Tiếng Việt lung linh sáng

TIẾNG VIỆT LUNG LINH SÁNG
越南语闪闪发光 Vietnammese language shimmering

đồng hành ‘Thiền với mùa Thu
‘, thơ Nguyễn Quế (*)

Ai ngồi
Thiền với cỏ cây
Ta lơi bớt việc
trọn đời nắng mưa

Ai ngồi
Thiền với bốn mùa
Ta ngơi giờ nghĩ giấc trưa nhẹ lòng

#Thungdung gió mát trời trong
#Annhiên hôm sớm thong dong đường trần

Ai ngồi
Thiền giữa thanh xuân
Ta đi mãi miết bước chân miệt mài

Ai ngồi
Thiền giữa trần ai
Lời thương lắng đọng nhắc hoài tháng năm …

(*) THIỀN VỚI MÙA THU

Ta ngồi
Thiền với cỏ cây
Thắp trăng làm nến
Rải mây làm bùa

Ta ngồi
Thiền với bốn mùa
Câu kinh tụng giữa nắng mưa đất trời

Mõ khua tiếng gió chơi vơi
Bật lên từ đất những chồi non xanh

Ta ngồi
Thiền giữa trong lành
Vẳng nghe những tiếng mong manh suối ngàn

Ta ngồi
Thiền giữa nhân gian
Hóa thân vào chốn bạt ngàn sắc Thu !…

14/8/23

Nguyễn Quế

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tieng-viet-lung-linh-sang/

LỜI THƯƠNG 15
Bạch Ngọc Hoàng Kim

Người hiền ở chốn sông Thương
vắng nhau
thì nhớ
con đường
ngại xa …

“Mình đi ta ở lại nhà
Cái dưa thì khú, cái cà thì thâm”

Sông dài cá lội biệt tăm …
Núi cao, biển rộng, trăm n
ăm đợi chờ

Sao Hôm thăm thẳm xa mờ
Ban Mai ngày mới vẫn mơ ước gần


*

Lời thương cùng với tháng năm
Chốn thiêng
Nắng mới
Lộc xuân Trạng Trình

*

Ca dao Việt “Cày đồng”
Mãn Giác thơ “Hoa Mai”
Thơ Việt ngoài ngàn năm
Tiếng Việt lung linh sáng


Bài đồng dao huyền thoại
Quốc Công đạo làm tướng
Tiết Chế đức dụng nhân
Lời dặn của Thánh Trần

Lời khuyên thói quen tốt
Phạm Ngũ Lão Thuật Hoài
Trần Khánh Dư “Bán than”
Nguyễn Trãi Dục Thúy Sơn


Muốn sang thì bắc cầu kiều
Chuyện đồ
ng dao cho em

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/loi-thuong/

HoangKim36

VUI ĐI DƯỚI MẶT TRỜI
Bạch Ngọc Hoàng Kim

Hãy lên đường đi em
Ban mai chào ngày mới
Vui đi dưới mặt trời
Một niềm tin thắp lửa

Ta như ong làm mật
Cuộc đời đầy hương hoa
Thời an nhiên vẫy gọi
Vui khỏe đời cho ta.

Vui đi dưới mặt trời
Nắng dát vàng trên đồng xuân
Mưa ướt vệt bóng mây, tím sắc trời cuối hạ
Đất ước, cây trông, lòng nhớ …

Người tốt việc tốt trốn tìm đâu
trong giấc mơ tâm tưởng
Chuyện Bác Hồ ước ao dặn lại …
Ngôi nhà con hạnh phúc trăm năm
Bếp lửa ngọn đèn khuya

Vận mệnh cuộc đời cố gắng

Tình yêu là người thầy tốt hơn trách nhiệm
Đồng lòng đất cảm trời thương

Phúc hậu minh triết tận tâm
Cố gắng làm người có ích

Tháng năm tròn đầy vườn thiêng cổ tích
Mừng ban mai mỗi ngày tỉnh thức bình an
Chào ngày mới CNM365 Tình yêu cuộc sống
Thảnh thơi vui cõi phúc được thanh nhàn.

#Thungdung#dayvahoc, #vietnamhoc#cnm365#cltvn; #đẹpvàhay xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/truong-hoc-huong-ban-mai/

MĂNG ĐEN
Bạch Ngọc Hoàng Kim

Măng Đen
Ơi Măng Đen
Sương sớm
Rừng khuya
Thật khó quên
Chốn xưa
thăm thẳm
thời gian khó
Tỉnh thức
mà sao
ngấn lệ nhoèn …

NGUYỄN TRỌNG TẠO ĐỒNG DAO
Hoàng Kim

Cảm ơn ‘Câu chuyện thi ca’ NHÀ THƠ NGUYỄN TRỌNG TẠO: “NHỮNG BÔNG HOA VẪN CỨ NỞ ĐÚNG MÙA” .Cảm ơn anh Duy-Man Vu đã chuyển tải tác phẩm ‘Hội ngộ Văn chương’ ưng ý và lắng đọng nhất, dường như là ‘bài giảng cuối cùng’, của nhà thơ nhạc sĩ tài hoa Nguyễn Trọng Tạo, tác giả ‘khúc hát sông quê’ sang tiếng Anh với văn phong hay chuẩn mực. Hôm nay là ngày đặc biệt Nguyễn Trọng Tạo bài giảng cuối cùng tham luận đọc tại Liên hoan văn học ASEAN lần thứ 2, Indonesia: “Chủ nghĩa tiêu dùng với tác phẩm văn học” là tuyên ngôn văn chương sau cùng và hay nhất của anh, mà những người lính chiến trường và các bạn hữu, người thân của anh ở mũi nhọn của trận tuyến dân trí, không thể không đọc lại và suy ngẫm

“… Vấn đề quan trọng là nhà văn có tin những điều mình viết ra là sự thật, là nhân văn, là hấp dẫn người đọc và dẫn dắt tâm hồn, tư tưởng của họ hay không. Đó là điều không dễ dàng. Tôi cũng đã nhiều lần nghiền ngẫm về điều đó. Tin hay không tin? Và tôi đã viết nó thành bài thơ “Tin thì tin không tin thì thôi”. Tôi xin đọc bài thơ này thay cho lời kết thúc bài phát biểu của mình:

TIN THÌ TIN KHÔNG TIN THÌ THÔI
Nguyễn Trọng Tạo

bốn lăm bậc thời gian dốc ngược
tôi đã vượt qua
em cách một sợi tơ
tôi đã không qua được
tin thì tin không tin thì thôi
tôi đã tới hang động yến sào tôi đã thèm ăn yến
vậy mà chưa được nếm bao giờ
hàng quốc cấm
nghe nói từ xưa làm vua sướng lắm
mà đôi khi tôi cũng sợ làm vua
tin thì tin không tin thì thôi
có anh hề đã nói với tôi
– đời thằng hề buồn lắm anh ơi
và tôi đã khóc
tin thì tin không tin thì thôi
nhưng tôi người cầm bút, than ôi
không thể không tin gì mà viết.
tin thì tin không tin thì thôi!

1991

“… it is important whether the writer believes what he wrote are truth, are human, are compelling to the reader and guide their soul and their thought or not. This is not easy. I also have mulled several times about it. Believe it or not? And I wrote the poem “Believe or don’t believe it’s alright.” I would like to read this poem as my closing words:

BELIEVE OR DON’T BELIEVE IT´S ALRIGHT

forty-five steps of time upside down
I have overcome
you are just a fine line of silk away
I have not overcome
believe or don’t believe it’s alright
I have come to the bird’s cave, I have longed to eat the bird’s nest
but I have not tasted
the national forbidden food
I have heard from old time it’s great to be king
but sometimes I am afraid to be king
believe or don’t believe it’s alright
there is a clown who told me
– a clown’s life is so sad, my brother
and I have cried
believe or don’t believe it’s alright
but me, a writer, oh dear
I can’t write without belief.
Believe or don’t believe it’s alright!
1991

Poet Nguyen Trong Tao
(Vietnam)

see more đọc toàn văn tại NGUYỄN TRONG TẠO ĐỒNG DAO https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-trong-tao-dong-dao/

#cnm365 #cltvn 23 tháng 7

Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là khu-lang-mo-giza.jpg

TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim
#htn #ana
#Thungdung, #dayvahoc, #vietnamhoc, #đẹpvàhay, #cnm365 , #cltvn; Nhớ bạn nhớ châu Phi (Hình); Đến với Tây Nguyên mới ; MARDI và những người bạn ; Đại Lãnh nhạn quay về; Người Thầy trong tim em; Một niềm tin thắp lửa ; Châu Mỹ chuyện không quên ; Đến Neva nhớ Pie Đại Đế; Cát bụi chuyện trăm năm; Một vùng trời nhân văn ; Ta còn nợ củ khoai lang ; Nhớ thầy Tôn Thất Trình ; Mạc triều trong sử Việt ; Hiệu trưởng quê Quảng Trị với bài diễn văn xúc động chia tay sinh viên ; Lời thương; Mưa nắng và thời vận ; Việt Nam con đường xanh ; Hương sen vùng Đồng Tháp; Bảy kỳ quan thế giới ; Nguyễn Du trăng huyền thoại ; Thơ vui những ngày nhàn ; Truyện George Washington ; Nhà Trần trong sử Việt; Đến với Tây Nguyên mới ; Chuyện thầy Lê Văn Tố ; Về miền Tây yêu thương; Linh Giang sông quê hương ;Thầy nhạc Trần Văn Khê ; Bình Minh An ngày mới ; Ban mai đứng trước biển ; Ban mai chào ngày mới ; Đồng Xuân lưu dấu hiền ; Linh Giang sông quê hương ; Thơ Tình Hồ Núi Cốc; Viện Lúa Sao Thần Nông ; Một gia đình yêu thương; Ông bà và con cháu ; Ấn Độ địa chỉ xanh; Lên Đỉnh Thiên Cổ Sơn ; Machu Picchu di sản thế giới ; Vắt ngang thế kỷ trồng cây đức; Những con người trung hiếu; Trần Quang Khải thơ thần; Biển Hồ Ngọc Kinh Luân ; Thế giới trong mắt ai ; Lúa siêu xanh Việt Nam ; Về với vùng cát đá ; Pho tượng Ngọc Quan Âm; Tiết Chế đức dụng nhân ; Văn chương Ngọc cho đời ; Hiền tài bút hơn gươm; Tĩnh lặng là trí tuệ; Giấc mơ lành yêu thương; Kon Ka Kinh Gia Lai; Một niềm tin thắp lửa; Sông Kỳ Lộ Phú Yên; Việt Nam tổ quốc tôi; Chuyện cổ tích người lớn; Đến với Tây Nguyên mới; Chuyện cô Trâm lúa lai; Nhớ tháng bảy mưa ngâu; Dạy và học để làm; Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung; Ngôn ngữ văn hóa Việt; Nông nghiệp sinh thái Việt; Việt Nam đất nước con người; Chuyện đồng dao cho em; Thơ vui những ngày nhàn;

Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là tinh-thuc-cung-thang-nam.jpg

#htm #cnm365 Xã Hội Việt Nam; Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung; Ngôn ngữ văn hóa Việt; Nông nghiệp sinh thái Việt; Việt Nam đất nước con người; Lời khuyên thói quen tốt; Dạy và học để làm; Trời nhân loại mênh mông; Tiệp Khắc kỷ niệm một thời; Việt Nam tổ quốc tôi; Chuyện cổ tích người lớn; Đến với Tây Nguyên mới; Nhớ tháng bảy mưa ngâu; Chuyện cô Trâm lúa lai Chuyện Rowling Harry Potter; Báu vật nơi đất Việt; Vạn Xuân nơi An Hải, Cao Biền trong sử Việt; Đại Lãnh nhạn quay về, Thanh nhàn mừng tháng năm; nmBorlaug và Hemingway; Nguyễn Du thời Tây Sơn; Thầy bạn trong đời tôi; Một niềm tin thắp lửa; Vạn Xuân nơi An Hải, Báu vật nơi đất Việt; Cao Biền trong sử Việt; Borlaug và Hemingway; Chuyện Rowling Harry Potterr; Thầy bạn trong đời tôi; Trung; Minh triết Hồ Chí Minh; Mai Bồ Đề thời mới; Ngôn ngữ văn hóa Việt; Nông nghiệp sinh thái Việt; Việt Nam đất nước con người; Lời khuyên thói quen tốt; Dạy và học để làm; Nguyễn Trọng Tạo đồng dao; Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung; Tiết Chế đức dụng nhân; Minh triết Hồ Chí Minh; Bài thơ Viên đá Thời gian; Borlaug và Hemingway; Bình sinh Mao Trạch Đông; Bình sinh Tập Cận Bình; Kim tự tháp Ai Cập Khu lăng mộ Giza là một trong bảy kỳ quan thế giới cổ đại có niên đại sớm nhất và kỳ quan duy nhất còn tồn tại, ở cao nguyên Giza gần sông Nin cách trung tâm thành phố Cairo thủ đô Ai Cập khoảng 20 km về phía tây nam (hình). Ngày 23 tháng 7 là Quốc khánh  Ai Cập ngày cách mạng năm 1952. Ngày 23 tháng 7 bắt đầu tiết Đại thử (nóng oi) tại Đông Á . Ngày 23 tháng 7 năm 1921 Đảng Cộng sản Trung Quốc khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất (*) trong địa phận tô giới Pháp tại Thượng Hải, nay là  Đại hội Đảng lần thứ 19 (năm 2017). Bài chọn lọc ngày 23 tháng 7: Đến với Tây Nguyên mới ; Nhớ bạn nhớ châu Phi; Nguyễn Trọng Tạo đồng dao; Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung; Tiết Chế đức dụng nhân; Minh triết Hồ Chí Minh; Bài thơ Viên đá Thời gian; Borlaug và Hemingway; Bình sinh Mao Trạch Đông; Bình sinh Tập Cận Bình; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-23-thang-7/;https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-23-thang-7/;

Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là ai-thuong-len-bang-chieu-hoang-tim.jpg

NHỚ BẠN CHỐN RỪNG XANH
Bạch Ngọc Hoàng Kim

Ai thương Lèn Bảng chiều hoang tím
Mình nhớ Biển Hồ sớm nắng mai
Đường sống #annhiên nơi tỉnh lặng
Lối thường #Tỉnhthức chốn thanh tâm.

Đến với Tây Nguyên mới
TRÒ CHUYỆN VỚI LÃO DỤC
Bạch Ngọc Hoàng Kim


Thời chiến qua rồi mình vẫn vậy
Kim Long lúa sắn vẫn chuyên làm
Ngô khoai rau đậu nghề yêu thích

Măng rừng hoa núi cá tươi ngon

NHỚ ĐĂK TÔ TÂN CẢNH
Bạch Ngọc Kim Hoàng

Ngựa không nản chân bon; Lối chính
Mưa nắng và thời vận; Hình như

Nhớ tháng bảy mưa ngâu; Đăk Tô
Những con người trung hiếu

Thăm thẳm trời sông Thương
Việt Nam con đường xanh

Đến với Tây Nguyên mới https://khatkhaoxanh.wordpress.com/category/den-voi-tay-nguyen-moi Tỉnh thức cùng tháng năm https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-23-thang-7 Nhớ bạn chốn rừng xanh https://www.youtube.com/live/YwEDOb78k0o?feature=share https://khatkhaoxanh.wordpress.com/category/nho-ban-chon-rung-xanh ; https://hoangkimlong.wordpress.com/category/den-voi-tay-nguyen-moi/ https://khatkhaoxanh.wordpress.com/category/den-voi-tay-nguyen-moi

Kon Ka Kinh Gia Lai (ảnh Hồ Thị Thùy Linh)

KON KA KINH GIA LAI
Hoàng Kim

Kon Ka Kinh Kon Ka Kinh
Thăm thẳm Gia Lai bát ngát xanh
Vườn Quốc gia Việt Nam Hồn Việt
Trầm Hương hoa núi nhớ hương rừng

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/kon-ka-kinh-gia-lai/ và 18 đường dẫn liên quan các mẫu chuyện văn hóa tại chuyên mục Tiếng Việt lung linh sáng https://hoangkimlong.wordpress.com/2022/02/20/tieng-viet-lung-linh-sang/

TIẾNG VIỆT LUNG LINH SÁNG
Hoàng Kim

Kim Hoàng @ gửi anh Phạm Huy Việt: Truyền thông Nga đang lưu hành bài hát Việt “Hát mãi khúc quân hành , Phiên bản tiếng Nga” khẳng định quan điểm của Tổng thống Nga “kè thù BUỘC ta cầm súng” https://www.facebook.com/watch/?v=3122276681365145. Báo chí tuổi trẻ chưa nhặt sạn tiêu đề “Tổng thống Putin cáo buộc phương Tây nhử Nga tham chiến ở Ucraina” . Bài viết này đã sử dụng chưa đúng chữ “BUỘC” tiếng Việt mà đã thay bằng chữ “NHỬ” , chưa đúng quan điểm nhất quán của Tổng thống Nga, Ngoại trưởng Nga và chính toàn bộ hệ thống truyền thông Nga. Tôi không hề nêu quan điểm, chỉ nói về ‘Tiếng Việt lung linh sáng”, dùng dúng, viết đúng chữ tiếng Việt ; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tieng-viet-lung-linh-sang/

(*) Kim Notes lắng ghi chú : Trích Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 19/12/1946 Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa. Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.

Muốn sang thì bắc cầu kiều
TIẾNG VIỆT LUNG LINH SÁNG
ảnh và ghi chú Ruc Hung
lời bình của Hoàng Kim

1. Hán tự tồn tại khoảng 30 chữ KIỀU lận, nhưng trong đó chỉ 4 chữ có nghĩa liên quan / kết hợp được với chữ CẦU (cầu kiều) mà thôi:
– 撟 (kiều) : cong lên, uốn lên
– 喬 (kiều): cao
– 嬌: (kiều): mềm mại, đẹp
– 橋: (kiều): cây cầu

2. Trong câu ca dao ” Muốn sang thì bắc CẦU KIỀU…” hiện chưa rõ người ta dùng chữ KIỀU nào trong số 4 chữ Hán trên phối hợp với chữ CẦU (cầu kiều) để minh định đó là cây cầu gì (cao, cong, đẹp, mềm mại…)? Và do vậy tranh luận còn… liên miên!

3. Lợi dụng người ta mãi tranh luận, Ruchung tôi dùng “đại” chữ 撟 (kiều) với nghĩa “cong lên, uốn lên” để chỉ cây CẦU KIỀU trong stt của mình mà không hề sợ ai…phản biện cả! Mà trực quan cũng thấy có đoạn cong lên thật.

4. Hehe!

Lời bình của Hoàng Kim

Ruc Hung nói chuyện cầu kiều
Kiều ba mươi nghĩa, cầu kiều là ‘uốn lên’.
Hồ Tĩnh Tâm thơ “NhaTrang” (*)
‘Núi trườn, biển uốn’, biển và em một vần

Núi trườn xuống biển, núi lừng lững
Biển uốn chân trời, biển mênh mông
Nha Trang chiều xuống khoe sương tím
Anh chẳng khoe em dại dột lòng
” (*)

Học với chữ Hán Nôm
TIẾNG VIỆT LUNG LINH SÁNG
Hoàng Kim


Viên Mai ‘Tùy Viên thi thoại’ “vịnh hoài’ (Tỏ chí của lòng mình) có hai câu thơ thơ :Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch /Lập thân tối hạ thị văn chương (Mỗi bữa không quên ghi thẻ trúc,/Lập thân thấp nhất ấy văn chương).

Học với chữ Hán Nôm , nhiều từ tiếng Việt có gốc Hán tự, với sự chiết tự mới hiểu sâu sắc ý tứ và ngữ nghĩa. Sống trên đời cần nhất là học làm Người “Đã ăn cơm của ai thì không được phản lại người đó” “đời có trả có vay” “nợ ai thì phải trả” đó là luật Nhận Quả. Tối thượng (cao nhất) là lập được Công Đức với nước với dân vì ơn Dân lộc Nước. Tối hà (thấp nhất) là văn chương trong ý nghĩa học làm Người , cần và đủ là ba việc ấy.

Văn bản dịch khác của hai câu thơ trên diễn đạt lối khác vẫn không thay đổi ý nghĩa của hai câu trên Mỗi bữa ăn không quên nghĩ đến ghi thẻ trúc Lập thân nhỏ bé nhất là làm văn chương.

Cụ Phan Bội Châu, hiền tài dân tộc Việt, đã.diễn đạt sự nhận thức của Cụ về hai câu thơ đó qua bốn câu thơ của chính Cụ:”Công ở non sông thiêng tấc dạ /Thân nhờ bút mực quá hèn trai./Khuya sớm những mong ghi sử sách / Lập thân hèn nhất ấy văn chương.“.

Tiếc thay, học tiếng Việt ngày nay,có người lại chê ‘Học với chữ Hán Nôm’ chiết tự là cổ điển, họ quên hiểu đúng chân thiện mỹ của chữ Việt tiếng Việt có nguồn gốc Hán Nôm của người xưa dạy và học làm Người . Tiếng Việt lung linh sáng https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tieng-viet-lung-linh-sang/

VỀ NGHĨA LĨNH ĐỀN HÙNG
Hoàng Kim

Đền thiêng trên Nghĩa Lĩnh.
Giếng ngọc dưới trời Nam.
Chén cơm truyền con cháu.
“Vạn cổ thử giang san”

(Bấm vào mỗi hàng để xem ảnh)

Về Nghĩa Lĩnh Đền Hùng
Lên non thiêng Yên Tử
Đến Kiếp Bạc Côn Sơn
Vào Tràng An Bái Đính

Thăm Trường xưa Hà Bắc
Nhớ Linh Giang quê hương
Động Thiên Đường tuyệt đẹp
Biển Nhật Lệ Quảng Bình

Đất Mẹ vùng di sản
Nguồn Son nối Phong Nha
Biển xanh kề núi thẳm
Mừng bạn về Quê choa

ĐỀN HÙNG ( Hi Cương,Việt Trì, Phú Thọ)
NƠI HỘI TỤ KHÍ THIÊNG SÔNG NÚI

Ảnh

Nguồn: Về Nghĩa Lĩnh Đền Hùng (Hoàng Kim)
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ve-nghia-linh-den-hung

CA DAO VIỆT CÀY ĐỒNG
Hoàng Kim

Ngẫm thơ ngoài ngàn năm
Ca dao Việt “Cày đồng”
Mãn Giác thơ “Hoa Mai”
Tiếng Việt lung linh sáng

Trần Khánh Dư “Bán than”
Phạm Ngũ Lão “Thuật Hoài“,
Nguyễn Trãi “Dục Thúy Sơn“,
Đặng Dung thơ “Cảm hoài

Đỗ Phủ thơ mưa lành;
Lý Bạch thơ trăng sáng,
Mạnh Hạo Nhiên xuân hiểu;
Trần Tử Ngang thơ Người.

Trà sớm nhớ bạn hiền, tôi chép tặng bạn kiệt tác “Ca dao Việt “Cày đồng” và đường dẫn của bảy bài thơ cổ nổi tiếng Việt Nam sánh với bốn danh tác nổi tiếng Trung Quốc Thông tin tại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ngam-tho-ngoai-ngan nam/

Cụ Nguyễn Quốc Toàn trong bài “Dịch hay phóng tác’ đã viết:

1- Trong số ca dao Việt Nam nói về nghề nông và giá trị hạt gạo thì bài: “Cày đồng đang buổi ban trưa. Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày. Ai ơi! bưng bát cơm đầy. Dẻo thơm một hột, đắng cay muôn phần” có mặt trong nhiều tuyển tập, như: • Tục ngữ ca dao dân ca VIỆT NAM của Vũ Ngọc Phan (1). • Tục ngữ ca dao VIỆT NAM của Hồng Khánh – Kỳ Anh sưu tầm biên soạn (2), • Ca dao VIỆT NAM do Bích Hằng tuyển chọn (3). Các tác giả của ba tập sách trên tuyệt nhiên không có chú thích gì về bài ca dao đó, làm người đọc đinh ninh là ca dao Việt Nam. Nhà phê bình danh tiếng Hoài Thanh cũng yên trí “đó là một trong những bài ca dao hay nhất của xứ ta từ trước” (4).***

2- Thực ra bài ca dao “Cày đồng đang buổi ban trưa…” là của Tàu, chưa rõ ai là tác giả. Một số bảo của Lí Thân, (李紳,772 – 846) người Vô Tích tỉnh Giang Tô, số khác cho là của Nhiếp Di Trung (聶夷中, 837 – 884) người Hà Đông. Có điều lạ, trong “Toàn Đường thi” (全唐詩) (5) bốn câu trên được xếp vào ngũ ngôn tứ tuyệt vừa để ở mục Nhiếp Di Trung vừa để ở mục Lí Thân. ***

3- Tui tìm thấy bản chữ Hán bài ca dao trên trong bộ “Đường thi tuyển dịch” của ông Lê Nguyễn Lưu gồm hai tập, kê cứu 1409 bài thơ của 173 nhà thơ Tàu. Lí Thân ở trang 1097, với hai bài thơ Cổ phong kỳ1 và Cổ phong kỳ kỳ 2. Dưới đây là bài Cổ phong kỳ 1 tui đang bàn tới 古風其一鋤禾日當午汗滴禾下土誰知 盤中餐粒粒 皆辛苦* Phiên âm Thơ Cổ phong Bài 1 Sừ hòa nhật đương ngọ Hãn trích hòa hạ thổ Thùy tri bàn trung xan Lạp lạp giai tân khổ *** Ông Lê Nguyễn Lưu dịch xuôi:Cày xới lúa đang lúc giữa trưa Mồ hôi giọt xuống đất dưới cây lúa Ai nghỉ đến bữa cơm dọn trong mâm Mỗi hột đều chứa nỗi đắng cay gian khổ Và ông Lưu dịch thơ:Cấy lúa giữa ban trưa Mồ hôi ngoài ruộng đổ Ai hay một bát cơm Hạt hạt đầy tân khổ*** Để thấy dịch giả Lê Nguyễn Lưu vừa lúng túng vừa tiền hậu bất nhất trong cách dịch của mình, tui phân tích hai chữ sừ (鋤) và hòa (禾) trong câu thứ nhất “sừ hòa nhật đương ngọ”.- Sừ (鋤) có hai trạng thái diễn đạt. Khi là danh từ, sừ (鋤) chỉ cái cuốc. Ví dụ Nguyễn Trãi nói với bạn là Hữu Nhân: 他年淽溪約, 短笠荷春鋤 : “Tha niên Nhị Khê ước, Đoản lạp hạ xuân sừ”, nghĩa là: Năm nào hẹn về Nhị Khê đội nón lá, vác cuốc đi làm vụ xuân”. Khi là động từ, sừ (鋤) chỉ sự cuốc, như cuốc đất cuốc cỏ.- Hòa (禾) là lúa chưa tuốt ra khỏi bông, chưa cắt ra khỏi rơm rạ. Kinh thi có câu: Thập nguyệt nạp hòa giá 十月納禾稼 Tháng mười thu vào thóc lúa.*** Nếu căn cứ vào tự dạng chữ Hán thì sừ hòa (鋤禾) phải dịch là cuốc lúa, nhưng cuốc lúa là sự vô lý nên ông Lưu thay cuốc bằng “cày” và thêm vào chữ “xới” thành ra “cày xới lúa đang lúc giữa trưa”. Ý dịch giả là người nông dân cày xới cỏ giữa những hàng lúa. Điều đó dẫn đến sự thậm vô lý khác. Là lúa (禾=hòa) đã chắc hạt, đợi tuốt ra khỏi bông cớ sao còn phải cày cỏ. Khi dịch ra thơ, học giả Lê Nguyên Lưu tùy tiện bỏ cuốc lúa,cày lúa, mà gọi là “cấy lúa giữa ban trưa” ***

Một nông dân Việt (hoặc một nhà thông thái Việt) nào đó thấy “sừ hòa nhật đương ngọ” có cái gì đó không ổn, nên dựa vào ý thơ để sáng tác thành một tác phẩm khác theo thể thơ lục bát truyền thống Việt, ai đọc vào cũng hiểu và thuộc nằm lòng ngay.

Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thảnh hót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.***

Tiếc là cho đến nay chưa thấy một học giả nào tìm ra thân thế người phóng tác thiên tài đó. Chỉ biết là bốn câu ca dao trên đã thuộc về tài sản dân ca Việt Nam trong các tuyển tập.

Tài liệu trích dẫn:
(1) Nxb Khoa học xã hội Hà Nội 1971
(2) Nxb Đà Nẵng 2007
(3) Nxb Văn hóa Thông tin 2011
(4) http://www.thivien.net/viewwriting.php?ID=250
(5) huynhchuonghung.com

Cụ Nguyễn Quốc Toàn còn nói thêm: Có một sự thực ta phải chấp nhận, hàng ngày ta nói và viết đã dùng đến 80% âm Hán Việt. May mắn là chúng ta vẫn là người Việt của nước Việt Nam.

Anh Ruc Hung nhận xét :

1. Bài ca dao “Cày đồng…” từ lâu đã được nhiều học giả, nhiều tờ báo, trang Web…trong nước cùng xác định là có nguồn gốc từ bài thơ Đường “Mẫn nông (憫農)” của Trung Quốc rồi bác ạ. Trước sau đã có rất nhiều bản dịch bài “Mẫn nông” sang tiếng Việt và tất cả các bản dịch này đều gắn với tên dịch giả, chỉ duy nhất bản dịch “Cày đồng…” phiên bản ca dao mà bác NQT đang bàn là khuyết danh mà thôi. Tuy nhiên, điều lạ lùng là vượt lên tất cả, chính bản dịch khuyết danh phiên bản ca dao này mới là bản được nhiều thế hệ người Việt biết đến và ngưỡng mộ nhất, thậm chí còn đinh ninh đó là sản phẩm cổ phong bản địa và quyết không rời nó, dù sau này nhiều người đã biết nguyên tác có nguồn gốc ngoại lai! Tại sao vậy? Đó là một câu chuyện dài…Hình dung rằng, bản dịch thoạt đầu được TRUYỀN KHẨU bằng TIẾNG VIỆT trong dân gian, trải thời gian, được nhiều thế hệ tác giả vô danh kế tiếp chỉnh sửa, gọt dũa, đồng sáng tạo theo phong cách dân gian mà thành bản dịch hoàn chỉnh hơn, rất THOÁT, rất HAY, rất THUẦN VIỆT so với nguyên tác. Khi người Việt chưa có chữ viết, cũng như bao tác phẩm sáng tạo dân gian khác, bài “Cày đồng…” tồn tại trong ký ức cộng đồng và TRUYỀN KHẨU trong nhân gian cho đến khi các nhà sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian bắt gặp/nghe được, ghi chép lại, văn bản hoá vào công trình sưu tầm, nghiên cứu của mình và từ đó bài “Cày đồng…” trở thành một đơn vị trong dòng văn học dân gian (văn học trước khi có chữ viết) Việt Nam. Thế nên, không thể, thậm chí không cần đi tìm tác giả bản dịch bài “Cày đồng…” nữa, bởi bài thơ đã được sáng tạo lại, được dân gian hoá.

2. Vì lý do lịch sử, lý do tiếp xúc, tiếp biến văn hoá, không riêng gì bài ca dao “Cày đồng…” mà còn nhiều thể loại văn học dân gian Việt Nam khác cũng ảnh hưởng văn học Trung Quốc, nhưng không ai đặt vấn đề xem xét lại, hoặc gỡ bỏ khỏi kho tàng văn học dân gian nước nhà, bởi nó đã được Việt hoá cao độ và ăn sâu vào đời sống văn học, văn hoá, giao tiếp của người Việt. Chẳng hạn như trong hệ thống thành ngữ Việt Nam có không ít thành ngữ Trung Quốc được dịch và dân gian hoá (Việt hoá) để dùng (mà các nhà nghiên cứu cho là tương đồng):- Y cẩm dạ hành / Áo gấm đi đêm.- Cô thụ bất thành lâm / Một cây làm chẳng nên non.- Diệp lạc quy căn / Lá rụng về cội.- Gia miếu bất linh / Bụt chùa nhà không thiêng- Bão noãn tư dâm dật / No cơm ấm cật dậm dật khắp nơi- Bất cộng đái thiên / Không đội trời chung-….

Hoàng Kim có một câu hỏi nghi vấn: “Sáng tác Việt hay dịch?” Ví như “Tết Việt và Tết Trung” là xuất phát từ “Tiết Lập Xuân” hướng chính Đông của Việt Thường La Bàn Việt.

MÃN GIÁC THƠ “HOA MAI
Hoàng Kim và Hoàng Long

Ca dao Việt “Cày đồng” “Mản Giác thơ “Hoa Mai” Tiếng Việt lung linh sáng. Thơ Việt ngoài ngàn năm. Mãn Giác thơ Hoa Mai là bài thơ tuyệt hay thơ ngoài ngàn năm sau bài thơ “Ca dao Việt “Cày đồng” mà chúng tôi đã giới thiệu kỳ trước.

HOA MAI
(Mãi Giác 1052 – 1096)

“Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Gốc mai vàng trước ngõ Rằm xuân lại nhớ anh. Cành mai rung rinh quả. Xuân sang lộc biếc cành. … Vườn nhà buổi sáng mai nay. Nước xao tăm cá vườn đầy nắng xuân. Mẹ gà quấn quýt đàn con. Đất lành chim đậu lộc xuân ân tình; xem tiếp Gốc mai vàng trước ngõ; Hoa Mai trong Tết Việt; Mãn Giác thơ “Hoa Mai” https://hoangkimlong.wordpress.com/category/man-giac-tho-hoa mai

ĐỜI NGƯỜI TRONG MẮT AI
Hoàng Kim

Đời người lúc thịnh lúc suy
Lúc khỏe lúc yếu lúc đi lúc dừng
Đắng cay chua ngọt đã từng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.

Ở đời nhân nghĩa làm đầu
Thủy chung sau trước tình sâu nghĩa bền
Học làm người việc đầu tiên
Hiếu trung phúc hậu đừng quên nối vần

“Lênh đênh qua cửa Thần Phù
Khéo tu thì nổi , vụng tu thì chìm”
“Người trồng cây hạnh mà chơi
Ta trồng cây đức để đời mai sau” (*)

CHUYỆN ĐỒNG DAO CHO EM
Hoàng Kim


Đồng dao là chuyện tháng năm
Lời ru của mẹ Trăng rằm thảnh thơi
Biết tìm bạn quý mà chơi
Học ăn học nói làm người siêng năng

Hiểu nhàn biết đủ thời an
Thung dung minh triết thanh nhàn thảnh thơi
Người sung sướng biết sống vui
Những người hiếu hạnh được đời yêu thương.

Việc chính là học làm người
Khắc sâu nhân nghĩa nhớ đời đừng quên
Hiếu trung phải học đầu tiên
Đừng tham tưởng bở mà quên ân tình.

Đừng tưởng cứ đẹp là tiên
Cứ trên là sáng cứ tiền là xong
Đừng tưởng không nói là câm
Không nghe tưởng điếc không trông tưởng mù

Đừng tưởng cứ trọc là sư
Cứ vâng là chịu cứ ừ là ngoan
Đừng tưởng có của là sang
Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây.

Đừng tưởng cứ uống là say
Tai trâu đàn gẩy lời hay ham bàn
Đừng tưởng giàu hết gian tham
Không thời chẳng vận lạm bàn chuyện dân

Đừng tưởng cứ mới là tân
Cứ hứa là chắc cứ ân là tình
Đừng tưởng cứ thấp là khinh
Cứ chùa là tĩnh cứ đình là to.

Đừng tưởng già hết hồ đồ
Cứ trẻ là chẳng âu lo buồn phiền
Đừng tưởng cứ quyết là nên
Cứ mạnh là thắng cứ mềm là thua.

Đừng tưởng đã dấm là chua
Sấm rền là sẽ có mưa ngập trời
Đừng tưởng vui chỉ có cười
Buồn thì ủ rũ chỉ ngồi khóc than

Đừng tưởng cứ lớn là khôn
Cứ bé là dại cứ hôn là chồng
Đừng tưởng bịa có thành không
Nhìn gà hóa cuốc lẫn ông với thằng

Lúc vui tham bát bỏ mâm
Đến khi hoạn nạn tần mần bỏ đi
Đừng tưởng không nhất thì nhì
Phò thịnh sung sướng giúp suy nghèo hèn

Gặp trăng thì vội quên đèn
Hám tiền quên nghĩa đỏ đen lạc đường
Đừng tưởng giàu hết cô đơn
Cao sang hết ốm gian tham hết nghèo.

Đừng tưởng cứ núi là cao
Cứ sông là chảy, cứ ao là tù
Đừng tưởng cứ dưới là ngu
Tham giành là được thấy tu tưởng hiền.

Đừng tưởng cứ thấp là hèn
Cứ sang là trọng cứ tiền là xong
Đừng tưởng quan chức là rồng
Dân thường thấp cổ thì không biết gì.

Đời người lúc thịnh lúc suy
Lúc khỏe lúc yếu lúc đi lúc dừng
Đắng cay chua ngọt đã từng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.

Ở đời nhân nghĩa làm đầu
Thủy chung sau trước tình sâu nghĩa bền
Học làm người việc đầu tiên
Hiếu trung phúc hậu đừng quên nối vần

“Lênh đênh qua cửa Thần Phù
Khéo tu thì nổi , vụng tu thì chìm”
“Người trồng cây hạnh mà chơi
Ta trồng cây đức để đời mai sau”


2

Thật vui thích nghe thầy Quyền kể
Chuyện đời người như thể chuyện này
Chó Khỉ Bò Người lên Trời
Cầu xin tuổi thọ cho Đời lên hương.

Chó nhanh nhẹn cầu xin Trời trước
Được Trời ban: “Ngồi trước cửa nhà
Sủa vào mặt ai vào ra
Cho Chó việc sủa được là … 20 năm
“.

Chó thưa Trời: “Chán òm việc sủa
20 năm sủa vậy quá dài
Chó xin sống 10 năm thôi
Cần chi dài quá để Đời mệt thêm


Khỉ tới lượt được Trời phán bảo:
“Ngươi hãy làm trò Khỉ cho đời
Luôn xét nét chỉnh sửa người

Cho Khỉ việc sửa được thời … 20 năm

Khỉ thưa Trời: “Chán òm việc sửa
20 năm sửa vậy quá dài
Khỉ xin sống 10 năm thôi
Cần chi dài quá để Đời mệt thêm


Bò đến lượt Trời ban cày ruộng
Ra đồng cày cùng với nông dân
Siêng năng cố gắng sớm hôm
Lộc Trời bò sống đời thường … 60 năm”

Bò thưa Trời: “20 năm là đủ
Kéo dài chi khổ sở sáu mươi
Tham chi tuổi thọ ở đời
Bò xin tặng Người dư … 40 năm


Người được Trời ban quyền sung sướng
Với Lộc Trời được hưởng … 20 năm
Người gào lên: “xin Trời thêm
Chó, Khỉ, Bò trả,
Người xin nhận về

Trời độ lượng chiều lòng tất cả
Họp xong rồi tất cả đều vui
Chó 10, Khỉ 10, Bò 20
Phần dư dồn hết cho Người 80

Đời Người được Lộc Trời là vậy
20 năm Người sung sướng vô lo
40 năm giữa cày như Bò
10 năm làm Khỉ chuyên lo chuyện …Người

10 năm làm Chó tu thôi
Tu tâm dưỡng tánh kiếm lời thì hơn
Ba trăm sáu lăm ngày thong thả
Đường trần vui nhàn nhã thung dung.

3

“Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông

Nó bảo nhau rằng ấy ái uông”

Bài thơ Viên đá Thời gian gọi

Tiếng Việt lung linh sáng dặm trường …

xem thêm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bai-tho-vien-da-thoi-gian/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tieng-viet-lung-linh-sang/

ẤY ÁI UÔNG
Phan Chi Thắng
31.3 2022 lúc 11 giờ 28

Hồ Xuân Hương có bài Vịnh chuông với hai câu đầu nổi tiếng:

“Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông

Nó bảo nhau rằng ấy ái uông”

Có dị bản là “Năm ba thằng ngọng…” hoặc thay “đứng xem chuông” bằng “rủ xem chuông”. Riêng câu thứ hai là không có dị bản.

Nữ sĩ coi thường đám văn nhân thích khoe chữ, hay mang hiểu biết vụn loè người đời. Bà không viết “mấy người ngọng” mà gọi là “đàn thằng ngọng” như đàn bò đàn chó đàn gà.

Đã nói về số nhiều thì phải dùng “chúng nó” hoặc “họ”, bà họ Hồ chơi ác hơn, hạ cấp lũ đó xuống thành một người, khẳng định sự nhỏ bé giống nhau của chúng: “Nó bảo nhau rằng ấy ái uông”.

Tôi nhớ mấy câu thơ này bởi một sự việc không thể nào quên. Chuyện xảy ra khi tôi trong vai trò phiên dịch đưa một đoàn chuyên gia Liên Xô vào làm việc ở Nghệ An. Ngoài công việc chuyên môn khách nước ngoài nào cũng thường tranh thủ tìm hiểu những nét văn hoá nổi bật của địa phương. Khi xe chạy qua đền An Dương Vương, tôi kể sự tích Mỵ Châu – Trọng Thuỷ, các bạn Liên Xô nghe rất thích thú.

Về phía chủ nhà, nhiều người thích giới thiệu càng nhiều càng tốt về địa phương mình. Trong lần một bác nào đó thay mặt lãnh đạo tỉnh chiêu đãi đoàn chuyên gia, sau dăm ba vòng rượu, ông cao hứng kể về bà Hồ Xuân Hương danh nhân của xứ Nghệ.

Dịch thơ vốn cực kỳ khó, tôi cố hết sức dịch ý nhưng đến hai câu xem chuông ở trên thì chịu thua hoàn toàn, không dịch nổi. Trưởng đoàn LX rất tế nhị:

⁃ Đồng chí phiên dịch của chúng ta rất giỏi, có thể hôm nay phải dịch liên tục từ sáng đến tối nên hơi mệt. Thôi chúng ta uống đi, để đồng chí ấy nghỉ một chút!

Tây họ khéo thế đấy. Thực ra là tôi không dịch nổi ba chữ “ấy ái uông”. Nó là “đấy cái chuông” bị nói ngọng, nhưng “ấy ái uông” lại phát âm gợi nhớ đến “ái ân” mà nữ sĩ ám chỉ một cách tài tình đám con đực chỉ giỏi sàm sỡ kia.

Xem chuông mà không hiểu gì về cái chuông, không biết cấu tạo, chức năng, ý nghĩa văn hoá lịch sử của cái chuông mà chỉ biết bình đó là cái chuông thì quá là ngọng. Ngọng kiến thức còn tệ hại hơn ngọng phát âm!

Thánh cũng không dịch nổi! Tuy vậy, mấy ngày sau đó tôi cũng tranh thủ “trình bày” với ông trưởng đoàn chuyên gia LX đại ý như trên, ông hiểu ra và rất thích hai câu thơ của nữ sĩ họ Hồ.

Bà Hồ Xuân Hương sống cách chúng ta hai thế kỷ. Nếu được lên Fây như lớp cháu chắt chúng ta, ắt bà phải thốt lên:

“Một đàn thằng ngọng thích cự co
Nó bảo nhau rằng ÍCH Ự O
Mấy người không ngọng kêu đếch hiểu
Nó viết ra thành THÍCH TỰ DO!”

đọc tiếp Chuyện đồng dao cho em https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-dong-dao-cho-em/

DẤU XƯA VÀ BẠN QUÝ
Đầy đặn niềm tin yêu

“Tay nâng hòn đất lặng yên
để nguyên là đất cất nên là nhà”
Nguyễn Duy cát trắng bụi
Chuyện đồng dao cho em.

Chúc mừng Lễ ký kết hợp đồng dự án “Trung tâm học tập và phòng ngừa thảm họa ở xã Hồng Hạ, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế” do Chính phủ Nhật Bản (GGP) tài trợ Sáng ngày 11.03.2021, trường Đại học Nông Lâm (ĐHNL), Đại học Huế (ĐHH) cùng UBND xã Hồng Hạ, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế đã tham gia buổi lễ ký kết trực tuyến Dự án “Trung tâm học tập và phòng ngừa thảm họa ở xã Hồng Hạ, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế” được đề xuất trong khuôn khổ Chương trình viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Nhật Bản (GGP), thông qua Đại Sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam. Nguồn: Cổng Thông tin Diện tử Trường Đại học Nông Lâm Huế

Chào ngày mới tốt lành ! Chào ngày mới 11 tháng 3. Chuyện đồng dao cho em; Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/…/chao-ngay-moi-11-thang-3/ An Le Van Giáo sư tiến sĩ, cựu Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm Huế viết trên FB 11 3 2021 Ông YAMADA Takio Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Chính phủ Nhật Bản tại Việt Nam nói “ngày hôm nay cách đây 10 năm trước thảm hoạ động đất và sóng thần ở Nhật Bản đã cướp đi sinh mạng của rất nhiều người…”. Và hôm nay ngày 11/3/2021 Chính phủ Nhật Bản đã ký tài trợ cho xã Hồng Hạ, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế dự án “Trung tâm học tập và phòng ngừa thảm hoạ”. Đây là món quà rất cảm động, nhân văn và sâu sắc! Xin cảm ơn Ngài Đại sứ, Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam, văn phòng JICA Hà Nội và Đại học Kyoto.

An Le Van @ Kim Hoàng trưa qua ông Bí thư xã nhắc lại câu chuyện về cây sắn “kilomet 94”. Nay KM 94 vẫn là nguồn thu nhập chính của người dân ở đây đó anh.

Kim Hoàng@An Le Van DẤU XƯA VÀ BẠN QUÝ Các thầy cô chăn nuôi đã tham gia Chương trình Sắn Việt Nam (VNCP) với tính chất cộng đồng thật vui vẻ và tự nguyện, thanh thản và bình tâm, chẳng chút đắn đo, như thầy Dương Thanh Liêm, thầy Lưu Trọng Hiếu, thầy Trần Thế Thông, Thầy Bùi Xuân An, thầy Lê Văn An (nay là giáo sư Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm Huế), TS. Nguyễn Thị Hoa Lý, PGS.TS Lê Đức Ngoan (nay là phó Hiệu Trưởng Đại học Nông Lâm Huế, chuyên gia chăn nuôi nghiên cứu tiếp nối cụm công trình bột lá của thầy Dương Thanh Liêm về sử dụng sắn làm thức ăn gia súc)… Quý Thầy dấn thân làm ‘người trong cuộc’, cũng đứng báo cáo, cũng bò ra thảo luận (như thầy Lê Văn An ở hình trên đây) thật hòa đồng, nên mới có sự thấu hiểu sâu sắc đến vậy. Những kỷ niệm một thời không quên
xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-duong-thanh-liem/

Kim Hoàng@ An Le Van DẤU XƯA VÀ BẠN QUÝ Trúc Mai cùng với Hoàng Kim và 15 người khác tại Huế ngày 5 Tháng 12, 2017 Ngày Hạnh Phúc của em là một ngày thật đặc biệt https://www.facebook.com/TrucMainaby/posts/1938762286139708 Hình ảnh này lắng đọng trong bài viết Chuyện đồng dao cho em. Đó là một sự đúc kết giáo dục và thực tiễn quý giá

CHUYỆN ĐỒNG DAO CHO EM
Hoàng Kim


Đồng dao là chuyện tháng năm
Lời ru của mẹ Trăng rằm thảnh thơi
Biết tìm bạn quý mà chơi
Học ăn học nói làm người siêng năng

Hiểu nhàn biết đủ thời an
Thung dung minh triết thanh nhàn thảnh thơi
Người sung sướng biết sống vui
Những người hiếu hạnh được đời yêu thương.

NGÀY HẠNH PHÚC CỦA EM
Hoàng Kim


Ngày Hạnh Phúc của em
Một niềm tin thắp lửa
Thầy bạn và đồng đội
Cha Mẹ và Quê hương.

Em đi chơi cùng Mẹ
Trăng rằm vui chơi giăng
Thảo thơm vui đầy đặn
Ân tình cùng nước non.
Ngày hạnh phúc của em

MỘT NIỀM TIN THẮP LỬA
Hoàng Kim


Nhìn đàn em ngời niềm vui rạng rỡ.
Chợt thấy lòng rưng rưng.
Công việc nghề nông cực mà hạnh phúc.
Cố lên em nổ lực không ngừng !

Hột mồ hôi lắng vào hạt gạo.
Câu ca ông bà theo suốt tháng năm.
Thêm bữa cơm ngon cho người lao động.
Nâng chén cơm thơm, qúy trọng người trồng.

Em ơi hãy học làm ruộng giỏi.
Nghề nông thời nào cũng quý kỹ năng.
Người dân khá hơn là niềm ao ước
Công việc này giao lại cho em.

Có một mùa Vu Lan hạnh phúc
Ơn mẹ cha lam lũ sớm hôm
Thương con vạc gọi sao Mai dậy sớm
Một niềm tin thắp lửa giữa tâm hồn.

Bước tiếp bước giữa trường đời gian khó
HỌC ĐỂ LÀM người lao động siêng năng
Rèn nhân cách vượt lên bao cám dỗ
Đức và Tài tử tế giữa Nhân Dân.

xem tiếp Ngày Hạnh Phúc của em; Chuyện đồng dao cho em; Hoàng Thành đến Trúc Lâm

CHUYỆN ĐỒNG DAO CHO EM
Hoàng Kim


Chủ tịch Hồ Chí Minh từ thời là Nguyễn Ái Quốc Đường Kách mệnh năm 1927 đã viết Tư cách một người cách mệnh: Tự mình phải: Cần kiệm. Hoà mà không tư. Cả quyết sửa lỗi mình. Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay nghiên cứu, xem xét. Vị công vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm. Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng ham muốn về vật chất. Bí mật. Đối người phải: Với từng người thì khoan thứ. Với đoàn thể thì nghiêm. Có lòng bày vẽ cho người. Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người. Làm việc phải: Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng cảm. Phục tùng đoàn thể.

5 điều Bác Hồ dạy thiếu niên nhi đồng là “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào Học tập tốt, lao động tốt Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt  Giữ gìn vệ sinh thật tốt, Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm”. Bài này của Bác là nhân Lễ kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Đội Thiếu niên Tiền phong Việt Nam năm 1961, và được hoàn thiện thành sổ giải thưởng cháu ngoan Bác Hồ để thưởng cho giáo viên và học sinh có thành tích xuất sắc trong học tập, bắt đầu từ năm học 1964 – 1965, Thơ Bác trong bài này là thể thơ đồng dao, thơ ca dân gian truyền miệng của trẻ em Việt Nam.

Sau này, Bác Hồ trong bài viết vào đầu năm 1969 “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” , đã đúc kết những chuẩn mực đạo đức cách mạng ‘nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm’ là “cần kiệm liêm chính chí công vô tư’; “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Trong công tác cán bộ, đạo đức cách mạng là yếu tố quan trọng hàng đầu, bởi: “cũng như sông thì phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Ngày nay, sự bình tâm sống vui khỏe có ích, minh triết làm và nói phúc hậu, giáo dục đào tạo hiền tài và mẫu mực trong đời sống hàng ngày là rất cần thiết.

Thơ Đồng dao là thể thơ có nhịp đồng dao, với vần điệu vui tai, ẩn chứa giá trị giáo dục bình dân mà sâu sắc Nhiều minh sư khéo vận dụng lối diễn đạt này qua các tích cổ dân gian…

Đặt tay lên tim mình giữa những điều lựa chọn

TÔN GIÁO NÀO TỐT NHẤT?
Đây là một mẩu đối thoại ngắn với Đức Đạt Lai Lạt Ma


Nhà Thần học người Brazil, Leonardo Boff kể lại: Tại một cuộc hội thảo bàn tròn về “Tôn giáo và tự do” có Đức Đạt Lai Lạt Ma và tôi cùng tham dự. Lúc tạm nghỉ, tôi hỏi ngài vừa tinh nghịch vừa tò mò : – Thưa ngài, tôn giáo nào tốt nhất?

Tôi nghĩ ngài sẽ nói:Phật giáo Tây tạng hoặc Các tôn giáo phương Đông, lâu đời hơn Ki-tô giáo nhiều.

Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma trầm ngâm giây lát, mỉm cười và nhìn vào mắt tôi…Điều này làm tôi ngạc nhiên vì tôi biết đây là một câu hỏi ranh mãnh. Ngài trả lời:- Tôn giáo tốt nhất là tôn giáo đưa anh đến gần Đấng tối cao nhất. Là tôn giáo biến anh thành con người tốt hơn.

Để giấu sự bối rối của tôi trước một câu trả lời đầy khôn ngoan như thế, tôi hỏi: – Cái gì làm tôi tốt hơn?

Ngài trả lời: Tất cả những gì làm anh:- Biết thương cảm hơn- Biết theo lẽ phải hơn- Biết từ bỏ hơn- Biết dịu dàng hơn- Biết nhân hậu hơn- Có trách nhiệm hơn- Có đạo đức hơn”.Tôn giáo nào biến anh thành như vậy , đó là tôn giáo tốt nhất.

Tôi thinh lặng giây lát, lòng đầy thán phục, ngay cả bây giờ, khi nghĩ đến câu trả lời đầy khôn ngoan và khó phản bác Ngài tiếp :- Anh bạn tôi ơi! Tôi không quan tâm đến tôn giáo của anh hoặc anh có ngoan đạo hay không . Điều thật sự quan trọng đối với tôi là cách cư xử của anh đối với người đồng đẳng, gia đình, công việc, cộng đồng và đối với thế giới . Hãy nhớ rằng vũ trụ dội lại hành động và tư tưởng của chúng ta Quy luật của hành động (Action) và phản ứng (Reaction) không chỉ dành riêng cho vật lý. Nó cũng được áp dụng cho tương quan con người. – Nếu tôi ở hiền, thì tôi gặp lành.- Nếu tôi gieo gió, thì tôi gặt bão. – Những gì ông bà nói với chúng ta là sự thật thuần túy. Chúng ta luôn nhận được những gì chúng ta làm cho người khác. Hạnh phúc không phải là vấn đề số mệnh. Đó là vấn đề lựa chọn.”

Cuối cùng ngài nói: – Hãy suy tư cẩn thận vì ý nghĩ sẽ biến thành Tư Tưởng. Và Tư tưởng sẽ biến thành Lời nói,- Hãy ăn nói cẩn thận vì Lời nói sẽ biến thành Hành động,- Hãy hành xử cẩn thận vì Hành động sẽ biến thành Thói quen,- Hãy chú trọng Thói quen vì chúng hình thành Nhân cách,- Hãy chú trọng Nhân cách vì nó hình thành Số mệnh,- Và Số mệnh của anh sẽ là Cuộc đời của anh. và :
Không có tôn giáo nào cao trọng hơn Sự Thật.”

Nguồn: Sưu tầm Hình ảnh minh họa:Tháp Phước Duyên Chùa Linh Mụ Ảnh : Trần Khoa

Chuyện đồng dao cho em
ĂN CHÁO NÓI CÀN KHÔN
Hoàng Kim

Hai ông ăn cháo nói chuyện càn khôn (1)
Bánh đúc Chợ Đồn cháo ngon Đồng Hới
Minh sư Hưng Đạo thấu hiểu Khánh Dư
Nhớ chuyện Vân Tiên yêu thương Lão Quán
Binh thư yếu lược chọn tướng cực tài (2)
Bát quái tùy thời lời dẫn kiệt tác (3)
Lửa hương vẹn kiếp sắt đá bền gan (4)
Đá Đứng sông thiêng (5) Linh Giang Minh Lệ

Ghi chú
(1) Bán than
Trần Khánh Dư

Một gánh càn khôn quẩy tếch ngàn,
Hỏi chi bán đó, gửi rằng than.
Ít nhiều miễn được đồng tiền tốt,
Hơn thiệt nài bao gốc củi tàn.
Ở với lửa hương cho vẹn kiếp,
Thử xem sắt đá có bền gan.
Nghĩ mình lem luốc toan nghề khác,
Nhưng sợ trời kia lắm kẻ hàn.

Theo Đào Trung Kiên, chủ bút Thi Viện, bài thơ này tương truyền là của Trần Khánh Dư, song có người lại nói của một người đời chúa Nguyễn trong Nam.

Nguồn:
1. Trần Trung Viên, Văn đàn bảo giám, NXB Văn học, 2004
2. Trần Trọng Kim, Việt thi, NXB Tân Việt, 1949
3. Dương Quảng Hàm, Quốc văn trích diễm: Cao đẳng tiểu học độc bản, Kim Khuê ấn quán phát hành, 1928

(2) Lời dặn của Thánh Trần: Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn mất ngày 20 tháng 8 âm lịch năm 1300. Người được dân Việt tôn kính gọi là Đức Thánh Trần và thường dâng lễ tạ ơn sớm từ 20 tháng 8 dương lịch đến ngày lễ chính. Vua Trần Anh Tông lúc Đức Thánh Trần sắp lâm chung có ân cần ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: “Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?”. Đức Thánh Trần trả lời: “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy”. Nguyên văn: “Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã (vườn không nhà trống), đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy” * (Đại Việt sử ký toàn thư tập 2 trang 76 -77). Tám hạng tướng và bậc đại tướng theo Binh thư yếu lược có nhân tướng, nghĩa tướng, lễ tướng, trí tướng, tín tướng, bộ tướng, kỵ tướng, mãnh tướng, đại tướng. Bậc đại tướng là người bao trùm và vượt hẳn tám hạng tướng kể trên, gặp hiền tài thì tôn trọng lắng nghe, biết tỏ ý mình không theo kịp người, biết nghe lời can ngăn như thuận theo dòng nước, lòng rộng rãi nhưng chí cương quyết, giản dị và nhiều mưu kế.” Trần Khánh Dư là tướng rất giỏi theo Lịch triều hiến chương loại chí thì ông được Trần Thánh Tông nhận làm Thiên tử nghĩa nam nhưng lại vướng phải vụ án gian dâm với Thiên Thụy công chúa là vợ Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, con trai Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Trần Khánh Dư được Trần Quốc Tuấn giao làm đại tướng. giữ chức phó đô thống tướng của ông.

(3) Vạn Kiếp tông bí truyền thư (萬劫宗秘傳書) của Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương, tác phẩm này còn gọi là Vạn Kiếp binh thư đã thất truyền. Bài tựa của Trần Khánh Dư trong cuốn sách này giải thích bí truyền đại sư là người thế nào:“Phàm người khéo cầm quân thì không cần bày trận, khéo bày trận thì không cần giao chiến, khéo giao chiến thì không thể thất bại, khéo thất bại thì không thương vong. Xưa kia, Cao Dao làm chức sĩ sư mà mọi người không dám trái mệnh, Văn Vương và Vũ Vương nhà Chu là bậc thầy về văn và về võ, ngấm ngầm sửa đức để khuynh loát quyền bính của nhà Thương mà lấy nghiệp vương. Đó đều có thể gọi là những người giỏi cầm quân, không cần bày trận vậy. Vua Thuấn múa lá mộc và lông trĩ mà họ Hữu Miêu tự mình tìm đến, Tôn Vũ nước Ngô đem mỹ nhân trong cung thử tập trận mà phía tây phá nước Sở hùng cường, phía Bắc ra uy với nước Tần nước Tấn, nổi tiếng khắp chư hầu. Đó đều có thể gọi là những người giỏi bày trận, không cần giao chiến vậy. Cho đến Mã Ngập nước Tấn dựa vào bát trận đồ chuyển đánh nghìn dặm, phá được Thụ Cơ Năng mà lấy lại Lương Châu. Thế gọi là người giỏi giao chiến không bao giờ thất bại vậy.Cho nên, trận nghĩa là bày ra, là khéo léo. Ngày xưa, vua Hiên Viên lập ra phép “tỉnh điền” để đặt binh chế, Gia Cát Lượng xếp đá bên sông để làm bát trận, Vệ công sửa lại làm trận Lục Hoa, Hoàn Ôn định ra trận Xà Thế, trước sau đều có trận đồ nổi tiếng, trình bày tuần tự, thành phép tắc rõ ràng. Nhưng người đương thời ít ai thông hiểu, muôn vàn đầu mối nhìn vào dường như rối loạn, chưa từng nắm được lẽ biến dịch bên trong. Ví như những phép tắc và suy luận của Lý Thuyên, người sau không ai hiểu nghĩa là gì. Vì thế, Quốc công ta bèn so sánh, kê cứu trận đồ và binh pháp của các nhà, tổng hợp lại thành một bộ sách. Tuy chép cả những điều chi tiết, nhưng người sử dụng thì nên bỏ bớt những chỗ rườm, tóm lấy thực chất. Rồi lấy năm hành ứng với nhau, chín cung câu với nhau, phối hợp cương và nhu, xoay vần chẵn và lẽ, không làm hỗn loạn âm dương và thần sát, phương lợi và sao tốt, hung thần và ác tướng, ba cát và năm hung, việc nào việc ấy thực phân minh rõ rệt. Quốc công lại còn thêm bớt với chiến thuật của thời Tam đại, nhờ đó trăm trận trăm thắng. Cho nên đương thời phía bắc làm cho Hung Nô phải sợ, phía tây làm cho Lâm Ấp phải kinh. Rồi ông đem sách này dạy bảo con em làm gia truyền, không tiết lộ cho người ngoài biết. Lại có lời dặn rằng: “Sau này con cháu và bề tôi phò tá của ta có học được bí thuật này thì nên lấy đầu óc sáng suốt, linh hoạt mà thực hành và sắp đặt nó, chứ không nên lấy đầu óc cứng nhắc, tối tăm mà cất giữ và lưu truyền. Nếu trái điều đó thì sẽ mang vạ vào thân, lại hại lây đến cả con cháu. Đó gọi là tiết lậu cơ trời vậy.”Bài tựa của Trần Khánh Dư cho Vạn Kiếp tông bí truyền thư, còn như sách Binh thư yếu lược mà người đời ngờ rằng bản thật đã bị cướp và thất lạc, đời sau chỉ có chân truyền lời này.

(4) Trần Khánh Dư được Trần Quốc Tuấn giao làm đại tướng. giữ chức phó đô thống tướng của ông. “lửa hương vẹn kiếp’ “sắt đá bền gan” là thơ viết ý này. Lời dặn của Thánh Trần trích dẫn phép CHỌN TƯỚNG của Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn:

Tám hạng tướng và bậc đại tướng

Nhân tướng là người dùng đức để đem đường cho người, dùng lễ để xếp việc cho họ, hiểu thấu sự đói rét của người dưới, biết rõ khó nhọc của đồng sự, đó là nhân tướng.

Nghĩa tướng là người làm việc không cẩu thả, thấy lợi mà không tham, biết chết vinh hơn sống nhục.

Lễ tướng là người có địa vị cao quý mà không kiêu căng, công hơn người mà không cậy, tài năng mà biết hạ mình, cứng cỏi mà biết nhẫn nhịn.

Trí tướng là người gặp biến bất ngờ mà chí không đổi, ứng phó linh hoạt với việc khó khăn, có thể đổi họa thành phúc, gặp cơn nguy biến mà sắp đặt thành thắng thế.

Tín tướng là người thưởng phạt nghiêm minh công bằng, khen thưởng không chậm trễ và không bỏ sót, trừng phạt không buông tha cho kẻ cao quý.

Bộ tướng thủ hạ của đại tướng phải chọn người tay chân lẹ làng, võ nghệ tuyệt luân,  giỏi đánh gần, ứng biến di chuyển mau lẹ, để bảo vệ an toàn cao nhất cho chủ soái.

Kỵ tướng là người có thể vượt núi non cheo leo, từng trải việc nguy hiểm, cưỡi ngựa bắn tên mau lẹ như chim bay, tới thì đi trước, lui thì về sau.

Mãnh tướng là người khí thế vượt hẳn ba quân, dám coi thường địch mạnh, gặp đánh nhỏ vẫn luôn cẩn trọng, gặp đánh lớn thì can đảm quả quyết.

Bậc đại tướng là người bao trùm và vượt hẳn tám hạng tướng kể trên, gặp hiền tài thì tôn trọng lắng nghe, biết tỏ ý mình không theo kịp người, biết nghe lời can ngăn như thuận theo dòng nước, lòng rộng rãi nhưng chí cương quyết, giản dị và nhiều mưu kế.”

(5) Đá Đứng chốn sông thiêng Hoàng Kim Con về Đá Đứng Rào Nan / Cồn Dưa Minh Lệ của làng quê hương/ Linh Giang chảy giữa vô thường / Đôi bờ thăm thẳm nối đường tử sinh. Đá Đứng chốn sông thiêng tại Làng Minh Lệ quê tôi ở Nam Sông Gianh cùng với Thiên Thụ Sơn ở Huế và Núi Đá Bia Phú Yên và Văn Miếu Trấn Biên Đồng Nai với Thiên Cấm Sơn An Giang là năm dấu ấn Nam Tiến của người Việt để thống nhất giang sơn về một mối. Đá Đứng chốn sông thiêng có câu chuyện ông già mù Cao Hạ đã khuyên tôi đổi tên từ Hoàng Minh Kim sang Hoàng Kim. Ông đến nhà tôi để đền ơn cha mẹ tôi đã cứu vớt con ông. Sau này cha mẹ tôi mất sớm “không được hưởng lộc con” (mà chỉ theo con che chở cho con lập nghiệp phương xa) và gia đình tôi đang êm ấm trở nên lưu tán không nhà, đúng như “Hoành Linh vô gia huynh đệ tán”. Tôi đã lần lượt chép lại, để tiện theo dõi mời lần lượt đọc năm mục từ: 1) Làng Minh Lệ quê tôi; 2) Linh Giang Đình Minh Lệ; 3) Đứng chốn sông thiêng; Đợi nắng; Ta về với Linh Giang; Hoa Đất, Đất Mẹ vùng di sản; Nguồn Son nối Phong Nha; 4) Đất Mẹ vùng di sản; 5) Đá Đứng chốn sông thiêng; (tiếp theo kỳ trước).

Bạn Hoàng Minh Thuần ở TU Bình Thuận trao đổi tổng quát: Dạ anh. Em cũng nghĩ khai thác được tour du lịch sông nước kết hơp thắng cảnh từ Cầu sông Gianh lên Ba Đồn, Chợ Mới, bến Lội đền Bốn Miếu, bến chợ Troóc, Phong Nha – Kẽ Bàng, động Thiên Đường, động Sơn Đoòng chẳng khác gì thắng cảnh TRÀNG AN… là điều kiện thuận lợi để quê mình phát triển.

(Tôi xin kể tiếp)
– Không phải ngẫu nhiên mà Pháp chọn Đà Nẵng làm điểm khởi đầu trong kế hoạch đánh chiếm Việt Nam đâu. Có lý cả đấy ! Vì Kinh đô Huế nằm ở Bắc Hải Vân mà thế và lực với sự thông thuộc của Nhà Nguyễn chính là đất phương Nam trong khi Hoành Sơn Linh Giang Lũy Thầy lại là tuyến ba tầng thủ hiểm che chắn Kinh đô Huế ở mặt Bắc nên Pháp không chọn đánh Thanh Khê đó thôi

– Nhưng Linh Giang chính là hiểm địa, bẻ đôi Việt Nam. Ông già mù nói. Cụ nói đúng, Bố tôi lập tức nhỏm dậy. Vì tôi đã bị bắt đi đi lính Pháp để đưa sang đánh nhau bên Tây, đóng quân ở Đà Nẵng bên sông Hàn, sau đó tôi trốn theo Vệ Quốc Đoàn nên rất thông thuộc địa hình đó. Pháp nếu đứng chân được ở Đà Nẵng thì chẹn được mặt Nam, cô lập kinh thành Huế, mẹo ‘đánh rắn giập đầu’ rất mau thắng được dân Nam..

– Trận Đà Nẵng năm 1857 tụi Pháp thua. Cha tôi nói. – Vì tướng Nguyễn Tri Phương giỏi cầm quân, Ông ấy tránh đánh trực diện mà dùng phục binh, lập kế ‘đóng cửa đánh chó’ làm “vườn không, nhà trống” triệt hết đường tiếp tế của địch, cách ly và xử nghiêm tụi gián điệp đội lốt giáo sĩ, giáo dân. Ông lại cho đắp lũy kiểu như Lũy Thầy, bao vây chẹn họng địch ra biển, vây đánh trường kỳ không cần thắng nhanh, nên trận Đà Nẵng bên mình thắng Pháp phải chuyển vào đánh thành Gia Định, chiếm dần đất đai của mình từ phương Nam theo kiểu tằm ăn lá dâu.

– Ông giỏi sử thiệt. Cụ già khen.

– Tôi ít học nhưng rất thích đọc sách Tam Quốc. Cha tôi nói : – Tôi thông gia với ông mẹt Rịnh thường kêu thằng Kim đọc sách Tam Quốc cho tôi và ông Rịnh nghe. Hôm nào ông Rịnh hoặc ông Thìn đến chơi, tôi không khi nào không kêu thằng Kim đọc sách Tam Quốc và sách Kiều, đến mức nó thuộc và kể được đấy. Mẹ nó thì mê nhất Lục Vân Tiên kế đến Kiều và Phạm Công Cúc Hoa.

– Cháu đọc cho ông nghe một đoạn nào? Cụ già nói.Tôi ngước mắt nhìn Mẹ, Mẹ tôi cười khuyến khích: – Con đọc đi

Tôi đọc đoạn ông quán trong thơ Lục Vân Tiên mà mẹ thích:

– Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hán mạt, đã đành phôi pha.
Thương thầy Đồng tử cao xa,
Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.

Thương người Nguyên Lượng bùi ngùi,
Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
Thương ông Hàn Dũ chẳng may,
Sớm dâng lời biểu tối đày đi xa.

Thương thầy Liêm Lạc đã ra,
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.

– Địch đánh vô Thanh Khê cửa Hác không dễ. Bố tôi miên man kể. Ông nhớ thời lính tráng của ông: – Tôi dự nhiều trân đánh Pháp cùng thời và cùng đơn vị với Lâm Úy. Tôi ở đại đội 2 tiểu đoàn 274 của ông Lê Văn Tri làm tiểu đoàn trưởng thuộc Trung đoàn 18. Tôi vô sinh ra tử nhiều trận cùng anh em. Chỉ tiếc là đến năm 1951 bị đau bệnh sốt rét phù thủng ngã nước quá yếu trong khi đơn vị thiếu thốn thuốc men chữa trị và điều kiện chăm sóc nên trên mới phải cho giải ngũ về quê. Nếu không thì tôi đến nay đã nhất xanh cỏ nhì đỏ ngực rồi.

– Ông Lê Văn Tri là người Cao Hạ cùng làng với tôi. Sau này ông làm tướng rất to Cụ gìa nói

– Trân Phú Trịch Là Hà, địa thế và cách dàn quân hai bên cũng lựa thế hiểm yếu như là trận Bạch Đằng. Voi trận của Đức Thánh Trần sa lầy ở Sông Hóa. Các trận địa phục kích cũng là các cồn tại các ngả ba sông hiểm yếu như Chợ Mới, La Hà Phú Trịch vậy. Lời thề trên sông Hóa “Chuyến đi này không thắng, ta thề không về lại nơi này!” của đức Thánh Trần cũng như lời thề quyết tử chiến của đội cảm tử 15 trận Phú Trịch La Hà đã chết như voi trận của đức Thánh Trần chết vậy. Cha tôi nói

– Đá Đứng chốn sông thiêng Cầu Minh Lệ Rào Nan Bến Lội Đền Bốn Miếu là nơi rất rất hiểm. Ông già lại xuống giọng thầm thì. Ngã ba sông Chợ Mới là hiểm địa. Đá Đứng chốn sông thiêng là rất rất hiểm địa. Ông có biết vì sao đối diện Bến Lội Đền Bốn Miếu là động Ma Ca không? Thiêng lắm đấy, vì có quá nhiều người chết. Đây là nơi chính phân tranh từ nhiều đời. Thời Cao Vương lập đá Đứng bỏ bút thần. Thời Núi Đá Bia ngón tay minh sư thệ trời xanh bước qua lời nguyền chia cắt đấy. Giá máu xương cao lắm ! Chỗ cao giá hiểm nguy. Cụ già lặp lại.

Cụ già quay sang tôi, bắt tôi nhắc lại mấy lời khẩu quyết. Cao cát Mạc sơn / Sơn Hà Cảnh Thổ / Văn Võ Cổ Kim / Linh Giang thông đại hải / Ngũ Lĩnh tiếp Cao Sơn / Đình Bảng Cao Lao Hạ / Miếu cổ thủy sơn thần./ …. Mắt ông rất thành khẩn. Hốc mắt ông dường như có nước mắt. Người ông khoan thai thần bí và trầm tĩnh lạ lùng.

Tôi cẩn thận lặp lại. Cha mẹ tôi im nghe và tỏ vẻ khuyến khích con.

Cụ già nói chậm rãi: Ông bà thay tên cho ’em’ đi: Hoàng Kim tốt hơn Hoàng Minh Kim. Ông tánh trung trực nghĩa khí, bà tánh đức độ, hiền từ, nhà có phước đức, sẽ thành dòng họ lớn ở phương xa, con cháu có quý tử, nhưng ông bà không được hưởng lộc con, mà theo con hưởng phúc và bảo bọc che chở cho con cháu.Cụ già dặn tôi “làm vàng ròng, ngọc cho đời, nên bớt sáng”. Đây là chuyện lạ của lời dặn thứ ba. Chuyện lạ đến mức anh hai Hoàng Ngọc Dộ đã quyết chọn Hoàng Kim làm tên gọi cho em từ lớp 10 sau khi cha mẹ mất và toàn gia lưu tán.Tôi mồ cha mẹ từ nhỏ mất sớm. Thầy Nguyễn Khoa Tịnh khóc trên bục giảng Thầy tăng tôi cuốn sách Trần Hưng Đạo Binh Thư Yếu Lược với lời đề tặng từ tuổi thơ để tôi lưu lại Lời dặn của Thánh Trần và thầy viết bài thơ Em ơi em can đảm bước chân lên lưu những bài thơ tuổi thơ của chính tôi cho tôi. Tôi được anh trai Hoàng Ngọc Dộ và chị gái Hoàng Thị Huyền bảo bọc cưu mang từ nhỏ khi cha mẹ mất sớm, chị gái Hoàng Thị Huyên đã lấy chồng và anh trai Hoàng Trung Trực dấu chân người lính, bom đạn giữa chiến trường, Tôi gạt nước mắt ra đi, thề trước mộ cha mẹ theo Lời dặn của Thánh Trần với Lời thề trên sông Hóa. Thật xúc động ngày về quê tảo mộ tổ tiên Quảng Bình đất Mẹ ơn Người, trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ “

ĐỪNG VỨT BỎ NHỮNG KỶ NIỆM
Kim Hoa Thuongyeuthathu


Đang đi chầm chậm trên đường phố, một phụ nữ giàu có bất ngờ bị tông xe. May mắn là vụ va chạm không mạnh nên cô chỉ bị xây xước qua loa.Sau khi mang xe đi sửa, Cô gái mới chợt nhớ ra nhà bố mẹ mình ngay gần đó. Lâu lắm rồi, cô chưa về nhà thăm họ. Nghĩ vậy, cô liền cuốc bộ về nhà và quyết định ở lại với bố mẹ một đêm.Sáng hôm sau, lúc cô chuẩn bị đi, cô nhận được chiếc áo từ mẹ và phát hiện vết rách trên tay đã được mẹ vá lại, những mũi kim thật dày.Thoáng chút cảm động nhưng cô cũng cảm thấy việc làm của mẹ có chút thừa – “mình là người có tiền, chiếc áo này sau khi về mình sẽ bỏ đi, chẳng mặc lại làm gì”, cô gái nghĩ trong đầu. Nhưng vì công việc quá bận rộn, trên đường trở về, cô đã quên mất sự việc này nên cứ thế mặc chiếc áo vá chằng chịt đi khắp nơi, thậm chí còn đàm phán xong xuôi một phi vụ làm ăn lớn kéo dài từ rất lâu.

Đến tối muộn, cô mới sực nhớ ra mình đang mặc chiếc áo rách. Cô nhanh chóng cởi chiếc áo, ném vào thùng rác.Sáng ngày hôm sau, thỏa thuận làm ăn đàm phán từ hôm trước chính thức được ký kết. Khách hàng hỏi cô: “Hôm nay không thấy cô mặc lại chiếc áo hôm qua?”. “Tôi giặt rồi”, Hải Yến ngại ngùng tìm lý do trả lời câu hỏi của đối tác.Vị đối tác tiếp tục nói: “Có thể cô không biết nhưng chúng tôi quyết định ký hợp đồng với cô là vì thấy cô mặc chiếc áo vá. Từ đường kim mũi chỉ có thể thấy cô là một người chất phác, đã trải qua nhiều gian khổ. Mà một người như thế, chúng tôi đánh giá rất cao, cô chính là đối tác tốt nhất của chúng tôi”.

Trở về nhà, cô gái vội mở thùng rác lôi chiếc áo vá ra, giặt lại sạch sẽ và treo vào góc trong cùng của tủ áo, nghĩ rằng có thể sẽ có lúc dùng đến.Một tuần trôi qua, vào một buổi sáng khi người phụ nữ giàu có này vừa chuẩn bị đi làm, bỗng nhiên có hai viên cảnh sát ghé qua nhà cô. Thì ra vào một buổi tối tuần trước, có một phụ nữ giàu có đã bị bắt cóc nhưng nghi phạm đã bị bắt giữ sau đó không lâu.Khi thẩm vấn, chúng đều khai nhận rằng ban đầu, đối tượng mà chúng nhắm tới là cô nên cảnh sát mới qua nhắc nhở cô.

Người phụ nữ vô cùng kinh ngạc, hỏi cảnh sát rằng: “Vậy tại sao cuối cùng chúng không bắt tôi?”- Vì hôm đó cô mặc chiếc áo vá.Thì ra hôm đó, những ké bắt cóc vì nhìn thấy cô mặc áo vá, cho rằng những người có tiền chẳng bao giờ mặc áo vá và cô chẳng giàu như tin đồn nên đã từ bỏ ý định.

Cô gái khổng khỏi thảng thốt, không ngờ miếng vá đã cứu cô một mạng. Sau khi cảnh sát rời đi, người phụ nữ mở tủ, lấy chiếc áo ra, tay vân vê nên những đường chỉ dày chằng chịt, khóc như một đứa trẻ. ST

MẸ! Trong mắt Mẹ chúng ta luôn là những đứa trẻ.Còn chúng ta thì sao nhỉ.Mẹ thật phiền phải không??? Câu chuyện là một nhân duyên lành, vậy thì quả lành thôi!

Hãy cố gắng làm việc thiện và đừng bao giờ ngừng làm việc thiện.

Chuyện đồng dao cho em

Bài viết mới trên DẠY VÀ HỌC
https://hoangkimvn.wordpress.com bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter




.

7 thoughts on “Tiếng Việt lung linh sáng

  1. Pingback: Chào ngày mới 12 tháng 4 | Tình yêu cuộc sống

  2. Pingback: Muốn sang thì bắc cầu kiều | DẠY VÀ HỌC

  3. Pingback: Chào ngày mới 21 tháng 2 | Tình yêu cuộc sống

  4. Pingback: #cnm365 #cltvn 21 tháng 2 | DẠY VÀ HỌC

  5. Pingback: #cnm365 #cltvn 21 tháng 2 | Tình yêu cuộc sống

  6. Pingback: Pho tượng Ngọc Quan Âm | DẠY VÀ HỌC

  7. Pingback: Pho tượng Ngọc Quan Âm | Tình yêu cuộc sống

Bình luận về bài viết này