Nông nghiệp Việt trăm năm

CNM365 THÁNG NĂM NHÌN LẠI
https://cnm365.wordpress.com
Run away with me

IAS ĐƯỜNG TỚI TRĂM NĂM

Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam đã đúc kết tốt 90 năm nông nghiệp miền Nam lịch sử phát triển (1925-2015) và đang trên đường tới ‘100 năm nông nghiệp Việt Nam’ (1925-2025). Công tác chuẩn bị cho ngày tổng kết và lễ hội quan trọng này này vào năm 2025 đang được chuẩn bị từ hiện nay.

Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam 90 năm, sự nhìn lại bản tóm tắt nông nghiệp 90 năm (1925-2015) thật khá thú vị: Tác giả Bùi Chí Bửu, Trần Thị Kim Nương, Nguyễn Hồng Vi, Nguyễn Đỗ Hoàng Việt, Nguyễn Hiếu Hạnh, Đinh Thị Lam, Trần Triệu Quân, Võ Minh Thư, Đỗ Thị Nhạn, Lê Thị Ngọc, Trần Duy Việt Cường, Nguyễn Đức Hoàng Lan, Trần Thị Kim Cúc, Nguyễn Thị Kim Thoa, Đinh Thị Hương, Trần Văn Tưởng, Phan Trung Hiếu, Hồ Thị Minh Hợp, Đào Huy Đức* (*Chủ biên chịu trách nhiệm tổng hợp).

Khoa học nông nghiệp là một tổng thể của kiến thức thực nghiệm, lý thuyết và thực tế về nông nghiệp, nông dân, nông thôn do các nhà nghiên cứu phát triển với các phương pháp khoa học, trong đó đặc biệt là sự quan sát, giải thích, và dự báo những hiện tượng của nông nghiệp. Việt Nam là đất nước “dĩ nông vi bản”, do đó nông nghiệp của chúng ta gắn liền với lịch sử phát triển của đất nước. Viện đã không ngừng phát triển trong chặng đường lịch sử 90 năm. Viện đã cùng đồng hành với nông dân Việt Nam, người mà lịch sử Việt Nam phải tri ân sâu đậm. Chính họ là lực lựơng đông đảo đã làm cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân thành công; đồng thời đã đóng góp xuất sắc trong thời kỳ đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, với nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, tạo nên những đột phá liên tục làm tiền đề cho công nghiệp và dịch vụ phát triển như ngày nay. Sự kiện 02 triệu người chết đói năm 1945 luôn nhắc người Việt Nam rằng, không có độc lập dân tộc, không có khoa học công nghệ, sẽ không có ổn định lương thực cho dù ruộng đất phì nhiêu của Đồng bằng Sông Cửu Long có tiềm năng vô cùng to lớn.

Lịch sử của Viện cũng là lịch sử của quan hệ hợp tác mật thiết với các tổ chức nông dân, với lãnh đạo địa phương, với các Viện nghiên cứu trực thuộc VAAS và các Trường, Viện khác, với các tổ chức quốc tế. Khoa học nông nghiệp không thể đứng riêng một mình. Khoa học nông nghiệp phải xem xét cẩn thận các yếu tố kinh tế, môi trường, chính trị; trong đó có thị trường, năng lượng sinh học, thương mại hóa toàn cầu. Đặc biệt, nông nghiệp phải nhấn mạnh đến chất lượng nông sản và an toàn lương thực, thực phẩm, khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.

Lịch sử đang đặt ra cho Viện những thách thức mới trong điều kiện Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng, hàng rào thuế quan được dỡ bỏ, thay vào đó là rào cản kỹ thuật đối với nông sản trên thương trường quốc tế. Thách thức do bùng nổ dân số, thiếu đất nông nghiệp, thiếu tài nguyên nước ngọt, biến đổi khí hậu với diễn biến thời tiết cực đoan, thu nhập nông dân còn thấp là những nhiệm vụ vô cùng khó khăn, nhưng rất vinh quang của Viện, đang mong đợi sự năng động và thông minh của thế hệ trẻ.”

Lịch sử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam được chia là hai phân kỳ : Từ ngày thành lập Viện 1925 đến năm 1975, và từ năm 1975 đến năm 2018.

Từ năm 1925 đến năm 1975 những nhân vật lịch sử tiêu biểu của Viện trong thời kỳ này là GS.TS. Auguste Chavalier (1873-1956) Người thành lập Viện Khảo cứu Khoa học Đông Dương, năm 1918;  Yves Henry (1875-1966) Người thành lập Viện Khảo cứu Nông Lâm Đông Dương, năm 1925;  GS. Tôn Thất Trình, GS. Thái Công Tụng, GS. Lương Định Của, … là những người có ảnh hưởng nhiều đến Viện trong giai đoạn này

Từ năm 1975 đến năm 2018 Viện trãi qua 5 đời Viện trưởng GS Trần Thế Thông, GS Phạm Văn Biên, GS Bùi Chí Bửu, TS Ngô Quang Vinh và TS Trần Thanh Hùng.  Tôi lưu lại một số bức ảnh tư liệu kỷ niệm một thời của tôi với những sự kiện chính không quên.

Viện IAS từ năm 1975 đến năm 2015 là một Viện nông nghiệp lớn đa ngành, duy nhất trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam. Đó là tầm nhìn phù hợp điều kiện thực tế thời đó. Viện có một đội ngũ cán bộ khoa học nông nghiệp hùng hậu, có trình độ chuyên môn cao, thế hệ đầu tiên của giai đoạn hai mươi lăm năm đầu tiên sau ngày Việt Nam thống nhất (1975 – 2000)  gồm các chuyên gia như:  Giáo sư Trần Thế Thông, Giáo sư Vũ Công Hậu, Giáo sư Lê Văn Căn, Giáo sư Mai Văn Quyền, Giáo sư Trương Công Tín, Giáo sư Dương Hồng Hiên, Giáo sư Phạm Văn Biên, … là những đầu đàn trong khoa học nông nghiệp.

Viện có sự cộng tác của nhiều chuyên gia lỗi lạc quốc tế đã đến làm việc ở Viện như: GSTS. Norman Bourlaug (CIMMYT), GS.TS. Kazuo Kawano, TS. Reinhardt Howeler, GS.TS. Hernan Ceballos, TS. Rod Lefroy, (CIAT),  GS.TS. Peter Vanderzaag, TS. Enrique Chujoy, TS. Il Gin Mok, TS. Zhang Dapheng (CIP), GS.TS. Wiliam Dar, TS. Gowda (ICRISAT), GSTS.  V. R. Carangal (IRRI), TS. Magdalena Buresova , GSTS. Pavel Popisil (Tiệp), VIR, AVRDC,  …

Thật đáng tự hào về một khối trí tuệ lớn những cánh chim đầu đàn nêu trên. Chúng ta còn nợ những chuyên khảo sâu các đúc kết trầm tích lịch sử, văn hóa, sinh học  của vùng đất này để đáp ứng tốt hơn cho các vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn, đời sống và  an sinh xã hộiđể vận dụng soi tỏ “Niên biểu lịch sử Việt Nam“, ” 500 năm Nông nghiệp Việt Nam”, “90 năm Nông nghiệp miền Nam” “Trăm năm nông nghiệp Việt Nam (1925-2025)” nhằm tìm thấy trong góc khuất lịch sử  dòng chủ lưu tiến hóa của nông nghiệp, giáo dục, văn hóa Việt Nam.

VIỆN IAS TRONG LÒNG TÔI
Một số hình ảnh lư liệu cá nhân

Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam (IAS) từ cuối năm 2015 đến đầu năm 2025 đang chuyển đổi mạnh mẽ trong xu thế hội nhập và phát triển. Viện cấu trúc hài hòa các Bộ môn Bảo vệ Thực vật; Công nghệ Sinh học; Chọn tạo giống cây trồng; Nông học; Cây Công Nghiệp. Viện IAS vừa xử lý tốt các vấn đền đề vùng miền vừa đáp ứng tốt những đề tài trọng điểm quốc gia theo chuỗi giá trị hàng hóa chuyên cây, chuyên con và tổng hợp quốc gia mà Viện có thế mạnh như Điều, Sắn, Cây Lương thực Rau Hoa Quả, Nông nghiệp hữu cơ, Nông nghiệp đô thị, Đào tạo và huấn luyện nguồn lực, xây dựng phòng hợp tác nghiên cứu chung và trao đổi chuyên gia quốc tế … trong cấu thành chỉnh thể Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam.

Nhớ Thầy Trần Thế Thông
THÀNH KÍNH THƯƠNG TIỄN THẦY

Ngày Phục Sinh Tháng Năm
Thầy Thế Thông An Nghĩ *
Nông Nghiệp Việt Trăm Năm
Mốc Son Đời Mãi Nhớ


* Cụ Ông Trần Thế Thông sinh năm 1930, từ trần lúc 1g55 ngày 3 5 2023 nhằm ngày 25 3 Giáp Thìn, hưởng thọ 95 tuổi; động quan 8g30 ngày 5 5 2024 nhằm ngày 27 3 Giáp Thìn.

Kim Hoàng @ Kính anh Hoang Sam người “Làng Minh Lệ quê tôi“, là xếp lớn ngành an ninh đã nghỉ hưu, nay anh vẫn tận tụy với “Làng Việt xưa và nay” và những câu chuyện giản dị. Anh kính trọng Cụ, muốn biết rõ thêm gia đình, thân thế, sự nghiệp của Cu.

Cụ Ông Trần Thế Thông sinh năm 1930, từ trần lúc 1g55 ngày 3 5 2023 nhằm ngày 25 3 Giáp Thìn, hưởng thọ 95 tuổi; Cụ đã nhập quan ở Nhà Giải Thoát Chùa Xá Lợi Chùa Xá Lợi Số 89 Bà Huyện Thanh Quan, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh; động quan 8g30 ngày 5 5 2024 nhằm ngày 27 3 Giáp Thìn.

Cụ Ông Trần Thế Thông là GSTS di truyền giống ngành chăn nuôi thú y, giải thưởng Hồ Chí Minh; Cụ nguyên là Viện Trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam (IAS) giai đoạn 1981-1993.

Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam là Viện nông nghiệp đầu tiên, đa ngành của nước Việt Nam có lịch sử gần một trăm năm (1925-2025) được chia là hai phân kỳ : Từ ngày thành lập Viện 1925 đến năm 1975, và từ năm 1975 đến năm 2018. Từ năm 1925 đến năm 1975 những nhân vật lịch sử tiêu biểu của Viện trong thời kỳ này là GS.TS. Auguste Chavalier (1873-1956) Người thành lập Viện Khảo cứu Khoa học Đông Dương, năm 1918; Yves Henry (1875-1966) Người thành lập Viện Khảo cứu Nông Lâm Đông Dương, năm 1925; GS. Tôn Thất Trình, GS. Thái Công Tụng, GS. Lương Định Của, … là những người có ảnh hưởng nhiều đến Viện trong giai đoạn này.Từ năm 1975 đến năm 2018 Viện trãi qua 5 đời Viện trưởng GS Trần Thế Thông, GS Phạm Văn Biên, GS Bùi Chí Bửu, TS Ngô Quang Vinh và TS Trần Thanh Hùng. Sau năm 2018 Viện đã được kế thừa và phát triển theo hệ thống tổ chức mới toàn quốc, phát triển riêng biệt theo chuỗi sản phẩm ngành hàng trồng trọt, chăn nuôi, kinh tế nông nghiệp, lâm ngư nghiệp và vùng sinh thái. Thầy Trần Thế Thông trong Nông nghiệp Việt trăm năm Mốc son đời mãi nhớ là một chỉ dấu nông nghiệp miền Nam một thời

Vợ của Cụ Ông Trần Thế Thông là Cụ Bà Tạ Thị Ánh Hoa là GSTS chuyển từ Viện Nhi Hà Nội vào ĐHYD TP HCM làm Chủ nhiệm bộ môn từ 1978 đến 1998 với hơn 20 năm gắn bó với BM Nhi, Giáo Sư Tạ Thị Ánh Hoa là người đào tạo và phát triển nhiều giáo sư, tiến sĩ và với rất nhiều sách phục vụ cho công tác giảng dạy, đặc biệt chuyên ngành miễn dịch- dị ứng. Phòng khám của Cô rất được kính trọng, dẫu Cô đã rất luống tuổi https://www.tapchidongy.org/co-so/phong-kham-gs-bs-ta-thi-anh-hoa-chuyen-khoa-nhi Phòng khách của Thầy Cô nơi trang trọng có lưu lời đề tặng của bác Giáp ‘Thân tặng Trần Thế Thông Xuân Tân Mùi 1991″ (với giải thưởng Hồ Chí Minh công trình giống heo, và Bắc Đẩu Bội Tinh của Tổng thống Pháp vinh danh Thầy góp công kết nối ngôn ngữ văn hóa Pháp Việt

Con cái và hậu duệ Thầy Cô đều thiện lành, bình an.

Bạch Ngọc Hoàng Kim Thành Kính Tiễn Hương Linh Thầy, xin có sáu câu tiễn biệt ở trên

* Thầy ơi!. Nhớ năm trước (2021) tới thăm Thầy Cô, có nghe Thầy nói: “anh Tuấn (Đào Thế Tuấn) nhiều điều đáng học”. Thầy đã thích khi tôi có đọc thơ cho Thầy nghe có hai câu thơ luận bàn thế sự của anh Hoàng Đình Quang viết khi uống rượu ở quán vĩa hè ỏ Bà Huyện Thanh Quan: “Khanh tướng chắc gì nên vọng tộc/ Câu thơ còn đó lập danh gia” ngẫm ‘Tương tiến tửu’ Lý Bạch. Đời Người Chính Trung Phúc Hậu Cố Gắng, Còn Tùy Duyên Nghiệp Nhân Quả, Chỉ Tình Yêu Ở Lại.

Hoàng Kim cẩn đề

GS Trần Thế Thông nay (2021) đã qua tuổi 93, trò chuyện về Viện

GS Trần Thế Thông, GS Vũ Công Hậu làm việc cùng chuyên gia Viện Vavilop Liên Xô.

GS.Vũ Công Hậu và chuyên gia Liên Xô chương trình thu thập bảo tồn tài nguyên cây trồng.

Mô hình trồng xen lạc, đậu xanh, đậu nành, đậu rồng với ngô lai, sắn có hiệu quả cao ở vùng Đông Nam Bộ và Duyên hải miền Trung. TS. Hoàng Kim đang báo cáo kết quả nghiên cứu và phát triển mô hình trồng xen ngô đậu với bộ trưởng Nguyễn Ngọc Trìu.

GS Mai Văn Quyền hướng dẫn chuyên gia IRRI và chuyên gia Viện Lúa ĐBSCL thăm mô hình trồng xen ngô đậu trong hệ thống cây trồng vùng Đông Nam Bộ.

Những người bạn Sắn Việt Nam với Những người bạn lớn của nông dân trồng sắn châu Á

 Viện trưởng GS. Phạm Văn Biên với chuyên gia CIAT và các lãnh đạo Mạng lưới Sắn châu Á, châu Mỹ La tinh tại Hội thảo Sắn châu Á tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh năm 2000

Viện trưởng GS. Phạm Văn Biên hướng dẫn Bộ trưởng Lê Huy Ngọ thăm các giống điều ghép PN1 và các giống điều mới chọn tạo tại Trung tâm Hưng Lộc, Đồng Nai

Viện Trưởng GS. Bùi Chí Bửu hướng dẫn Tổng Giám đốc CIAT thăm các giống sắn mới.

Quyền Viện Trưởng TS. Ngô Quang Vình cùng các chuyên gia CIAT đánh giá các giống sắn mới (KM419 bên phải và KM140 bên trái)

Viện trưởng TS. Trần Thanh Hùng (giữa) nhận hoa chúc mừng của các đồng nghiệp.

CHUNG SỨC TRÊN ĐƯỜNG XUÂN

Chung sức bao năm một chặng đường
Cuộc đời nhìn lại phúc lưu hương
Ngô khoai chẳng phụ dày công Viện
Lúa sắn chuyên tâm mến nghĩa Trường
Dạy học tinh hoa giàu trí tuệ
Chuyển giao chuyên nghiệp khiếu văn chương
Người chọn vãng sanh vui một cõi
Ai theo cực lạc đức muôn phương

DARWIN THÍCH NGHI ĐỂ TỒN TẠI

Đôi mắt Darwin soi thấu nguồn gốc các loài. Thăm ngôi nhà cũ của Darwin, tìm đến tư duy mạch lạc của một trí tuệ lớn “Darwin thích nghi để tồn tại” để vận dụng soi tỏ “Niên biểu lịch sử Việt Nam“, ” 500 năm Nông nghiệp Việt Nam”, “90 năm Nông nghiệp miền Nam” “IAS đường tới trăm năm” (1925 -2025); nhằm tìm trong sự rối loạn và góc khuất lịch sử dòng chủ lưu tiến hóa, chấn hưng văn hóa, giáo dục và nông nghiệp Việt.

Thăm ngôi nhà cũ Darwin

Down House  là ngôi nhà cũ của nhà tự nhiên học người Anh Charles Darwin (12 tháng 2, 1809 – 9 tháng 4, 1882) và gia đình ông. Nơi đây Darwin đã làm việc về thuyết tiến hóa bởi chọn lọc tự nhiên và nhiều thí nghiệm khác. “Nguồn gốc các loài” của Charles Darwin xuất bản lần đầu tiên ngày 24 tháng 11 năm 1859 là ấn phẩm khoa học tiêu biểu và là tác phẩm nòng cốt của ngành sinh học tiến hóa, chứng minh rằng mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên. Hiện nay học thuyết tiến hóa của Darwin đang được tôn vinh và phê phán dữ dội. Vượt qua mọi khen chê của nhân loại và thời đại biến đổi, triết lý của Charles Darwin thật sâu sắc. “Mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên“, “thích nghi để tồn tại” bài học tình yêu cuộc sống đắt giá của tự nhiên, chính mỗi người, cộng đồng dân tộc và nhân loại.

Thích nghi để tồn tại

Kẻ sống sót không phải là kẻ mạnh nhất hay thông minh nhất, mà là kẻ thích nghi tốt nhất” Charles Darwin đã nói vậy: “It is not the strongest of the species that survives, nor the most intelligent that survives. It is the one that is most adaptable to change” Bảo tồn và phát triển bền vững, thích nghi để tồn tại là câu chuyện lớn của mỗi người và nhân loại, là lời nhắc của quá khứ hiện tại và tương lai cho nhân loại và chính cộng đồng người dân Việt Nam để không bao giờ được phép quên lãng. Thích nghi để tồn tại mới là người THẮNG sau cùng. Cân bằng hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường, tiến bộ và công bằng an sinh xã hội, giữ vững độc lập thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là những vấn đề trọng yếu trong chính sách kinh tế xã hội tự nhiên và an sinh..

Tôi được may mắn có một thời gian cùng làm việc với “Những người bạn Nga của Viện Vavilop”. Tôi từng đươc may mắn có thời du học Tiệp Khắc ở “Viện Di truyền Mendel”, Praha Goethe và lâu đài cổ, Tiệp Khắc kỷ niệm một thời, Giấc mơ thiêng cùng Goethe; được tới nhiều vùng văn hóa nổi tiếng khắp năm châu Châu Mỹ chuyện không quên; Nhớ châu Phi; Di sản Walter Scott bút hơn gươm; Nhớ ‘Nghị lực’ thơ ngày tháng cũ; Học để làm ở Ấn Độ, 500 năm nông nghiệp Brazil,  các trang vàng của những người thầy lớn, có tầm nhìn xa rộng, sức khái quát cao và tài năng khoa học phi thường. Tôi vì giới hạn nên nhiều điều chưa kịp chép lại và chiêm nghiệm, Nay bất chợt gặp lại chùm ảnh tư liệu cũ “một thời để nhớ”  Thăm ngôi nhà cũ của Darwin, bỗng bâng khuâng ngắm nhìn đôi mắt Darwin soi thấu nguồn gốc muôn loài, ngưỡng mộ sức khái quát trong đúc kết “Nguồn gốc các loài” của ông.Thật thú vị khi được trãi nghiệm một phần đời mình gắn bó máu thịt với 90 năm Viện KHKTNN miền Nam; 60 năm Đại học Nông Lâm TP. HCM 

NÔNG NGHIỆP VIỆT TRĂM NĂM
越南农业百年历史 Vietnamese agriculture for a hundred years
Ngữ văn Việt Trung Anh đối chiếu 学越中文 học văn hiến Việt Trung
#htn #vietnamxahoihoc #cnm365 #dayvahoc #vietnamhoc, #cltvn
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim

Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam IAS đang hướng tới kỷ niệm 100 năm ngày thành lập (1925-2025); Lịch sử 100 năm nông nghiệp Việt Nam giới thiệu hai địa chỉ xanh Trường Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh (NLU, nôi trung tâm vùng Nam Bộ đào tạo nguồn lực khoa học kỹ thuật nông lâm sinh thủy cơ khí nông nghiệp) Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam (nôi trung tâm nghiên cứu chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật nông học, chăn nuôi và hệ thống nông nghiệp miền Nam) với mười chuyên khảo, góc nhìn, bài cảm nhân Ban mai kênh Thị Nghè; Trường tôi nôi yêu thương; Kỷ yếu khoa Nông học kỷ niệm 65 năm thành lập Khoa; Về Trường để nhớ thương; Một niềm tin thắp lửa; Thầy bạn là lộc xuân; Thầy bạn trong đời tôi; Dạy và học ngày mới  

Tích hợp thông tin Việt Nam xã hội học (越南社会学; Vietnamese Sociology) Ngữ văn Việt Trung đối chiếu 学越中文 học văn hiến Việt Trung là môn học gồm bảy bài Xã hội Việt Nam ngày nay; Nông nghiệp sinh thái Việt; Ngành nghề ở Việt Nam; Vùng sinh thái Việt Nam; Du lịch sinh thái Việt; Nước Việt Nam ngày nay; Việt Nam con đường xanh, với 36 tiểu mục.

Bài 1 Xã hội Việt Nam ngày nay gồm có 5 tiểu mục:: 1.1 Việt Nam một khái quát; 1.2 Việt Nam con đường xanh; 1.3 Việt Nam tâm thế mới; 1.4 Việt Nam sáng tạo KHCN; 1.5 Việt Nam dư địa chí

Bài 2 Nông nghiệp sinh thái Việt gồm có 5 tiểu mục: 2.1 Phát triển nông thôn mới; 2.2 Chương mục tiêu quốc gia; 2.3 Nông nghiệp công nghệ cao; 2.4 Nông nghiệp Việt trăm năm; 2.5 Chuyển đổi số nông nghiệp. xem tiếp Việt Nam Dạy Và Họchttps://hoangkimvn.wordpress.com/category/nong-nghiep-cong-nghe-caohttps://hoangkimvn.wordpress.com/category/nong-nghiep-viet-tram-nam

Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam (IAS) từ cuối năm 2015 cho đến đầu năm 2025 đang chuyển đổi mạnh mẽ trong xu thế hội nhập và phát triển. Viện đang cấu trúc lại hệ thống để hài hòa hơn các Bộ môn Bảo vệ Thực vật; Công nghệ Sinh học; Chọn tạo giống cây trồng; Nông học; Cây Công Nghiệp để vừa xử lý tốt các vấn đền đề vùng miền vừa đáp ứng tốt những đề tài trọng điểm quốc gia theo chuỗi giá trị hàng hóa chuyên cây, chuyên con và tổng hợp quốc gia mà Viện có thế mạnh như Điều, Sắn, Cây Lương thực Rau Hoa Quả, Nông nghiệp hữu cơ, Nông nghiệp đô thị, Đào tạo và huấn luyện nguồn lực, xây dựng phòng hợp tác nghiên cứu chung và trao đổi chuyên gia quốc tế trong chỉnh thể Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam.

Nông nghiệp Việt 100 năm (1925-2025) bảo tồn và phát triển chúng ta sẽ lắng đọng các bài học lý luận và thực tiễn đúc kết chuỗi hệ thống lịch sử địa lý sinh thái kinh tê xã hội tầm nhìn dài hạn 100 năm Bài học lớn của IAS Kỷ yếu khoa học giai đoạn 1975-2015, lắng đọng bài học mới nhất của 65 năm Kỷ yếu Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh (19/11/ 1955 – 19/11/ 2020) và bài học lớn 75 năm ngành Quản lý đất đai Việt Nam (3.10 1945- 3 10 2020). Đó là những thực tiễn và lý luận Việt được đúc kết quý giá. Khi tham khảo tổng quan bảo tồn và phát triển 500 năm nông nghiệp Brazil Đất và Thức ăn (Land and Food 500 years of Agriculture in Brazil).một tài liệu quý và chùm ảnh tư liệu chọn lọc của Brazil cho thấy. Brazil có Embrapa www.embrapa.br. là tập đoàn nghiên cứu và phát triển nông nghiệp lâu năm và khá hoàn hảo để đảm bảo các giải pháp khoa học và biến đổi phát triển bền vững. Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam hiện nay là nợi có đúc kết kinh nghiệm dầy dặn của Nông nghiệp Việt IAS 100 năm (1925-2025) lại tích hợp nhiều kinh nghiệm quý của các nước, các chuyên gia FAO và UNDP, Embrapa,…Nông nghiệp Việt 100 năm (1925-2025) bảo tồn và phát triển nhằm đúc kết và suy ngẫm bài học lý luận và thực tiễn hiệu quả cho sự phát triển

Kim Notes lắng ghi chú
(Bản thảo ký ức vụn)

Thông tin mới

Xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu, nông thôn mới thông minh
Hiền Vinh, Báo Thanh Niên, 24/11/2021 14:00 GMT+7. Dự thảo chiến lược phát triển nông nghiệp – nông thôn bền vững xác định tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới, tập trung xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu và nông thôn mới thông minh ở các cấp

Đi vào chiều sâu

Xây dựng nông thôn mới là một trong những nội dung quan trọng trong tờ trình Bộ trưởng Bộ NN-PTNT gửi Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển nông nghiệp – nông thôn bền vững giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Theo tờ trình, Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới có sức lan tỏa mạnh mẽ, trở thành phong trào sâu rộng với sự tham gia của cả hệ thống chính trị từ trung ương tới cơ sở và người dân, kế hoạch đến năm 2020 đạt mục tiêu sớm hơn 1,5 năm.

Trong khi đó, số liệu Bộ NN-PTNT mới công bố cho thấy, đến hết tháng 8, cả nước có 5.3385/8.233 xã (64,84%) đạt chuẩn nông thôn mới; 396 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, 43 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu, bình quân 16,68 tiêu chí/xã.

196/664 đơn vị cấp huyện thuộc 52 tỉnh, thành phố trực thuộc T.Ư được công nhận hoàn thành nhiệm vụ, đạt chuẩn nông thôn mới. 12 tỉnh có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới và 4 tỉnh được công nhận tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.

Tuy nhiên, trong tờ trình gửi Thủ tướng, Bộ NN-PTNT cũng thừa nhận, kết quả xây dựng nông thôn mới chưa đồng đều giữa các vùng, miền, địa phương. Cho nên, dự thảo Chiến lược phát triển nông nghiệp – nông thôn bền vững giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 xác định tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới, tập trung xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu và nông thôn mới thông minh ở các cấp.

Xây dựng nông thôn mới đi vào chiều sâu cấp thôn ấp, hộ gia đình gắn với xây dựng đời sống văn hóa, bảo vệ môi trường. Thúc đẩy chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới, góp phần thu hẹp khoảng cách về mức độ thụ hưởng dịch vụ xã hội cơ bản (y tế, giáo dục, văn hóa…) của người dân nông thôn với thành thị.

Dự thảo Chiến lược phát triển nông nghiệp – nông thôn bền vững giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, cả nước có ít nhất 90% số xã đạt chuẩn nông thôn mới. Trong đó, 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, có trên 70% số đơn vị cấp huyện đạt chuẩn nông thôn mới (35% số đơn vị cấp huyện được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao).

Xây dựng nông thôn mới theo 3 vùng

Trong dự thảo chiến lược, Bộ NN-PTNT nêu rõ: Đẩy mạnh thực hiện hiệu quả xây dựng nông thôn mới, gắn với phát triển nông nghiệp và công nghiệp. Định hướng chương trình xây dựng nông thôn mới gắn chặt với quá trình cơ cấu lại nông nghiệp và phát triển công nghiệp trong nông thôn phù hợp với lợi thế vùng miền và phát huy tính đa dạng của địa phương.

Dự thảo chiến lược xác định xây dựng nông thôn mới theo 3 vùng. Trong đó, vùng 1, với các xã khu vực ven đô, kinh tế phi nông nghiệp chiếm đa số, dịch vụ, thương mại và có cơ sở hạ tầng tốt thì hướng tới đô thị hóa. Tập trung hoàn thiện cơ sở hạ tầng ngang với đô thị, phát triển chất lượng dịch vụ ngang bằng với khu vực thành thị.

Vùng 2, với những xã thuộc các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn thì hướng tới liên kết, hình thành các vùng chuyên canh. Tập trung phát triển hạ tầng vùng chuyên canh, xây dựng cụm ngành liên kết giữa sản xuất – chế biến – dịch vụ; hỗ trợ kết nối hạ tầng giữa các vùng chuyên canh với các thị trường lớn, khu trung chuyển, dịch vụ hậu cần lớn…

Vùng 3, với các xã nông thôn truyền thống thì tập trung phát triển sản phẩm đặc sản địa phương, làng nghề, hoạt động du lịch gắn với văn hóa bản địa. Bảo tồn và phát huy văn hóa địa phương, phát triển các sản phẩm đặc sản địa phương, hỗ trợ nâng cao chất lượng sản phẩm địa phương, kết nối với thị trường trong nước và quốc tế; phát triển du lịch nông thôn. Hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu, nhất là đối với vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số…

Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam
NÔNG NGHIỆP VIỆT TRĂM NĂM #htn một câu chuyện ảnh

Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam đã đúc kết tốt 90 năm nông nghiệp miền Nam lịch sử phát triển (1925-2015) và đang trên đường tới ‘100 năm nông nghiệp Việt Nam’ (1925-2025). Công tác chuẩn bị cho ngày tổng kết và lễ hội quan trọng này này vào năm 2025 đang được chuẩn bị từ hiện nay.

90 năm Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam, sự nhìn lại bản tóm tắt nông nghiệp 90 năm (1925-2015) thật khá thú vị: Tác giả Bùi Chí Bửu, Trần Thị Kim Nương, Nguyễn Hồng Vi, Nguyễn Đỗ Hoàng Việt, Nguyễn Hiếu Hạnh, Đinh Thị Lam, Trần Triệu Quân, Võ Minh Thư, Đỗ Thị Nhạn, Lê Thị Ngọc, Trần Duy Việt Cường, Nguyễn Đức Hoàng Lan, Trần Thị Kim Cúc, Nguyễn Thị Kim Thoa, Đinh Thị Hương, Trần Văn Tưởng, Phan Trung Hiếu, Hồ Thị Minh Hợp, Đào Huy Đức* (*Chủ biên chịu trách nhiệm tổng hợp).

Khoa học nông nghiệp là một tổng thể của kiến thức thực nghiệm, lý thuyết và thực tế về nông nghiệp, nông dân, nông thôn do các nhà nghiên cứu phát triển với các phương pháp khoa học, trong đó đặc biệt là sự quan sát, giải thích, và dự báo những hiện tượng của nông nghiệp. Việt Nam là đất nước “dĩ nông vi bản”, do đó nông nghiệp của chúng ta gắn liền với lịch sử phát triển của đất nước. Viện đã không ngừng phát triển trong chặng đường lịch sử 90 năm. Viện đã cùng đồng hành với nông dân Việt Nam, người mà lịch sử Việt Nam phải tri ân sâu đậm. Chính họ là lực lựơng đông đảo đã làm cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân thành công; đồng thời đã đóng góp xuất sắc trong thời kỳ đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, với nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, tạo nên những đột phá liên tục làm tiền đề cho công nghiệp và dịch vụ phát triển như ngày nay. Sự kiện 02 triệu người chết đói năm 1945 luôn nhắc người Việt Nam rằng, không có độc lập dân tộc, không có khoa học công nghệ, sẽ không có ổn định lương thực cho dù ruộng đất phì nhiêu của Đồng bằng Sông Cửu Long có tiềm năng vô cùng to lớn.

Lịch sử của Viện cũng là lịch sử của quan hệ hợp tác mật thiết với các tổ chức nông dân, với lãnh đạo địa phương, với các Viện nghiên cứu trực thuộc VAAS và các Trường, Viện khác, với các tổ chức quốc tế. Khoa học nông nghiệp không thể đứng riêng một mình. Khoa học nông nghiệp phải xem xét cẩn thận các yếu tố kinh tế, môi trường, chính trị; trong đó có thị trường, năng lượng sinh học, thương mại hóa toàn cầu. Đặc biệt, nông nghiệp phải nhấn mạnh đến chất lượng nông sản và an toàn lương thực, thực phẩm, khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.

Lịch sử đang đặt ra cho Viện những thách thức mới trong điều kiện Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng, hàng rào thuế quan được dỡ bỏ, thay vào đó là rào cản kỹ thuật đối với nông sản trên thương trường quốc tế. Thách thức do bùng nổ dân số, thiếu đất nông nghiệp, thiếu tài nguyên nước ngọt, biến đổi khí hậu với diễn biến thời tiết cực đoan, thu nhập nông dân còn thấp là những nhiệm vụ vô cùng khó khăn, nhưng rất vinh quang của Viện, đang mong đợi sự năng động và thông minh của thế hệ trẻ.”

Lịch sử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam được chia là hai phân kỳ : Từ ngày thành lập Viện 1925 đến năm 1975, và từ năm 1975 đến năm 2018.

Từ năm 1925 đến năm 1975 những nhân vật lịch sử tiêu biểu của Viện trong thời kỳ này là GS.TS. Auguste Chavalier (1873-1956) Người thành lập Viện Khảo cứu Khoa học Đông Dương, năm 1918;  Yves Henry (1875-1966) Người thành lập Viện Khảo cứu Nông Lâm Đông Dương, năm 1925;  GS. Tôn Thất Trình, GS. Thái Công Tụng, GS. Lương Định Của, … là những người có ảnh hưởng nhiều đến Viện trong giai đoạn này

Từ năm 1975 đến năm 2018 Viện trãi qua 5 đời Viện trưởng GS Trần Thế Thông, GS Phạm Văn Biên, GS Bùi Chí Bửu, TS Ngô Quang Vinh và TS Trần Thanh Hùng.  Tôi lưu lại một số bức ảnh tư liệu kỷ niệm một thời của tôi với những sự kiện chính không quên.

Viện IAS từ năm 1975 đến năm 2015 là một Viện nông nghiệp lớn đa ngành, duy nhất trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam. Đó là tầm nhìn phù hợp điều kiện thực tế thời đó. Viện có một đội ngũ cán bộ khoa học nông nghiệp hùng hậu, có trình độ chuyên môn cao, thế hệ đầu tiên của giai đoạn hai mươi lăm năm đầu tiên sau ngày Việt Nam thống nhất (1975 – 2000)  gồm các chuyên gia như:  Giáo sư Trần Thế Thông, Giáo sư Vũ Công Hậu, Giáo sư Lê Văn Căn, Giáo sư Mai Văn Quyền, Giáo sư Trương Công Tín, Giáo sư Dương Hồng Hiên, Giáo sư Phạm Văn Biên, … là những đầu đàn trong khoa học nông nghiệp.

Viện có sự cộng tác của nhiều chuyên gia lỗi lạc quốc tế đã đến làm việc ở Viện như: GSTS. Norman Bourlaug (CIMMYT), GS.TS. Kazuo Kawano, TS. Reinhardt Howeler, GS.TS. Hernan Ceballos, TS. Rod Lefroy, (CIAT),  GS.TS. Peter Vanderzaag, TS. Enrique Chujoy, TS. Il Gin Mok, TS. Zhang Dapheng (CIP), GS.TS. Wiliam Dar, TS. Gowda (ICRISAT), GSTS.  V. R. Carangal (IRRI), TS. Magdalena Buresova , GSTS. Pavel Popisil (Tiệp), VIR, AVRDC,  …

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là ias-nlu-ngay-nha-giao.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nlu-65-nam.jpg

Thật đáng tự hào về một khối trí tuệ lớn những cánh chim đầu đàn nêu trên của các Viện Trường. Chúng ta còn nợ những chuyên khảo sâu các đúc kết trầm tích lịch sử, văn hóa, sinh học  của vùng đất này để đáp ứng tốt hơn cho các vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn, đời sống và  an sinh xã hội để vận dụng soi tỏ “Niên biểu lịch sử Việt Nam“, ”Nông nghiệp Việt trăm năm bảo tồn và phát triển (1925-2025)” nhằm tìm thấy trong góc khuất lịch sử dòng chủ lưu tiến hóa của nông nghiệp, giáo dục, văn hóa Việt Nam.

Chúc mừng Ngày Nhà Giáo Việt Nam.Chúc mừng và cảm ơn những tình cảm quý mến thân thiết của thầy bạn để giúp luôn chúng ta luôn ấm áp yêu thương và cố gắng . Thật xúc động nói lên những lời từ đáy lòng. “Bao năm Trường Viện là nhà. Lúa ngô khoai sắn đều là thịt xương. Một đời người một rừng cây. Thầy ươm giống tốt để mai thành rừng”. Thật tự hào Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam hướng tới Nông nghiệp Việt 100 năm bảo tồn và phát triển (1925-2025); với hình ảnh chúc mừng ngày Nhà Giáo Việt Nam; Bài viết chọn lọc ngày 20 tháng 11: Nông nghiệp Việt trăm năm bảo tồn và phát triển; Trường tôi nôi yêu thương; Kỷ yếu khoa Nông học kỷ niệm 65 năm thành lập Khoa; Về Trường để nhớ thương; Một niềm tin thắp lửa; Thầy bạn là lộc xuân; Thầy bạn trong đời tôi; Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-20-thang-11/;.

Họp mặt tất niên ngày 15 tháng 1 năm 2020 ảnh Minh Hương 17 tháng 1 · cùng với Nguyễn Thanh Thủy, Thanhminh Nguyen, Tran Nu Thanh, Cuộc Đời, Nguyen Quy Hung, Tin TruongHoàng Kim

Kết nối và phát triển, tách nhập tái cấu trúc là những chuyển động không ngưng nghỉ của Nông nghiệp Việt trăm năm qua. Thăm nhà cũ của Darwin, Tôi may mắn được dạo chơi Down House ngôi nhà cũ của nhà tự nhiên học người Anh Charles Darwin và gia đình ông để có giây phút lặng ngắm khu vườn riêng di sản nhỏ bé của ông. Chính tại nơi này Darwin đã làm việc về thuyết tiến hóa bởi chọn lọc tự nhiên và nhiều thí nghiệm khác. “Nguồn gốc các loài” của Charles Darwin xuất bản lần đầu tiên ngày 24 tháng 11 năm 1859 là ấn phẩm khoa học tiêu biểu và là tác phẩm nòng cốt của ngành sinh học tiến hóa, chứng minh rằng mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên. Hiện nay học thuyết tiến hóa của Darwin vừa được tôn vinh vừa bị phê phán dữ dội.

Nhớ Thầy Trần Thế Thông
THÀNH KÍNH THƯƠNG TIỄN THẦY

Ngày Phục Sinh Tháng Năm
Thầy Thế Thông An Nghĩ
Nông Nghiệp Việt Trăm Năm
Mốc Son Đời Mãi Nhớ


Vượt qua mọi khen chê của nhân loại và thời đại biến đổi, triết lý của Charles Darwin thật sâu sắc.“Thích nghi để tồn tại” “Mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên“, bài học tình yêu cuộc sống đắt giá của tự nhiên, mỗi người, cộng đồng dân tộc và nhân loại.

Đôi mắt Darwin soi thấu nguồn gốc các loài. “Kẻ sống sót không phải là kẻ mạnh nhất hay thông minh nhất, mà là kẻ thích nghi tốt nhất” Charles Darwin đã nói vậy:
“It is not the strongest of the species that survives, nor the most intelligent that survives. It is the one that is most adaptable to change” Bảo tồn và phát triển bền vững, thích nghi để tồn tại là câu chuyện lớn của mỗi người và nhân loại, là lời nhắc của quá khứ hiện tại và tương lai cho nhân loại và chính cộng đồng người dân Việt Nam để không bao giờ được phép quên lãng. Thích nghi để tồn tại mới là người thắng sau cùng. Cân bằng hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường, tiến bộ và công bằng an sinh xã hội, giữ vững độc lập thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là những vấn đề trọng yếu trong chính sách kinh tế xã hội tự nhiên và an sinh.Thăm ngôi nhà cũ của Darwin là tìm đến tư duy mạch lạc của một trí tuệ lớn Tôi thật may mắn và biết ơn Viện Trường có một thời gian cùng làm việc với nhiều thầy bạn để học hỏi và chiêm nghiệm cuộc sống Chung sức là một câu chuyện riêng chung nhiều thông tin nhớ mãi một thời.

CHUNG SỨC TRÊN ĐƯỜNG XUÂN
Võ Tòng Xuân, Hoàng Kim

Chung sức bao năm một chặng đường
Cuộc đời nhìn lại phúc lưu hương
Ngô khoai chẳng phụ dày công Viện
Lúa sắn chuyên tâm mến nghĩa Trường
Dạy học tinh hoa giàu trí tuệ
IT sáng tạo ngọc văn chương
Ai chọn đường xuân duyên vẹn kiếp
Ta theo lối chính đức muôn phương

Liên vận bài
TIỄN ĐƯA
Tố Hữu
(Tặng bạn thơ Th.)

Đưa tiễn anh đi mấy dặm đường
Nặng tình đồng chí lại đồng hương!
Đã hay đâu cũng say tiền tuyến
Mà vẫn bâng khuâng mộng chiến trường!
Dẫu một cây chông trừ giặc Mỹ
Hơn nghìn trang giấy luận văn chương
Đi đi, non nước chờ anh đó!
Tiền tuyến cần thêm? Có hậu phương…

Cảm ơn PGS TS Huỳnh Thanh Hùng Trưởng Ban Biên tập 65 NĂM KỶ YẾU TRƯỜNG Đại Học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, một tổng kết giá trị được yêu thích đúc kết đầu tiên . với thông tin kỷ yếu tôi sẽ cố gắng sớm cập nhật ở Trường tôi nôi yêu thương.

Cảm ơn Thầy PGS TS Trịnh Xuân Vũ, cây đại thụ nông nghiệp, ký ức sâu lắng MỘT CHẶNG ĐƯỜNG; GS.TS Bùi Cách Tuyến, nguyên Hiệu trưởng NLU (1998-2007) với bài viết Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh HỒI TƯỞNG VỀ GIAI ĐOẠN CẤT CÁNH (1998-2007); TS Nguyễn Đình Bông, nguyên phó Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Quản lý Đất đại (ngày nay là Bộ Tài nguyên Môi trường) với bài viết QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI VIỆT NAM, PGS TS Bùi Bá Bổng tác phẩm lớn lắng đọng một đời “Đề xuất về tái cơ cấu ngành lúa gạo đồng bằng sông Cửu Long để phát triển bền vững” GS TS Bùi Chí Bửu với chiêm nghiện sâu sắc đúc kết tầm nhìn lịch sử nông nghiệp Việt 90 năm. Bài viết này góp nhặt cát đá chọn chép lại chút kỷ niệm #cnm365 ON THIS DAY ngày này #cnm365 #cltvn 9 tháng 8 để tiện theo dõi

Kính lắng nghe sự chỉ giáo của quý Thầy bạn.

TS. Hoàng Kim
Nguyên giảng viên chính Cây Lương thực, Khoa Nông học (2006-2014)
Nguyên Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Thực Nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc (1994-2004), Trưởng Ban Quản lý Các Dự Án (2004-2006) Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP. HCM:
HỒI TƯỞNG VỀ GIAI ĐOẠN CẤT CÁNH (1998 – 2007)
GS.TS. Bùi Cách Tuyến
Nguyên Hiệu trưởng


Năm tôi vào trường (1973), Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp (thuộc Viện đại học Bách Khoa Thủ Đức, hiện nay là Trường đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh sau nhiều lần đổi tên) tuyển 200 sinh viên (100 Canh Nông, 50 Thủy Lâm, 50 Chăn nuôi Thú Y), trong đó có 10% dành riêng cho đồng bào sắc tộc và 10% dành riêng cho các trường Trung học Nông Lâm Súc tại các tỉnh. Thi vào không chỉ là học sinh phổ thông mà còn có những người đã học xong năm thứ nhất Đại học Khoa học Sài Gòn (đậu các chứng chỉ Toán Đại cương (MG); Toán, Lý, Hóa (MPC); Lý, Hoá, Vạn vật (SPCN). Đến năm 1974 trường mở thêm ngành Thủy sản do cố GS. Ngô Bá Thành làm trưởng ngành, lấy học viên từ các ngành khác chuyển qua. Chuyên ngành Công thôn và chuyên ngành Chế biến lấy sinh viên chủ yếu từ ngành Canh nông.

Cho đến năm học 1998 – 1999, Trường đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh chỉ đào tạo 10 ngành trong 6 Khoa: (1) khoa Nông học (Nông học, Quản lý Đất đai); (2) khoa Lâm (Lâm nghiệp và Chế biến Lâm sản); (3) khoa Chăn nuôi Thú y (Chăn nuôi và Thú y); (4) khoa Cơ khí Công nghệ (Cơ khí Nông nghiệp, Bảo quản Chế biến Nông sản Thực phẩm); (5) khoa Kinh tế Nông nghiệp (Kinh tế Nông nghiệp); và (6) khoa Thủy sản (Thủy sản).

Từ năm 2001, số ngành tuyển sinh tăng dần: năm học 2001-2002: (18 ngành); 2002-2003 (21 ngành); 2003 – 2004 (23 ngành); 2004 -2005 (29 ngành); 2005 – 2006 (36 ngành); 2006 – 2007 (42 ngành); 2007 – 2008 (43 ngành). Số người đến thi/số người đăng ký thi dự thi tăng dần theo từng năm. Cao nhất là năm 2007 có 57.536 người đến thi trên tổng số 74.686 người đăng ký, tổng số chỉ tiêu được giao là 3.600 sinh viên.

Là một trường nông nghiệp đóng trên địa bàn thành phố lớn nên nhu cầu phát triển lên đa ngành là rất cần thiết. Việc mở rộng quy mô đào tạo đã có nhiều đại học trên thế giới thực hiện thành công. Trong khu vực Châu Á có các đại học như Kasesart (Thái Lan), UPM (Malaysia), IPB (Indonesia)… đều khởi đầu từ trường nông nghiệp sau chuyển lên đa ngành và mở thêm nhiều phân hiệu. Ban Giám hiệu thời kỳ 1998 – 2007 đã thống nhất kế hoạch đưa trường lên đa ngành và mở thêm các phân hiệu ở Gia Lai và Ninh Thuận. Tỉnh Lâm Đồng, Bình Thuận và Phú Yên cũng muốn có phân hiệu nhưng vì nhiều lý do khác nhau nên chỉ hình thành 2 phân hiệu tại Gia Lai và Ninh Thuận. Phân hiệu Gia Lai nhờ sự ủng hộ mạnh mẽ của lãnh đạo tỉnh nên có quyết định thành lập trước theo QĐ số 2539/QĐ-BGD ĐT ngày 22/5/2006 và Phân hiệu Ninh Thuận thành lập sau theo QĐ số 699/TTg ngày 18/5/2010 (trong nhiệm kỳ Thầy Trịnh Trường Giang 2007-2012). Để có thể tiếp tục mở rộng ngành đào tạo, Ban Giám hiệu đã chủ trương đổi tên trường (theo tên địa phương hoặc danh nhân. Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân đã đồng ý với chủ trương này).

Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, nhà trường luôn quan tâm đến việc nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập nhằm cung cấp cho xã hội nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển đất nước. Việc chuyển đổi phương thức đào tạo từ niên chế sang học chế tín chỉ (HCTC) cũng để nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo; vì vậy, trường đã chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết để chuyển đổi. Với quy mô đào tạo lớn, lãnh đạo Nhà trường ý thức được rằng việc thay đổi quy trình đào tạo từ niên chế sang HCTC có ảnh hưởng đến toàn bộ công tác giảng dạy, quản lý của nhà trường. Do đó, Nhà trường đã thận trọng và từng bước thực hiện việc chuyển đổi đào tạo theo HCTC. Với quá trình bàn thảo, xây dựng định hướng, xây dựng đề án, xây dựng quy trình quản lý, soạn thảo những quy định có liên quan, cài đặt các chương trình máy tính phục vụ cho việc vận hành, chuẩn bị cơ sở vật chất, triển khai tập huấn đội giảng viên, ngũ cố vấn học tập… chương trình đào tạo theo phương thức tích lũy tín chỉ đã được áp dụng đầu tiên cho khóa tuyển sinh đại học chính qui năm 2008.

Công tác đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ công chức, viên chức ở các địa phương (đào tạo tại chức, nay là vừa làm vừa học) trong khu vực cũng đã được triển khai thành công. Cụ thể trong 5 năm từ 2003 đến 2007 đã tuyển sinh đào tạo cho 9.412 sinh viên các ngành Nông học, Lâm nghiệp, Quản lý đất đai, Thú Y, Chăn nuôi, Thủy sản, Kinh tế nông nghiệp… cho các địa phương từ Bình Định đến Cà Mau.

Đến năm 2006, Trường đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh có 12 Khoa (tăng thêm 6 Khoa), 5 Bộ môn độc lập trực thuộc Ban Giám Hiệu: 1) bộ môn Mác-Lênin; 2) bộ môn Công nghệ Sinh học (để hình thành khoa Công nghệ Sinh học hoặc khoa Khoa học Sự sống về sau); bộ môn Sư phạm Kỹ thuật (để hình thành khoa Sư phạm về sau); 3) bộ môn Công nghệ Hóa học (để hình thành khoa Hóa học sau này); bộ môn Cảnh quan và Kỹ thuật Hoa viên (để hình thành khoa đào tạo chuyên về Thiết kế Cảnh quan, Quản lý Lâm viên [national park], Quản lý Hoa viên và Du lịch Sinh thái sau này). Viện Nghiên cứu Công nghệ Sinh học và Môi trường được thành lập để làm hạt nhân cho một đại học định hướng nghiên cứu về sau theo Quyết định thành lập số 797/ĐHNL-TCCB ngày 6/6/2006 của Hiệu trưởng Trường đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh trên cơ sở sáp nhập Trung Tâm Phân tích Thí nghiệm Hóa Sinh với Trung Tâm Công nghệ Sinh học và Trung Tâm Công nghệ và Quản lý Môi trường và Tài nguyên.

Trường đã lập Dự án Quy hoạch tổng thể (theo Kế hoạch Chiến lược) cho việc xây dựng trường dài hạn và được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt, trong đó có Dự án riêng cho Viện Nghiên cứu Công nghệ Sinh học và Môi trường (bao gồm 5 nhà lớn theo hình lá của một cây rừng phổ biến ở Đông Nam bộ là Dầu Con rái (𝐷𝑖𝑝𝑡𝑒𝑟𝑜𝑐𝑎𝑟𝑝𝑢𝑠 𝑎𝑙𝑎𝑡𝑢𝑠). Đến nay chỉ có hai nhà được xây dựng.

Để đào tạo nhiều ngành cần phải có phòng thí nghiệm và giảng viên tương ứng. Trường đã xây dựng & trình các dự án và nhờ sự ủng hộ của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ để hình thành các phòng thí nghiệm chuyên đề. Các Phòng Thí nghiệm trong Dự án Tăng cường năng lực do Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt và Bộ Khoa học và Công nghệ cấp kinh phí: (1) Dự án Phòng Thí nghiệm Rau quả (đặt ở khoa Công nghệ Thực phẩm); (2) Dự án Phòng Thí nghiệm Công nghệ Ô tô (đặt ở khoa Cơ khí Công nghệ); (3) Dự án Dự án Phòng Thí nghiệm Giấy và Bột giấy (đặt ở khoa Lâm nghiệp); (4) Dự án Phòng Thí nghiệm Phôi (đặt ở Viện Nghiên cứu Công nghệ Sinh học và Môi trường). Trường đã xin một khu thực nghiệm rộng nhiều trăm ha cho các khoa Lâm nghiệp, Nông học và một số đơn vị khác tại tỉnh Bình Phước (về sau trả lại địa phương vì dân lấn chiếm quá nhiều).

Song song với việc hình thành các Phòng thí nghiệm là việc thành lập các Khoa, Viện, Trung Tâm mới và các Bộ môn độc lập (dự kiến là tiền thân của các Khoa sau này). Các ngành mới mở cần có sự ủng hộ từ bên ngoài để phát triển, do đó tôi đã liên lạc GS.TS. Bạch Hưng Khang (lúc đó là Viện trưởng Viện Công nghệ Thông tin thuộc Trung Tâm Khoa học và Công nghệ Quốc gia [TTKH&CNQG], nay là Viện Hàn Lâm Khoa học Việt Nam) xin một tiến sỹ về làm trưởng khoa Công nghệ Thông tin mới thành lập. Trong khi chờ đợi, GS.TS. Hồ Sỹ Thoảng, lúc đó là Viện trưởng Viện Hóa, giới thiệu tiến sỹ Nguyễn Công Vũ đang làm việc ở Đại học Khoa học Tự nhiên TP. Hồ Chí Minh về làm Trưởng Khoa. Tôi cũng đã liên lạc GS.TS. Phan Thị Tươi, lúc đó là Hiệu trưởng Đại học Bách Khoa TP. Hồ Chí Minh để có sự hỗ trợ cho ngành Công nghệ Thông tin. Cô Tươi rất ủng hộ chủ trương này và cho rằng công nghệ thông tin rất cần thiết để phục vụ phát triển nông nghiệp (như thực tế hiện nay đã minh chứng). Đối với ngành Công nghệ Sinh học, tôi đã liên lạc với Viện Công nghệ Sinh học [TTKH&CNQG] để có sự ủng hộ về chủ trương và chuyên môn. Thời đó GS.TS. Nông Văn Hải (Viện trưởng) và GS.TS. Quyền Đình Thi (Phó Viện trưởng) và nhiều cán bộ khác của Viện đã vào huấn luyện cho cán bộ nghiên cứu của Viện Công nghệ Sinh học và Công nghệ Môi trường. Mặt khác tôi cũng gởi cán bộ nghiên cứu sang học kỹ thuật phòng thí nghiệm ở bộ môn Công nghệ sinh học của Đại học Khoa học Tự nhiên TP. Hồ Chí Minh. Đối với ngành Cơ khí công nghệ, tôi và Ban Chủ nhiệm khoa Cơ khí Công nghệ chủ trương kết nối với (1) Hãng xe Mercedes (thời đó Cô Nguyễn Thị Hồng Ngọc, cựu sinh viên khóa 1 khoa Cơ khí Công nghệ, Trường đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh, là Phó Tổng Giám Đốc hãng xe Mercedes) và (2) Công ty SAMCO (có Thầy Cường, nguyên giảng viên khoa Cơ khí Công nghệ và Anh Hồng Anh, cựu sinh viên khóa 4 khoa Cơ khí Công nghệ, Trường đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh) giúp sinh viên ngành Công nghệ Ô tô đến thực tập.

Đối với ngành Công nghệ Giấy và Bột giấy qua sự giới thiệu của Cô Đào Thị Gọn (bộ môn Quản lý Đất đai) tôi đã mời Anh Vũ Tiến Hy (nguyên Giảng viên Đại học Bách Khoa Hà Nội, nguyên Phó Giám đốc Nhà máy giấy Việt Trì, nguyên Giám Đốc Nhà máy giấy COGIDO, Đồng Nai) về làm cố vấn phát triển chương trình đào tạo và xây dựng Phòng thí nghiệm.

Để nhanh chóng có giảng viên cho các ngành mới, trường đã tuyển các bạn trẻ vừa tốt nghiệp từ một số đại học phù hợp vào Trường đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh và đưa đi đào tạo nước ngoài các ngành Công nghệ Thông tin, Công nghệ Giấy và Bột giấy, Công nghệ Thực phẩm…. (chủ yếu học ở Viện Công nghệ Châu Á [Asian Institute of Technology], từ đó học viên ngành giấy còn được đi học thêm ở Phần Lan). Mặt khác trường đã mời các nhà nghiên cứu trình độ cao từ nhiều nguồn về trường tham gia đào tạo và nghiên cứu. Dựa vào quan hệ quốc tế (thời kỳ này Thầy Lưu Trọng Hiếu là Trưởng phòng Hợp tác Quốc tế), nhà trường đã cử nhiều Thầy Cô đi học ở nhiều nước.

Thời gian từ 2007 đến nay đã 13 năm, nhiều vấn đề liên quan đến giáo dục đại học đã thay đổi. Trong tình hình mới mang tính cạnh tranh cao, hy vọng toàn thể nhân lực Trường đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh sẽ tiếp tục đoàn kết để giúp Nhà trường phát triển, duy trì và ngày càng nâng cao sự tín nhiệm của xã hội đối với trường.

Nhân dịp kỷ niệm 65 năm ngày thành lập của Trường, tôi xin phép thay mặt tập thể Ban Giám hiệu thời kỳ 1998 – 2007 thân chúc toàn thể cán bộ công nhân viên, cựu sinh viên, sinh viên vui, khoẻ và thành công mọi việc. Chúc Trường đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh phát triển mạnh mẽ, ngày càng đáp ứng tốt hơn sự tin yêu của xã hội.

QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI VIỆT NAM
Nguyễn Đình Bông
giới thiệu thông tin
Hoàng Kim bảo tồn thông tin tư liệu học tập

Nhân dip kỷ niệm 71 năm ngay truyền thống Ngành Quản lý Đất đai (3.10.1945 -3.10 2016), Tổng Cục Quản Lý Đất Đai ngày 3 tháng 10 năm 2016 đã tổ chức tại Hà Nội Hội thảo góp ý kiến vào dự thảo 2, Sach Quản lý Đất đai Việt Nam nhìn lại để phát triển. Ông Lê Thanh Khuyến Tổng Cục Trưởng đã nhấn mạnh ý nghĩa lịch sử ngày truyền thống vẻ vang của Ngành và những việc quan trọng cấp bách của Ngành Quản lý Đất đai trong thời gian trước mắt. Thay mặt Ban Biên tập Ông Tôn Gia Huyên nguyên Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Quản lý Ruông đất và Tổng cục Địa chính đã giới thiệu tóm tắt nội dung cuốn sách và ông Đào Trung Chính Phó Tổng Cục trưởng đã chủ trì thảo luận góp ý kiến vào dự thảo 2 cuốn sách này. Ông Nguyễn Đình Bông ( Bong Nguyen Dinh) là cán bộ lão thành ở Bộ Tài nguyên và Môi trường giới thiệu một số hình ảnh và thông tin tóm tắt của Hội thảo và trich Video bài phát biểu của Ông Tôn Gia Huyên với Trần Duy Hùng4 người khác.3 tháng 10, 2016 Hoàng Kim thuộc chuyên ngành Khoa học Cây trồng, không thuộc chuyên ngành Khoa học Đất và Quản lý Đất đai nhưng tôi yêu thích tìm hiểu mối quan hệ Đất Nước Cây trồng Con người Kinh tế Xã hội nên xin phép tập hợp tư liệu để dễ tra cứu nhằm hiểu rõ hơn 100 năm nông nghiệp Việt Nam.·

3 Quản lý đất đai thời kỳ Pháp thuộc (1858-1945)

i) Áp dụng các chính sách bảo hộ sở hữu của địa chủ phong kiến, thực dân, duy trì chế độ công điền và chế độ sở hữu nhỏ ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ,

ii) Thiết lập hệ thống tổ chức quản lý đất đai 3 cấp trung ương, (Sở Địa chính) tỉnh (ty Địa chính), xã: Chưởng bạ (Bắc kỳ) Hương bộ (Nam Kỳ);

iii) Hoạt động quản lý đất đai trong đó, đo đạc địa chính được triển khai sớm với việc đo giải thửa, lập sổ địa chính, sổ điền bạ, sổ khai báo chuyển dịch đất đai và cập nhật biến động đất đai để phục vụ thu thuế. Áp dụng hệ thống đăng ký Torrens (Úc) nhằm xác lập được vị trí pháp lý của từng thửa đất và trở thành cơ sở để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người sở hữu nó và giao dịch thuận lợi trong thị trường có kiểm soát.

(xem Bảng tóm tắt và hình ảnh Tư liệu ST)
1. Dinh toan quyền Đông Duong – Sai Gon
2. Phủ toàn quyền Đông Dương – Ha Noi
3 Sở Tài chính Đông Dương ( gồm Nha công sản, trực thu , địa chính)
4, Bản đồ Hà Nội 1873
5. Sở Địa dư Đông Dương
6 Bản đồ Sài gòn 1923

4. Quản lý đất đai ở Việt Nam, giai đoạn 1955-1975

Ngày 7.5.1954 Chiến thắng Điện Biên Phủ, chấm dứt chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam; 20.7.1954 Hiệp định Gioneve về Đông Dương được ký kết. Việt Nam tạm chia làm 2 miền lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới; do Mỹ và chính quyền Sài Gòn không thi hành, từng bước mở rộng chiến tranh ở miền nam, và ném bom phá hoại miền Bắc; Việt Nam lại phải trải qua cuộc kháng chiến lần thứ 2 (1954-1975). Trong điều kiện chiến tranh, chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa giai đoạn này là phục vụ 2 nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, quản lý đất đai hướng trọng tâm vào phực vụ khôi phục kinh tế, cải tạo các thành phần kinh tế theo chủ nghĩa xã hội, xây dựng Hợp tác xã (quy mô thôn) và phát triển sản xuất nông nghiệp; Chiến thắng lịch sử trong chiến dịch Hồ Chí Minh, ngày 30.4.1975 đã kết thúc kháng chiến chống Mỹ, miền Nam được giải phóng, đất nước hòa bình, thống nhất, độc lập, tự do.

Trong giai đoạn này, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp quy về quản lý đất đai như Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa 1959; Điều lệ hợp tác xã Nông nghiệp (1969), Điều lệ Cải cách ruộng đất ngoại thành 1955; Nghị quyết của HĐCP về việc tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp kết hợp với hoàn thành cải cách dân chủ ở miền núi (1969); Nghị định số 70-CP ngày 9-12-1960 quy định nhiệm vụ tổ chức ngành Quản lý ruộng đất.; Nghị định số 71-CP ngày 9-12-1960 ấn định công tác quản lý ruộng đất; Nghị quyết số 125-CP của Hội đồng chính phủ ngày 28-6-1971 về việc tăng cường công tác quản lý ruộng đất, Pháp lênh về bảo vệ rừng 1972 . Hệ thống quản lý đất đai được hình thành ở 4 cấp (hình 1)

Ở vùng Giải phóng miền Nam Việt Nam Chính phủ Lâm thời Cách mạng Cộng hòa miền nam Việt Nam đã ban hành Chính sách ruộng đất (Nghị định 01/75 ngày 5.3.1975), Tại vùng tạm chiếm miền nam Việt Nam, chính quyền Sài Gòn đã tiến hành “Cải cách điền địa”, ” (1955-1956) và “Luật người cày có ruộng” (1970) phục vụ chính sách “bình định nông thôn

Một số hình ảnh tư liệu về giai đoạn lịch sử này. Chi tiết tại https://www.facebook.com/profile.php?id=100010660532514&tn=%2CdC-R-R&eid=ARA2lnseDlhAmePFsniuw77UHrqiHPM89itFU5fOrc-pQU94O-OHQ_AEXgzvtYust7Q-0zJobCFuBuEq&hc_ref=ARSAqPhYIGXnV0Zg1Y28jgq3_hyX3JWRiLwHmh2mGcl_uV2NtxjztqAYzSsM6RJkNZI&fref=nf
1. Chiến thắng Điện Biên Phủ 7.5.1954
2. Song Bến Hải, Cầu Hiền Lương Vĩ tuyến 17
3. Khôi phục tuyến đường sát Hà Nội Lao Cai 1955
4. Mít tinh mừng thàng công cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh Hà Nôi 1960
5. Sân kho HTX Mỹ Trì Thượng Hà Nội 1960
6. Hà nội thời chiến 1965
7. Hà Nội Điện Biên Phủ trên không 12.1972
8. Sài Gòn, Dinh Độc Lập 30.4.1975

5 Quản lý Đất đai Việt Nam 1976-1985

Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc l.ập- tự do, Tổng tuyển cử ngày 25.4.1976 đã bầu ra Quốc Hội chung của cả nước, Quốc hội đã quyết định đổi tên nước là CHXHCN Việt Nam . Đại hội Đảng lần thứ IV (1976) đã xác định đường lối xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn cách mạng mới ở nước ta là: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.”

Chính sách đất giai đoạn này tập trung vào các nội dung chủ yếu: i) Hoàn thiện hợp tác xã quy mô toàn xã, tổ chức nông nghiệp sản xuất lớn ; ii) Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp ở các tỉnh phía Nam; iii) Cải tiến quản lý hợp tác xã nông nghiệp, trong đó có cải tiến chế độ sử dụng đất đai.

Hiến pháp 1980 đã được Quốc hội khoá VI, kỳ họp thứ 7, thông qua ngày 18 /12/12 1980,. quy định:: “Đất đai… thuộc sở hữu toàn dân.” (Điều 19); “Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch chung, nhằm bảo đảm đất đai được sử dụng hợp lý và tiết kiệm.” (Điều 20). Theo NghỊ quyết số 548 NQ-QH ngay 24.5.1979 của UBTVQH, Hội đồng chính phủ đã ban hành Nghị Định số 44-CP ngày 9.11.1979 về thành lập Tổng cục Quản lý Ruộng đất trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng. Hệ thống tổ chức Ngành QLRĐ theo NĐ 44-CP (Hình 6)

Trong những năm 80, toàn ngành từ trung ương đến cơ sở đã thấu suốt nhiệm vụ, nhanh chóng tổ chức thực hiện toàn diện các mặt công tác theo Điều 19,20 của Hiến Pháp năm 1980 và Quyết định số 201-CP ngày 1-7-1980 của Hội đồng Chính phủ về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước và Chỉ thị số 299/TTg ngày 10-11-1980 của Thủ tướng Chính phủ về công tác đo đạc, phân hạng và đăng ký thống kê ruộng đất trong cả nước.

Một trong những thành tựu nổi bật của Ngành trong giai đoạn (1976-1985) là công tác điều tra cơ bản phục vụ phân vùng quy hoạch sản xuất nông nghiệp (Đo đạc lập bản đồ, xây dựng bản đồ thổ nhưỡng và phân hang đất , đăng ký thống kê đất đai ), tham gia xây dựng Bản đồ Thổ nhưỡng Việt Nam tỷ lệ 1/1000.000 .[1976] (Giải thưởng Hồ Chí Minh)

Một số hình ảnh tiêu biểu của Quản lý Đất đai Việt Nam 1975-1985 Chi tiết tại https://www.facebook.com/profile.php?id=100010660532514&tn=%2CdC-R-R&eid=ARA2lnseDlhAmePFsniuw77UHrqiHPM89itFU5fOrc-pQU94O-OHQ_AEXgzvtYust7Q-0zJobCFuBuEq&hc_ref=ARSAqPhYIGXnV0Zg1Y28jgq3_hyX3JWRiLwHmh2mGcl_uV2NtxjztqAYzSsM6RJkNZI&fref=nf

1. Giải thưởng Hồ Chí Minh
2. Các nhà Khoa hoc Đất (2006 ) nhiều người trong số đó đã có mặt từ ngày đầu thành lập Vụ QLRĐ ( tiền thân của TCQLRĐ)
3, Lãnh đạo TCQLRĐ thời kỳ (1979-1985)
4. Lãnh đạo TCQKRĐ tiếp chuyên gia Liên Xô
5. Kỷ niệm 25 năm thành lập Ngành
6 So đồ hệ thống tổ chức Ngành QLRĐ (1979-1985)

6. Quản lý đất đai Việt Nam, Tổng cục quản lý ruộng đất (1979-1993)

Theo NghỊ quyết số 548 NQ-QH ngay 24.5.1979 của UBTVQH, Hội đồng chính phủ đã ban hành Nghị Định số 44-CP ngày 9.11.1979 về thành lập Tổng cục Quản lý Ruộng đất trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng.

Tổng cục ra đời trong thời kỳ trước đổi mới (1986), trong lúc nền kinh tế nước ta còn chậm phát triển , cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn, lạc hậu. Cơ quan trung ương dóng trụ sở tại phường Phương mai, Quận Đống đa, Hà Nội , nguyên là trụ sở của Vụ Quản lý đất đai thuộc Bộ Nông nghiệp , tòa nhà chính là một biệt thự xây dựng từ thời pháp thuộc, sau cơi nới là nơi làm việc cho lãnh đạo Tổng cục và các vụ quản lý Nhà nước, Một tòa nhà 2 tầng được xây mới cho các đơn vị sự nghiệp (Trung tâm nghiên cứu tài nguyên đất, Công ti vật tư , và xí nghiệp in tổng cục ). Biên chế tổng cục khoảng hơn 100 người do Ông Tôn Gia Huyên làm Tổng cục trưởng và Ông Vũ Ngọc Tuyên làm Tổng cục phó, năm 1992 thêm PTCT Chu Văn Thỉnh . Ở các Địa phương thành lập Chi cục Quản lý Ruộng đất, sau là Ban Quản lý Ruộng đất (tách ra từ phòng quản lý ruộng đất thuộc Sở Nông nghiệp các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương).

Giai đoạn này thực hiện Quyết định số 201-CP ngày 1-7-1980 của Hội đồng Chính phủ về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước và Chỉ thị số 299/TTg ngày 10-11-1980 của Thủ tướng Chính phủ về công tác đo đạc, phân hạng và đăng ký thống kê ruộng đất trong cả nước. Tuy nhiên cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu (Đo đạc bản đồ giải thửa bằng thước toàn đạc [tầm ngắm 20m], bản đồ đo vẽ, nhân sao thủ công (in Ozalit), Phân hạng đất lúa nước trên cơ sở kết hợp các yếu tố chất lượng đất [địa hình tương đối, độ dầy tầng canh tác, chế độ tưới tiêu, pH Kcl, Đạm, Lân dễ tiêu) và năng suất lúa
Những thành tựu nổi bật của Quản lý đất đai Việt Nam trong giai đoạn này

Xây dựng cơ sở pháp lý quản lý đất đai theo Hiến pháp 1980, Quyết định số 201-CP ngày 1-7-1980 của Hội đồng Chính phủ về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước và Luật Đất đai 1987, Luật này được xây dựng công phu (vơi 70 lần dự thảo trước khi trình Quốc Hội thông qua ) và là sắc luật đầu tiện được Quốc Hội ban hành trong thời kỳ Đổi mới, đánh dâu sự trưởng thành của Quản lý Nhà nước về đất đai ở Việt Nam theo pháp luật

Hoàn thành công tác đo đạc, phân hạng và đăng ký thống kê ruộng đất trong cả nước theo Chỉ thị số 299/TTg ngày 10-11-1980 của Thủ tướng Chính phủ . trong đó đến năm 1986 hoàn thành phân hạng đất lúa nước cấp huyện, tại 223 huyện với 2.800.000 ha đất lúa

Hợp tác quốc tế: 3.1993 tại Hà Nội Chính phủ Việt Nam và Chính phủ West Australia đã ký hiệp định hợp tác Nghiên cứu khả thi hệ thống quản lý đất đai Việt Nam . Theo đó 30 chuyên gia West Australia đã sang Việt Nam và 30 cán bộ Việt Nam đã đến Perth Thủ đô West Australia nghiên cứu, chuyển giao kỹ thuật và xây dựng báo cáo khả thi xây dựng hệ thống quản lý đất đai hiện đại ở Việt Nam.

Một số hình ảnh hoạt động của TCQLĐĐ (1979- 1993) Chi tiết tại https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=1094009007631107&id=100010660532514

7. Quản lý đất đai Việt Nam, Tổng cục Địa chính (1994-2002)

Tổng cục Địa chính được thành lập theo Nghị Định số 12 -CP ngày ngày 22 tháng 2 năm 1994 và Nghị định số 34 ngày ngày 23 tháng 4 năm 1994 của Chính phủ trên cơ sở hợp nhất và tổ chức lại Tổng cục Quản lý ruộng đất và Cục Đo đạc Bản đồ Nhà nước. Khi mới thành lập (1994) lãnh đạo tổng cục có 4 người: TCT Tôn Gia Huyên, các phó Tổng cục trưởng Nguyễn Văn Sử, Chu Văn Thỉnh và Đặng Hùng Võ (1a,b,c) , Ông Bùi Xuân Sơn , UVTW Đảng được Trung ương điều động về làm TCT thay Ông Tôn Gia Huyên (nghỉ hưu 1966) [2]; sau đó TTCP đã bổ nhiệm PTC Nguyễn Đình Bồng (1998) và Triệu Văn Bé (1999) [3]. Bộ máy ngành Địa chính được thiết lập ở 4 cấp: Cơ quan Trung ương – TCĐC , Sở Địa chính được thành lập tại các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương, Phòng Địa chính được thành lập ở các huyện, thị thuộc tỉnh và cấp xã có Cán bộ Địa chính xã [12]

Tổng cục Địa chính ra đời trong thời kỳ Đổi mới, chính sách pháp luật đất đai được đổi mới phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; Đội ngũ cán bộ kỹ thuật và cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường , nhằm nâng cao năng lực hiệu quả quản lý đất đai đáp ứng yêu cầu chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam thời kỳ 1991-2010.

Thành tựu

Pháp chế: Thể chế hóa Hiến pháp 1992, Luật Đất đai 1993, Luật sửa đổi bổ sung một số Điều Luật Đất đai (1998, 2001). tiếp tục khẳng định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch, pháp luật, Nhà nước giao đất cho tổ chức, hộ gia đình cá nhân sử dụng dưới các hình thức: giao đất không thu tiền, giao đất có thu tiền và cho thuê đất, Nhà nước còn cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài và Người Việt nam định cư ở nước ngoài thuê đất . Người sử dụng đất có các quyền: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thùa kế, thế chấp quyền sử dụng đất

Đo đạc, lập bản đồ địa chính, hồ sơ địa chính: Bản đồ địa chính chính quy đã đo vẽ 6.639.117 ha; Bản đồ theo Chỉ thị 299/TTg 4.104.901 ha; Hệ thống hồ sơ địa chính đã được thiết lập ở 9000 xã, phường, thị trấn.

Đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) : Đến cuối năm 2002 đã có 92,7% số hộ gia đình và tổ chức được cấp GCNQSDĐ với 97,8% tổng diện tích đất nông nghiệp. 515.000 hộ gia đình, cá nhân và 7.358 tổ chức đã được cấp 628.900 GCNQSDĐ với 3.546.500 ha đạt 35% tổng diện tích đất lâm nghiệp; 35% tổng số hộ và khoảng 25% diện tích đất ở tại đô thị đã được câp 946.500 GCNQSDĐ với 14.600 ha

Quy hoạch sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai 1993 đã đi vào nề nếp. Quốc hội khoá IX , kỳ họp thứ 11 đã phê duyệt Kế hoạch sử dụng đất đai cả nước 5 năm giai đoạn 1996 – 2000, Quy hoạch sử dụng đất trở thành trở thành công cụ pháp lý quan trọng để thực hiện giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất (4a,b,c)

Về khoa học và hợp tác quốc tế: trong giai đoạn 1994-2002 :Tổng cục Địa chính đã triển khai19 chương trình dự án trong lĩnh vực đất đai với các nước, tổ chức quốc tế: UNDP, WB, ADB, trong đó có Chương trình hợp tác Việt Nam Thụy Điển về đổi mới hệ thống Địa Chính – CPLAR (1997-2000) “ với mục tiêu nâng cao năng lực của ngành Địa chính Việt Nam trong quản lý và sử dụng đất. Ngành Địa chính Việt Nam đã có bước tiến lớn theo hướng quản lý đất đai chính quy, hiện đại (5-11)

Một số hình ảnh hoạt động của TCQLĐĐ (1994- 2002) Chi tiết tại https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=1098308217201186&id=100010660532514

8. Bộ Tài nguyên và Môi trường Tổng cục Quản lý đất đai (từ 2002 đến nay )

Bộ Tài nguyên và Môi trường được thành lập theo Nghị quyết số 02/2002/QH11 và Nghị Định số 91/2002/NĐ-CP ngày ngày 11 tháng 11 2002 của Chính phủ trên cơ sở hợp nhất Tổng cục Địa chính , tổng cục Khí tượng Thủy văn và các các tổ chức thực hiện chức năng quản lý nhà nước về về tài nguyên nước (thuộc Bộ NNPTNT), tài nguyên khoáng sản (thuộc Bộ Công nghiệp) và Môi trường (thuộc Bộ KHCNMT) . Ông Mai Ái Trực UVTWĐ được bổ nhiệm làm Bộ trưởng đầu tiên của Bộ này Tổng cục Quản lý đất đai được thành lập theo Nghị Định số 25/2008/NĐ-CP của Chính phủ và Quyết định số 134/2008/QĐ-TTg ngày 2 tháng 10 năm 2008 và Quyết định số 21/2014/QĐ-TTg ngày 13 tháng 3 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của Tổng cục Quản lý đất đai trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường. Tổ chức Bộ máy của Ngành quản lý đất đai (2); Lãnh đạo Tổng cục QLDĐ trưc thuộc Bộ TNMT qua các thời kỳ cùng 2 PTCT trẻ mới được bổ nhiệm : Chu An Trường và Đoàn Thanh Mỹ (2020) [3] Đội ngũ can bộ gòm 30.000 người (Trrung ương 756, cấp tỉnh 6000, cấp huyện 12.000, công chức, viên chức; cấp xã 11.250 cán bộ Địa chính xã ).

Thành tựu

Pháp chế: Thể chế hóa Hiến pháp 1992, 2013, Luật Đất đai 2003, Luật Đất đai 2013 . tiếp tục khẳng định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo pháp luật, Nhà nước giao đất cho tổ chức, hộ gia đình cá nhân sử dụng dưới các hình thức: giao đất không thu tiền, giao đất có thu tiền và cho thuê đất, Nhà nước còn cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài và Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuê đất. Người sử dụng đất có các quyền: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thùa kế, thế chấp , góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Chính sách pháp luật đất đai tiếp tực đổi mới, hoàn thiện phù hợp với thể chế kinh tế thị trường trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới đã phát huy nguồn lực đất đai đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. Quản lý đất đai ở Việt Nam đã phát triển đồng bộ cả về 4 công cụ: pháp lý, quy hoạch, kinh tế, hành chính với phương châm công khai, minh bạch. thông thoáng và tuân thủ pháp luật

Công tác điều tra cơ bản về đất đai: trong giai đoạn từ 2008-2018 đã được đẩy mạnh với các dự án điều tra đánh giá tài nguyên đất, môi trường đất, thoái hóa đất ở các vùng tự nhiên và các vùng trọng điểm kinh tế trên địa bàn cả nước. Việc kiểm kê đất đai (5 năm), thống kê đất đai (hàng năm) và kiểm kê chất lượng đất đai định kỳ đã đi vào nề nếp đáp ứng yêu cầu quản lý sử dụng bền vững tài nguyên đất đai, ứng phó với biến đổi khí hậu

Quy hoạch sử dụng đất: Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011 – 2015) cấp quốc gia được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 17/2011/QH13 ngày 22 tháng 11 năm 2011 và được điều chỉnh tại Nghị quyết số 134/2016/QH13 ngày 09 tháng 04 năm 2016 của Quốc hội khóa XIII. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã tổ chức xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và đồng thời phê duyệt điều chỉnh cho 58/63 tỉnh thành phố, trực thuộc Trung ương.

Đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) : Đến 31/12/2016 cả nước đã đo đạc lập bản đồ địa chính 25. triệu ha cho các loại tỷ lệ từ 1/200 đến 1/10.00,. đạt trên 76% tổng diện tích tự nhiên và đã cơ bản hoàn thành mục tiêu cấp giấy chứng nhận (GCN) theo Nghị quyết số 30/2012/QH13 ngày 21 tháng 6 năm 2012 của Quốc hội, tỷ lệ cấp GCN đạt trên 95,2% tổng diện tích các loại đất cần cấp (42 triệu GCN, với 23.triệu ha.),

Về khoa học và hợp tác quốc tế: trong giai đoạn từ 2002 đến nay, Bộ tài nguyên và Môi trường, Tổng cục Quản lý Đất đai đã triển khai nhiều chương trình dự án trong lĩnh vực đất đai với các nước, tổ chức quốc tế: UNDP, WB, ADB, trong đó có Chương trình hợp tác Việt Nam Thụy Điển về tăng cường năng lực quản lý đất đai và môi trường (SEMLA- 2004-2009), Dự án hoàn thiện và hiện đại hóa hệ thống quản lý đất đai ở Việt Nam VLAP- giai đoạn 1 (2010-2015)

Một số hình ảnh hoạt động của TCQLĐĐ (2002-2020) Chi tiết tại https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=1102988610066480&id=100010660532514

9. Đào tạo can bộ Quản lý đất đai

Thời kỳ 1955-1979: Khi ngành Quản lý đất đai là đơn vị cấp vụ thuộc Bộ Tài Chính, sau là Bộ Nông nghiệp: hệ thống quản lý ruộng đất ở nước ta chưa hoàn chỉnh: Trung ương là cấp Vụ, Tỉnh là cấp Phòng thuộc sở Nông nghiệp, Huyện là bộ phận trong phòng Nông nghiệp; xã có Cán bộ địa chính (trước đó gọi là Chưởng Bạ). Ví dụ tỉnh Yên Bái khi đó , cả tỉnh có 1 kỹ sư Thổ nhưỡng, cán bộ phòng và bộ phận cấp huyện là cán bộ Trung cấp (Trường Bỉm Sơn, Thanh Hóa) .

Thời kỳ 1979-1994: Tổng cục quản lý ruộng đất. Khi đó lãnh đạo và chuyên viên Vụ bản đồ là các Kỹ sư tốt nghiệp ở Liên Xô, Bungari. Ở cấp tỉnh và huyện là các cán bộ tốt nghiệp từ Đại học Nông nghiệp I Hà Nội và trung cấp Bỉm Sơn Thanh Hóa (miền Bắc ); Nông lâm thủ Đức Thành phố Hồ Chí Minh, Nông nghiệp Cần Thơ; Trung cấp Long Thành Đồng Nai (Miền Nam), cấp xã cán bộ địa chính: trung cấp (Bỉm Sơn, Long Thành)

Thời kỳ 1994-2002: Tổng cục Địa chính được thành lập. Lúc này lãnh đạo Tổng cục phần lớn có học vị Tiến Sỹ , một số được đào tạo trong nước, một số đào tạo ở Nga, Ba Lan, Bungari , Ở cấp tỉnh, cấp huyện cán bộ có trình độ Cử nhân, Kỹ sư, Thạc sỹ, được đào tạo ở các trường trong nước. Thời kỳ nầy nhiều trường mở Khoa Địa chính hoặc Quản lý đất đai: (Đào tạo Đại học, Sau đại hoc) Nông nghiệp Hà Nội, Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, Nông nghiệp Cần Thơ; Khoa học tự nhiên, Kinh tế quốc dân , Mỏ Địa chất
Thời kỳ 2002 đến nay: Từ khi Bộ Tài nguyên và Môi trường được thành lập, nhiều trường mở Khoa Quản lý đất đai, hoặc Tài nguyên Môi trường (Đào tạo Đại học, Sau đại hoc) Nông nghiệp Hà Nội, Khoa học tự nhiên, Kinh tế quốc dân, Nông Lâm Thái Nguyên , Nông Lâm Bắc Giang, Lâm nghiệp, Nông Lâm Huế, Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, Nông nghiệp Cần Thơ; sau đó là Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh …Một số trường Đại học Kiến trúc Hà Nội và Đại học Kiến trúc TP Hồ Chí Minh cũng đưa môn học Quản lý Đất đai và bất động sản vào Khoa Quản lý đô thị. Thời kỳ này các trường đã thống nhất xây dựng chương trình, kế hoạch đào tào cán bộ chuyên ngành quản lý đất đai. Số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý đất đai đã có bước phát triển lớn: Ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện trình độ Thạc sỹ phổ cập, một số có trình độ Tiến sỹ, ở cấp xã phường trình độ Cử nhân, Kỹ sư , một số có trình độ Thạc sỹ. Công tác đào tạo cán bộ không ngừng phát triển đã đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ Quản lý Đất đaitrong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH.

Có thể thấy rõ điều này từ kết quả đào tạo cán bộ của Khoa Quản lý Đất đai Học viện Nông nghiệp Việt Nam (1976-2016) như sau: Đào tạo Đại học (1982-1991- Khóa 22-31): Quản lý Đất đai: 269,Thổ nhưỡng – Nông hóa : 199; (1992-2001-Khóa 32-41) Quản lý Đất đai: 866, Thổ nhưỡng – Nông hóa: 156; ( 2002-2011- Khóa 42-51): Quản lý Đất đai 1463, Thổ nhưỡng – Nông hóa 256; (2012-2016 – Khóa 52-57) Quản lý đất đai : 2448, Khoa học đất: 464. Đào tạo Thạc sỹ (1976-2016) Quản lý Đất đai: 2.132 ; Khoa học Đất: 250. Đào tạo Tiến sỹ (1976-2016) Quản lý Đất đai: 35 , Khoa học Đất: 36
GSTS NGND Lê Duy Thước người đặt nền móng thành lập Khoa quản lý ruộng đất , đại học Nông nghiệp I (1976). Ban chủ nhiệm khoa quản lý ruộng đất khóa đầu (1976-1988): GSTS NGUT Cao Liêm (Trưởng khoa); PGSTS NGUT Nguyễn Thanh Tùng, GVC; TS NGUT Nguyễn Đường, PGSTS NGUT Phan Xuân Vận (Phó trưởng khoa) (ảnh 1,2). Nhiều Nhà Khoa học Đất đã có những đóng góp lớn cho sự nghiệp đào tạo cán bộ Quản lý Đất đai, đặc biệt các bậc tiền bối có mặt từ khi thành lập Đại học Nông Lâm (1956-1958): Thầy Phạm Gia Tu (tham tá canh nông thời Pháp), Nguyễn Văn Chiển, Cao Liêm (Địa chất); Lê Văn Căn (Nông hóa); Trần Khải (Vi sinh vật đất). Thời kỳ Học viện Nông Lâm (1959-1963) là các thầy: Vũ Ngọc Tuyên, Ngô Nhật Tiến Nguyễn Văn Thọ (từ Viện Khảo cứu trồng trọt về ), các thầy Trần Khải và Nguyễn Mười từ Trung Quốc về, Thầy Đỗ Ánh, Nguyễn Vi từ Liên Xô về cùng các thầy Võ Minh Kha, Nguyễn Thanh Trung (Khóa 1) , Hà Huy Khuê (Khóa 4) . Thời kỳ Đại học Nông nghiệp (1963-1967) có thêm các thầy: Đặng Đình Mỹ, Trương Công Tín, Nguyễn Đường, Vũ Hữu Yêm, Phan Thị Lãng, Nguyễn Phương Diệp…(ảnh 3,4) [Nguồn: Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Khoa Quản lý Đất đai, Kỷ yếu 40 năm xây dựng và phát triển]

Một sô hình ảnh về đào tạo cán bộ Quản lý Đất đai của các trường (5-18) Chi tiết tại https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=1108398939525447&id=100010660532514

Đề xuất về tái cơ cấu ngành lúa gạo đồng bằng sông Cửu Long để phát triển bền vững

PGS.TS.Bùi Bá Bổng, Chuyên gia cao cấp FAO-Việt Nam về An ninh Lương thực; Nguyên Thứ trưởng Bộ NNPTNT; Nguyên Chuyên gia cao cấp FAO về lúa gạo

1. Sự thay đổi về vai trò của lúa gạo ở Việt Nam tác động đến sản xuất lúa gạo vùng đồng bằng sông Cửu Long

Trước đây từ chỗ thiếu lương thực, Việt Nam vươn lên là nước xuất khẩu gạo từ đó tạo đà cho sự gia tăng vượt bậc trong sản xuất lúa gạo để vừa đảm bảo an ninh lương thực quốc gia vừa có khối lượng dư thừa lớn để xuất khẩu, cao nhất có năm đã đạt đến 8 triệu tấn gạo, còn phần lớn đạt từ 5-7 triệu tấn/năm. Thành tựu to lớn của hai mục tiêu song song đảm bảo ANLT quốc gia và xuất khẩu gạo đều do sự đóng góp chủ yếu từ vùng ĐBSCL nơi làm ra trên 50% sản lượng lúa và 90% lượng gạo xuất khẩu của cả nước.

Hiện nay và xu hướng trong tương lai, vai trò lúa gạo ở Việt Nam đang có những thay đổi do (i) ANLT dựa trên lúa gạo không còn tuyệt đối như trước nhưng mang ý nghĩa rộng hơn về an ninh dinh dưỡng, tức cần sự gia tăng các nguồn thực phẩm khác giàu protein, vitamin và các vi chất trong cơ cấu bữa ăn, trong khi tiêu thụ gạo trên đầu người giảm (ii) sự sụt giảm giá gạo trên thị trường thế giới từ năm 2012 đến nay làm cho xuất khẩu gạo gặp khó khăn do hiệu quả thấp và giá gạo thấp dự báo còn kéo dài và (iii) thu nhập từ sản xuất lúa thấp hơn nhiều ngành sản xuất nông nghiệp khác.

Tuy nhiên, nếu so với nhiều nước thì mức tiêu thụ gạo bình quân trên đầu người ở Việt Nam còn cao, hiện nay khoảng 130 kg/năm và đến năm 2030 vẫn còn đến 120 kg/năm và đóng góp của gạo trong năng lượng calori của bữa ăn còn ở mức cao, khoảng 50%. Mức thu thập bình quân trên đầu người và mức tiêu thụ gạo được biết là tương quan với nhau. Vì vậy vai trò của lúa gạo tuy có giảm đi nhưng vẫn còn quan trọng đối với cả nước và đặc biệt với ĐBSCL là vùng sản xuất lúa trọng điểm.

1.1. Đối với vai trò đảm bảo ANLT, ĐBSCL sẽ không phải gánh vác toàn bộ như trước đây cho cả nước và có điều kiện chuyển một phần sản xuất lúa sang các mục tiêu khác đạt hiệu quả kinh tế cao hơn. Nhưng nếu sản xuất lúa ở ĐBSCL chỉ vừa đủ cho nội tiêu của vùng cộng với TP. Hồ Chi Minh và Đông Nam Bộ thì có nguy cơ thiếu gạo trên phạm vi cả nước trong trường hợp thiên tai, dịch bệnh hại lúa xảy ra trên diện rộng vì hiện nay sản xuất lúa ở các vùng khác chỉ đủ để tự túc. Xu hướng xảy ra thiên tai, dịch bệnh ngày càng tăng do BĐKH. Vì vậy, nhà nước vẫn phải có chính sách đặc biệt để ĐBSCL có khả năng làm nhiệm vụ là van dự trữ an toàn về ANLT cả nước trong mọi tình huống. Theo kinh nghiệm của các nước sản xuất lúa mà điển hình nhất là Indonesia và Philippines, do có các chính sách không phù hợp trước đây, đã tuột dốc từ nước tự túc được gạo trở thành nước nhập khẩu gạo lớn trong nhiều năm qua mà chính phủ họ đã đầu tư hằng tỷ USD để khôi phục sản xuất lúa nhằm không phải nhập khẩu gạo nhưng đến nay vẫn chưa thành công. Nhiều nước trong vùng châu Á Thái Bình Dương cũng lâm vào tình trạng tương tự như Bhutan và Fiji.  Kinh nghiệm ở đây cho thấy, để cho sản xuất lúa tuột dốc rất dễ, thậm chí từ nước xuất gạo trở thành nhập khẩu gạo, nhưng ngược lại để khôi phục lại sản xuất lúa lại rất khó.

1.2. Đối với xuất khẩu gạo, do không còn yêu cầu đặt mục tiêu tăng sản lượng lúa để đẩy mạnh xuất khẩu mà xuất khẩu gạo chuyển từ chỉ tiêu số lượng sang chất lượng, lấy hiệu quả làm mục tiêu và chuyển mạnh mẽ xuất khẩu gạo theo cơ chế thị trường, do doanh nghiệp và nông dân quyết định. Nhà nước không can thiệp hành chính đối với xuất khẩu gạo nhưng chuyển sang các chính sách tạo kiến tạo để xuất khẩu đem lại lợi ích trước tiên cho cả doanh nghiệp và nông dân tức cũng là lợi ích quốc gia. Tất nhiên là một nước nông nghiệp, nếu khai thác lợi thế so sánh để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản, thu ngoại tệ cho đất nước, đó là điều tốt đẹp, nhưng nếu xuất khẩu không có lợi thì không nên đeo đuổi.

2. Tái cơ cấu quy mô sản xuất lúa ở ĐBSCL

2.1. Từ cách nhìn về vai trò lúa gạo vùng ĐBSCL như trên, câu hỏi đặt ra là nên duy trì diện tích đất lúa bao nhiêu ở ĐBSCL từ diện tích đất lúa hiện nay là 1,85 triệu ha? Theo tính toán của Bộ NN&PTNT để đảm bảo ANTL đến năm 2030 diện tích đất lúa cả nước tối thiểu cần giữ là 3,2 triệu ha với diện tích gieo trồng 6 triệu ha và năng suất bình quân khoảng 6 tấn/ha. Tính toán này phù hợp với cách tính của Ngân hàng thế giới. 

Nếu diện tích đất lúa cả nước tối thiểu 3,2 triệu ha thì đất lúa ở ĐBSCL cần duy trì tối thiểu ở mức 1,5 triệu ha, tức có thể chuyển sang mục đích khác 350.000 ha, gồm chuyển cho phi nông nghiệp (xây dựng cơ sở hạ tầng công ích) hoặc cho sản xuất chuyên canh thủy sản, cây ăn trái, cơ sở chăn nuôi, v.v. Việc chuyển đất lúa vĩnh viễn này sẽ do Thủ tướng Chính phủ quyết định cấp phê duyệt để tránh chuyển đổi tự phát, gây thiệt hại cho nhà nước và nhân dân.

Theo phương án giữ đất lúa ở mức tối thiểu cho ANLT, xuất khẩu gạo sẽ giảm dần và đến năm 2030 hầu như không còn xuất khẩu gạo hoặc không đáng kể. Trường hợp xuất hiện những yếu tố xuất khẩu gạo đem lại lợi ích thì nếu giữ đất lúa ở khoảng 3,5 triệu ha Việt Nam sẽ khả năng xuất khẩu gạo đạt 4-5 triệu tấn/năm.

2.2. Trên diện tích đất lúa được giữ lại nên sử dụng thế nào để đạt hiệu quả cao, bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường và được nông dân ủng hộ?

– Xác định vùng chuyên canh lúa trọng điểm ở ĐBSCL, đây là vùng sản xuất thuận lợi, đảm bảo 2 vụ lúa năng suất cao. Theo đánh giá của Bộ NN&PTNT và Ngân hàng thế giới, vùng chuyên canh này nằm ở 30 huyện thuộc 8 tỉnh ĐBSCL là An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang, Hậu Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, Tiền Giang và Long An, đây được xem như vựa lúa của đồng bằng và cũng là cả nước, vì hiện nay sản lượng lúa của các huyện này chiếm 50% tổng sản lượng lúa của ĐBSCL và đóng góp 75% tổng sản lượng gạo xuất khẩu của cả nước. Đối với vùng này nhà nước cần đầu tư thích đáng để hoàn thiện đồng bộ cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, sau thu hoạch, chế biến, thương mại, đạt cơ giới hoá 100%, đạt sản xuất theo phương thức tập thể, liên kết, liên doanh 100%, áp dụng các công nghệ tiên tiến, công nghệ cao trong chuỗi giá trị. Vùng này ngoài hai vụ lúa là chính, tùy theo tình hình cụ thể có thể sản xuất thêm một vụ cây trồng ngắn ngày (2 lúa luân canh rau màu, đậu) hoặc lúa vụ ba (ba vụ lúa/năm). Cơ cấu 2 vụ lúa luân canh cây ngắn ngày nên được khuyến khích, cơ cấu ba vụ lúa chỉ nên làm ở những nơi ăn chắc và khi nào lúa có giá tốt, và luân phiên cắt vụ ba để lấy phù sa. Diện tích đất lúa vùng chuyên canh trọng điểm nên được giữ ổn định khoảng 800.000 ha. Vùng này chủ yếu chuyên trồng giống lúa thơm cao sản và lúa chất lượng cao.

– Xác định vùng sản xuất lúa thơm đặc sản, lúa hữu cơ dựa vào điều kiện thích ứng BĐKH và điều kiện sinh thái tự nhiên. Đây là vùng luân canh tôm – lúa ở các tỉnh ven biển và vùng lúa mùa một vụ ở bán đảo Cà Mau. Đối với vùng này nhà nước cần đầu tư hoàn thiện hệ thống thủy lợi phục vụ cho cơ cấu luân canh tôm – lúa (nếu có hệ thống thuỷ lợi tốt có thể tăng thêm 100.000 ha luân canh tôm – lúa và củng cố diện tích tôm – lúa hiện có khoảng 150.000 ha). Ngoài hệ thống thuỷ lợi nhà nước hỗ trợ tuyển chọn giống lúa đặc sản và có chính sách khuyến khích sản xuất lúa hữu cơ. Sản phẩm gạo ở vùng này có thể đi vào phân khúc thị trường gạo đặc sản có giá cao nhất trên thị trường thế giới hiện nay. Diện tích vùng này sau khi ổn định khoảng 500.000 ha

– Vùng còn lại sản xuất lúa linh hoạt luân canh một vụ lúa với cây trồng cạn hoặc chuyển sang trồng chuyên cây trồng cạn ngắn ngày (rau, đậu, màu, hoa, cỏ phục vụ chăn nuôi…) khi cần thiết có thể chuyển sang trồng lúa. Diện tích vùng này sau khi ổn định khoảng 200.000 ha.

3. Nâng cao hiệu quả sản xuất lúa ở ĐBSCL từ gỡ các nút thắt

3.1. Tích tụ ruộng đất dù khi đã nới rộng hạn điền hoặc bỏ hạn điền vẫn theo các hướng chủ yếu sau:

– Tích tụ thông qua hợp tác, liên kết nông hộ dù là nông hộ nhỏ hiện nay hoặc nông hộ có quy hô lớn hơn từ kết quả của nới rộng hoặc bãi bỏ hạn điền.

– Tích tụ thông qua liên minh nông hộ – doanh nghiệp (liên minh cụm nông – công nghiệp).

Khả năng khi nới rộng hoặc bãi bỏ hạn điền, kinh nghiệm ở các nước châu Á cho thấy, sẽ không dẫn đến sự hình thành đại điền như ở các châu lục khác. Ví dụ ở Mỹ, bình quân một trang trại trồng lúa là 160 ha, ở Úc còn lớn hơn, nhưng ở các nước châu Á, bình quân hộ trồng lúa từ 1-3 ha. Tích tụ ruộng đất ở ĐBSCL sẽ dẫn đất tăng quy mô ruộng đất/nông hộ, xuất hiện các trang trại trung nông nhưng tỷ lệ các trang trại đại điền sẽ không nhiều. Vì vậy chủ trương hỗ trợ của nhà nước để tổ chức sản xuất nông hộ là có ý nghĩa rất lớn hiện nay cũng như trong tương lai khi luật đất đai có những thay đổi về hạn điền.

3.2. Nâng cao năng lực sau thu hoạch

Một trong những mặt thua thiệt về chất lượng gạo ở ĐBSCL là thu hoạch vụ Hè Thu nhằm vào thời kỳ mưa nhiều, khác với nhiều nước mùa thu hoạch chính của họ do trồng lúa một vụ nên vào tháng 11-12 là thời kỳ khô ráo. Trong tương lai vụ Hè Thu là vụ ít bị ảnh hưởng BĐKH trong khi vụ Đông Xuân bị tác động nhiều hơn, nhưng sản xuất vụ Hè Thu cần khắc phục mặt hạn chế về thu hoạch và sau thu hoạch, tức cần tăng cường năng lực sấy lúa và tồn trữ lúa theo các quy trình công nghệ tiên tiến để đảm bảo chất lượng của gạo trong vụ Hè Thu, đồng thời chống thất thoát sau thu hoạch.

3. 3. Thương hiệu gạo

Thời gian quan có nhiều bàn cãi xung quanh việc xây dựng thương hiệu cho gạo xuất khẩu, cách tiếp cận hiện nay được hiểu là muốn chụp từ ngọn đến gốc tức muốn xây dựng thương hiệu gạo quốc gia đồng thời với thương hiệu doanh nghiệp, thương hiệu địa phương. Cách tiếp cận này sẽ không bao giờ làm được, vì vậy nên làm ngược lại, tức nhà nước khuyến khích hỗ trợ cho các doanh nghiệp xây dựng thương hiệu cho gạo của mình để xuất khẩu (một số doanh nghiệp như doanh nghiệp Cỏ May ở Đồng Tháp đã làm như vậy). Sự phát triển của thương nghiệp doanh nhiệp sẽ làm ló dạng thương hiệu quốc gia khi loại gạo đó có khối lượng xuất khẩu lớn (ví dụ gạo Jasmine Việt Nam hiện nay) và nhà nước sẽ quản lý về tiêu chuẩn chất lượng loại gạo xuất khẩu đó và cấp chứng nhận gạo quốc gia như cách làm của Thái Lan và Ấn Độ (chứ không có thương hiệu gạo quốc gia như mình nghĩ) còn thương hiệu vẫn là thương hiệu doanh nghiệp.

Từ cách tiếp cận trên, nhà nước trước tiên nên hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu gạo có thương hiệu rồi sau đó tính đến chứng nhận gạo quốc gia khi đã có nhiều doanh nhiệp xuất khẩu gạo có thương hiệu.

Về khả năng xây dựng thương hiệu trên giống lúa thơm Jasmine 85, có ý kiến cho rằng sử dụng giống Jasmine 85 sẽ vi phạm bản quyền của Mỹ hoặc Thái Lan (giống Jasmine 85 đang được trồng và xuất khẩu ở Mỹ). Theo tôi không sợ điều này vì nguồn gốc giống Jasmine 85 là do IRRI lai tạo và được du nhập về Mỹ và Việt Nam ở cùng thời điểm.

Vừa rồi tôi có đi công tác ở Fiji, một quần đảo ở Thái Bình Dương cho FAO, khi vào các siêu thị để tìm gạo Việt Nam thì thấy gạo Việt Nam đã được đóng gói dưới tên thương hiệu của công ty Úc, nhưng có thể do quy định nghiêm túc của Úc, mặt sau của bịch gạo vẫn có in dòng chữ “Gạo được sản xuất tại Việt Nam), dòng chữ này in rất nhỏ, khó nhận ra. Điều này cho thấy gạo Việt Nam xuất khẩu không thương hiệu nhưng đến nhà nhập khẩu đều được đóng gói lại và gắn thương hiệu của họ, đây là một điều thiệt thòi cho đất nước. 

3.4. Về giống lúa xuất khẩu có giá trị cao

Hiện nay chúng ta có một cách hiểu chưa chính xác, vì sao Thái Lan, Campuchia có những giống lúa xuất khẩu đạt tới 1.000 USD nhưng Việt Nam không có. Xin thưa các giống lúa này là các giống lúa cổ truyền do ông cha họ để lại, mỗi năm chỉ trồng một vụ ở một số vùng nhất định và cho năng suất khoảng trên dưới 2 tấn/ha. Thái Lan hoặc Campuchia họ trồng lúa nước trời, không có thủy lợi nên duy trì các giống cổ truyền này. Ở Việt Nam, không thể trồng giống lúa năng suất thấp mỗi năm một vụ trên diện rộng vì như vậy sẽ không sản xuất đủ gạo và phải nhập khẩu nói gì đến xuất khẩu. Tuy nhiên như đã nêu trên, nếu khai thác lợi thế vùng tôm – lúa và vùng lúa mùa ở ĐBSCL để sản xuất lúa đặc sản sinh thái, lúa hữu cơ thì có khả năng đạt giá trị cao như giống cổ truyền của Thái Lan hoặc Campuchia.

Điều cần học từ Thái Lan và Campuchia là chuỗi giá trị gạo của các giống lúa đem lại giá trị cao này họ làm rất tốt nên tạo được uy tín trên thị trường thế giới.

3.5. Nông dân trồng lúa chuyên canh có thể đa dạng thu nhập?

Nông dân trồng lúa ở ĐBSCL vẫn có thể đa dạng thu nhập chứ không chỉ dựa vào lúa. Cơ hội là có vì hiện nay trong một vụ lúa 100 ngày, do ứng dụng cơ giới hoá, số ngày thực sự cho 01 lao động phục vụ cho 1 ha lúa không nhiều hơn 20 ngày, vì vậy còn nhiều thời gian nông nhàn, nhất là khi cả hai lao động chính là chồng và vợ chỉ lo cho dưới 1 ha. Vì vậy, nhà nước cần có chương trình chuyển dịch lao động ra khỏi sản xuất lúa (có thể chuyển dịch một nửa số lao động hiện nay đến 2/3 trong tương lai) đồng thời phát huy ngành nghề phụ như các loại nghề tiểu thủ công, sửa chữa nông cụ v.v. tại địa phương để nông dân trồng lúa có thể tham gia trong thời gian nông nhàn. Ở khía cạnh này, tính bền vững của sản xuất lúa gắn liền rất chặt với xây dựng nông thôn mới cũng như sự phát triển kinh tế để thu hút lao động ra khỏi nông nghiệp.

3.6. Khai thác các giá trị mới của sản xuất lúa

Với sự tiến bộ của khoa học công nghệ, ngày nay ngoài sản phẩm truyền thống của lúa là gạo và cám, phụ phẩm truyền thống là rơm rạ và trấu, nhà nước có thể khuyến khích để các doanh nhiệp đầu tư chế biến sâu sản phẩm truyền thống thành các sản phẩm cao cấp hoặc chế biến phụ phẩm thành sản phẩm nguyên liệu tái tạo hoặc phân bón hữu cơ, v.v. để tăng giá trị tăng thêm từ sản xuất lúa.

4. Một số đổi thay chính sách

4.1. Vì vai trò sản xuất lúa gạo ở ĐBSCL vẫn còn quan trọng đối với ANLT quốc gia nên nhà nước cần ưu tiên đầu tư để hỗ trợ cho sản xuất lúa của vùng, cho địa phương và nông dân trồng lúa. Hình thức hỗ trợ của Việt Nam không nên theo các nước như trợ cấp vật tư nhất là phân bón cho nông dân hoặc thu mua lúa giá cao hơn thị trường, v.v. nhưng Việt Nam nên phát huy hướng hỗ trợ thông qua đầu tư cơ sở hạ tầng, đầu tư nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, hỗ trợ tín dụng, bảo hiểm sản xuất, hỗ trợ xây dựng thương hiệu, phát triển thị trường v.v.

So với mức đầu tư của các nước cho ngành lúa gạo thì đầu tư của Việt Nam còn rất thấp. Ví dụ chi phí trợ giá cho nông dân thời kỳ chính phủ Yingluck ở Thái Lan lên đến hàng chục tỉ USD. Năm nay Chính phủ Thái Lan dành 1 tỷ USD hỗ trợ vốn cho nông dân để dự trữ lúa trong vòng 6 tháng.

4.2. Xây dựng cơ chế thị trường hoàn chỉnh cho xuất khẩu gạo

– Gỡ bỏ những rào cản hành chính đặt ra cho doanh nghiệp xuất khẩu.

– Cổ phần hoá triệt để các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh xuất khẩu gạo; tạo bình đẳng mọi doanh nghiệp lớn, vừa hoặc nhỏ tham gia xuất khẩu gạo.

– Thay vì trợ cấp doanh nghiệp thu mua dự trữ lúa giúp tiêu thụ lúa cho nông dân nên tạo điều kiện nâng cao hạ tầng dự trữ lúa ở khu vực sản xuất như hợp tác xã, nông hộ lớn; nhà nước chỉ dự trữ gạo cho ANLT.

4.3. Nhà nước có chính sách mạnh mẽ để kiểm soát sử dụng vật tư cho sản xuất lúa, đặc biệt là phân bón hóa học và thuốc BVTV, hỗ trợ thúc đẩy áp dụng các quy trình sản xuất thực hành tốt (GAP), như quy trình 1 phải – 5 giảm An Giang đang làm, để đảm bảo 100% sản phẩm gạo dù xuất khẩu hay tiêu dùng nội địa đều an toàn. Có chính sách hỗ trợ sản xuất lúa sinh thái hoặc lúa hữu cơ. Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong ngành lúa gạo và các địa phương phát triển các vùng sản xuất lúa tập trung ứng dụng công nghệ cao.

Ban Mai Kênh Thị Nghè
CON GẶP THẦY CỦA BỐ !

Ngắm dấu chân thời gian
Thầy bạn lành một thuở
Đời Người Là Gương Soi
Thơ Hiền vui gõ cửa

Bến Nghé sáng Tên Người
Sông Bình Trị Bà Nghè
Gia Định Thành Thông Chí
Việt Nam Con Đường Xanh
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ban-mai-kenh-thi-nghe/

BAN MAI KÊNH THỊ NGHÈ

Gia Định Thành Thông Chí
Sông Bình Trị Bà Nghè

Bến Nghé sáng tên Người
Bến và thuyền Thị Nghè
Kênh giữa lòng thành phố

Đêm lung linh đôi bờ
Ngỡ ngàng nay mới thấy

Việt Nam con đường xanh
Sớm thu kênh Thị Nghè
Sắc xuân đời thắm lại

Ngắm dấu chân thời gian
Thầy bạn lành một thuở
Đời Người là gương soi
Thơ Hiền vui gõ cửa.
Trà sớm thương người hiền

Sông xuân thao thiết chảy
Như sông Đông êm đềm
Sạch bẩn lớn và nhỏ
Tốt xấu thuyền và biển

#Annhiên bình minh lên


Ngắm dấu chân thời gian
Bến Lội Đền Bốn Miếu
Mái trường bên dòng Gianh
Qua sông Thương bến nhớ
Bản Giốc và Ka Long


Đi như một dòng sông
Về Việt Bắc nhớ Người
Về miền Tây yêu thương
Bảy Núi Thiên Cấm Sơn
Về với vùng cát đá

Hành trình xuôi phương Nam
Qua Mang Thít Vĩnh Long
Nhớ hoài vùng linh địa
Vương quốc đỏ muôn tuổi
Vĩnh Long đất và người


Nhà Tây Sơn Nhà Nguyễn
Nhớ Tùng Châu Châu Đức

Nếp nhà đẹp văn hóa
Chuyện đời không thể quên


Sholokhov người sông Đông
Suy tư sông Dương Tử
Sơn Nam ông già Nam Bộ
Ngày xuân đọc Trạng Trình

Sông Hoàng Long chảy hoài
Sóng yêu thương vỗ mãi
Sông Kỳ Lộ Phú Yên
Sông đời thao thiết chảy

VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH
越南绿色之路 Vietnam green road
Ngữ văn Việt Trung Anh đối chiếu
#htn
#vietnamxahoihoc #cnm365 #dayvahoc #vietnamhoc, #cltvn
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ban-mai-kenh-thi-nghe

THẦY VŨ TRONG LÒNG TÔI
Hoàng Kim


Chúc mừng thầy Trịnh Xuân Vũ đường xuân tuyệt vời !. Thầy luôn trong tốp đầu của những người thầy nông sinh học thanh tân, vui khỏe đi tới Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh qua mốc vàng 65 năm, Thầy Trịnh Xuân Vũ ngày 25 tháng 1 năm 2023 vượt mốc 88 mùa xuân, nhưng thầy rất phong độ, chỉ mình hạc xương mai so ảnh 13 năm trước Thầy là cây đại thụ lưu dấu rõ nét về Trường tôi nôi yêu thương. Ngày xuân vận hội mới, các học trò đồng nghiệp của Thầy vui thích đọc lại bài viết “Một chặng đường” của Thầy tại Kỷ yếu 65 năm Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh. Thầy Vũ trong lòng em là lời biết ơn thầm lặng. Em thích đọc lại Thầy Vũ “Một chặng đường” đó là trang vàng minh triết, tri thức, tận tâm, là trang đời lắng đọng. xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thay-vu-trong-long-toi

MỘT CHẶNG ĐƯỜNG
PGS Trịnh Xuân Vũ
Nguyên Phó Hiệu Trưởng (1989-1994)

Tổ chức kỷ niệm 65 nâm ngày thành lập Trường, âu cũng là một dịp để nhớ lại quá khứ, ôn lại những kỷ niệm xưa – “Uống nước nhớ nguồn”.

Tôi sinh ra và lớn lên tại Hà Nội, hầu như cả thời niên thiếu của tôi đều gắn liền với chiến tranh; và thế hệ chúng tôi ai cũng đã hằng mong ước là sẽ có một ngày hòa bình và đất nước không còn chiến tranh; ước mơ duy nhất của thời đó chỉ đơn giản có vậy! Thế rồi chiến tranh đã kết thúc như một giấc mơ và thật hạnh phúc khi tháng 11 năm 1975 tôi đã có mặt tại 45 Cường Để và về công tác chính thức tại Trường từ tháng 4 năm 1976; cho tới hôm nay là vừa tròn 44 năm gắn bó với Nhà trường.

Sáu mươi lăm năm là một chặng đường dài và sự phát triển của Nhà trường luôn gắn liền với những biến cố của xã hội, vui có, buồn có; nhưng dù sao thì những năm tháng qua cũng đã để lại trong tôi nhiều ấn tượng khó quên.

Đó là ấn tượng về một Trường đại học Nông nghiệp Sài Gòn, mà các cựu sinh viên quen gọi là “Nông Lâm Súc Sài Gòn”, tiền thân của Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh hôm nay.

Nơi đây đã từng có rất nhiều thầy tham gia ngay từ những ngày đầu thành lập trường như thầy Tôn Thất Trình, Lê Văn Ký, Lê Văn Mười, Đặng Quan Điện, Nguyễn Thành Hải, Vũ Ngọc Tân, Phùng Trung Ngân, Bùi Huy Thục, Ngô Bá Thành – đều là các chuyên gia giỏi – những cây đại thụ trong ngành nông nghiệp.

Rồi một thế hệ trẻ kế tiếp được đào tạo có định hướng, đó là thầy Nguyễn Đăng Long, Lưu Trọng Hiếu, Châu Văn Khê, Châu Tâm Luân, Nguyễn Bá Khương, Phan Hoàng Đồng, Tô Phúc Tường, cô Nguyễn Bích Liễu… Trong số đó, có nhiều thầy cô đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển của Nhà trường.

Tham gia giảng dạy còn có nhiều giáo sư, hầu hết là các chuyên gia đầu ngành đến từ Pháp và Mỹ – là hai quốc gia thuộc diện văn minh và giàu có nhất thế giới. Nơi đây đẩu vào có sự chọn lọc kỹ càng thông qua thi tuyển (Trường đại học Nông nghiệp Sài Gòn là một trong ba trường có thi tuyển đầu vào cùng với Trường đại học Y khoa (nay là Trường đại học Y Dược TP. Hổ Chí Minh) và Trường Kỹ thuật Phú Thọ (nay là Trường đại học Bách khoa TP. Hồ Chí Minh). Tôi rất ấn tượng về một nền giáo dục nông nghiệp này. Rồi một “Làng Đại học” đã hình thành mang nhiều ý nghĩa, nhưng nay đã khác rồi, đáng tiếc!

Làm sao mà quên được hình ảnh của một Nguyễn Thái Bình thiết tha yêu nước, đã để lại một tấm gương sáng cho nhiều thế hệ.

Ấn tượng về một thời kỳ hòa hợp dân tộc khi đất nước thống nhất. Một sự hòa hợp Bắc Nam tưởng như trong mơ, mà lại có thật và nhân chứng vẫn còn nguyên đó. Ai nấy đều bỡ ngỡ, bỡ ngỡ đến lạ thường. Nhưng mọi chuyện đã trở nên tốt đẹp, chúng tôi đã sống và làm việc như những anh em một nhà sau nhiều năm xa cách, một không khí thân thiện, một cuộc sống cởi mở và cũng rất hồn nhiên đượm chút ngây thơ cũng bắt đầu từ đó.

Tất nhiên có rất nhiều nuối tiếc, nuối tiếc và mãi mãi vẫn là nuối tiếc như nuối tiếc tuổi thơ vậy – nhưng đó là quá khứ. Có ai mà không nuối tiếc quá khứ đâu – âu cũng là điều bình thường. Trong truyện Kiều của Cụ Nguyễn Du – một đại thi hào không chỉ của Việt Nam có câu “Trải qua một cuộc bể dâu…” Vâng, thật là chí lý!

Ấn tượng về những năm tháng vô cùng khó khăn và gian khổ đã qua.

Rất khó khăn! Nhưng khó khăn đâu phải của riêng ai và thầy trò chúng tôi đã vượt qua tất cả. Thật kỳ diệu! Mà động lực chính đó là tình yêu quê hương đất nước và vì một nền nông nghiệp phát triển, bởi: “Phi Trí bất hưng và Phi Nông bất ổn”. Có ai mà quên được hình ảnh thầm lặng của các bác tài luôn miệt mài với những chiếc xe thật cũ kỹ, anh thủ quỹ hiền lành và dễ thương, các cô lao công nhiều năm tháng cặm cụi chỉ cốt sao giữ cho được ngôi Trường luôn sạch đẹp. Và hôm nay đây, thật là hạnh phúc! Ai cũng biết nơi đây trước kia chỉ là những quả đồi trọc, loáng thoáng có một vài bóng cây. Bây giờ, quang cảnh của Nhà trường đã có dáng dấp của một công viên, một”Campus” như đâu đó ở nước ngoài. Dưới bóng những hàng cây xanh mướt, có đông đảo thầy cô với học trò, luôn rạng rỡ nụ cười trên môi – một bức tranh đẹp đến lạ thường!

Nhìn lại quá khứ chúng ta không thể không không nhắc đến sự đóng góp đáng trân trọng của các bậc đàn anh đó là Thầy Trần Hữu Khối, Phạm Văn Quỳnh, Nguyễn Phan, Bùi Văn Kiên, và tiếp theo ở các khoa, phòng là Thầy Lê Văn Thượng, Trần Như Nguyện, Nguyễn Tâm Đài, Trần Thạnh, Nguyễn Đăng Long, Tô Phúc Tường, Lê Minh Triết (khoa Nông học); Thầy Trịnh Ngọc Lan (bộ môn Dâu tằm);Thẩy Đặng Quan Điện, Dương Thanh Liêm, Nguyễn Văn Hanh, Lê Minh Chí, Cô Nguyễn Bạch Trà, Nguyễn Phước Nhuận, Thầy Nguyễn Ngọc Tuân, Đỗ Vạn Thử, Nguyễn Văn Khanh (khoa Chăn nuôi Thú y); Thầy Ngô Bá Thành, Trần Thanh Xuân, Hồ Thanh Hoàng, Cô Nguyễn Lan Phương, Lê Thị Thanh Muốn, Thầy Trịnh Trường Giang (khoa Thủy sản); Thầy Lê Văn Ký, Lê Văn Mười, Phan Hoàng Đồng, Nguyễn Văn Bồng, Phạm Tiến, Lâm Xuân Sanh, Võ Văn Thoan, Hoàng Hữu Cải, Lê Huỳnh (khoa Lâm nghiệp); Thầy Đoàn Văn Điện, Nguyễn Trí Tiến, Nguyễn Hay, Lê Tiến Hoán, Phan Hiếu Hiền, Nguyễn Quang Lộc (khoa Cơ khí Công nghệ); Thầy Trương Hoài Châu, Nguyễn Anh Ngọc, Trần Hậu Trừng (khoa Kinh tế); Thầy Trần Hữu Lương, Ngô Thiện, Cô Nguyễn Thục Oanh, Nguyễn Thị Tiến (khoa Khoa học); Cô Đào Thị Gọn, Thầy Phan Văn Tự, Nguyễn Văn Tân (khoa Quản lý đất đai và Bất động sản), thầy Lê Bình Trị, Cô NguyễnThị Sâm,Thầy Huỳnh Kim Đảnh, Lê Hữu Trung (phòng Tổ chức); Cô Nguyễn Thị Lộc (phòng Tài vụ); Thầy Lưu Trọng Hiếu (phòng Hợp tác Quốc tế); Thầy Nguyễn Thơ, Trịnh Công Thành (phòng Khoa học); Thấy Nguyễn Văn Thuận, Trần Thanh Phong (phòng Đào tạo); Thầy Đỗ Huy Thịnh, Cô Đoàn Thị Huệ Dung (trung tâm Ngoại ngữ); Thầy Bùi Công Đặng, Nguyễn Bá Phú (bộ môn Mác – Lênin), là những người đã từng gánh vác mọi công việc khó khăn trong những ngày đầu khi còn là Trường đại học Nông nghiệp IV.

Rất ấn tượng và tự hào về sự lớn mạnh của Nhà Trường.

Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh bây giờ là một trường lớn có 36 ngành đào tạo gồm 61 chuyên ngành khác nhau với gần 20.000 sinh viên. Trường có 824 viên chức, trong đó 67% là giảng viên với 151 tiến sĩ và đa số được đào tạo ở những nước phát triển.

Nhiều thế hệ sinh viên ra trường đã trưởng thành nhanh chóng. Tôi xin phép kể ra đây một số ít đại diện (chỉ một số ít thôi) của nhiều thế hệ khác nhau, âu cũng là niềm tự hào của Nhà trường:

  • Ở lãnh đạo cấp Bộ đó là nguyên các thứ trưởng: Bùi Bá Bổng, Diệp Kỉnh Tần, Bùi Cách Tuyến.
  • Ở lãnh đạo cấp tỉnh có: Đào Tấn Lộc (tỉnh Phú Yên), Phạm s (tỉnh Lâm Đồng), Ma La Điêu, Trương Xuân Thìn, Trần Xuân Hòa (tỉnh Ninh Thuận), Phạm Thị Mỹ Thanh (tỉnh Đồng Nai), Trần Thanh Liêm, Mai Hùng Dũng (tỉnh Bình Dương), Phạm Văn Tòng, Võ Văn Danh (tỉnh Bình Phước), Nguyễn Tăng Bính (tỉnh Quảng Ngãi), Lê Tuấn Quốc (tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu).
  • Lãnh đạo cấp thành phố có Nguyễn Trung Tín, Lê Thanh Liêm (TP. Hồ Chí Minh),Tôn Thiện San, Võ Tấn Hiệp (TP. Đà Lạt).
  • Ở cấp Viện có Bùi Chí Bửu (viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam) Nguyễn Thị Huệ, Trần Thị Thúy Hoa, Lại Văn Lâm, Đỗ Kim Thành, Phan Thành Dũng (viện Nghiên cứu Cao su Việt Nam). Ở nhiều Viện nghiên cứu khác nữa cũng có sự đóng góp của của những cán bộ được đào tạo tại Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh như Viện Sinh học Nhiệt đới, Viện lúa ô Môn, Viện Cây ăn quả miền Nam, Phân Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp, Phân Viện Lâm nghiệp miền Nam, Phân Viện Kinh tế kỹ thuật thuốc lá miền Nam, Khu Nông nghiệp Công nghệ cao, trung tâm Công nghệ sinh học TP. Hồ Chí Minh.
  • Nhiều lãnh đạo các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Tài nguyện và Môi trường, Sở Kế hoạch – Đầu tư từng là sinh viên của Nhà trường. Ngoài ra còn có nhiều lãnh đạo của các Tập đoàn, Tổng công ty cũng vậy, đó là Tập đoàn Cao su Việt Nam, Tập đoàn Novaland, Nutiood, Nhà máy Đạm Cà Mau,… Thật đáng tự hào!

Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh đã có một thời đi đẩu trong phong trào dạy và học tiếng Anh; một trung tâm Ngoại ngữ từng rất có uy tín, có tác dụng chắp cánh cho nhiều cán bộ từ Nam chí Bắc. Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh còn là một trong những Trường đầu tiên có quan hệ quốc tế rộng rãi, mở đầu chương trình đào tạo liên kết với Pháp (khối Francophonie), rồi với nhiều nước thuộc Châu Âu, Châu Mỹ, mà Thầy Đặng Quan Điện và Lưu Trọng Hiếu đã có nhiều đóng góp.

Về lĩnh vực khoa học và công nghệ, không thể không nhắc đến khoa Chăn nuôi Thú ỵ một thời đi đầu trong việc sản xuất các loại Premix phục vụ cho chăn nuôi; khoa Cơ khí Công nghệ về máy sấy; khoa Lâm nghiệp về bảo quản và chế biến gỗ; khoa Thủy sản về giống cá và ngày nay đang có chuyên gia rất giỏi về tôm; khoa Nông học về cây công nghiệp và cây ăn quả, nhiều giống sắn, giống khoai lang được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận, là những giống chủ lực, được trồng phổ biến hiện nay, mà tác giả là thầy Hoàng Kim. Gần đây có nhiều chế phẩm về Công nghệ sinh học và Chế biến thực phẩm mang thương hiệu của Nhà trường. Còn nhiều và nhiều lắm những điển hình tương tự.

Quay lại với hiện tại của Nhà trường có thầy Bùi Ngọc Hùng (Chủ tịch Hội đồng trường), Thầy Huỳnh Thanh Hùng, Nguyễn Tất Toàn, Trần Đình Lý (Ban Giám hiệu) rồi hàng loạt các Trưởng khoa, các giám đốc Trung tâm được đào tạo bài bản và rất trẻ như thầy Võ Thái Dân (khoa Nông học), Lê Quang Thông (khoa Chăn nuôi Thú y), Nguyễn Như Trí (khoa Thủy sản), Lê Quốc Tuấn (khoa Môi trường và Tài nguyên), Phan Tại Huân (khoa Công nghệ Thực phẩm), Phạm Văn Tính (khoa Công nghệ Thông tin), Nguyễn Thị Mai (khoa Khoa học), Nguyễn Huy Bích (khoa Cơ khí Công nghệ), La Vĩnh Hải Hà (khoa Lâm nghiệp), Bùi Văn Hải (khoa Quản lý Đất đai và Bất động sản), Nguyễn Bạch Đằng (khoa Kinh tế), Lê Đình Đôn (viện Nghiên cứu Công nghệ Sinh học và Môi trường và bộ môn Công nghệ Sinh học), Vũ Thùy Anh (bộ môn Công nghệ Hóa học), Nguyễn Văn Trọn (bộ môn Lý luận Chính trị), Nguyễn Hoàng Liêm (trung tâm Tin học ứng dụng), Đào Đức Tuyên (trung tâm Ngoại ngữ và khoa Ngoại ngữ – Sư phạm), đang gánh vác những công việc cũng rất nặng nề, thay cho các thế hệ đàn anh.

Bên cạnh các Khoa và Trung tâm còn có một đội ngũ đông đảo cán bộ ở các phòng ban đang hoạt động thầm lặng, nhưng rất năng động có nhiều đóng góp thiết thực và hiệu quả cho Nhà trường đó là Thầy Lê Hữu Khương (phòng Tổ chức Cán bộ), Trần Quốc Việt (phòng Đào tạo), Lê Anh Đức (phòng Đào tạo Sau đại học), Đặng Kiên Cường (phòng Công tác Sinh viên và Trung tâm Hỗ trợ Sinh viên và Quan hệ Doanh nghiệp), Nguyễn Hay và Chế Minh Tùng (Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển), Nguyễn Ngọc Thùy (phòng Hợp tác Quốc tế), Lê Công Trứ (trung tâm Đào tạo Quốc tế), Nguyễn Bảo Quốc (thư viện), Nguyễn Trọng Thể (phòng Hành chính), Nguyễn Văn Minh (phòng Kế hoạch Tài chính), Lê Quang Giảng (phòng Quản trị Vật tư), Lê Mộng Triết (phòng Thanh tra Giáo dục), Lê Văn Sony (Đoàn Thanh Niên), Cô Nguyễn Phú Hòa (phòng Quản lý và Nghiên cứu Khoa học), Hoàng Thị Mỹ Hương (Công đoàn Trường), Võ Ngàn Thơ (phòng Quản lý Chất lượng),… Điều đáng mừng là phần lớn cán bộ quản lý đều có trình độ từ tiến sĩ trở lên.

Có thể nói Trường đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh giờ đây đã có được một đội ngũ cán bộ đủ mạnh để đưa Nhà trường tiến lên. Tôi nghĩ đó là tất yếu và rất đáng tự hào. Tuy nhiên không có gì là ngẫu nhiên, mà cũng chẳng bỗng dưng. Người xưa có câu: “Cây có gốc mới sanh cành nở ngọn Nước có nguồn mới biển cả sông sâu”

Chúng ta vô cùng biết ơn và xin cảm ơn, cảm ơn rất nhiều các bậc đàn anh đã dày công xây dựng nền móng cho hôm nay.

Nguồn: Trịnh Xuân Vũ 2020. Một chặng đường Trong sách Kỷ yếu 65 năm Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh trang 102-104

Phạm Văn Hiền cùng với Tran Van Khai3 người khác. 14 giờ · 25-01 ngày sinh nhật PGS Trịnh Xuân Vũ – Nguyên Bí thư Đảng ủy, Phó Hiệu trưởng Trường Đại Học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh.Học trò nhiều thế hệ cùng TT EnHiTech tổ chức mừng sinh nhật Thầy Trịnh Xuân Vũ lần thứ 86 (AL) Kính chúc Thầy mạnh khỏe, vui vẻ và hạnh phúc!

Quyen Mai Van : Cám ơn thầy Hiền đã chia sẽ thông tin ngày sinh vui vẽ cho mình, Thế là.mình sinh 1936 còn thầy Vũ sinh 1937 nhưng chỉ thua mấy tháng thôi, chả thế mà mình tai đã bị điếc còn tai thầy Vũ còn thính lắm. chúc thầy Vũ thầy Hiền vui vẻ hạnh phúc trọn vẹn.

Phạm Văn Hiền: @ Quyen Mai Van dạ Thầy, kính Thầy Mai Văn Quyền, hôm nào tụi em kéo qua mần sinh nhật, hét karaoke là Thầy nghe lại bình thường à! Hì hì! Lâu quá không thấy Thầy gửi hình đời thường vui vui, nhớ Thầy quá chừng! Giữ gìn sức khỏe nghe Sư Phụ!

Kim Hoàng: Kính thầy Quyen Mai Van và thầy Vu Trinh vui khỏe hạnh phúc. Em may mắn trong cuộc đời mình được trực tiếp thọ giáo hai người thầy lớn ở Viện Trường. Thầy Vu Trinh sinh cùng tháng cùng năm 1937 với anh Hai Hoàng Ngọc Dộ của em. Chuyện bây giờ mới kể.

Hai thầy đến nay đang tuyệt vời phong độ trong khi anh Hai em đã mất cách đây 27 năm, vì bệnh ung thư hiểm nghèo, vào nửa đêm Rằm Nguyên Tiêu năm 1994 , trong câu chuyện “Gốc mai vàng trước ngõ“. Trước đó, anh Cao Xuân Tài (là bạn em và cũng là học trò của hai thầy đã ghé thăm anh Hai của em. Anh Hai em đã trò chuyện với anh Cao Xuân Tài bạn em trong khi em cùng vài anh em đào huyệt và xây kim tỉnh cho anh ấy. Nhìn anh ấy bình thản chơi với các cháu, em nao lòng rưng rưng. Anh Hai của em dặn em “Dặn con cháu khiêm nhu cần kiệm”, Và đọc bốn câu thơ “Cảnh mãi theo người được đâu em. Hết khổ hết cay hết vận hèn. Nghiệp sáng đèn giời đà chỉ rõ. Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen”.

Ngày nay, nhìn nụ cười rạng rỡ của thầy Vũ, em lại nhớ về thời xưa, và nhớ những câu chuyện về Thầy “một chặng đường“. Hai Thầy trong lòng em.

Một số hình ảnh
Thầy bạn trong đời tôi

KỶ YẾU KHOA NÔNG HỌC 65 năm thành lập Khoa mời vào đường link để xem chi tiết https://kyyeunonghoc.blogspot.com/2020/11/ky-yeu-ky-niem-65-nam-thanh-lap-khoa.html

VỀ TRƯỜNG ĐỂ NHỚ THƯƠNG
Hoàng Kim


Đại học Nông Lâm thật thích
Bạn thầy vui thật là vui
Sân Trường giảng đường ấm áp
Đường xuân phơi phới tuyệt vời

Hình như mọi người trẻ lại
Hình như người ấy đẹp hơn
Hình như tre già măng mọc
Nắng mai soi giữa tâm hồn.

Thầy bạn trong ngoài thiện nguyện
Về Trường chia sẻ động viên
Trang sách trang đời lắng đọng
Yêu thương bao cuộc đời hiền

Thầy bạn ngày vui hẹn gặp
Lời thương mong ước bình an
Tình khúc Nông Lâm ngày mới
Sức xuân Tự nguyện Lên đàng

Thay ban trong doi toi 7
Thay ban trong doi toi 1a
Thay ban trong doi toi 1b
Thay ban trong doi toi 4
Thay ban trong doi toi 6
Vuon Quoc gia o Viet Nam 2
Thay ban trong doi toi 999
Thay ban trong doi toi.8

SÔNG KỲ LỘ PHÚ YÊN
Hoàng Kim

Sông Kỳ Lộ Phú Yên
Dài trăm hai cây số
Từ Biển Hồ Gia Lai
Thượng nguồn sông Bà Đài


Sông La Hiên Cà Tơn
Bến Phú Giang, Phú Hải
Phú Mỡ huyện Đồng Xuân
Thôn Kỳ Lộ Cây Dừng


Tre Rồng sông Kỳ Lộ
Huyền thoại vua Chí Lới
Vực Ông nối thác Dài

Xuôi dòng sông Kỳ Lộ


Lẫy lừng chuyện suối Cối
Tới suối Mun Phú Mỡ
Suối nước nóng Cây Vừng
Thấu vùng đất hoang sơ


Chợ Kỳ Lộ nổi tiếng
Người Kinh Chăm Ba Na
Xưa mỗi tháng chín phiên
Nay ngày thường vẫn họp

Sông Cái thác Rọ Heo
Vùng Hòn Ông vua Lới
Suối nước nóng Triêm Đức
Thôn Thạnh Đức Xuân Quang


Sông Trà Bương sông Con
Tiếp nước sông Kỳ Lộ
Chốn Lương Sơn Tá Quốc
Lương Văn Chánh thành hoàng


Sông Cô tới La Hai
Sông Cái hòa tiếp nước

Đồng Xuân cầu La Hai
Hợp thủy sông Kỳ Lộ

Tới Mỹ Long chia nhánh
Một ra vịnh Xuân Đài
Một vào đầm Ô Loan
Suối Đá xã An Hiệp


Chảy ra đầm Ô Loan
Suối Đá Đen An Phú
Chảy ra biển Long Thủy

Sông Kỳ Lộ Phú Yên

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là bc23e-lahai.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 9656a-46400358.jpg

CHUYỆN HIỀN VUI TRĂM NĂM
Bạch Ngọc Hoàng Kim

Ngọc Phương Nam ngày mới
Giống sắn tốt Phú Yên
Lúa siêu xanh Phú Yên
Báu vật nơi đất Việt

A Na bà chúa Ngọc
Châu Văn Tiếp Phú Yên
Cao Biền trong sử Việt
Ông Rhodes chữ tiếng Việt

Sông Kỳ Lộ Phú Yên
Chuyện đồng dao cho em
Con đường xanh yêu thương
Cuối dòng sông là biển

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/song-ky-lo-phu-yen/

CHUYỆN ĐỒNG DAO CHO EM
Hoàng Kim


Tiếng Việt lung linh sáng
Lời dặn của Thánh Trần
Biết mình và biết người
Kế sách một chữ Đồng


Quốc Công đạo làm tướng
Tiết Chế đức dụng nhân
Tự do ngời tâm đức
Văn chương ngọc cho đời

NGỌC PHƯƠNG NAM NGÀY MỚI
Hoàng Kim


Thuyền độc mộc xưa vượt thác mây
Nay suối còn vương mạch vẫn đầy
Nghiệp lớn sông dài khơi luồng cạn
Kỳ Lộ dòng thiêng nước chảy hoài

Chính Ngọ đoán Kinh Dịch
Thế giới trong mắt ai


xem tiếp 36 đường dẫn #htn #vietnamxahoihoc #cnm365 #dayvahoc #vietnamhoc, #cltvn Ban mai kênh Thị Nghè https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ban-mai-kenh-thi-nghe/

Video yêu thích

Kỷ niệm 65 năm Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter