Bạn hỏi: “Thầy có lời khuyên gì cho thế hệ trẻ nông nghiệp, cả về tài và đức, để đóng góp được gì đó cho quê hương không Thầy? Tôi trả lời: Mời bạn “Đọc Những người lính sinh viên của Lê Anh Quốc“, bài thơ tuyệt hay và lời bình thơ thật thấm thía của anh Phan Chí Thắng đã thay lời muốn nói. Cám ơn anh Lê Anh Quốc và anh Phan Chí Thắng. xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-nam-con-duong-xanh/
Chúng tôi thuộc thế hệ ‘Những người lính sinh viên’ trở về nông nghiệp Người thầy khoa học xanh chiến sĩ “Trận chiến hôm qua bạn góp máu hồng. Lớp học hôm nay bạn không trở lại. Trách nhiệm trong mình nhân lên gấp bội. Đồng đội ơi tôi học cả phần anh“. Tôi viết cho anh Trần Mạnh Báo mà cũng chính là lời khuyên cho chính bản thân mình : “Bao nhiêu bạn cũ đã đi rồi Nhớ để mà thương cố gắng thôi Nhà khoa học xanh gương trung hiếu Người thầy chiến sĩ đức hi sinh Dưới đáy đại dương là ngọc quý Trên đồng chữ nghĩa ấy tinh anh Doanh nghiệp Thái Bình chăm việc thiện Giống tốt bội thu vẹn nghĩa tình“.
Nhà khoa học xanh Norman Borlaug là nhà nhân đạo, nhà nông học Mỹ, cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và Tổng thống Mỹ trao tặng huân chương cao quý nhất của nước Mỹ, thế giới tôn vinh là nhà bác học số một của nhân loại trong cuộc chiến chống nghèo đói. Thầy suốt đời nghiên cứu giảng dạy về chọn tạo và phát triển cây lương thực, góp phần cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập cho hàng trăm triệu nông dân nghèo ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Thầy là người sáng lập Giải thưởng Lương thực Thế giới và tổ chức nhiều hoạt động thiết thực thắp sáng niềm tin yêu cuộc sống.
Lời Thầy dặn thật thấm thía: “ Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao . Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời”.
Đọc NHỮNG NGƯỜI LÍNH SINH VIÊN của Lê Anh Quốc Phan Chí Thắng
Tôi hoàn toàn không quen biết người lính Lê Anh Quốc, càng không biết có nhà thơ tên là Lê Anh Quốc. Vô tình đọc được thơ anh trên Facebook, tôi không thể làm được việc gì khác ngoài việc viết cảm nhận về trường ca hơn 500 câu “Những người lính sinh viên” của anh.
Tôi rất ít khi bình thơ, phải xúc động lắm mới viết.
Được biết anh nhập ngũ năm 1971, khi đang là sinh viên.
Một người lính sinh viên, một nhà thơ lính. Một người trong số hơn
10.000 sinh viên các trường đại học của Hà Nội lên đường vào Nam chiến
đấu từ năm 1970 đến năm 1972. Hơn một nửa đã hy sinh tại các mặt trận,
nhưng nhiều hơn cả là hy sinh tại chiến dịch bảo vệ Thành cổ Quảng Trị
những tháng ngày đỏ lửa.
Tôi gõ tên anh cùng tên bài trường ca của anh trong Google. Không thấy.
Nghĩa là anh không nổi tiếng, thơ anh thuộc loại “chưa được xếp hạng”
theo cách xếp hạng của giới tự phong cho mình là chuyên nghiệp.
Thơ về chiến tranh có hai giai đoạn. Giai đoạn trong chiến tranh và giai đoạn sau chiến tranh.
Thơ chiến tranh trong chiến tranh mang tính động viên ca ngợi với âm
hưởng chủ đạo là cảm hứng sử thi. Phạm Tiến Duật: “Đường ra trận mùa này
đẹp lắm!” hay Nam Hà “Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi Việt Nam
ơi!”.
Thời kì hậu chiến, khi đã có độ lùi của thời gian, bối cảnh
xã hội và tâm thế sáng tạo cho phép người viết được tái hiện chiến
tranh thiên về chất trữ tình triết lí, chiêm nghiệm. Cốt truyện không
còn là điều quan trọng như trong trường ca truyền thống mà mang yếu tố
tự sự nhiều hơn.
Trường ca Những người lính sinh viên nằm trong số đó.
Tác giả không nhận mình là thi sĩ chuyên nghiệp:
“Chúng tôi đi đánh giặc những tháng năm dài Phút khuây khỏa Làm thơ trên báng súng. Đời chẳng tĩnh Nên câu thơ quá động. Lục bát trèo Lên võng Đung đưa…”
Lục bát trèo lên võng đung đưa là thơ nó tự trèo lên người lính. Câu thơ thật hay, chuyên nghiệp chắc gì nghĩ ra.
Thơ anh tự sự nhưng không phải tự sự của “tôi” mà là của “chúng tôi”,
những người người lính có học mà anh gọi là lính sinh viên, từ ruột gan
người lính. Những vần thơ mộc mạc, tự nhiên như chính đời lính gian khổ,
đói rét, hy sinh, ngời sáng tình đồng đội thiêng liêng cao thượng.
Nói về thế hệ mình, anh tự hào:
“Thế hệ chúng tôi ! Ai cũng dễ thương, Thơm thảo như hoa, Ngọt ngào như trái. Tình đồng đội lòng không cỏ dại, Nghĩa đồng bào – Bầu, Bí thương nhau.”
Anh nói về sự hy sinh của các chị các em các mẹ mà anh cho là cao cả hơn sự hy sinh của người đàn ông:
“Thế hệ chúng tôi phụ nữ muộn chồng Nhiều đứa quá thì nên cầm lòng vậy Đời con gái chín dần trong cây gậy Rụng xuống đường lọc cọc tiếng đơn côi.”
Chỉ người đàn ông đích thực mới nhìn thấy cái mất mát đáng sợ do chiến tranh mang lại cho người đàn bà:
“Con dâu nằm chung với mẹ chồng, Tay bó gối phòng lúc mình mê ngủ. Hai cái thiếu chẳng làm nên cái đủ. Dưới mái nghèo năm tháng vắng đàn ông.”
Hình ảnh chiếc võng được lính liên tưởng như vầng trăng khuyết, như con
thuyền chở lòng căm thù giặc, như cánh cung mà mỗi người lính là một
mũi tên.
Người lính còn biết mơ mộng một ngày đỗ đạt vinh quy
bái tổ ngồi trên võng. Thương quá những chàng sinh viên gác bút nghiên
đi đánh giặc!
Nói về sự lạc quan của người lính, khó ai có thể nói hay hơn:
“Chúng tôi cười Cười chật đất Cười chật sông Cười chật suối…”
Về cái đói của lính, anh cũng có cách nói rất độc đáo đồng thời lại rất thật:
“Không sợ giặc, không sợ đạn bom rơi, Cái sợ nhất lúc này là đói. Đói vàng mắt, Đói long đầu gối, Đói phạc phờ, Đói thừa cả chân tay…! Mà lạ chưa? Vào chính lúc này, Chúng tôi lại đánh lui quân giặc.”
Kết thúc chiến tranh, anh không quá say sưa chiến thắng mà nói về làng
quê, về đời sống của người dân và đương nhiên là nói về mẹ:
“Bây giờ mắt mẹ đã mờ, Nhìn tôi bằng “ngón tay rờ” run run”
Câu thơ tuyệt hay. Cần gì phải nói bao năm chờ đợi mẹ khóc đến mù hai
mắt, chỉ cần hình ảnh nhìn bằng tay là đủ lay động lòng người.
Anh có một “nỗi buồn chiến tranh” giống mọi người:
“Bao cô gái Bao chàng trai Lứa tuổi đôi mươi Đã nằm xuống dưới bạt ngàn nấm mộ Những cái tên… ngày nào xanh nhãn vở Giờ xếp hàng Đỏ rực nghĩa trang.”
Không phải rất nhiều nấm mộ mà là chỉ một nấm mộ thôi nhưng bạt ngàn. Thơ đấy chứ đâu, nghệ thuật đấy chứ đâu nữa!
Và một nỗi buồn rất khác. Các anh trở về với luống cày cây lúa. Thời
trai trẻ đã qua đi, không được học hành như mơ ước. Trong thời đại công
nghệ, tiến bộ khoa học kỹ thuật, các anh bị lạc hậu:
“Không thể đem việc đổi xạ – bóp cò, Làm công nghiệp trong thời mở cửa. Ta sẽ chẳng vượt qua đói khổ, Nếu chân mình còn nặng đế cao su!”
Đau hơn cả là cái tương lai tươi sáng mà vì nó các anh đã chiến đấu hy sinh vẫn còn xa chưa đến:
“Ta đã qua dài rộng rừng sâu, Chân đã thuộc những nẻo đường ngang dọc, Mà bây giờ trước đồng, trước ruộng Sao ta đi, đi mãi… chẳng đến bờ?
Vẫn chỉ là muôn thuở: Đói hay No? Mà lăn lóc cả đời với đất Từ mặt trận, mang Cái còn – Cái mất Trở về làng đánh đổi Cái có – Cái không…”
*****
Tôi bỏ cả ăn sáng, viết cho xong bài này.
Hãy cho tôi một lần được làm người bình thơ, hãy cho tôi thắp nén tâm nhang cho anh, người lính thơ, nhà thơ lính.
Có thể anh không có danh xưng nhà thơ (tôi không rõ lắm) nhưng anh là
nhà thơ trang trọng trong tôi, trong những người bình thường và những
người yêu thơ.
Chúng ta căm ghét chiến tranh, chúng ta mong con
cháu mình không bao giờ phải cầm súng, không muốn rồi sẽ có những người
lính sinh viên như anh. Nhưng để mong muốn đó thành hiện thực, chúng ta
phải trân quý những người như anh – người lính vô danh, nhà thơ thầm
lặng!
Bài thơ rất dài nhưng tôi khuyên bạn nên đọc
KHOẢNG TRỜI NGƯỜI LÍNH
Chương 1 : KHÚC DẠO ĐẦU
Thế hệ chúng tôi! Chưa kịp lớn lên, Bom đạn Mỹ xé rách trời, nát đất. Vừa buông nách đứa em bé nhất, Trên đầu mình, Già dặn khoảng trời xanh.
Thế hệ chúng tôi- Thế hệ chiến tranh. Hoa lau trắng những ngày tiễn biệt Người lên đường – Đất Nước là Tiền tuyến Người ở nhà – Tổ quốc hóa Hậu phương
Thế hệ chúng tôi ! Ai cũng dễ thương, Thơm thảo như hoa, Ngọt ngào như trái. Tình đồng đội lòng không cỏ dại, Nghĩa đồng bào – Bầu, Bí thương nhau.
Thế hệ chúng tôi con gái cũng “mày râu” Chẻ lạt lợp nhà, đốn cây, bổ củi Đêm trăng lên nhoi nhói câu thầm hỏi: – Mình đàn bà sao bóng tựa đàn ông?
Thế hệ chúng tôi phụ nữ muộn chồng Nhiều đứa quá thì nên cầm lòng vậy Đời con gái chín dần trong cây gậy Rụng xuống đường lọc cọc tiếng đơn côi.
Thế hệ chúng tôi… Meo mốc bình vôi, Mùa cau lại vàng, Mùa trầu lại đỏ, Mẹ cần chổi gom những mùa lá đổ, Đợi con về … Run rẩy quét thời gian.
Ngôn ngữ Tình Yêu thời của chúng tôi: Một đôi chim bay trên áo gối, Một bông hồng thả hương bối rối, Một khoảng tròn quanh những chiếc khung thêu.
Thế là thương Là nhớ Là yêu Là gánh vác việc nhà người ra trận. Dẫu không hóa làm thân Núi Vọng, Cũng một đời chín đợi, mười trông.
Đêm. Con dâu nằm chung với mẹ chồng, Tay bó gối phòng lúc mình mê ngủ. Hai cái thiếu chẳng làm nên cái đủ. Dưới mái nghèo năm tháng vắng đàn ông.
Thệ chúng tôi, Ra ngõ gặp Anh hùng. Đâu cũng thấy hy sinh cho Tổ quốc. Người trước ngã, Người sau không bỏ cuộc. Trận đánh này, Phải TOÀN THẮNG ngày mai …
Ngày mai Ngày mai Ngày mai… Có thể là gần Có thể xa vời vợi… Sẽ chẳng tới nếu ta ngồi chờ đợi. Chỉ con đường duy nhất phải vượt lên ! Dù ngày mai sẽ chẳng vẹn nguyên, Những cô gái, chàng trai tuổi xuân hơ hớ. Dù ngày mai sẽ bạt ngàn nấm mộ. Những con người của thế hệ chúng tôi.
Mặc gian nan! Mặc đạn bom rơi! Đích phải đến là TỰ DO – ĐỘC LẬP. Là Đất Nước sạch bóng quân xâm lược. Là Bắc – Nam sum họp một nhà.
Mẹ sẽ vui Ngày mai . Khải hoàn ca ! Chúng con hát dọc đường về thăm mẹ. Ta tưng bừng, Ta thương người lặng lẽ. Bởi Mất – Còn, Cũng đến một ngày mai…
Chương hai: KHOẢNG TRỜI NGƯỜI LÍNH
1- ĐƯỜNG VÀO
Đêm đầu tiên, Ngủ giữa rừng cây Chúng tôi níu rừng vào hai đầu cánh võng. Chống chếnh thế, Những ngôi nhà của Lính, Gió hướng nào thổi đến cũng thông thênh. Khoảng trời vuông trên mỗi “mái tăng” Không che được hạt mưa xiên xối xả. Đêm đầu tiên nên ai cũng lạ, Giấc ngủ chập chờn như lá rừng rơi …
Anh lính gác hết đứng lại ngồi, Nghe tí tách mưa rơi trên áo bạt; Cách dăm nhà có ai khe khẽ hát. Đêm bỗng òa… Một thoáng nhớ xôn xao … Lại đằng kia có tiếng rít thuốc lào, Đêm vo lại, đỏ lừ mắt điếu. Ước gì có chiếc Hồ lô Kì diệu, Hút Đêm vào cho Lính khỏi chờ lâu…
Đêm không ngủ. Là đêm rất sâu, Lính hóm hỉnh nghĩ ra đủ chuyện. Đứa thì bảo, Võng như hình trăng khuyết Treo giữa rừng và thức với ngàn cây. Đứa thì bảo, Võng như con thuyền đầy, Chở hờn căm trên dòng sông cạn. Dòng sông ấy là Đường ra Mặt trận. Bao Con Thuyền mải miết vượt bằng chân… Đứa lại nói Võng như cánh cung. Đêm để ngửa, bình minh lên sẽ “úp” Còn Người Lính là mũi tên vun vút, Phút bình minh là lao thẳng ngực thù! Có đứa láu lỉnh đến lạ chưa? Bảo, Mái Tăng giống như chiếc lọng, Lính xếp bằng ngồi trên cánh võng, Chẳng khác gì Quan Trạng ngày xưa. Thì, bây giờ nào có kém chi Khoa Đánh giặc, đậu nhiều Dũng sĩ. Ngày bái tổ, Ngày Ta thắng Mỹ, Dũng sĩ về còn hơn Trạng vinh qui…
Đêm va vào xoong chảo đằng kia Vỡ từng tiếng. Lanh canh trên bếp lửa… Chúng tôi hiểu, Bình Minh về gọi cửa, Chỉ tích tắc thôi, Nhà Lính dỡ xong rồi.
Chúng tôi lại đi… Náo nức những dòng người. Bình tông nước nối hai đầu Binh trạm. Nắm cơm vắt tòng teng trên lưng bạn, Biết độ đường còn mấy “đoạn dao quăng”.
Gửi Đại Ngàn, những đêm phía sau. Phía Nỗi nhớ cứ dài vào vô tận. Bao gương mặt cỏ cây chưa kịp nhận. Đã vội ào đi trước lúc trời hừng. Để lại những địa danh – Khắc lên cây rừng. Những dấu thời gian còn tươi roi rói. Hàng Lốc lịch treo trên lưng chừng núi. Dọc đường vào Năm tháng cũng vào theo ! —–
2. TÂN BINH
Thắc thỏm quá. Trận đánh đầu tiên. Những tân binh chưa thạo bắn. Giặc tràn lên sọc sằn như đàn rắn. Chúng tôi rợn người! Nhắm mắt! Ngồi im…!
Bên chiến hào, người Lính Cựu thản nhiên. Anh thủ thỉ, ” Lần đầu, ai chả thế!” Nói cho biết, ” Tớ chẳng bằng Cánh Trẻ. Còn tệ hơn. Tè cả ra quần!…” Tôi thoáng nhìn, những cựu quân nhân. Gương mặt các anh như tạc bằng đá núi. Nét phong trần, làn da xẫm lại. Trước chúng tôi. Các anh hóa thiên thần! Bọn giặc ào lên! Mỗi lúc một gần. Lệnh phát hỏa! Chúng tôi ào ào bắn! Những viên đạn xả nòng không cần ngắm … Phía bên nào cũng có tiếng rên la …
Nghe gằn đầy âm thanh AK Mà trận đánh tưởng chừng còn rất dữ … Mãi sau này chúng tôi mới rõ, Cánh tân binh, đã bắn phứa lên trời. Rồi trận đánh nào cũng kết thúc thôi. Chỉ huy bảo: “ Chúng ta đã thắng…” Bãi chiến trường ngổn ngang xác giặc. Ta cũng nhiều chiến sĩ hy sinh
Chúng tôi đi tìm Đồng đội của mình. Lóng ngóng quá, Những vòng tay ôm bạn. Người Lính Cựu đã dạn dày bom đạn, Bế đứa này… Rồi bồng đứa kia …
Chàng lính ví mình như Quan Trạng xưa, Một trận thôi đã thành liệt sĩ. Ngày trở về, Ngày Ta thắng Mỹ Anh chẳng thể làm “Trạng vinh qui” Trước mộ các anh, chúng tôi lặng đi. Nhớ chuyện hôm xưa làm ai cũng khóc…
Hoàng hôn xuống. Đỏ mọng từng con mắt. Đêm nặng đè lên mỗi “cánh cung” … —–
3. TIẾNG CƯỜI CỦA LÍNH
Cuộc đời lính. Đạn trước mặt. Bom trên đầu. Mìn vùi dưới đất … Sống và chết đo bằng gang tấc. Thắng và thua đọ ở sức người.
Có phải thế? Chúng tôi cười Cười chật đất Cười chật sông Cười chật suối… Đường ra trận nào ai tính tuổi ? Nên tiếng cười cứ lẫn cả vào nhau …
Nếu gom được – Xin giữ cho mai sau. Phòng có giặc hãy phát làm vũ khí, Nếu còn sống nhớ mang về quê tớ, Những trận cười rừng rực sức trai …
Những nụ cười hình hoa mơ, hoa mai Rụng trăng gốc vẫn khát ngày xây quả Những nụ cười thấm cả vào máu đổ Chôn dưới mồ vẫn cứ vút bay lên!
Những nụ cười mang hình mũi tên Làm thế trận bủa vây quân giặc Những nụ cười nối phương Nam – Phương Bắc Cứ trùng trùng … Theo bước những đoàn quân Những nụ cười nuôi từ Lòng Dân Thành sức mạnh Kẻ thù nào thắng được? Những nụ cười của Bốn ngàn năm Dựng nước. Hóa thành đồng Muôn thuở Việt Nam ơi!
Những nụ cười làm khô giọt lệ rơi. Ngày TOÀN THẮNG nếu con không về nữa Mẹ lắng nghe trong từng làn gió Có tiếng cười của đứa con yêu …
4. THI SĨ
Chúng tôi đi đánh giặc những tháng năm dài Phút khuây khỏa Làm thơ trên báng súng. Đời chẳng tĩnh Nên câu thơ quá động. Lục bát trèo Lên võng Đung đưa…
Có phải vì quen với nắng mưa Nên câu thơ biết xòe ô cho bạn? Có phải quanh mình ùng oàng bom đạn, Nên trong thơ khao khát một nụ hồng!
Có phải vì thương, vì nhớ cháy lòng Nên lửa cứ bập bùng nơi ta viết? Có phải vì anh yêu da diết Nên bài nào cũng nói về em?
Chẳng tài đâu! Làm mãi rồi quen Như đánh giặc lâu ngày thành lính cựu. Trước cuộc sống Bao cái Hùng tề tựu Dẫu chẳng là Thi Sĩ … Cũng Thơ!
Ẫy là nói những đứa ngu ngơ Chứ thế hệ thì thiếu gì đứa giỏi. Đánh giặc cừ Làm thơ cũng sõi, Dũng Sĩ và Thi Sĩ rất xứng danh.
Đêm bồi hồi bên cánh rừng xanh Náo nức quá! Nghe Chương trình văn nghệ “ Thơ Chiến sĩ ”? Sao nhạc buồn đến thế? Lính nhớ nhà… càng nhớ nhà hơn!
Ơi! Tiếng đàn bầu Nỉ non Nỉ non… Đem thân phận thả vào đêm chiến trận Này Cung Nhớ! Này Cung Thương! Này Cung Hờn! Này Cung Hận! Hỏi cung nào Người Lính chẳng từng qua ??? ——
5. ĐÓI
Trận đánh này. Chúng tôi giữ điểm cao, Quần cả tháng, lương ăn không còn nữa! Giặc vây chốt đông như đàn kiến lửa Phía chúng tôi … Còn lại mấy đứa thôi.
Không sợ giặc, không sợ đạn bom rơi, Cái sợ nhất lúc này là đói. Đói vàng mắt, Đói long đầu gối, Đói phạc phờ, Đói thừa cả chân tay…! Mà lạ chưa? Vào chính lúc này, Chúng tôi lại đánh lui quân giặc. Có lẽ vì chẳng cách nào khác được! Có lẽ vì… Còn – Mất đó thôi… Phía chân đồi, giặc đã rút rồi. Cái Đói lại xông lên ngợp chốt. Không thể bắn, Và cũng không thể giết Muốn cầm hòa… Cái Đói Chẳng buông tha !
Đồng đội tôi gục xuống giữa chiều tà… Gạo vừa tới, cơm còn đang nấu dở Boong canh rừng lục bục sôi trên lửa Bạn đi rồi… Chẳng kip bữa cơm no ! Ôm xác bạn chúng tôi khóc hu hu! Người đói chết trên tay người đói lả Chôn bạn xong… Đói tràn lên cỏ Tôi cầm cành cây, đói lả trước mồ …
Chúng tôi thường cúng bạn cả nồi to Cơm đấy, canh đấy… Bạn ăn đi khỏi đói !
Sống giữ chốt Chết thành ma đói Đêm đứt rời … Bởi những cơn đau….
6. TIẾN VỀ THÀNH PHỐ
Từng trận đánh, cứ nối tiếp nhau Như mùa lũ ngập dần đôi bờ đất Từng chiến dịch mở bung mặt trận Như gió ngàn ồ ạt thổi võng thung.
Mùa mưa đi qua. Khô khát những cánh rừng. Cây trút lá bên đường tơi tả. Đất như choàng tấm chăn màu đỏ. Những nấm mồ đồng đội rực lên!
Tiến về Sài gòn Từ khắp nẻo Trường Sơn. Đại bác Xe tăng Chuyển rung thành phố Rầm rập những Binh đoàn Ào ào thác đổ Cả nước dồn về Trùng điệp quân đi.
Các hướng tấn công Thần tốc – diệu kỳ Ngày mai hiện dần Bằng xương Bằng máu Ngày mai sẽ về Gang tấc nữa thôi!
Gang tấc nữa thôi! Cờ giải phóng tung bay dinh Độc Lập Tổ quốc tưng bừng niềm vui thống nhất Chúng con sẽ về Bên mẹ Mẹ hiền ơi!
Gang tấc nữa thôi! Ác liệt lại ngàn lần ác liệt Sào huyệt cuối cùng Sào huyệt lửa bung ra. Máu Người Lính đã thấm rừng già, Nay lại đổ dọc đường vào Thành Phố ! Người lính cựu, Mang nửa đời chữ thọ, Có ai ngờ! Ngã xuống, Trước ngày mai.
Chúng tôi nghiêm trang Đứng trước thi hài Người Đồng đội, Người Anh, Người Thầy trong trận mạc. Giữa Sài Gòn – 30 THÁNG TƯ.
Chương ba: SAU CHIẾN TRANH
1. LÀNG XƯA
Giặc tan rồi Chúng tôi trở về quê Bồi hồi quá! Những bàn chân lính Chiếc ba lô trên lưng nhẹ tếch Chỉ nặng nhiều là mấy búp bê.
Khao khát gì mà bồng bế thế kia? Hay ở rừng lâu ngày không bóng trẻ? Ngoài mặt trận nào ai thành bố – mẹ Tìm đâu ra tiếng bé khóc chào đời.
Hay tuổi xuân ta trầm bổng cuối trời? Như hạt mưa sa xuống vườn đồng đội Hay vì thương cây tháng năm ngóng đợi? Mùa hoa về cho tươi lại cành xanh.
Thôi! Gác lại một thời chiến tranh, Ào về nơi chôn nhau, cắt rốn. Để ngắm Mẹ Cho hả hê nỗi nhớ. Để nhìn Cha Cho đã buổi thương Người.
Để được gặp, Nàng mặc áo nâu tươi Khoe với Em rằng: chỉ thêu vẫn thắm, Rằng: hai đứa chẳng còn xa ngàn dặm, Rằng: hôm nay thuyền đã cập bến rồi.
Đây mái nhà tuổi thơ của tôi. Đây bậu cửa chắn ngang thời lẫm chẫm. Đây hình vẽ ngu ngơ thời chấy rận, Màu than đen còn nhánh đến bây giờ.
Đây hàng cau cha trồng từ ngày xưa. Rụng đỏ đất… Những mùa đành để lỡ. Đây vườn trầu mẹ ươm hồi ta nhỏ, Rơi vàng trời như thể khát tìm cau.
Đây con đường nối sang nhà nhau. Bên ấy, bên này đi về một ngõ. Đêm. Họp Đoàn cùng chung đuốc tỏ, Ta soi cho Em về tới sân nhà.
Đây xóm làng lam lũ của ta. Những bữa cơm còn đầy mâm rau má. Người ra trận vẫn mang manh áo vá. Trẻ tới trường, quyển sách đọc thay nhau.
Mùa đông về chăn chưa đủ ấm đâu, Mùa hạ đến chẳng đủ màn ngăn muỗi. Ta gặp ai cũng già trước tuổi. Biết: Hy sinh đâu chỉ ở chiến trường!
Ơi! Xóm làng mà ta gọi Quê hương, Người ra trận đông hơn người ở lại, Đã kín vách BẢNG VÀNG DANH DỰ, Giờ lại nhiều BẰNG TỔ QUỐC GHI CÔNG.
Bao hố bom chằng chịt trên đồng, Nghe lành lạnh tiếng cá cờ búng nước. Hiểu hạt gạo nuôi quân ngày chiến cuộc, Đã chan hòa, Máu với Mồ hôi.
2. MẸ
Con về với Mẹ hôm nay Thật đây! Sao Mẹ tưởng ngày…mình mơ. Bây giờ mắt mẹ đã mờ, Nhìn tôi bằng “ngón tay rờ” run run.
Như là để thật tôi hơn Mẹ rờ vết sẹo vai con ngày nào. Nhận ra, mắt Mẹ lệ trào Rưng rưng… vào khoảng khát khao con về. Và tôi cứ thế lặng đi Trước pho Tượng Phật từ bi giữa nhà.
Mấy năm đánh giặc đường xa Chẳng ngờ đâu Mẹ tôi già thế kia? Hàm răng đen nhánh ngày xưa Đi đâu vội, để nắng mưa cối trầu? Hạt sương kéo sợi trên đầu Bảo tôi: Đời Mẹ dãi dầu đấy thôi. Mắt huyền xưa buộc Cha tôi Bây giờ, Mẹ buộc lá rơi ngoài thềm. Mỏng manh chiếc áo vải mềm, Tuổi thơ tôi để trong nền yếm nâu. Yếm Người nào có rộng đâu. Mà sao như thửa đất giàu mênh mông… Ở đây cũng thể Thành đồng Ở đây nuôi những Anh hùng nước non. Yếm vuông cho giọt sữa tròn Đọng trong mỗi dấu chân con tháng ngày.
Con về với Mẹ hôm nay Thật đây! Sao Mẹ tưởng ngày mình mơ! Mẹ tôi giờ, mắt đã lòa Nhìn tôi bằng ngón tay già… rưng rưng…
3. MẶT TRẬN KHÔNG TIẾNG SÚNG
Chúng tôi về với việc nhà nông, Đông hơn cả, Vì đồng rộng lắm Những người lính một thời chiến trận Giờ lại về cuốc bẫm cày sâu.
Ruộng có bờ, Việc chẳng có bờ đâu Buổi lật cỏ đã lo ngày bắc mạ. Gieo trên đất những mầm vui hối hả, Những lo toan, thắc thỏm, trông chờ. Tưởng đã quen rồi, sao vẫn gặp bất ngờ? Bất ngờ hạn – mặt đồng khô như ngói. Bất ngờ úng – lúa chìm trong tê tái. Bất ngờ sâu – đau thắt ruột người trồng.
Cấy cây lúa Là cấy phận nhà nông. Xòe bàn tay tính từng ngày, từng tháng. Mặt trời lên đến thâu đêm lại sáng. Bóng người còng, mơ… lúa tròn bông.
Hạt gạo dẻo thơm? nào dễ hiểu đồng, Khi chưa có một lần với lúa. Khi cuộc đời lượt là trong nhung lụa, Đã chắc gì hiểu nổi bát cơm bưng ? Đã chắc gì biết cái rét cuối đông? Chân mẹ nẻ ngậm bùn rét giá. Đã chắc gì biết những chiều nắng hạ? Áo cha dầy thêm mỗi bận mồ hôi.
Về với đồng mới hiểu hết đồng ơi! Bát cơm chan mồ hôi – nước mắt Lại có chuyện… những người khuất tất Lại bão giông… rình rập trên đầu…
Ta đã qua dài rộng rừng sâu, Chân đã thuộc những nẻo đường ngang dọc, Mà bây giờ trước đồng, trước ruộng Sao ta đi, đi mãi… chẳng đến bờ?
Vẫn chỉ là muôn thuở: Đói hay No? Mà lăn lóc cả đời với đất Từ mặt trận, mang Cái còn – Cái mất Trở về làng đánh đổi Cái có – Cái không…
Phải vượt lên thôi! Mình tự cứu mình. Than phận làm gì cho thêm yếu lính? Đất Nước chiến tranh ra đi đánh giặc. Đất Nước hòa bình, tất cả dựng xây. Nào tập đi! Cho thẳng những đường cày Cho con trâu khỏi nhắc người: vắt – diệt Cho vụ mùa gối tiếp nhau mải miết Cho đồng làng bông lúa gọi : đời no!
Nào học đi! Ta mới chỉ i tờ. Nghề nhà nông còn bao điều mới lạ, Muốn xênh xang từ cọng rơm, gốc rạ. Phải hiểu đồng, như hiểu chiến trường xưa.
Ta đã nghe ! Nhiều đồng đội gần, xa Bát ăn đủ rồi, giờ thêm bát để. Đã rộng cửa nhà, Đã yên dâu – rể, Đã ông – bà… còn rất lính mà Em!
Ta lại nghe. Từ phía mặt trời lên Tiếng tần tảo gõ vang đường xuống chợ Những mảnh vườn cho mùa chín đỏ Thơm chật gùi…Đồng đội địu trên lưng.
Và đằng kia, trên khắp nẻo núi rừng, Bao trang trại mở đường vào giàu có. Nhiều người lính đã thành ông chủ. Cũng đình huỳnh xe máy hon đa.
Vườn-Ao-Chuồng xây cất Vi la, Ai bảo lính không biết làm kinh tế? Bao doanh nghiệp tư nhân Bao nhiêu nhà tỷ phú Cũng đều từ những Cựu Chiến binh.
Ta dõi theo vóc dáng những công trình. Bao người lính trở về xây thủy điện Đời lại thắp những NGỌN ĐÈN trước biển Sóng gầm gào… Đèn vẫn sáng lung linh.
Ấy là khi Ta tự biết vượt mình Trước cuộc sống Có bao điều Cầu ước. Nếu được ước Xin ước cho tất cả Đừng hóa mình xa lạ với Nhân Dân.
Chương 4: HỒI TƯỞNG
Thế hệ chúng tôi, Đi qua Chiến Tranh. Đời mỗi đứa là một thời để nhớ Về đồng đội, Về những ngày khói lửa Về những hy sinh, … không nói hết bằng lời.
Bao cô gái Bao chàng trai Lứa tuổi đôi mươi Đã nằm xuống dưới bạt ngàn nấm mộ Những cái tên… ngày nào xanh nhãn vở Giờ xếp hàng Đỏ rực nghĩa trang.
Có những hy sinh Âm ỉ với thời gian Người trở về trên mình đầy thương tích Chiếc nạng gỗ gõ dọc chiều cơn lốc Hiểu con đường đang chín giọt mồ hôi.
Có đứa về lành lặn hẳn hoi Nào ai hay? Chất độc vùi trong bạn Lúc làm cha mới biết mình trúng đạn Vết thương – Là con anh.
“Vì Nhân Dân quên mình! Vì Nhân Dân hy sinh!” Bài hát gọi ta về quân ngũ. Cuộc sống Lính có khi nào đầy đủ? Thiếu thốn nhiều nên cũng phải quen đi!
Cũng phải quen. Như thể chẳng thiếu gì Vì khi ấy chiến trường cần phải thế! Ngày trở về Ta không còn trai trẻ. Giữa đời thường cái thiếu lại thiếu thêm.
Những hy sinh không thể bắc lên cân. Càng không thể quy thành tem phiếu. Những người lính có bao giờ định liệu Cái giá mình trước Tổ Quốc, Nhân Dân!
“Vì Nhân Dân quên mình! Vì Nhân Dân hy sinh!” Lẽ sống ấy làm nên Nhân cách Lính. Ngay cả khi mình không mang quân phục, Nhưng Lính thì chẳng lẫn với ai đâu?
Không biết người ta sống mai sau, Có đời hơn thời chúng tôi đang sống? Rồi đến lúc phải quên đi tiếng súng, Ta vẫn tin! Đồng đội chẳng quên nhau!
Nhân Dân mình sống có trước có sau. Cứ nhìn những Nghĩa trang, những Tượng đài thì biết. Và cả những Tượng đài thơm hương tha thiết, Cho người sống, Cho người còn mà chết tuổi thanh xuân.
Nếu Cuộc đời biết vì Nhân Dân Thì Nhân Dân cũng vì ta năm tháng. Như mặt trời cho cỏ cây nguồn sáng, Cỏ cây nào chẳng cho đất những mùa hoa?
Bom đạn tạnh đi rồi Chiến tranh đã lùi xa! Cuộc sống mới bảo chúng tôi đổi mới! Không thể đem những ngày lửa khói Giữa thị trường đánh đổi lấy ấm no!
Không thể đem việc đổi xạ – bóp cò, Làm công nghiệp trong thời mở cửa. Ta sẽ chẳng vượt qua đói khổ, Nếu chân mình còn nặng đế cao su!
“Vì Nhân Dân quên mình! Vì Nhân Dân hy sinh!” Bài ca ấy đã trở thành lẽ sống! Chúng tôi hát từ buổi tò te lính. Đến bây giờ vẫn hát – Những Cựu binh.
Về quê viếng mộ tổ tiên Mừng vui gặp mặt người hiền bạn thân Đất trời ngày mới thanh tân Thung dung thăm hỏi, ân cần níu chân
Lòng son trung chính biết ơn Quê hương chung đúc khí thiêng muôn đời Quảng Bình đất Mẹ ơn Người Tổ tiên cát bụi nhiều đời thành quê
Đinh ninh như một lời thề Trọn đời trung hiếu để về dâng hương’.
Đường xuân như một dòng sông Việt Nam thống nhất thác ghềnh đến nơi
“Hồn chính khí bốc lên ánh sáng Sáng choang ngọc đá giữa hoang tàn’. Tâm nhân văn lắng đọng tinh hoa Hoa Đất Hoa Người trong cõi Bụt.”
Cám ơn tiến sĩ Nguyen Thanh Binh ‘Ăn khuya với anh Hoàng Kim ở Đà Nẵng’ Cám ơn tiến sĩ Cong Kien Phan “về nguồn ở đền Hùng” đã gọi điện và nhắn tin. Cám ơn bạn đọc đã ghé “Quảng Bình đất mẹ nhớ ơn Người”
Cám ơn Làng Minh Lệ thân thiết ấm áp tình quê hương
Cảm ơn Cụ Thiện Hồ Văn, lão đại danh thủ thơ Đường thi Hà Nội, đã tặng thơ ngày mới. Kính trân trọng cám ơn Cụ ·
CẢM TẠ TIẾN SỸ HOÀNG KIM Hồ Văn Thiện
Ngày vui sinh nhật tám mươi ba Được bác Hoàng Kim gửi tặng quà Ưu ái chúc vần thơ ấm áp Chân tình cảm mến tính hâm gia “Tình yêu cuộc sống” luôn son sắt Sở thích văn chương vẫn đậm đà Tiến sỹ nông tang là sự nghiệp Duyên thơ tình bạn quý chan hòa
Nếm trãi đường trần chẳng ít đâu Lồng lộng trăng xuân giữa đỉnh đầu Thiện tính tâm lành vui sống khỏe Xuân tươi đức tốt chúc bền lâu Dáng trúc mai thanh mừng phúc hậu Bóng hạc thân tình thích vuốt râu Duyên thơ bạn quý đời thêm phước Chiều xuân sức vóc vẫn hồng au …
Ngày sinh nhật Cụ HVT 27-4 2021
MỪNG SINH NHẬT BÁC THIỆN Ngvan Tư Bn (bài họa) Đến ngày sinh nhật bác ngờ đâu Nhà mạng nhắc như tiếng mở đầu Bạn hữu thân tình mong sống khỏe Anh em gần gũi chúc thời lâu Soi gương tự cảm yêu vầng trán Chụp ảnh hay mình thích bộ râu Tuổi tám ba nhưng hồn vẫn trẻ Thơ tình say đắm dáng hồng au
Ngày sinh nhật cụ HVT 27-4 2021
NGẪU HỨNG NGÀY SINH NHẬT Hồ Văn Thiện
Bảy tám năm rồi có ít đâu Tóc xanh hóa bạc ở trên đầu Qua hai thế kỷ sao nhanh thế Cố tới một trăm thấy quá lâu Ngồi ngắm cháu con- mình lúc trẻ Soi gương tự dạng- lão dài râu Hình hài biến sắc mau hơn tính Dáng cụ nhưng tình vẫn đỏ au…
Một trăm năm hiếu nghĩa vẹn toàn Mười thập kỷ chính trung kiên định
Cậu Hoàng Thúc Cảnh 100 tuổi, là Lão thành cách mạng, nguyên Cố vắn Văn phòng Chính phủ, sắp được trao huy hiệu 75 năm tuổi Đảng. Cậu Hoàng Gia Cương kính tặng anh ruột
Trăm năm vóc hạc mừng Người khỏe Chân chính bao nhiêu phúc bấy nhiêu
Giống sắn KM140 là con lai của tổ hợp KM 98-1 x KM 36 do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam tuyển chọn và giới thiệu (Trần Công Khanh, Hoàng Kim, Võ Văn Tuấn, Nguyễn Hữu Hỷ, Phạm Văn Biên, Đào Huy Chiên, Reinhardt Howeler và Hernan Ceballos 2007, 2009). Giống KM140 được Bộ Nông nghiệp & PTNT, cho phép sản xuất thử trên toàn quốc (Quyết định số 3468/ QĐ- BNN- TT, ngày 05/ 11/ 2007) và công nhận chính thức tại Quyết định số 358 ngày 20 tháng 09 năm 2010 và cho phép sản xuất hàng hoá trên toàn Quốc theo Thông tư số 65. 65/2010/TT-BNNPTNT, ngày 05 tháng 11 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. 0714-10-10-00.và đoạt giải Nhất Hội thi sáng tạo kỹ thuật toàn quốc VIFOTECH năm 2010. Giống KM140 được trồng nhiều tại các tỉnh phía Nam với diện tích thu hoạch năm 2008 trên 30.000 ha, năm 2010 trồng trên 150.000 ha; hiện là giống phổ biến.
Đặc điểm giống: + Thân xanh, thẳng, ngọn xanh, cây cao vừa phải, không phân nhánh. + Năng suất củ tươi: 33,4 – 35,0 tấn/ha. + Tỷ lệ chất khô: 34,8 – 40,2%. + Hàm lượng tinh bột: 26,1- 28,7%. + Năng suất bột : 9,5 -10,0 tấn/ha + Chỉ số thu hoạch: 58 -65 %. + Thời gian thu hoạch: 8-10 tháng. + Nhiễm nhẹ bệnh cháy lá. + Thời gian giữ bột ngắn hơn KM94
GẶP BẠN Ở QUÊ NHÀ Hoàng Kim Về Quê Choa gặp bọ Nguyễn Quang Lập tôi hỏi: Gia đình đều khỏe chứ? Lập và Nguyễn Quang Vinh có viết gì mới? “Sài Gòn giải phóng tôi” có đăng ở đâu không?. Bạn nói : Gia đình khỏe. “Sân khấu ngoài trời của Nguyễn Quang Vinh” là bài mới nhất. “Sài Gòn giải phóng tôi” có đăng ở Người Lao Động nhưng chỉnh sửa tựa đề. Mình nay viết ít hơn. Tôi đùa: Bạn buông bỏ bớt. Chúc mừng bọ Lập bạn bây giờ chỉ lắng đọng những điều tâm đắc
SÂN KHẤU NGOÀI TRỜI CỦA NGUYỄN QUANG VINH. Nguyễn Quang Lập
Đã tới lúc các nhà lý luận sân khấu cần nói tới sân khấu ngoài trời, một loại hình nghệ thuật mới mẻ và hấp dẫn, nếu tui không nhầm thì nó khởi đầu từ Nguyễn Quang Vinh, hiện đang làm chủ bởi Nguyễn Quang Vinh.
Bắt đầu từ việc tổ chức các sự kiện văn hoá- lịch sử ngoài trời và việc truyền hình trực tiếp các tác phẩm sân khấu, Nguyễn Quang Vinh đã sân khấu hoá các sự kiện lịch sử- văn hoá, đồng thời mở rộng không gian ước lệ của sân khấu truyền thống, khéo léo kết hơp giữa ngôn ngữ tả thực đương đại và ngôn ngữ ước lệ truyền thống đưa đến một ngôn ngữ sân khấu hoàn toàn mới mẻ. Sân khấu ngoài trời ra đời từ đó.
Sân khấu ngoài trời là một tác phẩm sân khấu với một không gian khác biệt, một ngôn ngữ khác biệt so với sân khấu truyền thống, đưa đến nhiều hứng cảm mới cho văn hoá đại chúng, tạo ra một gout thẩm mỹ mới cho sân khấu nước nhà.
Trước nay tui chưa thừa nhận chú em của mình bất kỳ cái gì chú ấy làm, trừ các phóng sự chân dung đăng trên báo Lao Động. Với sân khấu ngoài trời thì tui thừa nhận một cách tâm phục khẩu phục.
Cứ nghĩ Vinh chẳng có tài gì ngoài tài học mót, chẳng ngờ chú ấy đã đưa đến cho sân khấu nước nhà một loại hình sân khấu- ước mơ lớn của nghệ sĩ sân khấu nước nhà từ thời sân khấu quay những năm 80 thế kỷ trước.
Nhân kỷ niệm 44 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam những cựu chiến binh Việt Nam làng Minh Lệ đến nhà 3 anh em ông Trương Minh Đức, gặp gỡ ôn lại những ký ức chiến tranh. Từ trái sang phải P Giáo sư Tiến sỹ Trương Minh Dục, Tổng Biên tập báo Đà Nẵng, Trung úy Trương Công Định, SQ pháo binh Hoàng Đăng Ngọ, Trần Thị Thé (vợ PGSTS Trương Minh Dục) Thượng sỹ Trương Minh Đức, giáo viên, Tiến sỹ Nông học Hoàng Kim,Đại đội trưởng bộ binh, Thượng tá CA Hoàng Minh Trúc. Bốn người tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh (26-30/4/1975) còn nguyên vẹn đúng 11 giờ 30 phút khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng là các CCB: Đức, Dục, Ngọ, Kim trong ảnh.Ba anh Kim, Dục, Đức trở lại nhà trường học tiếp, Ngọ ở lại đánh đấm tiếp với Pôn pốt rồi chuyển sang ngành thuế.
Gặp bạn ở quê nhà. Chúc vui Hoàng Minh Thuần. “Khoai quê mình là sâm ăn bữa sáng của người làm ruộng” mà. Bác Giáp lúc trước khi nói chuyện ở Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam đã dùng câu ấy. Giống khoai vàng Đồng Chăm ăn rất bùi và thơm ngon. Hôm mình về Làng Minh Lệ, vợ chồng của thầy cô Hoàng Minh Đức, Trần Thị Niềm đã tặng khoai ngon Đồng Chăm, mang vào Đồng Nai ăn rất thích.
QUẢNG BÌNH ĐẤT MẸ ƠN NGƯỜI Hoàng Kim
Quảng Bình đất Mẹ ơn Người Tổ tiên cát bụi nhiều đời thành quê Đinh ninh như một lời thề Trọn đời trung hiếu để về dâng hương
Lòng son trung chính biết ơn Quê hương chung đúc khí thiêng Quảng Bình Về quê kính nhớ Tổ tiên Mừng vui giữa chốn bạn hiền người thân
Đất trời ngày mới thanh tân Thung dung thăm hỏi ân cần níu chân. Đường xuân như một dòng sông Việt Nam thống nhất thác ghềnh đến nơi.
Hồn chính khí bốc lên ánh sáng Sáng choang ngọc đá giữa hoang tàn’. Tâm nhân văn lắng đọng tinh hoa Hoa Đất Hoa Người trong cõi Bụt
ANH ÚT BÊN MỘT NHÂN CÁCH LỚN,”NGƯỜI THẦY KHÔNG BỤC GIẢNG” Lê Minh Hoan, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp viết về Ông Phạm Văn Bên, một doanh nhân giàu lòng nhân ái, vừa qua đời ngày này năm 2016, PHT Trần Đình Lý giới thiệu bài viết trên FB
Dẫu biết “sinh – lão – bệnh – tử” là quy luật muôn đời không thay đổi được, nhưng nghe tin vẫn bàng hoàng: anh Phạm Văn Bên không còn nữa! Dù rằng lòng vẫn muốn ngày đó sẽ còn kéo dài, thậm chí vẫn trông chờ vào một phép nhiệm màu nào đó, nhưng sự nghiệt ngã của bệnh tật đã làm chúng ta mất đi một con người đáng được quý trọng, đáng được tôn vinh! Đối với tôi, một người bạn, một người anh, một người thân, một nhân cách lớn thầm lặng đã ra đi để lại vô vàn sự tiếc nuối cho người thân, bạn bè, cộng sự, lãnh đạo địa phương và cá nhân mình!
Như một cơ duyên, khi tôi ra trường trở về quê công tác là lúc Anh cũng từ Thanh Bình về Cao Lãnh để bắt đầu một sự nghiệp mới. Thấm thoát mà đã trải qua hơn 30 năm rồi. Trong ngần ấy thời gian, chúng tôi có dịp gần gũi, đồng hành với những chuyến đi suốt dọc chiều dài đất nước, trên những chặng hành trình tìm kiếm, mở mang thị trường ra nước ngoài với biết bao sẻ chia về chuyện người, chuyện đời, chuyện xứ người ta, chuyện xứ mình. Cũng từ những câu chuyện hàn huyên, những buổi đối thoại, những bức thư điện tử qua lại đã làm cho tôi càng ngày càng cảm nhận được sâu thẳm trong Anh ẩn chứa tính nhân văn, tình người, tình quê, cảm nhận về một con người sống đầy nghĩa tình, chân chất, thầm lặng, không khoa trương.
Đi lên từ một người nghèo khó, từ một vùng quê nghèo khó nên Anh luôn đau đáu về quê hương xứ sở, thấu cảm được nổi nhọc nhằn của những người nông dân một nắng – hai sương. Khi tỉnh nhà bắt đầu triển khai Đề án tái cơ cấu ngành Nông nghiệp, Anh là người bắt nhịp rất nhanh và luôn ủng hộ quyết sách này. Anh tâm sự: Cỏ May sẽ đồng hành với lãnh đạo Tỉnh trong liên kết với nông dân, tạo ra thương hiệu cho hạt gạo Đồng Tháp nhằm tạo giá trị gia tăng cao hơn mới giúp được cho bà con mình nâng cao thu nhập, cuộc sống khấm khá hơn. Và từ đó, thương hiệu gạo Việt NOSAVINA “Made in Dong Thap” ra đời, với những “Lài Đông Xuân”, “Sen Hè Thu”, “Cúc Thu Đông”… Anh tâm sự hết sức chân thành: “Một con én không thể làm nên mùa Xuân, một mình Cỏ May không thể giúp nhiều cho tái cơ cấu nông nghiệp, lãnh đạo Tỉnh phải làm sao cổ vũ cả cộng đồng doanh nghiệp cùng ra trận thì mới mong đạt kết quả như kỳ vọng!”. Tôi nhớ mãi và càng trân trọng, càng thấm thía ý tưởng tâm huyết của Anh như thế!
Trong một buổi tối đi công tác Ban-tia Miên-chay (Campuchia), Anh hỏi vì sao Tỉnh rủ Anh cùng tham gia chuyến đi này? Tôi trần tình, muốn mần ăn lớn thì phải biết ta biết người chứ, rủ Anh cùng đi để biết đâu Anh sẽ phát hiện ra được cơ hội gì đó về mở rộng sản xuất, đầu tư thêm nhà máy mới. Anh ngẫm nghĩ hồi lâu rồi tâm sự, tôi muốn nghỉ ngơi rồi, cơ nghiệp tôi gầy dựng từ một người sản xuất xà bông thời bao cấp đến một doanh nghiệp chế biến gạo như vầy là tôi đã không thể ngờ tới rồi, “Ông đừng có xúi dại!”. Tôi bắt mạch câu chuyện và đẩy đưa, đúng là Anh có thể nghỉ ngơi, có thể dừng lại, sản nghiệp của Anh đã đầy đủ rồi, nhưng Anh phải nghĩ đến các thế hệ mai sau, nghĩ đến bà con mình, quê hương mình nữa chứ! Và, cũng từ buổi tối hôm đó, sau này Anh hay nói đùa, cũng tại “lời xúi dại” đó mà Cỏ May tiếp tục mở rộng, đầu tư mới. Và lại có thêm nhiều Cỏ May mới: Cỏ May Lai Vung, Cỏ May Essential ra đời. Và, biết bao người có công ăn việc làm từ một quyết định dũng cảm, nặng tình để tiếp tục dấn thân từ một người có vóc hình nhỏ bé nhưng luôn tràn đầy tinh thần mạnh mẽ như Anh.
Cả cuộc đời làm doanh nhân của mình, tôi đoán rằng Anh không có thời gian nhiều để học bài bản các khoá kinh tế, tiếp cận các lý thuyết quản trị, kinh doanh này nọ. Anh chỉ làm và làm tốt bằng sự tinh tế, nhạy bén của mình, bằng sự thấu cảm của mình. Nhìn Anh ngồi xếp bằng hỏi han từng người công nhân, rồi chăm chút cho đời sống cho mọi người bằng những quyển sổ tiết kiệm, quỹ học bổng, hỗ trợ xây cất nhà cửa… mới thấy Anh đối nhân – xử thế như thế nào. Anh đối đãi với cộng sự, với những người giúp việc, lao công, bốc xếp của mình như những người thân, những ân nhân đã giúp Anh vượt bao sóng gió thương trường.
Anh đã thực hiện đúng câu của ông bà mình dạy: “Của cho không bằng cách cho”. Những năm cuối đời, mặc dù sức khỏe đã cạn dần, nhưng Anh lại dành nguồn vốn 37 tỷ đồng để xây dựng Ký túc xá trên phần đất của Trường Đại Nông lâm Thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời hằng năm còn cấp khoảng 15 tỷ đồng lo chi phí cho sinh viên ở trong ký túc xá này nữa. Mấy ai trong đời làm được những chuyện như vậy? Chắc là có, nhưng chắc là hiếm lắm! Thực hiện được ước mơ cháy bỏng cả cuộc đời mình bằng tấm lòng thiện nguyện, trong sáng, chắc Anh đã trải qua nhiều đêm trăn trở, dằn vặt giữa cái riêng và cái chung, giữa gia đình và xã hội, giữa hiện tại và tương lai. Anh hằng mong mỏi mai này có một thế hệ người “vừa có tài mà phải có tâm”. Anh chính là một “Người Thầy không bục giảng”, một người thấm đẫm “đạo làm người, đạo làm doanh nhân”, một người không phải là người trí thức nhưng hiểu sức mạnh của tri thức là động lực phát triển cho mỗi con người và cho xã hội.
Khi được đề cử đi dự Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc vừa rồi, biết sức khoẻ của mình đã yếu, đi xa nhiều rủi ro nên Anh lần lữa không muốn đi. Tôi đánh bạo khích lệ Anh đi vì cảm nhận rằng chắc đây là lần cuối được đồng hành cùng Anh, vì trong tôi, Anh là một con người yêu nước thực thụ, mặc dù cả cuộc đời mình Anh không bao giờ nghĩ hay tuyên ngôn như vậy. Anh yêu nước theo kiểu riêng Anh, thầm lặng nhưng đong đầy nghĩa cử cao đẹp với xã hội, góp từng viên gạch nhỏ cho sự phát triển của đất Sen hồng!
Vĩnh biệt Anh, mãi vang vọng trong tôi câu hát: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng”. Anh ra đi, nhưng Anh vẫn mãi còn đó, vẫn mãi lưu trong ký ức của tôi về một con người luôn “khiêm tốn và không ngừng hoàn thiện nhân cách của mình” như lời Anh nhắn nhủ lại cho gia đình, cho cháu con, cho mọi người!
Lê Minh Hoan – Bí thư Tỉnh uỷ Đồng Tháp
PHẠM VĂN BÊN CỎ MAY Hoàng Kim
Đời dạy ông “Gổ tốt chẳng cần sơn”, Một chất lượng vẫn hơn ngàn câu nói…
Thầy bạn chúng tôi đến thăm ký túc xá Cỏ May (ở trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh do doanh nhân Phạm Văn Bên quê Sa Đéc Đồng Tháp xây dựng hiến tặng cho các em sinh viên nghèo hiếu họccủa các trường đại học phía Nam . Anh Bên làm nghĩa cử này trước khi về cõi vĩnh hằng. Tôi đưa các em sinh viên lớp Ninh Thuận tới thăm Ký túc xá Cỏ May sau khi các em đã tới giảng đường Phượng Vĩ (chữ U ) một biểu tượng của Trường, nơi lưu dấu tấm biển đồng mang tên người kiến trúc sư tâm huyết tài hoa Ngô Viết Thụ đã gửi lại những ẩn ngữ chấn hưng Tổ Quốc. Điều này nhằm giúp các em thấm thía sâu hơn sự nhọc nhằn khởi nghiệp và những ước mong những tấm lòng Việt. Ký túc xá Cỏ May là sự nâng bước sinh viên nghèo hiếu học. Ngày học trùng hợp với ngày 1 tháng 4 ( khi bạn hữu lớp Trồng trọt 4 Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc chúng tôi họp mặt ở Trường Đại Học Nông Lâm Huế mà tôi bận lịch dạy này nên không về được) . Tôi đưa các em đi tới một số các địa chỉ văn hóa thân thương của Trường, và nhớ lời thơ của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tình yêu cuộc sống“Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi. Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt. Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt. Rọi suốt trăm năm một cõi đi về…’”; “sống trong đời sống cần có một tấm lòng Để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi , để gió cuốn đi …” Phía sau tuyệt phẩm âm nhạc nổi tiếng tấm lòng số phận và sự dấn thân . Đường xuân chúng ta tiếp bước, chung sức để Tổ Quốc và Dân tộc Việt mãi đi tới. Thầy bạn trong đời tôi là câu chuyện chưa hề cũ thúc dục tôi viết tiếp, như suối nguồn tươi trẻ chảy mãi
Cảm ơn thầy Phạm Văn Hiền đã chia sẻ video cảm động (của Minh Đông WinterMan ) nghĩ về Anh Phạm Văn Bên – Cỏ May với những lời chân thành sâu sắc: “Chia sẻ clip hay về một con người, một nhân cách đáng trân trọng đã xây dựng và lan tỏa “văn hoá Cỏ May” thấm sâu vào từng người Cỏ May, khách hàng Cỏ May và những tấm lòng nghĩ về Anh Phạm Văn Bên -Cỏ May.. Ba năm vội vàng trôi qua, nhanh quá! Ba năm Anh đã trở về ngủ yên trong lòng đất mẹ ấm cúng, hiền hoà! Chúng tôi thắp một nén hương tưởng niệm nhớ về Anh! “
Cảm ơn Minh Đông WinterMan đã có bài thơ biết ơn thật xúc động video thật đẹp :
CỎ MAY – CHẤT LƯỢNG THAY LỜI NÓI
Cả cuộc đời, ông đi tìm lẻ sống, Cùng trãi lòng theo ước vọng quê hương, Hơn ba mươi năm, thăm thẳm một chặng đường, Ông vẫn bước giữa thương trường hối hã.
Mỗi khó khăn, mỗi một lần vấp ngã, Ông thấy mình như đã vững vàng hơn, Đời dạy ông “Gổ tốt chẳng cần sơn”, Một chất lượng vẫn hơn ngàn câu nói…
.Với tôi khi nói vế Trường Đại Học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh thì ký túc xá Cỏ May là dấu nhấn ám ảnh. Xin lan tỏa một mái trường, một tấm lòng và một ký ức đẹp về ký túc xá Cỏ May đã và đang nâng bước sinh viên nghèo hiếu học
EM DẠY NIỀM VUI MỚI Cây đời luôn tỏa hương Trẻ tươi cười rạng rỡ Ngốc PhươngNam ngày thường Câu chuyện ảnh Tháng TưHẢI DZUNG ĐI TÂY THẬT TUYỆT VỜI Phong lưu hai ngón trỏ lên trời Ngày mới mừng anh xuân hạnh phúc Thanh Minh lộc muộn nắng lên hơi
Câu chuyện ảnh tháng Tư THẦY BẠN TRONG ĐỜI TÔI
Chúc mừng GS Trần Duy Quý và đồng sự với hai giống lúa mới BQ QJ4 và QP5 đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quyết định công nhận giống tạm thời cuối năm 2016 và tháng 4 năm 2017. Hai giống lúa mới này hiện đang được sản xuất mở rộng và phát triển. “Quý lúa lan ly” trên bảy mươi xuân vẫn vui khỏe đi tới. Trần Duy Quý8 tháng 4, 2017 Giống BQ lúa chất lượng năng suất khá cao trùng bình 65_75 tạ/ha cơm dẻo cấy được hai vụ chống chịu sâu bệnh khá thích ứng khá rộng từ huế trở ra
Trần Duy Quý8 tháng 4, 2017 Giống QJ4 là loại JAponica có chất lượng gạo cao thơm nhẹ dẻo năng suất cao chịu rét khỏe chống sâu bệnh khá có thể phát triển thành gạo hàng hóa Giống còn có tên VAaS 16
Hai giống lúa siêu xanh GSR65 và GSR90 được tuyển chọn và phát triển ở tỉnh Phú Yên, Hai giống này được đánh giá và tuyển chọn trong bộ 12 giống lúa triển vọng thực hiện vụ đầu tiên trên vùng hạn Đồng Xuân, vùng mặn Tuy An và vùng thâm canh ở trại giống Hòa An và Hòa Đồng. Ảnh tại ruộng trồng trước đây (2014) và hiện nay (2020). Cám ơn cụ Bình Khơi đã gợi lại nơi ruộng trồng. Ảnh thật đẹp ! Trúc Mai đọc lại bài trên báo Phú Yên Online Thứ Tư, 14/09/2016 14:00 CH”Triển vọng 2 giống “siêu lúa xanh” http://baophuyen.com.vn/82/162257/trien-vong-2-giong–sieu-lua-xanh.html
Vu xuân năm 2014 anh Nguyễn Trọng Tùng, phó Giám đốc Sở Nông nghiệp & PTNT cùng anh Phúc, anh Thắng, Hoàng Long, Trúc Mai, anh Mạnh, anh Minh, anh Tồn, cô Thỏa và tôi bắt đầu triển khai việc đánh giá và tuyển chọn 12 giống lúa triển vọng thực hiện vụ đầu tiên trên vùng hạn Đồng Xuân, vùng mặn Tuy An và vùng thâm canh ở trại giống lúa Hòa An và Hòa Đồng. Lúa Siêu Xanh Phú Yên thật tốt, hứa hẹn tuyển chọn được giống mới triển vọng.
Mô hình khảo nghiệm giống “siêu lúa xanh” trồng tại xã Hòa Mỹ Tây (huyện Tây Hòa) – Ảnh: LÊ TRÂM
Vụ hè thu 2016, Sở NN-PTNT khảo nghiệm 4 giống lúa GSR 65, GSR 90, GSR 38 và Nam Ưu 1245. Đây là bộ giống “siêu lúa xanh” (Green Super Rice-GSR) được du nhập từ Viện Nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI), trồng tại huyện Tây Hòa và PhúHòa. Cuối vụ năng suất lúa đạt từ 75-80 tạ/ha, chất lượng gạo tốt
Năng suất cao
Vụ hè thu năm nay, trên cánh đồng Cây Trảy, Hòn Đình Dưới thuộc xã Hòa Mỹ Tây (huyện Tây Hòa) gieo sạ 4 giống “siêu lúa xanh” là GSR 65, GSR 90, GSR 38 và Nam ưu 1245, trên diện tích 15ha. Trong quá trình sinh trưởng, lúa phát triển tốt, giai đoạn chắc xanh lúa phơi gié dài cả gang tay người lớn. Bà Phùng Thị Yên, thành viên tổ sản xuất giống của HTX Nông nghiệp Kinh doanh dịch vụ Hòa Mỹ Tây, cho hay: Cả cánh đồng Hòa Mỹ Tây rộng gần 100ha, nhưng khó có đám nào có năng suất cao bằng đám được trồng bởi giống GSR 65. Lúa chín sát cậy (gốc gié lúa), hạt sáng bóng mẩy, năng suất đạt trên 85 tạ/ha. Còn ruộng kề bên, không gieo sạ giống “siêu lúa xanh” thì lúa lép trong cậy, năng suất không quá 60 tạ/ha.
Đám ruộng rộng 2 sào trồng giống lúa GSR 90 nằm cạnh đường nội đồng Cây Trảy, năng suất cũng gần 85 tạ/ha. Ông Cao Văn An, nông dân ở xã Hòa Mỹ Tây tham gia mô hình, trầm trồ: “Cánh đồng này thời gian qua được trồng nhiều giống lúa khác nhau, nhưng chưa có giống nào đạt năng suất cao như giống này. Lúa GSR 90 chỉ sạ 4kg/sào, đến thời kỳ mạ đẻ nhiều nhánh, khi trổ đóng hạt dày, phơi gié hạt sáng trưng”.
Ông Nguyễn Trình, Trưởng Trạm Khuyến nông – Khuyến ngư huyện Tây Hòa, nhận định: Vụ hè thu năm nay, thời tiết diễn biến phức tạp, ảnh hưởng lớn đến sự sinh trưởng, phát triển của cây lúa. Sâu bệnh hại có chiều hướng gia tăng, gây hại mạnh nhất là bệnh khô vằn, thối thân thối bẹ, rầy nâu… Thế nhưng, với giống “siêu lúa xanh”, cây có sức sinh trưởng phát triển tốt, chống chịu với sâu bệnh hại, hạn chế tối đa sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, cho năng suất cao.
Các giống GSR 65, GSR 90, GSR 38 và Nam Ưu 1245 cũng được trồng khảo nghiệm tại Trại giống Nông nghiệp Hòa An (huyện Phú Hòa). Theo bà Phạm Thị Thỏa, Trưởng Trại giống Nông nghiệp Hòa An, trong thời gian trồng khảo nghiệm giống lúa thuộc bộ giống “siêu lúa xanh”, cuối vụ chúng tôi nhận thấy giống có năng suất cao nhất là giống GSR 65 đạt 96,3tạ/ha, cao hơn giống đối chứng ML48 là 27,4 tạ/ha (năng suất giống lúa ML48 chỉ đạt 68,8tạ/ha). Tiếp đến là các giống GSR 90, năng suất 88,57 tạ/ha; giống GSR 38 năng suất đạt 88,2 tạ/ha và Nam Ưu 1245 đạt năng suất 83,1 tạ/ha.
Tuyển chọn 2 giống “siêu lúa xanh”
Trước đó, từ năm 2015, Sở NN-PTNT tiến hành khảo nghiệm 10 giống lúa “siêu lúa xanh” gồm GSR 90, GSR 84, Nam Ưu 1245, GSR 38, GSR 54, GSR 89, Nam Ưu 1241, GSR 65, GSR 36, GSR 63. Trải qua 3 vụ trồng khảo nghiệm tại 2 điểm là Trại giống Nông nghiệp Hòa An và cánh đồng huyện Tây Hòa được theo dõi theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia. Đến nay, sở tuyển chọn 2 giống ưu tú phù hợp là GSR 65 và GSR 90. TS Nguyễn Trọng Tùng, Giám đốc Sở NN-PTNT, chủ nhiệm đề tài tuyển chọn giống lúa gạo năng suất cao, phẩm chất tốt từ nguồn gen lúa siêu xanh, cho hay: Giống GSR 65 và GSR 90 có các đặc tính sinh trưởng, phát triển khỏe, kháng sâu bệnh tốt, thời gian sinh trưởng ngắn ngày. Năng suất cao, đạt trung bình từ 75-80 tạ/ha, thâm canh có thể đạt trên 85-90 tạ/ha, gạo có chất lượng tốt. Thời gian đến, sở tiếp tục nghiên cứu quy trình canh tác phù hợp để phát huy tối đa tiềm năng năng suất của giống lúa. Đồng thời phối hợp với các địa phương sớm chuyển giao nhân rộng 2 giống lúa mới GSR 65 và GSR 90 đưa vào sản xuất đại trà nhằm góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu.
Theo TS Hoàng Kim, giảng viên Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh, người dày công nghiên cứu bộ giống “siêu lúa xanh”, một số giống của bộ giống lúa “siêu lúa xanh” hiện có phẩm chất gạo cao nhất trên thị trường thế giới. Vì vậy trong quá trình khảo nghiệm, theo dõi các chỉ tiêu nông học, năng suất và phẩm chất hạt gạo đã tuyển chọn ra bộ giống lúa chủ lực tiến tới xây dựng cánh đồng lúa chất lượng cao. Đây là một trong những giải pháp xây dựng cánh đồng mẫu lúa chất lượng, tạo xu hướng sản xuất lúa hàng hóa. Qua đó chuyển giao, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, quy trình sản xuất mới cho nông dân mang lại nguồn thu nhập cao.
MẠNH HOÀI NAM
CÂU CHUYÊN ẢNH THÁNG TƯ Hoàng Kim
Câu chuyện ảnh tháng Tư NƠI MỘT TRỜI THƯƠNG NHỚ Hoàng Kim
Nhớ ai vừng đông vừa rạng Ước dòng tin nhắn đầu tiên Hương đất thơm mùa ruộng cấy Phương Nam vời vợi bạn hiền.
Ở đâu lung linh Kiếp Bạc Sao Khuê mờ tỏ Côn Sơn Ở đâu một trời thương nhớ Cho ta khoảng lặng tâm hồn.
Ở đâu bàng hoàng Phố Thị Ngẫn ngơ nghĩ ngợi suốt chiều Con nhảy xe đò về ruộng Mưa dầm bóng Mẹ liêu xiêu.
Con ra nước ngoài học chữ Lời nào Thầy dạy đầu tiên Biết ơn nhọc nhằn Cha Mẹ Lấm lem con chữ ưu phiền.
Phố Thị ngày càng đông đúc Đồng Xuân xa lại càng thưa Vui với việc hiền ở phố Bâng khuâng thương nhớ chiêm mùa…
THẦY BẠN TRONG ĐỜI TÔI Hoàng Kim soi vào bạn quý là tìm lại bài học chính mình . Ngày 14 tháng 4 là ngày khởi đầu của kỷ nguyên Phật Giáo và giữa trung tuần tháng Tư trong tiết Thanh Minh. Hôm nay là ngày vui Mai Thành Phụng Nguyễn Thị Kim Hoàng bạn quý; ngày nhớ không quên của bạn quý Nguyễn Trọng Tùng. Tôi tìm về bài “Có một ngày như thế” và “Lời Thầy dặn” để tìm lại ít ảnh chọn và một số tư liệu ký ức không quên. Ngày Hạnh Phúc đọc lại kinh Dịch và lời khuyên của Trạng Trình: “Căn bản của học Dịch là phải biết tùy thời, hướng thiện và lạc quan. Tùy thời thì an nhàn. Tùy thời mà vẫn giữ được trung chính.”
Thương nước biết ơn bao người ngọc Vì dân qua bến nhẹ tênh lòng Nhớ bao tài đức đời phiêu dạt Ân tình lưu mãi những dòng sông .
QUẢNG BÌNH ĐẤT MẸ ƠN NGƯỜI Hoàng Kim
Quảng Bình đất Mẹ ơn Người Tổ tiên cát bụi nhiều đời thành quê Đinh ninh như một lời thề Trọn đời trung hiếu để về dâng hương
Lòng son trung chính biết ơn Quê hương chung đúc khí thiêng Quảng Bình Về quê kính nhớ Tổ tiên Mừng vui giữa chốn bạn hiền người thân
Đất trời ngày mới thanh tân Thung dung thăm hỏi ân cần níu chân. Đường xuân như một dòng sông Việt Nam thống nhất thác ghềnh đến nơi.
Hồn chính khí bốc lên ánh sáng Sáng choang ngọc đá giữa hoang tàn’. Tâm nhân văn lắng đọng tinh hoa Hoa Đất Hoa Người trong cõi Bụt
SỚM XUÂN ĐI TẢO MỘ Hoàng Kim
Sớm xuân đi tảo mộ Hoa vàng đua sắc hương Chùm khế hoa tím ngát Thung dung vui đời thường.
VIẾNG MỘ CHA MẸ thơ Hoàng Trung Trực
Dưới lớp đất này là mẹ là cha Là khởi phát đời con từ bé bỏng Là lời mẹ ru dịu dàng cánh võng Là binh đao cha một thuở đau đời
Hành trang cho con đi bốn phương trời Là nghĩa khí của cha, là nhân từ của mẹ Vẫn bầu sữa tinh thần không ngừng không nghỉ Để hành trang cho con đi tiếp cuộc đời
Cuộc đời con bươn chãi bốn phương trời Nay về lại nơi cội nguồn sinh trưởng Dâng nén hương mà lòng hồi tưởng Thuở thiếu thời dưới lồng cánh mẹ cha
“Ước hẹn anh em một lời nguyền Thù nhà đâu sá kể truân chiên Bao giờ đền được ơn trung hiếu Suối vàng nhắm mắt mới nằm yên”.
Hoàng Trung Trực đời lính ghi lại kỷ niệm một thời của người lính chấp nhận sự hi sinh thân mình cho độc lập tự do và thống nhất của Tổ Quốc. Trang thơ gắn với sự thân thiết của nhiều đồng đội đã ngã xuống, sự đau đời mảnh đạn trong người và sự mẫu mực thầm lặng, ung dung đời thường của người con trung hiếu sau chiến tranh. Bài thơ “Viếng mộ cha me” đã thay lời muốn nói cho nhiều người lính trở về sau chiến tranh,
Núi Đá Bia thiên nhãn phương nam Biển Vũng Rô mắt thần tịnh hải Tháp Nhạn người Chăm lưu đất Phú Mằng Lăng chữ Việt dấu trời Yên Xuân Đài thành cổ ghềnh Đá Đĩa Sông Ba sông Cái núi Cù Mông Vạn kiếp tình yêu ai gửi lại Ngàn năm Đại Lãnh nhạn quay về.
Vui được dịp sớm mai qua Đại Lãnh Ngắm đất trời núi biển lúc hừng đông Nghe vó ngựa ruổi dài đường vạn dặm Đá Bia ơi.thăm thẳm đất Tiên Rồng
Câu chuyện ảnh tháng Tư THẦY BẠN TRONG ĐỜI TÔI Hoàng Kim
Cảm ơn anh Hoàng Đại Nhân thơ hay chất phác chân tình xúc động, ảnh đẹp, xin được chia sẻ. Văn hóa là những gì lắng đọng khi người ta đã quên đi tất cả. Tôi nhớ về anh Hoàng Đại Nhân với ba kỷ niệm ấn tượng: Thứ nhất anh nhắn tôi và ít người thân kịp đến thăm thầy Dương Thanh Liêm trước ngày thầy đi vào cõi vĩnh hầng; Thứ hai, anh thật là người con trung hiếu với Tổ Quốc và Gia đình. Bố anh ngất trên luống cày khi anh hi sinh và trở lại; Thứ ba anh chơi với bạn chân thành và vui tính, chịu nghe lời khuyên tốt để nay thức dậy những trang thơ có ích cho mình và vui khỏe bạn hữu. Tôi khuyên anh níu thơ vì anh thực sự có khiếu. Anh thuở đi học vun vào cho Kim và Thủy nhưng đùa “Chân đi nhè nhẹ như voi giẫm/ Giọng nói thanh thanh tựa hổ gầm” Đến nay vẫn cười hoài khi nhắc lại, còn bạn Dung Kim thì bị đùa::”Bà Dung mà lấy ông Quyền / sinh ra con cái đen tuyền đầu đuôi” Nghịch đùa vậy nhưng anh em bạn học thật thân nhau, Thầy bạn trong đời tôi. Xin trích dẫn thơ anh trong bài Thầy Dương Thanh Liêm. cũng xin lưu lại chút ghi chép ở Câu chuyện ảnh tháng Tư
Thăm thầy giáo bệnh’ bài thơ xúc động của anh Hoàng Đại Nhân đã nói hộ cho biết bao tấm lòng sinh viên Đại học Nông Lâm chúng tôi và những người chăn nuôi Việt Nam biết ơn Thầy.
THĂM THẦY GIÁO BỆNH Hoàng Đại Nhân
Kính tặng Nhà giáo nhân dân, PGS. TS. Dương Thanh Liêm, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh.
Trọn đời gắn với giảng đường Một đời thanh bạch chẳng vương bụi trần Bàn chân đi khắp xa gần Vẫn nguyên cốt cách tảo tần hồn quê
Một đời yêu đến say mê Những trang giáo án truyền nghề lớp sau Một đời thận trọng từng câu Một lời giảng cũng nặng sâu nghĩa tình
Một đời làm việc hết mình Nâng niu tất cả, riêng mình thì quên Nỗi buồn, chôn dấu niềm riêng Niềm vui chia sẻ nhân thêm nghĩa tình
Một đời tình nghĩa phân minh Thầy trò chia sẻ nghĩa tình cha con. Tám mươi tuổi, sức hao mòn Mà trang giáo án vẫn còn trên tay
Cao xanh sao nỡ đặt bày Gây nên trọng bệnh để thầy đớn đau Cầu mong cơn bệnh qua mau Hết mưa lại sáng một bầu trời xanh
Mong thầy bình phục an lành Cây đại thụ của rừng xanh đại ngàn.
Tôi đồng cảm với anh Hoàng Đại Nhân và thật sự cảm phục thầy Dương Thanh Liêm.
Đức độ hi sinh, thanh liêm chính trực, tận tụy dạy người là ba bài học lớn của thầy Liêm
Hoàng Kim
TÂM SỰ CỦA NGƯỜI CỰU CHIẾN BINH Thơ Hoàng Đại Nhân
Người lính già ngồi trầm lặng nghĩ suy Nhớ đồng đội thời hiểm nguy trận mạc Từng bươn chải qua những kỳ đói khát Nay giản đơn trong cuộc sống đời thường
Người lính già không nặng nỗi vấn vương Chuyện xung quanh cứ nhẹ nhàng thanh thản Chỉ sâu nặng với nghĩa tình bè bạn Bạc trắng đầu, bạn cũ chẳng quên ai
Người lính già, tình son sắt không phai Rất trân trọng những máu xương đồng đội Suốt cuộc trường chinh hành quân không mỏi Mà có bao giờ nghĩ tới tấm Bằng khen
Người lính chân tình không hề sống bon chen Trong bom đạn, chẳng yếu hèn, sợ khó Khi ngã xuống, nhiều người không bia mộ Tấm Huân chương đâu ai nhận về mình.
Mà hôm nay trong kiếp sống nhân sinh Có những kẻ quên mình từng là lính Giỏi đục khoét, luôn ranh ma toan tính Sống nhởn nhơ trên xương máu đồng bào
Chúng ngụy trang bằng lớp phấn bảnh bao Khéo sơn phết, tưởng nào đâu… sạch lắm Những cựu binh từng qua trăm trận đánh Sẽ cùng nhân dân dẹp hết rác rưởi này.
Hạnh phúc vô cùng trong cuộc sống hôm nay Những Cựu chiến binh luôn xiết tay, gắn bó Truyền thống anh hùng Trường Sơn một thuở Càng thấy yêu hơn những đồng đội thân thương.
VGP NewsChủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc viếng Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ
(Chinhphu.vn) – Ngày 22/10, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã tới Tổ đình Viên Minh (chùa Ráng), xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội viếng Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ, Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Theo Báo điện tử Chính phủ Nước Công hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Ngày 22/10, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã tới Tổ đình Viên Minh (chùa Ráng), xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội viếng Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ, Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Cùng đi có đại diện lãnh đạo Ủy ban Trung ương Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam, Ban Dân vận Trung ương, Bộ Nội vụ, Ban Tôn giáo Chính phủ và UBND thành phố Hà Nội.
Tại lễ viếng, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã đặt vòng hoa, thắp hương viếng và tưởng niệm cố Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ. Chủ tịch nước đã ghi sổ tang, bày tỏ niềm tiếc thương: “Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ, Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, bậc cao tăng, thạch trụ, vị chân tu thanh bạch của Phật giáo thời nay, là biểu tượng của tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo. Trên cương vị lãnh đạo cao nhất của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Hòa thượng luôn gương mẫu, chỉ dẫn và định hướng Giáo hội Phật giáo Việt Nam thực hiện tốt phương châm “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”.
Cuộc đời Hòa thượng là minh chứng sinh động cho những giá trị văn hóa, đạo đức của Phật giáo trong đời sống xã hội. Với những cống hiến to lớn cho đất nước, Hòa thượng Thích Phổ Tuệ đã được Nhà nước ghi nhận và trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh cùng nhiều phần thưởng cao quý khác”.
Chủ tịch nước cũng bày tỏ thành kính phân ưu và gửi lời chia buồn sâu sắc đến Trung ương Giáo hội, tăng ni, tín đồ Phật giáo Việt Nam ở trong và ngoài nước; mong quý vị tăng ni, tín đồ Phật giáo Việt Nam hãy học gương tu hành cao đẹp của Hòa thượng để cùng nhau xây dựng Giáo hội Phật giáo Việt Nam đoàn kết, vững mạnh, ngày càng đóng góp xứng đáng cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ, thế danh là Bùi Văn Quý, sinh năm 1917 tại thôn Phùng Thiện, xã Khánh Tiên, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, xuất gia năm 1923.
Trải qua 105 năm hiện diện ở cõi Sa Bà, với 85 hạ lạp, Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ đã trọn đời hiến dâng cho lý tưởng hoằng pháp lợi sinh, Ngài đã đảm nhiệm nhiều chức vụ trong các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam như: Trưởng Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Hà Tây, Viện trưởng Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội, Tổng Biên tập tạp chí Nghiên cứu Phật học, Phó Trưởng ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương, Phó ban Ban Tăng sự Trung ương, Phó Chủ tịch Hội đồng trị sự, Phó Pháp chủ kiêm Chánh Thư ký Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Tại Đại hội Đại biểu Phật giáo Toàn quốc lần thứ VI (2007), Ngài được suy tôn ngôi vị Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trở thành Pháp chủ thứ ba của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Từ đó đến nay, trải qua các nhiệm kỳ Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ VII (2012), VIII (2017) Ngài luôn luôn được Đại hội suy tôn ngôi vị Thiền gia Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ là vị cao tăng uyên thâm Phật pháp, đức trí vẹn toàn, có nhiều đóng góp to lớn, là tấm gương quy tụ tăng ni, phật tử đoàn kết, lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam vững vàng phương châm “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”, giữ vững truyền thống “Hộ quốc, an dân” của Phật giáo Việt Nam.
Đại lão Hòa thượng đã được Nhà nước trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng Nhì, Huân chương Đại Đoàn kết dân tộc; được tặng thưởng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Bằng khen của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, nhiều Bằng Tuyên dương công đức của Giáo hội Phật giáo Việt Nam và nhiều phần thưởng cao quý khác.
Là bậc chân tu nổi tiếng tinh thông kim cổ, trọn đời sống thanh bần, lạc đạo, tụng kinh viết sách, tu tập dưới mái chùa làng khiêm tốn, thanh tịnh, Đại lão Hòa thượng đã tham gia biên soạn, dịch, hiệu đính nhiều tác phẩm về Phật học ở Việt Nam. Ông nhiều năm liền giữ ngôi Đường Chủ của các trường hạ tại Hà Nội, Hưng Yên… cũng như ngôi Hòa thượng đầu đàn trong rất nhiều Đại giới đàn ở các tỉnh.
Do niên cao, lạp trưởng, Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ đã thu thần viên tịch vào lúc 3h22 ngày 21/10/2021 (nhằm ngày 16 tháng 9 năm Tân Sửu), Trụ thế: 105 năm, Hạ lạp: 85 năm; để lại trong lòng môn đô tứ chúng, Tăng Ni Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước niềm kính thương vô hạn.
Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, thanh thản, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm. Minh triết sống thung dung phúc hậu.
Bài giảng đầu tiên của Phật
Tứ Diệu đế – Sự khổ: Nguyên nhân, Kết quả và Giải pháp – là bài giảng đầu tiên của Phật (Thích ca Mầu ni -Siddhartha Gamtama), nhà hiền triết phương đông cổ đại. Người là hoàng tử Ấn Độ, đã có vợ con xinh đẹp nhưng trăn trở trước sự đau khổ, thiếu hoàn thiện và vô thường (Dukkha) của đời người mà Phật đã xuất gia vào năm hai mươi chín tuổi để đi tìm sự giác ngộ. Người đã dấn thân suốt sáu năm trời tự mình đi tìm kiếm những vị hiền triết nổi tiếng khắp mọi nơi trong vùng để học hỏi và thực hành những phương pháp khác nhau nhưng vẫn chưa đạt ngộ. Cho đến một buổi chiều ngồi dưới gốc bồ đề, thốt nhiên Người giác ngộ chân lý mầu nhiệm lúc ba mươi lăm tuổi. Sau đó, Người đã có bài giảng đầu tiên cho năm người bạn tu hành. Mười năm sau, Phật thuyết pháp cho mọi hạng người và đến 80 tuổi thì mất ở Kusinara (Uttar Pradesh ngày nay). Học thuyết Phật giáo hiện có trên 500 triệu người noi theo.
Bài giảng đầu tiên của Phật là thấu hiểu sự khổ (dukkha), nguyên nhân (samudaya), kết quả (nirodha) và giải pháp (magga). Tôn giáo được đức Phật đề xuất là vụ nổ Big Bang trong nhận thức, san bằng mọi định kiến và khác hẵn với tất cả các tôn giáo khác trước đó hoặc cùng thời trong lịch sử Ấn Độ cũng như trong lịch sử nhân loại. Phật giáo chủ trương bình đẳng giai cấp, bình đẳng giữa con người có máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn, hết thảy các pháp là vô ngã. Mục đích là vô ngã là sự chấm dứt đau khổ và phiền muộn để đạt sự chứng ngộ bất tử, Niết bàn.
Kinh Phật với triết lý vô ngã: Chân lý là suối nguồn, chứ không phải là con người thần thánh hoặc chân lý tuyệt đối. Vị trí độc đáo của Phật giáo là một học thuyết mang đầy đủ tính cách mạng tư tưởng và cách mạng xã hội. Tiến sĩ triết học Walpola Rahula là giáo sư Trường Đại học Tổng hợp Ceylan (Pháp) đã tìm tòi văn bản cổ và giới thiệu tài liệu nghiêm túc, đáng tin cậy này (Lời Phật dạy. Lê Diên biên dịch).
Suối nguồn tươi trẻ Thiền tông
‘Bất lập văn tự. Giáo ngoại biệt truyền. Trực chỉ nhân tâm. Kiến tánh thành Phật’. Không lập giáo điều, truyền dạy ngoài sách, vào thẳng lòng người, giác ngộ thành Phật Thiền sư Bồ-đề-đạt-ma (?-532) đã nêu ra triết lý căn bản Thiền tông để Dạy và Học.Thiền tông Phật giáo Đại thừa nguồn gốc từ đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã đạt được sự giác ngộ dưới gốc cây Bồ-đề ở Ấn Độ. Thiền sư Bồ-đề-đạt-ma là Tổ sư Ấn Độ đời thứ 28 đã truyền bá và phát triển Thiền tông lớn mạnh tại Trung Quốc. “Thiền” nhấn mạnh kinh nghiệm thực tiễn chứng ngộ ‘trực chỉnhân tâm, kiến tính thành Phật’ . Nhà Ấn Độ học và Phật học người Đức Hans Wolfgang Schumann trong tác phẩm Đại thừa Phật giáo (Mahāyāna-Buddhismus) đã viết:“Thiền tông có một người cha Ấn Độ nhưng đã chẳng trở nên trọn vẹn nếu không có người mẹ Trung Quốc.Cái ‘dễ thương’,cái hấp dẫn của Thiền tông chính là những thành phần văn hoá nghệ thuật, những đặc điểm sắc thái riêng của Trung Quốc, không phải của Ấn Độ. Những gì Phật giáo mang đến Trung Quốc, với tư tưởng giải thoát tuyệt đối, trình bày một cách nghiêm nghị khắt khe với một ngón tay trỏ chỉ thẳng, những điều đó được các vị Thiền sư thừa nhận, hấp thụ với một nụ cười thầm lặng đầy thi vị. Thành tựu lớn lao của các Đại luận sư Ấn Độ là nhét ‘con ngỗng triết lý’ vào cái lọ ‘ngôn từ, thì chính nơi đây tại Trung Quốc, con ngỗng này được thả về với thiên nhiên mà không hề mang thương tích.” Thiền tông là sự “truyền pháp ngoài kinh điển” đạt ‘giác ngộ tức thì’ tại đây, ngay lúc này, chứng ngộ ‘kiến tính thành Phật’ do bản ngã chân tính và nhân duyên. Phật Thích Ca trên núi Linh Thứu im lặng đưa lên cành hoa, Thiền sư Ca Diếp mỉm cười thấu hiểu và đức Phật Thích Ca đã ấn chứng cho Thiền sư Ca Diếp là Sơ tổ của Thiền tông Ấn Độ.
Thiền tông Việt Nam có từ rất sớm tại Luy Lâu do Thiền tông Ấn Độ truyền bá vào Việt Nam trước tiên ở thế kỷ thứ 2 và thứ 3, rước cả Trung Quốc (thế kỷ thứ 6) Nhật Bản (thế kỷ 11, 12) và các nước châu Á khác. Các Sơ Tổ Thiền tông Việt Nam là thiền sư Khương Tăng Hội và Mâu Tử. Thiền tông Việt Nam nguồn gốc lâu đời trong lịch sử Việt Nam và phát triển rực rỡ nhất thời nhà Trần với Thiền phái Trúc Lâm. Trần Nhân Tông (Trần Khâm 1258- 1308) là vua Phật đời Trần (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Người là tổ sư Trúc Lâm Yên Tử, nhà chiến lược kỳ tài, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà thơ lớn Con Người Hoàn Hảo dân tộc Việt Nam. Người đã viết: Cư trần lạc đạo, triêt lý nhân sinh rất nổi tiếng “Ở đời vui đạo, mặc tùy duyên/ Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền/ Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm/ Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.
Trúc Lâm Yên Tử, Trần Nhân Tông
Trần Nhân Tông (Trần Khâm 1258- 1308) là vua Phật đời Trân (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Người là tổ sư Trúc Lâm Yên Tử, nhà chiến lược kỳ tài, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà thơ lớn và Con Người Hoàn Hảo của dân tộc Việt Nam. Người đã viết: Cư trần lạc đạo, triêt lý nhân sinh rất nổi tiếng “Ở đời vui đạo, mặc tùy duyên/ Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền/ Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm/ Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.”
Trần Nhân Tông với 50 năm cuộc đời đã kịp làm được năm việc lớn không ai sánh kịp trong mọi thời đại của tất cả các dân tộc trên toàn thế giới: Minh quân lỗi lạc, làm vua 15 năm (1278 – 1293) trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông là đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới của thời đó; Vua Phật Việt Nam, tổ sư thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và Thái Thượng Hoàng 15 năm (1294-1306). Nhà văn hóa và nhà thơ kiệt xuất với thắng tích Trúc Lâm Yên Tử và kiệt tác Trần Nhân Tông còn mãi với thời gian, hoàn thành sư mệnh của bậc chuyển pháp luân, mang sự sống trường tồn vươt qua cái chết; Người Thầy của chiến lược vĩ đại yếu chống mạnh, ít địch nhiều bằng thế đánh tất thắng “vua tôi đồng lòng, toàn dân đồng sức”tạo lập sự nghiệp mở nước và thống nhất non sông Việt, mở đất phương Nam bằng vương đạo, thuận thời, thuận người; Con người hoàn hảo, đạo đức trí tuệ, kỳ tài trị loạn, đã hưng thịnh nhà Trần và cứu nguy cho nước Việt tại thời khắc đặc biêt hiểm nghèo, chuyển nguy thành an, biến những điều không thể thành có thể.
Giáo sư sử học Trần Văn Giàu nhận định: “… chưa tìm thấy lịch sử nước nào có một người đặc biệt như Trần Nhân Tông ở Việt Nam. Tại nước Tàu lúc bấy giờ Triều đình nhà Tống rất hùng mạnh nhưng quân Nguyên Mông đã tràn xuống đánh thắng thần tốc, đến nỗi vua quan nhà Tống phải chạy ra biển và nhảy xuống biển tự vẫn. Tại Tây Á, Trung Á và một phần châu Âu cũng thua thảm hại, đến nỗi Giáo hoàng La Mã cũng lên tiếng sợ hãi. Trong lúc ấy Việt Nam so với phương Bắc thì quá nhỏ bé và quá nghèo yếu, thế mà Người dám không cho Nguyên Mông mượn đường xâm lược Chiêm Thành. Lại còn đánh bại ba lần Nguyên Mông xâm lược. Sau khi thắng giặc, Người lại lên núi sống. Người dám nghĩ, dám làm những việc không ai dám nghĩ chứ đừng nói đến làm”
Phật giáo Khoa học và Việt Nam
Nhà bác học Anhstanh, cha đẻ của Thuyết tương đối, đã nhận định: “Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học” . “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó” . “Khoa học mà thiếu tôn giáo là khập khiễng. Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng” . Cả ba câu này đều được trích từ Những câu nói nổi tiếng của Anhstanh (Collected famous quotes from Albert), và được dẫn lại trong bài Minh triết sống thung dung phúc hậu của Hoàng Kim
Khoa học và thực tiễn giúp ta tìm hiểu những phương pháp thực tế để thể hiện ước mơ, mục đích sống của mình nhằm sống yêu thương, hạnh phúc,vui khỏe và có ích. Đọc rất kỹ lại Ki tô giáo, Hồi giáo,Do Thái giáo,Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, … và chiêm nghiệm thực tiễn , tôi thấm thía câu kinh Phật với triết lý vô ngã: Chân lý là suối nguồn chứ không phải là con người thần thánh hay chân lý tuyệt đối. Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông có minh triết: Hãy quay về tự thân chứ không tìm ở đâu khác. Luật Hấp Dẫn, Thuyết Tương đối, Thành tựu Khoa học và Thực tiễn giúp ta khai mở nguồn năng lượng vô tận của chính bản thân con người và thiên nhiên. Đó là ba ngọn núi cao vọi của trí tuệ, là túi khôn của nhân loại. Bí mật Tâm linh (The Meta Secret) giúp ta khám phá sâu sắc các quy luật của vũ trụ liên quan đến Luật Hấp Dẫn đầy quyền năng. Những lời tiên tri của các nhà thông thái ẩn chứa trong Kinh Vệ đà, Lời Phật dạy, Kinh Dịch, Kinh Thánh, Kinh Koran …, cũng như xuyên suốt cuộc đời của những con người vĩ đại trên thế giới đã được nghiên cứu, giải mã dưới ánh sáng khoa học; Bí mật Tâm linh là sự khai mở những nguồn năng lượng vô tận của chính bản thân mỗi con người đối với đồng loại, các loài vật và thiên nhiên. Suối nguồn chân lý trong di sản văn hóa, lịch sử, giáo dục, kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao của mỗi dân tộc và nhân loại lưu giữ nhiều điều sâu sắc cần đọc lại và suy ngẫm.Qua đèo chợt gặp mai đầu suối. Gốc mai vàng trước ngõ.
Việt Nam là chốn tâm thức thăm thẳm của đạo Bụt (Phật giáo) trãi suốt hàng nghìn năm. Lịch sử Phật giáo Việt Nam theo sách Thiền Uyển tập anh xác nhận là đạo Phật được truyền trực tiếp từ Ấn Độ theo đường biển vào Việt Nam, gồm Giao Chỉ ở phía bắc và Chăm pa ở phía nam, khoảng thế kỉ thứ ba đến thế kỉ thứ hai trước Công nguyên, chứ không phải từ Trung Hoa như một số quan niệm trước đây. Phật giáo đồng hành chung thủy, lâu bền với dân tộc Việt, dẫu trãi nhiều biến cố nhưng được dẫn dắt bởi những nhà dẫn đạo sáng suốt và các đấng minh vương, lương tướng chuộng nhân ái của các thời nên biết thể hiện sự tốt đạo, đẹp đời. Việt Nam là nước biết tiếp thu, chắt lọc tri thức tinh hoa của nhân loại, chuộng sự học, đồng thời biết quay về với tự thân tổng kết thực tiễn, chứ không tìm ở đâu khác.
Việt Nam, Khoa học và Phật giáo là ba nhận thức căn bản của tôi.
Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, thanh thản, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm
Nếu thầy Thích Phổ Tuệ ấn chứng bạch ngọc (hạt gạo trắng ngần) thì cứ để nguyên vậy.
Thiển nghỉ của Bu thì có khác chút xíu. Bạch Ngọc là ngọc trắng thì chưa nói chi đến hạt gạo cả.
Thực ra hạt gạo không trắng thậm chí gạo lứt thì dinh dưỡng nhiều hơn gạo trắng. Bu được biết người Mỹ chế ra máy xát gạo trắng sau đó thấy là sai lầm bèn chế ra một thứ bột cho vào gạo để bù lại phần cám đã mất đi. Nhưng khi nấu cơm người ta vo gạo thì bột đó lại mất đi.
Dân gian nói hạt gạo là ngọc trời cho, trong trường hợp này là MỄ NGỌC.
Đấy cũng là nói cho vui.
HOA LÚAGIỮA ĐỒNG XUÂN Hoàng Kim
Bao năm Trường Viện là nhà Sắn khoai ngô lúa đều là thịt xương Một đời người một rừng cây Thầy ươm giống tốt để mai thành rừng.
Con theo Người nguyện làm Hoa Lúa Bưng bát cơm đầy quý giọt mồ hôi Trọn đời vì Dân mến thương hạt gạo Hoa quê hương hạt ngọc trắng ngần.
Con thăm Thầy lên non thiêng Yên Tử Về đất lành chùa Ráng (*) giữa đồng xuân Thơm hương lúa ngậm đòng chăm bón đúng Ngát gương sen lồng lộng bóng trúc mai
“Lẫn với cỏ không tranh đua hương vị Không màng ngôi ngự trị các loài hoa Hoa Lúa đượm hồn quê dung dị Quên sắc hương để lộng lẫy Hoa Người ! ” (**)
Con nguyện ước nối đời theo hạt gạo Chén cơm ngon thơm bếp lửa gia đình Thầy Trò cùng chung tay làm việc thiện Sống trọn tình với giấc mơ xanh.
Nhớ Pháp Chủ người hiền Thích Phổ Tuệ Viên ngọc lành tính sáng gửi tin yêu: “Mưa thuận gió hòa chăm bón đúng Nhântươi quả tốt được thu nhiều”
Thương hạt ngọc trắng ngần vui Bạch Ngọc Phước nhân duyên thơm thảo học làm người “Thơm hương lúa ngậm đòng chăm bón đúng Mưathuận gió hòa nhân quả tốt tươi”
Ngát hương sen lồng lộng bóng trúc mai Đồng xanh đất lành trời xanh bát ngát Hoa Đất, Hoa Người tổ tiên phước đức Con biết ơn Người hiếu thảo ghi ơn …
Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ viết “Mưa thuận gió hòa chăm bón đúng. Nhân tươi quả tốt được thu nhiều” và ấn chứng Bạch Ngọc (hạt gạo trắng ngần) cho người có tâm nguyện trọn đời theo nghề nông. Viên Minh Thích Phổ Tuệ sinh ngày 12 tháng 4 năm 1917 đến nay đã trụ thế trãi trên 105 xuân (2021), Người từng nói: “Sống ở trên đời này được bao nhiêu năm, theo tôi, không phải là thước đo giá trị của đời người. Con rùa nó sống hàng ngàn năm thì đã sao? Vấn đề là sống để thực hiện sứ mệnh gì, mang lại lợi ích gì cho Đời, cho Đạo, ngài Trần Nhân Tông chỉ ở đời có 51 năm, Ngài Pháp Loa có 47 năm mà công nghiệm thì bất khả tư nghì. Tôi trụ thế đến nay.( …) nghiệp là tu hành, nuôi thân thể chủ yếu bằng nghề làm ruộng, chưa từng dám lạm dụng một bát gạo, một đồng tiền của tín thí thập phương, khi nào chư Phật, chư Tổ cho gọi thì về thôi” . Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ là người đóng góp nhiều công trình nghiên cứu, biên soạn, dịch thuật về Phật học như: Đại từ điển Phật học, Đại Luật, Đại tạng kinh Việt Nam, Đề cương Kinh Pháp Hoa, Kinh Bách Dụ, Phật Tổ Tam Kinh, Phật học là tuệ học.Thiền sư Thích Phổ Tuệ là đệ Tam pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam. xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vien-minh-thich-pho-tue/
Ngày ghi nhớ trong trái tim tôi. CIMMYT tươi rói một kỷ niệm. Ngày 29 tháng 8 (âm lịch) năm 1988 là kỷ niệm ngày mất của cha tôi. Ngày này năm xưa, dưới vòm cây xanh do Thầy Norman Borlaug trồng ở CIMMYT Thầy với tôi đã trò chuyện về Goethe, cây xanh, nhà khoa học xanh.
LỜI THẦY DẶN THUNG DUNG Norman Borlaug nhà khoa học xanh‘ Hoàng Kim
Việc chính đời người chỉ ít thôi Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi Phúc hậu suốt đời làm việc thiện Di sản muôn năm mãi sáng ngời.
Norman Borlaug người Thầy sống nhân đạo, làm nhà khoa học xanh và nêu gương tốt. Thầy là nhà nhân đạo, nhà nông học Mỹ cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và Tổng thống Mỹ trao tặng huân chương cao quý nhất của nước Mỹ, thế giới tôn vinh là nhà bác học số một của nhân loại trong cuộc chiến chống nghèo đói. Thầy đã suốt đời nghiên cứu giảng dạy về chọn tạo và phát triển cây lương thực, góp phần cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập cho hàng trăm triệu nông dân nghèo ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Thầy là người sáng lập Giải thưởng Lương thực Thế giới và tổ chức nhiều hoạt động thiết thực thắp sáng niềm tin yêu cuộc sống.
Tôi được Thầy ghé thăm gần trọn buổi chiều tại phòng riêng ở CIMMYT, Mexico ngày 29.8.1988. Thầy đã một mình ghé thăm người trò nhỏ duy nhất của châu Á trong lớp học “Quản lý Trung tâm/ Trạm trại Nông nghiệp”. Khi Thầy đến, tôi đang thắp nến trên giá sách trong phòng đề tưởng nhớ ngày cha mất. Biết cha tôi bị bom Mỹ giết hại tại làng nhỏ ở Quảng Bình của buổi chiều này hai mươi năm trước (1968) lúc tôi còn là học sinh trung học của Trường cấp Ba Bắc Quảng Trạch, Thầy bối rối xin lỗi và thật bất ngờ tôi đã có được một buổi chiều vô giá riêng tư bên Thầy.
Lời Thầy dặn thật thấm thía: “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời”. Trích “Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời” – Hoàng Kim
NGÀY NHỚ TRONG TIM TÔI
Ngày ghi nhớ trong trái tim tôi là ngày mất của cha tôi 29 tháng 8 âm lịch. Mỗi gia đình đều có những ngày riêng để ghi nhớ. Với gia đình chúng tôi ngày này là một kỹ niệm không bao giờ quên. Lịch Vạn Niên ngày dương lịch có thể đổi thay nhưng ý nghĩa của sự kiện vẫn vậy. Ngày này cha tôi mất năm 1968 và thầy Hiệu trưởng Trần Đình Côn đã viết Bài ca Trường Quảng Trạch với những câu thơ đẫm nước mắt “Thương em cảnh gieo neo mẹ mất, lại cha già giặc giết hôm qua”. Hai mươi năm sau, ngày này năm 1988, tại phòng riêng của tôi ở CIMMYT Mexico, tôi bất ngờ được thầy Norman Borlaug, người đoạt giải Nobel hòa bình, cha đẻ cách mạng xanh, nhà bác học hàng đầu của nông nghiệp hiện đại tới thăm. Thầy đã dành trọn buổi chiều để trò chuyện và khai mở tâm thức cho tôi….
29 tháng 8 âm lịch năm 2016 trùng ngày 29 tháng 9 kỷ niệm 50 năm thành lập CIMMYT tôi nhớ đến cha tôi, người thầy và cũng là anh hai Hoàng Ngọc Dộ tần tảo thay cha mẹ nuôi em năm năm ngày một bữa, thầy Nguyễn Khoa Tịnh khóc trên bục giảng cùng thầy bạn nhường cơm xẻ áo cho tôi, thầy Mai Văn Quyền mà tôi viết trên trang cảm ơn của luận án tiến sĩ để nói lên tình cảm của tôi đối với thầy cô: “Ơn Thầy. Cha ngày xưa nuôi con đi học. Một nắng hai sương trên những luống cày. Trán tư lự, cha thường suy nghĩ. Phải dạy con mình như thế nào đây? Cha mất sớm, bom thù rung mặt đất. Cái chết giằng cha ra khỏi tay con. Mắt cha lắng bao niềm ao ước. Vẫn lo cho con đến phút cuối cùng. Giặc giết cha, cha chưa kịp thấy. Tương lai con đi, sự nghiệp con làm. Cha có biết, luống cày cha bỏ dỡ. Cha ngã xuống rồi trao lại tay con. Trên luống cày này, đường cày con vững. Bởi có dáng thầy thay bóng cha xưa. Hiểu mảnh đất máu đào cha nhuộm đỏ. Thôi thúc tim con học tập phút giờ
Tôi nhớ Thầy Norman Borlaug trong biết bao câu chuyện đời thường và sự kiện. Tôi nhớ về ngày ghi nhớ trong trái tim tôi. Tôi nhớ Cha Mẹ tôi, nhớ Thầy Mai Văn Quyền, nhớ người anh cũng là thầy tôi Hoàng Ngọc Dộ, nhớ thầy Nguyễn Khoa Tịnh và biết bao thầy bạn trong đời tôi đã cho tôi học làm người. Norman Borlaug và ngày 29 tháng 8 (âm lịch) năm 1988 là kỷ niệm ngày mất của cha tôi dưới vòm cây xanh do Thầy trồng ở CIMMYT gợi nhớ buổi chuyện trò của Thầy với tôi về Goethe và cây xanh.
Một ngày không thể nào quên. Ngày này cũng gợi nhớ ngày Lương thực thế giới (World Food Day) 16 tháng 10 là ngày kỷ niệm thành lập Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc năm 1945, cũng là ngày Khoa học kỹ thuật thực phẩm. Ngày 17 tháng 10 là ngày Thế giới chống đói nghèo; Năm 1979, mẹ Têrêsa được trao giải Nobel Hòa bình do những hoạt động nhằm đấu tranh vượt qua nghèo khó tại Ấn Độ; Năm 1849 ngày mất Chopin nhà soạn nhạc nổi tiếng người Ba Lan.
NHỮNG NGƯỜI VIỆT Ở FAO Hoàng Kim
Tổ chức Lương Thực Nông nghiệp Quốc tế (FAO) thật hoành tráng ! Bạn chỉ cần dạo qua một vòng trang viết này của FAO trên Face Book là đủ ngưỡng mộ. Đó là điểm kết nối tới website http://www.fao.org nguồn thông tin chuyên ngành nông nghiệp chọn lọc hàng đầu của thế giới, kho tri thức mênh mông như biển cả cho bất cứ ai quan tâm đến nông dân, nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là các nhà hoạch định chính sách, nhà nghiên cứu, thầy giáo, khuyến nông viên, sinh viên và nhà nông. Tôi nợ bài viết “Những người Việt FAO” đã ba năm qua vì chỉ mới lưu một điểm nhấn (note) trong tình yêu cuộc sống chuyện đời tự kể mà chưa có điều kiện viết hoàn chỉnh. Mark Zuckerberg và Facebook thật dễ thương khi nhắc tôi viết tiếp câu chuyện thú vị này để nối dài chuyện kể với bạn vì chuyện thật hay mà ít người biết rõ.
Thành tựu nông nghiệp Việt Nam trong thông tin toàn cầu nổi bật hơn hết là sản xuất và xuất khẩu lúa gạo. Câu chuyện “hột lúa và con cá” là câu chuyện dài nhưng FAO không chỉ tôn vinh gạo Việt trong an ninh lương thực toàn cầu mà còn thể hiện ở sự tín nhiệm của FAO với chuyên gia cao cấp Giáo sư Tôn Thất Trình, tiến sĩ Trần Văn Đạt, tiến sĩ Nguyễn Văn Ngưu, phó giáo sư tiến sĩ Bùi Bá Bổng là những chuyên gia cao cấp tại FAO về sản xuất lúa gạo, là các diện mạo lớn của Việt Nam ở vị trí Chánh chuyên gia Tổng Thư ký của Ủy ban Lúa Gạo Quốc tế. Họ liên tục kế tiếp nhau giữ trọng trách chăm lo cho cây lúa hột gạo và chén cơm ngon của người dân. Từ câu chuyện “Giao ban cây lúa ở Viện Lúa” qua bốn đời Viện trưởng Luật Bổng Bửu Bảnh đến câu chuyện “Giao ban cây lúa ở FAO” của bốn đời Chánh chuyên gia Tổng Thư ký Ủy ban Lúa Gạo Quốc tế “Trình, Đạt Ngưu Bổng” là câu chuyện thú vị chuyển từ tầm nhìn cây lúa Việt Nam đến tầm nhìn cây lúa toàn cầu.
Hiểu tình yêu cuộc sống Hiền tài dày sử thi “Mọi lý thuyết đều là màu xám, chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi” Goethe trao tặng cho tôi Ngọc minh triết của Người.
Người hóa thân trong thanh thản bóng cây xanh Người đàm đạo với Norman Borlaug và cậu học trò nghèo Về ý tưởng xanh Con đường xanh Hành trình xanh Sự nghiệp xanh Nhà khoa học xanh và giấc mơ hạnh phúc
Goethe là vòm cây xanh Goethe cũng là lão nông ngồi cùng chúng ta chuyện trò trên cánh đồng xanh hạnh phúc.
Goethe và Norman Borlaug là những trí tuệ bậc Thầy. Họ không màng hư vình mà hướng tới đỉnh cao hòa bình sự an lành tiến bộ.
Anh và em cùng Goethe Ở FAO, Rome, Italy Người hóa thân thành nữ thần Tình Yêu (*)
Bác Hồ nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành“. Việt Nam con đường xanh cốt lõi là an dân với năm yếu tố: An sinh xã hội; An tâm; An lạc; An toàn; An ninh.
Định hướng chiến lược quốc gia, phương hướng nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế xã hội 2021-2030xác định 10 giải pháp cơ bản: (* Đảng Cộng Sản Việt Nam 2020, Dự thảo các văn kiện trình đại hội Đảng XIII của Đảng)
1) Tập trung hoàn thiện nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước và thị trường.
2) Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế;
3) Phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế;
4) Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm thực chất, hiệu quả; phát triển nền kinh tế số; thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô;
5) Phát triển kết cấu hạ tầng, kinh tế vùng, kinh tế biển, lấy các đô thi làm động lực phát triển vùng và đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới;
6) Phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân;
7) Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai;
8) Củng cố, tăng cường quốc phóng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia;
9) Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập và vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế;
10) Tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động; đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tạo đột phá trong cải cách hành chính.
13 sản phẩm nông nghiệp chủ lực quốc gia đã được xác định bởi Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tại Thông tư số 37 /2018/TT /BNNPTNT ngày 25/12/2018 gồm Gạo, Cà phê, Cao su, Điều, Hồ tiêu, Chè, Rau Quả, Sắn và sản phẩm từ sắn, Thịt lợn, Thịt và trứng gia cầm, Cá tra, Tôm, Gỗ và sản phẩm từ gỗ.
5 nhóm giải pháp chính phương hướng nhiệm vụ giải pháp nông nghiệp 2021- 2030 để đảm bảo 13 khối sản phẩm nông nghiệp chủ lực phát huy hiệu quả giá trị, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân lao động Việt Nam cần tổ chức điều hành thật tốt :
1) Nông sản Việt 13 ngành hàng chủ lực kết nối mạnh mẽ với thị trường thế giới, xác định lợi thế so sánh và hệ thống giải pháp bảo tồn phát triển bền vững, hiệu quả khoa học công nghệ, kinh tế an sinh xã hội môi trường và vị thế quan trọng của từng ngành hàng. Nâng cao hiệu quả, hiệu lực hợp tác đầu tư nước ngoài có trọng tâm, trọng điểm, có chọn lọc, ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, quản trị hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, kết nối Nông sản Việt đạt lợi thế cạnh tranh cao trong chuỗi cung ứng toàn cầu, có tác động lan tỏa, kết nối chặt chẽ hữu cơ với khu vực kinh tế trong nước. Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, hiệu quả, đẩy mạnh hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, kết nối với hệ thống tiêu thụ toàn cầu. Phát triển mạnh doanh nghiệp nông nghiệp, hổ trợ, khuyến khích phát triển kinh tế trang trại, hợp tác xã nông nghiệp và các tổ hợp tác. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp.
2) Phát triển mạnh nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, sạch, nông nghiệp hữu cơ, đạt tiêu chuẩn phổ biến về an toàn thực phẩm. Đổi mới chính sách quản lý và sử dụng đất trồng lúa, hàng năm sản xuất khoảng 35 triệu tấn lúa làm nòng cốt bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với lợi thế và nhu cầu thị trường, tăng khả năng chống chịu, thích ứng của nông dân với biến đổi khí hậu từng vùng, miền, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, ổn định. Tổ chức kết nối nông nghiệp với công nghiệp chế biến, thị trường xuất khẩu, chuỗi giá trị toàn cầu.
3) Phát triển chăn nuôi công nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khuyến khích phát triển chăn nuôi trang trại, gia trại hiệu quả cao, thân thiện với môi trường. Phát triển nuôi trồng thủy sản cá trên biển và mặt nước nội địa theo hướng công nghiệp, quảng canh cải tiến , sinh thái, nâng cao hiệu quả khai thác xa bờ , phát triển đánh bắt hải dương. Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ và phát triển nguồn lợi hải sản;
4) Quản lý chặt chẽ, bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng rừng trồng, nhất là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đầu, rừng phòng hộ ven biển. Chú trọng phát triển trồng rừng gỗ lớn, nâng cao hiệu quả rừng trồng, lâm đặc sản, đáp ứng cơ bản nhu cầu lâm sản trong nước làm nguyên liệu chế biến xuất khẩu. Tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào các chuỗi giá trị lâm nghiệp.
5) Đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới và quản lý sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai. Đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia thượng nguồn và các tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên nước ở lưu vực các dòng sông xuyên biên giới, nhất là sông Mê Công và sông Hồng. Nâng cao tính chống chịu và thích ứng biến đổi khí hậu của hệ thống kết cấu hạ tầng và của nền kinh tế Việt Nam, thực hiện các giải pháp thông minh để thích ứng trong nông nghiệp, thủy sản và phát triển rừng. Giảm thiểu những rũi ro do biến đổi khí hậu gây ra, đặc biệt là xâm nhập mặn, sạt lở tại Đồng Bằng Sông Cửu Long, an toàn lụt và môi sinh tại Hà Nội và vùng Đồng Bằng Sông Hồng khô hạn tại Tây Nguyên, Nam Trung Bộ,Bắc Trung Bộ Bảo vệ an ninh nguồn nước, tăng cường quản lý và khai thác, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm nguồn nước theo lưu vực sông, ngăn chặn suy giảm tài nguyên nước, tích nước điều tiết nguồn nước hợp lý phục vụ phát triển kinh tế xã hội. Quản lý chặt chẽ và nâng cao hiệu lực quản lý, hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài nguyên, nhất là đất, nước khoáng sản, theo nguyên tắc thị trường. Phát triển thị trường, đẩy mạnh thương mại hóa quyền sử dụng đất, tăng cường đăng ký quyền sử dụng đất và áp dụng định giá đất theo thị trường, bảo đảm công khai, minh bạch. Phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, mạng lướí các dự án hạ tầng trọng điểm quốc gia kết nối đồng bộ với các khu vực nông phẩm hàng hóa chính và khu đô thị, khu công nghiệp, cảng biển; Kết nối xây dựng nông thôn mới với kinh tế vùng, kinh tế biển, đào tạo nguồn lực nông nghiệp, cải tiến nâng cấp hệ thống hóa dữ liệu thông tin nông nghiệp nông dân nông thôn đáp ứng phù hợp với thời đại mới. Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới theo hướng gắn với đô thị hóa, thực chất và đi vào chiều sâu hiệu quả bền vững, lấy cư dân nông thôn làm chủ thể, tạo sự chuyển biến tích cực rõ rệt về nếp sống mới ở nông thôn; xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới cấp thôn bản. Thu hút mạnh mẽ các doanh nghiệp đầu tư vào khu vực nông thôn để tổ chức và nâng cao chuỗi gía trị “mỗi xã một sản phẩm” gắn với thương hiệu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. Chú trọng xây dựng cảnh quan sinh thái môi trường làng xã Việt xanh sạch đẹp tiến bộ an lành
Ba trụ cột cốt lõi của một quốc gia là cân đối hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội.theo kết luận của Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về Phát triển bền vững tại Johannesburg (Cộng hòa Nam Phi) năm 2002.
Bảo vệ an toàn môi trường sống và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân lao động Việt Nam là một trong ba trụ cột cốt lõi của chính sách quốc gia. Bảo vệ an toàn thức ăn, đất, nước, không khí và môi sinh là luật sống. Nguyên tắc cơ bản là: Ai gây ô nhiễm môi trường phải trả chi phí để xử lý khắc phục hậu quả, cải tạo và phục hồi. Thực thi chế tài và xử phạt nghiêm về vi phạm môi trường là quốc sách.
Tăng cường giám sát, công khai đầy đủ, kịp thời thông tin và nâng cao chất lượng môi trường, sự an toàn về thức ăn, đất nước, không khí và môi sinh ở các đô thị và vùng dân cư. Xử lý dứt điểm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Cải thiện rõ rệt tình trạng ô nhiễm môi trường, ở các cụm công nghiệp, làng nghề, lưu vực sông, khu vực nông thôn. Kiểm soát chặt chẽ các dự án khai thác tài nguyên, chủ động phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm gây ô nhiễm môi trường. Ngăn chặn suy thoái môi trường. Tối ưu hóa các mục đích sử dụng đất nông nghiệp. Đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia thượng nguồn và các tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên nước ở lưu vực các dòng sông xuyên biên giới, nhất là sông Mê Công và sông Hồng.
Việt Nam con đường xanh, thông tin đúc kết này là chọn lọc trích dẫn phù hợp với tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Định hướng và tầm nhìn này nhấn mạnh
1) Phải phát triển hài hòa ba trụ cột “Không đánh đổi môi trường với tăng trưởng kinh tế”; “Không thể vì nghèo mà hy sinh môi trường và sức khỏe người dân”
2) Vai trò kiến tạo của Nhà nước là quyết định;
3) Vai trò của người dân lao động và cộng đồng xã hội là không thể thiếu.
Việt Nam con đường xanh. Việt Nam ngày nay nhấn mạnh vai trò kiến tạo của Nhà nước và đề cao sự diệt trừ tham nhũng là quốc kế quyết định. Việt Nam là nước văn hiến có truyền thống “bầu ơi thương lấy bí cùng” và kinh nghiệm làm chủ tập thể, cũng đã vận dụng thành công “chính sách cộng sản thời chiến” biết thắt lưng buộc bụng đầu tư trong điểm.
Thầy Hiếu Đêm Giáng Sinh là ghi chép và cảm nhận của Hoàng Kim, đăng nguyên văn tác phẩm “Trường tôi” của thầy Lưu Trọng Hiếu viết về Trường Đại Học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh; kế tiếp là tác phẩm” Mười năm ở Bạc Liêu” [28], của anh Lưu Huy Chiêm viết về Đại Học Minh Hải ở đất Mũi được trích dẫn chung với bài “Trường tôi” để giúp bạn đọc có thêm một góc nhìn của người đương thời. Hình ảnh và thông tin trong tập “Trường tôi” của thầy Lưu Trọng Hiếu đã được Thầy trao lại và cho phép công bố .
PGS.TS Lưu Trọng Hiếu người thứ 2 bên phải, trong Ban Tổ chức Hội thảo Sắn Quốc tế lần thứ 6 tại TP. Hồ Chí Minh năm 2000 (ảnh tư liệu Hoàng Kim). Thầy Hiếu nói:”Tôi đến với trường (Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh) từ thuở trường mới thành lập nên tôi được biết nhiều về trường, tôi hay viết về chuyện thuở xưa, chuyện ngày xửa, ngày xưa. Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy ngàn năm nào dễ mấy ai quên nên tôi mãi đi tìm, tìm về quá khứ, tìm về giữa giấc mơ xưa, tìm về một thời vang bóng. Nhiều bạn trẻ khuyên tôi đừng níu kéo thời gian, quá khứ đã qua rồi hãy để nó chìm trong quên lãng, nhớ thương cũng hoài công thôi, hãy hướng về tương lai. Tương lai nhiều hứa hẹn hơn, tương lai đầy sáng lạng hơn, tương lai rực rỡ hơn, tương lai huy hoàng hơn. Anh em trẻ là người quyết định tương lai, nên (tôi) theo lời khuyên của anh em trẻ mà tìm đường về tương lai.” Tôi (TS. Hoàng Kim) đã đăng bài “Trường tôi và lòng thương yêu gửi lại của thầy Lưu Trọng Hiếu” tại trang Dạy và Học (DAYVAHOC). ngày 15 tháng 9 năm 2009, với lời dẫn: Báo Người Lao Động đưa tin: “Nhân giỗ đầu cố PGS-TS Lưu Trọng Hiếu, nguyên giảng viên Trường ĐH Nông Lâm TPHCM gia đình đã trao tặng 145 triệu đồng cho sinh viên nghèo hiếu học của Trường Đại học Nông Lâm TPHCM. Lúc sinh thời, PGS-TS Lưu Trọng Hiếu đã mong muốn thành lập quỹ học bổng để hỗ trợ cho sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, có ý chí phấn đấu học giỏi. Thể theo di nguyện, gia đình đã dành toàn bộ số tiền phúng điếu để đưa vào quỹ học bổng “Đồng hành cùng ĐH Nông Lâm TPHCM”. Cố PGS-TS Lưu Trọng Hiếu đã từng được Chính phủ Pháp trao tặng Huân chương Nông nghiệp Bội tinh”. Thầy Hiếu mất ngày 15.5 2008 dương lịch. Thầy lưu dấu những ký ức “Trường tôi” trong bài viết thương yêu gửi lại”.
Biểu tượng Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, thầy Lưu Trọng Hiếu kể: ” Khối nhà chữ U trường tôi là một trong bốn công trình chính liên hoàn do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ là tổng công trình sư xây dựng: Chữ T dinh Độc Lập, chữ H chợ Đà Lạt, chữ U Trường Đại học Nông nghiệp Sài Gòn và dấu nặng (.) Hồ Con Rùa. Đó là bốn kế lớn chấn hưng đất nước “vua sáng, kinh tế, nông nghiệp, nội chính” .
Biểu tượng Dinh Độc lập (hình chữ T) với ý nghĩa đất nước muốn giàu mạnh, thì trước hết người lãnh đạo đất nước phải là “bậc minh quân hiền tài”, trọng “quân đức, dân tâm, học pháp”, biết “chăm lo sức dân để lập đại kế sâu rễ bền gốc” bảo tồn và phát triển bền vững năng lực Quốc gia.
Biểu tượng Chợ Đà Lạt (hình chữ H) với ý nghĩa trọng tâm của nổ lực quốc gia là phải phát triển kinh tế (phi thương bất phú), mở mang giao thương, chấn hưng nghiệp cũ, phát triển nghề mới, khuyến học dạy dân, “Nên thợ, nên thầy nhờ có học/ No ăn, no mặc bởi hay làm” (Nguyễn Trãi), “chú trọng mậu dịch buôn bán, lấy việc thông thương an toàn làm chữ Nghĩa (Nguyễn Hoàng), chú trọng lao động để dân giàu nước mạnh.
Biểu tượng Trường Đại Học Nông Nghiệp Sài Gòn (hình chữ U) với ý nghĩa là phải chấn hưng giáo dục đại học, phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt là giáo dục phát triển nông nghiệp để nâng cao thu nhập, sinh kế, việc làm và an sinh xã hội, nâng cao chất lượng và giá trị nông sản (dĩ nông vi bản) vì quá nữa người Việt làm nghề nông.
Và sau cùng là biểu tượng Hồ Con Rùa (hình dấu (.) nặng) với ý nghĩa là nội chính an dân, thượng tôn pháp luật, kỷ cương phép nước, giữ vững bờ cõi, bảo tồn nguyên khí, thương yêu dân chúng an vui lạc nghiệp, “biết thương yêu dân, luyện tập binh sĩ để xây dựng cơ nghiệp muôn đời” (Lời chúa Nguyễn Hoàng dặn chúa Nguyễn Phúc Nguyên),”
TRƯỜNG TÔI Năm mươi năm thành lập Trường Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh, Một trăm năm thành lập ngành đào tạo Thú Y tại Việt Nam
PGS.TS. Lưu Trọng Hiếu Bài viết nhân kỷ niệm 50 thành lập Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh
Thường thì khi cưới nhau được hai mươi lăm năm người ta tổ chức đám cưới bạc và cưới nhau được năm mươi năm người ta tổ chức đám cưới vàng. Năm nay, trường chúng ta tổ chức lễ Kim Khánh để mừng Trường vừa tròn năm mươi tuổi và cũng là dịp để chúng ta ôn lại một trăm năm thành lập ngành đào tạo thú y Việt Nam.
Năm 1974 để chuẩn bị phúc trình tốt nghiệp kỹ sư, anh Nguyễn Văn Kiểm có đề nghị tôi hướng dẫn anh tìm hiểu về việc đào tạo chuyên viên cao cấp ngành Thú Y và Chăn Nuôi tại Việt Nam. Tôi nhận lời vì biết anh rất gắn bó với ngành giáo dục nông nghiệp từ khi anh đến trường vào những năm đầu tiên khi trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Blao vừa được thành lập tại tỉnh Đồng Nai Thượng. Anh đã dành nhiều thời gian và công sức đến thư viện Quốc gia và thư viện Bộ Canh Nông tham khảo tài liệu, xin ý kiến của nhiều vị giáo sư, nhiều vị lão thành trong ngành nông nghiệp. Anh đã sưu tập, sao chép lại toàn bộ các nghị định, các sắc lệnh thành lập trường, thành lập ngành giáo dục Thú Y qua các thời kỳ Toàn quyền Beau, Toàn quyền Sarraut, Toàn quyền Merlin, Toàn quyền Decoux và sau năm 1954 anh đã sưu tập lại toàn bộ các nghị định, các sắc lệnh có liên quan đến việc thành lập Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Blao, quy chế tuyển sinh, chương trình đào tạo, quy chế giáo sư cho đến năm 1974 là năm anh viết bảng phúc trình tốt nghiệp. Bảng phúc trình này hiện đang được lưu trữ và có thể tham khảo tại thư viện Đại Học Nông Lâm Thủ Đức Thành Phố Hồ Chí Minh.
(PGS.TS Lưu Trọng Hiếu, người thứ hai bên phải, cùng nguyên Hiệu trưởng Bùi Cách Tuyến trong chuyến công tác ở Hà Nội)
Hơn ba mươi năm qua từ đó cho đến nay một hệ thống giáo dục nông nghiệp được thành lập từ Bắc chí Nam, nhiều trường đại học, trung học nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, thuỷ lợi đã ra đời. Tôi thiết nghĩ nên có những công trình nghiên cứu, sưu tập lại các văn bản, các nghị định thành lập các trường, các văn bản hướng dẫn tuyển sinh, các chương trình đào tạo, nghiên cứu trong hệ thống giáo dục nông nghiệp như công trình của kỹ sư Nguyễn Văn Kiểm đã thực hiện trước đây.
Theo báo cáo và các tài liệu mà anh Nguyễn Văn Kiểm sưu tập được thì từ những thập niên cuối của thế kỷ XIX người Pháp đã thiết lập một hệ thống bảo vệ gia súc tại Việt Nam theo bộ luật ngày 22 tháng 7 năm 1881, đặc biệt là các điều 38 và 39 trong bộ luật này có liên quan đến chức năng của Sở Thú Y.
Vào năm 1904, người Pháp đã bắt đầu mở ngành đào tạo thú y sĩ tại Việt Nam để phục vụ cho công tác phòng chống dịch bệnh gia súc, thanh tra thú sản. Nhiệm vụ đào tạo bác sĩ thú y sĩ lúc đầu được giao cho Trường Y Khoa Hà Nội theo nghị định ngày 25 tháng 10 năm 1904 của Toàn quyền Beau về việc tổ chức lại trường này. Đến năm 1910 Ban Thú Y của Trường Y khoa và bệnh xá thú y được cải biến thành Trường Thú Y Bắc Kỳ tách ra khỏi Trường Y Khoa và được đặt dưới sự chỉ đạo của Thống sứ Bắc Kỳ theo nghị định ngày 11 tháng 8 năm 1910 của Toàn quyền Klobukowshi.
Đến năm 1917 Trường Thú Y Bắc Kỳ được cải biến thành Trường Thú Y Đông Dương theo nghị định ngày 15 tháng 9 năm 1917 của Toàn quyền Sarraut.
Đến năm 1922 ngoài bệnh xá thú y, Trường Thú Y còn có Phòng thí nghiệm nghiên cứu thú y theo như nghị định ngày 18 tháng 11 năm 1922.
Nghị định ngày 24 tháng 3 năm 1925 của Toàn quyền Merlin ấn định quy chế hoạt động và học tập của sinh viên Trường Thú Y Đông Dương. Chương trình học tập của sinh viên là 4 năm sau khi tốt nghiệp Tú Tài và sinh viên phải trải qua một kỳ thực tập tại Viện Pasteur Nha Trang trong 3 tháng. Nghị định này cũng nói rõ hoạt động của Phòng thí nghiệm Vi sinh bao gồm cả Vi sinh, ký sinh, khám tử, bệnh xá thú y và dược phòng thú y của Trường.
Tháng 10 năm 1935 Trường Thú Y Đông Dương đóng cửa do khủng hoảng kinh tế và bệnh xá thú y của trường vẫn duy trì hoạt động.
Đến năm 1941 Trường Thú Y hoạt động trở lại theo nghị định ngày 28 tháng 4 năm 1941 của Toàn quyền Decoux.
Ngày 17 tháng 10 năm 1941 bệnh xá thú y Hà Nội lại được sát nhập vào Trường Thú Y Đông Dương. Chương trình học được rút ngắn xuống còn 3 năm rưỡi trong đó năm đầu sinh viên học tại Viện Đại Học Hà Nội cùng với sinh viên Trường Đại học Nông Lâm, ba học kỳ kế tiếp học tại Trường Thú Y và năm cuối cùng học tại Viện Pasteur Nha Trang. Sang năm 1942 Trường lại cải tổ theo nghị định ngày 3 tháng 8 năm 1942 của Toàn quyền Decoux và chương trình vẫn giữ nguyên là 3 năm rưỡi được phân bố như sau: Năm đầu học tại Viện Đại học Hà Nội cùng với sinh viên Nông Lâm. Năm thứ hai và năm thứ ba học tại Trường Thú Y và học kỳ cuối học tại Viện Pasteur Nha Trang.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945 Trường lại đóng cửa do Nhật đảo chính.
Vào tháng 6 năm 1945 Trường mở cửa trở lại và có tuyển thêm khoá mới, nhưng khoá này chỉ học một năm rồi giải tán.
Đến cách mạng mùa thu, ngày 19 tháng 8 năm 1945 trường lại đóng cửa.
Vào khoảng tháng 2 năm 1946 trường mở cửa trở lại.
Ngày 19 tháng 12 năm 1946 trường lại đóng cửa và sau đó trường được di chuyển vào Thanh Hoá để hoàn tất đào tạo khoá 1944 và sinh viên tốt nghiệp vào năm 1948.
Trường Thú Y Hà Nội, sau này là Trường Thú Y Đông Dương đã tồn tại trong tiền bán thế kỷ XX và những thú y sĩ do trường đào tạo đã phát huy tác dụng bảo vệ đàn gia súc, bảo vệ sức khoẻ cộng đồng trong suốt thế kỷ qua. Những người con ưu tú của trường như bác sĩ Phạm Văn Huyến, nhạc phụ của hai giáo sư Trịnh Văn Thịnh và giáo sư Ngô Bá Thành, phó giáo sư Điền Văn Hưng, phó giáo sư Trần Nhơn, phó giáo sư Nguyễn Vĩnh Phước, bác sĩ Vũ Thiện Thái, bác sĩ Nguyễn Lương, bác sĩ Nguyễn Bá Lương, bác sĩ Nguyễn Hữu Nghiệp, bác sĩ Lê Thước, bác sĩ Nguyễn Trọng Trử, bác sĩ Vũ Đình Chính, bác sĩ Tôn Thất Ngữ, bác sĩ Nguyễn Ngọc Minh, bác sĩ Lê Văn Tứ,, bác sĩ Nguyễn Văn Tư, bác sĩ Lê Hội Phú đã để dấu ấn của mình trong suốt 50 năm qua, đã từng là những nhà giáo ưu tú, là những con chim đầu đàn trong lĩnh vực chăn nuôi thú y, những nhà vi trùng học, nhà bệnh lý học gia súc, nhà ký sinh trùng học, nhà di truyền học, nhà dinh dưỡng học, nhà quản lý chăn nuôi lỗi lạc trong cả nước, là thầy của nhiều người thầy, đã đào tạo nhiều thế hệ sinh viên, đã đóng góp nhiều công trình nghiên cứu chăn nuôi thú y có giá trị phục vụ cho sản xuất và bảo vệ gia súc.
Sau hiệp định Genève năm 1954 Học viện Nông Lâm được thành lập tại miền Bắc và Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Blao, tiền thân của Đại học Nông Lâm được thành lập tại miền Nam.
Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Blao được thành lập theo nghị định 112 BCN/NĐ ngày 19 tháng 11 năm 1955. Trường đào tạo ba ngành Nông Lâm Súc. Trường gồm một cấp Cao đẳng đào tạo các kỹ sư dành cho các sinh viên đã học hết chương trình trung học thời gian học lúc đầu là 3 năm, sau này là 4 năm và cấp Trung đẳng đào tạo các kiểm sự dành cho các học sinh đã đậu bằng Trung học đệ nhất cấp, Trung học phổ thông hoặc học lực tương đương. Thời gian học là 3 năm. Ngoài ra còn có những khoá học theo mùa, theo các chuyên đề tuỳ theo nhu cầu( đào tạo các kỹ thuật viên cải cách điền địa, hợp tác xã, trồng hoa, chăn nuôi…).
Giáo sư đoàn của trường được tuyển lựa từ các chuyên viên cao cấp canh nông, thuỷ lâm, mục súc, được hưởng những quyền lợi cùng các khoản cung cấp cho các giáo sư đại học.
Trường trực thuộc Nha Học vụ Kỹ thuật và Thực hành Canh nông, Bộ Canh Nông. Khóa đầu tiên cấp Trung đẳng được khai giảng vào ngày 12 tháng 12 năm 1955 và khoá đầu tiên cấp Cao đẳng được khai giảng vào ngày thứ hai tuần lễ đầu tiên tháng 11 năm 1959 và đã bế giảng vào ngày thứ bảy tuần lễ đầu tiên tháng 11 năm 1962.
Nghị định 1361/BCTNT/NĐ/HC-2 ngày 26-3-1962 của Bộ Cải Tiến Nông Thôn đã chuyển giao nhiệm vụ và cơ sở Học vụ Kỹ thuật Canh nông và các trường trực thuộc về Bộ Quốc Gia Giáo Dục
Theo nghị định 1184/GD/TC ngày 24-8-1963 cấp Cao đẳng Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục tại Sài Gòn được cải biến thành Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn và do một giám đốc điều khiển, trực thuộc Nha Học vụ Nông Lâm Súc. Cũng theo nghị định này, kể từ niên học 1963-1964 thời hạn học tại Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc được ấn định là 4 năm.
Cấp Trung đẳng Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Bảo Lộc được cải biến thành Trường Trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc.
Theo nghị định 483/GD ngày 23-3-1967 Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc trực thuộc Bộ Giáo Dục. Theo sắc lệnh 158/SL/VHGD/TN ngày 9-11-1968 Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn được cải biến thành Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp trực thuộc Bộ Văn Hoá Giáo Dục và Thanh Niên.
Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp do một giám đốc điều khiển, có một phó giám đốc phụ tá. Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp gồm có ba trường: Cao đẳng Nông Nghiệp, Cao đẳng Thú Y và Chăn Nuôi, và Cao đẳng Thuỷ Lâm. Mỗi trường do một giám đốc điều khiển. Theo sắc lệnh 174/SL/GD ngày 29-11-1972 Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp được cải biến thành Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp. Học viện có nhiệm vụ huấn luyện, đào tạo và tu nghiệp cho các chuyên viên và cán bộ nông nghiệp cấp kỷ sư và các cấp cao hơn, sưu tầm, nghiên cứu, phát minh, phổ biến các kiến thức, kỹ thuật sản xuất và góp phần thiết lập các dự án nhằm phát triển các lãnh vực nông nghiệp.
Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp gồm các trường Cao đẳng Nông nghiệp, Thuỷ Lâm, Thú y và Chăn nuôi, các phòng thí nghiệm và cơ sở khảo cứu cần thiết để học viện có thể hoàn thành nhiệm vụ.
Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp đặt dưới quyền đều khiển của một viện trưởng, có một phó viện trưởng và một tổng thư ký phụ giúp về học vụ và quản trị. Bên cạnh viện trưởng có hội đồng tư vấn và hội đồng viện.
Theo sắc lệnh 010-SL-VH-GDTN ngày 11-1- 1975 Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp, Học Viện Quốc Gia Kỹ Thuật và Ban Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật được sát nhập vào Viện Đại học Bách Khoa Thủ Đức.
Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp được biến cải thành trường Đại học Nông Nghiệp gồm 5 ngành: Nông khoa, Lâm khoa, Súc khoa, Ngư nghiệp và Kỹ thuật nông nghiệp.
Ban Cao đẳng Sư phạm Kỹ thuật trực thuộc Trường Đại học Giáo Dục.
Sau ngày đất nước thống nhất, Tổng Cục Nông Nghiệp đã chỉ thị tổ chức lại Trường Đại học Nông Nghiệp-Viện Đại học Bách Khoa Thủ Đức. Ngày 8-12-1976, Bộ Nông Nghiệp đã ra quyết định đặt tên trường là Đại Học Nông Nghiệp IV với 4 nhiệm vụ:
• Đào tạo kỹ sư nông nghiệp về Trồng trọt, Chăn nuôi Thú y, Thuỷ sản, Cơ khí nông nghiệp nhằm phục vụ cho phát triển nông nghiệp. • Đào tạo kỹ sư lâm nghiệp cho đến khi Bộ Lâm Nghiệp chưa mở Trường Lâm Nghiệp riêng cho các tỉnh phía Nam. • Bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm tiên tiến về kỹ thuật sản xuất nông nghiệp, về quản lý kinh tế cho các cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế cho các cấp và cơ sở. • Thành nghiên cứu khoa học, vừa phục vụ cho nâng cao chất lượng đào tạo, vừa góp phần giải quyết những vấn đề thực tiễn của sản xuất nông nghiệp cho các tỉnh phía Nam đặt ra, làm tròn nhiệm vụ trung tâm văn hoá, khoa học, kỹ thuật của nhà trường xã hội chủ nghĩa.
Thời gian đào tạo mỗi khoá là 4 năm và thời gian bồi dưỡng mỗi khoá là từ 3 đến 9 tháng.
Năm 1985 Trường Cao Đẳng Lâm Nghiệp Trảng Bom được sát nhập vào Trường Đại học Nông Nghiệp IV và trường được cải biến thành Trường Đại học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh.
Năm 1995 Trường Đại học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh được sáp nhập vào Đại học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh.
Từ năm 2000 cho đến nay, Trường Đại học Nông Lâm được tách khỏi Đại học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh và trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo. Ngay từ khi mới thành lập trường đã được giao nhiệm vụ : • Giáo dục và đào tạo chuyên viên cao cấp nông nghiệp để cung ứng nguồn nhân lực chuyên môn cho hai lĩnh vực công và tư. • Khảo cứu cơ bản và ứng dụng, cập nhật hoá và canh tân kỹ thuật nông nghiệp. • Phổ biến các kiến thức mới và kỹ thuật tiên tiến về nông nghiệp để giúp nông dân tăng gia sản xuất. • Ngoài việc huấn luyện về kỹ thuật sinh viên còn được trau dồi phương pháp lãnh đạo, quản trị xí nghiệp, tìm hiểu tâm lý người nông dân, giao tế với quần chúng trong công tác khuyến nông, phổ biến kỹ thuật nông nghiệp.
Trong các khoá đầu từ năm 1959 (khoá I) đến năm 1963 (khoá IV) mỗi năm trường tuyển 60 sinh viên gồm 25 sinh viên ngành Nông khoa, 15 sinh viên ngành Lâm khoa, và 20 sinh viên ngành Súc khoa.
Từ năm 1964 (khoá V) mỗi năm trường tuyển 100 sinh viên và bắt đầu từ năm 1970 (khoá XI) mỗi năm trường tuyển 200 sinh viên gồm 110 sinh viên ngành Nông Khoa, 40 sinh viên ngành Lâm khoa, 50 ngành Súc Khoa. Trong số 200 sinh viên được tuyển, trường tuyển chọn riêng 20 sinh viên có bằng Tú Tài Nông Lâm Súc, xét tuyển miễn thi 5 kiểm sự Nông chính, Thuỷ lâm, Thú Y và 20 sinh viên dân tộc ít người đỗ Tú Tài từ hạng Bình thứ trở lên. Số 155 sinh viên còn lại sẽ được tuyển trong tổng số hơn 3600 ứng viên dự thi, bình quân tỉ lệ tuyển chọn 1/12.
Muốn vào trường, sinh viên phải trên 18 tuổi và dưới 30 tuổi tính đến năm tuyển sinh. Hạng tuổi có thể gia tăng thêm tối đa là 5 đối với các công nhân viên hoặc quân nhân. Có văn bằng Tú Tài toàn phần Toán học hoặc Khoa học thực nghiệm, hoặc tốt nghiệp cấp Trung đẳng Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Blao hay những cấp bằng tương đương phổ thông hay Nông Lâm Muc ngoại quốc. Trúng tuyển kỳ thi tuyển sinh. Đối với công nhân viên chức và quân nhân có đủ điều kiện nói trên phải được phép của cơ quan quản lý mới được dự thi.
Trong những khoá đầu kỳ thi tuyển bao gồm 6 bài thi viết: • Luận Việt Văn thi trong 2 giờ, hệ số 2. • Toán thi trong 2 giờ , hệ số 3. • Lý Hoá thi trong 2 giờ hệ số 3. • Vạn vật (địa chất, thực vật, động vật) thi trong 2 giờ hệ số 3. • Pháp văn (một bài luận ) thi trong 2 giờ, hệ số 2 • Anh văn (một bài dịch) thi trong 1 giờ
Những bài thi Toán, Lý, Hoá, Vạn Vật, và dịch Anh văn có thể đáp bằng tiếng Việt hay tiếng Pháp nhưng phải dùng một sinh ngữ cho tất cả 4 bài thi này.
Các bài thi được cho điểm từ 0 đến 20. Thí sinh nào có điểm 0 về các môn thi hay điểm dưới 4/20 về bài thi Pháp văn hay 2 điểm bằng hay dưới 4/20 về ba môn Toán, Lý Hoá , Vạn Vật sẽ đương nhiên bị loại.
Từ năm 1965 các môn thi tuyển sinh còn lại 5 môn: Toán, Lý Hoá, Vạn Vật, Pháp ngữ và Anh ngữ.
Từ năm 1968 trường xét cho nhập miễn thi vào năm thứ nhất tối đa là năm kiểm sự Nông chính, Thuỷ lâm và Thú Y có điểm trung bình từ hạng Bình thứ trở lên ( 12/20) và đã làm việc ít nhất năm năm trong phạm vi chuyên môn và được hội đồng giáo sư trường đề nghị. Cũng từ năm 1968 các môn thi tuyển còn lại 3 môn: • Toán thi trong 45 phút • Lý Hoá thi trong 45 phút • Vạn vật thi trong 45 phút.
Cả 3 môn thi được tổ chức thi trong 1 buổi chiều. Bài thi được chấm điểm trên 100. Các thí sinh có điểm thi 0 sẽ đương nhiên bị loại. Các môn Toán, Lý Hoá thi theo chương trình lớp 12, ban B (ban Toán). Vạn vật thi theo chương trình lớp 11 và 12 ban A (Khoa học thực nghiệm).
Chương trình học bốn khoá đầu là 3 năm, từ khoá năm chương trình học là bốn năm, bình quân sinh viên học từ 2000 đến 2300 giờ lý thuyết và 1800 giờ thực hành. Chuyển ngữ được sử dụng là tiếng Pháp cho bốn khoá đầu, và từ khoá V tiếng Việt được sử dụng để giảng dạy. Năm học được chia làm 2 học kỳ, mỗi học kỳ kéo dài 16 tuần. Vào cuối mỗi năm học, năm thứ nhất và năm thứ hai sinh viên phải trải qua một kỳ tập sự tổng quát nhằm giúp sinh viên hiểu được thực tế sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, thú y, lâm nghiệp. Cuối năm thứ ba và năm thứ tư sinh viên phải trải qua một kỳ tập sự chuyên môn, tiến hành nghiên cứu một đề tài tốt nghiệp được một giáo sư hay một chuyên viên của Viện khảo cứu hoặc của Bộ Nông nghiệp hướng dẫn.
Đề tài thực tập tốt nghiệp phải là một vấn đề khoa học, kỹ thuật hay kinh tế. Bảng phúc trình trước đây gọi là luận trình được bảo vệ trước một hội đồng giám khảo gồm các giáo sư, giảng sư của trường hoặc chuyên viên của Bộ Canh Nông chuyên sâu về chuyên ngành mà sinh viên báo cáo.
Kể từ năm 1965, sinh viên ngành Nông khoa sau khi học 2 năm đầu có thể chọn các chuyên khoa: Nông học, Kinh tế nông nghiệp, Công thôn, Chế biến nông sản, Ngư nghiệp, còn sinh viên ngành Súc khoa có thể chọn chuyên khoa Chăn nuôi Thú y, Kinh tế nông nghiệp, Chế biến thực phẩm, Ngư nghiệp. Sinh viên Lâm khoa chỉ có thể chọn một chuyên khoa là Lâm nghiệp.
Kể từ năm 1971 Trường mở thêm chuyên ngành Giáo dục nông nghiệp.
Đến năm 1974 khi trường được sát nhập vào Viện đại học Bách khoa Thủ Đức, sinh viên lúc thi vào trường phải chọn một trong 5 chuyên ngành: Nông khoa, Lâm khoa, Súc khoa, Ngư nghiệp, Kỹ thuật nông nghiệp ngay từ đầu.
Khi mới thành lập trường chỉ mở ba ngành đào tạo: Nông khoa, Lâm khoa, Súc khoa. Đến năm 1974 trường có thêm hai ngành đào tạo là Ngư nghiệp và Kỹ thuật nông nghiệp. Hàng năm quy mô tuyển sinh là 200 sinh viên.
Đến nay (năm 2005) trường đã phát triển thành một Đại học đa ngành đào tạo 36 chuyên ngành, với quy mô tuyển sinh 2700 sinh viên đại học mỗi năm. Đại học Nông Lâm hiện có 12 Khoa: Nông học, Chăn nuôi Thú y, Lâm nghiệp, Kinh tế, Cơ khí Công nghệ, Thuỷ sản, Công nghệ thực phẩm, Khoa học, Quản lý đất đai và bất động sản, Ngoại ngữ, Công nghệ thông tin và bốn bộ môn trực thuộc trường: Mác Lênin, Công nghệ sinh học, Sư phạm kỹ thuật nông nghiệp, Cảnh quan và kỹ thuật hoa viên. Ngoài các Khoa, Trường còn có các Trung Tâm: Nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ, Ngoại ngữ, Tin học, Phân tích thí nghiệm, Đào tạo nghiên cứu tư vấn kinh tế xã hội, Công nghệ và thiết bị nhiệt lạnh, Năng lượng và máy nông nghiệp, Công nghệ quản lý môi trường và tài nguyên, Công nghệ sinh học, Nghiên cứu bảo quản và chế biến rau quả, Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật địa chính, Nghiên cứu công nghệ chế biến gỗ, giấy và bột giấy, Nghiên cứu cây công nghiệp nhiệt đới xuất khẩu, Bồi dưỡng văn hoá và luyện thi đại học.
Từ năm 1985 ngoài chương trình đào tạo đại học Trường được giao nhiệm vụ đào tạo sau đại học.
Từ khi mới thành lập, trường đã mở rộng hợp tác với nhiều trường đại học danh tiếng trên thế giới và nhiều tổ chức quốc tế. Thông qua chương trình hợp tác với Đại học Nông nghiệp Thuỵ Điển, Trường mở nhiều khoá đào tạo Thạc Sĩ về nông nghiệp bền vững dựa trên chăn nuôi cho sinh viên các nước Đông Nam Á (Campuchia, Lào, Thái Lan, Việt Nam) Mỹ Châu La tinh (Colombia, Nicaragoa) và Châu Phi (Ethiopia, Tanzania, Zambia, Zimbabwe). Được Bộ Nông Nghiệp và Bộ Ngoại giao Pháp tài trợ, bốn trường Đại học Thú Y kết nghĩa: Alfort, Lyon,Toulouse, Nantes đã giúp Đại học Nông Lâm mở một khóa đào tạo Thạc sĩ Thú Y thoả mãn đầy đủ các quy định của Bộ Giáo Dục và Đào tạo và đạt tiêu chuẩn quốc tế với một học trình 4 năm, trong đó có một năm học tiếng Pháp. Hàng năm Chính phủ Pháp đã cử 10 giáo sư đầu đàn, danh tiếng của bốn Trường Thú Y kể trên sang giảng dạy tại Đại học Nông Lâm, mỗi chuyến công tác kéo dài 3 tuần đến 1 tháng. Học viên là các cán bộ giảng dạy của các Khoa Chăn nuôi Thú y của các Trường Đại học Nông nghiệp, các Viện nghiên cứu và Trung Tâm Thú Y của cả nước. Thông qua chương trình hợp tác với Viện Quốc Gia Nông học Paris Grignon, Đại học Dijon , Đại học Thú Y Toulouse, Đại học Thú Y Nantes, Ðại học Montpellier, Đại học Nông nghiệp Thuỵ Điển, Đại học Auburn, Đại học Florida, Đại học New South Wales, Viện Công nghệ Á châu Trường đã tiến hành những chương trình đào tạo nghiên cứu sinh theo dạng sandwich, một phần thời gian nghiên cứu sinh học lý thuyết, thực hành, tham khảo tài liệu và làm việc ở các phòng thí nghiệm ở nước ngoài, một phần thời gian tiến hành nghiên cứu trong nước. Kết quả của các chương trình đào tạo này nhiều nghiên cứu sinh đã bảo vệ xuất sắc luận án tiến sĩ với lời khen của Hội đồng chấm luận án. Nhiều nghiên cứu sinh Canada, Pháp đã đến trường triển khai các công trình nghiên cứu, hoàn thành nhiều luận án có giá trị được xuất bản thành sách như luận án của tiến sĩ Steve Déry của Đại học Laval hoặc các kết quả nghiên cứu đã đóng góp lớn trong phát triển nông nghiệp, được áp dụng rộng rãi trong sản xuất như công trình nghiên cứu sinh sản nhân tạo cá Ba sa của tiến sĩ Philippe Cacot của Viện Quốc gia Nông học Paris Grignon và tổ chức CiRAD Pháp.
Trường Đại học Nông Lâm hiện nay đang hợp tác với 54 Đại học danh tiếng trên thế giới: ĐH Melbourne, ĐH New England, ĐH New South Wales, ĐH James Cook, ĐH Catholic Louvain la Neuve, ĐH Guelph, ĐH Laval, ĐH Sherbroke, ĐH Aarhus, Institut National Agronomique Paris Grignon, ĐH Thú y Alfort, ĐH Thú y Lyon, ĐH Thú y Toulouse, ĐH Thú y Nantes, ĐH Ensia Siarc Montpellier, ĐH Bordeaux 1, ĐH Tours, ĐH Nông nghiệp Purpan, Viện nghiên cứu Lâm nghiệp Rheinland Pfalz, ĐH Meiji, ĐH Kobe, ĐH Osaka, ĐH Ehime, ĐH Kyushu, ĐH Pertanian Malaysia, ĐH Nông nghiệp Wageningen, Trường Quốc tế Nông nghiệp Larenstein, ĐH Central Luzon State, ĐH Silliman, ĐH Philippines tại Los Banos, ĐH Philippines tại Diliman, ĐH Nông nghiệp Thuỵ Điển, ĐH Quốc gia Chung Hsing, ĐH Ling Tung, ĐH Chiang Mai, ĐH Kasetsart, ĐH Khon Kean, ĐH Maejo, Viện Công nghệ Hoàng gia Mongkut Thonburi, ĐH Aberystwyth (Wales), ĐH Reading, ĐH Nottingham, ĐH Auburn, Trung Tâm Đông Tây Hawaii, ĐH Louisiana State, ĐH Hawaii, ĐH Texas Tech, ĐH Texas A & M, ĐH Florida, ĐH Iowa, ĐH Kỹ thuật California, ĐH Quốc gia Singapore, ĐH Sungkyunkwan, ĐH Nông nghiệp Hoàng gia Campuchia, Viện nghiên cứu Thuỷ sản Szarvas….thuộc các nước Anh, Bỉ, Campuchia, Canada, Đài Loan, Đan Mạch, Đức, Pháp, Hà Lan, Hàn Quốc, Hungary, Mỹ, Malaysia, Nhật Bản, Philippines, Singapore, Thái Lan, Thuỵ Điển.
(PGS.TS. Lưu Trọng Hiếu người thứ 2 bên phải tại hội thảo sắn Quốc tế ở Hà Nội)
Trường cũng hợp tác với 30 tổ chức quốc tế: AAACU, AIT, AUF, CIAT,CIRAD, FFTC, IDRC, IPGRI, SECID, ESCAP- CGPRT, ACIAR, CSIRO, GTZ, HELVETAS, ICLARM, ADVRC, FAO, CIP, SEARCA, BIOTROP, SAREC, SIDA, IFS, Bread for the World, Ford Foundation, Trelink, CSI, KWT, MCC, SDC, IRRI, CIMMYT,WB, ADB.
(PGS.TS Lưu Trọng Hiếu người thứ 2 bên phải, trong Ban Tổ chức Hội thảo Sắn Quốc tế lần thứ 6 tại TP. Hồ Chí Minh năm 2000)
Trong suốt năm mươi năm từ ngày thành lập đến nay Trường trải qua ba lần dời địa điểm: Đầu tiên Trường có trụ sở tại Bảo Lộc. Do chiến tranh Trường phải di chuyển về Sài Gòn vào cuối năm 1961. Trong lúc chờ đợi có trụ sở chính thức tại Sài Gòn, Trường phải mượn các giảng đường, phòng học, phòng thí nghiệm của Đại học Dược Khoa, Đại học Khoa học, Nha Khảo cứu Nông Nghiệp, Nha học vụ Nông Lâm Súc, Viện Quốc gia Vi trùng và Bệnh lý gia súc, Viện Pasteur Sài Gòn và Thảo Cầm Viên. Đến năm 1964 Trường có trụ sở tại số 14 và 45 Đại lộ Cường Để Quận Nhất Sài Gòn nay là đường Đinh Tiên Hoàng. Ngay từ khi dời về Sài Gòn, giáo sư Đặng Quan Điện đã nhanh chóng tìm địa điểm xây dựng Trường tại Thủ Đức cạnh Trường Đại Học Khoa học và Đại học Sư Phạm tại Thủ Đức với diện tích 118 ha toạ lạc tại hai xã Tăng Nhơn Phú, quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định và xã Đông Hoà – quận Dĩ An tỉnh Biên Hoà.
Cơ sở Đại học Nông Lâm ngày nay tại Thủ Đức được thiết kế bởi kiến trúc sư tài hoa Ngô Viết Thụ, Khôi Nguyên La Mã, người đã thiết kế Dinh Thống Nhất và nhiều công trình kiến trúc tráng lệ tại Việt Nam. Tôi có cái may được làm việc với anh Ngô Viết Thụ từ khi anh phác thảo bản thiết kế tổng thể khuôn viên của trường tại Thủ Đức. Anh và tôi thường đi Thủ Đức thăm công trường xây dựng trường để kiểm tra đôn đốc tiến độ thực hiện cho đến ngày toà nhà Phượng Vỹ Đại Sảnh – Flamboyant Hall, các khu cư xá sinh viên và câu lạc bộ sinh viên hoàn thành (31.12.1973). Anh đã thiết kế mặt tiền của tòa nhà Phượng Vỹ theo những đường nét của chữ Nông theo Hán tự với mỹ ý luôn nhắc nhở chúng ta Vụ Nông Vi Bản lấy nông nghiệp làm gốc theo như diễn giải của anh với anh Nguyễn Thành Hải, anh Nguyễn Đăng Long, anh Châu Văn Khê và tôi về ý nghĩa của cách kiến trúc tòa nhà.
Phượng Vỹ Đại Sảnh được bắt đầu khởi công xây dựng tại Thủ Đức vào ngày 20 tháng 2 năm 1972 do hãng thầu kiến trúc Phúc Hòa thực hiện dưới nhiệm kỳ của bác sĩ Nguyễn Thành Hải. Lễ khởi công xây dựng Trường có đông đủ ngoại giao đoàn tham dự. Sau này nhiều công trình kiến trúc, nhiều đại sảnh, nhiều cao ốc, được tiếp tục xây dựng dưới nhiệm kỳ của phó giáo sư tiến sĩ Đoàn Văn Điện và phó giáo sư tiến sĩ Bùi Cách Tuyến.
Ngày nay, ngoài cơ sở chính tại Thủ Đức, Trường còn các cơ sở phụ 213 hecta tại Bình Phước, 20 hecta tại Đồng Nai, 15 hecta tại Long An, 2 hecta tại Mũi Né Bình Thuận.
Khi bắt đầu được thành lập Trường có bốn thành viên sáng lập đóng góp nhiều công sức để Trường càng ngày thêm phát triển. Tứ trụ của Trường là bác sĩ Vũ Ngọc Tân, giáo sư Lê Văn Ký, giáo sư Đặng Quan Điện, và giáo sư Bùi Huy Thục. Bác sĩ Vũ Ngọc Tân và giáo sư Bùi Huy Thục nay đã khuất bóng. Giáo sư Lê Văn Ký và giáo sư Đặng Quan Điện mặc dầu tuổi đã cao, đã hoặc ngoài tám mươi nhưng vẫn còn tiếp tục hoạt động trong công tác khoa học kỹ thuật, vẫn thường xuyên viếng thăm các trại chăn nuôi khuyến cáo công tác quản lý con giống, quản lý nông trại hoặc góp ý với chuyên viên công viên cây xanh làm đẹp các đô thị.
Bác sĩ Vũ Ngọc Tân là vị giám đốc đầu tiên của Trường, là người đến nhận nhiệm sở sớm nhất khi Trường mới có quyết định thành lập. Cùng với sinh viên các khoá đầu, thầy đã dành nhiều công sức, đổ nhiều mồ hôi nước mắt để khai sơn phá thạch, xây dựng giữa chốn rừng núi thanh tĩnh một ngôi trường khang trang, đẹp đẽ có tầm cỡ so với các trường đại học trong vùng thời bấy giờ, biến nơi này thành một thị xã phồn vinh trù phú, một thời đã từng là tỉnh lỵ tỉnh Lâm Đồng, và nay là thủ phủ dâu tằm tơ của cả nước. Từ ngày đảm trách nhiệm vụ lãnh đạo trường từ năm 1955 cho đến lúc mất vào tháng 5 năm 1981 trong suốt hơn một phần tư thế kỷ thầy luôn luôn gắn bó với trường luôn dành thì giờ cho sinh viên thân yêu của mình mặc dù có những thời kỳ thầy đảm nhận nhiều trọng trách ở Bộ Canh Nông nhưng không bao giờ thầy từ bỏ giảng dạy. Sau ngày đất nước thống nhất, thầy có đủ điều kiện để xuất ngoại đoàn tụ với gia đình vì cô là người Pháp và các con của thầy sinh sống tại Pháp nhưng thầy đã quyết định ở lại quê hương với các sinh viên thân yêu của thầy như cha xứ không rời bỏ giáo xứ ở lại để dìu dắc các con chiên. Thầy tiếp tục công tác giảng dạy ở trường dù sức khỏe thầy suy giảm nhiều do bệnh tim và thầy đã mất trong ngôi nhà mà thầy đã mua sau năm 1975 gần ngã tư Hàng Xanh.. Thầy đã ra đi trong vòng tay của những người thân trong gia đình, và tang lễ được cử hành trang nghiêm tại Thánh đường Mông Triệu. Đông đủ gia quyến, bạn bè thân hữu và sinh viên đã tiễn đưa thầy với muôn vàn thương tiếc, kính yêu. Thầy đã cống hiến cả cuộc đời cho trường, cho sinh viên, đã xây dựng khuôn viên trường tại Bảo Lộc thành một ngôi trường khang trang, xinh đẹp. Ngày nay nếu có còn phong thần theo như truyền thống lâu đời của dân tộc ta đối với những người có công sáng lập, khai phá thì thầy rất xứng đáng được vinh danh làm thần Thành Hoàng của trường tại Bảo Lộc như có lần anh Nguyễn Hiền Lương đã tôn vinh thầy như thế.
Tiếp nối nhiệm kỳ giám đốc của Bác sĩ Vũ ngọc Tân, trường lần lượt được sự lãnh đạo của giáo sư Đặng Quan Điện, giáo sư Tôn Thất Trình, bác sĩ Vũ Ngọc Tân lại một lần nữa đảm nhận chức vụ giám đốc trường, kế tiếp là giáo sư Bùi Huy Thục, giáo sư Phùng Trung Ngân, giảng sư Nguyễn Thành Hải. giáo sư Lê Văn Ký đảm nhiệm chức vụ Khoa trưởng Đại học Nông nghiệp từ đầu năm học 1974 – 1975 cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Sau thời kỳ quân quản, Trường được sự lãnh đạo của kỹ sư Trần Hữu Khối, kỹ sư Nguyễn Phan. Vào thập niên 80 thế kỷ trước, trường được sự lãnh đạo của phó giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Hanh. phó giáo sư tiến sĩ Đoàn Văn Điện và phó giáo sư tiến sĩ Dương Thanh Liêm tiếp tục lãnh đạo trường trong thập niên 90. Đương kim hiệu trưởng trường hiện nay là phó giáo sư tiến sĩ Bùi Cách Tuyến, người con ưu tú đã trưởng thành từ trường.
Ngay từ ngày mới thành lập, ngoài các chuyên gia hàng đầu của Bộ Canh Nông và các giáo sư của Đại học Khoa học, Đại học Luật Khoa Sài Gòn, Đại học Kỹ thuật Phú Thọ được mời tham gia giảng dạy, trường còn nhận được sự giúp đỡ vô cùng quý báu của nhiều trường Đại học trên thế giới. Trường đã tiếp đón nhiều giáo sư thường trú đến từ Pháp, Đức, Mỹ, Bỉ. Các giáo sư Maurice Schmidt, giáo sư Tixier, giáo sư Pecrot, giáo sư Stevens, giáo sư Hoenninger đã thường trú tại Bảo Lộc và Sài Gòn trong suốt bốn khoá đầu. Các đại học kết nghĩa Georgia, Florida đã cử nhiều giáo sư và chuyên gia thường trú đến làm việc với trường cho đến tháng 3 năm 1975. Phái đoàn viện trợ kỹ thuật Pháp với nhiều chuyên gia của ORSTOM và các Viện nghiên cứu Pháp đã ở lại trường đến tháng 8 năm 1975.
Sau này được tổ chức SIDA – SAREC tài trợ, Đại học Nông nghiệp Thụy Điển thường xuyên cử tiến sĩ Brian Ogle, tiến sĩ Inger Ledin và nhiều Giáo sư đầu đàn của Thụy Điển sang nghiên cứu và giảng dạy tại Đại học Nông Lâm từ khi bắt đầu dự án Hệ thống canh tác/Chăn nuôi gia súc gia cầm tại Việt Nam. Tiến sĩ Thomas Reg Preston, chuyên gia tư vấn của dự án đã đến sống và làm việc tại Thủ Đức.
Từ năm 1993 đến 1997, Tổ chức Lương Nông đã cử tiến sĩ Kenji Sato đến mở văn phòng điều phối dự án sử dụng tốt hơn nguồn thức ăn sẳn có tại địa phương trong hệ thống nông nghiệp bền vững vùng Đông Nam Á cho năm nước Campuchia, Lào, Philippines, Trung Quốc và Việt Nam. Đại học Nông Lâm được FAO chọn làm Trung tâm điều phối vùng cho dự án.
Từ năm 2001 cho đến nay, Trường được bốn nước trong khu vực hạ lưu sông Mekong Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam cử làm Trung tâm điều phối vùng cho Chương trình hợp tác nghiên cứu nông nghiệp bền vững dựa trên chăn nuôi do Tổ chức SIDA Thụy Điển tài trợ và Văn phòng điều phối được đặt tại Đại học Nông Lâm. Tổ chức HELVETAS – Thụy Sỉ cũng đã cử chuyên gia Rudy sang điều phối dự án Lâm nghiệp xã hội do tổ chức SDC Thụy sỉ tài trợ và Văn phòng của dự án được đặt tại Khoa Lâm nghiệp. Chương trình viện trợ của Đức cũng cử chuyên gia trường trú sang làm việc với Khoa Bảo quản chế biến Nông sản Thực phẩm. Các Trường Thú Y Quốc gia Lyon, Alfort, Toulouse của Pháp đã cử nhiều giáo sư danh tiếng của trường sang giảng dạy tại Đại học Nông Lâm. giáo sư Barone, giáo sư Bost, giáo sư Euzeby, giáo sư Joubert, giáo sư Drieux, giáo sư Lamy, giáo sư Perpezat là những thú y chi bảo của nước Pháp và của thế giới. Ngành Nông khoa và Lâm Khoa cũng tiếp nhận nhiều giáo sư danh tiếng của Pháp như giáo sư Gaury, giáo sư Commun, giáo sư Roth, giáo sư Macari, Poliniere, Banchi, Chardin, Guichon, Rollet, Maurand, Rocher, Jolly.
Trong suốt năm mươi năm tồn tại, Đại học Nông Lâm đã đào tạo nhiều thế hệ sinh viên ưu tú. Nhiều cựu sinh viên của trường hiện đang đảm nhận nhiều trọng trách như lãnh đạo Bộ, lãnh đạo tỉnh, lãnh đạo các trường đại học, lãnh đạo các viện, các trung tâm nghiên cứu nông nghiệp, lãnh đạo nhiều sở Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn, sở Khoa học và Công nghệ, lãnh đạo nhiều công ty quốc doanh cũng như công ty tư nhân do chính mình đứng ra thành lập, tạo công ăn việc làm cho nhiều người.
Đó là những hạt giống mà trường chúng ta đã gieo, đã ươm trồng trong hai thập niên đầu của trường. Lúc đó trường chúng ta đã thực hiện một nền giáo dục đại học ưu tú, đào tạo nhiều nhân tài, nhiều kỹ sư có năng lực góp phần vào sự nghiệp phát triển nông nghiệp trong các thập kỷ vừa qua. Trong thời kỳ đầu trường chúng ta đã đào tạo những tinh hoa, số lượng tuy ít nhưng phẩm chất cao.
Trường chúng ta không ngừng vươn lên, đào tạo những chuyên viên có năng lực để đáp ứng các yêu cầu mới mà nông nghiệp của thế kỷ XXI đặt ra: Hiệu quả và chất lượng. Vào buổi bình minh của thế kỷ XXI nông nghiệp không những giải quyết an toàn lương thực thực thực phẩm, gia tăng sản lượng, tạo công ăn việc làm ở nông thôn, đẩy lùi nghèo khó , mà còn phải kết hợp hài hoà giữa phát triển, mở rộng diện tích canh tác với việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ sinh thái, giữ gìn cái đẹp tự nhiên mà Tạo hoá đã ban cho chúng ta.
Đó là một vận hội mới mà trường chúng ta sẽ nhập cuộc. Tôi tin rằng với tinh thần đoàn kết nhất trí trong lãnh đạo nhà trường cũng như toàn thể giảng viên, cán bộ công nhân viên, sinh viên đồng tâm, hiệp lực cùng nhau chung sức, chung lòng. Đại học Nông Lâm sẽ hoàn thành sứ mạng đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao kỹ thuật, mở rộng hợp tác quốc tế mà đất nước đang mong đợi.
Tồn tại trong suốt nửa thế kỷ qua, những người con đầu tiên đến với trường nay đã ở tuổi thất thập cổ lai hy, có người còn, có người đã ra đi vĩnh viễn, nhưng bà mẹ Nông Lâm thì vẫn còn đó.
Những người con thân yêu của mẹ sẽ gìn giữ, bảo tồn Trường như đại văn hào Victor Hugo đã bảo tồn nhà thờ Notre Dame de Paris khi viết truyện Thằng gù nhà thờ Đức Bà để Vương cung Thánh đường này tồn tại mãi mãi đến ngày hôm nay.
Đại học Nông Lâm sống mãi trong tâm tư, trong tình cảm nhiều người. Tên gọi Đại học Nông Lâm khắc sâu trong tâm trí, trong ký ức của nhiều người.
Hôm qua, hôm nay và trong mai sau Đại học Nông Lâm đã, đang và sẽ mãi mãi tồn tại trong tâm thức của nhiều thế hệ sinh viên và trong bạn bè năm châu bốn bể.
Ban giảng huấn và sự phát triển nguồn nhân lực Đại Học Nông Lâm trong hai mươi năm đầu của trường
Đại học Nông Lâm xuất thân từ Trường Quốc gia Nông Lâm Mục Blao được thành lập do nghị định 112-BCN/NĐ ngày 19 tháng 11 năm 1955.
Từ ngày thành lập cho đến nay trường đã trải qua nhiều lần thay đổi danh xưng: Trường Quốc gia Nông Lâm Mục Blao, Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc Sài gòn, Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp, Học viện Quốc gia Nông nghiệp, Đại học Nông nghiệp thành viên Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức, Đại học Nông nghiệp IV, Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ chí Minh.
Trong suốt nửa thế kỷ, bảy lần thay tên, nhưng tên trường vẫn luôn giữ cái cội nguồn lúc mới thành lập, đó là cái gốc nông nghiệp trong danh xưng. Mặc dù nghị định thành lập trường được ban hành từ năm 1955 nhưng phải đợi bốn năm sau, năm 1959 khi các giảng đường, phòng thí nghiệm, nông trại, cư xá sinh viên được xây dựng khang trang và quan trọng hơn hết là đội ngủ giảng viên được tăng cường đầy đủ, trường mới chiêu sinh khóa đào tạo Kỹ sư nông nghiệp đầu tiên. Trong bốn năm đó trường đã đào tạo được hai khóa kiểm sự, khóa thứ ba đang đi thực tập tốt nghiệp, khóa thứ tư đang theo học năm thứ hai tại trường, khóa thứ năm vừa mới tuyển và bắt đầu nhập học năm thứ nhất tại trường.
Để chuẩn bị cho chương trình đào tạo Kỹ sư nông nghiệp Ban Giám Đốc trường đã có những bước đi rất thận trọng : xây dựng trường sở khang trang, đội ngủ giáo viên hùng hậu, tài giỏi, trình độ quốc tế, có uy tín trong giới đại học quốc tế. Một năm trước ngày khai giảng khóa đào tạo kỹ sư đầu tiên, Gáo sư Bác sĩ Đặng Quan Điện đã sang Pháp, viếng thăm các trường Đại học Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Thú Y Pháp, được các trường và Chính phủ Pháp đồng ý viện trợ, cam kết sẽ cử các giáo sư có uy tín sang giảng tại Bảo Lộc, Ban Giám Đốc trường lúc đó mới có quyết định chiêu sinh.
Được trúng tuyển vào trường thời bấy giờ là những sinh viên ưu tú, trải qua một kỳ thi tuyển cam go sau khi tốt nghiệp Tú Tài toàn phần. Hai mươi lăm sinh viên giỏi nhất ngành Nông khoa, mười lăm sinh viên giỏi nhất ngành Lâm khoa và hai mươi sinh viên giỏi nhất ngành Súc khoa được tuyển chọn vào trường.
Tiếng Pháp là chuyển ngữ được sử dụng để giảng dạy trong bốn khóa đào tạo kỹ sư đầu tiên. Chương trình đào tạo kỹ sư của trường thời bấy giờ là chương trình đào tạo tinh hoa: Đội ngủ giáo sư giỏi, trình độ quốc tế, sinh viên ưu tú, hiếu học, trường sở, phòng thí nghiệm, nông trại, thư viện được trang bị đầy đủ, môi trường học tập tốt.
Lúc khởi đầu ngoài bốn chuyên gia đầu đàn gắn bó với trường: Bác sĩ Vũ Ngọc Tân, Giáo sư Bác sĩ Đặng Quan Điện, Giáo sư Lê Văn Ký, Giáo sư Bùi Huy Thục trường còn có một đội ngũ giáo sư quốc tế hùng hậu thường trú tại Bảo Lộc gồm Tiến sĩ Maurice Schmidt (Pháp), Giáo sư Tixier (Pháp), Tiến sĩ Stevens (Mỹ), Giáo sư Hoenninger (Đức), Tiến sĩ Pecrot (Bỉ).
Để giải quyết việc giảng dạy các môn khoa học cơ bản, cơ sở ngoài bốn giáo sư Việt Nam và quốc tế thường trú tại trường: Bác sĩ Vũ NgọcTân phụ trách môn Động vật học, Giáo sư Tixier phục trách môn Thực vật học, Tiến sĩ Stevens phụ trách môn Kinh tế đại cương và xã hội học, Tiến sĩ Maurice Schmidt phụ trách các môn Địa chất – Thổ nhưỡng, Khí hậu học, Giáo sư Bùi Huy Thục và Maurice Schmidt môn Nông học đại cương, Giáo sư Lê Văn Ký và Giáo sư Rocher phụ trách môn Lâm học đại cương, Giáo sư Đặng Quan Điện phụ trách môn Súc học đại cương, Kỹ sư Lê Minh Tâm phụ trách môn Hóa phân tích, trường còn mời thỉnh giảng Giáo sư Tiến sĩ Lâm Chánh Bình, Đại học Khoa học Sài gòn phụ trách môn Hóa học đại cương, Hóa Hữu cơ, Kỹ sư Trần Văn Bạch phụ trách các môn Toán, Lý. Trường cử anh Lê Ngọc Điệp trợ lý cho Giáo sư Tixier, anh Huỳnh Quang Hải trợ lý cho Bác sĩ Vũ Ngọc Tân, Kỹ sư Phan Như Hy và anh Trần Trung Ngôn trợ lý cho Tiến sĩ Stevens, anh Nguyễn Hoài Đỉnh trợ lý cho Giáo sư Maurice Schmidt, anh Lê Thiệp trợ lý cho Tiến sĩ Hoenninger.
Lên đến năm thứ hai và năm thứ ba ngoài các chuyên gia đầu đàn của Việt Nam Bác sĩ Vũ Ngọc Tân, Giáo sư Bác sĩ Đặng Quan Điện, Giáo sư Tôn Thất Trình, Bác sĩ Tôn Thất Ngữ, Bác sĩ Lê Thước, Bác sĩ Nguyển Văn Trình, Bác sĩ Nguyễn Văn Tư, Giáo sư Lê Văn Ký, Giáo sư Lê Văn Mười, Kỹ sư Nguyễn Văn Đức, Kỹ sư Trương Văn Hiếu, Giáo sư Bùi Huy Thục, Kỹ sư Đoàn Minh Quan, Kỹ sư Nguyễn Văn Oánh, Kỹ sư Nguyễn Văn Hiệp, Kỹ sư Lương Sĩ Chương, một số các môn học được các giáo sư Mỹ, Pháp, Đức, Bỉ, thường trú tại trường đảm trách. Đó là các Giáo sư Maurice Schmidt, Giáo sư Tixier, Tiến sĩ Stevens, Tiến sĩ Hoenninger, Tiến sĩ Pecrot.
Chính phủ Pháp đã cử Giáo sư R.Barone, Giáo sư Jack Bost, Giáo sư Jacques Euzéby, Giáo sư Joubert, Giáo sư Henri Drieux, Giáo sư Gaury, Giáo sư Macari, Giáo sư Commun, Giáo sư Jolly, Giáo sư Guichon, Giáo sư Rollet, Giáo sư Maurand, Giáo sư Chardin, sang giảng dạy tại trường.
Các giáo sư được cử sang Việt Nam giảng dạy là các giáo sư danh tiếng không những được kính trọng tại Pháp mà còn rất nổi tiếng trong các đại học quốc tế, đã từng có nhiều kinh nghiệm tại các nước nhiệt đới. Nhiều vị đã từng thực hiện nhiều công trình nghiên cứu tại Việt Nam. Các trường đại học Pháp đã cử nhiều giáo sư sang giảng dạy tại trường trong bốn khóa đầu.
Bắt đầu từ khóa năm, năm 1963 tiếng Việt được sử dụng làm chuyển ngữ chính ở đại học. Tuy nhiên đối với các giáo sư ngoại quốc, tiếng Pháp vẫn được sử dụng để giảng dạy.
Đội ngũ cán bộ giảng dảy tại trường dần dần lớn mạnh với nhiều chuyên viên danh tiếng của Bộ Canh Nông chuyển về trường trong đó có Giáo sư Tôn Thất Trình, Giáo sư Ngô Bá Thành, Bác sĩ Tôn Thất Ngữ, Kỹ sư Nguyễn Phố Lu, Kỹ sư Nguyễn Hữu Mưu và nhất là sự trở về của nhiều nhà khoa học trẻ tốt nghiệp từ Pháp từ Mỹ tham gia công tác giảng dạy thường trực tại trường.
Các phái đoàn Pháp được cử sang giảng dạy tại trường thưa dần. Chính phủ Pháp đã cử các chuyên gia : Kỹ sư Yves Banchi, Giáo sư Tiến sĩ Denis Nguyễn Phước Du, Tiến sĩ Trần Văn Nhiều, Giáo sư Lamy, Giáo sư Perpezat, Giáo sư Roth, Kỹ sư Durand, Kỹ sư Didier sang làm việc thường trú tại trường.
Từ năm 1964 nhiều Tiến sĩ, Thạc sĩ, Bác sĩ, Kỹ sư đã hoàn thành chương trình đào tạo tại Pháp, tại Mỹ trở về tăng cường cho ban giảng huấn của trường. Từ Pháp về có có Tiến sĩ Kỹ sư Nguyễn Võ Mỹ, Kỹ sư Lucien Trọng. Từ Mỹ trở về có Bác sĩ Trần Quang Minh, Bác sĩ Nguyễn Thành Hải, Thạc sĩ Châu Văn Khê, Thạc sĩ Nguyễn Văn Tân, Tiến sĩ Châu Tâm Luân, Tiến sĩ Bùi Văn Trợ, Thạc sĩ Trần Trọng Toàn.
Bắt đầu từ năm 1970 nhiều Tiến sĩ, Thạc sĩ Kỹ sư tốt nghiệp ở Đức, Nhật, Úc, Tân Tây Lan, Canada, đã về nước tăng cường cho đội ngũ cán bộ giảng dạy của trường. Trong số các chuyên viên này có Thạc sĩ Lê Văn Phong, Thạc sĩ Dương Đình Học (K.6), Thạc sĩ Lương Tấn Tước, Thạc sĩ Lê Ngọc Chí Minh (K.7), Tiến sĩ Tô Phúc Tường, Tiến sĩ Phan Hoàng Đồng, Tiến sĩ Trương Hoàng Lâm, Tiến sĩ Phạm Hồng Chương, KS Đặng Ngọc Sơn, Thạc sĩ Lê Dũng Dân, KS Trần Văn Duơng. KS Huỳnh Văn Quang cũng tham gia ban giảng huấn của trường phụ trách phòng thí nghiệm Hóa đất đai. Nhưng nguồn nhân lực đông nhất là các tân kĩ sư của trường. Các thủ khoa các á khoa các khoá khi vừa mới tốt nghiệp đều được trường giữ lại để làm cán bộ giảng dảy hoặc nghiên cứu,
Từ khóa đầu tiên cho đến khóa 12 tốt nghiệp vào năm 1974 đã có hơn bảy mươi Kỹ sư Nông khoa, Lâm khoa, Súc khoa, được tuyển dụng vào ban giảng huấn của trường.
Đối với ngành Nông khoa chúng ta thấy có các Kỹ sư Nguyễn Lương Y (K.1), Nguyễn Đăng Long (K.1), Nguyễn Bích Liễu (K.2), Lâm Văn Thương (K.2), Dương Văn Đức (K.3), Trần Như Long (K.3) Lê Nguyên Khôi (K.3) Văn Khắc Thái (K.3), Nguyễn Ru (K.4), Võ Hữu Để (K.5), Nguyễn Bá Khương (K.5), Hồ Văn Lâm (K.5), Hàng Ngọc Ẩn (K.6), Võ Thị Hải (K.6), Nguyễn Thị Phụng (K.6), Nguyễn Ngọc Sâm (K.6), Thế Thị Hợi (K.7), Võ Thị Phương Lan (K.7) Lưu Trường Kiện (K.7), Trần Minh Tiên (K.8), Đổ Cao Thiện (K.8), Hồ Thại (K.8), Nguyễn Hoàng Hoanh (K.9),Trần Kiều Nga (K.10), Nguyễn Văn Tài (K.10), Dương Đình Hội (K.10), Lý Trung Di (K.11), Lý Hồng Sơn (K.11), Phan Gia Tân (K.11), Tạ Trung Chánh (K.12), Huỳnh Thành Nghiệp (K.12), Huỳnh Lệ Nguyên (K.12), Nguyễn Văn Thiện (K.8), Nguyễn Vác (K.11), Trần Ngọc Lâm (K.12), Lê Ấn (Dược sĩ).
Đối với ngành Lâm khoa chúng ta thấy có các Kỹ sư Đổ Cao Thọ (K.1), Đào Văn Tự (K.1), Vũ Văn Cử (K.4), Lâm Bình Lợi (K.4), Trần Hữu Trác (K.4), Hồng Văn Huỳnh (K.5), Nguyễn Tấn Văng (K.6), Võ Văn Thoan (K.8), Nguyễn Văn Thừa (K.8), Nguyễn Đức Bình (K.10), Nguyễn Văn Sở (K.10), Hoàng Hữu Cải (K.11), Châu quang Hiền (K.12), Lê Văn Mính (K.12), Lê Hữu Đức (K.12), Phạm bá Thành (K.11).
Đối với ngành Súc khoa chúng ta thấy có các Kỹ sư Lưu Trọng Hiếu (K.1), Nguyễn Đình Nghiêm (K.1), Ngô Thị Ngọc Diêu (K.3), Đặng Đắc Thiệu (K.3), Nguyễn Thúy Minh (K.6), Nguyễn Thị Nữ (K.6), Đặng Thị Sở (K.6), Trần Quốc Thăng (K.7), Trần Ngọc Đẳnh (K.8), Võ Văn Kiều (K.8), Phan Ngọc Sang (K.8), Huỳnh Văn Xương (K.8), Nguyễn Văn Tú (K.9), Lê Đăng Đảnh (K.10), Bùi Huy Như Phúc (K.10), Trịnh Công Thành (K.10), Nguyễn Văn Công (K.11), Phan Đức Duy (K.11), Lương Hà (K.11), Ngô Văn Mận (CT.K.2), Phạm Ngọc Thơ (K.11), Nguyễn Văn Gắc (K.12), Phan Thanh Hồng (K.12), Nguyễn Văn Khanh (K.12), Nguyễn Trọng Khôi (Dược sĩ), Trần Văn Phát (K.12), Trần Trọng Chơn (K.12), Phạm Chí Thành (K.11), Đổ Đình Hòa (K.11), Nguyễn Bích Nga (K.11).
Trong những năm 70 của thế kỹ trước Kỹ sư Bùi Như Hùng từ Viện Khảo cứu Nông nghiệp, Thạc sĩ Lê Da Tốn từ Bộ Canh Nông, Bác sĩ Phạm Hùng, Bác sĩ Vương Quang Phước từ Nha Học Vụ Nông Lâm Súc và Kỹ sư Phạm Minh Xuân (K.12), cũng vể tham gia ban giảng huấn của trường.
Đồng thời với việc giữ lại các kỹ sư trẻ mới tốt nghiệp, trường cũng rất quan tâm đến việc xây dựng ngành Khoa học cơ bản. Cùng với việc tuyển dụng sáu tân khoa khóa 1, Cử nhân Pham Thị Ngọc Chinh tốt nghiệp Đại học Khoa học Sài gòn cũng được tuyển dụng vào trường phụ trách ngành Khoa học cơ bản. Lần lượt từ năm 1965 đến 1970 tám cử nhân trẻ Toán, Lý, Hóa, Vạn vật được tuyển dụng. Tám cử nhân trẻ này gồm có Cử nhân Ngô huy Cần, Thạc sĩ Hà Dương Cự, Cử nhânTrần Tấn Đức, Cử nhân Phạm Thị Lộc, Cử nhân Trần Lê Nhân, Cử nhân Trần Hữu Tiếng, Cử nhân Nguyễn Hoài Chung và Cử nhân Nguyễn Tần. Đại học Khoa học Sài gòn không những là trường cung cấp cho trường chúng ta một đội ngũ cử nhân trẻ, tài năng, mà còn cử nhiều giáo sư đầu đàn của trường sang giảng dạy các môn khoa học cơ bản, cơ sở tại trường chúng ta. Trong các giáo sư, các Tiến sĩ, các Thạc sĩ nầy chúng ta thấy có Giáo sư Tiến sĩ Phùng trung Ngân, Giáo sư Tiến sĩ Chu Phạm ngọc Sơn, Giáo sư Tiến sĩ Mai Trần ngọc Tiếng, Tiến sĩ Lê Công Kiệt, Tiến sĩ Đồng Sĩ Khiêm, Tiến sĩ Phó Đức Minh, Thạc sĩ Hoàng Mạnh Để, Thạc sĩ Bùi Thúc Thủy, Thạc sĩ Lê khắc Tích, Thạc sĩ Trần Thị Vinh, Cử nhân Đặng vĩnh Thanh.
Giáo sư Tiến sĩ Phùng Trung Ngân không những là giáo sư thỉnh giảng của trường trong nhiều năm mà còn tham gia lãnh đạo trường, giáo sư đã từng là Giám đốc Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp từ tháng 2 đến tháng 5 năm 1970.
Đại học Kỹ thuật Phú Thọ cũng là trường cung cấp cho trường một lực lượng giảng viên hùng mạnh.
Các Kỹ sư Đồng Công Quan, Kỹ sư Đoàn Thành Trung tốt nghiệp kỹ sư công nghệ đã được tuyển dụng vào giảng dạy tại ngành Công thôn. Trường Đại học Kỹ thuật Phú Thọ cũng đã cử gần mười giảng viên thỉnh giảng sang dạy tại trường chúng ta trong đó có các Kỹ sư Nguyễn Hữu Bình, Võ Ngọc Can, Nguyễn Thị Hiệp, Nguyễn Duy Thu Lương, Nguyễn Như Mộng, Phùng Lương Ngọc, Nguyễn Thành Ngưu, Phạm Hữu Tạt, Tôn Thất Thiều, Vĩnh Tiến, Phạm Văn Sanh.
Đại học Luật khoa cũng yểm trợ trường chúng ta đã cử Tiến sĩ Châu Tiến Khương, Tiến sĩ Nguyễn Trường sang giảng dạy các môn kinh tế tại trường chúng ta.
Cũng ngay sau năm năm đầu sau khi khai giảng khóa đào tạo kỹ sư đầu tiên trường đã nhanh chóng cử các giảng viên sang Mỹ, Pháp, Nhật, Úc, Philipines, Thái lan để đào tạo. Trong năm 1963 Kỹ sư Lê Văn Ký đã được cử đi đào tạo sau đại học tại Đại học Wisconsin Mỹ. Năm sau đó 1965, Kỹ sư Lưu Trọng Hiếu và Kỹ sư Nguyễn Đăng Long tiếp tục lên đường sang Mỹ để theo học các chương trình đào tạo MSc và PhD. Lần lượt các Kỹ sư Nguyễn Bích Liễu, Ngô Thị Ngọc Diêu, Kỹ sư Nguyễn Đình Nghiêm, Kỹ sư Nguyễn Phố Lu, Kỹ sư Lâm Văn Thương, Thạc sĩ Châu Văn Khê, Thạc sĩ Nguyễn Văn Tân, tiếp tục lên đường sang Mỹ theo học các chương trình đào tạo MSc và PhD. trong hai năm sau đó 1966,1967.
Giáo sư Lê Văn Ký hoàn thành chương trình thạc sĩ trong 14 tháng, trở về Việt Nam năm 1964, Thạc sĩ Nguyễn Phố Lu trở về trường năm 1969, Tiến sĩ Lưu Trọng Hiếu trở về trường năm 1969, Tiến sĩ Nguyễn Đăng Long trở về trường năm 1970, Tiến sĩ Nguyễn Bích Liễu năm 1971, Tiến sĩ Châu Văn Khê năm 1971, Tiến sĩ Nguyễn Văn Tân năm 1973, Tiến sĩ Lâm Văn Thương năm 1974.
Đồng thời từ năm 1969 đến 1975, trong khuôn khổ hợp tác giữa Đại học Florida với trường chúng ta, lần lượt nhiều Giáo sư trẻ đã lên đường sang Florida để theo học các chương trình Thạc sĩ và Tiến sĩ. Trong các giảng viên trẻ nầy chúng ta thấy có các Kỹ sư Lê Nguyên Khôi, Văn Khắc Thái, Trần Như Long, Dương Văn Đức, Nguyễn Ru, Hồ Văn Lâm, Võ Hữu Để, Nguyễn Bá Khương, Hàng Ngọc Ẩn, Lưu Trường Kiện, Đặng Đắc Thiệu, Trần Quốc Thăng, Đặng Thị Sở, Võ Văn Kiều, Trần trọng Toàn, Lê Da Tốn, Trần Hữu Trác, Hồng Văn Huỳnh, Trần Lê Nhân, Ngô Huy Cần, Hà Dương Cự.
Tiến sĩ Trần Trọng Toàn và Tiến sĩ Đặng Đắc Thiệu hoàn tất chương trình PhD nhanh nhất trở về nước năm 1974.
Trường còn tranh thủ nguồn học bổng của Chính phủ Pháp đã cử Kỹ sư Võ Thị Hải và Kỹ sư Đổ Cao Thiện, sang Pháp theo học chương trình đào tạo Tiến sĩ.
Trường cũng cử Kỹ sư Thế Thị Hợi sang Nhật học Kinh tế Nông nghiệp. Các Kỹ sư Võ Thị Phương Lan và Kỹ sư Võ Văn Thừa được cử sang Úc học về Côn trùng học và Lâm nghiệp.
Kỹ sư Nguyễn Hoàng Hoanh được cử sang Đại học Philipines tại Los Banos để đào tạo MSc và PhD trong khuôn khổ của chương trình SEARCA.
Các Kỹ sư Nguyễn Thúy Minh, Phan ngọc Sang, Huỳnh Văn Xương, được cử sang Đại học Chulalongkorn để đào tạo bác sĩ thú y, DVM.
Năm 1959 đồng thời với việc tuyển sinh vào khóa 1 chương trình đào tạo Kỹ sư Nông Lâm Súc trường cũng tuyển chọn các ứng viên đi du học tại Mỹ. Sau khi trúng tuyển một số ứng viên đã lên trường theo học năm thứ nhất tại Bảo Lộc để chờ ngày lên đường sang du học tại Mỹ. Trong số các ứng viên nầy có các anh Dương Trung Hưng, Nguyễn Văn Tân, Nguyễn Văn Tiên, Trần Trọng Toàn.
Một số ứng viên khác ở lại Sài Gòn để học Anh Văn trong khi chờ ngày lên đường sang Mỹ du học . Các anh Vương Quang Hải, Châu Văn Khê, Châu Tâm Luân, Nguyễn Văn Tài, Tạ Cự Hải đã lên đường sang Mỹ vào năm 1959. Các anh Nguyễn Thành Hải, Trần Quang Minh, Ngô Đình Ngoan, Nguyễn Văn Hỷ, Phạm Phi Hoành, lên đường sang Mỹ sớm hơn.
Năm 1959 anh Nguyễn Viết Trương bạn đồng song của tôi ở Trung học Petrus Ký được học bổng của Chính phủ Úc lên đường sang Úc học tại Đại học Queensland, tốt nghiệp PhD vào năm 1968, trở về nước xây dựng Khoa Nông nghiệp Viện Đại học Cần Thơ.
Các sinh viên trung đẳng khóa 1, khóa 2, khóa 3, sau khi tốt nghiệp kiểm sự cũng được gửi sang Mỹ du học tiếp chương trình đào tạo BSc và một số đạt thành tích xuất sắc trong học tập được tiếp tục học lên MSc. Trong số các ứng viên nầy có các anh chị Phan Ngọc Châu, Nguyễn Quý Định, Lê Viết Dự, Lê Vinh Qui, Nguyễn Đình Mô, Nguyễn Văn Tràng, Phí Minh Tâm, Hoàng Vũ, Nguyễn Thị Hà, Nguyễn Thị Nghệ, Châu Văn Hạnh, Nguyễn Văn Hành, Nguyễn Thanh Tân, Vũ Quốc Dũng, Tống Ngọc Tiên, Lê Ngọc Diệp, Nguyễn Hoài Đỉnh, Nghiêm Xuân Thịnh, Nguyễn Thị Kỉnh, Hà Thị Liễu.
Đầu thập niên 50 các thầy Nguyễn Văn Mừng, Trương Đình Phú, cô Nguyễn Thị Quýt cũng đã lên đường sang Mỹ du học.
Không những gửi giáo viên sang Mỹ, Pháp, Nhật, Úc, Philippines, Thái Lan trường còn tranh thủ chương trình học bổng SEARCA của tổ chức Hội đồng các Bộ Trưởng Giáo dục Đông Nam Á SEAMEO gửi các sinh viên sang Đại học Philippines tại Los Ba nos để đào tạo MSc và PhD .
Các sinh viên được hưởng học bổng này gồm các anh các chị Phạm Ngọc Hiệp, Nguyễn Tri Khiêm, Cao Minh Thư, Lý Tửng, Phan Hiếu Hiền, Nguyễn Văn Ngưu, Bùi Xuân, Nguyễn Tịnh, Nguyễn Thị Hoàn, Nguyễn Thị Sâm, Nguyễn Đức Cao, Trần Văn Trung, Lê Trọng Trung, Nguyễn Thái Vân, Phan Quang Vinh, Trương Văn Đến, Nguyễn Thị Tuyền, Lâm Hổ, Phạm Thọ Hiếu, Cao Văn Quảng, Hoàng Chí Cường, Lê Ngọc Sên, Phạm Bình Chạy…….
Ngay từ đầu mới thành lập trường rất quan tâm đến việc đào tạo các Kỹ sư Nông nghiệp có trình độ có năng lực góp phần vào sự nghiệp phát triển nông nghiệp khi hòa bình trở lại trên quê hương.
Trường luôn luôn tranh thủ mọi nguồn tài trợ để đào tạo nhân tài cho đất nước và chất lượng đội ngủ cán bộ giảng dạy được trường quan tâm hàng đầu.
Qua bảng danh sách các cán bộ của trường trong năm học 1971-1972 mà tôi có được chúng ta thấy được thực lực của ban giảng huấn của trường thời đó và chúng ta đã thấy được mối quan tâm của trường trong việc xây dựng một đội ngủ cán bộ giảng dạy có trình độ cao.
Khi viết bài này tôi cố gắng tìm lại trong ký ức hình ảnh của từng giảng viên đã từng giảng dạy ở trường. Tôi cố nhớ từng chi tiết sự việc, nhưng chuyện của bốn mươi năm, năm mươi năm về trước khó có thể nhớ cho hết, mà có nhớ chắc không sau tránh khỏi sơ xuất, sai sót, nhầm lẫn tôi mong được các bạn thông cảm và bỏ qua cho nếu có gì sai sót nhầm lẫn.
Viết về giai đoạn hai mươi năm lúc mới thành lập trường có lẽ hiện nay còn rất ít chứng nhân còn nhiều ký ức về giai đoạn nầy.
Đối với giai đoạn của trường từ thập niên 70 của thế kỷ trước cho đến ngày hôm nay thì hiện nay ở trường có rất nhiều thầy cô đương nhiệm, có nhiều tài liệu để viết nên tôi mong rằng bài nầy sẽ là tiền đề để cho những bài nữa viết về giai đoạn ba mươi năm trở lại đây của trường. Nếu viết một bài bao quát đề cập đến gần hơn năm sáu trăm cán bộ giảng dạy khó quá thì từng khoa từng Bộ môn trực thuộc trường có thể viết về khoa của mình hoặc về bộ môn của mình.
Năm 1975 sau khi chiến tranh chấm dứt, hòa bình trở lại trên quê hương, Đại học Nông nghiệp Thủ Đức đứng trước tình trạng băng não, chảy máu chất xám trầm trọng. Nhiều cán bộ giảng dạy nhất là các con chim đầu đàn đã từ giả trường rời xa quê hương sống tha phương nước ngoài.Nguồi nhân lực mà trường đã dày công xây dựng phát triển trong suốt hai mươi năm từ ngày thành lập gần như mất trắng, trường lại quay về khởi điểm, khởi sự trở lại từ đầu.
Nhiều giảng viên đã được điều động từ các trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, Hà Bắc, Bắc Thái vào Nam tăng cường ban giảng huấn Nhiều tân Kỹ sư tốt nghiệp các khóa 13,14,15,16 và nhiều khóa sau nầy được tuyển dụng với số lượng lớn. Hàng năm từ 10 đến 20 cán bộ trẻ được giữ lại trường để giảng dạy hoặc nghiên cứu.
Trường không những giữ lại các sinh viên ưu tú của trường mà trường còn tuyển dụng sinh viên của Đại học Tổng hợp, Đại học Bách khoa, Đại học Dược khoa về tăng cường ban giảng huấn. Số giảng viên cơ hữu của trường càng ngày càng gia tăng hiện nay lên đến 574 giảng viên gồm 16 Phó Giáo sư, 76 Tiến sĩ, 202 Thạc sĩ, 226 Kỹ sư hoặc Cử nhân.Thông qua con đường hợp tác quốc tế và thông qua quỹ đào tạo nước ngoài bằng kinh phí nhà nước trường tiếp tục phát triển nguồn nhân lực của trường như đã được đề cập trong phần hợp tác quốc tế của trường .
Nói về giảng viên trẻ của thập niên sáu mươi thế kỷ trước chúng ta không thể nào quên các anh Nguyễn Lương Y và anh Nguyễn Võ Mỹ bạn tôi, những người đã nêu tấm gương luôn phấn đấu vươn lên và tấm lòng vị tha luôn nghỉ đến người khác và nay hai anh đã đi xa khi tuổi vừa ngoài ba mươi. Anh Nguyễn Lương Y đổ vào trường khoá 3 Trung đẳng năm 1957. Trong quá trình học tập ở trường anh nhờ các thầy chỉ giáo tự ôn tập và thi đổ Tú tài Toàn phần và đăng ký dự thi vào cấp Cao đẳng. Với học lực của anh có thể sau khi tốt nghiệp Trung đẳng anh sẽ được Trường đề cử sang Mỹ học, nhưng anh đã chọn theo học Kỹ sư trong nước. Và anh đã đổ vào khoá 1 Cao đẳng. Cũng như các sinh viên tốt nghiệp từ các trường Trung học đào tạo theo chương trình Việt, tiếng Pháp của anh không giỏi như các anh chị học các trường Jean Jacques Rousseau, MarieCurie, Tabert, Couvent des Oiseaux, Yersin và trong thời gian học cấp trung học cơ sở anh lại học ở nông thôn các tỉnh miền duyên hải, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Nam Ngãi Bình Phú chịu nhiều thiệt thòi hơn học sinh các trường ở các đô thị lớn ở miền Nam, nhưng anh đã có nhiều cố gắng, tự lực vươn lên phi thường để rồi khi tốt nghiệp ra trường anh đã thủ khoa ngành Nông khoa, viết một luận trình về Cao su do Kỹ sư Poliniere ở Viện Cao su Lai Khê hướng dẫn. Anh đã bảo vệ luận trình xuất sắc, được Trường giữ lại làm giảng nghiêm viên tức trợ lý giảng dạy. Do tình trạng tổng động viên anh phải nhập ngũ và được huấn luyện tại trường Bộ binh Thủ Đức. Không ai ngờ rằng anh đã văn hay mà võ cũng giỏi. Anh đã đổ thủ khoa khoá 16 trường Bộ Binh Thủ Đức. Anh tham gia cách mạng và tổ công tác của anh bại lộ, Anh bị bắt, trên đường đưa anh từ Quảng Nam (quê anh) ra Đà Nẵng xe chở anh trúng mìn và anh đã hy sinh. Tôi không bao giờ quên người bạn dễ thương dễ mến luôn luôn giúp đỡ mọi người, một con người của hòa giải ngoài tính hiếu học và ý chí luôn luôn vươn lên của anh.
Người bạn thứ hai mà tôi không bao giờ quên , anh Tiến sĩ Kỹ sư Nguyễn Võ Mỹ. Anh đã đi du học ở Pháp, tốt nghiệp Tiến sĩ Kỹ sư Học Viện Quốc Gia Nông học Paris Grignon trở về nước lúc tuổi vào khoảng ba mươi. Anh là một Tiến sĩ Nông học trẻ có trình độ, học thức cao, người nho nhã, lịch sự, dễ thương, đối xử với anh em trẻ với tất cả tất lòng của một người anh. Anh ăn nói thật nhỏ nhẹ và rất thương sinh viên. Cũng như anh Nguyễn Lương Y do tình trạng tổng động viên anh phải nhập ngũ. Năm Tết Mậu Thân anh trực ở một đồn ở gần trường đua Phú Thọ quận 11. Thật ra hôm mồng một tết không phải ngày trực của anh nhưng vì có người bạn trẻ cũng thuộc gia đình nông nghiệp vừa mới lập gia đình nên anh bảo anh bạn để anh gát thay cho. Trong đợt tổng tấn công xuân Mậu Thân đồn của anh bị pháo kích dữ dội. Anh đã bị trúng thương và được đưa vào bênh viện giải phẩu. Tưởng rằng thoát khỏi cơn hiểm nguy anh sẽ bình phục nào ngờ anh mất vì nhiễm trùng sài uốn ván do hậu phẩu không được quan tâm kỷ lưỡng. Vì lòng vị tha thương người, luôn nghỉ đến người khác anh đã hy sinh
Lúc đó tôi đang học bên Mỹ. Được tin hai người bạn thân gục ngã tôi cầu mong sao đất nước được sớm thanh bình. Và hòa bình đã đến, đến mười năm sau đó.
Anh Nguyễn Lương Y, anh Nguyễn Võ Mỹ những người con ưu tú của trường đã nêu những tấm gương luôn phấn đấu không ngừng vươn lên, có con tim nhân hậu, tấm lòng vị tha bác ái mà chúng ta cần học tập và trường chúng ta không bao giờ quên hai anh.
Tôi đến với trường từ thuở trường mới thành lập nên tôi được biết nhiều về trường, tôi hay viết về chuyện thuở xưa, chuyện ngày xửa, ngày xưa. Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy ngàn năm nào dễ mấy ai quên nên tôi mãi đi tìm, tìm về quá khứ, tìm về giữa giấc mơ xưa, tìm về một thời vang bóng.
Nhiều bạn trẻ khuyên tôi đừng níu kéo thời gian, quá khứ đã qua rồi hãy để nó chìm trong quên lãng, nhớ thương cũng hoài công thôi, hãy hướng về tương lai.
Tương lai nhiều hứa hẹn hơn, tương lai đầy sáng lạng hơn, tương lai rực rỡ hơn, tương lai huy hoàng hơn.
Anh em trẻ là người quyết định tương lai, nên (tôi) theo lời khuyên của anh em trẻ mà tìm đường về tương lai.
MƯỜI NĂM Ở BẠC LIÊU (28)
MƯỜI NĂM Ở BẠC LIÊU Đại Học Minh Hải [28] Lưu Huy Chiêm
Đại học Minh Hải có từ bao giờ tôi không nhớ rõ. Lần đầu tiên tôi biết đến nó thì tên đầy đủ là Đại học tại chức tỉnh Minh Hải. Hiệu trưởng là ông Ba Thi. Ông Ba Thi là dân miền Nam, tập kết ra bắc hồi năm 1954 theo hiệp định đình chiến, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Hiệp định này do các bên tham chiến và có ảnh hưởng (Liên xô, Trung Quốc, Pháp, Việt Nam dân chủ cộng hòa) ký kết tại Geneva, Thuỵ Sĩ. Ông Ba Thi gốc là dân điền kinh, môn chạy Marathon, Đại học thể dục thể thao trung ương đóng ở Từ Sơn, Bắc Ninh, khá xa Hà Nội. Dân Marathon có khác. Tướng tá rất phong độ, nhanh nhẹn hoạt bát, ăn nói quảng đại.
Đại học tại chức được ưu ái nhận ngôi nhà cổ, kiến trúc cổ Tây phương rất đẹp, nằm ngay trung tâm thị xã Bạc Liêu, trên đường Trần Phú. Đi từ xa cảng vào chợ Bạc Liêu thì nó ở bên tay trái, đoạn giữa Ngã Tư Quốc Tế và đường Bà Triệu. Theo trí nhớ của người đương thời, trước kia nó thuộc về một nhánh của nhà thờ bên phường 2. Nhưng bấy giờ thì không còn dấu vết gì, kể cả hình ảnh cây thánh giá. Có thời, bên văn hóa thông tin cho thuê mặt bằng tầng trệt chiếu Video cassette. Tại đây, tôi cũng từng xem phim Hy Sinh, Tình yêu nước mắt… của Ấn Độ. Phim Ấn Độ rất ăn khách và thịnh hành thời ấy nhờ diễn viên đẹp, hoá trang hoàn hảo từng milimet, đạo diễn lồng ghép những trường đoạn vũ điệu dân gian, đặc sắc. Nội dung phim dồn dập, đẩy cao trào kịch tính lên tận cùng các cung bậc cảm xúc. Đặc biệt, nữ minh tinh màn bạc xinh đẹp còn trang trí dấu chấm đỏ trên trán, tạo ấn tượng hoàn toàn mới lạ… Với vị trí đắc địa như vậy; nhà ấy, đất ấy thời nào cũng là vàng. Thời nay, chắc hẳn phải là ngàn vàng, kim cương.
Ngày ấy, Đại học tại chức Minh Hải liên kết đào tạo với các đại học trên thành phố Hồ Chí Minh. Tôi nghi ngờ những bộ óc thiên tài nghĩ ra cụm từ đào tạo liên thông hay liên kết. Tôi biết các môn khoa học xã hội nhân văn thì mời giáo sư thỉnh giảng. Thầy Lê Đình Kỵ – giáo sư văn chương, đến hẹn lại từ Sài Gòn về đại học Minh Hải tham gia giảng bài và hướng dẫn luận văn tốt nghiệp cho học viên. Đề tài quanh đi quẩn lại là thơ văn yêu nước và cách mạng. Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ nam Nam Bộ “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm / Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” hay “Văn sĩ tải đạo” là một ví dụ. Không kể một đôi người trong một vài trường hợp cụ thể thực học, có tìm tòi mong bổ túc, bổ xung, nâng cao kiến thức; còn lại thì hiện tượng phổ biến chính là thi nhau sao chép luận văn của các khoá trước, chép lẫn của nhau, ồn ào, âm thầm là có thực. Tôm khô Cà Mau, cá mực, rượu nếp than Bạc Liêu, không làm say thì cũng đủ để “luận văn” đủ điểm tốt nghiệp. Trừ vài người gẫy gánh giữa đường, học viên nào theo đuổi đến gọi là cho có bài thi hết môn, hết khoá thì đều hoàn thành sứ mệnh sử thi, văn sĩ.
Tôi nhớ, ngày ấy phong trào học tiếng Anh bất ngờ bùng phát. Đại học tại chức Minh hải mở lớp dạy tiếng Anh ban đêm nhằm đáp ứng đối tượng là cán bộ công nhân viên chức. Tỉnh chủ trương khuyến khích tối đa. Chỉ cần có giấy giới thiệu của cơ quan, ban ngành là ghi danh! ok! miễn phí. Lớp 1, tôi đăng ký ngày đầu có trên 40 học viên. Lịch học tuần 3 đêm, đêm 3 tiết, tiết 45 phút có giải lao giữa giờ. Thầy Tấn chủ nhiệm. Thầy Tấn chạc tuổi tôi. Nếu có hơn thì không hơn bao nhiêu. Tôi hợp với cách dạy của thầy. Nghe nói thầy từng là sinh viên Hội Việt – Mỹ thời Việt Nam cộng hòa trước 1975. Vài ngày sau, lớp học bắt đầu rơi rụng dần, lên lớp 2 chỉ còn một nửa. Tôi theo đến lớp 3, gặp thầy Trung già đứng lớp. Ai cũng bảo thầy Trung giỏi. Thầy không nói một từ tiếng Việt nào, trừ hoàn cảnh bắt buộc trong một tiết học. Thầy Trung nhiệt huyết, lúc nào cũng vui cười và không tiếc công tiếc sức vì học viên, mồ hôi túa ra từ khuôn mặt hồng hào và trên lưng áo. Tôi đánh vật với phương pháp dạy và học mới lạ. Thế mà tôi không tài nào theo kịp, không tiếp thu được bài. Tôi đuối sức, chán nản rồi bỏ học. Tôi còn thấy đôi ba trường hợp nhờ đến lớp Anh ngữ cũng như bổ túc văn hóa ban đêm mà tìm được nửa bên kia cho mình.
Năm 1984, tỉnh lỵ Minh Hải di dời xuống Cà Mau, toà nhà uy nghi, cao lớn, đồ sộ bậc nhất từng là cơ quan đầu não của tỉnh ủy được ưu tiên bàn giao cho Đại học Minh Hải. Toà nhà chiếm khu đất vàng rộng lớn, có vườn hoa, cây cảnh rộng. Đối diện với toà nhà Công tử Bạc Liêu. Phải nói cho ngay rằng, tòa nhà không đẹp, kết cấu nặng nề, không mang được dấu ấn nào của quê hương Bạc Liêu – Cà Mau rừng vàng, biển bạc, điền đạc thẳng cánh cò bay hay cánh đồng chó ngáp. Đáng tiếc là mới khánh thành chưa bao lâu thì lún không đều. Thành ra, từ xa nhìn vào thấy vết nứt mở rộng. Tin xấu lan nhanh. Tỉnh ủy, ủy ban tỉnh yêu cầu chuyên gia và bên thi công trên Sài Gòn về thẩm định. Kết luận chỉ là “lún không đều”. Họ bảo là một thời gian ngắn nữa thì hết lún, không nguy hiểm. Tôi từng leo lên tầng trên cùng và bước qua vết nứt trên mặt sàn đang trong thời gian “chờ lún”! Tôi bước đi thản nhiên như bao người khác. Một vài điểm trồi sụt khác làm gẫy cả gạch men lót nền ở phía cổng sau do thi công ẩu cũng trong thời gian chờ lún, dĩ nhiên không ai đả động gì?
Lúc này, ông Ba Thi thôi làm hiệu trưởng, ông Hai Phước về thay. Bỏ hai chữ tại chức đi trở thành Đại học Minh Hải. Sau ngày 20.11.1992 tôi lên Sài Gòn. Cho tới bây giờ là mấy đời hiệu trưởng tôi không biết. Nhưng có điều chắc chắn là Đại Học Minh Hải ngoài tâm huyết thì gần như dạy chay, học chay, thiếu phòng thí nghiệm, thực nghiệm, thực hành. Đội ngũ cán bộ giảng dạy cả số và chất lượng cũng còn là ẩn số. Tuy nhiên, người ta vẫn cần nó để lấy tấm bằng bổ xung vào tập hồ sơ cán bộ và vô vàn lý do khác rất lạ lùng. Vậy nên, người ta duy trì nó như nó đang là. Chính vì vậy, nó vẫn tồn tại, hàng năm vẫn chiêu sinh và cấp bằng tốt nghiệp cho học viên, sinh viên của nó như thời còn hai chữ tại chức. Văn bằng tại chức giá trị Quốc gia. Dù công khai công nhận hay không thì cũng vậy. Ai có thể khẳng định, sau này nó chẳng khá hơn!
“Thời thế thế thời thời phải thế”! – (Ngô Thì Nhậm).
An nhiên CNM365 Thả cho nó bay. Hòa nhã với tất cả Chọn bạn mà chơi Tình yêu cuộc sống Yêu thương và Sống Không ai có thể đi giúp ta. Yêu quý hết thảy muôn loài. Con nghĩ cái gì, con là cái đó. Bỏ đi những hư danh giả tạm. Hãy cho đi và con sẽ còn mãi. Cây kim trong bọc có ngày lòi ra Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết Minh triết trước hết là tự biết mình. Tìm về suối nguồn bình yên bên trong con Chuyển hóa nỗi ghen ghét thành sự khâm phục. Bí quyết để có sức khỏe tốt là an trú trong hiện tại.. Tin sâu Luật Nhân Quả hành Sống theo Thiện Pháp Hãy làm chủ suy nghĩ nếu không nó sẽ làm chủ con Đời sống tâm linh không là sang trọng mà là nhu cầu Con không là những gì con nói mà là những gì con làm Ai biết nhìn vào trong tự thân mình thì người đó tỉnh thức. Niềm hạnh phúc không bao giờ cạn kiệt khi ta biết chia sẻ Không có đường đến hạnh phúc. Hạnh phúc là con đường Hiểu được người là khôn ngoan, hiểu được mình là giác ngộ. Lời nói có sức mạnh vừa có thể gây tổn thương, vừa có thể trị lành. Không ai xứng đáng nhận được tình thương của con hơn là chính con.
Tin sâu Luật Nhân Quả, hành Sống theo Thiện Pháp. Đừng tin vào mọi thứ con được dạy phải tin. Lời Phật dạy 27 khẩu quyết xếp theo trình tự trên là sự thường niệm của riêng mình để cho dễ nhớ dễ thuộc dễ thực hành. Chúng ta khi trãi nghiệm nên tùy chọn nhập tâm những điều yêu thích phù hợp tâm thức đời thường. Kinh Phật có nhiều giao thoa với các Tôn giáo khác. Giáo sư Mai Văn Quyền khuyên nên định tâm, dụng tâm, không nên đứng hai chân ở hai thuyền dễ nguy hiểm. “Mohamet và đạo Hồi” “Vua Solomon sách khôn ngoan” đã có những kiến giải khác
Kinh Hoán Dụ kể câu chuyện sau: Trên đường đi hành đạo, đức Phật gặp một nhóm người Bà La Môn. Những vị Bà La Môn này hỏi đức Phật: “Thưa Ngài Cồ Đàm, đạo của Ngài có phương pháp nào cầu xin không?”- Đức Phật trả lời: “Đạo của ta không có pháp cầu xin mà chỉ cần thấu hiểu nghiệp báo và tin sâu Luật nhân quả, rồi hành sống theo thiện pháp thì cuộc sống sẽ được an lạc hạnh phúc hiện tiền.”- Các vị Ba La Môn bèn nói: “Thế thì đạo của Ngài đâu có gì hay, đạo của chúng tôi có nhiều phương pháp cầu xin rất linh nghiệm.”- Nghe Vậy, Đức Phật liền dẫn các vị Bà La Môn đi tới trước một cái ao, sau đó, Phật ném một hòn đá xuống ao và bảo các vị Bà La Môn: “Các người cầu xin cho hòn đá nổi lên được không?- Các Bà La Môn: “Dạ thưa Ngài không được.”- Đức Phật hỏi: “Tại sao?”- Các Bà La Môn: “Dạ, tại đá nặng hơn nước cho nên phải bị chìm.”Sau đó, Đức Phật đổ vài muỗng dầu xuống ao và bảo mọi người hãy cầu xin cho dầu chìm.- Các Bà La Môn đều đồng thanh thưa rằng: “không được.”- Đức Phật: “Tại sao?”- Các Bà La Môn: “Dạ, tại dầu nhẹ hơn nước.”- Nghe xong, Đức Phật liền nói: “Đúng vậy, đá nặng cho nên chìm trong nước và dầu nhẹ cho nên phải nổi trên nước, không có phép mầu nào để cầu xin thay đổi được những quy luật hiển nhiên như thế ! “Nhân quả là một quy luật công bằng trên cuộc đời mà theo duyên có thể đến sớm hay đến muộn.Dù bạn là ai, thuộc tôn giáo nào hay không tin vào một tôn giáo nào thì cũng không có ngoại lệ nào dành riêng cho bạn. Không có ông thần, bà thánh nào có thể ban phước giáng họa cho bạn, ngay cả Đức Phật cũng không làm được điều đó. Mọi hành động thiện ác đều do chúng ta làm ra và tự thọ nhận lấy theo nhân quả của nó“. Bằng trí tuệ giác ngộ, Đức Phật đã phân tích mọi việc theo đúng bản chất thật vốn có của nó, để mọi người nhận thức đúng đắn và ứng dụng. Phật là người thầy dẫn đường, đi hay không đi và đi như thế nào là việc của mỗi người trong chúng ta.
Hứng mật đời thành thơ Việc nghìn năm hữu lý Trạng Trình Đến trúc lâm Đạt năm việc lớn hoàng thành Đất trời xanh Yên Tử …
THUYỀN ĐỘC MỘC Trịnh Tuyên
Quên tên cây làm thuyền Tận cùng nỗi cô đơn- độc mộc!
Khoét hết ruột Chỉ để một lần ngược thác bất chấp đời lênh đênh…
LÊN NON THIÊNG YÊN TỬ Hoàng Kim
Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử Để thấm hiểu đức Nhân Tông Ta thành tâm đi bộ Lên tận đỉnh chùa Đồng Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc
“Yên sơn sơn thượng tối cao phong Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại Tiếu đàm nhân tại bích vân trung Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu Quải ngọc châu lưu lạc bán không Nhân miếu đương niên di tích tại Bạch hào quang lý đổ trùng đồng” (1)
Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong Trời mới ban mai đã rạng hồng Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả Nói cười lồng lộng giữa không trung Giáo ngọc quanh nhà giăng vạn khoảnh Cỏ cây chen đá rũ tầng không Nhân Tông bảo tháp còn lưu dấu Mắt sáng hào quang tỏa ánh đồng. (2)
*
Non thiêng Yên Tử Nghìn năm Thăng Long, Đông Đô, Hà Nôi Bảy trăm năm đức Nhân Tông Non sông bao cảnh đổi Kế sách một chữ Đồng Lồng lộng gương trời buổi sớm Trong ngần, thăm thẳm, mênh mông …
(1) Nguyễn Trãi, đề Yên Tử sơn Hoa Yên tự (2) Hoàng Kim bản dịch thơ Nguyễn Trãi, bài thơ ‘đề Yên Tử sơn Hoa Yên tự’
TRÚC LÂM TRẦN NHÂN TÔNG Hoàng Kim
Người ơi con đến đây tìm Non thiêng Yên Tử như tranh họa đồ Núi cao trùng điệp nhấp nhô Trời xuân bảng lãng chuông chùa Hoa Yên
Thầy còn dạo bước cõi tiên Con ươm mầm sống xanh thêm ruộng vườn Mang cây lộc trúc về Nam Ken dày phên giậu ở miền xa xôi
Cư trần lạc đạo (*) Người ơi Tùy duyên vui đạo sống đời thung dung Hành trang Thượng sĩ Tuệ Trung Kỳ Lân thiền viện cành vươn ra ngoài
An Kỳ Sinh trấn giữa trời Thơ Thiền lưu dấu muôn đời nước non …
Lên non thiêng Yên Tử tôi nhớ câu thơ huyền thoại: “Trăm năm tích đức tu hành. Chưa lên Yên Tử chưa thành quả tu“. Núi Yên Tử thuộc tỉnh Quảng Ninh nơi có Quần thể di tích danh thắng Yên Tử ở Bắc Giang và Quảng Ninh. Đây là quần thể danh thắng đặc biệt nổi tiếng liên tỉnh đầu tiên ở Việt Nam được đệ trình Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc UNESCO xem xét, công nhận là Di sản thế giới. Núi Yên Tử là đỉnh thứ hai của tam giác châu huyền thoại Bắc Bộ nối Việt Trì – Quảng Ninh là dải Tam Đảo rồi 99 ngọn Nham Biền của các dãy núi vòng cung Đông Triều tạo nên thế hiểm “trường thành chắn Bắc” của bề dày núi non hiểm trở khoảng 400 km núi đá che chắn mặt Bắc của thủ đô Hà Nội non sông Việt.
Trần Nhân Tông (1258-1308) là một trong những vị vua anh minh nhất của lịch sử Việt Nam. Người tên thật là Trần Khâm, vua Trần thứ ba (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Với 50 năm cuộc đời, vua Phật Trần Nhân Tông đã kịp làm được ít nhất năm việc lớn hiếm thấy và khó ai bì kịp ở mọi dân tộc và mọi thời đại: 1) Minh quân lỗi lạc, làm vua 15 năm (1278 – 1293) trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông là đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thời đó; 2) Tổ sư thiền phái Trúc Lâm và Thái Thượng Hoàng 15 năm (1294-1306) là vua Phật Việt Nam. 3) Nhà văn hóa và nhà thơ kiệt xuất với kiệt tác thơ Thiền Trần Nhân Tông và thắng tích Trúc Lâm Yên Tử; 4) Người thầy chiến lược vĩ đại muôn đời của kế sách một chữ “đồng” “vua tôi đồng lòng, toàn dân đồng sức”, nhược thắng cường, yếu thắng mạnh, nước nhỏ thắng nước lớn, sự nghiệp mở nước và thống nhất non sông Việt bằng vương đạo, thuận thời, thuận người . 5) Nhà trị loạn kỳ tài đã hưng thịnh nhà Trần và cứu nguy cho nước Việt ở thời khắc quyết định, biến nguy thành an, biến những điều không thể thành có thể.
Kiệt tác thơ thiền đức Nhân Tông là đỉnh cao thơ Thiền thời Trần:
Lên non thiêng Yên Tử, khảo sát điền dã những chứng tích lịch sử văn hóa lưu dấu mãi với thời gian. “Soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi khác mà được.” (Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.). Đức Nhân Tông viết về sự đạt ngộ với người thầy là Tuệ Trung Thượng Sĩ . “Nghe xong, tôi thông suốt được đường vào, bèn vén áo thờ Ngài làm thầy”. “Soi sáng lại chính mình” chứ không tìm kho báu ở đâu khác là trí tuệ siêu việt của vua Phật Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông.
Tuệ có nghĩa là thông minh tài trí, sáng dạ. Tuệ thường được sử dụng để chỉ sự sáng suốt mau mắn lanh trí của con người. Sinh ra đã thông minh hơn người, tư duy nhanh nhẹn gọi là có tuệ căn. Có con mắt nhìn thấu mọi thứ soi rõ tiền nhân hậu hoạn gọi là tuệ nhãn.
Chữ tuệ được dùng nhiều trong phật học. Nhưng từ này cũng hàm ý chỉ sự tốt đẹp, nên thường được dùng để đặt làm tên người.
Cách viết chữ Tuệ
Tuệ – Huì – 慧. Bên trên là hai chữ phong 丰, bên dưới có bộ kệ 彐, sau đó là chữ tâm.
CHÙA RÁNG GIỮA ĐỒNG XUÂN Hoàng Kim
Nơi cổ tự mây lành che xóm vắng Viên Minh xưa chùa Ráng ở đây rồi Bụt thư thái chim rừng nghe giảng đạo Trời trong lành gió núi lắng xôn xao.
Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, thanh thản, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm. Minh triết sống thung dung phúc hậu.
Bài giảng đầu tiên của Phật
Tứ Diệu đế – Sự khổ: Nguyên nhân, Kết quả và Giải pháp – là bài giảng đầu tiên của Phật (Thích ca Mầu ni -Siddhartha Gamtama), nhà hiền triết phương đông cổ đại. Người là hoàng tử Ấn Độ, đã có vợ con xinh đẹp nhưng trăn trở trước sự đau khổ, thiếu hoàn thiện và vô thường (Dukkha) của đời người mà Phật đã xuất gia vào năm hai mươi chín tuổi để đi tìm sự giác ngộ. Người đã dấn thân suốt sáu năm trời tự mình đi tìm kiếm những vị hiền triết nổi tiếng khắp mọi nơi trong vùng để học hỏi và thực hành những phương pháp khác nhau nhưng vẫn chưa đạt ngộ. Cho đến một buổi chiều ngồi dưới gốc bồ đề, thốt nhiên Người giác ngộ chân lý mầu nhiệm lúc ba mươi lăm tuổi. Sau đó, Người đã có bài giảng đầu tiên cho năm người bạn tu hành. Mười năm sau, Phật thuyết pháp cho mọi hạng người và đến 80 tuổi thì mất ở Kusinara (Uttar Pradesh ngày nay). Học thuyết Phật giáo hiện có trên 500 triệu người noi theo.
Bài giảng đầu tiên của Phật là thấu hiểu sự khổ (dukkha), nguyên nhân (samudaya), kết quả (nirodha) và giải pháp (magga). Tôn giáo được đức Phật đề xuất là vụ nổ Big Bang trong nhận thức, san bằng mọi định kiến và khác hẵn với tất cả các tôn giáo khác trước đó hoặc cùng thời trong lịch sử Ấn Độ cũng như trong lịch sử nhân loại. Phật giáo chủ trương bình đẳng giai cấp, bình đẳng giữa con người có máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn, hết thảy các pháp là vô ngã. Mục đích là vô ngã là sự chấm dứt đau khổ và phiền muộn để đạt sự chứng ngộ bất tử, Niết bàn.
Kinh Phật với triết lý vô ngã: Chân lý là suối nguồn, chứ không phải là con người thần thánh hoặc chân lý tuyệt đối. Vị trí độc đáo của Phật giáo là một học thuyết mang đầy đủ tính cách mạng tư tưởng và cách mạng xã hội. Tiến sĩ triết học Walpola Rahula là giáo sư Trường Đại học Tổng hợp Ceylan (Pháp) đã tìm tòi văn bản cổ và giới thiệu tài liệu nghiêm túc, đáng tin cậy này (Lời Phật dạy. Lê Diên biên dịch).
Suối nguồn tươi trẻ Thiền tông
‘Bất lập văn tự. Giáo ngoại biệt truyền. Trực chỉ nhân tâm. Kiến tánh thành Phật’. Không lập giáo điều, truyền dạy ngoài sách, vào thẳng lòng người, giác ngộ thành Phật Thiền sư Bồ-đề-đạt-ma (?-532) đã nêu ra triết lý căn bản Thiền tông để Dạy và Học.Thiền tông Phật giáo Đại thừa nguồn gốc từ đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã đạt được sự giác ngộ dưới gốc cây Bồ-đề ở Ấn Độ. Thiền sư Bồ-đề-đạt-ma là Tổ sư Ấn Độ đời thứ 28 đã truyền bá và phát triển Thiền tông lớn mạnh tại Trung Quốc. “Thiền” nhấn mạnh kinh nghiệm thực tiễn chứng ngộ ‘trực chỉnhân tâm, kiến tính thành Phật’ . Nhà Ấn Độ học và Phật học người Đức Hans Wolfgang Schumann trong tác phẩm Đại thừa Phật giáo (Mahāyāna-Buddhismus) đã viết:“Thiền tông có một người cha Ấn Độ nhưng đã chẳng trở nên trọn vẹn nếu không có người mẹ Trung Quốc.Cái ‘dễ thương’,cái hấp dẫn của Thiền tông chính là những thành phần văn hoá nghệ thuật, những đặc điểm sắc thái riêng của Trung Quốc, không phải của Ấn Độ. Những gì Phật giáo mang đến Trung Quốc, với tư tưởng giải thoát tuyệt đối, trình bày một cách nghiêm nghị khắt khe với một ngón tay trỏ chỉ thẳng, những điều đó được các vị Thiền sư thừa nhận, hấp thụ với một nụ cười thầm lặng đầy thi vị. Thành tựu lớn lao của các Đại luận sư Ấn Độ là nhét ‘con ngỗng triết lý’ vào cái lọ ‘ngôn từ, thì chính nơi đây tại Trung Quốc, con ngỗng này được thả về với thiên nhiên mà không hề mang thương tích.” Thiền tông là sự “truyền pháp ngoài kinh điển” đạt ‘giác ngộ tức thì’ tại đây, ngay lúc này, chứng ngộ ‘kiến tính thành Phật’ do bản ngã chân tính và nhân duyên. Phật Thích Ca trên núi Linh Thứu im lặng đưa lên cành hoa, Thiền sư Ca Diếp mỉm cười thấu hiểu và đức Phật Thích Ca đã ấn chứng cho Thiền sư Ca Diếp là Sơ tổ của Thiền tông Ấn Độ.
Thiền tông Việt Nam có từ rất sớm tại Luy Lâu do Thiền tông Ấn Độ truyền bá vào Việt Nam trước tiên ở thế kỷ thứ 2 và thứ 3, rước cả Trung Quốc (thế kỷ thứ 6) Nhật Bản (thế kỷ 11, 12) và các nước châu Á khác. Các Sơ Tổ Thiền tông Việt Nam là thiền sư Khương Tăng Hội và Mâu Tử. Thiền tông Việt Nam nguồn gốc lâu đời trong lịch sử Việt Nam và phát triển rực rỡ nhất thời nhà Trần với Thiền phái Trúc Lâm. Trần Nhân Tông (Trần Khâm 1258- 1308) là vua Phật đời Trần (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Người là tổ sư Trúc Lâm Yên Tử, nhà chiến lược kỳ tài, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà thơ lớn Con Người Hoàn Hảo dân tộc Việt Nam. Người đã viết: Cư trần lạc đạo, triết lý nhân sinh rất nổi tiếng “Ở đời vui đạo, mặc tùy duyên/ Hể đói thì ăn, mệt ngủ liền/ Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm/ Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.
Trúc Lâm Yên Tử, Trần Nhân Tông
Trần Nhân Tông (Trần Khâm 1258- 1308) là vua Phật đời Trân (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Người là tổ sư Trúc Lâm Yên Tử, nhà chiến lược kỳ tài, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà thơ lớn và Con Người Hoàn Hảo của dân tộc Việt Nam. Người đã viết: Cư trần lạc đạo, triết lý nhân sinh rất nổi tiếng “Ở đời vui đạo, mặc tùy duyên/ Hể đói thì ăn, mệt ngủ liền/ Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm/ Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.”
Trần Nhân Tông với 50 năm cuộc đời đã kịp làm được năm việc lớn không ai sánh kịp trong mọi thời đại của tất cả các dân tộc trên toàn thế giới: Minh quân lỗi lạc, làm vua 15 năm (1278 – 1293) trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông là đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới của thời đó; Vua Phật Việt Nam, tổ sư thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và Thái Thượng Hoàng 15 năm (1294-1306). Nhà văn hóa và nhà thơ kiệt xuất với thắng tích Trúc Lâm Yên Tử và kiệt tác Trần Nhân Tông còn mãi với thời gian, hoàn thành sư mệnh của bậc chuyển pháp luân, mang sự sống trường tồn vượt qua cái chết; Người Thầy của chiến lược vĩ đại yếu chống mạnh, ít địch nhiều bằng thế đánh tất thắng “vua tôi đồng lòng, toàn dân đồng sức”tạo lập sự nghiệp mở nước và thống nhất non sông Việt, mở đất phương Nam bằng vương đạo, thuận thời, thuận người; Con người hoàn hảo, đạo đức trí tuệ, kỳ tài trị loạn, đã hưng thịnh nhà Trần và cứu nguy cho nước Việt tại thời khắc đặc biệt hiểm nghèo, chuyển nguy thành an, biến những điều không thể thành có thể.
Giáo sư sử học Trần Văn Giàu nhận định: “… chưa tìm thấy lịch sử nước nào có một người đặc biệt như Trần Nhân Tông ở Việt Nam. Tại nước Tàu lúc bấy giờ Triều đình nhà Tống rất hùng mạnh nhưng quân Nguyên Mông đã tràn xuống đánh thắng thần tốc, đến nỗi vua quan nhà Tống phải chạy ra biển và nhảy xuống biển tự vẫn. Tại Tây Á, Trung Á và một phần châu Âu cũng thua thảm hại, đến nỗi Giáo hoàng La Mã cũng lên tiếng sợ hãi. Trong lúc ấy Việt Nam so với phương Bắc thì quá nhỏ bé và quá nghèo yếu, thế mà Người dám không cho Nguyên Mông mượn đường xâm lược Chiêm Thành. Lại còn đánh bại ba lần Nguyên Mông xâm lược. Sau khi thắng giặc, Người lại lên núi sống. Người dám nghĩ, dám làm những việc không ai dám nghĩ chứ đừng nói đến làm”
Phật giáo Khoa học và Việt Nam
Nhà bác học Anhstanh, cha đẻ của Thuyết tương đối, đã nhận định: “Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học” . “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó” . “Khoa học mà thiếu tôn giáo là khập khiễng. Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng” . Cả ba câu này đều được trích từ Những câu nói nổi tiếng của Anhstanh (Collected famous quotes from Albert), và được dẫn lại trong bài Minh triết sống thung dung phúc hậu của Hoàng Kim
Khoa học và thực tiễn giúp ta tìm hiểu những phương pháp thực tế để thể hiện ước mơ, mục đích sống của mình nhằm sống yêu thương, hạnh phúc,vui khỏe và có ích. Đọc rất kỹ lại Ki tô giáo, Hồi giáo,Do Thái giáo,Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, … và chiêm nghiệm thực tiễn , tôi thấm thía câu kinh Phật với triết lý vô ngã: Chân lý là suối nguồn chứ không phải là con người thần thánh hay chân lý tuyệt đối. Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông có minh triết: Hãy quay về tự thân chứ không tìm ở đâu khác. Luật Hấp Dẫn, Thuyết Tương đối, Thành tựu Khoa học và Thực tiễn giúp ta khai mở nguồn năng lượng vô tận của chính bản thân con người và thiên nhiên. Đó là ba ngọn núi cao vọi của trí tuệ, là túi khôn của nhân loại. Bí mật Tâm linh (The Meta Secret) giúp ta khám phá sâu sắc các quy luật của vũ trụ liên quan đến Luật Hấp Dẫn đầy quyền năng. Những lời tiên tri của các nhà thông thái ẩn chứa trong Kinh Vệ đà, Lời Phật dạy, Kinh Dịch, Kinh Thánh, Kinh Koran …, cũng như xuyên suốt cuộc đời của những con người vĩ đại trên thế giới đã được nghiên cứu, giải mã dưới ánh sáng khoa học; Bí mật Tâm linh là sự khai mở những nguồn năng lượng vô tận của chính bản thân mỗi con người đối với đồng loại, các loài vật và thiên nhiên. Suối nguồn chân lý trong di sản văn hóa, lịch sử, giáo dục, kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao của mỗi dân tộc và nhân loại lưu giữ nhiều điều sâu sắc cần đọc lại và suy ngẫm.Qua đèo chợt gặp mai đầu suối. Gốc mai vàng trước ngõ.
Việt Nam là chốn tâm thức thăm thẳm của đạo Bụt (Phật giáo) trãi suốt hàng nghìn năm. Lịch sử Phật giáo Việt Nam theo sách Thiền Uyển tập anh xác nhận là đạo Phật được truyền trực tiếp từ Ấn Độ theo đường biển vào Việt Nam, gồm Giao Chỉ ở phía bắc và Chăm pa ở phía nam, khoảng thế kỉ thứ ba đến thế kỉ thứ hai trước Công nguyên, chứ không phải từ Trung Hoa như một số quan niệm trước đây. Phật giáo đồng hành chung thủy, lâu bền với dân tộc Việt, dẫu trãi nhiều biến cố nhưng được dẫn dắt bởi những nhà dẫn đạo sáng suốt và các đấng minh vương, lương tướng chuộng nhân ái của các thời nên biết thể hiện sự tốt đạo, đẹp đời. Việt Nam là nước biết tiếp thu, chắt lọc tri thức tinh hoa của nhân loại, chuộng sự học, đồng thời biết quay về với tự thân tổng kết thực tiễn, chứ không tìm ở đâu khác.
Việt Nam, Khoa học và Phật giáo là ba nhận thức căn bản của tôi.
Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, thanh thản, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm
Nếu thầy Thích Phổ Tuệ ấn chứng bạch ngọc (hạt gạo trắng ngần) thì cứ để nguyên vậy.
Thiển nghỉ của Bu thì có khác chút xíu. Bạch Ngọc là ngọc trắng thì chưa nói chi đến hạt gạo cả.
Thực ra hạt gạo không trắng thậm chí gạo lứt thì dinh dưỡng nhiều hơn gạo trắng. Bu được biết người Mỹ chế ra máy xát gạo trắng sau đó thấy là sai lầm bèn chế ra một thứ bột cho vào gạo để bù lại phần cám đã mất đi. Nhưng khi nấu cơm người ta vo gạo thì bột đó lại mất đi.
Dân gian nói hạt gạo là ngọc trời cho, trong trường hợp này là MỄ NGỌC.
Em đã thật xúc động được Thầy Thích Phổ Tuệ ấn chứng bạch ngọc (ngọc trắng, mễ ngọc, hạt gạo trắng ngần, ngọc trời cho, ngọc phương Nam). Đối với em được một người Thầy mẫu mực thiện tâm ấn chứng điều tốt đẹp này đã là một suối nguồn hạnh phúc. Em sẽ học thái độ của nước để đi như một dòng sông, học hoa lúa, hạt gạo để làm những việc có ích cho đời.
TỪ HIẾU VỚI NGƯỜI HIỀN “nhân sinh bách hạnh hiếu vi tiên” (cổ ngữ) Hoàng Kim
Về quê lần trước ghé thăm đây. Cầu Hiểu cầu Thương níu bạn thầy. Thơ thiền Nhất Hạnh tìm gốc cũ. Mặt trời từng hạt chính nơi này.
Hoàng Kim nhớ lần trước ra Huế đến thắp hương Nam Giao và chùa Từ Hiếu, cội nguồn của hiếu sinh. Lần khác có viếng thăm chúa Nguyễn Hoàng ở lăng Trường Cơ, tọa lạc tại xã La Khê, huyện Hương Trà, nay là làng La Khê, xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, và viếng thăm Thiên Thụ Sơn, vùng cây trên 2000 ha mà triều Nguyễn dày công mang kỳ hoa dị thảo cả nước về trồng ở chốn kinh kỳ để lưu dấu những hoài niệm.
Thật may mắn những lần được uống trà ban mai tĩnh lặng tại Từ Hiếu, được lắng nghe những lời dạy thân thiết và những trang văn uyên áo của người Thầy, được tĩnh lặng chứng ngộ pháp môn “cười” và pháp môn “phật giáo dấn thân”. Đời trãi ngộ lắm, thấm thía lắm, sâu sắc lắm mới có được những bài thi kệ thật hiếm có, trân quý như ngọc cho đời “Sinh Tử, cầu Hiểu cầu Thương, Thơ từng ôm và Mặt trời từng hạt” “Đường xưa mây trắng” “Việt Nam Phật Giáo sử luận” “Thả một bè lau”
Triết gia Osho nổi tiếng người Ấn độ nói: Tôi cực lạc vì tên của Tổ sư Bồ đề đạt ma đã làm cho tôi phiêu diêu. Đã từng có nhiều chư phật trên thế giới, nhưng Tổ sư Bồ đề đạt ma sừng sững như đỉnh Everest. Cách hiện hữu của ông ấy, cách sống, và cách diễn đạt chân lí đơn giản là của ông ấy; nó là vô song.
Trong các chùa ở Miền tây thường bên cạnh thờ tượng Đức Phật, có thờ tượng của Tổ sư Bồ đề đạt ma. Tượng Tổ sư dễ nhận biết. Gương mặt một người hung dữ, vai đeo gậy. Trên gậy có chỉ một chiếc giày.Tổ sư Bồ đề đạt ma đã du hành từ Ấn Độ sang Trung Quốc để truyền bá thông điệp của Đức Phật, người thầy của mình, mặc dầu họ sống cách nhau một nghìn năm.
*
Khi Tổ sư Bồ đề đạt ma đến Trung Quốc, Vũ Đế ra đón ông ấy ở biên ải. Mọi ngưỡi nghĩ rằng một chứng ngộ lớn đang tới! Và tất nhiên Vũ Đế đã tưởng tượng Tổ sư có nét gì đó giống như Đức Phật: rất hoà nhã, duyên dáng, vương giả. Tuy nhiên khi ông ta thấy Bồ đề đạt ma thì ông đã bị choáng. Tổ sư Bồ đề đạt ma trông rất thô thiển. Không chỉ thế, ông ấy còn có vẻ rất ngớ ngẩn. Ông ấy đến cây gậy đeo trên vai chỉ có một chiếc giầy.Vũ Đế bối rối. Ông ta đã tới cùng với cả đoàn triều đình với các hoàng hậu quí phi. Họ sẽ nghĩ gì khi ta ra đón một loại người như thế này? Ông cố gắng vì lịch sự bỏ qua điều đó. Và ông đã không muốn hỏi “Sao ông lại đến nước chúng tôi chỉ với một chiếc giầy?
Nhưng Tổ sư Bồ đề đạt ma đã không để Vũ Đế yên. Ông ấy nói: -Đừng cố bỏ qua nó. Hãy hỏi và thẳng thắn ngay từ chính lúc đầu đi. Ta đã đọc được câu hỏi trong đầu ông rồi.Vũ Đế đâm ra lúng túng; sau cùng ông nói:-Vâng, ông đúng, câu hỏi này đã nảy sinh trong ta: Sao ông đến mà chỉ mang một chiếc giày?
Tổ sư Bồ đề đạt ma nói, -Để mọi thứ vào cảnh quan đúng như từ chính lúc đầu. Ta là người vô lí! Ông phải hiểu điều đó từ chính lúc bắt đầu. Ta không muốn tạo ra bất kì rắc rối nào về sau. Hoặc ông chấp nhận ta như ta vậy hoặc ông đơn giản nói rằng ông không thể chấp nhận được ta. Và ta sẽ rời khỏi vương quốc của ông. Ta sẽ đi lên núi. Ta sẽ đợi ở đó đến khi người của ta đến với ta. Vũ Đế lúng túng. Ông đã mang theo nhiều câu hỏi khi đến đón Tổ sư. Nhưng ông băn khoăn có nên đưa chúng ra hay không? Ông nghi ngai câu trả lời là lố bịch. Nhưng Tổ sư Bồ đề đạt ma một mức khăng khăng:-Ông hãy nên hỏi những câu ông đã mang tới đây.
Vũ Đế gượng gạo hỏi:-Câu hỏi đầu: Ta đã làm được nhiều phước đức…. Tổ sư Bồ đề đạt ma nhìn sâu vào trong đôi mắt của Vũ Đế. Một cơn lạnh toát chạy dọc sống lưng nhà vua. Ông nói:-Toàn những điều vô nghĩa! Làm sao ông có thể làm được nhiều phước đức ? Ông còn chưa nhận biết phước đức được hình thành từ nhận biết . Mà ông ngụ ý phước đức nào? Làm sao ông có thể tạo ra được phước đức? Phước đức chỉ được tạo ra từ Đức Phật.
Vũ Đế ngại ngần:-Việc ta nói làm nhiều phước đức. Ta ngụ ý rằng ta đã làm nhiều đến chùa, nhiều điện thờ cho Phật. Ta đã làm nhiều đạo tràng cho các khất sĩ Phật tử, các tín đồ, và tì kheo. Ta đã thu xếp cho hàng nghìn học sĩ để dịch kinh sách Phật sang tiếng Trung Quốc. Ta đã tiêu tốn hàng triệu đồng bạc cho việc phục vụ Đức Phật. Nhiều triệu khất sĩ xin ăn mọi ngày từ cung điện này nọ này trên khắp nước.
Và Tổ sư Bồ đề đạt ma cười. Vũ Đế chưa từng bao giờ nghe thấy tiếng cười như thế. Tiếng cười bụng có thể làm rung chuyển cả núi. Tổ sư cười sằng sặc và nói:-Ông đã hành động một cách ngu xuẩn. Mọi nỗ lực của ông đều đã là cực kì phí hoài. Sẽ không tạo ra kết quả nào từ nó cả. Đừng cố, và đừng tưởng tượng rằng ông sẽ được lên cõi trời thứ bẩy như các khất sĩ Phật giáo đã nói cho ông. Họ chỉ khai thác ông thôi.
Đây là chiến lược khai thác những người ngu như ông. Họ khai thác lòng tham của ông về thế giới bên kia, Họ vẽ cho ông những hứa hẹn lớn. Và lời hứa của họ không thể chứng minh là sai được vì không ai quay trở về từ thế giới bên kia để nói liệu những lời hứa đó có được hoàn thành hay không. Ông đã bị họ lừa rồi. Không có cái gì sẽ xảy ra từ điều mà ông nghĩ là việc làm phước đức. Thực ra, ông sẽ rơi vào địa ngục thứ bẩy, vì một người sống với những ham muốn sai như thế, người sống có ham muốn như thế, đều sẽ rơi vào địa ngục.
Vũ Đế e ngại. Ông cố gắng lái câu chuyện sang một chủ đề khác: -Vậy có cái gì linh thiêng hay không? Tổ sư Bồ đề đạt ma nói, -Không có cái gì linh thiêng, cũng như không có cái gì là báng bổ. Linh thiêng và báng bổ, đều là thái độ của tâm trí, của định kiến. Mọi việc đều đơn giản như chúng vậy. Không cái gì sai và không cái gì đúng, không cái gì tội lỗi và không cái gì phước đức. Vũ Đế buồn bực:-Ông thật quá thể đối với ta và người của ta. Sau đó, Tổ sư Bồ đề đạt ma nói lời tạm biệt, quay lưng lại và đi lên núi.
Trong chín năm trên núi ông ấy ngồi quay mặt vào tường. Mọi người đến với ông bởi vì đã được nghe, biết về cuộc đối thoại này. Dù khoảng cách sống giữa Tổ sư và Đức Phật trong hơn một nghìn năm, nhưng về trung tâm Tổ Sư vẫn ở cùng Đức Phật. Tổ sư nói điều tinh tuý của Đức Phật – tất nhiên theo cách riêng của ông ấy, theo phong cách của ông ấy, Ngay cả Phật cũng sẽ thấy cách trình bày này đó là kì lạ.
Đức Phật là người văn hoá, phức tạp, và duyên dáng. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma chính là cái đối lập trong cách diễn đạt của Đức Phật. Tổ sư không là người mà là con sư tử. Tổ sư không nói, mà ông ấy gầm lên. Tổ sư không có cái duyên dáng mà Đức Phật có. Cái mà ông ấy có là sự thô thiển, dữ dằn. Không thanh nhã như kim cương; Tổ sư hệt như vĩa quặng: thô ráp tuyệt đối , không có một sự đánh bóng. Và đó là cái đẹp của ông ấy. Đức Phật có cái đẹp rất nữ tính, lịch sự, mảnh mai. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma có cái đẹp riêng . Cái đẹp của một tảng đá – mạnh mẽ, nam tính, không thể phá huỷ được, cái đẹp của một sức mạnh lớn lao.
Đức Phật toả sức mạnh, nhưng sức mạnh của Đức Phật rất im lặng, như tiếng thì thào, như làn gió mát. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma là cơn bão, sấm rền và chớp giật. Đức Phật đến cửa nhà bạn nhẹ nhàng không một tiếng động, bạn thậm chí sẽ không nghe thấy tiếng bước chân của ông ấy. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma, khi ông ấy đến nhà bạn, ông ấy sẽ làm rung chuyển cả ngôi nhà từ tận móng của nó. Đức Phật sẽ không lay bạn dậy ngay cả khi bạn đang ngủ. Còn Tổ sư Bồ đề đạt ma? Ông ấy sẽ dựng bạn dậy từ trong nấm mồ! Ông ấy đánh mạnh, ông ấy là chiếc búa.
Tổ sư là chính cái đối lập của Đức Phật trong cách diễn đạt, nhưng thông điệp của ông ấy với Đức Phật là một. Tổ sư cúi mình trước Đức Phật là thầy của mình. Tổ sư chưa bao giờ nói “Đây là thông điệp của ta”. Tổ sư đơn giản nói:-Điều này thuộc về chư phật, chư phật cổ đại. Ta chỉ là sứ giả. Không cái gì là của ta, bởi vì ta không có. Ta như cây trúc hồng được chư phật chọn để làm chiếc sáo cho họ. Họ hát: ta đơn giản để cho họ hát qua ta; xem tiếpĐối thoại với Thiền sưhttps://hoangkimlong.wordpress.com/category/doi-thoai-voi-thien-su/
HỒ XUÂN HƯƠNG GÓC KHUẤT Hoàng Kim
“Thuật ý kiêm trình hữu nhân Mai Sơn Phủ” là bài thơ ‘Tỏ ý’ của Hồ Xuân Hương đối với Nguyễn Du . Bài thơ tình xuân thiết tha, lời thơ là lời hát nói có nhạc bên trong nên câu thơ hay hiếm thấy. Bài thơ “Tỏ ý” này rút trong tập thơ “Lưu Hương Ký” thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương. Con người tác giả và tác phẩm này là nguyên mẫu người và thơ để Nguyễn Du đưa nhân vật, sự kiện và thời thế vào trong kiệt tác Truyện Kiều Tôi lưu ghi chép này để quay lại Hồ Xuân Hương góc khuất; Hồ Xuân Hương đời thơ;
Cái khó nhất trong văn chương là giá trị ngôn ngữ văn hóa sử thi dân ca hòa quyện thành lời hát tình tự dân tộc. Nguyễn Du Hồ Xuân Hương Truyện Kiều với Lưu Hương Ký là cặp đôi hoàn hảo trong văn chương Việt. Nguyễn Du Truyện Kiều đã có nhiều nghiên cứu và tôn vinh, nhưng tiếc rằng, Hồ Xuân Hương kiệt tác thơ Hán Nôm, còn ít được thấu tỏ. Bài này góp phần tìm hiểu sự hiếm hoi ít biết đó. Hồ Xuân Hương kiệt tác thơ Hán Nôm không chỉ là thấu suốt và diễn đạt tuyệt đỉnh thơ chữ Hán mà còn là biểu cảm sâu sắc ngôn ngữ Hán Nôm, ca trù hát nói Việt, hồn Việt, văn hóa sử thi dân ca người Việt, nguồn cảm hứng tuyệt vời của thơ Nguyễn Du:”Trong như tiếng hạc bay qua. Đục như nước suối vừa sa nửa vời. Tiếng khoan như gió thoảng ngoài. Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa. Ngọn đèn khi tỏ khi mờ. Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẫn sầu. Khi tựa gối, khi cúi đầu. Khi vò chín khúc khi chau đôi mày.”
Đĩa Trăng cổ thơ Mai Hạc của Nguyễn Du lưu lạc trong nhân gian “Nghêu ngao vui thú yên hà. Mai là bạn cũ, hạc là người quen” gợi mở chủ đề Hồ Xuân Hương kiệt tác thơ Hán Nôm. ” Ai viết cho ai những câu thơ lưu lạc. Giữa trần gian thầm lặng tháng năm dài? “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm. Nhất sinh đê thủ bái hoa mai”. Tập thơ LƯU HƯƠNG KÝ của Hồ Xuân Hương xuất hiện vào năm 1814, là văn bản cổ nhất và đáng tin nhất liên quan đến thơ Hồ Xuân Hương. Tập thơ này mới được phát hiện vào năm 1963 gồm Bài Tựa của Tốn Phong, người Nghệ An viết năm 1814 và 52 bài thơ của Hồ Xuân Hương với 24 bài chữ Hán và 28 bài chữ Nôm. Trong bài tựa, Tốn Phong tự nhận mình là bạn của Hồ Xuân Hương, tự Cổ Nguyệt Đường, con cháu họ Hồ ở Quỳnh Lưu, Nghệ An. Chính Hồ Xuân Hương đã nhờ ông viết lời tựa ấy: “Đây là tất cả thơ văn trong đời tôi từ trước đến nay, nhờ anh làm cho bài tựa.” (Chữ in đậm là Hoàng Kim nhấn mạnh).
“Thuật ý kiêm trình hữu nhân Mai Sơn Phủ”
là bài thơ ‘Tỏ ý’ của Hồ Xuân Hương đối với Nguyễn Du . Bài thơ tình
xuân thiết tha, lời thơ là lời hát nói có nhạc bên trong nên câu thơ hay
hiếm thấy. Bài thơ “Tỏ ý” này rút trong tập thơ “Lưu Hương Ký” thơ chữ
Hán Hồ Xuân Hương. Con người tác giả và tác phẩm này là nguyên mẫu người
và thơ để Nguyễn Du đưa nhân vật, sự kiện và thời thế vào trong kiệt
tác Truyện Kiều. Hồ Xuân Hương với kiệt tác thơ chữ Hán “Thuật ý kiêm trình hữu nhân Mai Sơn Phủ” là cây hồ cầm tuyệt diệu hát nói ca trù Kiều gẩy đàn cho Kim Trọng nghe “Trong
như tiếng hạc bay qua. Đục như nước suối vừa sa nửa vời. Tiếng khoan
như gió thoảng ngoài. Tiếu mau sầm sập như trời đổ mưa. Ngọn đèn khi tỏ
khi mờ. Khiến người ngồi đấy cũng ngơ ngẫn sầu. Khi tựa gối khi cúi đầu.
Khi vò chín khúc , khi chau đôi mày” (Kiều).
Truyện Thúy Kiều soi thấu những góc khuất của Lưu Hương Ký và ngược lại. “Chút
riêng chọn đá thử vàng. Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu? Còn như vào
trước ra sau. Ai cho kén chọn vàng thau tại mình? Từ rằng: Lời nói hữu
tình. Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân. Lại đây xem lại cho gần.
Phỏng tin được một vài phần hay không? Thưa rằng: Lượng cả bao dong.
Tấn Dương được thấy mây rồng có phen …”.
Nguyễn Du Hồ Xuân Hương là tri âm tri kỷ, là tiếng nói yêu thương khát vọng của con người. Tôi tập dịch bài thơ của Hồ Xuân Hương gửi Mai Sơn Phủ mà thấm thía sâu sắc câu chuyện tình cảm động bền vững với thời gian.
TỎ Ý Hồ Xuân Hương tặng Mai Sơn Phủ (Nguyễn Du) (Bản dịch của Hoàng Kim)
Hoa rung rinh,
Cây rung rinh,
Giấc mộng cô đơn nhớ hương tình,
Đêm xuân bao cảm khái.
Hươu nơi nao
Nhạn nơi nao
Mình ước trong nhau ban mai nào
Lòng em thương nhớ ai thấu sao!
Sông mênh mông
Nước dạt dào
Lòng hai chúng mình đều ao ước
Nước mắt thầm rơi mặn chát.
Thơ thương thương,
Lòng vương vương,
Ấm lạnh lòng ai thấu tỏ tường,
Bút người tả xiết chăng?
Mây lang thang
Trăng mênh mang
Trăng gió xui ai luống đoạn tràng
Đâu là gác Đằng Vương ?
Mây vương vương
Nước sương sương
Mây nước chung nhau chỉ một đường
Dặm trường cách trở thương càng thương.
Ngày thênh thênh,
Đêm thênh thênh,
Đêm ngày khắc khoải nhớ thương anh,
Người ơi đừng lỡ hẹn sai tình.
Gió bay bay
Mưa bay bay
Mưa gió giục em viết thơ này
Bút xuân gửi đến người thương nhớ
Anh đồng lòng
Em đồng lòng Mộng hồn tương luyến liễu hoa âm (*)
Thơ cùng ngâm
Rượu và trăng
Thăm thẳm buồn ly biệt
Vầng trăng chia hai nữa
Cung đàn ly khúc oán tri âm (**),
Thôi đành bặt tiếng hồ cầm
Núi cao biển sâu đằng đẳng
Xin chớ tủi buồn mà than cổ kim.
Chàng hẹn gì
Ta hẹn gì
Hai ta đều muộn, nói năng chi
Trà mà chi
Bút mà chi
Lời và chữ còn đó
Ai là kẻ tình si
Hiểu nhau trong dạ khó khăn gì
Hãy nên trao gửi mối duyên đi
Lòng son ai nỡ phụ.
Kiều – Nguyễn Du
Ca trù hát nói Việt Nam
Non xanh xanh Nước xanh xanh Sớm tình tình sớm, trưa tình tình trưa Áy ai tháng đợi năm chờ Mà người ngày ấy bây giờ là đây…
Ôi
tâm phúc tương tri
Bốn biển không nhà
Kiều Nguyễn biệt ly
Bởi Nguyễn thương Kiều
Sợ theo thêm bận.
Thương Kiều Nguyễn Du
Sao chẳng đi cùng
Để việc trăm năm
Nghìn năm di hận?
Truyện Kiều Nguyễn Du
Bài học muôn đời.
Hoa phiêu phiêu,
Mộc tiêu tiêu,
Ngã mộng hương tình các tịch liêu,
Khả cảm thị xuân tiêu.
Lộc ao ao,
Nhạn ngao ngao,
Hoan thảo tương kỳ tại nhất triêu,
Bất tận ngã tâm miêu.
Giang bát bát,
Thủy hoạt hoạt,
Ngã tứ quân hoài tương khế khoát,
Lệ ngân chiêm hạ cát.
Thi tiết tiết,
Tâm thiết thiết,
Nồng đạm thốn tình tu lưỡng đạt,
Dã bằng quân bút phát.
Phong ngang ngang,
Nguyệt mang mang,
Phong nguyệt linh không khách đoạn tràng,
Hà xứ thị Đằng Vương?
Vân thương thương,
Thuỷ ương ương,
Vân thuỷ na kham vọng nhất trường,
Nhất trường dao vọng xúc hoài mang.
Nhật kỳ kỳ,
Dạ trì trì,
Nhật dạ thiên hoài lữ tứ bi,
Tứ bi ưng mạc ngộ giai kỳ.
Phong phi phi,
Vũ phi phi,
Phong vũ tần thôi thái bút huy,
Bút huy đô thị phó tình nhi.
Quân hữu tâm,
Ngã hữu tâm,
Mộng hồn tương luyến liễu hoa âm.
Thi đồng ngâm,
Nguyệt đồng châm.
Nhất tự sầu phân ly,
Hà nhân noãn bán khâm.
Mạc đàn ly khúc oán tri âm,
Trực tu khí trí thử dao cầm.
Cao sơn lưu thuỷ vãn tương tầm,
Ưng bất hận ngâm thán cổ câm.
Quân hà kì,
Ngã hà kì,
Lữ đình lai đắc lưỡng thê trì.
Dánh tần phi,
Bút tần huy,
Nhất trường đô bút thiệt,
Hà xứ thị tình nhi?
Hảo tư tâm thượng các tương tri,
Dã ưng giao thác thử duyên đề,
Phương tâm thệ bất phụ giai kỳ.
Hươu ao ao
Nhạn ngao ngao
Vui sướng hẹn nhau một sớm nào
Tả hết được tình sao!
Sông bát ngát
Nước ào ạt
Ý thiếp lòng chàng cũng vu khoát
Lệ rơi thêm mặn chát.
Thơ da diết
Lòng thê thiết
Đậm nhạt tấc lòng ai thấu hết
Liệu bút chàng tả xiết?
Mây lang thang
Trăng mênh mang
Trăng gió xui ai luống đoạn tràng
Đâu là gác Đằng Vương?
Mây tơ vương
Nước như sương
Mây nước trôi đâu chỉ một đường
Một đường xa khuất rộn lòng thương
Ngày chậm rì
Đêm chậm rì
Sáng tối chạnh buồn lữ khách si
Nhớ thương đừng lỡ hẹn, sai kì.
Mưa trôi đi
Gió trôi đi
Mưa gió giục hoài cất bút thi (thơ)
Viết thi gửi tới khách “tình si”
Chàng có tâm
Thiếp có tâm
Mồng hồn lưu luyến bóng hoa râm
Thơ cùng ngâm
Rượu cùng trăng
Tự lúc buồn chia biệt
Ai người ấm nửa chăng?
Chớ đàn li khúc oán tri âm,
Đành xem như hết tiếng dao cầm
Hẹn nhau nơi non nước muộn mằn!
Chớ buồn mà than thở cổ câm (kim).
Chàng hẹn gì
Ta hẹn gì
Hai ta đều muộn, nói mà chi
Trà mà chi
Bút mà chi
Cũng là thiên lí cả
Ai là kẻ tình nhi
Hiểu nhau trong dạ khó khăn gì
Hãy nên trao gửi mối duyên đi
Lòng son ai nỡ phụ giai kì.
(Bản dịch của Đào Thái Tôn)
Tham khảo: Bản sao từ bản chép tay của Nguyễn Văn Hoàn, do Nguyễn Xuân Diện cung cấp
Bài thơ Vịnh Hà Long của Hồ Xuân Hương là một tuyệt phẩm. Di sản
văn hóa thế giới Hạ Long cho đến nay có lẽ chưa có tác phẩm văn chương
nào viết về vịnh Hạ Long của Việt Nam và thế giới ngời sáng hơn bài thơ
này:
VỊNH HẠ LONG
Hồ Xuân Hương
Lá buồm thủng thỉnh vượt Hoa Phong. Đá dựng bờ son mọc giữa dòng. Dòng nước lần theo chân núi chuyển, Mình lèn nghiêng để lối duyềnh thông. Cá rồng lẩn nấp hơi thu nhạt, Âu lộ cùng bay bóng xế hồng. Băm sáu phòng mây cùng động ngọc, Đâu nào là cái Thuỷ Tinh cung?(Bản dịch thơ của Hoàng Xuân Hãn)
Phiến phàm vô cấp độ Hoa Phong,
Tiễu bích đan nhai xuất thủy trung.
Thủy thế mỗi tùy sơn diện chuyển,
Sơn hình tà kháo thủy môn thông.
Ngư long tạp xử thu yên bạc,
Âu lộ tề phi nhật chiếu hồng.
Ngọc động vân phòng tam bách lục
Bất tri thùy thị Thủy Tinh cung.
Dịch nghĩa
Lá buồm không vội vượt qua vũng Hoa Phong,
Vách đá đứng, sườn núi đỏ, giữa nước chỏi dựng lên.
Thế nước tuỳ chỗ theo mặt núi mà biến chuyển.
Hình núi nghiêng mình, nép tựa cửa lạch để nước thông qua.
Cá rồng lẫn lộn, tăm khuất dưới từng hơi nước mỏng mùa thu.
Âu cò cùng ban trong ánh đỏ mặt trời chiều.
Cõi Tiên có ba trăm sáu động ngọc và phòng mây,
Đây không biết chốn nào là cung Thủy Tinh.
Bài thơ Miếu Sầm Thái Thú ở bản khắc 1922 chữ “lên” khác với chữ “ngang” ở các bản khắc sau cũng là một câu chuyện sử thi thú vị.
MIẾU SẦM THÁI THÚ
Ghé mắt trông lên thấy bảng treo Kìa đền thái thú đứng cheo leo Ví đây đổi phận làm trai được Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.
(Bản khắc 1922) chữ “lên” khác với chữ “ngang” ở các bản khắc sau.
Đặc trưng nổi bật nhất trong thơ Hán Nôm của Hồ Xuân Hương là nghệ
thuật thơ Hán Nôm đặc biệt điêu luyện, sánh ngang những kiệt tác thơ
Trung Hoa thời Thịnh Đường. Thơ Hán Nôm của Hồ Xuân Hương hàm súc sâu
sắc hiếm thấy, trong thơ có nhạc, chuyển tải sử thi văn hóa giáo dục tài
tình và khiêm nhu hiền lành rất mực.
Hồ Xuân Hương kiệt tác thơ Hán Nôm, ba bài tuyển chọn yêu thích nhất, đọc lại và suy ngẫm.
Chư Yang Sin ơi Chư Yang Sin Phật đá khỏa thân chốn núi thiêng Con đường yêu thương* làm việc thiện Mưa xuân** đất cảm lắng tâm thiền.
Thiên Thai lạc bước đỉnh ngàn mây Hạ giới quên đường tít chim bay Vườn Tượng nai thưa sương xuống mỏng Đào Nguyên hoa kín cỏ lên dày Tiên Cô suối biếc yêu đời thế Chúa Liễu rừng thông thoải mái thay Bồng Lai nơi ấy rồng tiên ẩn Ai thích tiêu dao hợp chốn này. (***)
Chư Yang Sin là một trong 30 Vườn Quốc gia Việt Nam, đây là khu rừng đặc dụng nằm trên địa bàn các xã Yang Mao, Cư Drăm, Cư Pui, Hoà Phong, Hoà Lễ, Hoà Sơn, Khuê Ngọc Điền thuộc huyện Krông Bông và các xã Yang Tao, Bông Krang, Krông Nô, Đắk Phơi thuộc huyện Lắk, tỉnh Đăk Lăk. Nơi đây có đỉnh núi Chư Yang Sin 2.442 mét, cao nhất hệ thống núi cao cực Nam Trung Bộ. Vườn Quốc gia Chư Yang Sin được thành lập ngày 12 tháng 7 năm 2002 theo quyết định số 92/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Tắm tiên ở Chư Jang Sin, tắm mình trong nguồn năng lượng vô tận của trời xanh, cây xanh, gió mát và không khí an lành là quà tặng cuộc sống.
Vị trí Hồ Gươm trong bản đồ đời Nguyễn và Rùa Hồ Gươm
NỔ LỰC CẢI TIẾNGIỐNGSẮN CHỦ LỰC KM419 Nguyễn Thị Trúc Mai,Hoàng Kim,Hoàng Long và cộng sự.
Các giống sắn KM568, KM535, KM419, KM440, KM397, C39, KM94 đang được tuyển chọn, thích nghi để tồn tại “Kẻ sống sót không phải là kẻ mạnh nhất hay thông minh nhất, mà là kẻ thích nghi tốt nhất” Charles Darwin đã nói vậy: “It is not the strongest of the species that survives, nor the most intelligent that survives. It is the one that is most adaptable to change” Giống sắn KM419 cho đến thời điểm này (tháng 4 năm 2022) vẫn tiếp tục chiếm diện tích lớn áp đảo, bất chấp áp lực nặng của bệnh CMD và CWBD, chứng tỏ ưu thế vượt trội của giống này trên quy mô trồng và tiêu thụ sắn tại Việt Nam. Câu chuyện Cải tiến giống sắn chủ lực KM419; Bảo tồn và phát triển sắn đang tiếp tục.
SẮN PHÚ YÊN GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TS. Nguyễn Thị Trúc Mai, TS. Hoàng Kim, TS. Hoàng Long Báo cáo Phú Yên 28 12 2021 Hội nghị “Giới thiệu về các công nghệ trong sản xuất Nông Lâm Thủy sản”, tài liệu hội nghị và bài tham luận tại Phú Yên 31 12 2021 “Hội nghị Tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ giai đoạn 2016- 2020, định hướng phát triển ứng dụng KHCN & ĐMST giai đoạn 2021-2025” UBND Tỉnh Phú Yên,
Trời mưa rây rây hạt Mình trồng cây tiếp thôi Mồ hôi và mưa quyện Yêu thương thấm mát người.
Nắng mưa là thời trời Tốt lành là thế đất Phước đức bởi lòng người An nhiên mưa gió thổi.
Lắng nghe Lương Phủ ngâm (*) Ngắm nhìn non nước đổi Thung dung giấc ngủ trưa Tỉnh thức trồng tiếp nối …
“Ngược gió đi không nản Rừng thông tuyết phủ dày Ngọa Long cương đâu nhỉ Đầy trời hoa tuyết bay !” (**)
Ghi chú: (*) Lương Phủ Ngâm (thơ Gia Cát Lượng )
Một đêm gió bấc lạnh, vạn dặm mây mịt mù Trên không tuyết bay loạn, biến đổi cả giang sơn.
Ngửa mặt nhìn trời cao, thấy như rồng đang đấu Trùng trùng sư tử bay, chớp mắt biến vũ trụ.
Cưỡi lừa qua cầu nhỏ, một mình than mai gầy.
Nguyên văn
一夜北风寒, 万里彤云厚. 长空雪乱飘, 改尽江山旧.
仰面观太虚, 疑是玉龙斗. 纷纷鳞甲飞, 顷刻遍宇宙.
骑驴过小桥, 独叹梅花瘦!
Phiên âm: Nhất dạ bắc phong hàn, vạn lý đồng vân hậu. Trường không tuyết loạn phiêu, cải tận giang sơn cựu. Ngưỡng diện quan thái hư, nghi thị ngọc long đấu. Phân phân lân giáp phi, khoảnh khắc biến vũ trụ. Kỵ lư quá tiểu kiều, độc thán mai hoa sấu!
Đến ngày sinh nhật bác ngờ đâu Nhà mạng nhắc như tiếng mở đầu Bạn hữu thân tình mong sống khỏe Anh em gần gũi chúc thời lâu Soi gương tự cảm yêu vầng trán Chụp ảnh hay mình thích bộ râu Tuổi tám nhăm nhưng hồn vẫn trẻ Thơ tình say đắm dáng hồng au
Ngày sinh nhật cụ HVT 27-4 2021
NGẪU HỨNG NGÀY SINH NHẬT Hồ Văn Thiện
Bảy tám năm rồi có ít đâu Tóc xanh hóa bạc ở trên đầu Qua hai thế kỷ sao nhanh thế Cố tới một trăm thấy quá lâu Ngồi ngắm cháu con- mình lúc trẻ Soi gương tự dạng- lão dài râu Hình hài biến sắc mau hơn tính Dáng cụ nhưng tình vẫn đỏ au…
Ngày sinh nhật Cụ HVT 27-4 2016
2
HỒ VĂN THIỆN BÓNG CHIỀU Hoàng Kim
Tam đa tứ quý rụi càng cay Ảnh đẹp thơ hay khéo thế này! Trường Hưởng đường thi gieo ý đẹp Hồ Văn việt ngữ gợi lời hay Trọng Nghĩa đức cao chân vững gối Hoàng Gia tâm sáng phước chắc tay Đường xuân hạnh phúc thênh thênh bước Bóng chiều đàn hạc chính nơi đây!
ĐỖ HOÀNG PHONG CHIỀU XUÂN Hoàng Kim
1
Chín lăm in sách tưởng nghe nhầm “Chiều xuân” thơ Cụ thật uyên thâm ‘Xứ Đông Thi Tập” sâu duyên nghiệp “Nghĩa Hưng kháng chiến” lắng phương châm “Thắp sáng Đường Thi” lưu phước đức “Hương đồng gió nội” gửi nhân tâm Bảy lăm tuổi Đảng “tình quê” vẹn Hải Dương nức tiếng ngưỡng mộ tầm.
Bài Xướng GỪNG CÀNG GIÀ CÀNG CAY Lê Trường Hưởng
Gừng càng già vị lại càng cay Thơ tuổi cao thêm cũng thế này! Ý tại thâm trầm mà sắc sảo Ngôn ngoài khoáng đạt thật là hay Tu từ kỹ lưỡng sao điêu luyện Chọn tứ kỳ công thấy chắc tay Tác phẩm tuyệt vời lưu hậu thế Đề Đa tỏa bóng rợp trời đây!
GỪNG GIÀ QUÁ ĐÁT Hồ Văn Thiện
Gừng già quá đát chẳng còn cay Ai thấu cho ai cái nỗi này? Trí não vào hồi suy nhậy cảm Thơ tình mất hứng khó mà hay Quen làm hàm súc quên từ vựng Thích viết tràng giang sợ mỏi tay Chẳng muốn rựa cùn đem giắt vách Đa đề khô nhựa bóng chi đây ? !
2-4-2021
Bồi họa tiếp ĐỪNG NÓI VÂY Nguyễn Trọng Nghĩa (trả lời cụ Hồ Văn Thiện)
Chớ bảo Gừng già đã hết cay Kìa trông các cụ, thấu chưa này? Bát tuần kiểu dáng còn trông đẹp Tứ tuyệt câu hòa đọc rất hay Bấy kẻ vào xem không chớp mắt Bảo người lần giở chẳng ngừng tay Hàn Thuyên khó kiếm ai như vậy Đạt nghĩa thân tình thỏa lắm đây
Sơn Tây, 3-4-2021
HỒ VĂN THIỆN BÓNG CHIỀU Hoàng Kim
Thi lão tám mươi khí thế sung Xuân qua hạ tới vẫn theo cùng “Bóng chiều” Việt ngữ điều không dễ Bừng sáng Đường thi tiếng chẳng tung Vóc hạc Thiện nhân tài lão khọm Xương mai Kim cổ kính cây tùng Thơ Đường đất Việt ngời tâm đức Phần thưởng Hằng mời ngoạn Quảng cung
KHÓ THEO CÙNG Nguyễn Huy Vụ Kính tặng thi lão Hồ văn Thiện
Bát thập thơ tình viết rất sung Bốn phương trăm họ khó theo cùng Thi Đường vẫy bút còn tuôn ngập Trống bỏi vung dùi vẫn gõ tung Đông giá tinh thần trong tựa tuyết Xuân tươi cốt cách vững như tùng Quyết tâm vượt nữa vòng hoa giáp Chẳng ngán đường trần dẫu mấy cung.
10/07/2020
CHẲNG DÁM NGOA NGÔN Hồ Văn Thiện Phúc họa thơ tặng của Huy Vụ
Tám chục bạn khen tứ khoái sung Chúc vài vòng giáp nữa đi cùng ! Bút đàm hết mực thơ sao vẫy ? Trống bỏi run tay tiếng chẳng tung ! Dáng dấp trông khoèo như lão khọm Tấm lòng giữ thẳng giống cây tùng Cầu trời cho sống nhiều năm tháng Hết máu đa tình mới nhập cung !
10-7-2020
LÃNG MẠN HỒI XUÂN Đào Ngọc Hòa
Xuân này tám chục lão còn sung Mến mộ nàng thơ ghẹo đến cùng Vóc ngọc hồi xuân lòi mộng ảo Thân ngà trống bỏi lộ hành tung Răng còn chắc đối tâm đề đại Trí vẫn tài ngâm dạ bách tùng Chúc cụ hồn nhiên đời lãng mạn Nam tào có lệnh mới vào cung
11.7.2020.
BẢN LĨNH Ngô Gia Tôn Tử
Tuy già ngọn bút hãy còn sung Mực vẫn đầy nguyên để viết cùng Mộng thắm ru tình ân nghĩa trải Trăng ngời ủ rượu trí thần tung Trong dòng lãng mạn êm dường suối Trước bả phồn hoa vững tựa tùng Cẩn trọng ai bằng thi lão bá Cho dù thưởng ngoạn chốn thiềm cung.
Tai wan 11.7.2020 Kính tặng lão thi bá Thiện Hồ Văn ạ.
NHÂN VÀ TÀI Hồ Văn Thiện
CHỮ đưa ta đến nẻo trời xa NHÂN giữ cho tâm mãi thuận hoà KIA mới chính là đường hướng tới MỚI kia chưa hẳn lối đi ra BẰNG lòng giống tựa khi bừng sáng BA phải khác chi lúc tối gà CHỮ đức như sao hôm lấp lánh TÀI không đắc dụng hoá thành tà.
VÒNG ĐỜI VÔ THƯỜNG Hồ Văn Thiện
Tân Mão này đây đủ sáu vòng Cuộc đời kể có cũng như không Bảy ba năm sống cùng đất nước Hai bảy xuân còn với núi sông ? Thành bại phơi bày ngoài cõi thế Buồn đau nén chặt ở trong lòng Trăm niên sau nữa ai còn nhớ Thế giới này a có một ông !
MỘT KIỂU CHƠI Hồ Văn Thiện
Yêu thích thơ Đường một kiểu chơi Như muốn thể khác ở trên đời Người ưa nhạc điệu nâng trân trọng Kẻ ghét vần vè đánh tả tơi Cổ kính hiện thân mươi thế kỷ Thanh tân có mặt mấy năm thôi Thời gian mới chính người sàng lọc Còn lại vàng ròng lửa đã tôi .
Bạn ưa nhất văn chương anh Nguyễn Huy Thiệp cuốn nào? Tôi thì chọn đầu tiên là Giăng lưới bắt chim, Văn hay lời kiệm chữ, sách này đúng ra phải là Huyền Quang, giăng lưới bắt chim. Chuyện về sư Huyền Quang. Người giăng lưới bắt chim là vua Trần Anh Tông và Trạng nguyên Tể tướng Mạc Đĩnh Chi, Chim là sư Huyền Quang Lý Đạo Tái. Tích truyện cổ có trong Thiền Uyển Tập Anh, một sách Phật học cổ có từ năm 1337, và nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã diễn đạt lại theo lối mới, dường như được rất nhiều người đồng tình, vì lối diễn đạt đúng (tôi xin được chép lại) như sau:
“…Thiền phái Trúc Lâm có ba Thiền sư kiệt xuất là Nhân Tông (Trúc Lâm Đầu Đà), Pháp Loa và Huyền Quang. Thiền phái này được xem là tiếp nối của dòng Yên Tử, dòng Yên Tử lại là sự hợp nhất của ba dòng thiền Việt Nam của thế kỉ thứ 12 – đó là dòng Thảo Đường, Vô Ngôn Thông và Tì-ni-đa-lưu-chi.
Thiền phái Trúc Lâm được xem là dạng Phật giáo chính thức của Đại Việt thời đó nên có liên quan mật thiết đến triều đại nhà Trần, phải chịu một hoàn cảnh mai một sau khi triều đại này suy tàn. Vì vậy, sau ba vị Tổ nói trên, hệ thống truyền thừa của phái này không còn rõ ràng, nhưng có lẽ không bị gián đoạn bởi vì đến thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh (1600- 1700), người ta lại thấy xuất hiện những vị Thiền sư của Trúc Lâm Yên Tử như Viên Cảnh Lục Hồ, Viên Khoan Đại Thâm và nổi bật nhất là Thiền sư Minh Châu Hương Hải (theo Nguyễn Hiền Đức).
Sau một thời gian ẩn dật, dòng Thiền này sản sinh ra một vị Thiền sư xuất sắc là Hương Hải, người đã phục hưng tông phong Trúc Lâm. Trong thế kỷ thứ 17-18, thiền phái này được hoà nhập vào tông Lâm Tế từ Trung Hoa và vị Thiền sư xuất sắc cuối cùng là Chân Nguyên Huệ Đăng….”
Khi mới xuất hiện, những sáng tác của Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã gây nên một cuộc tranh luận văn học sôi nổi. Văn phong và cách sáng tác từ trực giác của Tác giả rất lôi cuốn người đọc.
*
Sư Huyền Quang, vị tổ thứ ba của phái Trúc Lâm trước khi xuất gia là một Trạng nguyên, đã từng từ hôn công chúa Liễu Sinh. Vua Trần Anh Tông nói với quần thần:
– Người ta sống ở trong trời đất, mang khí âm, ôm khí dương, ăn thích vị ngon, mặc thích màu đẹp, đều có tình dục như thế. Đấy là lẽ thường. Chúng ta ngăn hãm một phía ham muốn ấy lại chính là để dốc lòng phụng đạo, đó là đành đi một lẽ. Riêng Huyền Quang sắc sắc không không, vậy đó là người ngăn hãm lòng dục hay là không có lòng dục?
Mạc Đĩnh Chi nói:
– Vẽ hổ chỉ vẽ được da, không vẽ được xương. Biết người chỉ biết mặt, ít biết được lòng. Vậy xin cho người thử xem.
Vua Trần Anh Tông nghe lời Mạc Đĩnh Chi, cử một nữ gián điệp xuân sắc mê hồn là nàng Thị Điểm Bích tìm đến Yên Tử để thử Huyền Quang theo kế giăng lưới bắt chim …
Huyền Quang, tên thật là gì không rõ, trong sử ghi là Lý Đạo Tái. Ông người làng Vạn Tải, huyện Gia Bình, xứ Kinh Bắc (nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Từ nhỏ nổi tiếng thần đồng, nghe một hiểu mười, nên người ta mới mệnh danh là Đạo Tái. Có sách chép Lý Đạo Tái đỗ Trạng nguyên khoa Nhâm Tý (1252) đời vua Trần Thánh Tông, lúc này mới 23 tuổi. Trong dân gian kể rằng nhà Lý Đạo Tái nghèo, không có đất cắm dùi. Khi còn hàn vi, Lý Đạo Tái từng hứa hôn với một cô gái nhưng về sau bị từ hôn, cô gái đi lấy một người nhà giàu. Cuộc nhân duyên lần thứ hai cũng thế. Chán nản, Lý Đạo Tái chuyên vào mỗi chuyện học hành rồi đỗ Trạng nguyên. Khi ấy, nhiều người đến manh mối hôn nhân nhưng ông đều từ chối, kể đến cả công chúa con vua. Nghe đồn Lý Đạo Tái đã từng ngán ngẩm than rằng:
Khó khăn thì chẳng ai nhìn
Đến khi đỗ Trạng tám nghìn nhân duyên!
Lý Đạo Tái theo đường hoạn lộ, nhiều lần đứng ra tiếp sứ thần Trung Hoa. Về sau, ông được sư Pháp Loa giác ngộ bèn xuất gia tu hành.
Sư Pháp Loa (tức Đồng Kiên Cường) là vị tổ thứ hai môn phái Trúc Lâm, đã theo vua Trần Nhân Tông khi người xuất gia ở núi Yên Tử. Vua Trần Nhân Tông, lấy pháp danh là Điểu Ngự trước khi viên tịch đã truyền y bát lại cho sư Pháp Loa, nay sư Pháp Loa giác ngộ và truyền y bát lại cho Lý Đạo Tái với pháp danh là Huyền Quang.
Huyền Quang là người có căn tu thế nào? Tại sao Huyền Quang lại trở thành vị sư tổ thứ ba trong phái Trúc Lâm, một môn phái Phật giáo có ảnh hưởng rất lớn đến thế giới tâm linh của người Việt Nam?
Bài thơ Cúc hoa của Huyền Quang nói tâm sự của một người tu đạo ở trong núi, ngắm hoa mới sực biết thời gian trôi đi:
Vong thân, vong thế dĩ đô vong
Tọa cửa tiên nhiên nhất tháp lương
Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật
Cúc hoa khai xứ nhất trùng dương.
Một người quên mình (vong thân ), quên đời (vong thế ) ngồi mãi trong rừng sâu không có lịch, không biết năm hết Tết đến, thấy hoa cúc nở mới đoán là đã đến Tết trùng dương! Vì sao người này lại ngắm hoa cúc mà không đi ngắm hoa khác?
Chủ nhân dữ vật hồng vô cảnh
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu
(Lòng người và cảnh vật vốn không xung khắc
So sánh với muôn hoa, thì cúc đứng đầu )
Theo ý tứ bài thơ thì thấy Huyền Quang không phải là người không có thiên vị, không có tình ý riêng! Cũng trong bài thơ Cúc hoa này, Huyền Quang đã có một nhận xét rất sâu sắc: Nghĩa khí bất đồng nan cẩu hợp (Nghĩa khí mà khác nhau thì khó mà hòa hợp ). Đạo Phật thường lưu tâm người ta ở hai chữ nhân duyên. Huyền Quang cũng giống mọi người, không phải là lòng dạ sắt đá gì, không phải là người không hiểu biết về lẽ nhân duyên. Trong một bài thơ khác nữa tên là Sơn vũ (Nhà trong núi) tâm tình Huyền Quang phảng phất bâng khuâng:
Thu phong ngọ dạ phật thiềm nha
Sơn vũ tiên nhiên chầm lục la
Dĩ hí thành thiền tâm nhất phiến
Cùng thanh tức tức vị thuỳ đa
(Đêm khuya, gió thu xao xác ngoài mái hiên
Nhà trong núi đìu hiu giữa lùm cây xanh
Tấm lòng tu hành từ lâu đã hóa theo Phật
Tiếng dế vì ai mà kêu rầu rĩ mãi? )
Phái Trúc Lâm là phái có nhiều đệ tử tri thức nhất, học thức nhất, danh giá nhất ở nước ta. Huyền Quang được trao y bát, trở thành sư tổ của phái này thì căn tu, công lực đại thành của Huyền Quang ắt hẳn xuất chúng.
Làm sáng tỏ Phật tính là một mệnh đề cơ bản trong Kinh Niết bàn. Việc vua Trần Anh Tông cho Điểm Bích đi thử lòng Huyền Quang cũng có thể coi là một công án nhằm làm sáng tỏ Phật tính ở vị đại sư này vậy.
Ngày xưa, có người băn khoăn về pháp môn Bất nhị của Phật pháp đã từng thỉnh vấn Đức Phật: Những người phạm tội tà dâm, giết người, trộm cướp v.v… liệu có mất hết thiện căn Phật tính hay không? Đức Phật đáp: Thiện căn có hạng thường và hạng vô thường. Phật tính chẳng thường mà cũng chẳng vô thường, cho nên không đứt đoạn, gọi là pháp Bất nhị . Một hạng thiện, một hạng bất thiện, gọi là pháp Bất nhị. Uẩn và Giới kẻ phàm cho là hai nhưng bậc trí giả thì hiểu rõ tính của nó không phải là hai. Tính không hai đó (Vô nhị chi tính ) tức là Phật tính.
Theo cách giải thích trên có thể hiểu rằng người ngu kẻ trí Phật tính vốn không khác nhau, chỉ vì mê và tỉnh không giống nhau nên mới có kẻ ngu và trí mà thôi.
Trở lại việc vua Trần Anh Tông cho Điểm Bích đến thử Huyền Quang ở núi Yên Tử thì tưởng như mưu giăng lưới bắt chim là sâu sắc nhưng thực lại là mê vậy. Chuyện rằng Điểm Bích đã dùng nhiều kế nhưng không lay chuyển được Huyền Quang nên nàng bèn về tâu dối vua. Sách Tam tổ thực lục ghi lại lời tâu ấy như sau:
… Tôi vâng chiếu chỉ đi thử thiền sư Huyền Quang. Đến chùa Vân Yên, vào ở nhờ một bà vãi già, tự xưng là con gái nhà dân, xin được theo học đạo tôn sư. Bà vãi già thường sai tôi dâng nước chè lên cho sư. Trải qua hơn một tháng, sư không hề liếc nhìn, hỏi han gì tôi cả. Một hôm nửa đêm, sư lên nhà tụng kinh, đến canh ba, sư và đám tăng ni ai nấy đều về phòng mình mà ngủ. Tôi bèn đến bên cạnh phòng của thiền sư để nghe xem động tĩnh thế nào thì thấy sư ngâm lời kệ rằng:
Vằng vặc giăng mai ánh nước
Hiu hiu gió trúc khua sênh
Người vừa tươi tốt, cảnh vừa lạ
Mâu Thích ca nào chẳng hữu tình.
Sư ngâm đi ngâm lại mãi, tôi bèn vào phòng tăng, từ biệt sư để về thăm cha mẹ, để sang năm sẽ quay lại học đạo. Sư bèn giữ tôi lại ngủ một đêm, rồi cho tôi một dật vàng.
Nhà vua nghe lời Điểm Bích tâu, lòng bực bội không vui. Nghĩ lại, nhà vua tự trách mình:
– Sự việc nếu quả như lời Điểm Bích thì đúng là ta giăng lưới ở tổ bắt chim, chim nào mà không bị hại! Nếu sự việc mà không như thế thì hóa ra ta đã làm hại quốc sư, đẩy ông ta vào mối ngờ vực oan ức! Nếu hiểu rõ pháp Bất nhị của nhà Phật thì việc thử lòng này thật là nhảm quá!
Để sửa lỗi, cũng là để minh oan chiêu tuyết cho Huyền Quang, nhà vua cho mở hội Vô Già ở kinh thành, triệu Huyền Quang về làm lễ. Nhưng trái với tục lệ nhà chùa, hôm bước vào chính lễ, nhà vua cho giết bò và lợn, dọn toàn cỗ mặn.
Huyền Quang bước vào lễ, kêu tên Đức Phật khấn rằng:
– Kẻ đệ tử này có điều gì bất chính, xin chư Phật cho đày xuống A Tì địa ngục, còn nếu không thì xin cho những cỗ mặn kia hóa thành chay tất cả.
Huyền Quang khấn xong, bỗng có gió mạnh nổi lên, trời đất tối sầm. Khi gió tàn, trời sáng, tất cả các mâm cỗ mặn đều biến thành cỗ chay tinh khiết thơm tho. Nhà vua và mọi người thấy Huyền Quang làm phép thông cảm được với trời đất thì đều vô cùng cảm phục, quỳ xuống lạy tạ.
Huyền Quang viên tịch ở tuổi 82. Cho đến ngày nay, dân gian nhiều nơi vẫn kể lại những truyền thuyết trong cuộc đời ông. Có người nói rằng các món cỗ chay làm giống cỗ thường trong ngày lễ tết ở các nhà chùa là từ sự tích này. Nhân ngày Xuân, đọc lại sách Phật ngẫm ra nhiều điều. Trong chúng sinh, căn tính người ta có người sắc bén có người cùn nhụt. Người mê chấp thì phải tu thân, học tập; còn người giác ngộ có thể đột nhiên ứng hợp; chung quy lại để nhằm tự mình nhận thức được bản thân mình, tự mình chứng kiến được bản thân mình, sống hòa hợp cùng tự nhiên với tâm hồn trong sáng.
Phía trước là cuộc sống vẫy gọi! Đấy là tương lai với đầy mơ ước cho tất cả mọi người!
Tuệ có nghĩa là thông minh tài trí, sáng dạ. Tuệ thường được sử dụng để chỉ sự sáng suốt mau mắn lanh trí của con người. Sinh ra đã thông minh hơn người, tư duy nhanh nhẹn gọi là có tuệ căn. Có con mắt nhìn thấu mọi thứ soi rõ tiền nhân hậu hoạn gọi là tuệ nhãn.
Chữ tuệ được dùng nhiều trong phật học. Nhưng từ này cũng hàm ý chỉ sự tốt đẹp, nên thường được dùng để đặt làm tên người.
Cách viết chữ Tuệ
Tuệ – Huì – 慧. Bên trên là hai chữ phong 丰, bên dưới có bộ kệ 彐, sau đó là chữ tâm.
CHÙA RÁNG GIỮA ĐỒNG XUÂN Hoàng Kim
Nơi cổ tự mây lành che xóm vắng Viên Minh xưa chùa Ráng ở đây rồi Bụt thư thái chim rừng nghe giảng đạo Trời trong lành gió núi lắng xôn xao.
Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, thanh thản, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm. Minh triết sống thung dung phúc hậu.
Bài giảng đầu tiên của Phật
Tứ Diệu đế – Sự khổ: Nguyên nhân, Kết quả và Giải pháp – là bài giảng đầu tiên của Phật (Thích ca Mầu ni -Siddhartha Gamtama), nhà hiền triết phương đông cổ đại. Người là hoàng tử Ấn Độ, đã có vợ con xinh đẹp nhưng trăn trở trước sự đau khổ, thiếu hoàn thiện và vô thường (Dukkha) của đời người mà Phật đã xuất gia vào năm hai mươi chín tuổi để đi tìm sự giác ngộ. Người đã dấn thân suốt sáu năm trời tự mình đi tìm kiếm những vị hiền triết nổi tiếng khắp mọi nơi trong vùng để học hỏi và thực hành những phương pháp khác nhau nhưng vẫn chưa đạt ngộ. Cho đến một buổi chiều ngồi dưới gốc bồ đề, thốt nhiên Người giác ngộ chân lý mầu nhiệm lúc ba mươi lăm tuổi. Sau đó, Người đã có bài giảng đầu tiên cho năm người bạn tu hành. Mười năm sau, Phật thuyết pháp cho mọi hạng người và đến 80 tuổi thì mất ở Kusinara (Uttar Pradesh ngày nay). Học thuyết Phật giáo hiện có trên 500 triệu người noi theo.
Bài giảng đầu tiên của Phật là thấu hiểu sự khổ (dukkha), nguyên nhân (samudaya), kết quả (nirodha) và giải pháp (magga). Tôn giáo được đức Phật đề xuất là vụ nổ Big Bang trong nhận thức, san bằng mọi định kiến và khác hẵn với tất cả các tôn giáo khác trước đó hoặc cùng thời trong lịch sử Ấn Độ cũng như trong lịch sử nhân loại. Phật giáo chủ trương bình đẳng giai cấp, bình đẳng giữa con người có máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn, hết thảy các pháp là vô ngã. Mục đích là vô ngã là sự chấm dứt đau khổ và phiền muộn để đạt sự chứng ngộ bất tử, Niết bàn.
Kinh Phật với triết lý vô ngã: Chân lý là suối nguồn, chứ không phải là con người thần thánh hoặc chân lý tuyệt đối. Vị trí độc đáo của Phật giáo là một học thuyết mang đầy đủ tính cách mạng tư tưởng và cách mạng xã hội. Tiến sĩ triết học Walpola Rahula là giáo sư Trường Đại học Tổng hợp Ceylan (Pháp) đã tìm tòi văn bản cổ và giới thiệu tài liệu nghiêm túc, đáng tin cậy này (Lời Phật dạy. Lê Diên biên dịch).
Suối nguồn tươi trẻ Thiền tông
‘Bất lập văn tự. Giáo ngoại biệt truyền. Trực chỉ nhân tâm. Kiến tánh thành Phật’. Không lập giáo điều, truyền dạy ngoài sách, vào thẳng lòng người, giác ngộ thành Phật Thiền sư Bồ-đề-đạt-ma (?-532) đã nêu ra triết lý căn bản Thiền tông để Dạy và Học.Thiền tông Phật giáo Đại thừa nguồn gốc từ đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã đạt được sự giác ngộ dưới gốc cây Bồ-đề ở Ấn Độ. Thiền sư Bồ-đề-đạt-ma là Tổ sư Ấn Độ đời thứ 28 đã truyền bá và phát triển Thiền tông lớn mạnh tại Trung Quốc. “Thiền” nhấn mạnh kinh nghiệm thực tiễn chứng ngộ ‘trực chỉnhân tâm, kiến tính thành Phật’ . Nhà Ấn Độ học và Phật học người Đức Hans Wolfgang Schumann trong tác phẩm Đại thừa Phật giáo (Mahāyāna-Buddhismus) đã viết:“Thiền tông có một người cha Ấn Độ nhưng đã chẳng trở nên trọn vẹn nếu không có người mẹ Trung Quốc.Cái ‘dễ thương’,cái hấp dẫn của Thiền tông chính là những thành phần văn hoá nghệ thuật, những đặc điểm sắc thái riêng của Trung Quốc, không phải của Ấn Độ. Những gì Phật giáo mang đến Trung Quốc, với tư tưởng giải thoát tuyệt đối, trình bày một cách nghiêm nghị khắt khe với một ngón tay trỏ chỉ thẳng, những điều đó được các vị Thiền sư thừa nhận, hấp thụ với một nụ cười thầm lặng đầy thi vị. Thành tựu lớn lao của các Đại luận sư Ấn Độ là nhét ‘con ngỗng triết lý’ vào cái lọ ‘ngôn từ, thì chính nơi đây tại Trung Quốc, con ngỗng này được thả về với thiên nhiên mà không hề mang thương tích.” Thiền tông là sự “truyền pháp ngoài kinh điển” đạt ‘giác ngộ tức thì’ tại đây, ngay lúc này, chứng ngộ ‘kiến tính thành Phật’ do bản ngã chân tính và nhân duyên. Phật Thích Ca trên núi Linh Thứu im lặng đưa lên cành hoa, Thiền sư Ca Diếp mỉm cười thấu hiểu và đức Phật Thích Ca đã ấn chứng cho Thiền sư Ca Diếp là Sơ tổ của Thiền tông Ấn Độ.
Thiền tông Việt Nam có từ rất sớm tại Luy Lâu do Thiền tông Ấn Độ truyền bá vào Việt Nam trước tiên ở thế kỷ thứ 2 và thứ 3, rước cả Trung Quốc (thế kỷ thứ 6) Nhật Bản (thế kỷ 11, 12) và các nước châu Á khác. Các Sơ Tổ Thiền tông Việt Nam là thiền sư Khương Tăng Hội và Mâu Tử. Thiền tông Việt Nam nguồn gốc lâu đời trong lịch sử Việt Nam và phát triển rực rỡ nhất thời nhà Trần với Thiền phái Trúc Lâm. Trần Nhân Tông (Trần Khâm 1258- 1308) là vua Phật đời Trần (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Người là tổ sư Trúc Lâm Yên Tử, nhà chiến lược kỳ tài, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà thơ lớn Con Người Hoàn Hảo dân tộc Việt Nam. Người đã viết: Cư trần lạc đạo, triết lý nhân sinh rất nổi tiếng “Ở đời vui đạo, mặc tùy duyên/ Hể đói thì ăn, mệt ngủ liền/ Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm/ Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.
Trúc Lâm Yên Tử, Trần Nhân Tông
Trần Nhân Tông (Trần Khâm 1258- 1308) là vua Phật đời Trân (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước vua Trần Anh Tông). Người là tổ sư Trúc Lâm Yên Tử, nhà chiến lược kỳ tài, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà thơ lớn và Con Người Hoàn Hảo của dân tộc Việt Nam. Người đã viết: Cư trần lạc đạo, triết lý nhân sinh rất nổi tiếng “Ở đời vui đạo, mặc tùy duyên/ Hể đói thì ăn, mệt ngủ liền/ Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm/ Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.”
Trần Nhân Tông với 50 năm cuộc đời đã kịp làm được năm việc lớn không ai sánh kịp trong mọi thời đại của tất cả các dân tộc trên toàn thế giới: Minh quân lỗi lạc, làm vua 15 năm (1278 – 1293) trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông là đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới của thời đó; Vua Phật Việt Nam, tổ sư thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và Thái Thượng Hoàng 15 năm (1294-1306). Nhà văn hóa và nhà thơ kiệt xuất với thắng tích Trúc Lâm Yên Tử và kiệt tác Trần Nhân Tông còn mãi với thời gian, hoàn thành sư mệnh của bậc chuyển pháp luân, mang sự sống trường tồn vượt qua cái chết; Người Thầy của chiến lược vĩ đại yếu chống mạnh, ít địch nhiều bằng thế đánh tất thắng “vua tôi đồng lòng, toàn dân đồng sức”tạo lập sự nghiệp mở nước và thống nhất non sông Việt, mở đất phương Nam bằng vương đạo, thuận thời, thuận người; Con người hoàn hảo, đạo đức trí tuệ, kỳ tài trị loạn, đã hưng thịnh nhà Trần và cứu nguy cho nước Việt tại thời khắc đặc biệt hiểm nghèo, chuyển nguy thành an, biến những điều không thể thành có thể.
Giáo sư sử học Trần Văn Giàu nhận định: “… chưa tìm thấy lịch sử nước nào có một người đặc biệt như Trần Nhân Tông ở Việt Nam. Tại nước Tàu lúc bấy giờ Triều đình nhà Tống rất hùng mạnh nhưng quân Nguyên Mông đã tràn xuống đánh thắng thần tốc, đến nỗi vua quan nhà Tống phải chạy ra biển và nhảy xuống biển tự vẫn. Tại Tây Á, Trung Á và một phần châu Âu cũng thua thảm hại, đến nỗi Giáo hoàng La Mã cũng lên tiếng sợ hãi. Trong lúc ấy Việt Nam so với phương Bắc thì quá nhỏ bé và quá nghèo yếu, thế mà Người dám không cho Nguyên Mông mượn đường xâm lược Chiêm Thành. Lại còn đánh bại ba lần Nguyên Mông xâm lược. Sau khi thắng giặc, Người lại lên núi sống. Người dám nghĩ, dám làm những việc không ai dám nghĩ chứ đừng nói đến làm”
Phật giáo Khoa học và Việt Nam
Nhà bác học Anhstanh, cha đẻ của Thuyết tương đối, đã nhận định: “Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học” . “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó” . “Khoa học mà thiếu tôn giáo là khập khiễng. Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng” . Cả ba câu này đều được trích từ Những câu nói nổi tiếng của Anhstanh (Collected famous quotes from Albert), và được dẫn lại trong bài Minh triết sống thung dung phúc hậu của Hoàng Kim
Khoa học và thực tiễn giúp ta tìm hiểu những phương pháp thực tế để thể hiện ước mơ, mục đích sống của mình nhằm sống yêu thương, hạnh phúc,vui khỏe và có ích. Đọc rất kỹ lại Ki tô giáo, Hồi giáo,Do Thái giáo,Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, … và chiêm nghiệm thực tiễn , tôi thấm thía câu kinh Phật với triết lý vô ngã: Chân lý là suối nguồn chứ không phải là con người thần thánh hay chân lý tuyệt đối. Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông có minh triết: Hãy quay về tự thân chứ không tìm ở đâu khác. Luật Hấp Dẫn, Thuyết Tương đối, Thành tựu Khoa học và Thực tiễn giúp ta khai mở nguồn năng lượng vô tận của chính bản thân con người và thiên nhiên. Đó là ba ngọn núi cao vọi của trí tuệ, là túi khôn của nhân loại. Bí mật Tâm linh (The Meta Secret) giúp ta khám phá sâu sắc các quy luật của vũ trụ liên quan đến Luật Hấp Dẫn đầy quyền năng. Những lời tiên tri của các nhà thông thái ẩn chứa trong Kinh Vệ đà, Lời Phật dạy, Kinh Dịch, Kinh Thánh, Kinh Koran …, cũng như xuyên suốt cuộc đời của những con người vĩ đại trên thế giới đã được nghiên cứu, giải mã dưới ánh sáng khoa học; Bí mật Tâm linh là sự khai mở những nguồn năng lượng vô tận của chính bản thân mỗi con người đối với đồng loại, các loài vật và thiên nhiên. Suối nguồn chân lý trong di sản văn hóa, lịch sử, giáo dục, kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao của mỗi dân tộc và nhân loại lưu giữ nhiều điều sâu sắc cần đọc lại và suy ngẫm.Qua đèo chợt gặp mai đầu suối. Gốc mai vàng trước ngõ.
Việt Nam là chốn tâm thức thăm thẳm của đạo Bụt (Phật giáo) trãi suốt hàng nghìn năm. Lịch sử Phật giáo Việt Nam theo sách Thiền Uyển tập anh xác nhận là đạo Phật được truyền trực tiếp từ Ấn Độ theo đường biển vào Việt Nam, gồm Giao Chỉ ở phía bắc và Chăm pa ở phía nam, khoảng thế kỉ thứ ba đến thế kỉ thứ hai trước Công nguyên, chứ không phải từ Trung Hoa như một số quan niệm trước đây. Phật giáo đồng hành chung thủy, lâu bền với dân tộc Việt, dẫu trãi nhiều biến cố nhưng được dẫn dắt bởi những nhà dẫn đạo sáng suốt và các đấng minh vương, lương tướng chuộng nhân ái của các thời nên biết thể hiện sự tốt đạo, đẹp đời. Việt Nam là nước biết tiếp thu, chắt lọc tri thức tinh hoa của nhân loại, chuộng sự học, đồng thời biết quay về với tự thân tổng kết thực tiễn, chứ không tìm ở đâu khác.
Việt Nam, Khoa học và Phật giáo là ba nhận thức căn bản của tôi.
Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, thanh thản, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm
Nếu thầy Thích Phổ Tuệ ấn chứng bạch ngọc (hạt gạo trắng ngần) thì cứ để nguyên vậy.
Thiển nghỉ của Bu thì có khác chút xíu. Bạch Ngọc là ngọc trắng thì chưa nói chi đến hạt gạo cả.
Thực ra hạt gạo không trắng thậm chí gạo lứt thì dinh dưỡng nhiều hơn gạo trắng. Bu được biết người Mỹ chế ra máy xát gạo trắng sau đó thấy là sai lầm bèn chế ra một thứ bột cho vào gạo để bù lại phần cám đã mất đi. Nhưng khi nấu cơm người ta vo gạo thì bột đó lại mất đi.
Dân gian nói hạt gạo là ngọc trời cho, trong trường hợp này là MỄ NGỌC.
Em đã thật xúc động được Thầy Thích Phổ Tuệ ấn chứng bạch ngọc (ngọc trắng, mễ ngọc, hạt gạo trắng ngần, ngọc trời cho, ngọc phương Nam). Đối với em được một người Thầy mẫu mực thiện tâm ấn chứng điều tốt đẹp này đã là một suối nguồn hạnh phúc. Em sẽ học thái độ của nước để đi như một dòng sông, học hoa lúa, hạt gạo để làm những việc có ích cho đời.
Beethoven sáng tác bản nhạc thư gửi Elise (Für Elise) đặc biệt nổi tiếng ngày 27 tháng 4 năm 1810. Beethoven được khắp thế giới công nhận là nhà soạn nhạc vĩ đại nhất, nổi tiếng nhất và có ảnh hưởng lớn tới rất nhiều những nhà soạn nhạc, nhạc sỹ, và khán giả về sau. Tôi thích nhạc cổ điển trong sáng, có chiều sâu nội tâm, nên rất yêu thích bản nhạc này
BEETTHOVEN NHẠC SĨ THIÊN TÀI ĐỨC
Ludwig van Beethoven sinh ngày 17 tháng 12 năm 1770, mất ngày 26 tháng 3 năm 1827, là một nhà soạn nhạc cổ điển người Đức. Ludwig van Beethoven sinh tại Bonn, Đức, cha là Johann van Beethoven (1740 -1792), mẹ là Magdalena Keverich van Beethoven (1744- 1787). Cha ông là nhạc sĩ cung đình của Vua ở Bonn, nhưng nghiện rượu, hay đánh ông và không thành công trong việc chứng minh ông là thần đồng như Mozart. Thế nhưng, tài năng âm nhạc của Beethoven lại sớm được Christian Gottlob Neefe một bậc thầy âm nhạc danh tiếng để ý nhận đỡ đầu và dạy bảo. Ông cũng được Đức Vua hỗ trợ tài chính. Mẹ ông mất năm ông 17 tuổi, và trong vòng ít năm ông đã là người nuôi dưỡng hai em trai của mình. Beethoven sống phần lớn thời gian ở Viên, Áo. Ông được coi là người dọn đường cho thời kỳ âm nhạc lãng mạn, là một hình tượng âm nhạc quan trọng của giai đoạn giao thời từ thời kỳ âm nhạc cổ điển sang thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Những kiệt tác của Beethoven nổi tiếng nhất là các bản giao hưởng Anh hùng ca (số 3 Mi giáng trưởng), Định mệnh (Số 5 Đô thứ) Đồng quê (số 6 Fa trưởng), Niềm vui (số 9 Rê thứ), các tác phẩm cho dương cầm như Thư gửi Elise (Für Elise), Ánh trăng, Bình minh, Khúc đam mê, Bi tráng và các sonata cho vĩ cầm như Mùa xuân …các tác phẩm cho Piano như Concerto số 2, số 3, số 5 (Hoàng đế), vở Opera Fidelio.
Beethoven sinh ra trong một gia đình nhạc sĩ, có tổ tiên là nông dân và thợ thủ công. Ông nội ông người Hà Lan, là người chỉ huy dàn nhạc cung đình Bonn, qua đời lúc Beethoven ba tuổi. Cha ông là ca sĩ hoàng gia ở Bonn, biết chơi violon và piano. Mẹ là con gái một đầu bếp cung đình, từng làm tớ gái, không lâu sau thành vợ của ông Johann. Bà là người ngoan ngoãn, dịu hiền, chăm chỉ. Gia đình ông Johann chỉ dựa vào thu nhập ít ỏi của ông để sống qua ngày nhưng nhờ có sự đảm đang của bà nên vẫn duy trì được. Beethoven là con trai đầu trong gia đình. Cha của ông vốn rất ngưỡng mộ Mozart, và thấy Beethoven còn nhỏ thích bấm lên phím piano của ông nội để lại, nên muốn ông tập đàn lúc ba tuổi, sau đó là những luyện đàn violon, piano, organ … Tuy nhiên kỷ luật nghiêm ngặt của ông bố lại làm ngăn trở sự phát triển của cậu con trai. Ông bị cha mình bắt đánh đàn suốt ngày đến nỗi ngón tay bị tê dại, sưng lên. Cha ông cũng không bằng lòng và thường xuyên mắng chửi ông, có khi còn đánh đập tàn nhẫn. Cha ông thường dựng Beethoven dậy vào lúc nửa đêm để tập chơi dương cầm. Do vậy Beethoven thường rất mệt mỏi và không tập trung được khi đến trường. Khi Beethoven được 11 tuổi, theo quyết định của cha, Beethoven phải nghỉ học để tập trung vào âm nhạc.
Beethoven là một thiên tài âm nhạc nhưng sức khỏe và tình yêu của ông kém may mắn. Do hoàn cảnh gia đình và cuộc sống cá nhân của ông quá nổ lực từ nhỏ cho đến lớn đã vắt kiệt tinh lực, sức khỏe và vì tình yêu đôi lứa kém may mắn nên Beethoven đã mất lúc 57 tuổi. Chuyện đời ông chuyển tải ẩn ngữ sâu sắc qua âm nhạc. Bài học “Được và Mất” chúng ta đã suy ngẫm trong ‘Phục sinh giữa tối sáng‘ cũng như thể hiện thật rõ trong câu chuyện này.
Gia đình Beethoven gặp nhiều khó khăn. Cha ông là người nghiện rượu và thô lỗ.Mẹ ông lại hay đau ốm. Sáu anh chị em Beethoven chỉ còn hai người sống sót. Beethoven quan hệ với cha rất căng thẳng và xa cách trong khi ông lại rất thương yêu mẹ. Beethoven vào lúc 5 tuổi bị viêm tai giữa nhưng bố mẹ không hề biết nên không được chữa trị, nên sau này ông bị điếc. Điều may mắn là các đồng nghiệp của cha ông đã phát hiện ra tài năng thiên phú của Beethoven nên đã thuyết phục được cha Beethoven cho phép ông được theo học các thầy dạy nhạc nổi tiếng như Christian Gottlob Neefe (nghệ sĩ dương cầm, đại phong cầm và cũng là một nhà soạn nhạc) và Franz Anton Ries (nghệ sĩ vĩ cầm).
Beethoven năm 1781 lúc 11 tuổi đã biểu diễn như một nghệ sĩ piano điêu luyện tại Hà Lan và cũng đã được cử làm phụ tá chơi đàn organ trong nhà thờ tại Bonn. Năm 1782 chính Neefe đã cho xuất bản tác phẩm đầu tiên của Beethoven, và cũng chính trong năm này, Beethoven trở thành người đại diện cho Neefe ở dàn nhạc hoàng gia với vai trò nghệ sĩ đại phong cầm. Beethoven năm 1784 năm 14 tuổi, giành được vị trí chính thức là nghệ sĩ chơi đại phong cầm trong dàn nhạc này. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tục luyện tập dương cầm. Beethoven năm 1787 lúc 17 tuổi, đến Viên theo giới thiệu của Franz, em trai út của Hoàng đế Joseph II. Mục đích chuyến đi này của ông là được theo học Mozart nhưng ước mơ của ông không thành vì Mozart quá bận và mẹ Beethoven lại bị bệnh nặng nên ông đành quay về Bonn trước khi mẹ ông qua đời. Beethoven trở thành trụ cột chính cho gia đình và ông phải vừa biểu diễn vừa đi dạy để kiếm tiền mà không còn điều kiện đi học.
Beethoven năm 1789 lúc 19 tuổi bắt đầu theo học tại Đại học Bonn. Tại đây ông gặp giáo sư Eulogius Schneider, và đã nhanh chóng tiếp cận với những tư tưởng của Cách mạng Pháp. Niềm hứng khởi của ông về những tư tưởng tự do và bác ái của cuộc cách mạng này đã được phản ánh trong rất nhiều tác phẩm của ông sau này. Beethoven năm 1791 lúc 21 tuổi đã được một cụ già ở Bonn giúp quay trở lại Viên theo học hòa âm với Haydn và một số thầy dạy khác, sau đó ông tìm được một học trò để dạy và kiếm tiền tiêu, ngoài giờ dạy nhạc ông lại sáng tác. Vài tác phẩm thành công nhưng tác giả thời gian này phải sống trong điều kiện ăn uống thiếu thốn và một căn nhà thiếu vệ sinh. Beethoven năm 1792 lúc 22 tuổi trở lại Viên và từ sau đó ông không còn trở về Bonn nữa vì thành phố quê hương ông đã bị xâm chiếm của người Pháp và cha mẹ ông đều đã mất. Cùng năm ấy, Mozart đã qua đời trong lặng lẽ và Beethoven được Joseph Haydn và Antonio Salieri nhận làm học trò. Nhờ thiên tài âm nhạc của mình và sự giới thiệu nên Beethoven đã được nhận đỡ đầu bởi Nam tước van Swieten và nữ vương hầu Lichnowski là những người có thế lực bậc nhất của Viên thời đó.
BEETHOVEN THƯ GỬI ELISE
“For Elise” của Ludwig van Beethoven là một kiệt tác âm nhạc, thế nhưng cho đến nay vẫn chưa ai dám chắc Elise là ai và vì sao tên bản nhạc lại là “Thư gửi Elise”.
Für Elise (For Elise, Thư gửi Elise) một số học giả và chuyên gia âm nhạc đoán rằng Elise chính là Therese, cô học trò nhỏ xinh đẹp được Beethoven dạy nhạc và ông đem lòng yêu thương cô từ mùa xuân năm 1809, nhưng sau này cô đã lấy chồng là một quý tộc giàu có người Áo. Therese tên đầy đủ là nàng Theresa de Brunowick, con gái của một điền chủ người Hungary. Beethoven nhờ sự khuyến khích của nàng nên đã sáng tác tuyệt phẩm Đồng quê là bản giao hưởng số 6 Fa trưởng tuyệt vời thăng hoa về tình yêu thiên nhiên đồng quê yêu dấu và những con người tận tụy hiền lành. For Elise có những nốt nhạc mở đầu tương đương với tên gọi ThErESE. Vì vậy, nhiều giả thuyết cho rằng, tên gốc của tác phẩm là For Therese nhưng bản nhạc gốc sau đó đã bị thất lạc và Ludwig Nohl (1831- 1885), học giả nghiên cứu về Beethoven, khi chép lại từ bản nhạc gốc, đã chép nhầm thành For Elise, vì chữ viết tay của nhạc sĩ quá đẹp và bay bướm.
Theo Hà Linh trong bài viết trên trang VnExpress Hé lộ về nàng Elise trong bản nhạc “For Elise”, thì Klaus Martin Kopitz – một nhà nghiên cứu âm nhạc ở Berlin cho rằng, Elise thực ra là Elisabeth Roeckel, người mà Beethoven đã suốt đời thầm yêu thương. “Nhiều năm qua, tôi đã nghiên cứu để viết cuốn sách ‘Beethoven in the eyes of his contemporaries’ (Beethoven trong mắt những người cùng thời), tập hợp thư từ, thơ ca và hồi ký của những người từng biết Beethoven. “Một số phụ nữ đã được đề cập tới, trong đó có cái tên Elisabeth Roeckel”, Kopitz chia sẻ với Deutsche Welle. Elisabeth Roeckel, sinh năm 1793, là em gái của ca sĩ Joseph Roeckel, người từng tham gia vào vở nhạc kịch Fidelio của Beethoven. Elisabeth đam mê âm nhạc. Cô chơi piano và sau đó cũng trở thành ca sĩ. Elisabeth thường được bạn bè gọi bằng cái tên thân mật là Elise. Chị em Elise rất gần gũi với Beethoven. Theo Kopitz, những bức thư Elise viết cho bạn bè còn giữ lại đến ngày nay cho thấy, giữa họ có thể không đơn thuần chỉ tồn tại tình bạn. Trong một lá thư, Elise kể lại một buổi tối giữa cô với Beethoven và các nhạc sĩ như Mauro Giuliani, Johann Nepomuk Hummel, người sau này trở thành chồng của Elise. “Elise viết rằng, Beethoven đã không ngừng liếc nhìn cô, khiến cô không biết mình phải làm gì. Cô cứ phải xoay vặn bàn tay để giấu cảm giác khó xử”… Bernhard Appel, giám đốc thư viện Beethoven ở Bonn, cho rằng, điều đó không quan trọng. “Elise là cái tên rất phổ biến ở Vienna lúc bấy giờ…”, Appel nói.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn để lại một di sản Nhạc Trịnh với trên 600 ca khúc về tình yêu cuộc sống, hòa bình nhân đạo và nỗi đau thân phận con người. “Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi. Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt. Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt. Rọi suốt trăm năm một cõi đi về”. Các nghệ sĩ lớn này khi soi rọi vào cuộc đời và số phận của nhau hình như họ bổ sung tỏa sáng nhau. Trịnh Công Sơn viết: “Tôi yêu cuộc đời và cuộc đời cũng đã yêu tôi. Ðó là niềm an ủi lớn trong cuộc sống này. Vì thế trong lòng tôi không có một giây phút nào nuôi một lòng oán hận với cuộc đời. Dù có đôi khi nhân gian bạc đãi mình, và con người phụ rẫy mình nhưng cuộc đời rộng lớn quá và mỗi chúng ta chỉ là những hạt bụi nhỏ nhoi trong trần gian mà thôi. Giận hờn, trách móc mà làm gì bởi vì cuộc đời sẽ xoá hết những vết bầm trong tâm hồn chúng ta nếu lòng ta biết độ lượng. Ta biết tha thứ những điều nhỏ thì cuộc đời sẽ tha thứ cho ta những điều lớn hơn“.
Nhạc sĩ Đặng Thái Sơn kể: “Trong căn nhà tuổi thơ của Đặng Thái Sơn còn có những cuộc đọc thơ văn thăng hoa của bố và nhóm bạn trong căn phòng làm việc 4m2. Những lúc ấy Đặng Thái Sơn thường đứng ngoài ngóng vào, rất muốn “xem bên trong đó có gì” mà khiến các bác hăng say đến thế.Tuy không có nhiều thời gian sống cùng với bố nhưng Đặng Thái Sơn cho biết con người, cách sống và nghệ thuật của ông đều chịu ảnh hưởng từ người bố tài năng. Ông rất nghe lời bố, hầu hết các bài học của bố từ cách sống, tư duy nghệ thuật đến tư thế ngồi đàn… ông đều răm rắp nghe theo.Và bài học quan trọng mà ông rất ghi nhớ là: “Trong cuộc sống hay nghệ thuật phải chân thật, không qụy lụy, phải giữ lòng kiêu hãnh mạnh mẽ ở bên trong mình”. Duy nhất một bài học của bố mà Đặng Thái Sơn không học được, đó việc đi đứng cho thật đường vệ. Kể đoạn này, nghệ sĩ thị phạm trên sân khấu khiến khán giả cười ồ“. Nghệ sĩ Thái Thị Liên đón tuổi 101 bên NSND Đặng Thái Sơn và con cháu. Theo TTO, NSND Đặng Thái Sơn vui mừng thông báo mẹ ông, danh cầm Thái Thị Liên, bước sang tuổi 101 vào hôm 4-8 (2019) với sức khỏe tốt và tinh thần minh mẫn.
Sự sáng tạo tự do, nền giáo dục tự do trên triết lý căn bản yêu thương, tôn trọng con người tự do là nền móng văn hóa nhân văn.
Án sách cây đèn hai bạn cũ. Song mai liên trúc một lòng xanh (Nguyễn Trãi)
Beethoven thư gửi Elise. Nghe lại, đọc lại và suy ngẫm.