sĩ Hoàng Kim đã gặp Giáo sư tiến sĩ Zhikang Li và Phó Giáo sư tiến sĩ Tian-Qing Zheng trưởng dự án lúa toàn cầu IRRI CAAS để trao đổi kế hoạch hợp tác Lúa Siêu Xanh Việt Nam kết nối CAAS IRRI trong việc đánh giá mở rộng các giống lúa tốt thích nghi biến đổi khí hậu có chất lượng ngon, năng suất cao, ngắn ngày, chống chịu sâu bệnh chính, thích hợp vùng thâm canh vùng mặn vùng hạn và đào tạo nguồn lực giảng dạy nghiên cứu phát triển. Do tình hình dịch bệnh, nên các trao đổi lúa siêu xanh toàn cầu hướng về giải pháp trực tuyến và nổ lực mỗi bên là chính.

Bài này là tóm tắt thông tin Lúa siêu xanh Việt Nam.

Xem tiếp
Con đường lúa gạo Việt Nam
Lúa Siêu Xanh Việt Nam kết nối CAAS IRRI
Việt Nam con đường xanh

ST25 gạo ngon Việt Nam

HOA LÚA GIỮA ĐỒNG XUÂN

Bao năm Trường Viện là nhà
Sắn khoai ngô lúa đều là thịt xương
Một đời người một rừng cây
Thầy ươm giống tốt để mai thành rừng.

Con theo Người nguyện làm Hoa Lúa
Bưng bát cơm đầy quý giọt mồ hôi
Trọn đời vì Dân mến thương hạt gạo
Hoa quê hương hạt ngọc trắng ngần.


Con thăm Thầy lên non thiêng Yên Tử
Về đất lành Chùa Ráng giữa đồng xuân

“Mưa thuận gió hòa chăm bón đúng
Nhân tươi quả tốt được thu nhiều”


Lẫn với cỏ không tranh đua hương vị
Không màng ngôi ngự trị các loài hoa
Hoa Lúa đượm hồn quê dung dị
Quên sắc hương để lộng lẫy Hoa Người ! ” (**)

Con nguyện ước nối đời theo hạt gạo
Chén cơm ngon thơm bếp lửa gia đình
Thầy Trò cùng chung tay làm việc thiện
Sống trọn tình với giấc mơ xanh.


Hoàng Kim

ĐỒNG NAI SỚM NAY TRỜI ẤM

Sớm nay trời tạnh mây quang
Vươn vai đón nắng mặc cơn gió lùa

#Thungdung tháng lọn ngày qua
#Annhiên thời tiết nắng mưa xoay vần

Anh Nam Sinh Đoàn mời anh cà phê sáng. Chúng ta cùng nhớ Mẹ. Việt Nam con đường xanh “Nông sản Việt Nam” và “Nông thôn ngày nay” đang chuyển biến. Hoàng Kim đọc lại những câu trích dẫn của anh Nam Sinh Đoàn nay hằn sâu vào CNM365. Nông nghiệp nông dân nông thôn chưa đầu tư xứng tầm trong hơn 40 năm qua. ĐBSCL thích ứng biến đổi khí hậu. Hột lúa và con cá miếng ăn hàng ngày của người dân còn vất vả lắm nhưng nhất định phải chuyển dịch tầm nhìn và đầu tư đúng hướng để sức dân đồng lòng cho nước Việt vươn tới.. DẠY VÀ HỌC không chỉ trao truyền tri thức, kỹ năng nghề nghiệp mà còn trao truyền ngọn lửa. Chừng nào mỗi chúng ta chưa ứa nước mắt thấm hiểu sự nhọc nhằn của người nông dân một nắng hai sương làm ra hạt gạo. Chừng nào những giá trị lao động khoa học cao quý, liên tục, âm thầm chưa mang lại đủ niềm vui cho bữa ăn của người dân nghèo. Chừng đó chúng ta sẽ còn phải DẠY VÀ HỌC. Cái gốc của sự học là HỌC LÀM NGƯỜI.

“Sự vinh quang của người có học là được bà con bóc lột. Nếu không, thì học thức sẽ vô bổ, chẳng cần tích lũy kiến thức hay đào sâu suy nghĩ để tiêu hóa chúng làm gì. Tiếp theo là tìm mọi phương cách để đưa cái học đến được với thực tế cuộc sống” . “Sự hủy hoại nông thôn bắt đầu như thế, từ chuyển dịch sức lao động. Tiếc thay, chẳng một chút vốn công nghệ nào được người Việt làm chủ. Điều ấy, cho thấy Bộ Công Thương chỉ có khả năng “săp xếp bộ máy” cho con ta thăng quan, con sếp tiến chức, chứ không thể sản xuất nổi con vít. Toàn thể “công nhân” chỉ bán sức lao động rẻ và bị ức hiếp, bóc lột vô chừng dưới tay chủ nước ngoài. Hy sinh nghề nông rồi đất nước được gì hơn ? Gần đây, một Gíao sư Nhật được mời tư vấn, đã tỏ bày đề nghị cho kế hoạch kinh tế đến năm 2035 của Việt Nam, cũng chỉ là phát triển nông nghiệp hiện đại. Một nền nông nghiệp sinh thái, bảo vệ được môi sinh là không xa lạ với nhà nông chúng ta, nhưng để làm được việc dễ nhất – thực phẩm ngon lành, giá cả phải chăng – thì cũng phải dọn dẹp đi trong bộ máy này, đất nước này những thứ rác bẩn đã kể trước”.“Phụng sự xã hội” là bài viết của anh Đoàn Nam Sinh quá đắng và thật khác so với ý của Phó Thủ tướng: Thu nhập bình quân hộ nông dân đã đạt 97 triệu đồng đăng trên báo Dân Trí ngày 25/8/2016 và gợi lại ý kiến của ông Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng: Hiện là lúc kinh tế Việt Nam đang cho thấy có những chuyển dịch các nguồn lực “Không qua 2 vấn đề khó khăn, Việt Nam sẽ thành nền kinh tế thất bại“. Trang VietNamNet ngày 29/8/2016 với tiêu đề Tầm nhìn quá xa, mục tiêu quá nhiều: Việt Nam thua cả châu Phi

Việt Nam để trở thành nước công nghiệp vào 2020 hầu hết các mục tiêu được thừa nhận rất khó đạt được. Chính sách phát triển công nghiệp của Việt Nam được xem là quá nhiều ưu tiên không có trọng điểm. Ông Dương Đình Giám, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, nguyên Viên trưởng Viện chính sách công nghiệp, Bộ Công thương đề xuất Việt Nam nên trở thành nước cung cấp các sản phẩm nông sản và nông sản chế biến chất lượng cao với một số thương hiệu mạnh tầm khu vực và thế giới. Đồng thời, phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan tới nông nghiệp với ưu tiên cơ khí nông nghiệp, cơ khí hóa chất, cơ khí vận tải… Ông Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc Nghiên cứu của Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright lưu ý nên tham vấn khu vực tư nhân vì doanh nghiệp nhà nước hiện chỉ đóng góp 30% vào GDP.

Nông sản Việt Nam và các sản phẩm chế biến nông sản chất lượng cao có thương hiệu mạnh tầm khu vực và thế giới làm gì, ở đâu và khi nào để nông dân thực sự được hưởng lợi đổi đời? Tôi nói với anh Đoàn Nam Sinh: “Tui Hoàng Kim (đại học Nông Lâm) đang lắng nghe anh, nhưng thưa anh Đoàn Nam Sinh, thuốc anh đắng quá !”.

Đầu tư của nước ta đối với lĩnh vực nông nghiệp nông dân nông thôn chưa xứng tầm nên khoảng cách chênh lệch đời sống thành thị và nông thôn quá lớn. Tôi có giấc mơ Hoa Lúa. Thực tiễn là thước đo chân lý. Giá trị cuộc sống CHÍ THIỆN. Mục đích sau cùng của DẠY và HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc. Hãy là chính mình !

VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH những trang viết một thời, đọc lại và suy ngẫm
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-con-duong-xanh/
Hoàng Kim

“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẽo thơm một hột đắng cay muôn phần”

(Ca dao Việt)

LuaSieuXanhVietNam1

HOA LÚA BÙN HỘT LÚA HẠT GẠO
Hoàng Kim
tản văn và ảnh.

Tôi mắc nợ ý tưởng “Nấu cơm” của một người bạn nên hôm nay tạm đưa lên một hình để trả lời cho một mục trong chùm bài viết “Con đường lúa gạo Việt Nam”. Anh Nam Sinh Đoàn viết như vầy: “Ngoài đồng giống lúa không thuần, nhà nông lười khử giống bị lẫn, giống dại. Cộng với nhà lái mua vào để lẫn, hoặc cố tình pha lẫn lấy lời. Ai đời trộn lẫn hột dài với hột hơi tròn, gạo dẽo với gạo cứng cơm, gạo cũ với gạo mới,…Chính vì vậy mà nồi
cơm nào cũng chỗ nhão chỗ khô, hạt mềm nhẽo cạnh hạt còn tim bột.(Chưa kể phun thêm hương liệu, chất chống mốc mọt,…thay đổi cả đặc tính hạt gạo khi đun nấu). Nhiều năm làm lúa với anh Hồ Quang Cua, mới có dịp học hỏi về việc làm giống, giữ đặc trạng của từng giống, cách thức trồng trọt- thu hoạch- tồn trữ- xay xát- lựa lọc- bao bì,…cả chục việc đòi hỏi phải chắc tay. Thế mà khi thí nghiệm trên bàn của nhóm chuyên gia còn lòi ra bao thứ khác: thời gian ngâm, tỉ lệ nước, thời gian đun và cách đun nấu,… Ví dụ, với cùng một thứ gạo, nhưng có dòng nở ít, thì chỉ 70-71% nước. Loại nào nở cơm thì ngâm trước 15 phút, loại nở búp chỉ cần mươi phút là được. Lại còn tùy loại gạo, để ăn xào với rau, gia vị cho có màu mùi như kiểu châu Âu thì nấu bằng nồi hơi như nồi hong. Để còn làm cơm xào, cơm chiên thì chớ ngâm nhiệt, tức là ngâm gạo, đun nước vừa nóng chừng 50 độ hãy cho gạo vào theo đúng tỉ lệ, mới đạt yêu cầu. Câu nói: Cơm lành canh ngọt tưởng dễ mà khó thay
“.

Tôi (Hoàng Kim) trả lời: Thưa anh, xin hãy nhìn tấm ảnh, từ hạt gạo đến bát cơm chỉ là một phần ngắn trong chuỗi “hoa lúa, bùn, hột lúa, cây lúa, hạt gạo, bát cơm”. Hai khâu khó nhất và nhọc nhằn nhất là hoa lúa và bùn.

Mời trao đổi trên Face Book tại ĐÂY và đọc bài tiếp nối Từ Sắn Việt Nam đến Lúa Siêu Xanh https://hoangkimlong.wordpress.com/2016/08/19/tu-san-viet-nam-den-lua-sieu-xanh/

— with Manh Tran Van, Khacthinh Do, Phuoc Nguyen Thanh, Chí Hiếu, Pham Sy Tan, Nam Sinh Đoàn, Phan Chi and Hoang Long at Sân Phượng Vỹ- Đh Nông Lâm Tphcm.

Chien luoc chon tao lua sieu xanh Vietnam

“Nấu cơm” của anh Nam Sinh Đoàn viết rất ngắn nhưng góc nhìn sâu sắc. Chúng ta rất cần thấu hiểu vòng tròn nhân quả: ‘hột lúa – cây lúa – hạt gạo- bát cơm’, nắm vững hai khâu then chốt ‘hoa lúa – bùn ngấu’ của chuỗi thức ăn quan trọng nhất đời người, học và hành kỹ từng khâu và khâu nào cũng phải chắc tay. Đường sống là con đường xanh hòa bình, con đường văn minh nhân loại. Việt Nam đưa công nghệ văn minh lúa nước vào môi trường xanh hòa bình góp sức cùng tri tuệ nhân loại lan tỏa con đường lúa gạo Việt Nam (lúa và cây trồng vật nuôi, công nghệ lúa cá thực phẩm khác đi theo cây lúa), khơi dậy sức dân, động lực cách mạng đông đảo của người dân nông thôn. Chừng nào người dân nông thôn chưa thay đổi được số phận của mình thì chừng đó bài toán kinh tế chưa khai mở được tiềm lực nông nghiêp nông dân nông thôn.

LuaSieuXanhVietNam3
LuaSieuXanh VietNam4

Bài và ảnh: Hoàng Long, Hoàng Kim

Bài viết mới trên CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
CNM365 bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
Secret Garden – Poéme

Vuonxuan

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter 

Video yêu thích
Giúp bà con cải thiện mùa vụ (Video Long Phu ở Lào)
KimYouTube

Việt Nam con đường xanh

Việt Nam con đường xanh Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Tiếp tục thực hiện những vấn đề lớn ở tầm mức mới với quyết sách mới https://youtu.be/BBgRlV3JqAQ

VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH
#Thungdung #Dạy và học #VietNamhoc #CLTVN #CNM365
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim

Toàn văn phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 6 của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Dạy và học trực tuyến Cây Lương thực Việt Nam lan tỏa thông tin Báo Dân tộc và Phát triển BĐT21:19, 09/10/2022: Sau 7 ngày (từ 3-9/10/2022) làm việc khẩn trương, nghiêm túc và đầy tinh thần trách nhiệm, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình đề ra và bế mạc sáng 9/10. Báo Dân tộc và Phát triển điện tử trân trọng giới thiệu tới bạn đọc toàn văn phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 6 (khóa XIII) của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. https://baodantoc.vn/toan-van-phat-bieu-be-mac-hoi-nghi-trung-uong-6-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-1665325146130.htm.

09-10-2022 Hội nghị Trung ương 6: Hoàn thành khối lượng công việc rất lớn, rất quan trọng và phức tạp

Theo dòng chính sử
VIỆT NAM TÂM THẾ MỚI

Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, Đường lối cách mạng của nước Việt Nam ngày nay thích hợp bền vững trong tình hình mới, thời đại mới, đã được Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đúc kết tinh hoa tại bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” xác định rõ đường lối, quan điểm, tầm nhìn chiến lược, cương lĩnh và kế hoạch hành động:“Đoàn kết ‘xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh’ như di nguyện của Bác Hồ kính yêu”; “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế (in đậm để nhấn mạnh HK); Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện“.

Thủ tướng: “Chuyển đổi số phải để người dân, doanh nghiệp hưởng lợi” | VTC Now 10 10 2022 https://youtu.be/8KXsluEoeX4

VTV1 19 9 2022 Lúa Thoại Sơn An Giang

HỌC CÔNG BỐ QUỐC TẾ
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim

dự giảng tập huấn ngày 28 thg 6, 2022 Nền tảng về công bố quốc tế, Video bài giảng trực tuyến https://youtu.be/Yi32ULnuTKg VIE-ISSH Fundamentals of Fublishing; bấm vào đây để xem và tiếp nhận trực tiếp tài liệu PDF tiếng Việt

Kim Notes lắng ghi chú

Học Công bố Quốc tế
Việt Nam con đường xanh
Chuyển đổi số nông nghiệp
Giống sắn KM419 và KM440
Sự thật tốt hơn ngàn lời nói

CNM365 TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
Chuyên mục và tiêu điểm
Phú Yên nôi lúa sắn
Giống sắn KM419 và KM440, nền tảng bảo tồn và phát triển
GIỐNG SẮN PHÚ YÊN GIẢI PHÁP SÁNG TẠO CÔNG NGHÊ
Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long, Nguyễn Đình Phú, Nguyễn Trọng Tùng, Nguyễn Văn Minh và đồng sự.

Giống sắn KM568, KM539, KM440 đang thể hiện sự vượt trội trên ruộng sắn Đồng Xuân Phú Yên, hình ảnh và thông tin ngày 29 tháng 9 năm 2022. Đây là kết quả bước đầu của nội dung 1 “Nâng cấp cải tiến giống sắn chủ lực thương mại KM419, KM440 bằng cách hồi giao với KM539, KM537, KM534, KM94” thuộc nhiệm vụ khoa học thực tiễn cấp bách: ”Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên“; xem tiếp Bảo tồn và phát triển sắn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/ và Giống sắn KM419 và KM440 https://hoangkimlong.wordpress.com/category/giong-san-km419-va-km440 và Phú Yên nôi lúa sắn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/phu-yen-noi-lua-san/

SỰ THẬT TỐT HƠN NGÀN LỜI NÓI
Hoàng Kim

Việt Nam con đường xanh
Chung sức trên đường xuân
Vui đi dưới mặt trời
Sự thật tốt hơn ngàn lời nói
xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/su-that-tot-hon-ngan-loi-noi/

Giống sắn KM568 trên ruông nông dân Phú Yên (giữa) rất sạch bệnh khảm lá virus (CMD) và bệnh chồi rồng CWBD, bên trái phía sau là giống sắn chủ lực sản xuất KM419 cũ nhiều và đồng đều nhưng nhiễm bệnh CMD mức 3,5; bên phải phía sau là giống chủ lực thương mại KM440 kháng bệnh CMD cấp 2 và CWBD cấp 1,5. Giống sắn KM568 là kết quả đề tài nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất của tỉnh Phú Yên.

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/

GIỐNG SẮN KM419 VÀ KM440
Nguyễn Thị Trúc Mai,
Hoàng Kim, Hoàng Long và cộng sự.

Thông tin tiến bộ mới Chọn giống sắn kháng CMD; Chọn giống sắn Việt Nam Giống sắn KM419 và KM440 Sự thật tốt hơn ngàn lời nói xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/giong-san-km419-va-km440/

Bài tổng hợp tóm tắt này cập nhật thông tin nghiên cứu và giảng dạy sắn dùng trong nhà trường và làm tài liệu khuyến nông. Bài viết này kèm theo sáu video sắn liên quan: 1) Giống sắn KM440 Phú Yên, rất ít nhiễm bệnh CMD, tại xã Hòa Thịnh, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên ngày 17 6 2022 https://youtu.be/oXEF0RpZIo8 2) Thu hoạch sắn ở Phú Yên Cassava varieties KM419 and KM440 https://youtu.be/XDM6i8vLHcI.; 3) Thu hoạch giống sắn KM440 ở tỉnh Tây Ninh https://youtu.be/kjWwyW0hkbU 4) Tây Ninh hướng tới thâm canh sắn bền vững (Cassava in Vietnam: Save and Grow) https://youtu.be/XMHEa-KewEk; 5) Phú Yên nôi lúa sắn trích Thông tin Sở Khoa học và Công nghệ Phú Yên, Hội nghị tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ Phú Yên giai đoạn 2016-2020; Định hướng phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2025 https://youtu.be/CKdEr4aS2NA 6) Cách mạng sắn Việt Nam (The cassava revolution in Vietnam) https://youtu.be/81aJ5-cGp28; Giống sắn KM419 và KM440 cho đến thời điểm này (tháng 6 năm 2022) vẫn tiếp tục chiếm diện tích lớn áp đảo, chứng tỏ ưu thế vượt trội trên quy mô trồng và tiêu thụ sắn tại Việt Nam, bất chấp áp lực nặng của bệnh CMD và CWBD; Giống sắn KM440 (đột biến từ KM94) được nhiều hộ nông dân ưa thích và tự nhân giống. “Kẻ sống sót không phải là kẻ mạnh nhất hay thông minh nhất, mà là kẻ thích nghi tốt nhất” Charles Darwin đã nói vậy: “It is not the strongest of the species that survives, nor the most intelligent that survives. It is the one that is most adaptable to change” Bảo tồn và phát triển bền vững, thích nghi để tồn tại là câu chuyện sắn hôm nay KM419, KM440, KM568, KM569, C39, KM397 (phát triển từ SM937-26) https://hoangkimlong.wordpress.com/category/giong-san-KM419-va-KM440/Trồng sắn giống mới giúp nông dân ở Đức Bình Đông thoát nghèo https://baodantoc.vn/trong-san-giong-moi-giup-nong-dan-o-duc-binh-dong-thoat-ngheo-1628131987570.htm

1) Giống sắn KM419 và KM440 ở Việt Nam hiện nay là phổ biến nhất, sau cả áp lực nặng của bệnh khảm lá virus CMD và bệnh chổi rồng CWBD. https://youtu.be/XDM6i8vLHcIhttps://youtu.be/kjWwyW0hkbU . Chúng tôi khuyên nông dân trồng các loại giống sạch bệnh KM419, KM440, KM140, KM98-1, KM568, KM535, KM537, KM569, KM536, KM534, C39, C36, C97, HN1 (TMEB419), KM94 (đ/c), tiếp tực được khảo nghiệm nghiêm ngặt DUS và VCU và đánh giá sức lan tỏa chấp nhận của sản xuất thị trường. Sắn Việt Nam bảo tồn và phát triển bền vững (Hình 1); xem tiếp   https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/https://hoangkimlonghoanggia.blogspot.com/2021/11/cassava-news-136-vietnamese-cassava.htmlhttps://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=769151464263553&id=100035061194376

Giống sắn KM440 Phú Yên, rất ít nhiễm bệnh CMD, tại Hòa Thịnh, Tây Hòa 17 6 2022 https://youtu.be/oXEF0RpZIo8 xem thêm Bảo tồn phát triển sắn
Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long và đồng sự 2021 https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/

2) Mười kỹ thuật thâm canh sắn được đúc kết thành quy trình canh tác thích hợp, hiệu quả đối với điều kiện sinh thái của địa phương (Hình 2) là giải pháp tổng hợp để nâng cao giá trị và sức cạnh tranh cây sắn. Mười kỹ thuật này bao gồm: 1) Sử dụng hom giống sắn tốt nhất của giống sắn thích hợp nhất; 2) Thời gian trồng tốt nhất và thời điểm thu hoạch tối ưu để đạt năng suất tinh bột tối đa và hiệu quả kinh tế; 3) Bón phân NPK kết hợp phân hữu cơ vi sinh và phân chuồng để cải thiện độ phì đất và tăng năng suất; 4) Khoảng cách trồng tối ưu cho giống sắn tốt nhất và thích hợp loại đất; 5) Ngăn chặn sâu bệnh hại bằng phòng trừ tổng hợp IPM; 6) Trồng xen sắn với lạc, cây họ đậu; trồng băng cây đậu phủ đất, luân canh thích hợp nhất tại địa phương; 7) Dùng thuốc diệt cỏ, tấm phủ đất để kiểm soát cỏ dại kết hợp bón thúc sớm và chuyển vụ; 8) Kỹ thuật làm đất trồng sắn thích hợp để kiểm soát xói mòn đất; 9) Phát triển hệ thống quản lý nước cho canh tác sắn; 10) Đào tạo huấn luyện bảo tồn phát triển sắn bền vững, sản xuất kết hợp sử dụng sắn; xây dưng chuỗi sản xuất tiêu thụ sắn hiệu quả thích hợp. Quy trình canh tác sắn này của Việt Nam đã được công bố tại Hội thảo Cây Có Củ Thế Giới tổ chức tại Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc ngày 18 tháng 1 năm 2016 (Le Huy Ham et al. 2016) [23]  

3) Xây dựng vườn tạo dòng của 5 tổ hợp sắn lai ưu tú nhất của tiến bộ di truyền hiện nay trong nguồn gen giống sắn tuyển chọn Thế giới và Việt Nam (Hình 3) là giải pháp căn bản, trọng tâm, thường xuyên và lâu dài để xây dựng tiềm lực khoa học chọn giống sắn tại vùng sắn trọng điểm, đi đôi với việc đào tạo nguồn nhân lực, tạo sản phẩm nổi bật, nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của cây sắn ở mức quốc gia và khu vực.

4) Ứng dụng công nghệ nâng cao chuỗi giá trị nông nghiệp (Technological application enhances agriculture value chain), đặc biệt chú trọng giống sắn và vùng nguyên liệu và truyền thông Chuyển đổi số nông nghiệp kết nối thị trường  https://vtv.vn/video/bizline-15-3-2020-427424.htm.và https://youtu.be/XMHEa-KewEk

5) Bảo tồn và phát triển hệ thống sản xuất tiêu thụ sắn thích hợp bền vững: Gắn vùng giống sắn tốt, có năng suất tinh bột cao, kháng các bệnh hại chính CMD, CWBD, với các doanh nghiệp nhà nông, phục vụ nông nghiệp; Liên kết hổ trợ nông dân tổ chức sản xuất kinh doanh sắn theo chuỗi giá trị sắn; Đa dạng hóa sinh kế, gắn cây sắn với các cây trồng và vật nuôi khác; Tăng cường năng lực liên kết tiếp thị; có các chính sách hỗ trợ cần thiết.

THÀNH TỰU VÀ BÀI HỌC SẮN VIỆT NAM

Cách mạng sắn Việt Nam https://youtu.be/81aJ5-cGp28, là điểm sáng toàn cầu được vinh danh tại Hội thảo Cây Có Củ Thế Giới tổ chức tại Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc từ ngày 18 đến ngày 22 tháng 1 năm 2016. Sắn Việt Nam giai đoạn 2016-2021 tóm tắt đánh giá thực trạng sắn về điểm mạnh, điểm yều, cơ hội, thách thức (SWOT) trong bối cảnh dịch bệnh sắn CMD và CWBD, khái quát những điểm chính sau:

Bối cảnh dịch bệnh sắn CWBD và CMD

Dịch bệnh chồi rồng (CWBD) gây hại sắn Việt Nam rãi rác từ năm 2005-2008, và bùng phát thành dịch bệnh ở Quảng Ngãi năm 2009 (Báo Nhân Dân 2009) [1], Dịch bệnh này sau đó trở nên nghiêm trọng ở Việt Nam, chủ yếu trên giống sắn KM 94. Năm 2008, giống sắn KM94 là giống sắn chủ lực Việt Nam có diện tích thu hoạch chiếm 75, 54% tổng diện tích sắn Việt Nam (Hoang Kim Nguyen Van Bo et al. 2011) [10]. Đến năm 2016, tỷ trọng diện tích thu hoạch giống sắn KM94 chiếm 31,8 %, trong khi giống sắn KM419 chiếm 38%. (RTB Newsletter 2016. Assessment reveals that most cassava grown in Vietnam has a CIAT pedigree) [25]. Năm 2019, giống sắn KM419 chiếm trên 42% tổng diện tích sắn toàn Việt Nam. Nguyên nhân của sự chuyển dịch này là do giống sắn KM94 cây cao, mật độ trồng thưa (10.000 -11.000 cây/ ha), thời gian sinh trưởng dài, nhiễm nặng (cấp 4) bệnh chổi rồng. Giống sắn KM419, cây thấp, mật độ trồng dày (14.500 cây/ha), thời gian sinh trưởng ngắn, nhiễm nhẹ bệnh chổi rồng (cấp 1), năng suất tinh bột vượt KM94 khoảng 29%.

Bệnh virus khảm lá (CMD) gây hại ban đầu từ tỉnh Tây Ninh (2017) lan rộng trên 15 tỉnh thành Việt Nam (2018) và 18 tỉnh thành Việt Nam (2019) gây hại nghiêm trọng  trên giống sắn HLS11. Chương trình sắn Quốc tế ACIAR, CIAT kết nối Mạng lưới sắn toàn cầu GCP21 và các chương trình sắn Quốc gia gồm Căm pu chia, Lào, Thái Lan, Việt Nam, tại Hội nghị sắn Quốc tế lần thứ IV, ngày 11-15 tháng 6 năm 2018 tại Benin, và  Hội thảo sắn khu vực ngày 18 tháng 9 năm 2018 tại Phnôm Pênh, Campuchia và Tây Ninh Việt Nam  đã báo cáo tình trạng dịch bệnh virus khảm lá sắn (CMD) gần đây ở Đông Nam Á và phối hợp chiến lược phòng trừ dịch bệnh CMD. Những kết quả giám sát dịch bệnh đã được đúc kết thông tin tại Hội thảo sắn Quốc tế tại Lào (2019), Ấn Độ (2021) xem tiếp Sắn Việt Nam ngày nay https://hoangkimlong.wordpress.com/category/san-viet-nam-ngay-nay

Thành tựu sắn Việt Nam

Sắn Việt Nam ngày nay đã là một ngành xuất khẩu đầy triển vọng. Ở Việt Nam, sắn là cây lương thực với diện tích hơn nửa triệu ha và giá trị xuất khẩu hơn một tỷ đô la Mỹ mỗi năm. Cách mạng sắn Việt Nam https://youtu.be/81aJ5-cGp28, với sự tham gia của hàng triệu nông dân trồng sắn Việt Nam, đã thực sự đạt được sự chuyển đổi to lớn cây sắn và ngành sắn về năng suất, sản lượng, giá trị sử dụng, hiệu quả kinh tế, thu nhập thực tế, sinh kế, việc làm và bội thu giá trị lao động sống ngành sắn cho hàng triệu người dân trên toàn quốc. Sắn Việt Nam ngày nay đã và đang tiếp tục làm cuộc cách mạng xanh mới.tiếp tục lan tỏa thành quả điển hình của sắn thế giới khi nhiều hộ nông dân tại nhiều vùng rộng lớn ở Tây Ninh đã tăng năng suất sắn trên 400%, từ 8,35 tấn/ ha năm 2000 lên trên 36,0 tấn/ ha. (FAO, 2013b). Năng suất sắn Việt Nam bình quân cả nước từ năm 2009 đến nay (2021) đã đạt trên gấp đôi so với năng suất sắn năm 2000. Điển hình tại Tây Ninh, từ năm 2011 năng suất sắn đã đạt bình quân 29,0 tấn/ ha trên diện tích thu hoạch 45,7 nghìn ha với sản lượng là 1,32 triệu tấn, so với năm 2000 năng suất sắn đạt bình quân 12,0 tấn/ ha trên diện tích thu hoạch 8,6 nghìn ha, sản lượng 9,6 nghìn tấn. Sắn lát và tinh bột sắn Việt Nam đã trở thành một trong mười mặt hàng xuất khẩu chính. Sắn Việt Nam đã thành nguồn sinh kế, cơ hội xóa đói giảm nghèo và làm giàu của nhiều hộ nông dân, hấp dẫn sự đầu tư của nhiều doanh nghiệp chế biến kinh doanh; Thông tin tại “Cassava conservation and sustainable development in Vietnam” (Hoàng Kim et al. 2018, 2015) [7], Trong sách: Sản xuất sắn bền vững ở châu Á đối với nhiều mục đích sử dụng và cho nhiều thị trường. Reihardt Howeler (biên tập) và nhiều tác giả, CIAT 2015. Sách Vàng nghề sắn)

Sắn Việt Nam ngày nay thành tựu nổi bật

Thành tựu sắn Việt Nam thể hiện trên 6 điểm chính :1) Giống sắn chủ lực và phổ biến ngày nay ở Việt Nam; 2) Quy trình canh tác sắn thích hợp tại mỗi điều kiện sinh thái nền tảng phát triển trên 3) Mười kỹ thuật thâm canh sắn;4) Hệ thống sản xuất chế biến tiêu thụ sắn;  5) Hệ thống giáo dục đào tạo và khuyến nông; 6) Hệ thống quản lý nhà nước, hổ trợ liên kết chuỗi giá trị ngành hàng sắn và xây dựng nông thôn mới

1) Giống sắn chủ lực và phổ biến ở Việt Nam ngày nay là KI419 và KM140, trong khi chờ đợi các giống sắn mới tích hợp gen kháng bệnh CMD được khảo nghiệm (Báo Nhân Dân 2020 dẫn kết luận của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn,: các giống đối chứng tốt nhất hiện trồng tại Tây Ninh là KM419 và KM140 có năng suất 44-48 tấn/ha https://nhandan.vn/chuyen-lam-an/tim-ra-giong-san-khang-benh-kham-la-625634/ ); xem tiếp [11] Chọn giống sắn Việt Nam, https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-viet-nam/

2) Mười kỹ thuật thâm canh sắn bảo tồn và phát triển sắn bền vững; Cây sắn Việt Nam ngày nay, giải pháp chủ yếu ngăn chặn lây lan dịch bệnh CWBD và CMD là phòng trừ tổng hợp: sử dụng giống sắn KM419, KM440, KM397, KM140, KM98-1, … ít nhiễm bệnh hơn so với KM94 và dùng nguồn giống sạch bệnh; vệ sinh đồng ruộng, tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời; diệt rầy lá, rầy thân, nhện đỏ, rệp sáp và các loại côn trùng lây lan bệnh; cần chăm sóc sắn tốt, bón phân và làm cỏ 3 lần để tăng sức đề kháng cho cây, bố trí mùa vụ thích hợp để hạn chế dịch hại; tiêu hủy nguồn bệnh kịp thời khi bệnh xuất hiện. [11]  https://hoangkimlong.wordpress.com/category/muoi-ky-thuat-tham-canh-san/

3) Hệ thống sản xuất chế biến tiêu thụ sắn Việt Nam ngày nay là khá tốt và năng động, có nhiều điển hình doanh nghiệp chế biến kinh doanh giỏi, hiệu quả;

4) Hệ thống giáo dục đào tạo và khuyến nông, dạy và học cây sắn đã tập huấn kỹ thuật, bổ sung tăng cường nguồn lực kỹ thuật, khoa học, công nghệ thích hợp cho ngành sắn.

5) Hệ thống quản lý nhà nước, hổ trợ liên kết chuỗi giá trị ngành hàng sắn, phát triển nông thôn mới,đã có sự liên kết chương trình sắn liên vùng, hợp tác quốc tế với sự sâu sát thực tiễn và hiệu quả. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã có công văn cấm sử dụng giống sắn HLS11 mẫn cảm bệnh virus khảm lá CMD; Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn, Cục Bảo vệ Thực vật số 1068/ BVTV TV ngày 3 tháng 5 năm 2019 đã xác định “V/v sử dụng giống sắn KM419 trong sản xuất” ghi rõ.“Việc hướng dẫn nông dân mua giống sắn KM419 sạch bệnh là giải pháp an toàn, kinh tế nhất so với thực trạng nhiễm bệnh khảm lá sắn hiện nay”. Chương trình sắn Quốc tế ACIAR CIAT cũng xác định giống sắn KM98-1 canh tác phổ biến nhất ở Lào.

6) Sắn Việt Nam chuyển đổi số đã tích lũy chuyển đổi số, liên kết hổ trợ người dân,  Cách mạng sắn Việt Nam https://youtu.be/81aJ5-cGp28, Chọn giống sắn Việt Nam; Lúa sắn Cămpuchia và Lào; Lúa sắn Việt Châu Phi; Sắn Việt Nam bài học quý; Sắn Việt Nam sách chọn; Sắn Việt Nam và Kawano; Sắn Việt Nam và Howeler; Sắn Việt và Sắn Thái; Quản lý bền vững sắn châu Á; Cassava and Vietnam: Now and Then; …

Bài học sắn Việt Nam

Sắn Việt Nam thành tựu và bài học (Vietnam cassava achievement and learnt lessons)  [8] đã đúc kết ba bài học Cassava in Việt Nam http://cassavaviet.blogspot.com/ (Hoang Kim, Pham Van Bien et al. 2003, Hoang Kim et al. 2013) bao gồm:

Bài học một: 6 M.  1) Man Power Con người  2) Market Thị trường 3) Materials Giống mới, Công nghệ mới 4) Management Quản lý và Chính sách 5) Methods Phương pháp tổ chức thực hiện 6) Money Tiền.

Bài học hai: 10 T  1) Thử nghiệm (Trials); 2) Trình diễn (Demonstrations); 3) Tập huấn (Training); 4) Trao đổi (Exchange); 5)Thăm viếng (Farmer tours); 6) Tham quan hội nghị đầu bờ (Farmer field days); 7) Thông tin tuyên truyền (Information, propaganda; 8) Thi đua (Competition); 9) Tổng kết khen thưởng (Recognition, price and reward); 10) Thành lập mạng lưới nông dân giỏi (Establish good farmers’ network.

Bài học ba: 1F Nông dân tham gia nghiên cứu (Farmer Participatory Research – FPR)

Sắn Việt Nam ngày nay có thêm hai bài học nối tiếp

Bài học bốn “Nhận diện rủi ro bất cập”

1)     Quản lý dịch bệnh hại và giống sắn. Giải pháp giám sát sự lây lan bệnh CMD lúc đầu còn lúng túng chậm trễ. Việc hủy bỏ giống HLS11.cây cao, vỏ củ nâu đỏ, bệnh CMD mức 5 rất nặng) vì sự lẫn giống đã giảm nhân giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao, cây thấp, vỏ củ xám trắng, nhiễm  bệnh virus  khảm lá CMD mức 2-3 (Hình 4, 5). Sản xuất sắn Tây Ninh lẫn giống sắn chưa có nguồn gốc lý lịch đặc điểm giống phù hợp và thiếu hồ sơ chọn tạo [2] trong khi các giống sắn KM440, KM140, đã có đủ hồ sơ gốc DUS và VCU (Hoang Kim et al. 2018; 2015 [7];  Trần Công Khanh [25], Hoàng Kim và đồng sự 2007, 2010 [27], Nguyễn Thị Trúc Mai 2017[11, 12,13, 14, 15], Nguyễn Bạch Mai 2018 [16] Hoàng Long [17,18,19])  

2)     Bảo vệ đất rừng, đất dốc trồng sắn và xử lý thực tiễn các vấn đề liên quan kỹ thuật canh tác sắn. Sách sắn “Quản lý bền vững sắn châu Á từ nghiên cứu đến thực hành” của tiến sĩ Reinhardt Howeler và tiến sĩ Tin Maung Aye, người dịch Hoàng Kim, Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Bạch Mai [ 20, 21] gồm 13 chương có chương 12 “Làm thế nào để chống xói mòn đất” đã đề cập chi tiết kỹ thuật canh tác trên đất dốc trồng sắn; chương 6 “Sâu bệnh hại sắn và cách phòng trừ” có hướng dẫn biện pháp phòng trừ tổng hợp đối với bệnh CWBD, CMD, trọng điểm là sử dụng hom giống sạch bệnh của giống kháng và giống chống chịu CWBD, CMD kết hợp sự tiêu hủy nguồn bệnh và kiểm dịch thực vật nghiêm ngặt . Sách này là cẩm nang nghề sắn “thay cho những lời khuyên tốt nhất hiện có về kỹ thuật canh tác sắn sau hơn 50 năm kinh nghiệm thực tiễn kết hợp nghiên cứu và làm việc với nông dân để thấu hiểu những thách thức thực tế cuộc sống và cơ hội mà họ phải đối mặt”.

3)     Chế biến kinh doanh sắn Các nhà máy ethanol Việt Nam đầu tư lớn và lỗ; Nhà máy ethanol hoạt động khó khăn. Trong khi trên thế giới ngày nay, cạnh tranh nhiên liệu thực phẩm thức ăn chăn nuôi và các tác động tiềm tàng đối với các hệ thống canh tác năng lượng – cây trồng quy mô nhỏ, đã có rất nhiều sáng tạo tiến bộ khoa học công nghệ mới (John Dixon, Reinhardt Howeler et al. 2021). Sắn Nigeria sản lượng 52,4 triệu tấn năng suất sắn chỉ đạt 14,02 tấn/ha (thấp hơn sắn Việt Nam) nhưng từ năm 2011 đã có thành tựu “bếp cồn sắn” cho toàn quốc, dành được lượng lớn xăng dầu cho xuất khẩu.

4)     Quản lý vĩ mô ngành hàng sắn còn bất cập đặc biệt là trong  dịch bệnh Covid19

Bài học năm: Bảo tồn sắn và phát triển bền vững Câu chuyện Sắn Việt Đất Ông Hoàng https://hoangkimlong.wordpress.com/category/san-viet-dat-ong-hoang/ giới thiệu bài học lịch sử “Trại Chăn nuôi Suối Dầu Cam Lâm năm 1993 đã là nôi khảo nghiệm nhân giống sắn KM94, SM937-26 ra Khánh Hòa và các tỉnh miền Trung Việt Nam sau hơn nữa thế kỷ từ năm 1943 mà bác Năm Yersin mất. Chị Đinh Thị Dục, giám đốc Trung tâm Khuyến Nông và Khuyến Lâm Khánh Hòa đã phối hợp Chương trình Sắn Việt Nam (VNCP) công bố kết quả này tại sách sắn ”Chương trình sắn Việt Nam hướng đến năm 2000″ trang 239 – 243. Giống sắn KM94 đã loang nhanh khắp miền Trung và Việt Nam, thành giống sắn chủ lực Việt Nam. Giống sắn SM937-26 sau gần 30 năm (1994-2022) nay vẫn là một trong những nguồn lợi chính cho bao người dân ở tỉnh Khánh Hòa. Ngày 25 tháng 4 năm 2022, đề tài “Một số giống cây trồng, vật nuôi đạt hiệu quả kinh tế phù hợp trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa” do tiến sĩ Nguyễn Thanh Phương, nguyên Phó Viện Trưởng Viện Khoa học Nông nghiệp Duyên hải Nam Trung Bộ chủ trì thực hiện, phối hợp cùng với Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn với các cơ quan hữu quan Khánh Hòa đã đánh giá thực trạng nguồn vật liệu giống cây trồng vật nuôi tốt của tỉnh Khánh Hòa. Đề tài xác nhận giống sắn SM937-26, KM7 (KM505) là giống sắn tốt nhất hiện nay trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa (Giống sắn SM937-26 tích hợp gen tốt thành KM397, tiếp tục tích hợp gen kháng thành giống sắn KM534 và bảo tồn phát triển thành giống sắn KM568) Phú Yên là điểm sáng điển hình; xem chi tiết các đường links và video chọn lọc tại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/muoi-ky-thuat-tham-canh-san/

PHÚ YÊN BẢO TỒN SẮN VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Phú Yên là điểm sáng điển hình, nôi bảo tồn sắn và phát triển bền vững ở Việt Nam. Giống sắn KM419 là giống sắn chủ lực và KM440 là một trong những giống sắn triển vọng nhất của sắn Việt Nam ngày nay. Hai giống có năng suất tinh bột cao, ít bệnh, là lựa chọn của đông đảo nông dân sau  áp lực nặng của bệnh khảm lá CMD và chổi rồng CWBD. https://youtu.be/XDM6i8vLHcIhttps://youtu.be/kjWwyW0hkbU

Sắn là cây trồng chủ lực của tỉnh Phú Yên với lúa và mía. Sắn Phú Yên có lợi thế đầu tư tái cơ cấu theo hướng gia tăng giá trị, sản xuất tập trung, quy mô lớn và bền vững hiện nay với tầm nhìn đến năm 2030. Tỉnh Phú Yên có hai nhà máy sản xuất tinh bột sắn ở Sông Hinh và Đồng Xuân hiện đã nâng cấp lên trên 670 tấn tinh bột/ngày Xây dựng vùng nguyên liệu sắn ổn định đạt năng suất cao, bền vững là nhu cầu sống còn của nhà máy, sinh kế và thu nhập chính của nông dân, nguồn lợi của ngân sách.

Quan tâm tiến bộ kỹ thuật cây sắn là trọng tâm kinh tế và an sinh xã hội tại địa phương. Việc nghiên cứu tuyển chọn, ứng dụng giống sắn mới và áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác tiến bộ có ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan trọng tại tỉnh Phú Yên, tạo hướng đi mới để thay đổi cách thức tổ chức sản xuất nông nghiệp, tìm cơ hội trong thách thức cho nông sản chủ lực của tỉnh.

Hiện nay giống sắn KM419 là giống chủ lực trong cơ cấu bộ giống sắn của tỉnh Phú Yên..”Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên” là sự tiếp nối của đề tài “Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao và kỹ thuật thâm canh tại tỉnh Phú Yên“ đã thành công.. Đề tài đã đạt giải Nhất Hội thi sáng tạo kỹ thuật lần thứ 8 (2018-2019). Năm 2020 tiến sĩ Nguyễn Thị Trúc Mai, là tác giả trong nhóm nghiên cứu của đề tài,  đã được tôn vinh “Nhà khoa học của nhà nông“, nhận Bằng khen và Cúp của Trung ương Hội Nông dân Việt Nam (Tạp chí Nông thôn mới 2021).

”Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên” là khâu đột phá cấp thiết và hiệu quả nhất (Kawano K (1995) [22] để tiếp nối sự bảo tồn và phát triển sắn bền vững.Nội dung nghiên cứu gồm 1) Cải tiến nâng cấp giống sắn chủ lực sản xuất KM419 (Thu hạt lai tạo dòng KM419 và C39, KM440, KM397, KM94; Xây dựng vườn tạo dòng 5 tổ hợp sắn lai ưu tú; Khảo sát tập đoàn 27 giống sắn tuyển chọn); Khảo nghiệm DUS giống sắn tác giả cho 7 giống sắn). 2) Tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao, chống chịu sâu bệnh hại chính, thích hợp điều kiện sản xuất của tỉnh Phú Yên (Khảo nghiệm cơ bản 7 giống sắn; Khảo nghiệm sản xuất 5 giống sắn) 3) Xây dựng mô hình trình diễn và thiết lập vùng giống sắn gốc các giống sắn tốt; Chuyển giao công nghệ mới về giống sắn, kỹ thuật chọn tạo giống sắn.

#CLTVN CHUYỂN ĐỔI SỐ NÔNG NGHIỆP
Tin nổi bật quan tâm Bảo tồn và phát triển sắn Giống sắn chủ lực KM419 https://www.facebook.com/TrucMa…/posts/5134183749930863…


Trúc Mai cùng với Van Quyen Mai29 người khác. 2 giờ  Thông tin ngày 18/11/2021: “Với mong muốn góp phần phát triển cây sắn bền vững, bảo vệ kết quả sản xuất người trồng sắn, hiện nay Trúc Mai đang thực hiện chuyển giao số lượng lớn giống sắn KM419 (còn gọi là Siêu bột, Cút lùn, Tai đỏ) và KM94 và hỗ trợ kỹ thuật MIỄN PHÍ. Quy cách giống: 20 cây/bó; độ dài tối thiểu 1,2m/cây, cây giống khỏe, HOÀN TOÀN SẠCH BỆNH (có thể giữ lá cây giống để kiểm tra bệnh khảm + các loại sâu bệnh khác).Địa điểm nhận giống: huyện Đồng Xuân, Phú Yên.Liên hệ Ts sắn TRÚC MAI: 0979872618. Đừng ngại thời tiết và giới tính .Giống sắn KM419 cây thấp gọn, dễ trồng dày, thân xanh thẳng, nhặt mắt, không phân cành, lá già xanh đậm, đọt non màu xanh, cọng xanh tím, số củ 8-12, củ to và đồng đều, dạng củ đẹp, thịt củ màu trắng, chịu hạn tốt.” Thông tin tích hợp tại #CLTVN xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cltvn/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/

Bài tổng hợp này dùng để giảng dạy sắn trong nhà trường và làm tài liệu khuyến nông, kèm theo ba video sắn Việt Nam: Cách mạng sắn Việt Nam (The cassava revolution in Vietnam) https://youtu.be/81aJ5-cGp28; Tây Ninh hướng tới thâm canh sắn bền vững (Cassava in Vietnam: Save and Grow) https://youtu.be/XMHEa-KewEk; Cassava varieties KM419 and KM440 https://youtu.be/XDM6i8vLHcI. Giống sắn KM419 cho đến thời điểm này (tháng 6 năm 2022) vẫn tiếp tục chiếm diện tích lớn áp đảo, chứng tỏ ưu thế vượt trội trên quy mô trồng và tiêu thụ sắn tại Việt Nam, bất chấp áp lực nặng của bệnh CMD và CWBD; Giống sắn KM440 (đột biến từ KM94) được nhiều hộ nông dân ưa thích và tự nhân giống. “Kẻ sống sót không phải là kẻ mạnh nhất hay thông minh nhất, mà là kẻ thích nghi tốt nhất” Charles Darwin đã nói vậy: “It is not the strongest of the species that survives, nor the most intelligent that survives. It is the one that is most adaptable to change” Bảo tồn và phát triển bền vững, thích nghi để tồn tại là câu chuyện sắn KM419, KM440, C39, KM397 và KM568 hôm nay. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/giong-san-KM419-va-KM440/

Việt Nam có tổng diện tích sắn thu hoạch năm 2018 là 513.000 ha, với năng suất sắn củ tươi bình quân 19,2 tấn/ ha, sản lượng sắn củ tươi 9,84 triệu tấn. Hai giống sắn chủ lưc KM419 và KM94 chiếm lần lượt 38% và 31,7% tổng diện tích sắn Việt Nam, là hai giống sắn thương mại phổ biến nhất Việt Nam thời điểm ấy. RTB Newsletter 2016. Assessment reveals that most cassava grown in Vietnam has a CIAT pedigree, http://www.rtb.cgiar.org/2016-annual-report/assessment-reveals-that-most-cassava-grown-in-vietnam-has-a-ciat-pedigree/. Nguồn gốc đặc điểm của giống sắn chủ lực Việt Nam ngày nay KM419 trong sự so sánh đánh giá với năm giống sắn phổ biến KM94, KM98-1, KM140, KM98-5, SM937-26 và nhận diện quy mô của sự chuyển đổi. Trong áp lực bênh virus khảm lá, bệnh chồi rồng, bệnh thối củ gây hại nặng, giống sắn KM419 và KM440 đã cho thấy rõ kết quả sau ba năm.

GIỐNG SẮN CHỦ LỰC KM419

Giống sắn KM 419 được chọn tạo từ tổ hợp lai BKA900 x KM 98-5. Giống do Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Yên, Trường Đại học Nông Lâm Huế tuyển chọn và giới thiệu (Hoàng Kim, Trần Ngọc Ngoạn, Nguyễn Thị Trúc Mai, Võ Văn Quang, Nguyễn Bạch Mai, Nguyễn Thị Lệ Dung, Nguyễn Phương, Hoàng Long, Nguyễn Minh Cường, Đào Trọng Tuấn, Trần Công Khanh, Nguyễn Minh Hiếu, Nguyễn Văn Bộ, Nguyễn Thị Cách, Nguyễn Trọng Hiển, Lê Huy Ham, H. Ceballos and M. Ishitani. (2016), Giống sắn KM419 đượcBộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận sản xuất thử tại Quyết định số 85 / QĐ-BNN-TT Hà Nội ngày 13 tháng 1 năm 2016 cho vùng sinh thái Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ).

Giống sắn KM419 là giống sắn chủ lực của Việt Nam có diện tích thu hoạch năm 2016 chiếm 38 % so với giống sắn KM94 chiếm 31,7% (RTB Newsletter 2016. Assessment reveals that most cassava grown in Vietnam has a CIAT pedigree), và từ năm 2019 giống sắn KM419 chiếm trên 42% tổng diện tích sắn toàn Việt Nam.

Giống KM419 có đặc điểm:

+ Thân xanh xám thẳng, ngọn xanh cọng đỏ, lá xanh đậm, không phân nhánh.
+ Năng suất củ tươi: 34,9-54,9 tấn/ha.
+ Tỷ lệ chất khô: 35,1- 39.0%.
+ Hàm lượng tinh bột: 27,8 – 30,7%.
+ Năng suất tinh bột: 10,1-15,8 tấn/ ha
+ Chỉ số thu hoạch: 62 %.
+ Thời gian thu hoạch: 7-10 tháng.
+ Nhiễm trung bình bệnh chồi rồng và bệnh khảm lá virus CMD
+ Cây cao vừa, nhặt mắt, tán gọn, thích hợp trồng mật độ dày 12,500- 14.000 gốc/ ha .

Giống sắn KM419 đã phát triển rộng rãi tại Tây Ninh, Đồng Nai, Đắk Lắk, Phú Yên,…được nông dân các địa phương ưa chuộng với tên gọi sắn giống cao sản siêu bột Nông Lâm. Đặc biệt tại tỉnh Phú Yên giống sắn KM419 được trồng trên 85% tổng diện tích sắn của toàn tỉnh mang lại bội thu năng suất và hiệu quả cao về kinh tế xã hội. Tại Tây Ninh, năm 2019 diện tích sắn bị nhiễm bệnh CMD tuy vẫn còn cao nhưng mức độ hại giảm mạnh, lý do vì KM419 và KM94 là giống chủ lực chiếm trên 76% diện tích mỗi vụ của toàn tỉnh (KM419 chiếm 45% ở vụ Đông Xuân và 54,2% ở vụ Hè Thu; KM94 chiếm 31% ở vụ Đông Xuân và 21,6% ở vụ Hè Thu). Tại Đăk Lắk, năm 2019 diện tích sắn KM419 chiếm trên 70% diện tích mỗi vụ của toàn tỉnh.

Sự bùng nổ về năng suất sản lượng và hiệu quả kinh tế sắn đã trùng hợp với sự xuất hiện, lây lan của các bệnh hại bệnh sắn nghiêm trọng. Đặc biệt bệnh khảm lá CMD do virus gây hại (Sri Lanka Cassava Mosaic Virus) lây lan rất nhanh và gây hại khủng hoảng các vùng trồng sắn. Tại Việt Nam, bệnh này được phát hiện vào tháng 5/2017 trên giống sắn HLS11, đến tháng 7/ 2019 bệnh đã gây hại các vùng trồng sắn của 15 tỉnh, thành phố, trên hầu hết các giống sắn hiện có ở Việt Nam. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Cục BVTV đã có văn bản 1068 ngày 9/5/2019 xác định “Việc hướng dẫn nông dân mua giống KM419 sạch bệnh là giải pháp an toàn, kinh tế nhất hiện nay” .

Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính (CMD, CWBD) phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên và vùng phụ cận (Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long và đồng sự 2021). Sử dụng giống sắn KM419 và KM440 năng suất tinh bột cao, ít bệnh CMD và bệnh chồi rồng (CWBD) để đưa thêm vào gen mục tiêu (C39) kháng bệnh https://youtu.be/XDM6i8vLHcI.

GIỐNG SẮN TRIỂN VỌNG KM440

Nguồn gốc: KM440 là giống sắn KM94 chiếu xạ hạt giống KM94 bằng tia Gamma nguồn Co 60, thực hiện trên 24.000 hạt sắn KM94 đã qua tuyển chọn đơn bội kép do nhóm nghiên cứu sắn Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hố Chí Minh (NLU) chủ trì chọn tạo giống (Hoàng Kim, Lương Thu Trà, Bùi Trang Việt, và ctv 2004. Ứng dụng đột biến lý học và nuôi cấy mô để tạo giống khoai mì có thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất củ tươi và hàm lượng tinh bột cao, phù hợp với việc né lũ của tỉnh An Giang. Uỷ ban Nhân dân Tỉnh An Giang, Sở Khoa học Công nghệ An Giang, Long Xuyên, An Giang, tháng 5/2004) sau đó tiếp tục cải tiến giống bằng phương pháp tạo dòng đơn bội kép (Hoàng Kim và ctv 2009).

Thông tin chi tiết về giống sắn KM440 xem tại “Mười kỹ thuật thâm canh sắn”, tài liệu học tập ở http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong/ và “Cây Lương thưc Việt Nam” (Hoàng Kim 2012) trích dẫn ở CÂY LƯƠNG THỰC “Mười kỹ thuật thâm canh sắn“, đường dẫn tại http://cayluongthuc.blogspot.com/2012/07/muoi-ky-thuat-tham-canh-san.html.

CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM . Mười kỹ thuật thâm canh sắn (Hoàng Kim 2012): 1) Sử dụng các giống sắn tốt có năng suất sắn lát khô và năng suất bột cao; 2 Hom giống sắn, bảo quản cây giống và kỹ thuật trồng;  3. Thời vụ trồng; 4. Đất sắn và kỹ thuật làm đất; 5. Dinh dưỡng khoáng và bón phân cho sắn; 6. Khoảng cách và mật độ trồng; 7. Trồng xen; 8. Chăm sóc và làm cỏ; 9. Phòng trừ sâu bệnh; 10. Thu hoạch, chế biến, kinh doanh khép kín

 

Đặc điểm giống: KM440 thân xanh, thẳng, nhặt mắt, không phân cành, lá già xanh đậm, đọt non màu xanh tím, củ đồng đều, dạng củ đẹp, thịt củ màu trắng, ít nhiễm sâu bệnh, năng suất củ tươi 40,5 đến 53,1 tấn/ha. Hàm lượng bột đạt từ 27,0 -28,9%,. giống ngắn ngày, thời gian giữ bột sớm hơn KM94. 

Chọn tạo và phát triển 1-2 các giống sắn mới trong phả hệ các giống sắn triển vọng KM568, KM537, KM536, KM535, KM534 trên nền di truyền của các giống sắn KM419 và KM440 là nội dung nghiên cứu quan trọng “Chọn giống sắn kháng CMD * rất cấp thiết, có tính khả thi cao, tính mới cao, kế thừa và phát triển bền vững giống sắn ở Việt Nam tốt nhất hiện nay. xem tiếp Giống sắn KM419 và KM440 https://hoangkimlong.wordpress.com/category/giong-san-km419-va-km440/

TIN NỔI BẬT QUAN TÂM

Nghị định 57/2018 / ND-CP Thủ tướng Việt Nam khẳng định tầm nhìn, cơ chế, chính sách mới nhằm khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn Theo đó, trục sản phẩm chính nhắm đến các sản phẩm chính quốc gia. Chuỗi giá trị sản phẩm chính ở cấp tỉnh cần đủ lớn, liên kết các vùng nguyên liệu thô với thương hiệu, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao và đào tạo nguồn lực. Hội nghị trực tuyến toàn quốc và triển lãm Việt Nam Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã định hướng chiến lược chuyển đổi: “Nền nông nghiệp Việt Nam cần chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa cạnh tranh quốc tế”. Câu hỏi của Thủ tướng: Chúng ta đứng top 15 nước về nông nghiệp được không? “Thành tích thì chúng ta hoan nghênh, nhưng lạc hậu, chậm hơn nông nghiệp một số nước trong khu vực, nhất là so sánh với Thái Lan thì phải suy nghĩ rất nhiều. Campuchia xây dựng thương hiệu còn tốt hơn chúng ta”. Nghịch lý: Top đầu thế giới nhưng được hưởng phần ít nhất. (Báo VietNamNet điện tử, ảnh và trich dẫn kèm theo). xem tiếp Tin nổi bật quan tâm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tin-noi-bat-quan-tam/

ĐỌC LẠI VÀ SUY NGẪM

Chủ tịch Hồ Chí Minh với nước Việt Nam mới . Chủ tịch Hồ Chí Minh có những câu nói thật thấm thía: “Nay, tôi chỉ có một tin tưởng vào Dân tộc độc lập. Nếu (tôi) cần có đảng phái thì sẽ là Đảng dân tộc Việt Nam. Đảng đó sẽ chỉ có một mục đích làm cho dân tộc ta hoàn toàn độc lập. Đảng viên của đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô ra ngoài”. “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui. Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ǎn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chǎn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi.“. Chủ tịch Hồ Chí Minh thời trẻ tuy khâm phục Đề Thám, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào cả. Theo quan điểm của ông, Phan Châu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải cách, điều đó chẳng khác nào “xin giặc rủ lòng thương”, còn Phan Bội Châu thì hy vọng Đế quốc Nhật Bản giúp đỡ để chống Pháp, điều đó nguy hiểm chẳng khác nào “đuổi hổ cửa trước, rước báo cửa sau”. Nguyễn Tất Thành thấy rõ là cần quyết định con đường đi của riêng mình; Chủ tịch Hồ Chí Minh trước khi đoàn đàm phán Hội nghị Pari lên đường, đã căn dặn phái đoàn: đừng để nước Mỹ bẽ bàng, đừng xúc phạm nhân dân Mỹ vì Việt Nam chỉ chiến đấu với giới cầm quyền hiếu chiến của Mỹ, về nguyên tắc quyết không nhượng bộ song về phương pháp thì “dĩ bất biến, ứng vạn biến”; Di chúc của Hồ Chí Minh là một di sản quốc bảo vô giá để Xây đựng một nước Việt Nam hoà bình thống nhất độc lập dân chủ và giàu mạnh“Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng nghĩa lý gì”

Dân tộc Việt Nam trong mắt của cựu ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger: Việt Nam là một quốc gia đặc biệt, một dân tộc đặc biệt, vì vậy cựu ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger trong một buổi nói chuyện tại nhà riêng với tổng thống Mỹ Donald Trump năm 2018, đã nói với tổng thống Mỹ là “Nước Mỹ nên có một mối quan hệ đặc biệt đối với Việt Nam, không nên lôi kéo để gần gũi họ, mà nên tôn trọng quyền tự quyết của họ, tạo niềm tin và sự tôn trọng với họ. Henry Kissinger nhận xét: ” Dân tộc Việt có tinh thần cảnh giác rất cao độ đối với những nước lớn, họ sợ gần gũi rồi lôi kéo mua chuộc làm mất an ninh quốc gia họ, ngay như Trung Quốc ở ngay bên cạnh nhưng trong suốt cuộc chiến tranh với Mỹ họ vẫn đề phòng mọi hành động của Trung Quốc do vậy mà năm 1978 tại Campuchia và biên giới phía Bắc1979 họ đã không bị động bất ngờ. Nước Mỹ không nên tạo mối ác cảm thù địch với họ, vì như chúng ta biết có những thời điểm trong chiến tranh và hậu chiến tranh Việt Nam cảm tưởng như dân tộc này đã bị cô lập bỏ rơi nhưng ý chí và nghị lực của họ không bao giờ cạn, nếu những dân tộc khác mà bị gần một nghìn năm đô hộ Bắc thuộc như dân tộc Việt Nam chắc đã bị xoá tên trên bản đồ từ lâu nhưng với họ (Việt Nam) vẫn giữ được bản sắc văn hoá dân tộc và không bao giờ quên nhiệm vụ giành lại độc lập cho dân tộc, vì vậy việc coi họ là kẻ thù nhiều khi lại không có lợi cho nước Mỹ. Với dân tộc này chúng ta nên tôn trọng quyền tự quyết của họ, tạo niềm tin và sự tôn trọng với họ, bởi họ là một thế lực rất đáng gờm trong những quốc gia Đông Nam Á và Châu Á trong tương lai rất gần. Với vị thế và đường lối ngoại giao đặc thù như Việt Nam họ không liên kết liên minh tạo phe phái gây bất lợi cho chúng ta, họ là lá cờ đầu trong việc xoá bỏ chế độ thuộc địa trên thế giới, vì vậy đối với nhiều quốc gia, Việt Nam vẫn là hình mẫu giải phóng và độc lập dân tộc. Họ có tiếng nói và niềm tin nhất định trên hầu hết các quốc gia thân thiện hay không thân thiện với chúng ta, các quốc gia hợp tác và quan hệ với họ cảm thấy yên tâm hơn nhiều khi quan hệ với chính chúng ta. Sự đánh giá của chính khách lão luyện cựu ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger là điều rất đáng suy ngẫm;.xem tiếp Đọc lại và suy ngẫm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/doc-lai-va-suy-ngam/

VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH

Đúc kết tích hợp các bài viết tuyển chọn: Việt Nam tâm thế mới; Việt Nam sáng tạo KHCN; xem tiếp tại Việt Nam con đường xanh https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-con-duong-xanh/

Tài liệu dẫn

Câu hỏi của Thủ tướng: Chúng ta đứng top 15 nước về nông nghiệp được không?
Nguồn: Báo Viet Nam Net by Bảo Phương Thu Trà (2018)

“Thành tích thì chúng ta hoan nghênh, nhưng lạc hậu, chậm hơn nông nghiệp một số nước trong khu vực, nhất là so sánh với Thái Lan thì phải suy nghĩ rất nhiều. Campuchia xây dựng thương hiệu còn tốt hơn chúng ta”. Đó là chia sẻ của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc và triển lãm quốc gia Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn vào sáng 27/11/2018.

Campuchia xây dựng thương hiệu tốt hơn Việt Nam

Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về “tam nông”, nền nông nghiệp đã chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa cạnh tranh quốc tế. Cơ cấu sản xuất từng ngành được điều chỉnh, chuyển đổi theo hướng phát huy lợi thế của mỗi địa phương và cả nước gắn với nhu cầu thị trường. Giá trị sản xuất trên 1 đơn vị diện tích tăng lên, năm 2017 đạt 90,1 triệu đồng/ha đất trồng trọt.

Một số loại nông sản khẳng định được vị thế và khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Xuất khẩu nông lâm thủy sản năm 2017 đạt 36,5 tỷ USD, tăng 2,2 lần so với năm 2008. GDP ngành nông nghiệp năm 2017 đạt 2,66%, quy mô GDP của ngành tăng gấp 1,25 lần so với năm 2008; công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn phát triển nhanh; 7,2 triệu lao động ở nông thôn được đào tạo nghề; tính đến tháng 6-2018 có 3.346 xã đạt chuẩn nông thôn mới,… Thu nhập bình quân đầu người/năm ở nông thôn đã tăng 3,49 lần, từ 9,15 triệu đồng năm 2008 lên 32 triệu đồng năm 2017.

Phát hiểu tại Hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhận định, thời gian qua Việt Nam đã đạt những thành tựu lớn trong nông nghiệp. Từ nước nhập nông sản đến nay nông sản Việt Nam có mặt trên 180 quốc gia, vùng lãnh thổ, đứng thứ 2 ở Đông Nam Á, đứng thứ 15 trên thế giới. Song, ở hội nghị này Thủ tướng sẽ nói nhiều hơn về những mặt còn hạn chế để chúng ta biết và khắc phục trong thời gian tới.

Thủ tướng Chính phủ chỉ ra rằng, đầu tư cho nông nghiệp còn khá thấp, số doanh nghiệp trực tiếp đầu tư sản xuất nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 1% tổng số doanh nghiệp, trong đó nhiều doanh nghiệp quy mô nhỏ và siêu nhỏ.

Huy động vốn, tiếp cận vốn các dịch vụ tín dụng ở ngân hàng còn nhiều hạn chế, chi phí vốn còn cao, còn 1/2 số hộ gia đình nông thôn không thể tiếp cận được dịch vụ ngân hàng chính thức, đây là nguyên nhân tình trạng tín dụng đen xuất hiện nhiều ở các làng quê Việt Nam. Thủ tướng đề nghị các ngân hàng phải xuống tận nông thôn để cho người dân vay vốn, hỗ trợ sản xuất dịch vụ ở nông thôn.

Thủ tướng cũng nhận định việc áp dụng việc áp dụng tiến bộ khoa học trong nông nghiệp còn yếu, giá thành sản phẩm cao, tỷ lệ chế biến nông sản còn khiêm tốn nên nông sản nước ta chủ yếu xuất khẩu dưới dạng thô, dẫn tới giá trị gia tăng thấp, chưa hiệu quả. Trong khi đó, cơ cấu sản xuất còn manh mún, quy mô chưa lớn. Việt Nam đang có quy mô trang trại nhỏ trên thế giới. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn còn chậm. Tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo còn nhiều, “chưa hiểu thị trường trước khi gieo hạt xuống đất”.

Xây dựng thương hiệu nông sản mới bước đầu được chú trọng với khoảng 15% sản phẩm có thương hiệu. Một số thương hiệu nông sản nổi tiếng của nước ta còn bị mất, ví như thương hiệu nước mắm Phú Quốc đã thuộc về nước ngoài.“Thành tích thì chúng ta hoan nghênh, nhưng lạc hậu, chậm hơn nông nghiệp một số nước trong khu vực, nhất là so sánh với Thái Lan thì phải suy nghĩ rất nhiều. Campuchia xây dựng thương hiệu còn tốt hơn chúng ta”, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói.

Trong thập kỷ tới… Việt Nam đứng ở đâu?

Từ những phân tích trên, Thủ tướng nhấn mạnh, việc giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trước hết phải khơi dậy tinh thần yêu nước, tự chủ, tự lực, tự cường vươn lên của nông dân. “Chúng ta đang nói tập trung làm nông nghiệp, nông thôn mà nông dân chúng ta có tinh thần ỷ lại thì không bao giờ thành công”, Thủ tướng nói. 

Cần khắc phục tinh thần tự ti, ỷ lại, chờ đợi của một bộ phận nông dân. Vì vậy, thời gian tới, Đảng, Nhà nước ta phải cùng với nông dân, sống trong lòng nông dân để làm cuộc cách mạng mới trong nông nghiệp và nông thôn. Cần phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Kinh nghiệm rút ra là, theo Thủ tướng, ở đâu cấp ủy, người đứng đầu quan tâm sâu sắc, chỉ đạo quyết liệt thì ở đó, nông nghiệp, nông thôn sẽ phát triển mạnh mẽ, diện mạo nông thôn mới khởi sắc. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao.

“Trong thập kỷ tới hay một vài thập kỷ ngắn tới đây, Việt Nam đứng ở đâu? Chúng ta đứng trong top 15 nước về nông nghiệp được không?”, người đứng đầu Chỉnh phủ đặt câu hỏi.

Theo Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, phải chuyển từ tư duy nông nghiệp đơn thuần sang kinh tế nông nghiệp và hội nhập sâu rộng. Đồng thời, việc nhận diện thật rõ cơ hội và thách thức trong bối cảnh và tình hình mới để đề xuất định hướng chiến lược rất quan trọng.

“Thế giới đang chuyển mình, châu Á đang cạnh tranh từ bán buôn đến bán lẻ, chúng ta phải đặt ra lợi thế so sánh để có thể thành công”. Thủ tướng yêu cầu, phải sớm khắc phục tồn tại, yếu kém trong phát triển nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Thành tựu của cách mạng 4.0 phải áp dụng mạnh mẽ vào nông nghiệp như thanh toán điện tử qua điện thoại thông minh, khi mà gần 70% số dân dùng điện thoại thông minh.

Cần khắc phục cho được sản xuất nhỏ lẻ, mạnh mún. Tiếp tục rà soát, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, quy định pháp luật để tháo gỡ cho nhà đầu tư, doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX), hộ nông dân khi đầu tư làm ăn trong nông nghiệp. Trong đó, cải cách hành chính, tạo môi trường đầu tư kinh doanh mạnh mẽ hơn nữa. 

Thủ tướng cũng yêu cầu phải đặt vấn đề thị trường trước khi sản xuất để hạn chế tối đa tình trạng được mùa mất giá. Thay đổi tư duy, cách làm; sản xuất nông nghiệp phải xuất phát từ nhu cầu thực tế sản xuất, gắn chặt với yêu cầu thị trường, đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm, truy xuất được nguồn gốc.

Thủ tướng đề nghị Ban Kinh tế Trung ương, Bộ NN-PTNT chủ trì nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến tại Hội nghị để cùng Ban Chỉ đạo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 26 hoàn thiện báo cáo tổng kết, đồng thời chủ động xây dựng dự thảo Nghị quyết về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chủ trương, giải pháp về phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân đến năm 2020, giai đoạn tới năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trình Bộ Chính trị xem xét trong tháng 12/ 2018.

Nghịch lý: Top đầu thế giới nhưng được hưởng phần ít nhất
Nguồn: Báo Viet Nam Net by Bảo Phương Thu Trà

Nông dân Nhật Bản bán một quả xoài được 4.000 Yên (khoảng 850.000 đồng), người nông dân được hưởng lợi lớn nhất. Trong khi ở Việt Nam nhiều loại nông sản xuất khẩu đứng top 1 thế giới nhưng giá trị đem lại rất thấp và nông dân luôn là người được hưởng lợi ít nhất. Lá thư cảnh báo của Đại sứ quán Nhật gửi lãnh đạo TP.Hồ Chí Minh

Xuất khẩu nhiều nhưng giá trị thấp

Tại hội nghị trực tuyến toàn quốc và triển lãm quốc gia Tổng kết 10 năm thực hiện nghị quyết Trung ương 7 khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn diễn ra chiềuy 26/11, đại diện Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (IPSARD) cho biết, xuất khẩu nông sản của Việt Nam đã tăng trưởng mạnh trong vòng 10 năm qua. Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản tăng từ 16,484 tỷ USD năm 2009 lên mức 36,37 tỷ năm 2017.

Đáng chú ý, trong gia đoạn từ 2008-2017, Việt Nam luôn là nước xuất siêu nông sản với mức xuất siêu bình quân 8 tỷ USD/năm. Song, theo IPSARD, mặc dù xuất khẩu có sự tăng trưởng mạnh, nhưng nông lâm thuỷ sản xuất khẩu chủ yếu dưới dạng thô, tươi hoặc qua sơ chế, xuất khẩu chế biến sâu chiếm tỷ lệ rất thấp. Theo đó, một số mặt hàng nông lâm thuỷ sản của Việt Nam xuất khẩu đứng top đầu thế giới, song giá trị thấp.

Cụ thể, hạt tiêu Việt xuất khẩu xếp thứ hạng số 1 thế giới nhưng giá trị xuất khẩu chỉ đứng thứ 8; hạt điều cũng đứng thứ nhất thế giới, giá trị đứng thứ 6; gạo, cà phê đứng trong nhóm thứ 2 nhưng giá trị xuất khẩu chỉ đứng thứ 10.

Đại diện IPSARD nhận định, là một trong những nước dẫn đầu thế giới về xuất khẩu nông sản, tuy nhiên có đến hơn 80% lượng nông sản của Việt Nam chưa xây được xây dựng thương hiệu, chưa có logo, nhãn mác,… Điều này là bất lợi lớn, làm giảm sức cạnh tranh của các loại nông sản trên thị trường, gây thiệt hại lớn cho ngành nông nghiệp.

IPSARD dẫn số liệu thống kê của Cục Sở hữu công nghiệp (Bộ KH&CN), trong hơn 90.000 thương hiệu hàng hoá được đăng ký bảo hộ tại Việt Nam, mới có khoảng 15% là của các doanh nghiệp trong nước và có đến 80% hàng nông sản của nước ta được bán ra thị trường thế giới thông qua các thương hiệu nước ngoài.

Điểm yếu nữa là nông sản Việt đã tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu nhưng mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp đầu vào dưới dạng nông sản thô, trong khi giá trị gia tăng đối với hàng nông sản lại chủ yếu do khâu chế biến, bao gói và hoạt động thương mại. Nguyên nhân của tình trạng này là công nghệ trước và sau thu hoạch còn lạc hậu, việc tham gia chuỗi từ khâu sản xuất, chế biến đến marketing, phân phối và tiêu thụ còn hạn chế…

“Vấn đề là nông sản Việt chưa có một đơn vị cá nhân hay cơ quan chủ quản nào đứng ra để có thể xây dựng thương hiệu dưới 1 cái tên riêng nào đó của Việt Nam. Ngoại trừ ngành lúa gạo, năm 2018, Bộ NN-PTNT đang chủ trì xây dựng thương hiệu gạo quốc gia”, vị này cho hay.

Thực tế, năm 2017, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Nguyễn Xuân Cường cũng từng thừa nhận 10 mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam hiện nay mới chỉ là xuất khẩu dưới dạng thô hoặc sơ chế đơn giản. Nguyên nhân lớn nhất chính là khâu chế biến, thương mại, tổ chức sản xuất và xây dựng thương hiệu yếu.

Ví như, tại Hưng Yên và Bắc Giang có hai loại quả chủ lực là nhãn và vải thiều. Hai loại quả này có giá trị xuất khẩu mõi năm khoảng 2.000-5.000 tỷ đồng. Song, do tính mùa vụ, chỉ chín trong vòng một tháng nên nhiều lúc vào chính vụ xảy ra tình trạng phải bán tống bán tháo. Trong khi đó, nếu chế biến sau thu hoạch thì có thể để được cả năm, Bộ trưởng dẫn chứng.

Trong khi đó, các chuyên gia trong ngành nhận định, vì yếu kém trong khâu chế biến sau thu hoạch nên dù xuất khẩu đứng top đầu thế giới nhưng giá trị đem lại thấp và người nông dân được hưởng lợn rất ít nếu không muốn nói đến là vẫn còn nghèo.

Bài học từ Nhật Bản bán quả xoài 850.000 đồng/quả

Trái ngược với cảnh bán tống bán tháo hay được mùa thì mất của của nông sản Việt, chia sẻ tại hội nghị trực tuyến – chuyên đề “Thúc đẩy ứng dụng khoa học, công nghệ trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn”, ông Hiroshi Matsuura – Bí thư thứ nhất Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam, cho rằng cần tạo ra giá trị gia tăng cho nông sản, nâng cao lợi nhuận cho người nông dân.

Ông dẫn chứng, ở Nhật Bản, nông dân bán một quả xoài với giá 4.000 Yên (khoảng 850.000 đồng). Thế nhưng, để có được mức giá thành cao như vậy, xoài ở Nhật được trồng theo một tiêu chuẩn khắt khe, trái trên cây rất to và chỉ thu hoạch sau khi quả đã chín ở trên cây, tuyệt đối không thu hoạch lúc xanh non. Sau thu hoạch, trái xoài được bọc trong lớp lưới xốp, đóng trong hộp để đảm bảo trong quá trình vận chuyển đến nơi tiêu thụ không bị thối hỏng.

“Tại Việt Nam ai sẽ mua xoài giá cao? Là những người có tiền ở thành phố. Vậy làm sao vận chuyển đến tay người tiêu dùng”, vị đại sứ Nhật đặt câu hỏi và cho biết, cần đầu tư về hạ thầng vận chuyển, đảm bảo nơi bán hàng, bởi điều này sẽ quyết định đến chất lượng hàng hoá. Song, theo ông vấn đề quan trọng hơn để nông dân có được lợi nhuận lớn thì nông dân phải hoàn thiện cơ sở vật chất cho việc trữ hàng.

Ông cho hay, ở Nhật Bản táo chỉ có theo mùa, nhưng sau khi thu hoạch nông dân cho táo vào bảo quản trong kho trữ lạnh của mình theo công nghệ CA (phương pháp giúp hạn chế hô hấp khiến trái cây tươi lâu), từ đó đưa ra thị trường một lượng vừa phải, giữ được giá sản phẩm và người Nhật cũng được ăn táo quanh năm.

Ở Việt Nam có quả vải rất ngon, nhưng chỉ bán tươi lúc vào vụ nên giá trị chưa cao, lúc hết mùa muốn được ăn vải tươi cũng không thể. Nếu có thể áp dụng cách làm như nông dân Nhật với quả vải hay những loại quả khác thì sẽ tạo ra lợi nhuận cao cho nông dân vì họ điều tiết được giá cả thị trường.

Nhưng theo ông, người nông dân chỉ được hưởng lợi lớn nếu họ có cơ sở trữ lạnh vì từ sản xuất sẽ qua khâu trữ lạnh và đến thị trường, tức sẽ bớt được khâu trung gian. Còn nếu cơ sở trữ lạnh do bên thua mua nắm giữ thì lợi nhuận cao nhất sẽ thuộc về bên thua mua chứ không phải người nông dân. Khi ấy, nông dân sẽ khó cải thiện được cuộc sống của mình.

8,6 triệu hộ nông dân Việt lạc lối trên thị trường tỷ dân

Viet Nam Net. 08/07/2019 09:50:02 (GMT +7) CPTPP. và EVFTA chiếm 35% giao dịch thương mại toàn cầu, thị trường rộng lớn gần 1 tỷ người. Theo đó, 8,6 triệu hộ nông dân Việt sản xuất manh mún sẽ phải cạnh tranh với các cường quốc có đất đai rộng mênh mông, trình độ canh tác cao. (ảnh VNN: Các chuyên gia cho rằng sản xuất nông nghiệp của Việt Nam còn manh mún nhỏ lẻ) Câu hỏi của Thủ tướng: Chúng ta đứng top 15 nước về nông nghiệp được không? Nông nghiệp thăng tiến, nông dân vẫn lắc lư dễ ngã Đưa nông nghiệp sản xuất theo hướng công nghiệp

Nông dân Việt đấu với nông dân các cường quốc

Tại Hội nghị Cơ hội và thách thức đối với nông nghiệp Việt Nam khi tham gia các hiệp định thương mại tự do vừa diễn ra cuối tháng 6, các chuyên gia trong ngành nhận định, tham gia Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA) sẽ là cơ hội để mở rộng thị trường cho nông sản Việt, song cũng có nhiều thách thức và rủi ro.

Chia sẻ về vấn đề trên, đại diện tỉnh Đồng Tháp thừa nhận xu thế hội nhập thế giới “sâu và rộng” đang mở ra cơ hội rất lớn cho các nước đang phát triển như Việt Nam. Qua đó, có thể tận dụng tối đa nguồn lực đầu tư nước ngoài, tiếp thu các nền tảng khoa học – công nghệ, quy trình sản xuất tiên tiến, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.

Các chuyên gia cho rằng sản xuất nông nghiệp của Việt Nam còn manh mún nhỏ lẻ (ảnh trích dẫn dầu trang)

Các hiệp định thương mại tự do song phương lẫn đa phương được ký kết thời gian qua là tiền đề quan trọng, giúp sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp vươn ra biển lớn, cạnh tranh cùng các nước nếu tận dụng tốt cơ hội này.

Song, vị lãnh đạo này cũng thừa nhận, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp tại tỉnh Đồng Tháp còn hạn chế. Trong khi đó, việc liên kết sản xuất và tiêu thụ được quan tâm nhưng tính chặt chẽ chưa cao. Đặc biệt, sản xuất của nông dân còn mang tính tự phát, chất lượng sản phẩm hạn chế so với nhu cầu của thị trường. Ngoài ra, cơ sở hạ tầng logistics còn kém, cơ sở hạ tầng giao thông chưa theo kịp sự phát triển của nền kinh tế nên việc huy động vốn đầu tư, nhất là khu vực FDI còn nhiều khó khăn.

Đồng quan điểm, lãnh đạo Sở NN-PTNT tỉnh Cần Thơ cũng lo ngại, thách thức lớn nhất khi tham gia các hiệp định thương mại là nền nông nghiệp ở nước ta còn dựa trên nông hộ là chủ yếu, với quy mô sản xuất nhỏ, manh mún và phân tán, năng lực sản xuất còn hạn chế, sức cạnh tranh thấp, không đảm bảo nguồn cung với số lượng lớn.

Bên cạnh đó, chúng ta còn phải chịu áp lực cạnh tranh từ hàng hoá nhập khẩu tại thị trường nội địa, từ các hàng rào phi thuê quan của các nước nhập khẩu…

Đề cập tới vấn đề này, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Nguyễn Xuân Cường cho rằng chúng ta phải nhận diện rõ đâu là cơ hội.

Ông cho biết, tổng GDP của 2 thị trường CPTPP và EVFTA chiếm hơn 30% GDP toàn cầu, tổng giao dịch thương mại khoảng 35% thương mại toàn cầu, thị trường có dân số tới gần 1 tỷ người. Đây là cơ hội nhưng ngược lại cũng rất nhiều thách thức và rủi ro mà không nỗ lực thì chúng ta sẽ đánh mất cơ hội và mất ngay thị trường sân nhà Việt Nam.

“Khi mở cửa, chúng ta phải chấp nhận cuộc chơi kể cả có những điều kiện mà chưa bằng các nước bạn”. Bộ trưởng dẫn chứng, ở những quốc gia như Canada, Úc, New Zealand,… có tiềm năng phát triển nông nghiệp hàng hóa rất tốt. Chúng ta phải chấp nhận sự cạnh tranh bình đẳng”.

Bộ trưởng Cường cũng thừa nhân, khi tham gia các hiệp định, ngành nông nghiệp có rất nhiều vấn đề đáng lo lắng. Chẳng hạn, sản xuất manh mún nhỏ lẻ, có tới 8,6 triệu hộ, 10 triệu ha đất canh tác mà phải đi cạnh tranh với những cường quốc có tài nguyên đất rộng mênh mông, sản xuất nông sản hàng hoá theo quy mô trang trại lớn, trình độ canh tác ở mức cao, chất lượng sản phẩm đồng đều ở mức cao và đặc biệt có khả năng cung cấp nguồn hàng lớn.

Bộ trưởng Cường cho rằng vận động nông dân tham gia HTX, liên kết với doanh
nghiệp sẽ nâng cao được tính cạnh tranh (ảnh sơ chế, đóng gói vải thiều trước khi
xuất khẩu tại HTX Sản xuất nông sản và thương mại Hồng Giang, huyện Lục Ngạn, Bắc Giang)

Thêm vào đó, vấn đề biến đổi khí hậu, thời gian hội nhập ngắn, phải cạnh tranh với những nước có bề dày kinh tế cũng là một trở ngại lớn mà nông nghiệp Việt Nam phải đối diện trong thời gian tới.

Vận động nông dân vào hợp tác xã, bắt tay doanh nghiệp

Để khắc phục được những điểm yếu trên, giúp nông sản Việt Nam cạnh tranh được với nông sản của các nước lớn, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho rằng, giải pháp duy nhất buộc phải làm là vận động nông dân tham gia vào các hợp tác xã kiểu mới hay bắt tay liên kết cùng với các doanh nghiệp trong ngành làm hàng hoá ở quy mô lớn, theo chuỗi.

Thực tế hiện nay, có nhiều mô hình hợp tác xã đem lại thành công, nông dân tăng thu nhập khi liên kết với doanh nghiệp trong sản xuất và bao tiêu sản phẩm. Nhờ đó, sản phẩm của họ đã xuất khẩu được sang những thị trường khó tính nhất thế giới.

Phó Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam Nguyễn Xuân Định cũng nhìn nhận, để người nông dân chủ động thích ứng với những thời cơ cũng như thách thức mà các hiệp định thương mại tự do mang lại, các ngành chức năng cần tăng cường thông tin cho các doanh nghiệp và nông dân. Nâng cao trình độ, kỹ năng sản xuất, tuân thủ các quy định về thực hành sản xuất nông nghiệp trong sử dụng đầu vào, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.

Bên cạnh đó, tập trung vào những nông dân có năng lực, có nguyện vọng gắn bó lâu dài với nông nghiệp để hình thành đội ngũ nông dân chuyên nghiệp. Tạo cơ chế hình thành và phát triển các hợp tác xã kiểu mới, huy động sự tham gia của hộ sản xuất và nông dân, tạo cơ chế đất đai, nâng cao năng lực lập kế hoạch sản xuất và quản trị của lãnh đạo hợp tác xã, ông chia sẻ.

Theo đại diện Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương), nền nông nghiệp nước ta chủ yếu sản xuất manh mún, nhỏ lẻ. Những mối liên kết còn lỏng lẻo, đặc biệt là mối liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân để tạo ra các chuỗi giá trị nông sản hàng hóa lớn còn hạn chế. Chính các yếu tố này đã làm cho nền nông nghiệp Việt Nam rất dễ bị tổn thương và kém sức cạnh tranh.

Trong bối cảnh đó, chuỗi giá trị (doanh nghiệp – hợp tác xã – hộ nông dân) có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và nếu chúng ta không xây dựng thành công chuỗi giá trị sẽ khó cạnh tranh, đủ năng lực đưa các sản phẩm trong nước ra thị trường quốc tế.

Tâm An

Việt Nam con đường xanh, Hoàng Kim bài viết đầy đủ và tài liệu dẫn, xem tiếp tại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-con-duong-xanh/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkim

Bài viết mới trên CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimlong.wordpress.com
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây   cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
Việt Nam truyền thông dân số https://youtu.be/tsq1Cy3oPhI
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter


Việt Nam con đường xanh

VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH
Hoàng Kim


ThaiBinh Seed tiếp nhận bản quyền 4 giống lúa và hai năm nay đã chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu giống lúa của địa phương. Báo Nông nghiệp Việt Nam đưa tin: Ngày 22/10, tại Thái Bình, dưới sự chứng kiến của Thứ trưởng NN-PTNT Lê Quốc Doanh, Viện Cây Lương thực và Cây Thực phẩm đã ký hợp đồng ủy quyền độc quyền sản xuất, kinh doanh 4 giống lúa BC15 kháng đạo ôn, Bắc thơm 7 kháng bạc lá, Gia Lộc 97 và Gia Lộc 25 cho Tập đoàn ThaiBinh seed, Trong đó, Gia Lộc 97, Gia Lộc 25 là hai giống lúa thuần do Viện Cây Lương thực và Cây Thực phẩm nghiên cứu chọn tạo; giống lúa BC15 kháng đạo ôn, Bắc thơm 7 kháng bạc lá là sản phẩm hợp tác giữa hai đơn vị sau 2 năm ký kết nghiên cứu khoa học Thông tin xem tiếp tại Báo NNVN.

anh Chin Duong đưa tin: [BDNG-231019] Ông Dmitrijus Gubanovas và Ông Kamil Adamek thuộc công ty CENOS ( Ba lan ) đến thăm Trung tâm nghiên cứu nông nghiệp Định Thành ( DTARC) và Công ty Thoại Sơn ( Công ty TNHH 1 TV lương thực Thoại Sơn ) vào chiều ngày 21/10/2019 . Đoàn đã tìm hiểu về hoạt động nghiên cứu khoa học , sản xuất lúa gạo theo chuỗi giá trị trên nền tảng bộ tiêu chuẩn quốc tế SRP , tham quan đồng ruộng nông dân và nhà máy chế biến lúa gạo hiện đại của Lộc Trời tại Thoại Sơn . Mục đích của đoàn là mong muốn tìm nguồn gạo tốt để nhập khẩu về thị trường châu Âu sau khi hiệp định thương mại Việt nam – EU có hiệu lực Công ty CENOS sẵn sàng đặt hàng trước nửa năm cho Lộc Trời để tổ chức sản xuất lúa gạo một cách chủ động; xem tiếp bài cùng chủ đề https://hoangkimlong.wordpress.com/…/viet-nam-con-duong-xa…/.

Chúc mừng TS Nguyễn Phương, TS Võ Thái Dân, ThS. Hồ Tấn Quốc, ThS Nguyễn Thị Thanh Duyên, ThS. Nguyễn Tuyết Nhung Tường và đồng sự 2019 “Nghiên cứu tạo giống ngô đường lai đơn F1 phục vụ cho sản xuất khu vực Đông Nam Bộ”. Mã số B2017 NLS 11. Đề tài thật tốt. Quý Thầy bạn đang dần làm cho kết quả nghiên cứu bắp ngọt Nông Lâm sớm mang lại niềm vui cho nhiều người dân . — cùng với Phạm Văn HiềnToan Pham. Thông tin và video giới thiệu tại đây.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phan Đình Phùng trao giải nhất cho TS Nguyễn Thị Trúc Mai (thứ hai từ phải sang) và các tác giả khác tại Hội thi Sáng tạo kỹ thuật lần thứ 8 (2018-2019). Ảnh: H.H.THẾ , vừa đạt giải Nhất  Hội thi Sáng tạo kỹ thuật tỉnh Phú Yên lần thứ 8 (2018-2019) tổ chức tại Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật tỉnh,về giải pháp “Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao và kỹ thuật thâm canh tại tỉnh Phú Yên”. Sản phẩm của giải pháp này là giống sắn KM419 trở thành giống sắn chủ lực cho tỉnh Phú Yên từ năm 2016 đến nay với quy trình kỹ thuật có mật độ trồng và công thức bón phân thích hợp cho sự thâm canh giống sắn KM419 trong cơ cấu thời vụ thu hoạch rải vụ của vụ Xuân kết hợp vụ Hè tại tỉnh Phú Yên để nâng cao hiệu quả hoạt động của nhà máy chế biến tinh bột sắn và thu nhập của nông dân. Giống sắn KM419 đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận tại Quyết định số: 85/QĐ-BNN-TT, ngày 13/01/2016, các tác giả giải pháp là tác giả của KM419. Một số biện pháp kỹ thuật thâm canh rải vụ sắn tối ưu cho giống sắn KM419 tại tỉnh Phú Yên đạt năng suất và hiệu quả kinh tế cao nhất; đã được Cục Trồng trọt công nhận tại Quyết định số 208/QĐ-TT- CLT, ngày 27/5/2016,  các tác giả giải pháp là tác giả của quy trình kỹ thuật.

Bài viết mới trên CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimlong.wordpress.com
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây   cập nhật mỗi ngày

Video nhạc tuyển
Lãng du trong văn hoá Việt Nam
Việt Nam quê hương tôi
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter