Hiểu sách Nhàn đọc giấu

HIỂU ‘SÁCH NHÀN ĐỌC GIẤU
Hoàng Kim

Kinh Dịch xem chơi,
365 ngày
mê mãi.
Sách Nhàn đọc giấu,
câu có câu không.

Nhà Trần trong sử Việt
Trúc Lâm Trần Nhân Tông
Trước đèn bảy trăm năm,
thăm thẳm một tầm nhìn.

*

1
“Câu hữu câu vô,
Quay bên phải, ngoái bên trái.
Thuyết lý ầm ĩ,
Ồn ào tranh cãi.
Câu hữu câu vô,
Khiến người rầu rĩ.
Cắt đứt mọi duyên quấn quýt như dây leo,
Thì hữu và vô đều hoàn toàn thông suốt”.
2.
Kinh Dịch xem chơi
Yêu TÍNH SÁNG yêu hơn châu báu>
Sách Nhàn đọc giấu
Trọng LÒNG NGƯỜI trọng nữa hoàng kim”
3.
“Ở đời vui đạo thả tùy duyên
Đói cứ ăn đi , mệt ngủ liền
Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm
Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền”

(Trúc Lâm Trần Nhân Tông)

“Sách nhàn đọc dấu câu CÓ câu KHÔNG”. Thời nhà Tùy, sách vở chưa có dấu chấm câu. Bình thường vì không có dấu chấm nên một câu văn thường xuất hiện nhiều loại nghĩa khác nhau. Trịnh Ngôn Khánh đọc Luận Ngữ đành sắp xếp lại đặt dấu câu vào trong đó. “Soán Đường là sách mới của tác giả Canh Tân trên trang đọc truyện online. Sống trong thời loạn thế, thân thế khó bề phân biệt. Trong lòng ta không hướng tới phú quý nhưng không biết vì sao phú quý lại liên tục xuất hiện. Đây là một câu chuyện một người hiện đại xuyên Việt về Tùy Đường“. Hoàng Kim đọc chơi trang sách, chợt dưng lại nhớ về đời Trần và đức Nhân Tông “Đường Trần ta lại rong chơi. Vui thêm chút nữa, buồn thôi lại về“. “Sách nhàn đọc dấu câu CÓ câu KHÔNG”, “giấu” hay là “dấu” đây?

Hiểu ‘sách nhàn đọc giấu là bài 6, trong 14 ghi chú (Notes) YÊN TỬ TRẦN NHÂN TÔNG của Hoàng Kim gồm bài 1 Ngọc Phương Nam , bài 2 Lên non thiêng Yên Tử, bài 3 Trúc Lâm Trần Nhân Tông, bài 4 Lời dặn của Thánh Trần, bài 5 Thầy Tuệ Trung Thượng Sĩ, bài 6 Hiểu ‘sách nhàn đọc giấu, bài 7 Biết ‘câu có câu không, bài 8 Nghê Việt am Ngọa Vân, bai 9 Tảo Mai nhớ Nhân Tông, bài 10 Nhà Trần trong sử Việt, bài 11 Ân tình Đất Phương Nam, bài 12 Nhân Tông Đêm Yên Tử, bài 13 Hoa Đất thương lời hiền, bài 14 Yên Tử Trần Nhân Tông

BÀI CA YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim

Thương nước biết ơn bao người ngọc (1)
Vì dân qua bến nhẹ tênh lòng
Nhớ bao tài đức đời thanh thản
Ân tình lưu dấu những dòng sông.

“Mây núi nào không bay cạnh núi,
Sóng nào chẳng ở chốn xa khơi.” (2)
Ban mai nắng hửng Tiên Sơn đẹp
Vàng sáng trời quang Biển Hồ ơi.

Linh Giang Kỳ Lộ tới Đồng Nai
Mỗi chốn đều ghi chuyện cảm hoài
Đá Bia núi Nhạn vùng huyền thoại
Nam Tiến ân tình thương nhớ ai.

Vì nước đâu nề cảnh biệt ly
Nghìn trùng thăm thẳm buổi ra đi
Thanh Lương an tĩnh hiền thoát tục
Lương Chánh thanh nhàn đức từ bi

Chí thiện cha nêu gương trung hiếu
Yêu thương người chấp mọi thị phi
Chuông chùa vang vọng niềm an lạc
Sông núi trời Nam mãi mãi ghi.

Trúc Lâm thăm thẳm đức Hoàng Thành
A Na bà chúa Ngọc Phương Nam
Đất phú trời yên người hạnh phúc
Hồn Việt đường vui tới cõi hiền.

(1) An Tư, Huyền Trân, Ngọc Hoa, Ngọc Vạn, …
(2) Bạch Ngọc tiếp dẫn thơ Tuệ Trung Thượng Sĩ

Huyền Trân công chúa Đại Việt kết duyên với vua Chế Mân Chiêm Thành nhiều người cho rằng đó là mưu lược chính trị nhờ vậy mà Đại Việt thêm được hai châu Ô Lý. Sự thật đó là một liên minh của dân tộc Việt mà nếu không thành thì hai nước khó có thể tồn tại. Chế Mân là vị vua Chiêm Thành trong hoàn cảnh đất nước bị đế quốc Angkor sát nách luôn muốn thôn tính và vó ngựa quân Nguyên Mông đang thần tốc tràn xuống phương Nam. Ông đã bỏ qua vinh nhục bản thân nhiều lần tỏ lòng thành liên kết với Đại Việt bằng cách dâng lễ vật là hai châu Ô Lý để xin cầu hôn với Huyền Trân công chúa con vua Trần Nhân Tông. Hai châu Ô Lý thực chất là chiến phí cho công cuộc liên kết kháng chiến chống kẻ địch mạnh đến cướp đất cướp dân, trả ơn cho Đại Việt đã hai lần gánh chịu tổn thất nặng nề làm tiền phương chống trả quân Nguyên Mông, cản đường của kẻ đã lấy cớ mượn đường Đại Việt để đánh Chiêm Thành.

Chế Mân là vị vua anh minh ưu tú xứng đáng và thực lòng yêu thương Huyền Trân. Các vị vương mưu lược tài năng và các danh thần triều Trần hiểu rõ vận nước và sự chân thành đó của ông nên mới tán đồng cuộc hôn nhân, khi công chúa Huyền Trân đã bén duyên Trần Khắc Chung và mang ơn cứu mạng của chàng đối với cả cha và con trong trận chiến đẫm máu mà hai vua Trần và Huyền Trân xuýt bị giết. Thiết tưởng việc dành sự trong trắng của một cô gái đang độ xuân thì phải lìa bỏ người yêu để dấn thân cứu nạn nước và thực tâm yêu người khác làm chồng đó là một sự hi sinh lớn lao. Hậu thế cần một đánh giá công bằng đối với Chế Mân và Huyền Trân để thấu hiểu trọn vẹn những uẩn khúc sau này lúc Huyền Trân đi tu, thực thấu hiểu cuộc tình duyên nổi tiếng này trong lịch sử.

Tác giả Sao Khuê trong bài “Cảm nhận Huyền Trân” đã cho rằng: “Công chúa Huyền Trân là người đoan chính, chuyện bà tư thông với danh tướng Trần Khắc Chung là vô lý. Có năm lý do để Sao Khuê tin như thế, vì:

1) Trần Nhân Tông là một vị vua lỗi lạc từng lập kỳ tích chiến thắng quân Nguyên 2 lần. Sau đó khi còn rất trẻ đã từ bỏ danh lợi, thoái vị trao ngai vàng lại cho con mà xuất gia quy y Phật pháp, trở thành tôn sư sáng lập một Thiền phái Phật giáo. “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh” – Có người cha anh hùng xuất chúng như thế thì Công chúa Huyền Trân khó thể là đứa con hư hỏng làm ô danh hoàng tộc.

2) Trần Khắc Chung là công thần qua mấy đời vua. Làm quan đến chức Nhập Nội Hành Khiển, Thượng Thư Tả Bộc Xạ (tương đương Tể Tướng). Công lao to tát đến độ được vua cho đổi sang quốc tính (họ Trần) – Xét về tuổi tác, luận về danh tiếng, đức độ…thì không lý gì ông lại làm ra chuyện xấu xa cùng Công chúa Huyền Trân để thân bại danh liệt.

3) Trên chuyến vượt thoát về Đại Việt ngoài Trần Khắc Chung còn có nhiều người khác (như An phủ sứ Đặng Vân và quân lính tùy tùng…) chứ không chỉ có Trần Khắc Chung và Công chúa Huyền Trân hai người…

4) Nếu là chuyện xấu xa thì tại sao những vị Vương Tướng cương trực cùng thời với Trần Khắc Chung (như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, …) không ai có thái độ gì?

5) Ngoài ra, còn bởi một lẽ riêng tư (mà Sao Khuê cho là rất quan trọng): Khi trốn khỏi Chiêm Thành thì hoàng tử Chế Đa Đa do Công chúa Huyền Trân hạ sinh mới vừa được mấy tháng tuổi không thể mang theo cùng! Lúc đó bà chẳng những là một người vợ vừa mất chồng mà còn là một người mẹ phải đoạn lìa núm ruột của mình. Sao Khuê cùng phận nữ, vô cùng cảm thương cho Công chúa Huyền Trân nên có thơ

CẢM PHẬN HUYỀN TRÂN

Ô, Rí năm nào đổi biệt ly
Huyền Trân Công Chúa bước vu qui
Ba sinh chưa vẹn đà tan tác
Hương lửa đang nồng vội thảm bi!
Đại Việt cướp người thuyền vượt lướt
Chiêm Thành ôm hận ngựa cuồng phi
Kiên trinh há thẹn dòng Long Phụng
Trung Đẳng (*) lòng son sử sách ghi!

(*) Sau này Công chúa Huyền Trân chẳng những được dân chúng lập miếu thờ phượng vì linh ứng, mà còn được nhiều đời vua xưng tụng là Thần hộ quốc. Vào năm Khải Định thứ chín đã chính thức sắc phong bà là “Trai Tĩnh Trung Đẳng thần”.

Hoàng Kim có “bài thơ yêu thương” họa vần”Cảm phận Huyền Trân”. Huyền Trân mang ơn cứu mạng của Lê Phụ Trần xả thân cứu cha và con trong cuộc chiến đẫm máu nhưng vẫn chấp nhận gác tình riêng vì NƯỚC NON NGÀN DẶM RA ĐI. Có Cha ấy và có Con ấy, dân tộc Việt thật là hồng phúc ! Tôi tâm đắc với câu trả lời của GS Trần Văn Giàu trước câu hỏi “Chúng ta có nên đề cập đến vấn đề châu Ô châu Rí không? GS. Trần Văn Giàu đã trả lời: “Có lúc nói, có lúc không. Chúng ta dựa vào lịch sử để nói, nhưng chúng ta không nên đi quá nhiều về lịch sử, bây giờ thì không cần nói vấn đề đó. Qua lịch sử, chúng ta nói về những vấn đề vượt lên trên lịch sử. Qua lịch sử ta nói đến con người, nhân cách của Người. Từ nhân cách ấy, cho ta thấy nhân cách của một dân tộc. Một đất nước sản sinh ra được một con người có một không hai trên thế giới, thử hỏi đất nước ấy và dân tộc ấy có đặc biệt hay không?”

Giáo sư Tôn Thất Trình đã nhận xét thật sâu sắc và chí lý, đại ý: Văn học Việt Nam hội nhập toàn cầu thiếu những tác phẩm lớn đích thực như “Chiến tranh và Hòa bình” của Lev Tonstoy để xây dựng nên hình tượng Natasa bản tính Nga, chứ huyền sử Việt không thiếu những biểu tượng cảm động như Huyền Trân công chúa và đất phương Nam. Chúng ta chưa đủ tầm để thấu hiểu lịch sử văn hóa Việt đó thôi”.

Thu Bồn có bài thơ “Tạm biệt Huế” dữ dội và cảm động in trong “Một trăm bài thơ tình chưa kịp đặt tên” phảng phất huyền sử mối tình say đắm và quyết liệt của Chế Mân – Huyền Trân với sự hi sinh thầm lặng cao cả của bốn nhân vật huyền thoại Trần Nhân Tông – Chế Mân- Huyền Trân- Lê Phụ Trần, bừng sáng bình minh Yên Tử.

TẠM BIỆT HUẾ
Thu Bồn

bởi vì em dắt anh lên những ngôi đền cổ
nên chén ngọc giờ chìm dưới đáy sông sâu
những lăng tẩm như hoàng hôn chống lại ngày quên lãng
mặt trời vàng và mắt em nâu

xin chào Huế một lần anh đến
để ngàn lần anh nhớ hư vô
em rất thực nắng thì mờ ảo
xin đừng lầm em với cố đô

áo trắng hỡi thuở tìm em không thấy
nắng minh mang mấy nhịp Tràng Tiền
nón rất Huế mà đời không phải thế
mặt trời lên từ phía nón em nghiêng

nhịp cầu cong và con đường thẳng
một đời anh đi mãi chẳng về đâu
con sông dùng dằng con sông không chảy
sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu

tạm biệt Huế với em là vĩnh biệt
Hải Vân ơi xin người đừng tắt ngọn sao khuya
tạm biệt nhé với chiếc hôn thầm lặng
anh trở về hoá đá phía bên kia.

Huế 1980

Huế xưa và nay là nơi lưu dấu đức hi sinh cao cả vì nước của cha con vua Phật Trần Nhân Tông và công chúa Huyền Trân. Đền thờ công chúa Huyền Trân trong không gian Trung tâm Văn hóa Huyền Trân có không gian rộng 28 ha tọa lạc tại 151 đường Thiên Thai, phường An Tây, chân núi Ngũ Phong, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 7 km. “núi không cần cao, có tiên ắt thiêng. Sông không cần sâu, rồng chầu thành nổi tiếng”… Đến cố đô Huế, tôi dạo chơi cùng Trần Văn Minh người bạn thân thuở nhỏ nay là giáo sư tiến sĩ nhà giáo nhân dân nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm Huế. Chúng tôi cùng thành kính ngưỡng mộ đức Nhân Tông và Huyền Trân Công Chúa, cùng lắng nghe thông xanh đàn Nam Giao trò chuyện và lắng nghe tiếng chuông hòa bình mờ tỏ trong mây trên đỉnh tháp núi Ngũ Phong của vùng Trung tâm Văn hóa Huyền Trân. Đây là nơi giao hòa Trời Đất và hương linh các bậc Thầy, những người con trung hiếu tận tụy hi sinh hết lòng vì Nước vì Dân. Tôi đã cảm khái viết bài thơ nhớ Thầy Nguyễn Khoa Tịnh:

THẦY ƠI
Hoàng Kim

Thầy ơi, em nặng lòng với Huế
Mừng duyên lành con em xe về miền Trung
Nơi LỘC Khê Hầu NGUYÊN vẹn công nghìn năm mở cõi
Với dòng sông Hương soi bóng núi Ngự Bình.

Huế là cố đô Nhà Nguyễn trãi mười đời chúa mười ba đời vua, từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ vùng Thuận Hóa năm 1558, cai quản xứ Đàng Trong sáng lập và tạo dựng mười đời chúa Nguyễn trong hơn 2 thế kỷ và chỉ chấm dứt sau khi nhà Tây Sơn nổi dậy và đánh đổ cả hai tập đoàn Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn vào cuối thế kỷ 18. Nhà Nguyễn được tiếp nối khi nhà Tây Sơn sụp đổ, vua Gia Long lên ngôi năm 1802 và chấm dứt triều Nguyễn khi hoàng đế Bảo Đại thoái vị vào năm 1945, với 143 năm.

Thầy Nguyễn Khoa Tịnh thông xanh núi Huế là người thầy dạy nhân cách và lịch sử, khai sáng thế hệ chúng tôi. Tôi đã viết bài ‘Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời‘ để tỏ lòng tri ân sâu nặng đối với người Thầy lớn và những thầy bạn mà tôi không thể có được ngày hôm nay nếu thiếu sự động viên, giúp đỡ này: “Em đã học nhiều gương sáng danh nhân. Hãy biết nhục, biết hèn mà lập chí. Thắp đèn lên đi em, ngọn đèn dầu bền bỉ. Sáng giữa đời lấp lánh một niềm tin”.

Dân Việt đi như dòng sông về biển. Gia đình tôi cũng đi theo con đường Nam Tiến của dân tộc, từ Linh Giang dòng sông quê hương đến bao dòng sông thao thiết chảy. Chúng tôi đã đi từ Sông Thương, Sông Hồng, Sông Lam, Sông Nhật Lệ, Sông Thu Bồn, đến Sông Tiền, Sông Hậu, … từ Mekong nhớ Neva, Từ Sông Hương, Kỳ Lộ tới Đồng Nai… Những con sông tắm mát đời người.

Huyền Trân, Ngọc Khoa, Ngọc Vạn là ba người Mẹ Việt đã chịu điều tiếng thị phi để tạo dựng cơ nghiệp muôn đời cho dân tộc Việt. Huyền Trân công chúa là con gái của vua Trần Nhân Tông đã vì “nước non ngàn dặm ra đi” kết duyên vợ chồng với vua Chế Mân đất phương Nam. Hai công nữ Ngọc Vạn và Ngọc Khoa là con gái của chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã được chúa Nguyễn gả cho vua Chiêm Thành và vua Cao Miên “dùng chính sách hoà bình, thân thiện để kết hòa hiếu”. Năm 1620, Chúa Sãi gả Công Nữ Ngọc Vạn cho vua Cao Miên là Chư Chetta II (1618-1686) nên dân Việt đã vào làm ăn sinh sống thuận lợi tại vùng sông Đồng Nai Cù Lao Phố Biên Hòa ngày nay, thuộc đất Thủy Chân Lạp của Cao Miên. Năm 1631, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên cũng lại gả Công Nữ Ngọc Khoa cho Vua Chiêm Thành Pô Romê. Dân Việt đã vào sinh cơ lập nghiệp ở kinh đô Chiêm Thành thời ấy tại ven sông Kỳ Lộ thuộc huyện Đồng Xuân, Tuy An ngày nay. Sông Kỳ Lộ dài 120 km, bắt nguồn từ vùng núi La Hiên cao trên 1000 m, vùng giáp ranh giữa Bình Định và Gia Lai, chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam đổ ra cửa biển Tiên Châu ở Tuy An (Phú Yên), với một phân lưu đổ vào Đầm Ô Loan, nhờ vậy mà hai dân tộc Chiêm-Việt có được sự hoà hiếu” (Theo Nguyễn Phúc tộc Thế phả xuất bản ở Huế 1995).

Tôi lưu một ghi chép nhỏ “Bài ca yêu thương” để thỉnh thoảng quay lại. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bai-ca-yeu-thuong/

BillGatesLearningbyDoing

BILL GATES HỌC ĐỂ LÀM
Hoàng Kim

Bill Gates là một thế giới trí tuệ, lắng đọng nhiều kinh nghiệm sống học để làm (learning to doing) cần được khám phá. Bill Gates bỏ học mà thành tài, giàu có mà phúc hậu, bỏ quyền lực mà làm từ thiện, sống hữu hạn mà vĩnh cữu. Nhiều giá trị lớn của ông cần được khám phá không riêng cho lớp trẻ mà mang tính phổ quát cho tất cả mọi người. Bill Gates ngày 25 tháng 8 năm 2021 đã nhắn ba tin quan trọng:  cách các quốc gia châu Phi ngăn chặn thảm họa sốt rét; nhấn mạnh nghiên cứu mà quân đội Hoa Kỳ đang thực hiện; thông tin cập nhật về một bước đột phá đáng kinh ngạc về chống bệnh sốt rét trong đại dịch COVID-19

Bởi Bill Gates | Ngày 25 tháng 8 năm 2021 Chào mừng đến với Tuần lễ Muỗi năm 2021 trên Ghi chú của Gates. Năm ngoái, nhiều người lo sợ về một thảm họa sốt rét. Một phân tích của Tổ chức Y tế Thế giới cho thấy sự gián đoạn trong việc kiểm soát và điều trị bệnh sốt rét do COVID-19 có thể dẫn đến sự gia tăng đáng kể số ca tử vong do sốt rét ở vùng cận Sahara, châu Phi. Một năm sau, tôi vui mừng thông báo rằng trường hợp xấu nhất này, ít nhất là hiện tại, đã tránh được. Tuần lễ Muỗi này, tôi chia sẻ câu chuyện về cách các quốc gia châu Phi ngăn chặn thảm họa sốt rét bằng cách nhanh chóng điều chỉnh các chương trình sốt rét của họ để đối phó với những thách thức của đại dịch.

Tôi cũng nhấn mạnh nghiên cứu mà quân đội Hoa Kỳ đang thực hiện để chống lại loài muỗi gây ra nhiều thương vong cho quân đội hơn là bom và đạn.

Cuối cùng, tôi cung cấp thông tin cập nhật về một bước đột phá đáng kinh ngạc có thể kiểm soát sự lây lan của bệnh sốt xuất huyết, một căn bệnh khủng khiếp do muỗi truyền lây nhiễm cho 400 triệu người mỗi năm. Cảm ơn bạn đã quan tâm đến việc tìm hiểu về tất cả những cải tiến đang được thực hiện để chống lại dịch bệnh lây lan từ loài động vật nguy hiểm nhất trên thế giới.

Cảm ơn bạn đã là Người trong cuộc!

Cách chống lại bệnh sốt rét trong đại dịch

Bất chấp sự gián đoạn của COVID-19, các chương trình sốt rét của Châu Phi vẫn tiếp tục duy trì các nỗ lực điều trị và kiểm soát bệnh sốt rét. Khi bắt đầu đại dịch, nhiều người lo sợ rằng không chỉ bản thân COVID-19 sẽ là một thảm họa, mà việc khóa cửa và các phương pháp phòng ngừa khác sẽ có tác động khủng khiếp: làm gián đoạn cuộc chiến chống sốt rét một cách thảm khốc. Một phân tích mô hình từ Tổ chức Y tế Thế giới, mà tôi đã chia sẻ ở đây vào năm ngoái, cho thấy rằng số ca tử vong do sốt rét hàng năm ở châu Phi cận Sahara có thể tăng gấp đôi, trở lại tỷ lệ tử vong chưa từng thấy trong hơn 20 năm.

Một năm sau, tôi rất vui khi có thể thông báo rằng trường hợp xấu nhất này, ít nhất là hiện tại, đã tránh được. Đó là nhờ sự lãnh đạo của các quốc gia châu Phi đã nhanh chóng điều chỉnh các chương trình sốt rét của họ để đáp ứng những thách thức của đại dịch. Thực hành các biện pháp tránh xa xã hội và các biện pháp an toàn khác, nhân viên sốt rét đã có thể thực hiện nhiệm vụ của mình, cung cấp màn ngủ được xử lý thuốc trừ sâu lâu dài, kiểm soát quần thể muỗi bằng cách phun trong nhà và điều trị dự phòng cho phụ nữ mang thai và trẻ em. Ở Nigeria, quốc gia vẫn phải chịu 60 triệu ca sốt rét mỗi năm, các nhân viên y tế thậm chí còn tăng cường cung cấp dịch vụ kiểm soát sốt rét, bảo vệ hàng triệu trẻ em trong một trong những chiến dịch lớn nhất của họ cho đến nay.

Đồng thời, các nguồn tài nguyên về sốt rét đã phục vụ hai nhiệm vụ, giải quyết căn bệnh do muỗi truyền và giúp kiểm soát sự lây lan của COVID-19.

Tại Zambia, các nhà khoa học và thiết bị trong phòng thí nghiệm giám sát bộ gen của Chương trình Loại trừ Sốt rét Quốc gia được sử dụng để theo dõi tình trạng kháng thuốc sốt rét đã nhanh chóng xoay trục để tìm ra các biến thể COVID-19 ở quốc gia này. Tại Mozambique, một ứng dụng được tạo cho nhân viên y tế để cung cấp báo cáo theo thời gian thực về các ca sốt rét và sốt đã cung cấp dữ liệu quan trọng cho phản ứng COVID quốc gia.

 Bất chấp sự tiến bộ này, công việc của chúng tôi vẫn chưa kết thúc. Bệnh sốt rét vẫn giết chết hơn 400.000 người mỗi năm. Và việc ngăn chặn đại dịch và hạn chế di chuyển đã cản trở một số hoạt động sốt rét quan trọng, bao gồm cả việc tiếp cận các nỗ lực chẩn đoán và điều trị ở châu Phi.

Tuy nhiên, tôi vẫn lạc quan rằng một thế giới không có bệnh sốt rét đang trong tầm tay. Và đại dịch COVID-19 nhắc nhở chúng ta lý do tại sao diệt trừ bệnh sốt rét là điều cần thiết. Nhiều nền tảng chúng ta cần để chống lại bệnh sốt rét và ngăn chặn đại dịch tiếp theo giống nhau: dữ liệu chính xác, thời gian thực; chuỗi cung ứng đáng tin cậy để đưa thuốc và nguồn lực đến những nơi cần thiết nhất; và cộng tác xuyên quốc gia.

Đầu tư vào các chương trình chống sốt rét giúp xây dựng hệ thống y tế mạnh mẽ hơn, không chỉ giúp cứu sống và chấm dứt bệnh sốt rét mà còn bảo vệ chúng ta khỏi đại dịch tiếp theo. Và điều đó tạo ra một thế giới lành mạnh, an toàn hơn cho tất cả mọi người.”

BillGates“Đừng so sánh mình với bất cứ ai trong thế giới này … nếu bạn làm như vậy, bạn đang sỉ nhục chính mình” (Don’t compare yourself with anyone in this world … if you do so, you are insulting yourself. Bill Gates).

Gates Notes@BillGates là một trong những trang yêu thích nhất của tôi. Văn hóa mạng ngày nay đang tương tác mỗi lúc một hoàn hảo và hợp lý hơn với văn hóa đọc, đó là sự phối kết của phát triển và bảo tồn. Văn hóa mạng nhanh mạnh hiệu quả hơn, chia sẽ hơn, cần cho sự đọc mau lẹ và tiết kiệm thời gian hơn,  trong khi văn hóa đọc sâu sắc, tinh tế hơn, chắt lọc hơn, cần cho bảo tồn và suy ngẫm nhiều hơn, lắng đọng tinh hoa hơn. Trang Gates Notes@BillGates tổng hòa khá hoàn hảo điều đó.

Những câu nói Bill Gates thật đáng suy ngẫm. Cuộc đời của nhiều người không thành công và kém may mắn có thể vịn lời ông mà đứng dậy. Minh triết nhân sinh của Bill Gates thật chí thiện, trí tuệ với tư duy mạch lạc và có hệ thống khoa học. Bill Gates là chuyên gia hàng đầu của máy tính nhưng trong Gates Notes công việc đầu tư tiền bạc, công sức và thời gian của ngân quỹ Bill & Melinda Gates Foundation lại xếp hàng đầu cho nông nghiệp, thiên nhiên, đồ ăn thức uống của con người.

Sự lựa chọn này của Bill Gates làm tôi nhớ đến lời thầy Norman Borlaug: “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời”.

BillGatesfamilyBill Gates có một gia đình hạnh phúc thật sự. Bill Gates được coi là người giàu nhất thế giới, với tài sản trên 100 tỷ đô la US , tuyên bố sẽ cho đi 99% tài sản của mình và sẽ chỉ để lại cho ba đứa con một phần rất nhỏ, chưa tới 1% tổng số tài sản.

Bill Gates đã nghĩ thật thoáng và thật chuẩn mực khi được hỏi tại làm sao ông không để cho các con ông nhiều hơn thế để bảo đảm cuộc sống sung túc hơn, Bill Gates nói:

Tôi và vợ tôi đều muốn cho con cháu có được cuộc sống thực sự của riêng chúng. Tôi không muốn chúng thành cái bóng của tôi hay suốt đời sống dựa vào (tiền của) tôi. Tôi muốn chúng có nghề nghiệp riêng, có con đường đi cho riêng mình, giàu hay nghèo do chúng tự chọn lựa. Tôi mong chúng được trải nghiệm tất cả hương vị của cuộc sống, từ những nỗ lực để vượt qua khó khăn đến những suy nghĩ cân nhắc để phát triển. Cuộc sống thực sự phải có dễ có khó, có thăng có trầm, có vui có buồn, có lúc lo lắng có lúc bình tâm … Như vậy mới thực sự là sống! Chứ nếu tôi để lại cho các con tôi nhiều tiền của quá, chúng sẽ đâm ra lười biếng và sống cuộc sống nhàm chán, vì không còn thử thách và hồi hộp hay hy vọng gì nữa! Nếu tôi làm như vậy khác nào biến các con tôi thành robot chỉ biết ăn rồi ngủ rồi đi chơi rồi chờ chết? Làm vậy là làm hại các con chứ đâu phải là thương yêu?”

Tôi thích sự học để làm, học vừa làm rất trí tuệ của ông. Câu châm ngôn hay về “sự đọc” vận vào đây thật đúng: “Trong một thế giới có đủ bình tâm, người viết nhỏ hơn người đọc, người đọc nhỏ hơn quyển truyện họ đang đọc, và quyển truyện nhỏ hơn sự đọc. Người viết và người đọc rồi chết, truyện rồi quên. Sự đọc ở lại và làm nên một phần mênh mông trong định nghĩa của việc làm người“.

Bill Gates học để làm thật thấm thía.

Hoàng Kim

MƯỜI CÂU NÓI NỔI TIẾNG CỦA BILL GATE

Bill Gates – ông chủ của tập đoàn máy tính lớn nhất thế giới Microsoft – trước khi về hưu vào đầu tháng 7 năm 2008, đã đưa ra 10 lời khuyên dành cho các bạn thanh niên trên con đường lập nghiệp. Hải Hiền VNN đã đưa tin. PGS.TS. Phan Thanh Kiếm đã kịp thời chuyển tin này cho DẠY VÀ HỌC

1. Thế giới vốn không công bằng. Bạn biết điều này chứ? Dù bạn có nhận thấy sự bất công trong xã hội hay không thì cũng đừng hy vọng làm thay đổi được nó. Việc cần làm là hãy thích nghi với nó.

2. Mọi người sẽ không bao giờ ngó ngàng đến lòng tự trọng của bạn, điều mà họ quan tâm chính là thành tựu mà bạn đạt được. Do đó, trước khi có được những thành tựu thì bạn đừng nên quá chú trọng hay cường điệu lòng tự trọng của bản thân mình lên.

3. Thường thì bạn sẽ không thể trở thành CEO nếu chỉ mới tốt nghiệp trung học. Nhưng khi bạn đã trở thành một CEO thì không còn ai để ý là bạn mới chỉ có tốt nghiệp trung học nữa.

4. Khi bạn gặp khó khăn hay bế tắc trong công việc thì đừng có oán trách số phận. Điều bạn học được khi gặp trắc trở chính là kinh nghiệm và bài học để lần sau không bao giờ mắc phải nữa.

5. Nên hiểu một điều rằng: Trước khi có bạn, bố mẹ bạn không phải là những người “chán ngắt, vô vị” như bạn của ngày hôm nay đã nghĩ. Đây chính là cái giá rất lớn mà bố mẹ đã phải trả cho sự trưởng thành của bạn.

6. Khi đi học, bạn đứng thứ mấy trong lớp cũng không phải là vấn đề quan trọng. Nhưng khi đã bước chân ra xã hội thì mọi việc lại không đơn giản như vậy. Dù đi đâu hay làm công việc gì bạn cũng nên tạo đẳng cấp cho mình.

7. Khi đi học, bạn luôn mong chờ đến ngày nghỉ lễ, Tết. Khi đi làm thì hoàn toàn không giống vậy, dường như là bạn sẽ không được nghỉ ngơi. Công việc sẽ cuốn bạn đi bất cứ lúc nào kể cả ngày nghỉ.

8. Khi ngồi trên ghế nhà trường, lúc gặp khó khăn trong học tập thì có giáo viên giúp đỡ bạn. Tuy nhiên, nếu lúc đó bạn lại cảm thấy mọi khó khăn đều do những yêu cầu quá nghiêm khắc từ phía giáo viên thì bạn đừng nên đi làm sau khi tốt nghiệp. Đơn giản nếu như không có những yêu cầu nghiêm khắc từ phía công ty thì chắc chắn bạn sẽ không làm được gì và sẽ nhanh chóng thất nghiệp, hơn nữa lúc này sẽ không có ai giúp đỡ bạn cả.

9. Mọi người đều thích xem phim truyền hình, nhưng bạn không nên xem nhiều vì đó không phải là cuộc sống của bạn. Vì công việc ở công ty mới phản ánh cuộc sống thực của bạn.

10. Không bao giờ phê bình người khác sau lưng của họ, đặc biệt đừng bao giờ phê phán sếp là người không có năng lực, điều này là không đúng.

Theo Hải Hiền – VNN, năm 2008


Remarks of Bill Gates, Harvard Commencement 2007

President Bok, former President Rudenstine, incoming President Faust, members of the Harvard Corporation and the Board of Overseers, members of the faculty, parents, and especially, the graduates:

I’ve been waiting more than 30 years to say this: “Dad, I always told you I’d come back and get my degree.”

I want to thank Harvard for this timely honor. I’ll be changing my job next year … and it will be nice to finally have a college degree on my resume.

I applaud the graduates today for taking a much more direct route to your degrees. For my part, I’m just happy that the Crimson has called me “Harvard’s most successful dropout.” I guess that makes me valedictorian of my own special class … I did the best of everyone who failed.

But I also want to be recognized as the guy who got Steve Ballmer to drop out of business school. I’m a bad influence. That’s why I was invited to speak at your graduation. If I had spoken at your orientation, fewer of you might be here today.

Harvard was just a phenomenal experience for me. Academic life was fascinating. I used to sit in on lots of classes I hadn’t even signed up for. And dorm life was terrific. I lived up at Radcliffe, in Currier House. There were always lots of people in my dorm room late at night discussing things, because everyone knew I didn’t worry about getting up in the morning. That’s how I came to be the leader of the anti-social group. We clung to each other as a way of validating our rejection of all those social people.

Radcliffe was a great place to live. There were more women up there, and most of the guys were science-math types. That combination offered me the best odds, if you know what I mean. This is where I learned the sad lesson that improving your odds doesn’t guarantee success.

One of my biggest memories of Harvard came in January 1975, when I made a call from Currier House to a company in Albuquerque that had begun making the world’s first personal computers. I offered to sell them software.

I worried that they would realize I was just a student in a dorm and hang up on me. Instead they said: “We’re not quite ready, come see us in a month,” which was a good thing, because we hadn’t written the software yet. From that moment, I worked day and night on this little extra credit project that marked the end of my college education and the beginning of a remarkable journey with Microsoft.

What I remember above all about Harvard was being in the midst of so much energy and intelligence. It could be exhilarating, intimidating, sometimes even discouraging, but always challenging. It was an amazing privilege – and though I left early, I was transformed by my years at Harvard, the friendships I made, and the ideas I worked on.

But taking a serious look back … I do have one big regret.

I left Harvard with no real awareness of the awful inequities in the world – the appalling disparities of health, and wealth, and opportunity that condemn millions of people to lives of despair.

I learned a lot here at Harvard about new ideas in economics and politics. I got great exposure to the advances being made in the sciences.

But humanity’s greatest advances are not in its discoveries – but in how those discoveries are applied to reduce inequity. Whether through democracy, strong public education, quality health care, or broad economic opportunity – reducing inequity is the highest human achievement.

I left campus knowing little about the millions of young people cheated out of educational opportunities here in this country. And I knew nothing about the millions of people living in unspeakable poverty and disease in developing countries.

It took me decades to find out.

You graduates came to Harvard at a different time. You know more about the world’s inequities than the classes that came before. In your years here, I hope you’ve had a chance to think about how – in this age of accelerating technology – we can finally take on these inequities, and we can solve them.

Imagine, just for the sake of discussion, that you had a few hours a week and a few dollars a month to donate to a cause – and you wanted to spend that time and money where it would have the greatest impact in saving and improving lives. Where would you spend it?

For Melinda and for me, the challenge is the same: how can we do the most good for the greatest number with the resources we have.

During our discussions on this question, Melinda and I read an article about the millions of children who were dying every year in poor countries from diseases that we had long ago made harmless in this country. Measles, malaria, pneumonia, hepatitis B, yellow fever. One disease I had never even heard of, rotavirus, was killing half a million kids each year – none of them in the United States.

We were shocked. We had just assumed that if millions of children were dying and they could be saved, the world would make it a priority to discover and deliver the medicines to save them. But it did not. For under a dollar, there were interventions that could save lives that just weren’t being delivered.

If you believe that every life has equal value, it’s revolting to learn that some lives are seen as worth saving and others are not. We said to ourselves: “This can’t be true. But if it is true, it deserves to be the priority of our giving.”

So we began our work in the same way anyone here would begin it. We asked: “How could the world let these children die?”

The answer is simple, and harsh. The market did not reward saving the lives of these children, and governments did not subsidize it. So the children died because their mothers and their fathers had no power in the market and no voice in the system.

But you and I have both.

We can make market forces work better for the poor if we can develop a more creative capitalism – if we can stretch the reach of market forces so that more people can make a profit, or at least make a living, serving people who are suffering from the worst inequities. We also can press governments around the world to spend taxpayer money in ways that better reflect the values of the people who pay the taxes.

If we can find approaches that meet the needs of the poor in ways that generate profits for business and votes for politicians, we will have found a sustainable way to reduce inequity in the world.
This task is open-ended. It can never be finished. But a conscious effort to answer this challenge will change the world.

I am optimistic that we can do this, but I talk to skeptics who claim there is no hope. They say: “Inequity has been with us since the beginning, and will be with us till the end – because people just … don’t … care.”
I completely disagree.

I believe we have more caring than we know what to do with.

All of us here in this Yard, at one time or another, have seen human tragedies that broke our hearts, and yet we did nothing – not because we didn’t care, but because we didn’t know what to do. If we had known how to help, we would have acted.

The barrier to change is not too little caring; it is too much complexity.

To turn caring into action, we need to see a problem, see a solution, and see the impact. But complexity blocks all three steps.

Even with the advent of the Internet and 24-hour news, it is still a complex enterprise to get people to truly see the problems. When an airplane crashes, officials immediately call a press conference. They promise to investigate, determine the cause, and prevent similar crashes in the future.

But if the officials were brutally honest, they would say: “Of all the people in the world who died today from preventable causes, one half of one percent of them were on this plane. We’re determined to do everything possible to solve the problem that took the lives of the one half of one percent.”

The bigger problem is not the plane crash, but the millions of preventable deaths.

We don’t read much about these deaths. The media covers what’s new – and millions of people dying is nothing new. So it stays in the background, where it’s easier to ignore. But even when we do see it or read about it, it’s difficult to keep our eyes on the problem. It’s hard to look at suffering if the situation is so complex that we don’t know how to help. And so we look away.

If we can really see a problem, which is the first step, we come to the second step: cutting through the complexity to find a solution.

Finding solutions is essential if we want to make the most of our caring. If we have clear and proven answers anytime an organization or individual asks “How can I help?,” then we can get action – and we can make sure that none of the caring in the world is wasted. But complexity makes it hard to mark a path of action for everyone who cares — and that makes it hard for their caring to matter.

Cutting through complexity to find a solution runs through four predictable stages: determine a goal, find the highest-leverage approach, discover the ideal technology for that approach, and in the meantime, make the smartest application of the technology that you already have — whether it’s something sophisticated, like a drug, or something simpler, like a bednet.

The AIDS epidemic offers an example. The broad goal, of course, is to end the disease. The highest-leverage approach is prevention. The ideal technology would be a vaccine that gives lifetime immunity with a single dose. So governments, drug companies, and foundations fund vaccine research. But their work is likely to take more than a decade, so in the meantime, we have to work with what we have in hand – and the best prevention approach we have now is getting people to avoid risky behavior.

Pursuing that goal starts the four-step cycle again. This is the pattern. The crucial thing is to never stop thinking and working – and never do what we did with malaria and tuberculosis in the 20th century – which is to surrender to complexity and quit.

The final step – after seeing the problem and finding an approach – is to measure the impact of your work and share your successes and failures so that others learn from your efforts.

You have to have the statistics, of course. You have to be able to show that a program is vaccinating millions more children. You have to be able to show a decline in the number of children dying from these diseases. This is essential not just to improve the program, but also to help draw more investment from business and government.

But if you want to inspire people to participate, you have to show more than numbers; you have to convey the human impact of the work – so people can feel what saving a life means to the families affected.

I remember going to Davos some years back and sitting on a global health panel that was discussing ways to save millions of lives. Millions! Think of the thrill of saving just one person’s life – then multiply that by millions. … Yet this was the most boring panel I’ve ever been on – ever. So boring even I couldn’t bear it.

What made that experience especially striking was that I had just come from an event where we were introducing version 13 of some piece of software, and we had people jumping and shouting with excitement. I love getting people excited about software – but why can’t we generate even more excitement for saving lives?

You can’t get people excited unless you can help them see and feel the impact. And how you do that – is a complex question.

Still, I’m optimistic. Yes, inequity has been with us forever, but the new tools we have to cut through complexity have not been with us forever. They are new – they can help us make the most of our caring – and that’s why the future can be different from the past.

The defining and ongoing innovations of this age – biotechnology, the computer, the Internet – give us a chance we’ve never had before to end extreme poverty and end death from preventable disease.

Sixty years ago, George Marshall came to this commencement and announced a plan to assist the nations of post-war Europe. He said: “I think one difficulty is that the problem is one of such enormous complexity that the very mass of facts presented to the public by press and radio make it exceedingly difficult for the man in the street to reach a clear appraisement of the situation. It is virtually impossible at this distance to grasp at all the real significance of the situation.”

Thirty years after Marshall made his address, as my class graduated without me, technology was emerging that would make the world smaller, more open, more visible, less distant.

The emergence of low-cost personal computers gave rise to a powerful network that has transformed opportunities for learning and communicating.

The magical thing about this network is not just that it collapses distance and makes everyone your neighbor. It also dramatically increases the number of brilliant minds we can have working together on the same problem – and that scales up the rate of innovation to a staggering degree.

At the same time, for every person in the world who has access to this technology, five people don’t. That means many creative minds are left out of this discussion — smart people with practical intelligence and relevant experience who don’t have the technology to hone their talents or contribute their ideas to the world.

We need as many people as possible to have access to this technology, because these advances are triggering a revolution in what human beings can do for one another. They are making it possible not just for national governments, but for universities, corporations, smaller organizations, and even individuals to see problems, see approaches, and measure the impact of their efforts to address the hunger, poverty, and desperation George Marshall spoke of 60 years ago.

Members of the Harvard Family: Here in the Yard is one of the great collections of intellectual talent in the world.

What for?

There is no question that the faculty, the alumni, the students, and the benefactors of Harvard have used their power to improve the lives of people here and around the world. But can we do more? Can Harvard dedicate its intellect to improving the lives of people who will never even hear its name?

Let me make a request of the deans and the professors – the intellectual leaders here at Harvard: As you hire new faculty, award tenure, review curriculum, and determine degree requirements, please ask yourselves:

Should our best minds be dedicated to solving our biggest problems?

Should Harvard encourage its faculty to take on the world’s worst inequities? Should Harvard students learn about the depth of global poverty … the prevalence of world hunger … the scarcity of clean water …the girls kept out of school … the children who die from diseases we can cure?

Should the world’s most privileged people learn about the lives of the world’s least privileged?

These are not rhetorical questions – you will answer with your policies.

My mother, who was filled with pride the day I was admitted here – never stopped pressing me to do more for others. A few days before my wedding, she hosted a bridal event, at which she read aloud a letter about marriage that she had written to Melinda. My mother was very ill with cancer at the time, but she saw one more opportunity to deliver her message, and at the close of the letter she said: “From those to whom much is given, much is expected.”

When you consider what those of us here in this Yard have been given – in talent, privilege, and opportunity – there is almost no limit to what the world has a right to expect from us.

In line with the promise of this age, I want to exhort each of the graduates here to take on an issue – a complex problem, a deep inequity, and become a specialist on it. If you make it the focus of your career, that would be phenomenal. But you don’t have to do that to make an impact. For a few hours every week, you can use the growing power of the Internet to get informed, find others with the same interests, see the barriers, and find ways to cut through them.

Don’t let complexity stop you. Be activists. Take on the big inequities. It will be one of the great experiences of your lives.

You graduates are coming of age in an amazing time. As you leave Harvard, you have technology that members of my class never had. You have awareness of global inequity, which we did not have. And with that awareness, you likely also have an informed conscience that will torment you if you abandon these people whose lives you could change with very little effort.
You have more than we had; you must start sooner, and carry on longer.

Knowing what you know, how could you not?

And I hope you will come back here to Harvard 30 years from now and reflect on what you have done with your talent and your energy. I hope you will judge yourselves not on your professional accomplishments alone, but also on how well you have addressed the world’s deepest inequities … on how well you treated people a world away who have nothing in common with you but their humanity.

Good luck.

GreenSuperRiceinVietnam

LÚA SIÊU XANH VIỆT NAM
Bill Gates trong chuyen vui


Bill Gates đi vào câu chuyện đời thường người Việt. Ngưỡng mộ Bill Gates học để làm, và vui đùa theo câu chuyện của Bill Keller. Gia đình tôi dự cưới của vợ chồng cháu Hoàng Thế Toàn là con trai vợ chồng anh Hoàng Trung Trực, tôi đùa vui với Hoang Long và mọi người

Con trai tôi là Hoàng Long năm 2016 đang học nghiên cứu sinh tiến sĩ, học bổng Melinda Gates, tại Viện Hàn Lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc, CAAS, Bắc Kinh, Trung Quốc, với sự hướng dẫn của thầy Zhikang Li và thầy Tian Qing Zheng..Hoàng Long học và làm Lúa siêu xanh Việt Nam, ước mơ bảo tồn và phát triển đề tài “Chọn tạo giống lúa siêu xanh thích ứng biến đổi khí hậu ở Việt Nam”.

Hoàng Long thật sự yêu thích Lúa Siêu Xanh Việt Nam kết nối CAAS IRRI. Điều này nếu thực hiện được sẽ thật tốt cho người nông dân Việt và chương trình lúa gạo Việt Nam. Tôi nói vui (nói trạng) với Hoang Long con trai tôi, theo câu chuyện của Bill Keller, trong tiệc vui làm ai cũng cười . Tôi chỉ sửa đôi chữ nguyên bản “Con sẽ kết hôn với cô gái do ba chọn” Nó nói: “Không!”. Tôi nói với nó, “Cô ấy là con gái của Bill Gates”. Nó nói, “OK.” Tôi nhắn tin cho Bill Gates Melinda Gates và nói, “tôi muốn ông gả con gái của mình cho con trai của tôi.” Bill Gates nói, “Không.” tôi nói với Bill Gates, con trai tôi là người lãnh đạo của Lúa Siêu Xanh ở Việt Nam “, Bill Gates nói:” OK “. Tôi gọi điện cho thầy Tiến sĩ Zhikang Li , Giám đốc Lúa Siêu Xanh Toàn Cầu và hỏi thầy để cho con trai tôi làm CEO Lúa Siêu Xanh Việt Nam. Thầy nói, “Không.” Tôi nói với thầy, “Con trai tôi là con rể của Bill Gates. Ông nói, “OK.” Đây chính là cách mà các nhà chính trị hoạt động. Cám ơn Bill Keller với câu chuyện vui này. Chúng ta yêu mến Bill Gate thật nhiều)

(I told my son, “You will marry the girl I choose.” He said, “NO!” I told him, “She is Bill Gates’ daughter.” He said, “OK.” I called Bill Gates and said, “I want your daughter to marry my son.” Bill Gates said, “NO.” I told Bill Gates, My son is the leader of Green Super Rice in Vietnam ” Bill Gates said, “OK.” I called Dr. Li, the President of Green Super Rice and asked him to make my son the CEO. He said, “NO.” I told him, “My son is Bill Gates’ son-in-law.” He said, “OK.” This is exactly how politics works . . . Thanks Bill Keller for the story! We love Bill Gate very much.)

Cảm ơn Bill Keller cho câu chuyện gốc tương tự. Tôi chỉ sửa đôi chữ nguyên bản và nói trang chuyện này trong buổi tiệc vui … Tôi sẽ gửi bạn một ít ảnh nữa bên dưới để minh họa. Lúa siêu xanh Việt Nam là một câu chuyện dài …

Cảm ơn Bill GatesMelinda Gates. Biết ơn học bổng mà ông bà đã dành cho Hoang Long con trai tôi. Đó là niềm vui thực sự. Tôi đọc lại chuyện “nói trạng” vui này mà ứa nước mắt Bill Gates học để làm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bill-gates-hoc-de-lam/

LÚA SIÊU XANH VIỆT NAM KẾT NỐI CAAS IRRI
Hoàng Kim


Sau bảy năm (2012-2018) đánh giá và tuyển chọn giống lúa siêu xanh (GSR Green Super Rice) Việt Nam, ngày 24 tháng 5 năm 2018 tại Viện Khoa học Cây trồng, Viện Hàn lâm Nông nghiệp Trung Quốc (CAAS) tiến sĩ Hoàng Kim đã gặp Giáo sư tiến sĩ  Zhikang Li và Phó Giáo sư tiến sĩ Tian-Qing Zheng để trao đổi kế hoạch hợp tác Lúa Siêu Xanh Việt Nam kết nối CAAS IRRI trong việc đánh giá mở rộng các giống lúa GSR65, GSR90 tại Phú Yên , các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Đồng Bằng Sông Cửu Long. Giáo sư tiến sĩ  Zhikang Li và Phó Giáo sư tiến sĩ Tian-Qing Zheng thông tin sẽ sắp xếp lịch đến thăm lúa siêu xanh ở Phú Yên và Đắc Lắc , Sóc Trang vào khoảng tháng Tám hoặc tháng Mười để bàn kế họach nghiên cứu phát triển. Sự cấp bách xây dựng vùng giống cho sản xuất mở rộng vụ đông xuân tới. Tình hình tốt.

LÚA SIÊU XANH VIỆT NAM
Viet Nam Green Super Rice (GVN & GSR)

Hoang Long, Nguyễn Văn Phu, Trúc Mai,
Tin Mật, Phuoc Nguyen Thanh, Hoàng Kim và tập thể
Nhớ ai vừng đông vừa rạng
Ước dòng tin nhắn đầu tiên
Hương đất thơm mùi ruộng cấy
Phương xa vời vợi bạn hiền
Ở đâu lung linh Kiếp Bạc
Sao Khuê vằng vặc Côn Sơn
Ở đâu một trời thương nhớ
Cho ta khoảng lặng tâm hồn
http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkim

LÚA SIÊU XANH VIỆT NAM Về miền Tây với Hai Lúa https://www.facebook.com/photo.php?fbid=10211457387531986&set=pob.100005991462558&type=3&theater
GSR65 Gạo Việt chất lượng và thương hiệu https://hoangkimlong.wordpress.com/category/gao-viet-chat-luong-va-thuong-hieu/

Xem tiếp
Con đường lúa gạo Việt Nam
Lúa Siêu Xanh Việt Nam kết nối CAAS IRRI
Việt Nam con đường xanh

xem tiếp:
Bill Gates học để làm
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bill-gates-hoc-de-lam/

Bài viết mới trên TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây   cp nht mi ngày

Video yêu thích
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim  Ngọc Phương Nam  Thung dung  Dạy và học  Cây Lương thực  Dạy và Học  Tình yêu cuộc sống  Kim on LinkedIn  Kim on Facebook Kim on Twitter

6 thoughts on “Hiểu sách Nhàn đọc giấu

  1. Pingback: Lúa Sắn Việt Nam đến châu Phi | Tình yêu cuộc sống

  2. Pingback: Lúa sắn Việt Nam tới châu Phi | Tình yêu cuộc sống

  3. Pingback: Nhớ châu Phi | Tình yêu cuộc sống

  4. Pingback: Nam Mỹ trong mắt tôi | Tình yêu cuộc sống

Bình luận về bài viết này