Đối thoại với Thiền sư SUỐI NGUỒN HẠNH PHÚC TRÍ HUỆ Hoàng Kim Lắng học lời hay tâm tư thanh thản Tỉnh thức ban mai nhớ đến bạn hiền. Nắng sớm chan hòa trái tim nhẹ nhõm Kho báu chính mình phúc hậu an nhiên. Đến chốn thung dung,
Sớm thu trong lành, tôi vui đọc BẢY ĐIỀU LÀNH HẠNH PHÚC MÀ TA HAY
LÃNG QUÊN và Ý NGHĨA CỦA HẠNH PHÚC được cho là của Đạt Lai Lat Ma.
7 ĐIỀU HẠNH PHÚC MÀ TA HAY LÃNG QUÊN.
Hạnh phúc là khi ta có hay khi nghĩ tới một trong bảy điều sau đây: 1. Ta đang còn sống 2. Ta có sức khỏe 3 Ta có đủ sáu căn 4. Ta có tự do 5. Ta có tiện nghi vật chất 6. Ta có tình thương 7. Ta có sự hiểu biết
Nếu bạn có tất cả bảy điều trên, bạn là người rất hạnh phúc.
CHIẾC VA Li CỦA THƯỢNG ĐẾ
Một người đàn ông đang đi vào cõi chết, thấy Thượng Đế đang đến gần, tay cầm một cái va-li và bảo:
– Này con, đã đến lúc đi rồi.
Người đàn ông hỏi: “Ngay bây giờ sao?, mau quá vậy ?. Con còn nhiều dự định…”.
– Rất tiếc, nhưng đã đến giờ đi rồi. Thượng Đế trả lời.
– Ngài có gì trong cái va-li đó vậy ?
– Những gì thuộc về nhà ngươi.
– Những gì thuộc về con ư ?. Đồ đạc, áo quần, hay tiền bạc ?
– Những cái đó đã không phải của nhà người; chúng thuộc về Trần gian.
– Có phải nó là ký ức của con?
– Không. Những cái đó đã không bao giờ thuộc về nhà ngươi; chúng thuộc về Thời gian.
– Vậy chắc là tài năng của con ?
– Không. Những thứ đó đã không bao giờ là của nhà ngươi; chúng tuỳ thuộc vào những tình huống.
– Hay là bạn bè và gia đình ?
– Cùng không. Chúng đã không bao giờ là của nhà ngươi; họ thuộc về con đường mà nhà người đã đi qua.
– Có phải là vợ con của con ?
– Họ đã không bao giờ là của nhà ngươi; họ thuộc vào trái tim của nhà ngươi.
– Có phải là thân xác con ?
– Càng không. Cái đó đã không bao giờ là của nhà ngươi; nó thuộc về Hành tinh cát bụi.
– Vậy phải là linh hồn của con?
– Càng không phải. Cái đó là của ta.
Tay run run, người đàn ông nhận cái va-li có ghi ngày sinh của ông.
Mở ra và chỉ thấy nó trống trơn. Một giọt nước mắt lăn xuống, người đàn
ông thốt lên:
– Thế con chẳng có gì cả sao ?.
– Có chứ, trong ấy đựng những giờ phút mà con đã sống. Đó là của riêng con.
Lời bình:
Cuộc đời rất ngắn ngủi.
Một thời gian thoáng chốc thuộc về bạn.
Đừng bao giờ nghĩ rằng bạn làm chủ mọi thứ.
Hãy sống bây giờ !
Sống đời của bạn !
Sống hạnh phúc; đó mới là điều đáng quan tâm.
Mọi cái vật chất, của nả, danh vị,… và những thứ khác giành được, đều ở
lại trần gian. Lìa cõi này, bạn không thể mang theo bất cứ thứ gì.
Nếu đã biết, thì sao cứ giành dật ?
Chúng sinh có giác cảm thì nhiều vô kể như không gian bao la vô tận,
mà tất cả đều mong muốn tránh khỏi khổ đau và mưu cầu hạnh phúc.
Hãy luôn ghi khắc trong tâm một điều là niềm hạnh phúc và định mệnh
của vô tận chúng sinh là những gì hết sức quan trọng và cần thiết vô
cùng.
Nếu chủ đích của hành động là mang lại sự thích thú thì thiền định chắc chắn sẽ thành công trong mục đích đó.
Lòng ước mong cao cả giúp đỡ người khác mang tính cách thật tích cực.
Đấy là nguồn gốc mang lại hạnh phúc, lòng can đảm và sự thành công cho
chính mình.
Những gì mang lại kết quả tích cực đồng thời cũng có thể hàm chứa khả năng tạo ra hậu quả tiêu cực.
Biết sử dụng trí thông minh con người để phán đoán là những gì thật
hệ trọng, phải cân nhắc cẩn thận giữa cái lợi của hạnh phúc lâu dài và
cái hại của niềm vui trước mắt.
Ước mong với chủ đích chân thật là điều thật tích cực, trái lại nếu
hướng vào những gì không ngay thật thì đấy chỉ là những ước mong tiêu
cực rồi sẽ mang lại khó khăn.
Ước mong chân chính là động cơ thúc đẩy quan trọng nhất giúp mang lại hạnh phúc cho mình trong hiện tại và cả trong tương lai.
Vui lòng với những gì mình có là yếu tố quan trọng hơn cả để giúp ta tìm thấy hạnh phúc.
Thật vậy, tuy sức khoẻ, của cải và tình thân hữu là ba yếu tố cần
thiết giúp ta đi đến mục đích đó, thế nhưng biết vui lòng với những gì
mình có lại là chiếc chìa khóa mở ra cho ta cánh cửa mang lại niềm hạnh
phúc phát sinh từ ba yếu tố ấy.
Không một nguyên nhân sẵn có nào có thể mang lại hạnh phúc cho mình một cách vô cớ.
Thật thế, hạnh phúc lệ thuộc vào rất nhiều nguyên nhân. Điều đó có
nghĩa là nếu ta muốn có một cuộc sống hạnh phúc hơn trong tương lai thì
giờ phút này phải hết lòng chăm lo cho những người chung quanh.
Người tu tập Đạo Pháp một cách đúng đắn phải luôn nhớ rằng sự giận dữ
là nguồn gốc đưa đến vô số hậu quả tai hại và lòng từ bi sẽ mang lại
các kết quả tích cực.
Ta phải nghĩ đến cảnh huống của người làm đối tượng cho cơn giận dữ
của ta, người ấy nào có khác gì ta : họ cũng ước mong tìm được hạnh phúc
và loại bỏ khổ đau như ta mà thôi!
Hiểu được như vậy thì ta sẽ không thế nào tự bào chữa cho hành vi của mình khi cố tình làm cho người ấy tổn thương.
Để đạt được hạnh phúc và tự giải thoát cho mình khỏi cảnh khốn cùng
từ kiếp này sang kiếp khác, tôi phải luôn luôn xem ba thứ nọc độc – tức
những thứ xúc cảm bấn loạn phát sinh từ dục vọng, hận thù và vô minh –
là kẻ thù của tôi.
Kiến tạo hạnh phúc, vượt qua cảnh khốn cùng thật ra cũng không khác
gì với các công việc khác. Muốn làm được những việc này ta phải tạo ra
những yếu tố thuận lợi và đồng thời phải tìm cách loại bỏ các chướng
ngại.
Chuyện ấy nào có khác gì khi ta muốn đạt được một địa vị xã hội hay
tìm kiếm danh vọng và giàu sang vì khi ấy ta cũng phải tạo ra một số yếu
tố thuận lợi nào đó.
Nhất thiết chúng ta đều là những sinh vật sống thành đàn, phải lệ
thuộc vào nhau để sinh tồn. Chúng ta chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc, sự
phồn vinh và thăng tiến nhờ vào sự tương liên chặt chẽ trong xã hội.
Sự thân thiện và giúp đỡ người khác sẽ mang lại cho mình hạnh phúc,
giống như một tâm thức Giác ngộ sẽ mang lại trí tuệ cho chính mình.
Chúng sinh có giác cảm thật đông đảo và phức tạp.
Một số giúp đỡ ta, một số khác làm ta bị tổn thương, thế nhưng tất cả
đều giống nhau ở một điểm là đều mong cầu hạnh phúc và e sợ khổ đau, vì
thế tất cả đều ngang hàng với nhau.
Tất cả chúng sinh đều như nhau, đều ước mong được hạnh phúc và tránh khỏi khổ đau, thế nhưng họ lại không tìm thấy hạnh phúc.
Với tất cả sự thành tâm phát lộ từ đáy tim mình hãy hiến dâng cho
chúng sinh tất cả những phẩm tính tích cực phát sinh từ thân xác, tâm
thức và ngôn từ của mình, kể cả tài sản và những gì mình có hầu giúp
chúng sinh tìm thấy hạnh phúc và những gì mà họ ước mong.
Hạnh phúc và sự toại nguyện của con người rốt lại đều phát sinh từ nội tâm của mỗi người.
Nếu đơn giản chỉ biết sử dụng của cải và các phát minh kỹ thuật [tức
là những điều kiện bên ngoài] như một phương tiện mang lại hạnh phúc tối
hậu cho mình thì đó là một sự sai lầm lớn lao.
Sự tương giao dựa trên lòng từ bi và tình thương yêu giữa con người
với nhau là những gì thật quan trọng và tối cần thiết để góp phần mang
lại hạnh phúc cho con người.
Điều quan trọng nhất trong cuộc sống là tình thương giữa con người.
Thiếu yếu tố đó, con người sẽ không thể tìm thấy hạnh phúc thực sự.
Để cho một cuộc sống cá nhân được hạnh phúc hơn, một gia đình hạnh
phúc hơn, xóm giềng hạnh phúc hơn và một quốc gia hạnh phúc hơn, thì
chìa khóa của sự thành công chính là những phẩm tính thuộc nội tâm của
chính mình.
Chỉ khi nào kiến tạo được một thể dạng tinh thần tích cực cho mình,
thì khi đó dù có rơi vào cảnh huống bị hận thù bủa vây ta vẫn sẽ không
đánh mất sự an bình trong tâm thức.
Ngược lại nếu chỉ biết khăng khăng giữ một thái độ tiêu cực, chi phối
bởi sợ hãi, nghi ngờ, tự cảm thấy bất lực, chán ghét chính mình, thì dù
bạn bè có tốt, bối cảnh có êm ái, các điều kiện môi trường có thuận lợi
mấy đi nữa, ta sẽ vẫn không cảm thấy hạnh phúc.
Vì thế thái độ tâm thần thật quan trọng : chính nó sẽ xác định mức độ hạnh phúc mà ta cảm nhận được.
Biết sống một cuộc đời bình dị thì hạnh phúc sẽ đến với ta.
Ít tham vọng, vừa lòng với những gì mình có, đấy là những gì thật chủ
yếu, thật vậy ta chỉ cần đủ ăn, có một ít quần áo, một mái nhà che thân
là cũng đủ.
Tiếp theo đó, sau khi đã loại bỏ được các thể dạng tâm thần tiêu cực
ta sẽ tìm thấy một niềm hân hoan sâu xa để phát huy một tâm thức vô cùng
thanh thoát nhờ vào phép thiền định.
Kẻ thù đích thực của mình chính là các thứ xúc cảm rất thông thường
của con người, đấy là hận thù, ganh tị và kiêu căng, chúng là những kẻ
thù sẵn sàng hủy hoại tương lai và hạnh phúc của chính mình.
Nếu không tìm được những biện pháp chống trả thích nghi thì khó lòng
mà khống trị được chúng. Một trong các biện pháp hữu hiệu là cách giữ
gìn kỷ cương đạo đức, tuy nhiên điều này không dễ thực hiện khi ta còn
đang trong tình trạng phải đương đầu với mọi thứ xúc cảm tiêu cực.
Thường thì ta chỉ biết sống lây lất trong chờ đợi và hy vọng rồi đây sẽ tìm thấy hạnh phúc.
Thật thế trong số chúng ta nào có ai lại mong muốn khổ đau, và mục
đích đời mình chẳng phải là đạt được hạnh phúc hay sao ? Trên thực tế
niềm hạnh phúc đó có thể đạt được, nó phát sinh trên thân xác và cả
trong tâm thức của mình. Đối với khổ đau cũng thế, ta cũng có thể làm
cho nó giảm đi.
Dù chỉ biết miệt mài quan tâm đến hạnh phúc cá nhân và sự an vui thu
hẹp trong phạm vi của riêng mình, thế nhưng có một lúc nào đó biết đâu
ta bỗng ý thức được cuộc sống cá nhân của mình thật ra lệ thuộc chặt chẽ
vào tất cả những gì đang bao quanh chúng ta. Khi ấy ta mới nhìn thấy
một tương lai thật rộng lớn mở ra trước mắt để đưa ta đến gần hơn với
hiện thực.
Nắm vững được bối cảnh tương lai bao quát ấy thì ta mới có thể tạo ra một cuộc sống hài hòa cho chính mình và cho người khác.
Cảm nhận được hiện tượng tương liên (lý duyên khởi) sẽ giúp ta mở rộng tâm thức của mình hơn.
Nói chung, thay vì hiểu được cảnh huống mà ta cảm nhận được là kết
quả phát sinh từ sự kết nối chằng chịt của vô số nguyên nhân, thì ta lại
đổ thừa cho hạnh phúc hay khổ đau chẳng hạn là những gì mang nguồn gốc
cá nhân [nói một cách khác hạnh phúc và khổ đau của mình liên hệ đến sự
kết nối chằng chịt của vô số nghiệp và cơ duyên kể cả toàn thể chúng
sinh và môi trường chung quanh].
Nếu đúng như thế [tức đơn giản chỉ mang nguồn gốc cá nhân] thì khi
nhận biết một hiện tượng nào đó mà ta cho là tốt thì tất nhiên ta phải
cảm nhận được hạnh phúc chứ, hoặc ngược lại khi nhận biết một cái gì xấu
nhất định ta phải cảm thấy khổ đau [sự cảm nhận một hiện tượng – dù bên
trong hay bên ngoài – đều quá đơn giản để giải thích niềm hạnh phúc hay
nỗi khổ đau của mình, vì đó là kết quả phát sinh từ vô số nguyên nhân
và cơ duyên kết nối chằng chịt với nhau, hiểu được như thế sẽ mở rộng
tâm thức mình giúp mình chấp nhận dễ dàng hơn các thể dạng hạnh phúc hay
khổ đau đang phát sinh trong tâm thức của chính mình].
Đạt-lại Lạt-ma là phiên âm Hán Việt từ chữ Hán 達賴喇嘛. Trên thực tế, sách báo tiếng Việt sử dụng thường xuyên Đạt Lai Lạt Ma. “Đạt-lại” có gốc từ tiếng Mông Cổ nghĩa là “biển cả” còn “Lạt-ma” là từ tiếng Tây Tạng được dịch từ tiếng Phạnguru
गुरू là từ xưng hô dành cho các vị Đạo sư. “Đạt-lại Lạt-ma” có nghĩa là
“Đạo sư với trí huệ như biển cả”. Trong lối dùng hàng ngày nhiều người
còn dùng Phật sống để chỉ Đạt-lại Lạt-ma.
Theo truyền thống của người Tây Tạng, Đạt-lại Lạt-ma là hiện thân
lòng từ của chư Phật và Bồ Tát, người chọn con đường tái sinh trở lại
kiếp người để cứu giúp chúng sanh. Danh hiệu Đạt-lại Lạt-ma cũng được
hiểu là Hộ Tín, “Người bảo vệ đức tin”, Huệ Hải, “Biển lớn của trí tuệ”,
Pháp vương, “Vua của Chánh Pháp”, Như ý châu, “Viên bảo châu như ý”…
Danh hiệu Đạt-lại Lạt-ma được vua Mông CổAltan Khan phong cho phương trượng của trường phái Cách-lỗ (bo. དགེ་ལུགས་པ་, hay Hoàng giáo) vào năm 1578. Kể từ 1617, Đạt-lại Lạt-ma thứ 5 trở thành người lãnh đạo chính trị và tinh thần của Tây Tạng. Kể từ đó, người Tây Tạng xem Đạt-lại Lạt-ma là hiện thân của Quán Thế Âm và Ban-thiền Lạt-ma
là người phụ chính. Mỗi một Đạt-lại Lạt-ma được xem là tái sinh của vị
trước. Vị Đạt-lại Lạt-ma thứ 6 có trình độ học thuật rất cao thâm và
cũng là một nhà thơ.
Trái với quan điểm thông thường, Đạt-lại Lạt-ma không phải là người lãnh đạo tinh thần cao nhất của trường phái Cách-lỗ, địa vị này có tên là Ganden Tripa.
Vị Đạt-lại Lạt-ma hiện nay là vị thứ 14, sống lưu vong tại Ấn Độ từ 1959 đến nay. Sư được trao giải Nobel Hòa bình năm 1989, đồng thời là người đại diện Phật giáo xuất sắc hiện nay trên thế giới. Các tác phẩm Sư viết trình bày Phật giáo Tây Tạng và Phật pháp nói chung được rất nhiều người đọc kể cả người trong các nước Tây phương.
Sư chào đời tại làng Taktser, vùng Đông Bắc Tây Tạng vào ngày 6 tháng 7 năm 1935 trong một gia đình nông dân.[2]
Tên trước khi được thừa nhận trở thành vị Đạt-Lai Lạt ma thứ 14 là
“Lhamo Dhondup”. Sư được thừa nhận là Đạt-lại Lạt-ma vào năm 2 tuổi theo
truyền thống Tây Tạng như là Hóa thân của Đạt-lại Lạt-ma thứ 13, cũng là hiện thân của Bồ TátQuán Thế Âm, hiện thân của lòng từ bi.
Theo truyền thống của người Tây Tạng, Đạt-lại Lạt-ma là hiện thân
lòng từ của chư Phật và Bồ Tát, người chọn con đường tái sinh trở lại
kiếp người để cứu giúp chúng sanh. Danh hiệu Đạt-lại Lạt-ma cũng được
hiểu là Hộ Tín, “Người bảo vệ đức tin”, Huệ Hải, “Biển lớn của trí tuệ”, Pháp vương, “Vua của Chánh Pháp”, Như ý châu, “Viên bảo châu như ý”…
Đạt-lại Lạt-ma được tấn phong tước vị vào ngày 22 tháng 2 năm 1940 tại Lhasa, thủ đô của Tây Tạng, chính thức là người lãnh đạo chính trị và tôn giáo cho 6 triệu người.
Quá trình tìm kiếm Đạt-lại Lạt-ma
Đạt-lại Lạt-ma, 2007
Khi Đạt-lại Lạt-ma thứ 13 viên tịch vào năm 1933, chính phủ Tây Tạng gặp khủng hoảng trong việc tìm kiếm một người thừa kế. Năm 1935,
vị nhiếp chính đi đến hồ thiêng Lhamo Lhatso ở Chokhorgyal, khoảng 90
dặm từ thủ đô Lhasa. Theo truyền thống của Tây Tạng, người ta có thể
nhìn thấy mọi việc ở tương lai từ hồ linh thiêng này. Lúc bấy giờ vị
nhiếp chính thấy ba chữ Tây Tạng Ah, Ka và Ma hiện
lên giữa mặt nước trong vắt của hồ thiêng, theo sau ba mẫu tự này là bức
tranh của một ngôi chùa ba tầng với mái ngói màu xanh lục và một căn
nhà có chiếc máng xối kỳ lạ.
Năm 1937,
chính phủ Tây Tạng đã gởi những hình ảnh thiêng liêng ấy từ hồ thiêng
đến các tỉnh thành của Tây Tạng để tìm kiếm nơi tái sinh của Đạt-lại
Lạt-ma. Một phái đoàn tìm kiếm tái sanh được thành lập và đi về hướng
Đông Bắc Tây Tạng, vị trưởng phái đoàn là Lạt-ma Kewtsang Rinpoche, Tu
viện trưởng Tu viện Sera. Khi phái đoàn đến làng Amdo, họ thấy quang
cảnh nơi này giống y như hình ảnh đã thấy dưới hồ thiêng. Lobsang
Tsewang cải trang thành người trưởng đoàn, và Lạt-ma Kewtsang cải trang
thành người thị giả và họ vào thăm một căn nhà với chiếc máng xối kỳ lạ.
Bấy giờ Lạt-ma Kewtsang có mang một xâu tràng hạt (rosary) của
Đạt-lại Lạt-ma thứ 13 và chú bé trong căn nhà ấy đã nhận ra nó và yêu
cầu được cầm xem. Lạt-ma Kewtsang hứa sẽ cho nếu chú đoán được ngài là
ai. Và chú bé liền trả lời ngay bằng một loại tiếng lóng của địa phương
là “Sera aga”, nghĩa là “Lạt-ma ở tu viện Sera”. Tiếp đó, sư hỏi chú bé
vị trưởng đoàn là ai và chú bé đã trả lời đúng, và chú cũng cho biết tên
chính xác của người thị giả. Theo sau đó là một loạt trắc nghiệm khác
để chú bé chọn lựa những đồ dùng thường ngày của Đạt-lại Lạt-ma thứ 13
và chú bé cũng nhận ra tất cả và nói: “của tôi, của tôi”. Chú bé ấy
chính là Đạt-lại Lạt-ma hiện nay.
Từ những kết quả của cuộc kiểm tra này giúp họ đoán chắc rằng họ đã
tìm ra hóa thân mới và niềm tin của họ càng được vững mạnh thêm bởi
những ý nghĩa từ ba mẫu tự Tây Tạng đã từng thấy dưới hồ thiêng: Ah là hàm nghĩa cho tỉnh lmdo, nơi chú bé chào đời, Ka là chỉ cho Tu viện Kumbum, một ngôi Tu viện lớn nhất với ba tầng gần nhà của chú bé và Ma
là ám chỉ cho ngôi tu viện Karma Rolpai Dorje ở trên ngọn núi của ngôi
làng gần bên. Cuối cùng phái đoàn quyết định chú bé ấy là hậu thân của
vị Đạt-lại Lạt-ma thứ 13.
Đạt-lại Lạt-ma bắt đầu sự nghiệp học vấn của mình vào năm 6 tuổi và hoàn tất học vị cao nhất của Phật giáo Tây Tạng là Geshe Lharampa, tương đương với Tiến sĩ triết học Phật giáo (Doctorate of Buddhist Philosophy) ở tuổi 25 vào năm 1959.
Năm 24 tuổi, Sư đã tham dự kỳ thi đầu tiên tại các đại học Phật giáo
Drepung, Sera và Ganden. Kỳ thi cuối cùng được tổ chức tại Jokhang, thủ
đô Lhasa trong thời gian lễ hội Monlam, tháng giêng theo lịch Tây Tạng.
Trước đó Sư phải học tất cả các môn học chính như Luận lý (logic) văn hóa và nghệ thuật Tây Tạng (Culture & Tibetan Art), Phạn ngữ (sanskrit), Y học (medicine), Triết học Phật giáo (Buddhist philosophy). Riêng môn Phật học này là khó nhất, được chia ra làm năm phần là Bát-nhã-ba-la-mật-đa (sa. prajñāpāramitā), Trung quán (sa. mādhyamika), Giới luật (sa. vinaya), A-tì-đạt-ma và Lượng học (sa. pramāṇa) . Và các môn học phụ khác là: biện luận (dialetics), thi ca (poetry), âm nhạc (music) và kịch nghệ (drama), thiên văn (astrology), văn phạm (metre and phrasing).
Vai trò và trách nhiệm lãnh đạo
Vào ngày 17 tháng 11 năm 1950, Đạt-lại Lạt-ma 14 đã khoác lên mình một trọng trách là người lãnh đạo thế quyền của người dân Tây Tạng (head of the State and Government) sau khi có khoảng 80.000 quân lính của Trung Quốc tấn công vào Tây Tạng.
Năm 1954, Sư đã đến Bắc Kinh để thương thuyết hòa bình với chủ tịch Mao Trạch Đông và những nhà lãnh đạo Trung Hoa khác, gồm Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình.
Tuy nhiên, các cuộc đàm phán trong chuyến đi này không mang lại kết
quả, cuối cùng Sư đã quyết định muốn cứu vãn cho Tây Tạng, đành phải ra
nước ngoài.
Đào thoát khỏi Tây Tạng
Nỗ lực mang lại một giải pháp hòa bình của Sư cho người dân Tây Tạng.
Cũng trong lúc đó, tại miền Đông Tây Tạng, dân chúng đã đứng lên kháng
cự mạnh mẽ chống đối sự đàn áp của Trung Hoa. Sự kháng cự này đã lan ra
trên nhiều tỉnh thành của Tây Tạng. Vào ngày 10 tháng 3 năm 1959,
một cuộc biểu tình lớn nhất trong lịch sử của Tây Tạng tại thủ đô Lhasa
để kêu gọi binh lính Trung Quốc phải rút khỏi Tây Tạng và tái xác định
rằng Tây Tạng là một quốc gia độc lập. Cuộc biểu tình ôn hòa này đã bị
quân đội Trung Quốc trấn áp quyết liệt. Trong thời kì Đại nhảy vọt,
đã có khoảng 200.000 đến 1 triệu người Tây Tạng chết và khoảng 6 nghìn
chùa chiền bị phá hủy tại đất nước này. Để tìm con đường giải phóng nỗi
khổ đau ấy, 80.000 người dân Tây Tạng cùng với Đạt-lại Lạt-ma 14 vượt
qua dãy Hy Mã Lạp Sơn để đến tị nạn tại miền bắc Ấn Độ vào năm 1959.
Câu chuyện đau lòng trước sự đàn áp của Trung Quốc
Những thập niên 50, Mao Trạch Đông xua quân vào Tây Tạng giết sư, đốt
chùa và gây ra hằng hà sa số tội ác với 1 dân tộc Tây Tạng hiền lành
chịu đựng. Năm 1959 Đức Dalai Lama phải cùng dân tộc của Ngài từ bỏ quê
hương lên đường tỵ nạn. TQ lúc bấy giờ như con hổ đói, họ dùng đủ mọi
cách để truy lùng Ngài. Khoảng thời gian đó trên thế giới ít người biết
và để ý đến tình hình xảy ra ở Tây Tạng, và cũng chẳng ai biết gì về 1
thanh niên với nụ cười thật nhân hậu đang dìu dắt dân tộc mình lánh nạn
trước mũi súng bạo tàn của Mao Trạch Đông. Ấn Độ luôn có đụng độ với TQ
về vấn đề biên giới, vi vậy họ không muốn làm tình hình căng thẳng thêm,
nên cũng chẳng tha thiết giúp đỡ đoàn người tỵ nạn đến từ Tây Tạng. Tin
tức về tình hình bi đát từ Tây Tạng chẳng được loan truyền, lại bị TQ
cô lập thông tin toàn diện, nên thế giới chẳng ai biết đến mà quan tâm.
Đoàn người tỵ nạn vì vậy thiếu thốn cơ cực đủ điều, tình hình lúc bấy
giờ thật nghiệt ngã.
Chính phủ lưu vong tại Dharamsala, Bắc Ấn Độ
Ngày nay, với hơn 120.000 người Tây Tạng lưu trú tại vùng đất Dharamsala, Ấn Độ, được biết như là một “Lhasa nhỏ”, lập thành một chính quyền lưu vong Tây Tạng với một Hội đồng Dân cử Tây Tạng vào năm 1960.
Trong những năm đầu lưu vong, Đạt-lại Lạt-ma đã kêu gọi Hoa Kỳ lên tiếng về vấn đề của Tây Tạng, kết quả ba quyết nghị đã được thông qua tại Hội đồng Lập Pháp của Hoa Kỳ vào năm 1959, 1961 và 1965,
kêu gọi nhà cầm quyền Bắc Kinh phải tôn trọng nhân quyền của người Tây
Tạng và ước muốn tự trị của họ. Với việc thành lập một chính phủ lưu
vong Tây Tạng, Đạt-lại Lạt-ma thấy rằng công việc khẩn cấp phải làm là
cứu nguy dân tị nạn và nền văn hóa của Tây Tạng. Các lĩnh vực nông
nghiệp, kinh tế, văn hóa, giáo dục đã dần được tái hoạt động tại Ấn Độ.
Trẻ em Tây Tạng được đi học và một Đại học Tây Tạng được thành lập tại
Ấn Độ. Có khoảng 200 tu viện Tây Tạng được xây dựng tại Ấn Độ để tăng
chúng tu học, duy trì và bảo vệ văn hóa và tôn giáo của Tây Tạng.
Năm 1963, Đạt-lại Lạt-ma đã ban hành một hiến pháp dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên giới luật của nhà Phật và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên hiệp quốc để biên soạn và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai.
Năm 1965, Sư đến tham dự đại lễ Phật Đản Phật lịch 2500 tại Ấn Độ, đã gặp được Thủ tướng Ấn Độ là ông Jawaharlal Nehru, và ông Chu Ân Lai, đàm phán về vấn đề của Tây Tạng.
Ngày nay, thành viên của quốc hội Tây Tạng sẽ được bầu cử bởi dân
chúng. Hội đồng nội các được bầu cử bởi quốc hội. Đạt-lại Lạt-ma nhấn
mạnh rằng nhiệm vụ chính của chính quyền Tây Tạng là chăm lo cho đời
sống người dân và Sư cũng nói thêm, khi Tây Tạng giành lại nền độc lập,
Sư sẽ không còn ngồi ở văn phòng chính phủ nữa.
Năm 1987, Đạt-lại Lạt-ma tham dự một hội nghị nhân quyền tại thủ đô Washington, Hoa Kỳ. Sư đề xuất một Chương trình Hòa bình Năm điểm bao gồm:
Biến Tây Tạng thành một khu vực hòa bình;
Chấm dứt việc di dân Trung Hoa đang de dọa sự tồn tại của dân tộc Tây Tạng;
Tôn trọng các quyền dân chủ, tự do và quyền làm người của dân Tây Tạng;
Phục hồi và bảo vệ môi sinh của Tây Tạng và chấm dứt việc sử dụng đất Tây Tạng để sản xuất vũ khí nguyên tử và bỏ đồ phế thải nguyên tử;
Khởi sự thương thảo ngay về quy chế tương lai của Tây Tạng và bang giao giữa Tây Tạng với Trung Hoa.
Ngày 15 tháng 6 năm 1988, tại Strasbourg, Pháp, Sư nhắc lại Chương trình Hòa bình Năm điểm và yêu cầu nhà cầm quyền Bắc Kinh trao trả lại nền độc lập cho Tây Tạng. Ngày 9 tháng 10 năm 1991, trong khi phát biểu tại Đại học Yale, Hoa Kỳ, Sư bày tỏ ý định muốn trở về thăm Tây Tạng để đích thân đánh giá tình hình chính trị nơi ấy. Sư nói: Tôi
thật sự lo lắng vì tình cảnh bạo động có lẽ sẽ bùng nổ. Tôi muốn làm
cái gì đó để chặn đứng lại… chuyến viếng thăm của tôi sẽ là một cơ hội
mới để làm tăng thêm sự cảm thông và tạo ra một nền tảng để giải quyết.
Chính trị
Người Tây Tạng bầu giới lãnh đạo
Ðạt Lai Lạt Ma khuyến khích người Tây Tạng
lưu vong hãy đi theo hệ thống dân chủ để bầu lên một nhà lãnh đạo, nói
rằng đó là điều thiết yếu để theo kịp thế giới rộng lớn hơn và để bảo
đảm sự liên tục của chính phủ của họ.
Trong một đoạn phim được chiếu cho hàng trăm nhà sư, ni cô và người
thường tại thành phố Dharamsala núi non ở phía Bắc Ấn Ðộ vào chiều tối
thứ Bảy, 20 tháng 6, 2009 nhà lãnh đạo nói hiện giờ không còn cần thiết phải đè nặng vai trò lãnh đạo tinh thần và chính trị lên một người.
“Các vị Ðạt Lai Lạt Ma đã giữ vai trò lãnh đạo thế tục và tinh thần
từ 400 năm đến 500 năm qua. Ðiều đó có thể hầu như hữu ích. Nhưng thời
kỳ đó đã qua,” Ðạt Lai Lạt Ma nói trong đoạn phim, theo một biên bản đã
được dịch cho giới báo chí. “Ngày nay, đối với toàn thể thế giới, rõ
ràng nền dân chủ là hệ thống tốt nhất mặc dù có những khiếm khuyết nhỏ.
Ðó là lý do tại sao người Tây Tạng cũng phải chuyển động cùng với cộng
đồng thế giới rộng lớn hơn,” ngài nói.
Trước đây Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đã đề nghị tùy người Tây Tạng quyết định
về việc muốn duy trì định chế tinh thần sau khi ngài chết hay không, và
có thể tổ chức một cuộc bầu cử trong số những người Tây Tạng ở nước
ngoài. Ðức Ðạt Lai Lạt Ma cũng có thể tự mình lựa chọn một người kế
nghiệp từ các thành viên của chính phủ lưu vong của ngài, hoặc một hội
đồng các lạt ma cao cấp sẽ chọn một người nào đó trong hàng ngũ của họ,
loại bỏ sự thần bí của tiến trình lựa chọn truyền thống.
“Khi chúng ta đặt hết trách nhiệm vào con người của vị Ðạt Lai Lạt
Ma, đó là điều nguy hiểm. Nên có một nhà lãnh đạo được bầu lên một cách
dân chủ để cầm đầu một phong trào của dân chúng,” ngài nói. “Trong thực
tế, một sự thay đổi đang diễn ra về trách nhiệm của vị Ðạt Lai Lạt Ma
trong tư cách một lãnh tụ thế tục và tinh thần. Theo tôi, điều này rất
tốt. Một nhà lãnh đạo tôn giáo phải đảm nhận cả vai trò lãnh đạo chính
trị, thời kỳ đó đã qua rồi,” ngài nói.
Việc kế nghiệp Ðức Ðạt Lai Lạt Ma là một vấn đề tế nhị khi ngài ngày
càng lớn tuổi và sức khỏe suy giảm. Nhiều người Tây Tạng sợ rằng cái
chết của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, người đã sống lưu vong tại Ấn Ðộ kể từ khi
trốn thoát một cuộc nổi dậy bất thành chống chế độ Trung Quốc vào năm
1959, có thể tạo ra một khoảng trống lãnh đạo mà Bắc Kinh có thể lợi
dụng để siết chặt nắm tay của họ. Người Tây Tạng lưu vong đã bầu vị thủ
tướng đầu tiên của họ vào năm 2001.
Vị thủ tướng lúc này, ông Samdhong Rinpoche,
một nhà sư Tây Tạng và là một học giả Phật Giáo, đã phục vụ hai nhiệm
kỳ, và Ðức Ðạt Lai Lạt Ma thường nói ngài ở trong tình trạng “nửa về
hưu” trong tư cách một lãnh tụ tinh thần, khi yêu cầu ông Rinpoche cầm
đầu trong việc giao tiếp với người Tây Tạng. “Với cuộc bầu cử diễn ra
mỗi năm năm, bất kể vị Ðạt Lai Lạt Ma có đó hay không, hệ thống chính
trị lưu vong sẽ vẫn an toàn, ổn định và có thể tồn tại lâu dài,” ngài
nói trong đoạn phim được phát ngày 20/6.
Hợp tác toàn cầu trong cuộc khủng hoảng kinh tế
Ngày 2 tháng 8, 2009, Đạt-lại Lạt-ma kêu gọi có sự hợp tác toàn cầu để chống lại các hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế
và tuyên bố rằng cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu cho thấy rằng “trái
đất của chúng ta quả thật là nhỏ” và kêu gọi các nước hãy có hành động
kết hợp. Tuyên bố trước một hội nghị về khủng hoảng kinh tế được tổ chức
tại Frankfurt, thường được mô tả là thủ đô tài chánh của nước Ðức,
Ðức Đạt-lại Lạt-ma nhấn mạnh tiếp, “Chúng ta cần phải suy nghĩ chung
cho toàn cầu.” Ông cũng tiếp thêm rằng chúng ta cần các biện pháp khẩn
cấp để đối phó với tình trạng ấm toàn cầu và xóa sự cách biệt giữa người
giàu và kẻ nghèo. Lên tiếng trước một cử tọa đông đến nhiều ngàn người
tập trung tại một sân bóng tròn, Ðức Đạt-lại Lạt-ma nhấn mạnh rằng,
“Chúng ta không cần chỉ nói hay, mà trái lại chúng ta cần phải có hành
động.” Từ khi bỏ quê hương chạy đi lánh nạn năm 1959, vị lãnh đạo tinh
thần này đã tham gia vào hội nghị về cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu
này do một số nhóm đứng ra tổ chức, trong đó có hội Phật giáo Ðức.
Chuyến đi đến Arunachal Pradesh
Ngày 5 tháng 11, 2009, Ấn Ðộ ban hành một lệnh có hiệu quả cấm các
nhà báo ngoại quốc tường thuật chuyến đi hiếm hoi của Đạt-lại Lạt-ma 14
tới một chủng viện Phật giáo sát với Tây Tạng, trong một nỗ lực có vẻ
nhằm xoa dịu sự giận dữ của Trung Quốc bằng cách giảm bớt việc tường
thuật của báo chí về chuyến đi này. Cuộc viếng thăm theo dự tính của Sư
vào ngày Chủ Nhật, 8 tháng 11, tới tiểu bang Arunachal Pradesh
ở vùng Ðông Bắc Ấn Ðộ – trọng tâm của một cuộc tranh chấp biên giới từ
lâu nay giữa Trung Quốc và Ấn Ðộ – làm gia tăng những căng thẳng vốn đã
gay gắt giữa hai cường quốc châu Á.[3]
Người ngoại quốc di chuyển tới tiểu bang núi non hẻo lánh này cần giấy phép đặc biệt của chính phủ Ấn Ðộ.
Hầu hết các nhà báo ngoại quốc đã không nhận được giấy phép để tường
thuật chuyến viếng thăm của Đạt-lại Lạt-ma. Ngày 5 tháng 11, 2009, bốn
nhà báo được cấp phép – kể cả hai nhân viên của thông tấn xã AP – bị thu
hồi giấy phép. Một điện thư gởi tới các nhà báo nói chính quyền tiểu
bang đã bãi bỏ các giấy phép theo lời yêu cầu của Bộ Ngoại giao. “Chúng
tôi kinh ngạc và bất mãn khi biết rằng các giấy phép của các phóng viên
để tới Arunachal Pradesh bị hủy bỏ trước khi có cuộc viếng thăm của Ðức
Ðạt Lai Lạt Ma,” theo lời chủ tịch Câu lạc bộ Báo chí Ngoại quốc ở Tân Delhi, Heather Timmons. Các nhà báo Ấn Ðộ được phép tường thuật chuyến đi.[4]
Trung Quốc chống đối phần lớn các hoạt động của Đạt-lại Lạt-ma. Bắc
Kinh cáo buộc ngài là tranh đấu để Tây Tạng thoát khỏi nền cai trị của
Trung Quốc, mặc dù ngài phủ nhận điều đó. Mặc dù các quan hệ giữa Trung
Quốc và Ấn Ðộ đã cải thiện trong những năm cuối thập niên 2000, những
căng thẳng gần đây lại bùng lên vì những kình chống về kinh tế, vụ tranh
chấp biên giới vẫn còn âm ỉ và tình trạng bất ổn tại Tây Tạng – vùng Himalaya do Trung Quốc kiểm soát, nằm trên biên giới với Ấn Ðộ.[5]
Vào đầu tháng 11, 2009, Trung Quốc mạnh mẽ chống đối các kế hoạch của
Ðức Ðạt Lai Lạt Ma nhằm trải qua năm ngày tại một chủng viện Phật giáo ở
thành phố Tawang
gần đường biên giới bị tranh chấp. Trước đó, Ðức Ðạt Lai Lạt Ma nói
Trung Quốc đang chính trị hóa quá đáng những chuyến đi của ngài, và nói
thêm rằng những quyết định của ngài về những nơi viếng thăm có tính cách
tinh thần, không phải chính trị.[6]
Các tín đồ Phật giáo ngày 8 tháng 11, 2009, vui mừng đón tiếp Sư quay
trở lại thị trấn ở rặng núi Himalaya nơi ngài lần đầu tiên đặt chân tới
năm thập niên trước khi trốn chạy chế độ cộng sản Trung Quốc thống trị
Tây Tạng – một cuộc viếng thăm hiếm thấy gần nơi quê nhà khiến Bắc Kinh
vô cùng giận dữ. Sự hiện diện của đức Ðạt Lai Lạt Ma hơn đây cũng tạo
thêm sự chú ý về cuộc tranh chấp biên giới giữa Ấn Ðộ và Trung Quốc, cho
thấy sự nhạy cảm của Bắc Kinh về vấn đề Tây Tạng và nêu lên câu hỏi là
ai sẽ thay thế Ðạt Lai Lạt Ma trong vị trí lãnh đạo tinh thần sau này.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Trung Quốc Mã Triều Húc
nói chuyến đi này “một lần nữa cho thấy con người thật của ông ta là
chống Trung Quốc.” Tuy nhiên, Ðức Ðạt Lai Lạt Ma nói rằng lời cáo buộc
này là vô căn cứ” và ngài chỉ tìm cách khuyến khích các giá trị tôn
giáo, hòa bình và hòa hợp. “Cuộc viếng thăm của tôi nơi đây không có
tính cách chính trị,” ngài nói sau khi vừa đến nơi vào sáng 8 tháng 11.
Ðối với dân chúng ở Tawang, cuộc viếng thăm này có vẻ hoàn toàn có
tính cách tôn giáo. Hai bên đường trong thị trấn rợp cờ và biểu ngữ chào
mừng Ðạt Lai Lạt Ma và hàng ngàn người đứng ngoài bầu trời lạnh lẽo gió
mạnh để tham gia vào các buổi cầu nguyện và thuyết giảng Phật Giáo của
ngài. Người hành hương lũ lượt kéo đến nơi này bằng đủ mọi cách, chen
chúc nhau trên các xe vận tải hay đi bộ mất mấy ngày trên đường mòn
ngoằn ngoèo ở dãy Hymalaya để được nghe tiếng nói của người mà họ cung
kính coi là Phật sống. Chính quyền địa phương, có khoảng 25.000 người
hiện diện, dựng lên một khu lều cho người hành hương, trong khi các
khách khác vào ở nhờ trong các tu viện và nhà khách.
Tawang là nơi sinh sống của bộ lạc Monpa, vốn có mối liên hệ chặt chẽ với thủ phủ Lhasa ở Tây Tạng. Vị Đạt-lại Lạt-ma đời thứ sáu đến từ nơi này hồi thế kỷ 17 và Trung Quốc lo ngại rằng nếu vị Đạt-lại Lạt-ma kế tiếp xuất hiện ở khu vực này thì sẽ ra ngoài sự kiểm soát của Bắc Kinh.
Chuyến đi tới Liên bang Nga
Năm 1971, ngài đã làm nên chuyến đi lịch sư tới Liên Xô, và được giới chức trách Liên Xô chào đón. Nhưng ngài cũng không phải là người được lòng lúc đó do tư tưởng cộng sản ở Nga thời kì đó. Nhưng vì chia rẽ Trung-Xô thời gian đó rất căng thẳng, nên Lạt Ma tin rằng Nga sẽ đứng ra che chở cho Tây Tạng.
Khi Liên Xô sụp đổ năm 1991, Sư đã đến Nga một năm sau đó. Tại đây, ngài đã được Tổng thốngBoris Yeltsin chào đón nồng hậu ở vùng Kavkaz. Tại đây, Đạt Lai Lạt Ma đã yêu cầu Nga “bảo vệ truyền thống Phật giáo” ở Kalmykia, Tuva và Buryatia, đặc biệt sư rất nhấn mạnh đến Kalmykia, khi nhà nước Phật giáo thuộc Nga này lại giáp biên giới hoặc rất gần với các quốc gia Hồi giáo rất cực đoan như Dagestan hoặc Chechnya. Vào năm 2004 và năm 2012, Tổng thống Vladimir Putin đã mời Sư tới Kalmykia, và Sư đã được Tổng thống Putin chăm sóc chu đáo tại đây. Nó đã vấp phải sự phản đối của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, khi Trung Quốc vẫn cáo buộc Sư là “phần tử khủng bố và ly khai” ở Khu tự trị Tây Tạng.
Các giải thưởng
Từ chuyến viếng thăm phương Tây đầu tiên của Sư vào năm 1973, một số trường đại học và viện nghiên cứu đã trao tặng Sư những Giải thưởng về Hòa bình và bằng Tiến sĩ danh dự (Honorary Doctorate Degree)
để tuyên dương những tác phẩm xuất sắc của Sư viết về triết học Phật
giáo, giải pháp cho những xung đột của quốc tế, vấn đề nhân quyền và môi
sinh toàn cầu. Trong lần trao giải thưởng cho Đạt-lại Lạt-ma tại Ủy hội Nhân quyền Raoul Wallenberg, dân biểu Mỹ Tom Lantos đã nói:
“sự đấu tranh dũng cảm của Đức Đạt-lại Lạt-ma đã tạo ra một sự chú ý
đặc biệt về nhân quyền và hòa bình thế giới. Sự kiên trì đấu tranh của
Sư để chấm dứt khổ đau cho dân tộc Tây Tạng qua những cuộc đàm phán hòa
bình và hòa giải”.
Giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1989
Ủy ban Hòa bình Na Uy quyết định trao tặng Giải thưởng Nobel Hòa bình cho Sư vào năm 1989 sau khi được cả thế giới tán dương và tán thành, ngoại trừ Trung Hoa. Trong quyết định ấy có đoạn viết:
“Ủy ban muốn nhấn mạnh rằng Đức Đạt-lại Lạt-ma với sự đấu tranh cho
tự do cho Tây Tạng vẫn kiên quyết không sử dụng bạo lực. Sư đã ủng hộ
giải pháp hòa bình dựa trên tinh thần khoan dung và tôn trọng lẫn nhau
để bảo vệ lịch sử và tài sản văn hóa của con người.
Vào ngày 10 tháng 12 năm 1989,
Đạt-lại Lạt-ma đã tiếp nhận giải thưởng hòa bình trên tinh thần nhân
danh những người bị đàn áp ở khắp mọi nơi, tất cả những ai đấu tranh cho
tự do và hòa bình thế giới và đặc biệt là nhân dân Tây Tạng. Trong lời
phát biểu tại buổi lễ nhận giải, Sư đã nói:Giải thưởng đã tái xác nhận một lần nữa lòng quyết tâm của chúng
tôi rằng chân lý, lòng dũng cảm và quyết tâm của chúng tôi như là những
vũ khí, Tây Tạng sẽ được tự do. Cuộc đấu tranh của chúng tôi vẫn phải
theo đuổi đường hướng bất bạo động và loại bỏ hận thù (The prize
reaffirms our conviction that with truth, courage and determination as
our weapons, Tibet will be liberated. Our struggle must remain
nonviolent and free of hatred).
Tiếp xúc Đông Tây
Đạt-lại Lạt-ma đàm luận với tổng thống Bush, 23.05.2001
Từ năm 1967, Đạt-lại Lạt-ma đã khởi hàng loạt chuyến viếng thăm, đến nay đã được 46 quốc gia. Vào mùa thu năm 1991, Sư đến thăm vùng Baltic khi nhận được lời mời của Tổng thống Litva, ông Vytautas Landsbergis, và Sư đã trở thành vị khách ngoại quốc đầu tiên đọc diễn văn tại quốc hội của Liva. Sư đã gặp Giáo hoàngPaul VI tại Vatican vào năm 1973 và Giáo hoàng John Paul II vào năm 1980 tại Roma và các năm khác là 1980, 1982, 1986, 1988 và 1990. Khi viếng thăm một ngôi trường ở Nam Đầu đã bị đất chuồi tiêu hủy trong cơn bão Morakot đầu tháng 8/2009, Tổng thống Ðài LoanMã Anh Cửu
bất ngờ công bố chính phủ ông đồng ý cho Ðức Ðạt Lai Lạt Ma viếng thăm
nạn nhân bão, mặc dù điều này có thể khiến Trung Hoa lục địa nổi giận.
Bão Morakot làm thiệt mạng 670 người ở Ðài Loan.
Các viên chức địa phương đã mời Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đến viếng thăm. Hành
động này của Ðài Loan đã diễn ra trong lúc mối quan hệ giữa Ðài Loan và
Trung Quốc đang thân thiện hơn.
Một tu sĩ Phật Giáo bình thường
Đạt-lại Lạt-ma 14 thường nói rằng: Tôi chỉ là một tu sĩ Phật giáo bình thường, không hơn, không kém
(I am just a simple Buddhist monk – no more, no less). Sống trong một
tịnh thất nhỏ ở Dharamsala, Sư thức dậy vào lúc 4 giờ sáng, ngồi thiền,
rồi tiếp tục làm việc theo thời khóa biểu của văn phòng chính phủ, tiếp
khách và diễn giảng giáo lý cho các khóa tu hoặc chứng minh các đại lễ.
Trước tác (tóm lược)
Mặc dù bận rộn với nhiều công tác của chính phủ và hoằng Pháp, nhưng
Đức Đạt-lại Lạt-ma cũng dành những thời gian nhất định để viết những tác
phẩm Phật học, lịch sử, tự truyện… để phổ biến những tinh túy trong
giáo lý của Phật Đà. Khởi viết cuốn Đất nước tôi và Nhân dân tôi (My Land and My People) vào năm 1964
sau khi Sư đến tị nạn tại Ấn Độ, tính đến nay đã có trên 50 tác phẩm
các loại, do chính ngài tự tay viết hoặc do đệ tử ghi chép những bài
giảng của Sư hoặc họ viết về ngài. Đáng chú ý trong số tác phẩm này là:
Mở Huệ Nhãn (The opening of the Wisdom eye, xuất bản năm 1972);
Phật giáo Tây Tạng (The Buddhism of Tibet, xb năm 1975);
Biển của Trí Huệ (Ocean of Wisdom, xb tháng 2 năm 1990);
Dalai Lama: Chính sách của Lòng Từ (The Dalai Lama: A Policy of Kindness, xb năm 1990);
Tự do nơi lưu đày (Free in Exile, xb năm 1991);
Ý nghĩa của cuộc sống (The meaning of Life, xb năm 1992);
Tia sáng trong bóng đêm (Flash of Lightning in the Dark of Night, xb năm 1994);
Cuộc đối thoại về trách nhiệm chung và giáo dục (Dialogues on Universal Responsibility and Education, xb năm 1995);
Sức mạnh của lòng từ bi (The power of compassion, xb năm 1995);
Con đường giác ngộ (The Path of Enlightenment, xb năm 1995);
Bạo lực và Lòng từ bi-Sức mạnh của Phật giáo (Violence and Compassion/ Power of Buddhism, xb năm 1995);
Chữa lành cơn thịnh nộ: Sức mạnh của sự kiên nhẫn từ cách nhìn của Phật tử (Healing Anger: The Power of Patience from a Buddhist Perspective, xb tháng 3 năm 1997);
Tứ Diệu Đế (The Four Noble Truths, xb năm 1998);
Nghệ thuật hạnh phúc (The art of Happiness, xb năm 1998);
Ý Nghĩa cuộc cuộc sống (THE MEANING OF LIFE, Xb 1999);
Khoa học Tâm Linh, Cuộc đối thoại Đông-Tây (MIND SCIENCE, An East-West Dialogue, xb 1999);
Ngủ, mơ và chết, một cuộc khám phá của Tâm thức (SLEEPING, DREAMING, AND DYING, An Exploration of Consciousness, Xb 1999);
Thế giới Phật giáo Tây Tạng, khái quát về triết lý và thực hành (THE WORLD OF TIBETAN BUDDHISM, An Overview of Its Philosophy and Practice, Xb 1999);
Đạo Đức Thiên Niên Ki Mới (Ethics for the new millennium, xb tháng 8 năm 1999);
Nghệ Thuật của Hạnh Phúc: Sổ tay cho cuộc sống (The Art of Happiness: A Handbook for Living, xb tháng 9 năm 1999);
Trí Huệ Luận (The Dalai Lama’s Book of Wisdom, xb tháng 4 năm 2000);
Biến đổi Tâm (Transforming the Mind, xb tháng 5 năm 2000);
Các Giai Đoạn của Thiền Định (Stages of Meditation, xb tháng 3 năm 2001);
Con Đường dẫn tới cuộc sống đầy ý nghiã (How to Practice: The Way to a Meaningful Life, xb tháng 5 năm 2001)
Tâm hồn rộng mở: Thực Hành Từ bi trong cuộc sống hàng ngày (An Open Heart: Practicing Compassion in Everyday Life, xb tháng 9 năm 2001);
Luận về Từ Bi và Bác Ái (The Dalai Lama’s Book of Love and Compassion, xb tháng 10 năm 2001);
Những lời Khuyên của Thích-Ca-Mâu-Ni (Advice from Buddha Shakyamuni, xb tháng 7 năm 2002);
Cốt Tủy của Hạnh Phúc: Sách Hướng Dẫn cho Cách Sống (The Essence of Happiness: A Guidebook for Living xb tháng 7 năm 2002);
Đường Dẫn tới sư Yên Tĩnh: Trí huệ hàng ngày (The Path to Tranquility: Daily Wisdom , xb tháng 8 năm 2002);
Tỉnh Thức Luận (The Dalai Lama’s Book of Awakening, xb tháng 2 năm 2003);
Nghệ Thuật của Hạnh Phúc trong Công Việc (The Art of Happiness at Work, xb tháng 8 năm 2005);
Vũ Trụ Trong Một Nguyên Tử: Sự Hội Tụ của Khoa Học và Tâm Linh (The Universe in a Single Atom: The Convergence of Science and Spirituality, xb tháng 9 năm 2005);
Để Thấy được Thực Sự Chính Mình (How to See Yourself As You Really Are, xb tháng 12 năm 2006);
Kết luận
Như sự miêu tả của giáo sư Eric Sharpe thánh nhân là người suốt đời
chú trọng đến việc mang lại an lạc cho con người và cuộc đời. Trong khi
theo đuổi lý tưởng ấy, họ thường phải hứng chịu những trở ngại, đau đớn
hoặc nguy hiểm đến sinh mạng. Đạt-lại Lạt-ma thứ 14 đã hiện thân cho
những gì đã được miêu tả ấy. Tuy nhiên, theo các nhà phân tích, sự xuất
hiện của ngài như là một định mệnh, đã thừa kế tước vị Đạt-lại Lạt-ma ở
trong một giai đoạn bấp bênh nhất trong toàn bộ lịch sử cao quý này.
Hiện nay, vẫn trong thân phận người tị nạn lưu vong, tuy nhiên, Sư rất
lạc quan và hy vọng cho tương lai độc lập và tự do cho thế giới và xứ sở
của Sư như lời Sư đã nhắc tới trong bức Thông Điệp 2000:
“Thế kỷ 20 đầy xung đột và chiến tranh. Từng bước, chúng ta bảo đảm
thế kỷ tới sẽ có đặc tính bất bạo động và đối thoại, là điều kiện tiên
quyết để cùng hiện hữu bên nhau trong hòa bình”.
“Xã hội nào cũng có những khác biệt và xung đột. Tuy vậy, chúng ta
cần phát triển niềm tin tưởng rằng: đối thoại và tình bạn là một đường
lối chính chắn để tránh bạo động. Trước thiên kỷ mới, điều mọi người cần
thực hiện là tăng cường tinh thần trách nhiệm đối với quốc tế”.
Tổng hợp theo các tài liệu
Mary Craig (1997): Kundun, A biography of the Family of the Dalai Lama, Harper Collins Publishers, London.
Roger Hicks & Ngakpa Chogyam (1984): Great Ocean, An Authories Biography of the Buddhist Monk Tenzin Gyatso His Holiness The 14th Dalai Lama, Element Books, Great Britain.
Tenzin Gyatso Dalai Lama (1998): Freedom in Exile, Snow Lion Publications, New York.
Nếu một khó khăn có thể sửa chữa được, nếu một tình huống mà bạn
có thể làm cái gì đó cho nó, thì không cần thiết để lo lắng. (nhưng) Nếu
nó không còn sửa chữa được, thì cũng không lợi chi trong việc lo lắng.
Theo quan điểm Phật giáo thì quan hệ giữa nam với nam, giữa nữ
với nữ là những hành vi tình dục sai trái. Còn theo quan điểm của xã
hội, quan hệ đồng giới mà có sự đồng tình của cả hai người thì có thể có
lợi, mang đến niềm vui cho nhau, và vô hại.
Hạnh phúc không phải là thứ có sẵn, nó đến từ chính hành động của bạn.
Nếu bạn có khả năng, hãy giúp đỡ kẻ khác. Nếu không làm được vậy thì ít nhất đừng hại họ.
Tín ngưỡng của tôi rất đơn giản, tín ngưỡng của tôi là lòng tốt.
Không cần có các chùa chiền, không cần các triết lý cao siêu. Tim và óc của tôi là các chùa chiền; triết lý của tôi là lòng tốt.
^ Vào
lúc Tenzin Gyatso sinh, Taktser là một thành phố thuộc tỉnh Thanh Hải
và do [[Mã Lân (quân phiệt)|]], một quân phiệt liên minh với Tưởng Giới Thạch và được Quốc dân đảng bổ nhiệm là người lánh đạo Thanh Hải. Xem Thomas Laird, The Story of Tibet. Conversations with the Dalai Lama, Grove Press: New York, 2006 ; Li, T.T. “Historical Status of Tibet“, Columbia University Press, p. 179; Bell, Charles, “Portrait of the Dalai Lama“, p. 399; Goldstein, Melvyn C. Goldstein, A history of modern Tibet, pp. 315–317
Bí mật kho báu trên đỉnh Tuyết Sơn, bài viết của Hoàng Kim, được chú ý trên trang Nghiên cứu lịch sử ngày 1.8. 2016. Những hé lộ về bí mật kho báu trên núi Tuyết đã giúp tư liệu đánh giá ba vấn đề lớn tồn nghi trong lịch sử: 1) Ngoại giao thời vua Càn Long với nhà Tây Sơn. 2) Lý Tự Thành và kho báu nhà Minh. 3) Vì sao Trung Quốc quyết không cho Tây Tạng tự trị?. xem tiếp… https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bi-mat-kho-bau-tren-dinh-tuyet-son/
CNM365TÌNH YÊU CUỘC SỐNG Đối thoại với Thiền sư. Hoàng Trung Trực. Vững trụ đức tin đạo chí thành. Vô cầu, vô niệm bả công danh. Sớm hôm tu luyện rèn thân trí. Đạo cốt tình thương, đức mới thành.
Đối thoại với Thiền sư
Hoàng Trung Trực
Vất bỏ ngoài tai mọi chuyện đời
Lòng không vướng bận dạ an thôi
Ráng vun đạo đức tròn nhân nghĩa
Huệ trí bùng khai tỏa sáng ngời !
Lồng lộng đêm nghe tiếng mõ kinh
Bao nhiêu ham muốn bỗng yên bình
Tâm tư trãi rộng ngàn thương mến
Mong cả nhân loài giữ đức tin…
Thượng đế kỳ ba giáo độ đời
Vô minh cố chấp tại con người
Thành Tiên tùy hạnh tùy công đức
Ngôi vị thiêng liêng tạo bởi người…
Vững trụ đức tin đạo chí thành.
Vô cầu, vô niệm bả công danh.
Sớm hôm tu luyện rèn thân trí.
Đạo cốt tình thương đức mới thành. (*) Hoàng Trung Trực sinh ngày 26 tháng 2 năm 1944 tại xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, là đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam thời chống Mỹ, thương binh bậc 2/4, nghĩ hưu tháng 11/1991 tại số nhà 28/8/25 đường Lương Thế Vinh, phường Tân Thới Hòa, quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh. Bài đã đăng ở trang Dạy Và Học
Về nơi tịch lặng
Thích Giác Tâm (**)
Kính tặng quý thiện hữu cùng một trăn trở, ưu tư cho Đạo Pháp .
Ta rất muốn đi về trong tịch lặng.
Quẳng lại sau lưng nhân thế muộn phiền.
Lòng thao thức Đạo Đời luôn vướng nặng.
Mũ ni che tai, tâm lại hóa bình yên.
Đời chộn rộn sao còn theo chộn rộn?
Đạo hưng suy ta mất ngủ bao lần.
Đời giả huyễn thịnh suy luôn bề bộn.
Đạo mất còn ta cứ mãi trầm ngâm.
Vai này gánh cho vai kia nhẹ bớt.
Tìm tri âm ta nặng bước âm thầm.
Sợi tóc bạc trên đầu còn non nớt.
Tháng năm nào ta thấy lại nguồn tâm ?
Người rất muốn đi về trong tịch lặng
Quẳng lại sau lưng nhân thế muộn phiền
Ta đến chốn thung dung tìm hoa lúa Rong chơi đường trần sống giữa thiên nhiên.
Tâm thanh thản buồn vui cùng nhân thế
Đời Đạo thịnh suy sương sớm đầu cành Lòng hiền dịu và trái tim nhẹ nhõm
Kho báu chính mình phúc hậu an nhiên.
Hoa Bình Minh Như Nhiên. NẮNG BAN MAI. Hoàng Kim. Sớm xuân cuối đêm lạnh. Tỉnh thức Hoa Bình Minh. Nắng Ban Mai ghé cửa Cười nụ nhớ Như Nhiên. Thích chia cùng thiền sư Giọt sương mai đầu nụ bạch ngọc thích tánh tuệ Trăng rằm thương mẹ hiền…
TÌNH YÊU CUỘC SỐNG. Đến chốn thung dung. Người rất muốn đi về trong tịch lặng Quẳng lại sau lưng nhân thế muộn phiền Ta đến chốn thung dung tìm hoa lúa Rong chơi đường trần sống giữa thiên nhiên … Hoàng Kim đối thoại với Thiền sư: Về nơi tịch lặng, thầyThích Giác Tâm; Về trong tỉnh thức, Tỷ phú thời gian, Trở về với tâm, thầy Thích Tánh Tuệ.
ĐẾN CHỐN THUNG DUNG
Hoàng Kim
Người rất muốn đi về trong tịch lặng
Quẳng lại sau lưng nhân thế muộn phiền
Ta đến chốn thung dung tìm hoa lúa Rong chơi đường trần sống giữa thiên nhiên.
Tâm thanh thản buồn vui cùng nhân thế
Đời Đạo thịnh suy sương sớm đầu cành Lòng hiền dịu và trái tim nhẹ nhõm
Kho báu chính mình phúc hậu an nhiên (*).
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt (**) Trăng rằm xuân lồng lộng bóng tri âm Người tri kỷ cùng ta và năm tháng.
Giác Tâm: Ta về còn trọn niềm tin.
(*) PHẬT BẢO ‘BUÔNG BỎ’ LÀ BUÔNG BỎ CÁI GÌ?
1. Buông bỏ việc tranh luận đúng sai.
2. Buông bỏ tâm thái muốn khống chế người khác.
3. Buông bỏ sự trách móc, hờn giận.
4. Buông bỏ cảm xúc dằn vặt bản thân mình.
5. Buông bỏ tự ti về hiểu biết hữu hạn của bản thân.
6. Buông bỏ tâm phàn nàn, xét nét.
7. Buông bỏ cái tâm thái phê bình người khác và sự việc khác.
8. Buông bỏ tâm cầu danh, hám danh.
9. Buông bỏ tính lười nhác, thiếu cố gắng.
10. Buông bỏ tâm thái tùy ý nhận định người khác.
11. Buông bỏ sự sợ hãi.
12. Buông bỏ tâm bao biện.
13. Buông bỏ quá khứ.
14. Buông bỏ tâm cố chấp.
15. Buông bỏ việc nhìn vào người khác, sống cuộc sống của chính mình.
(**) Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt : Nhạc Trịnh.
Hoàng Kim là nhà khoa học xanh người thầy chiến sĩ quê Quảng Bình
VỀ NƠI TỊCH LẶNG
Thích Giác Tâm
Ta rất muốn đi về trong tịch lặng.
Quẳng lại sau lưng nhân thế muộn phiền.
Lòng thao thức Đạo Đời luôn vướng nặng.
Mũ ni che tai, tâm lại hóa bình yên.
Đời chộn rộn sao còn theo chộn rộn?
Đạo hưng suy ta mất ngủ bao lần.
Đời giả huyễn thịnh suy luôn bề bộn.
Đạo mất còn ta cứ mãi trầm ngâm.
Vai này gánh cho vai kia nhẹ bớt.
Tìm tri âm ta nặng bước âm thầm.
Sợi tóc bạc trên đầu còn non nớt.
Tháng năm nào ta thấy lại nguồn tâm ?
Em đừng mãi loay hoay tìm chỗ đứng
Cần hỏi mình rằng: ” phải Sống làm sao? ”
Vẫn có đấy, những người trong thầm lặng
Cúi xuống tận cùng mà hồn lại thanh cao!
Đời lắm lúc, vui cũng làm ta khóc,
Mà buồn tênh.. vẫn khiến rộ môi cười?
Hạnh phúc đến từ những điều bình dị
Trong chập chùng mưa nắng, giữa buồn, vui..
Đời đau khổ vì biến thành nô lệ
Cho ”hồn ma bóng quế” những phù hư..
Người nghèo khó dẫu tiền rừng bạc bể
Còn ta giàu dù.. túi chẳng một xu.
Em đừng mãi đi xa tìm hạnh phúc
Hãy yên ngồi nhận diện ở chung quanh..
Có đôi lúc thiên đường và địa ngục
Chỉ cách nhau bằng một sợi tơ mành..
Đời bể khổ – ta có quyền không khổ
Thân buộc ràng, ai nhốt được hồn mây?
Lòng thanh thản niềm vui tìm bến đổ
Khổ vì ưa ước hẹn kiếp lưu đày.
Thôi đừng mãi băn khoăn tìm lẽ sống
Lý tưởng thường… tưởng có lý thôi em!
Sống Tỉnh Thức giữa chập chùng ảo mộng
Hạnh phúc theo hơi thở đến bên thềm…
TỶ PHÚ THỜI GIAN
Thích Tánh Tuệ
Ta là tỷ phú thời gian
Bước chân thong thả đi ngang cuộc đời
Một dòng tất bật ngược xuôi
Ta riêng ngồi lại với hơi thở mình.
Một dòng nhộn nhịp sắc thinh
Ta xin lắng đọng hòa mình thiên nhiên.
Sáng ra nhìn nụ hoa hiền
Chuyện cùng cây lá bình yên sau vườn
Hỏi thầm khe khẽ giọt sương
Này, em có biết vô thường sắc-không!
Chiều về bát ngát mênh mông
Trầm hương đốt nén, trải lòng nơi nơi.
Trăng non một mảnh ngang trời
Kinh đêm ta tụng là lời yêu thương.
– Trăm năm giấc mộng huỳnh lương
Rộn ràng chi lắm cố hương xa vời.
Có ai tỉnh thức giữa đời
Về đây ta sẽ chia đôi gia tài.
Cuộc đời đó, vốn không dài
Hãy cho hồn được… thoát thai mây ngàn
Ta là tỷ phú thời gian
Vì không nô lệ lòng tham chính mình.
TRỞ VỀ VỚI TÂM
Thích Tánh Tuệ
Nếu đánh mất đi Nhiệt-Tâm
Con người trở nên lạnh nhạt
Năm tháng trôi qua âm thầm
Một ngày, một đời không khác.
Nếu đánh mất đi Trọng-Tâm
Bước chân con người nghiêng ngã
Sống trong cõi đời thăng trầm
Thiếu chỗ tựa nương, buồn bả.
Nếu đánh mất đi Thành-Tâm
Con người dễ cùng giả dối
Đằng sau dáng vẻ ân cần
Thường đã ươm mầm phản bội.
Nếu đánh mất đi Nhân-Tâm
Con người sát bên tàn nhẫn
Từ đồng loại đến hạ cầm
Ra tay.. chẳng hề ân hận.
Nếu đánh mất đi Lương-Tâm
Con người vô cùng nguy hiểm
Đạp trên lẽ phải mà đi
Bỏ mặc lương tri, hạnh kiểm.
Nếu đánh mất đi Từ-Tâm
Con người biến thành vô cảm
Niềm đau, nỗi khổ tha nhân..
Một tia mắt nhìn lãnh đạm.
Nếu đánh mất đi Tín-Tâm
Con người hoài nghi, thất vọng
Đóng cửa, sống trong âm thầm
Cho thế nhân toàn hư, hỏng.
Nếu đánh mất đi Chuyên-Tâm
Con người sống không mục đích
Khi thế này, lúc thế kia
Khó thể là người hữu ích.
Nếu đánh mất đi Quyết-Tâm
Con người sống trong rũ rượi
Cứ lưỡng lự rồi phân vân
Không bước chân làm sao tới.
Nếu đánh mất đi Chân-Tâm
Con người u mê, điên đảo
Tự mình xây ngục giam cầm
Không biết đâu là lẽ đạo.
Mất tâm, đời liền chao đảo
Thiếu tâm, phiền não trùng vây
Biết tâm, trở về sống với
Bao nhiêu mầu nhiệm hiển bày ..,