CNM365. Chào ngày mới 8 tháng 6. Wikipedia Ngày này năm xưa. Năm 632 – ngày mất Muhammad, nhà tiên tri của Hồi giáo. Năm 1992 – Hội nghị thượng đỉnh Trái Đất tại Rio de Janeiro, thành phố giữa núi và biển, Di sản thế giới UNESCO tại Brasil thông qua việc thành lập một cơ chế mới của Liên hiệp quốc nhằm giám sát việc tuân thủ các hiệp ước về môi trường.
8 tháng 6
Ngày 8 tháng 6 là ngày thứ 159 (160 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 206 ngày trong năm.
« Tháng 6 năm 2015 » | ||||||
CN | T2 | T3 | T4 | T5 | T6 | T7 |
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | |
7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 |
14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 |
21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 |
28 | 29 | 30 | ||||
Mục lục
Sự kiện
- 68 – Viện nguyên lão tuyên bố Galba là hoàng đế.
- 218 – Quân Lê dương ủng hộ Elagabalus giành thắng lợi trước quân của Hoàng đế La Mã Macrinus trong trận chiến gần Antioch thuộc Syria ngày nay, Elagabalus tuyên bố đây là ngày khởi đầu triều đại của mình.
- 907 – Hậu Lương Thái Tổ phong cho Vũ An tiết độ sứ Mã Ân tước hiệu Sở vương, khởi đầu nước Sở thời Ngũ Đại Thập Quốc.
- 1948 – Chiếc xe Porsche đầu tiên, mẫu 356 “No. 1”, chính thức ra mắt, đánh dấu bước khởi đầu của một thương hiệu xe hơi thế giới.
- 1949 – Tiểu thuyết Một chín tám tư của nhà văn người Anh George Orwell được phát hành tại Luân Đôn.
- 1951 – Thành lập Air Viet Nam, hàng không dân dụng đầu tiên của Việt Nam.
- 1956 – Lâm Hữu Phúc kế nhiệm chức vụ thủ hiến của Singapore sau khi người tiền nhiệm David Marshall thất bại trong đàm phán tự trị với Anh.
- 1969 – Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon tuyên bố đợt rút quân đầu tiên 25.000 lính Mỹ khỏi Việt Nam.
- 1972 – Chiến tranh Việt Nam: Nhiếp ảnh gia Nick Út chụp bức ảnh về một trẻ em chạy trên đường sau khi bị bỏng do bom napalm, bức ảnh sau đó đoạt giải Pulitzer.
- 1984 – Đồng tính luyến ái được tuyên bố hợp pháp tại bang New South Wales, Úc.
- 1988 – Ngoại trưởng Liên Xô Eduard Shevardnadze tuyên bố trước Liên hiệp quốc rằng Liên Xô sẵn sàng ngừng vĩnh viễn các vụ thử vũ khí hạt nhân nếu như Hoa Kỳ cũng đồng ý làm như vậy.
- 1992 – Hội nghị thượng đỉnh Trái Đất tại Rio de Janeiro, Brasil thông qua việc thành lập một cơ chế mới của Liên hiệp quốc nhằm giám sát việc tuân thủ các hiệp ước về môi trường.
- 2008 – Một nam giới lái một xe tải đâm vào một đám đông người đi bộ ở quận Akihabara, Tokyo, Nhật Bản, sau đó đâm ít nhất 12 người trước khi bị bắt giữ.
Sinh
- 862 – Hoàng đế Đường Hy Tông ở Trung Quốc(mất 888)
- 1552 – Gabriello Chiabrera, nhà thơ Ý (mất 1638)
- 1625 – Giovanni Domenico Cassini, nhà toán học và thiên văn học người Ý gốc Pháp (mất 1712)
- 1671 – Tomaso Albinoni, nhà soạn nhạc người Ý (mất 1751)
- 1717 – John Collins, chính trị gia Mỹ, Thống đốc thứ ba của tiểu bang Rhode Island (mất 1795)
- 1724 – John Smeaton, kỹ sư người Anh, thiết kế cầu Coldstream và Perth (mất 1794)
- 1745 – Caspar Wessel, nhà toán học người Na Uy gốc Đan Mạch, chuyên vẽ bản đồ (mất 1818)
- 1757 – Ercole Consalvi, giáo chủ người Ý (mất 1824)
- 1810 – Robert Schumann, nhà soạn nhạc người Đức và nhà phê bình (mất 1856)
- 1829 – John Everett Millais, nhà họa sĩ vẽ tranh minh họa người Anh (mất 1896)
- 1831 – Thomas J. Higgins, trung sĩ người Mỹ gốc Canada, người nhận huy chương danh dự ở Mỹ (mất 1917)
- 1842 – John QA Brackett, luật sư và chính trị gia Mỹ, Thống đốc thứ 36 ở bang Massachusetts (mất 1918)
- 1847 – Ida Saxton McKinley, là người vợ gốc Mỹ của William McKinley, đệ nhất phu nhân thứ 25 của Hoa Kỳ (mất 1907)
- 1851 – Jacques-Arsène d’Arsonval, bác sĩ và là nhà vật lý người Pháp (mất 1940)
- 1852 – Guido Banti, bác sĩ Ý (mất 1925)
- 1854 – Douglas Cameron, chính trị gia Canada, Phó Thống đốc thứ 8 của Manitoba (mất 1921)
- 1855 – George Charles Haité, họa sĩ người Anh (mất 1924)
- 1859 – Smith Wigglesworth, nhà truyền bá người Anh (mất 1947)
- 1860 – Alicia Boole Stott, nhà toán học Ai-len gốc Anh (mất 1940)
- 1867 – Frank Lloyd Wright, kiến trúc sư người Mỹ, đã thiết kế Tháp Price và Fallingwater (mất 1959)
- 1872 – Jan Frans De Boever, họa sĩ Bỉ (mất năm 1949)
- 1875 – Ernst Enno, nhà thơ và tác giả người Estonia (mất 1934)
- 1885 – Karl Genzken, bác sĩ người Đức (mất 1957)
- 1895 – Santiago Bernabéu Yeste, cầu thủ bóng đá Tây Ban Nha (mất 1978)
- 1897 – John G. Bennett, nhà toán học và kỹ thuật viên người Anh (mất 1974)
- 1867 – Frank Lloyd Wright, kiến trúc sư Mỹ (m. 1959)
- 1936 – Kenneth G. Wilson, nhà vật lý Mỹ, giải Nobel
- 1983 – Kim Clijsters, ngôi sao quần vợt người Bỉ
- 1984 – Javier Mascherano, cầu thủ bóng đá Argentina
Mất
- 218 – Macrinus, Hoàng đế La Mã
- 632 – Muhammad, nhà tiên tri của Hồi giáo
- 1384 – Kanami, nam diễn viên Nhật (s. 1333)
Ngày lễ và kỷ niệm
Tháng 1 | Tháng 2 | Tháng 3 | Tháng 4 | Tháng 5 | Tháng 6 | Tháng 7 | Tháng 8 | Tháng 9 | Tháng 10 | Tháng 11 | Tháng 12 |
Tham khảo
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về 8 tháng 6 |
Muhammad
Prophet Muhammad Nhà tiên trị, Sứ giả, Tông đồ, Người chứng kiến, Bearer of Good Tidings, Warner, Reminder, Caller, Announcer. |
|
---|---|
![]() Thư pháp phổ biến thể hiện tên của Muhammad
|
|
Sinh | Muḥammad ibn `Abd Allāh khoảng. 26 tháng 4, 570 Mecca (Makkah), Arabia (now Ả Rập Saudi) |
Mất | 08 tháng 6, 632 (62 tuổi) Yathrib, Ả Rập (ngày nay là Medina, Hejaz, Ả Rập Saudi) |
Nguyên nhân mất
|
Illness (high fever) |
Nơi an nghỉ
|
Tomb under the Green Dome of Al-Masjid al-Nabawi in Medina, Hejaz, Ả Rập Saudi |
Tên khác | See Names of Muhammad |
Dân tộc | Arab |
Tôn giáo | Islam |
Vợ (hoặc chồng) | Wives: Khadijah bint Khuwaylid (595–619) Sawda bint Zamʿa (619–632) Aisha bint Abi Bakr (619–632) Hafsa bint Umar (624–632) Zaynab bint Khuzayma (625–627) Hind bint Abi Umayya (629–632) Zaynab bint Jahsh (627–632) Juwayriya bint al-Harith (628–632) Ramlah bint Abi Sufyan (628–632) Rayhana bint Zayd (629–631) Safiyya bint Huyayy (629–632) Maymuna bint al-Harith (630–632) Maria al-Qibtiyya (630–632) |
Con cái | Sons: al-Qasim, `Abd-Allah, Ibrahim Daughters: Zainab, Ruqayyah, Umm Kulthoom, Fatimah Zahra |
Cha mẹ | Father: `Abd Allah ibn `Abd al-Muttalib Mother: Aminah bint Wahb |
Người thân | Ahl al-Bayt |
Thánh Muhammad (phiên âm: Môhamet hay Môhammet; tiếng Ả Rập: محمد ; sống vào khoảng 570 – 632) được những tín đồ Islam (I xơ lam, Hồi giáo) tin là vị ngôn sứ cuối cùng mà Thiên Chúa (tiếng Ả Rập gọi là Allah) gửi xuống để dẫn dắt nhân loại với thông điệp của I xơ lam. Ông được gọi là “sứ giả của Thượng Đế” (al-nabi,النبي) bởi những người theo đạo, còn những người không theo đạo xem ông là người sáng lập Islam. Tên của ông cũng được chuyển tự là Mohammad, Mohammed, Muhammed và đôi khi là Mahomet (theo tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Trong văn học và ngôn ngữ Việt Nam thông thường, ông được gọi là Đấng tiên tri hoặc Đại Tiên tri Mô-ha-mét.
Theo các tín đồ Islam viết tiểu sử truyền thống, ông được sinh vào khoảng năm 570 tại Mecca (Makkah) và qua đời ngày 8 tháng 6 năm 632 tại Medina (Madinah). Hai thành phố Mecca và Medina thuộc về miền tây của Ả Rập Saudi ngày nay. Tên Muhammad có nghĩa là “người được ca ngợi” trong tiếng Ả Rập.
Mục lục
- 1 Các cách gọi và câu chúc tụng
- 2 Tài liệu gốc
- 3 Bối cảnh lịch sử và thân thế
- 4 Trước khi truyền đạo
- 5 Thời kỳ truyền đạo ở Mecca
- 6 Thời kỳ ở Medina (Yathrib)
- 7 Hòa ước Hudaybiya
- 8 Tiếp thu Mecca
- 9 Những người tiếp nối
- 10 Chân dung
- 11 Gia đình và dòng dõi
- 12 Những hậu duệ là thường dân
- 13 Chú thích
- 14 Tham khảo
- 15 Liên kết ngoài
Các cách gọi và câu chúc tụng
Tín đồ Islam trên khắp thế giới thường gọi ông bằng các danh từ tiếng Ả Rập như:
- Nabi (al-nabi,النبي) có nghĩa là “sứ giả (của Thượng Đế)”.
- Rasul-Allah (رسول الله ) có nghĩa là “khâm sai của Thượng Đế”.
hoặc ngắn gọn là
- Rasul.
Danh từ thông dụng trong Anh/Pháp gọi là ông là Prophet/Prophète, với định nghĩa là “Sứ giả của Thiên Chúa” như một số các vị trưởng phụ trong kinh Cựu Ước. Một số tự điển lớn như Merriem-Webster online tiếng Anh hoặc Lexilogos tiếng Pháp biên thêm một định nghĩa cho chữ Prophet/Prophète là “Muhammad, người lập ra đạo Islam”. Trong tiếng Việt danh từ Prophet/Prophète được dịch một cách thông dụng là ‘nhà tiên tri ‘ hay ‘ngôn sứ’. Một số tài liệu tiếng Việt của người ngoài Islam cũng gọi ông bằng ‘giáo chủ Muhammad’.
Trong các sách vở, bài báo, trang web của cộng đồng tín đồ Islam nói tiếng Việt, danh từ thông dụng nhất hiện nay để chỉ định ông là Thiên Sứ (nhưng dùng trong ý nghĩa một người xác phàm được mặc khải và ban cho một vài phép lạ, khác với danh từ Thiên Sứ của tín đồ Cơ Đốc giáo chỉ định chữ angel tiếng Anh). Một số tài liệu khác cũng dùng danh từ Thánh để chỉ định ông.
Trong bản dịch các tác phẩm văn học (tiêu biểu là truyện Nghìn lẻ một đêm) sang tiếng Việt, và trên báo chí, ngôn ngữ tiếng Việt thông dụng không theo Hồi giáo, ông được gọi là Đấng tiên tri, Đại tiên tri, Giáo chủ Mô-ha-met.
Những tín đồ sùng đạo khi nhắc đến tên của ông thường kèm theo câu chúc tụng “Sall- Allahu alayhi wa salam” (Cầu xin Allah ban ân phước và sự bình an cho ngài), viết tắt là “(saw)” hay “(saas)”. Câu này cũng thường được dịch sang tiếnq Anh là “Peace and Benediction Upon Him”, viết tắt là PBUH, hoặc tiếng Pháp là “Paix et Bénédiction Sur Lui”, viết tắt là PBSL.
Tài liệu gốc
Những tài liệu căn bản về cuộc đời ông gồm có kinh Koran, các lời Hadith và các câu truyện Sunnah, các quyển tiểu sử đầu tiên của ông viết bởi các tín đồ Islam, và một vài bút ký của người ở các xứ lân cận một thời gian sau khi ông qua đời.
Koran
Kinh Koran là những lời mặc khải từ Thượng Đế được mang đến cho ông qua trung gian thiên thần Gabriel đối với tín đồ Islam. Một số câu trong Koran phản ánh những biến cố, những tình huống trong đời ông. Mặc dù các câu không theo thứ tự thời gian, và không có ghi rõ năm, nhưng kinh Koran được coi là tài liệu tham khảo quan trọng nhất bởi là tài liệu xưa nhất và được người trong đạo tôn trọng nhất. Mặt khác, ngày nay trên khắp thế giới các ấn bản để trì tụng của Koran đều giống y nhau từng chữ, nên Koran cũng được các học giả trong và ngoài đạo coi là tài liệu ít bị sai lệch so với nguyên bản nhất.
Hadith
Lúc sinh tiền, Thánh Muhammad (saw) ngăn cản không cho tín đồ chép lại lời nói của ông, mà chỉ khuyến khích mọi người dồn cố gắng học thuộc kinh Koran. Nhưng sau khi ông qua đời, một số người vận dụng trí nhớ để chép lại lời ông nói, một cách trực tiếp nếu đã từng gặp ông, hoặc một cách gián tiếp khi nghe những người thân cận ông nhắc lại việc xưa. Những lời đó được gọi là lời Hadith. Chưa đầy 200 năm sau khi ông từ trần, những lời được cho là ‘lời Hadith’ nhiều đến khoảng 700.000. Một số học giả đi gom góp, gạn lọc và xuất bản lại một số ít những lời đó. Chẳng hạn Ahmed Ibn Hanbal (780 – 855), chép lại khoảng 40.000 lời hadith trong bộ sách “Musnad” của ông, sau khi đã gạn bỏ bớt phần lớn của 700.000 “lời hadith” mà ông được biết. Ít lâu sau, học giả al-Bukhary (810 – 870) đã sưu tầm được 750.000 “hadith” và chỉ chấp nhận 7275 lời coi là “Sahih” (xác thực) trong bộ sách “Sahih Bukhary” của ông. Phần lớn các “lời Hadith” ngày nay được coi là công trình sưu tầm và tuyển lọc của khoảng mười nhà sưu tầm, trong đó có Ahmed Ibn Hanbal, al-Bukhary và năm người đồ đệ của ông.
Sunnah
Sunnah tiếng Ả Rập có nghĩa là “truyền thống”. Đó là những mẫu truyện về những gì Thánh Muhammad đã làm. Những mẫu truyện này thường nằm trong các sách ‘Hadith’, kể lại vì lý do gì, trong tình huống nào ông đã nói những lời nào. Những mẫu truyện này cũng nằm trong các quyển tiểu sử do các tín đồ viết về ông.
Tiểu sử viết bởi các tín đồ
Nhà viết tiểu sử xưa nhất về Thánh Muhammad được biết đến là Ibn Ishaq, qua đời năm 768. Một mảnh của tác phẩm của ông còn giữ được đến ngày nay. Tuy nhiên, hai quyển sách của ông được ông Ibn Hisham (qua đời năm 854) sắp xếp thành một quyển “Sirat Rasul Allah”, được nhiều lần tái bản. Đồng thời với Ibn Hisham có ông Ibn Sa’d (cũng mất năm 854) soạn một quyển tự điển tiểu sử “Tabaqat” viết về cuộc đời của Thánh Muhammad và hàng trăm ‘sahabah’ (bạn đồng hành) của ông. Cũng khoảng thời gian đó, cuộc đời của ông cũng được nói đến trong các quyển sử Ả Rập của Ibn al-Kalbi (? – 819), al-Baladhuri (? – 892) hoặc sử thế giới của al-Tabari (838-923), al-Masudi (871-957), v.v…
Các sách của người ngoại giáo
Các nhà khảo cứu vẫn chưa tìm được bút ký nào của người Copt ở Ai Cập, người Ba Tư, người Ấn hoặc người Hoa thời xưa nói về ông. Riêng người Đông La Mã (Byzantine) thì có Theophanus và Joannes Zonaras. Theophanus (khoảng 760 – 818) là một giáo sĩ Cơ Đốc giáo. Trong quyển ‘Chronographia’, ông có một đoạn nói về đạo Islam và Thánh Muhammad, trên quan điểm chống đối. Joannes Zonaras là sử gia sống vào thế kỷ 12. Ông soạn bộ sử ‘Historical Epitome’ nói về lịch sử thế giới từ khởi thủy đến năm 1118.
“Le fanatisme, ou Mahomet le Prophete” (Tên cuồng tín hay Nhà tiên tri Mahomet) là một vở bi kịch năm màn do nhà văn, nhà triết học thời kỳ Khai sáng người Pháp Voltaire sáng tác vào năm 1736. Vở kịch này dựa trên tiểu sử truyền thống của Muhammad, nói về việc ông ra lệnh cho giết những người có tư tưởng bất đồng với ông.[1] Theo Voltaire, vở kịch này “được viết với quan điểm chống đối người sáng lập ra một giáo phái giả dối và dã man”.[2]
Bối cảnh lịch sử và thân thế
Bán đảo Ả Rập
Vào khoảng năm 570, bán đảo Ả Rập được bao quanh bởi đế quốc Đông La Mã, đế quốc Ba Tư và đế quốc Abyssinia. Lãnh thổ Đông La Mã có Ai Cập, Jordan, Palestine, Syria là các vùng gần Ả Rập nhất. Ba Tư thì gồm các đất Iraq, Iran ngày nay, và có lúc kiêm luôn dải đất miền đông và miền nam của bán đảo Ả Rập. Xứ Abyssinia ở phía nam của Ai Cập, và có lúc kiêm cả đất Yemen ở miền nam bán đảo Ả Rập.
Phía bắc bán đảo Ả Rập có các vương quốc Cơ Đốc giáo, thường là chư hầu của Đông La Mã hoặc Ba Tư.
Phần lớn nhất của bán đảo, với sa mạc Ả Rập, gồm có những thành bang (‘city-state’), những bộ lạc tự trị, cách biệt nhau bởi những vùng đất rộng lớn không thuộc quyền kiểm soát của bang tộc nào. Miền trung tây, gọi là miền Hijaz có mấy thành bang lớn là Mecca, Ta’if và Jeddah. Các thành bang này hoặc có vua, hoặc được cai trị bởi một hội đồng quý tộc như ở Cổ Hy Lạp.
Thành phố Mecca
Mặc dù mỗi nơi tự cai trị lấy, nhưng thành Mecca lại có một địa vị đặc biệt là trung tâm tôn giáo của phần lớn bán đảo Ả Rập, nhờ ở đền Al-Haram (đền “Cấm”) và toà nhà vuông Ka’aba. Tương truyền Ka’aba là một ngôi đền do thánh Abraham và con là thánh Ishmael dựng lên để thờ Thiên Chúa (Vinh Danh Tối Cao). Với thời gian, người ta đem các tượng thần đặt xung quanh đền Ka’aba để thờ thêm, và dựng thành đền Al-Haram. Mỗi ngày trong năm đều trở thành ngày cúng vía của một hoặc vài vị thần nào đó. Và ngày nào cũng có một hoặc vài bộ lạc từ đâu đó trên bán đảo Ả Rập đến Mecca hành hương, và luôn tiện đem các sản vật của họ đến bán, rồi mua sản vật của các nơi khác. Do đó Mecca là một trung tâm thương mại rất thịnh vượng.
Tộc Qureysh
Mecca được cai trị bởi một nhóm quý tộc thuộc dòng Qureysh. Người Ả Rập thời đó không có họ mà chỉ tính dòng dõi. Tinh thần thị tộc rất cao, nên thường mỗi người đều thuộc gia phả của mình cho đến nhiều đời về trước. Dòng Qureysh sau tộc trưởng Abdul-Manaf (ông sơ của thánh Muhammad) thì chia làm mười chi, trong đó dòng Hashim trách nhiệm về mặt tế tự và quản lý đền thờ. Thánh Muhammad là cháu cố của tộc trưởng Hashim, vì vậy có khi tên ông được viết một cách trang trọng là Abu l-Qasim Muhammad ibn ‘Abd Allāh al-Hashimi al-Qurashi .
Trước khi truyền đạo
Chào đời
Thánh Muhammad (saw) chào đời ngày 12 tháng 3 âm lịch Ả Rập. Mỗi năm, ngày này là ngày nghỉ lễ tại các xứ Islam. Ngay cả tại Trung Quốc, ở các vùng đông tín đồ Islam như Tân Cương, Cam Túc và Ninh Hạ Hồi, tín đồ Islam cũng được nghỉ lễ ngày này. Người Ả Rập cổ đại cũng có ghi lại một số sự kiện lịch sử, tính năm theo một vài kỷ nguyên xưa. Nhưng tại Mecca công việc này bị lơ là nên người ta chỉ nhớ là thánh Muhammad sinh vào năm “Con Voi”. Năm ấy thống đốc vùng Yemen của xứ Abyssinia là Abraha vào chiếm Mecca, trong đoàn quân có con voi chiến rất to, nên người ta gọi nôm na là năm Con Voi. Ông nội của thánh Muhammad lúc bấy giờ là người quản lý đền Al Haram đứng ra điều đình với thống đốc Abraha và thuyết được Abraha rút quân về. Năm Con Voi theo các sử gia ngày nay là năm 569, 570 hoặc 571. Số đông coi là năm 570.
Thánh Muhammad là con đầu lòng của đức ông Abd-Allah (cũng thường viết là Abdullah) và đức bà Aminah. Người Trung Đông và Ấn-Âu vốn không có tục kiêng húy, ngược lại còn có truyền thống lấy tên những người mình quý mến đặt cho con, nên tên thánh Muhammad và tên các thân nhân của ông đều thông dụng ngày nay.
Thời thơ ấu
Thánh Muhammad (saw) không được biết mặt cha. Cha ông, trên một chuyến đi buôn xa, lâm bệnh và từ trần vài tuần trước khi ông ra đời. Mẹ con ông từ đó được ông nội ông cấp dưỡng.
Mẹ ông là người có học vấn và có sáng tác một số bài thơ, vẫn còn giữ được đến ngày nay. Tiếc thay, bà qua đời một cách đột ngột lúc ông lên sáu. Ông được ông nội rước về nuôi. Ông nội ông tuổi cũng đã cao, nên ông cũng chỉ ở được với ông hai năm. Kế đó, ông được nuôi nấng và dạy dỗ bởi người bác là Abu Talib. Ông Abu Talib cũng là người thừa kế chức quản lý đền Al Haram.
Tuổi thanh niên
Lớn lên, thánh Muhammad (saw) có tiếng là người đẹp trai và hào hiệp. Ông gia nhập một nhóm hiệp sĩ ở Mecca [3] là nhóm Hilf al Fudul, nhiều lần bênh vực những người cô quả bị cường hào ác bá ức hiếp. Là người rất tôn trọng lời nói, ông được mọi người tặng cho ngoại hiệu là Al-Amin (“người đáng tin cậy”). Như nhiều người dân Mecca, thánh Muhammad theo nghề buôn bán. Và cũng như phần đông người Mecca thời bấy giờ, ông không biết đọc biết viết.
Lập gia đình
Gặp năm đói kém, kinh tế thành Mecca bị suy thoái. Bác ông, ông Abu Talib mới đề nghị ông làm việc cho một goá phụ giàu có là bà Khadija, để quản lý cho bà các chuyến buôn hàng đường xa.
Sau một thời gian làm việc cho bà Khadija, ông thành hôn với bà năm ông được 25 tuổi. Phần nhiều các tài liệu nói rằng lúc ấy bà Khadija tuổi đã 40, nhưng theo sách của Baladhuri [4] thì lúc ấy bà chỉ mới 28. Tất cả tài liệu đều nói rằng sau đó hai người sống với nhau hạnh phúc đến lúc bà Khadija qua đời, khoảng 24 năm sau.
Trong khoảng 10 năm tiếp theo, bà Khadija sinh cho ông 7 người con, 3 trai 4 gái. Đầu tiên là một bé trai, tên là Qasim, nhưng chỉ nuôi được đến lúc vừa mới biết đi. Chỉ những người con gái mới nuôi được đến lúc trưởng thành, nổi tiếng nhất là người con gái út, tên là Fatima.
Thời kỳ truyền đạo ở Mecca
Thiên thần Gabriel
Tuổi gần 40, với cuộc sống tạm an ổn, ông thường có vẻ trầm tư mặc tưởng, và hay đi đến núi Nur (núi “Ánh Sáng”) ở ngoại ô Mecca, vào động Hira tham thiền nhập định theo lối tu khổ hạnh [5]. Có khi ông ở đấy hằng mấy ngày liền, bà Khadija phải cho người mang thức ăn nước uống cho ông. Ông kể lại rằng, năm ông được 40 tuổi, vào một đêm cuối tháng 9 âm lịch Ả Rập (tháng Ramadan), tại động Hira, một tạo vật bằng ánh sáng hiện ra và nói đại ý rằng:
- Ta là thiên thần Gabriel, được Thiên Chúa phái đến đây để báo cho anh được biết, anh được chọn làm sứ giả của Ngài.
Thiên thần dạy ông tẩy rửa theo nghi thức, và sau đó đưa một tấm lụa dài có thêu chữ bảo ông đọc. Ông trả lời rằng:
- Tôi không biết đọc.
Thiên thần mới ôm siết lấy ông và nói:
- Hãy đọc, nhân danh Chúa của ngươi, Đấng đã tạo ngươi từ một hòn máu đặc….
Ông đọc theo sau đó.
Sau nhiều tháng hoang mang tự hỏi sức khỏe và tâm trí mình có bình thường, hoặc mình có bị tà ma ám ảnh không, và kiểm điểm điều đó với những người thân cận nhất, thánh Muhammad dần dần tin rằng mình được Thiên Chúa (Vinh Danh Tối Cao) trao sứ mệnh để cứu độ một phần của nhân loại. Ông thấy thiên thần Gabriel tiếp tục đến với ông với những điềm lành, và tiếp tục mang đến thêm những lời kinh bảo ông học thuộc. Những lời kinh ấy được gọi là kinh Qur’an (Koran), mà thứ tự trình bày hoàn toàn khác với thứ tự thời gian của thiên thần Gabriel mang đến. Câu đầu tiên của Koran, “Hãy đọc, nhân danh Chúa của ngươi…” sau trở thành câu 1 của chương 96.
Những tín đồ đầu tiên
Và thánh Muhammad bắt đầu truyền đạo Islam. Những giáo điều căn bản của Islam trong buổi ban đầu gồm có: hãy noi gương các vị thánh đời trước (Adam, Noah, Abraham, Moses, David, Jesus, v.v…) chỉ thờ phụng một Đấng Thượng Đế, và tránh xa việc cúng lạy các pho tượng, là tác phẩm của bàn tay con người; hãy giúp đỡ người nghèo khó, cô quả và tránh tích lũy tài sản, tránh cho vay nặng lãi; hãy kính trọng, hiếu thảo với cha mẹ; đừng giết con thơ, nhất là con gái vì lo rằng không đủ sức nuôi; hãy chăm lo làm điều thiện và giữ mình tránh tạo tội ác vì mọi hành động của mỗi cá nhân đều được thiên thần ghi chép, đến Ngày Phán Xét Cuối Cùng sẽ được tổng kết, ai phần phước nhiều hơn phần tội sẽ được lên Thiên Đàng, và trái lại sẽ bị đọa Địa Ngục.
Người tín đồ đầu tiên là bà Khadija, vợ ông. Kế đến là người nô lệ vừa được ông trả tự do tên là Zaid. Rồi ông làm một buổi tiệc mời thân bằng quyến thuộc đến nhà, và giới thiệu về Islam. Sau buổi tiệc đó, có anh họ của ông là Ali, (con của ông Abu Talib) lúc ấy mới 12 tuổi, tuyên bố theo đạo. Kế đến là người bạn chí thân của ông, ông Abu Bakar, một doanh nhân giàu có. Ông Abu Bakar (cũng thường viết là Abu Bakr) vừa theo đạo liền trả tự do cho 8 người nô lệ của ông. Ông cũng truyền đạo rất tích cực và ngay cả rể của thánh Muhammad là ông Othman cũng theo đạo qua sự thuyết phục của ông.
Buổi giảng trên đồi Safa
Khoảng năm 613, một hôm, theo tập quán cổ truyền khi có việc hệ trọng, ông kêu gọi mọi người quy tụ trên đồi Safa, trong phạm vi Mecca. Ông bắt đầu bằng câu hỏi:
- Mọi người có tin không nếu tôi nói rằng phía sau ngọn đồi này đang có một đoàn quân đang hạ trại để chuẩn bị tấn công chúng ta ?.
Người ta trả lời rằng:
- Ông chưa hề nói dối, dĩ nhiên ông nói gì ai cũng sẽ tin.
Ông mới bắt đầu rằng:
- Thiên Chúa đã sai phái tôi đến cảnh cáo mọi người, và ai không nghe tôi hãy coi chừng cơn thịnh nộ của Ngài. và tiếp tục bài giảng.
Từ đó, ông thường xuyên ra giảng đạo trước công chúng.
Sự phản kháng và bách hại của phe bảo thủ
Thấy giáo điều Islam đi ngược lại với tín ngưỡng cha ông họ, và lợi tức kinh tế của thành Mecca do các bộ lạc đến dâng hương cúng các tượng thần, nên một số người của dòng Qureysh bắt đầu có phản ứng mạnh để ngăn chống sự phát triển của Islam. Hai người chống đối mạnh nhất là hai người bác của thánh Muhammad: ông Abu Jahil và ông Abu Lahab.
Theo chế độ thị tộc cổ Ả Rập, khi một người bị giết thì cả họ – những người chung đầu ông cố – có bổn phận phải báo thù, nên trong thời gian đầu nhóm đối lập không dám giết ông, và không dám giết những tín đồ thuộc dòng Qureysh ở Mecca. Họ thương lượng với bác của ông là ông Abu Talib, người quản lý đền Al Haram và tìm nhiều biện pháp mềm mỏng để ông chấm dứt truyền đạo. Nhưng ông Abu Talib nhất quyết bảo vệ giọt máu của người em trai quá cố, còn ông nhất quyết tiếp tục sứ mạng, nên các giải pháp thương lượng không đạt được kết quả mong muốn của phe chống đối.
Khi ông giảng đạo, họ châm biếm, chế nhạo, chửi rủa và ném đá. Họ đứng đón các bộ lạc từ xa đến hành hương và dặn đừng đến nghe ông. Điều này gợi sự tò mò nên có kết quả trái lại. Một vài người ở xa theo Islam và về bộ lạc họ truyền đạo, nên tín đồ vùng xa ngày càng đông. Tuy nhiên, có lúc thánh Muhammad không thể ra giảng trước công chúng được nữa vì sự chế nhạo, ném đá và các cách tương tự. Nhưng sau khi có vài người dũng kiện thuộc dòng Qureysh theo đạo và ra đứng bảo vệ thì ông lại tiếp tục.
Đối với những người từ xa đến Mecca làm việc, tứ cố vô thân, thường là nô lệ thì họ dùng những cực hình dã man để bức bách bỏ đạo. Một số không chịu nổi nên giả xưng bỏ đạo, hoặc có bỏ đạo thật. Một số khác bị giết hoặc bị chết trong lúc hành hạ, và được ghi nhớ là những người tử vì đạo. Một số khác kiên trì giữ đạo và sống sót sau nhiều cực hình.
Đợt tị nạn đến Abyssinia
Do sự bách hại đó, năm 615, khoảng 101 tín đồ Islam, trong đó có 18 phụ nữ, dẫn đầu bởi ông Othman là rể của thánh Muhammad đã trốn khỏi Mecca và đi đến xin tị nạn ở Abyssinia. Ông Othman vào yết kiến vị ‘negus’ (hoàng đế) xứ này và được chấp thuận tị nạn. Phe bảo thủ Mecca cho người đến Abyssinia đòi, nhưng ‘negus’ Abyssinia khước từ.
Năm buồn
Ông Abu Talib, người đã nuôi nấng thánh Muhammad từ lúc còn thơ, và người đã cương quyết bảo vệ ông trước phe bảo thủ, qua đời năm 619, lúc ông đã hơn 80 tuổi. Vài hôm sau lại đến lượt bà Khadija từ trần. Các nhà viết tiểu sử gọi năm này là “năm buồn” trong đời ông. Năm này công cuộc truyền đạo cũng gặp nhiều khó khăn. Lúc bấy giờ quyền quản lý đền Al Haram được về tay ông Abu Lahab, một trong hai người chống đối quan trọng nhất của ông, nhưng ông Abu Lahab lại tỏ vẻ hòa hoãn hơn.
Đêm Miraj
Vào năm 620, một hôm, thánh Muhammad kể lại với tín đồ và công chúng rằng đêm qua thiên thần Gabriel đã rước ông đi Jerusalem. Tại Jerusalem ông đã cầu nguyện nơi ngôi đền mà xưa kia thánh vương Solomon đã dựng lên lần đầu tiên. Sau đó ông cưỡi con thiên mã Al Buraq lên các tầng trời, được gặp các thánh đời trước như tổ Adam, Chúa Giê-Su, thánh Moses và thánh Abraham rồi được vào bái kiến Thiên Chúa (Vinh Danh Tối Cao). Dịp này, ông đã nhận được lệnh là các tín đồ Islam phải cầu nguyện 5 lần mỗi ngày. Tín đồ lắm người hoang mang ngờ vực, không biết còn nên tiếp tục tin ở ông hay không. Nhưng kế đó ông cho biết là trên đường về có thấy một đoàn khách thương từ Syria trở về, ông kể cho biết chi tiết của vài sự kiện nhỏ đã xảy ra cho đoàn khách thương đó, và ai đã nói câu gì. Những điều này được xác nhận khi đoàn khách thương này về đến Mecca.
Từ đó sự cầu nguyện mỗi ngày 5 lần trở thành giáo điều căn bản của Islam. Ngày nay, tại các xứ Islam, mỗi năm ngày 27 tháng 7 âm lịch Ả Rập là ngày nghỉ lễ kỷ niệm chuyến đi lên thượng giới của ông, gọi là chuyến đi Miraj. Tại các đền chùa, người ta cầu nguyện suốt đêm.
Hai lời thề ở Aqaba
Thành phố Yathrib nằm cách Mecca khoảng 450 km về phía bắc. Khoảng năm 620 có vài người Yathrib theo đạo, trở về truyền giảng được thành công lớn. Năm 621, tại đồi Aqaba ở Mecca, thánh Muhammad lần lượt gặp hai phái đoàn người Yathrib. Tại đây, hai nhóm người này đã thề trung thành với đạo và với ông. Họ cũng sẵn sàng đón tiếp những người bị bách hại ở Mecca và mời ông sang thành phố họ cư trú.
Cuộc thoát ly đi Yathrib
Sau hai cuộc hội thề này, nhiều tín đồ Islam ở Mecca dần dần trốn sang Yathrib. Thấy đây là một đe dọa cho kinh tế và tín ngưỡng của họ, phe bảo thủ của tộc Qureysh lại nhóm họp và tìm ra một ý kiến mới: mỗi chi của tộc Qureysh sẽ cử ra một thanh niên, đứng canh trước nhà thánh Muhammad, chờ ông bước ra thì đồng xông đến hạ sát, và như vậy những ai muốn báo thù cho ông sẽ, vì luân lý, không thể nào hướng sự trả thù đến tất cả các chi trong bộ tộc.
Thánh Muhammad thoát được cạm bẫy này. Ông cùng ông Abu Bakar trốn ra khỏi Mecca, và sau mấy tháng vừa đi vừa ẩn trú, họ đến được Yathrib.
Thời kỳ ở Medina (Yathrib)
Tổ chức cộng đồng tôn giáo và quốc gia
Đến Yathrib, ông được các tín đồ cũ mới đón tiếp nồng nhiệt. Ông được dành cho mọi danh dự và phút chốc trở thành lãnh tụ của đa số dân thành phố này, thành phố mà một thời gian sau được đổi tên thành “Madina-t-ul-Nabi” (« Thành Phố của vị Sứ Giả ») gọi tắt là Medina.
Việc đầu tiên ông làm ở đây là khởi công xây một thánh đường đơn sơ, và giảng đạo trước công chúng mỗi tuần vào buổi trưa thứ sáu. Ông cũng quy định khi cầu nguyện, nếu phân biệt được phương hướng thì hãy hướng mặt về Ngôi Đền Thiêng ở Jerusalem. Nhưng không đầy hai năm sau, có câu kinh Koran đưa lệnh khi cầu nguyện hãy hướng về đền Ka’aba ở Mecca.
Những người rời bỏ Mecca được gọi là những người ‘Muhajirin’ (“di cư”). Mỗi gia đình người “di cư” được một gia đình gốc Medina, gọi là người ‘Ansar’ (« tiếp trợ ») cho tá túc và giúp tìm kế sinh nhai. Cuộc thống kê đầu tiên cho biết có 186 gia đình “di cư” và khoảng 1500 tín đồ tổng cộng.
Medina lúc bấy giờ có hai bộ lạc Ả Rập chiếm đa số dân là bộ lạc Aus và bộ lạc Khajraz, và một thiểu số Do Thái với ba bộ lạc chính. Mỗi bộ lạc có một hoặc vài lâu đài, đồn lũy và đất cát cứ riêng. Các bộ lạc này vừa trải qua mấy năm chiến tranh với nhau. Thánh Muhammad họp các bộ lạc ấy lại, soạn một bản hiến pháp, và định quy chế thành bang cho Medina. Bản hiến pháp này gồm có 47 điều khoản, và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng châu Âu.
Thánh Muhammad di cư từ Mecca đến Medina cùng với Abu Bakr năm 622[6]. Năm này về sau (vào năm 638) được Umar lấy làm năm khởi đầu kỷ nguyên của cộng đồng Islam, gọi là kỷ nguyên Hijri (viết tắt là AH, Hijri nghĩa là Cuộc Di Cư), hay chính là năm đầu tiên của lịch Hồi giáo. Ngày đầu tiên của kỷ nguyên Hijri, tức là ngày 1 tháng Muharram 1 AH, tương ứng với ngày 16 tháng 7 năm 622. Ngày nay kỷ nguyên này được dùng làm kỷ nguyên chính thức tại nhiều nước Islam, song song với kỷ nguyên Công giáo của Dương lịch. Năm 2008, Công Nguyên tương đương với năm 1429 lịch Hijri, cũng thường gọi là Hồi lịch (âm lịch Ả Rập mỗi năm chỉ có khoảng 355 ngày).
Sau đó một thời gian, luật nhịn chay tháng Ramadan được ban ra, và được coi là một sự giảm nhẹ so với luật ban xuống thời trước (Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo nguyên thủy phải nhịn 40 ngày, thay vì 30 ngày). Luật Zakat (đóng góp an sinh xã hội, lấy từ 2,5% lợi tức đã trừ những chi tiêu căn bản), phân biệt với sự khuyến khích bố thí đã có từ trước, cũng được ban ra khoảng thời gian này.
Đương đầu với phe bảo thủ Mecca
Phe bảo thủ Mecca gởi thơ, mềm mỏng cũng có, hăm dọa tàn sát cũng có, để thuyết phục người Medina tuyệt giao với thánh Muhammad và các tín đồ đến từ Mecca. Họ cũng liên lạc, bí mật hoặc công khai với các bộ lạc ở Medina và các vùng lân cận, để cấm vận kinh tế hay để có nội ứng cho cuộc tấn công về sau.
Tín đồ Islam từ Mecca vẫn tiếp tục rải rác trốn đi Medina. Có lần phe bảo thủ cho người trà trộn trong những người này để hành thích ông. Nhưng khi thích khách đến gần thì ông nói cho biết là thích khách và người chủ mưu ám sát ông đã nói riêng những lời gì với nhau, khiến thích khách hoảng sợ, thú nhận mưu định và thật sự theo đạo.
Trận Badr
Trận chiến đầu tiên giữa cộng đồng Islam ở Medina và phe bảo thủ Mecca xảy ra năm 624. Địa điểm ở cách Medina khoảng 100 km về phía nam. Quân Mecca đông hơn 900, quân Islam chỉ được 313 người, nhưng thắng trận. Phe Mecca tử trận khoảng 70 người, trong đó có ông Abu Jahil, một trong hai người chống đối quan trọng nhất. Ông Abu Lahab không đi đánh, nhưng hay tin bại trận thì tức tối thành bệnh mà chết một tuần sau.
Đa số tù binh được đối xử tử tế, và được trả tự do đổi lấy tiền chuộc. Ai biết chữ thì phải dạy đọc dạy viết cho hai đứa trẻ ở Medina. Ai nghèo quá thì cũng được trả tự do mà không có điều kiện gì cả.
Trận núi Uhud
Cộng đồng Islam tiếp tục tăng trưởng. Năm 626, khi phe bảo thủ Mecca phái đến 3000 quân thì thánh Muhammad cũng có đến 1000 quân để ứng chiến. Trận này quân Mecca thắng, nhưng quân Medina giữ được các vị trí quan trọng, nên người Mecca phải rút về. Trận này cũng tăng uy tín cho thánh Muhammad vì quân Islam đã chiếm được thượng phong, nhưng một toán quân quên lệnh của ông, bỏ vị trí lo giành chiến phẩm, nên phe Mecca chuyển bại thành thắng.
Trận Chiến Hào
Năm 627, phe bảo thủ Mecca chuẩn bị trở lại với một đoàn quân đông hơn nữa. Tùy tài liệu, đoàn quân này đông 10.000, 12.000 hoặc 24.000, với một số lớn quân thuê từ các bộ lạc khác. Lúc này, quân Islam đã được 3.000. Theo lời cố vấn của ông Salman, người Ba Tư, thánh Muhammad cho đào chiến hào để ngăn địch. Ông tham gia công tác đào hào như tất cả mọi người.
Quân Mecca đến nơi, không qua được hào. Sau một thời gian bao vây, lều trại họ bị thiệt hại nặng trong một đêm mưa to gió lớn, nên phải rút lui. Trận đánh huy động nhiều quân nhất của hai bên, nhờ có chiến hào, trở thành trận đánh ít tổn thất nhân mạng nhất: 6 người ở Medina, 8 người phe Mecca vì những mũi tên bắn qua hào.
Hòa ước Hudaybiya
Năm 628, một thủ lĩnh lớn của miền đông – vựa lúa mì của bán đảo Ả Rập – là Thumamah bin Uthal theo Islam và cấm bán thực phẩm đi Mecca. Kinh tế của Mecca cũng gần kiệt quệ vì phí tổn tổ chức trận Chiến Hào, nên Mecca bị nạn đói đe dọa. Thánh Muhammad bèn ra lệnh xuất công quỹ giúp đỡ một số người nghèo túng ở Mecca, bán thực phẩm cho Mecca, và để cho người của phe bảo thủ Mecca tự do đi ngang qua vùng kiểm soát của Medina để buôn bán với Syria và Palestine.
Sau một số cử chỉ tỏ thiện ý muốn hòa bình với Mecca, thánh Muhammad cùng 1.400 người đi về Mecca với ý định hành hương, và không mang theo vũ khí. Phe bảo thủ Mecca dàn quân sẵn, và cử đại diện đến gặp ông tại đồi Hudaybiya. Họ ra điều kiện như sau:
1) Các tín đồ Islam không được viếng Mecca năm nay, mà chỉ được viếng năm tới, trong thời hạn tối đa 3 ngày.
2) Người nào từ Medina chạy đến Mecca, chính quyền Medina không được đòi lại. Ngược lại, người nào từ Mecca chạy đến Medina, chính quyền Medina phải giao trả nếu có cha hay chủ nhân ở Mecca đòi.
3) Hai bên đình chiến 10 năm. Không được đánh nhau trực tiếp, và cũng không được đánh nhau gián tiếp qua các đồng minh. Trong thời gian đó, mỗi bên có quyền đi ngang lãnh thổ của nhau.
Thánh Muhammad chấp thuận các điều kiện đó và ký kết hòa ước. Rồi ông trở về Medina.
Năm sau, cuộc hành hương của ông và những người đồng hành đến Mecca diễn ra tốt đẹp. Hai bên đều theo đúng điều đã giao kết tại Hudaybiya.
Trận Mouta
Khi dân thành Yathrib theo Islam hàng loạt năm 621 thì tại đấy có một số người chỉ làm theo số đông, nhưng không thật tâm theo đạo. Rồi thánh Muhammad ở phương xa đến cầm quyền, mang lại nhiều thay đổi, họ cảm thấy bị mất quyền lợi, mất địa vị. Do đó, ngay từ đầu, họ đã ngầm liên lạc với phe bảo thủ Mecca để làm nội ứng. Họ cũng tích cực khuyến khích một số bộ lạc xa gần chống lại chính quyền Islam.
Khi Mecca suy yếu từ sau trận Chiến Hào, họ tìm cách kéo các thế lực xa hơn, mạnh hơn vào thực hiện ý định của họ. Hoàng đế xứ Abyssinia vẫn luôn thân thiện với cộng đồng tín đồ Islam, nên nhất định không đánh Medina. Hai đế quốc Ba Tư và Đông La Mã thì trong tình trạng chiến tranh với nhau từ năm 603, nhưng lúc này Đông La Mã thắng thế, đã lần lượt thu hồi các đất Syria, Palestine và Ai Cập. Hoàng đế Đông La Mã là Heraclius đang có mặt trong vùng, nhận thấy có thể đưa một ít lực lượng đi chiếm thêm đất, hoặc ít ra đánh cho suy yếu một kình địch tương lai.
Được tin Đông La Mã tập trung lực lượng khá đông gần cửa ải vào bán đảo, thánh Muhammad phái một đội quân 3.000 người đi ngăn địch. Quân hai bên giao chiến tại Mouta. Theo At-Tabari, quân Medina bại trận, nhưng cũng cầm cự được 3 ngày. Đông La Mã thấy muốn thắng Ả Rập cũng phải tổn thất nhiều, và họ còn cần giữ lực lượng để phòng Ba Tư phản công, nên không tiến quân vào bán đảo.
Tiếp thu Mecca
Năm 630 có bộ lạc Banu Bakr đồng minh của Mecca đánh nhau với bộ lạc Khuza’ah đồng minh của Medina. Phe bảo thủ Mecca giúp bộ lạc Banu Bakr. Thánh Muhammad coi là họ đã xé bỏ hòa ước Hudaibiya qua hành động đó, nên chuẩn bị hưng binh, nhưng giữ bí mật không nói là sắp đi đâu. Thủ lĩnh phe bảo thủ Mecca là ông Abu Sufyan lo ngại, đích thân đến Medina điều đình, nhưng bị giữ lại không cho về.
Thánh Muhammad đem 10.000 quân đến Mecca. Phe bảo thủ Mecca hoang mang vì năm trước hai tướng giỏi nhất của họ là Khalid bin Walid và Amr bin Al Ass đã bỏ đi Medina theo Islam. Nay lại không có thủ lĩnh Abu Sufyan quyết định, nên đa số ngồi im không kháng cự.
Thánh Muhammad đã dặn quân sĩ không được hại mạng ai, ngoại trừ 20 người có thành tích bách hại tàn bạo nhất trước nay. Nhưng khi vào thành, ông được mặc khải lệnh tha thứ và hấp tấp truyền lệnh này. Lúc ấy có 3 người trong danh sách đã bị giết. Tướng Khalid về đến khu phố nhà thì gặp tướng Ikrimah – chỉ huy phó kỵ binh Mecca – với một toán quân nhỏ nghênh chiến. Một số người chết. Tướng Ikrimah trốn thoát được nhưng vài ngày sau đã trở về khi hay tin được ân xá.
Thánh Muhammad vào đền Al-Haram, cho dẹp đi các tượng thần, và bảo sơn lấp đi các hình ảnh của tín ngưỡng đa thần giáo. Kế đến ông ra tiếp công chúng tụ tập trước đền, phủ dụ chiêu an. Ngày hôm sau, có vụ án mạng do người từ Medina về trả thù riêng, ông khiển trách thủ phạm nặng nề, và sai đem 100 con lạc đà bồi thường gia đình nạn nhân, theo đúng phong tục.
Attab bin Asid, một nhân vật quan trọng của phe bảo thủ, nay theo Islam, được ông đặt làm thống đốc Mecca, và quy định lương bổng theo cơ chế chính quyền Medina. Khi vào xem kho tàng của đền Ka’aba từ nhiều năm được khách thập phương dâng cúng, người ta kiểm kê được hơn 55.000 lạng vàng [7]. Thánh Muhammad không chạm đến tiền này.
Sau khi ở lại Mecca vài tuần sắp xếp các công việc, ông trở về Medina.
Quốc gia Islam
Năm thứ 9 của kỷ nguyên Hijri (tương đương với năm 631) được các sử gia Islam gọi là Năm của Các Phái Đoàn. Năm ấy có rất nhiều phái đoàn đến từ khắp nơi trên bán đảo Ả Rập tuyên bố bộ lạc họ theo Islam và xin nội thuộc vào lãnh thổ Medina. Thánh Muhammad dành nhiều thời gian để tổ chức hệ thống hành chính, thuế khóa cho các vùng mới gia nhập. Ông nghiêm cấm gia đình và người trong họ lấy tiền công quỹ chi tiêu riêng.
Năm thứ 10 Hijri rất nhiều trường học được lập ra trong khắp lãnh thổ, và đặc biệt là ở Yemen phía nam bán đảo.
Chiến dịch Tabuk
Ba Tư ngày càng suy yếu, trong 3 năm ngôi hoàng đế qua tay ít nhất 5 người. Năm 631 Đông La Mã nhận thấy có thể yên tâm làm một cuộc viễn chinh vào Ả Rập. Được quân tế tác cho biết Đông La Mã chuẩn bị binh sĩ, thánh Muhammad bèn kêu gọi thánh chiến. Ông quy tụ được một đạo quân đông 30.000 người.
Thánh Muhammad và quân sĩ ra đến ải Tabuk, cách Medina khoảng 800 km về phía bắc. Đông La Mã thấy quân đối phương hùng hậu và kỷ luật, ngại nhiều tổn thất, nên không đến tấn công. Thánh Muhammad ở lại Tabuk ít lâu nhận định tình thế, rồi rút quân về.
Bài giảng ở Arafat
Năm 632 thánh Muhammad về Mecca hành hương lần cuối. Ngày 9 tháng 12 âm lịch Ả Rập, theo nghi thức hành hương, các tín đồ quy tụ ở đất Arafat, ngoại ô Mecca, để cầu nguyện. Tùy tài liệu, số tín đồ có mặt đông 90.000, 100.000 hoặc 140.000 người [8]. Thánh Muhammad đứng trên một đỉnh núi con là núi Từ Bi (‘Ar-Rahman’). Mỗi khoảng cách xa xa có một người khỏe giọng lặp truyền lại từng câu ông nói để mọi người đều nghe rõ.
Ông nhắc lại những tín điều quan trọng, dặn dò mọi người hãy cố gắng theo lời truyền dạy của kinh Koran, và tuyên bố là sứ mạng truyền đạo Islam của ông nay đã hoàn tất.
Những ngày cuối cùng
Mặc dù là lãnh tụ của một quốc gia rộng lớn, nhưng thánh Muhammad vẫn sống giản dị, ở nhà cửa sơ sài. Ông không đòi hỏi sự phục dịch, tự tay xách nước giếng khi cần tắm rửa. Ông thường nhịn chay, và tránh trong một bữa ăn hai thứ thịt. Trong thời gian bà Khadija còn sinh tiền, ông chỉ một vợ một chồng. Sau khi bà Khadija qua đời khoảng một năm thì ông tục huyền với một góa phụ, và sau đó thành hôn với mấy người nữa, đều là góa phụ hay đã ly dị chồng, ngoại trừ cô Aisha con ông Abu Bakar, trong những tình huống đặc biệt.
Đầu năm 11 Hijri, sức khỏe ông kém hẵn. Vài lần thấy mình không đủ sức dẫn lễ cầu nguyện ngày 5 lần ở thánh đường, nên ông nhờ ông Abu Bakar dẫn lễ thay. Ông kiểm lại tài sản, có chút ít đất đai thì ông để lấy huê lợi cho gia đình, còn 7 đồng dinar thì bố thí cho người nghèo. Ông cũng còn thanh gươm trị giá mấy đồng tiền vàng gởi cho người rể út là Ali, và một chiếc áo giáp nằm ở một hiệu cầm đồ người Do Thái ở Medina.
Ông qua đời ngày 12 tháng 3 âm lịch Ả Rập, cũng là sinh nhật của ông. Đã có nhiều người có khuynh hướng thờ phụng ông như một vị thần linh khi ông còn sinh tiền, nên ông Abu Bakar mới tuyên bố:
- Hỡi dân chúng ! Nếu ai tôn thờ Muhammad thì hãy biết rằng Muhammad đã chết. Còn ai tôn thờ Allah thì Allah vẫn hằng sống và không bao giờ chết !
Thi hài ông được an táng trong khuôn viên thánh đường gần nhà, nay gọi là thánh đường Al-Nabawy (« Thánh Đường Thiên Sứ »). Sau thánh đường mở rộng, phần mộ ông nay nằm trong toà đại điện.
Những người tiếp nối
Căn cứ vào việc thánh Muhammad đã nhờ ông Abu Bakar dẫn lễ cầu nguyện trong những ngày cuối cùng, ông Omar đề nghị ông Abu Bakar làm lãnh tụ. Đề nghị này được đa số chấp thuận.
Thánh Muhammad không thu nhận đồ đệ, không xưng hô thầy trò, nên những người tín đồ từng gặp qua ông, từng nghe giảng đều được gọi là Sahaba (“bạn đồng hành” hay “bạn đường”).
Chân dung
Thánh Muhammad không cho họa chân dung của ông, sợ rằng nhiều tín đồ Islam đời sau hướng về đó mà thờ phụng, trái với sứ mạng của ông. Theo Al-Tabari, ông Ali, rể ông tả rằng:
“ | Ngài có chiều cao trung bình, nước da trắng hồng, mắt đen. Râu hàm ngài mọc dày. Tóc ngài đen, dài xuống đến vai, dày và bóng, đến tuổi 63 mà cũng chỉ có vài sợi bạc. Tướng ngài vạm vỡ, đi đứng mạnh dạn, nhưng cũng có vẻ nhẹ thoăn thoắt. Dáng điệu đi đứng không có vẻ tự kiêu. Nét mặt ngài dịu dàng, ai nhìn rồi thì không muốn rời mắt đi hướng khác. Nhìn ngài nói chuyện thì ai đói cũng quên đói, ai phiền não cũng quên phiền não. | ” |
Gia đình và dòng dõi
Vợ con
Bà Khadija sinh cho ông 3 người con trai là Qasim, Tahir và Tayeb. Theo Al-Tabari, có thêm một người con trai nữa là Abdullah. Những người này đều chết lúc còn thơ ấu. Bốn người con gái là Roqayya, Um-Kulsum, Zainab và Fatima. Cô Roqayya sau là vợ ông Othman, vị khalip thứ ba của quốc gia Islam. Hai cô Um-Kulsum và Zainab gả cho hai con trai của ông Abu Lahab, bác của thánh Muhammad, cũng là người đối đầu quan trọng của ông. Vì vậy đã ly dị. Cô Fatima gả cho ông Ali, con của ông Abu Talib, cũng là bác của ông. Cô sinh được hai trai là Hassan và Hussein, là hai vị lãnh tụ rất được tôn sùng trong hệ phái Shia. Mộ của cô Fatima ở thành phố Qum, Iran nay là một thánh địa quan trọng của hệ phái này.
Những người vợ được nhiều tài liệu nhắc tới, nhưng không loại trừ xác suất tài liệu ngụy tạo là:
- Bà Sawda, một người đã theo chồng đi Abyssinia lánh nạn bách hại, khi về đến Mecca năm 620 thì chồng bà là ông Sukran qua đời, bà không còn nơi nương tựa.
- Bà Aisha, con ông Abu Bakar, gả cho ông lúc tuổi mới dậy thì. Bà nổi tiếng về kiến thức y học, và ngày nay nhiều người Bắc Phi thờ bàn tay của bà.
- Bà Hafsah, góa phụ, con ông Omar.
- Bà Um Habiba, một người đã đi lánh nạn ở Abyssinia và trở thành góa phụ, nhưng cũng là con ông Abu Sufyan lãnh tụ phe bảo thủ Mecca.
- Bà Maimun, góa phụ, cô ruột tướng Khalid.
Sau bà Khadija, thánh Muhammad không có con với ai, ngoại trừ một người tiểu thiếp tên là Maria do thống đốc Ai Cập gởi tặng. Người này sinh cho ông một bé trai tên là Ibrahim, nhưng chỉ nuôi được đến hai tuổi.
Các học giả như Al-Tabari và Muhammad Hamidullah thường liệt kê nhiều dị bản về các vợ con của thánh Muhammad, với các thông tin khác biệt, mâu thuẫn nhau.
Những hậu duệ là lãnh tụ tôn giáo
- Bài chi tiết: Các chi nhánh của Islam
- Bài chi tiết: Hệ phái Shia của Islam
Những hậu duệ là lãnh tụ quốc gia
- Nhà Fatimid (909 – 1171) ở Bắc Phi và Tây Á
- Nhà Sayyid (1414 – 1451) ở Ấn Độ
- Nhà Alaouite (1666 -) hiện trị vì tại Maroc
Những hậu duệ là thường dân
Theo bách khoa tự điển Quid 1990 của đài RTL (Radio Télévision Luxembourgeoise) xuất bản năm 1989, tại Iran có 600.000 người ‘sayyid’ (hậu duệ của thánh Muhammad theo phụ hệ) và 500.000 người ‘sharif’ (mẹ thuộc dòng dõi thánh Muhammad) (trang 979).
Hậu duệ của ông cũng khá đông đảo tại Ả Rập Saudi, Iraq, Syria, Jordan, Ai Cập, Libya, Tunisia, Algérie, Maroc, Ấn Độ, A Phú Hãn, Pakistan và Bangladesh.
Chú thích
- ^ Voltaire, Mahomet the Prophet or Fanaticism: A Tragedy in Five Acts, trans. Robert L. Myers, (New York: Frederick Ungar, 1964).
- ^ Voltaire Thư gửi Giáo hoàng Biển Đức XIV, viết ở Paris vào ngày 17 tháng 8 năm 1745. Bản tiếng Anh tại đây.
- ^ Le Prophète de l’Islam, sa vie, son oeuvre. Muhammad Hamidullah. Trang 59.
- ^ Le Prophète de l’Islam, sa vie, son oeuvre. Muhammad Hamidullah. Trang 67.
- ^ Le Prophète de l’Islam, sa vie, son oeuvre. Muhammad Hamidullah. Trang 79.
- ^ Moojan Momen (1985),An Introduction to Shi’i Islam: History and Doctrines of Twelver Shi’ism, Yale University Press, New edition 1987, p. 5.
- ^ Le Prophète de l’Islam, sa vie, son oeuvre. Muhammad Hamidullah. Trang 249. 70.000 onces, 1 once theo Pháp là 31g, phân biệt với ounce Anh là 28,35g.
- ^ Le Prophète de l’Islam, sa vie, son oeuvre. Muhammad Hamidullah. Trang 251.
Tham khảo
- Histoire des Envoyés de Dieu et des rois – nguyên tác tiếng Ả Rập “Tarikh al Rousoul wal Moulouk” của Muhammad ibn Djarir Al-Tabari (838-923), bản dịch tiếng Pháp do Mohamad Hamadé, dịch từ bản tiếng Đức của M. Hermann Zotenberg (1874), dịch từ bản tiếng Ba Tư của tể tướng Abou-‘Ali Mohammad Bel’Ami (963). Editions Al-Bustane, Paris 2002.
- Kinh Qur’an (ý nghĩa nội dung). Người dịch: Hassan Abdul Karim. Santa Ana, California 1997.
- La tradition musulmane – Ali Merad – Editions Que-Sais-Je ? – Presses Universitaires de France, Paris 2001.
- Le Prophète de l’Islam, sa vie, son oeuvre. Muhammad Hamidullah. Editions El-Najah. 6ème édition augmentée 1998, Paris.
- Les grandes dates de l’Islam, sous la direction de Robert Mantran, Editions Larousse, Paris 1990.
- Les minorités dans le monde – Faits et analyses – Joseph Yacoub – Editions Desclee de Brouwer – Paris 1998.
- L’Islam dans le monde – dossier présenté et établi par Paul BALTA – Edition La Découverte et Journal Le Monde – Paris 1986.
- Musulmans de Chine – Une anthropologie des Hui du Henan – Elisabeth Allès – Editions EHESS, Paris 2000.
- Quid 1990 – Dominique et Michèle Frémy, Editions Robert Laffont et Société des Encyclopédies Quid, 1989.
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Muhammad |
Các tiểu sử khách quan:
- Chương trình PBS về Muhammad (tiếng Anh)
- Tiểu sử trong bách khoa toàn thư Encarta (Anh)
- Bài viết về Muhammad trong số Encyclopædia Britannica năm 1911 (Anh)
- Các văn kiện viết bởi tín đồ Islam và người ngoại giáo với tính cách quý trọng tại University of Southern California (Anh)
Các tiểu sử viết bởi tín đồ Islam:
- Islamonline (tiếng Anh, Ả Rập)
- Tiểu sử bởi Harun Yahya (Anh)
- Ar-Raheeq Al-Makhtum (Mật hoa bịt kín) – Truyện ký của Nhà Thiên Sứ Cao quý (Anh)
- Cuộc đời thánh Muhammad – bởi Muhammad Husayn Haykal, dịch bởi Isma’il Razi A. al-Faruqi (Anh)
- Giới thiệu về Thiên Sứ Muhammad (Anh)
- www.muhammad.net – tiểu sử Thiên Sứ Muhammad và thêm nữa (Anh)
- Nhà Thiên Sứ Muhammad là ai? – có hình ảnh bởi ar-Rawdah an-Nabawiyah (Anh)
Quan điểm phê bình:
- Xu hướng trong các Tiểu sử Muhammad (Anh)
- Các bà vợ của Muhammad (Anh)
- Tên cuồng tín hay là Nhà tiên tri Muhammad (tiếng Pháp)
Các vấn đề khác:
- Sinh 570
- Mất 632
- Nhà tiên tri Hồi giáo
- Hồi giáo
- Người Hồi giáo
- Người Ả Rập
- Sinh thập kỷ 570
- Chính trị gia Ả Rập
- Nghị sĩ
- Nhà triết học
Hồi giáo
Hồi giáo (tiếng Ả Rập: الإسلام al-‘islām), còn gọi là đạo Islam, là một tôn giáo độc thần thuộc nhóm các tôn giáo Abraham. Đây là tôn giáo lớn thứ hai trên thế giới, sau Kitô giáo, và là tôn giáo đang phát triển nhanh nhất,[1][2][3][4][5][6] với số tín đồ hiện nay là 1,57 tỷ, chiếm 23% dân số thế giới.[7][8]
Hầu hết người theo đạo hồi thuộc hai dòng, Sunni (75–90%),[9] hoặc Shia (10–20%).[10] Có khoảng 13% người theo đạo Hồi sống ở Indonesia,[11] cộng đồng quốc gia Hồi giáo lớn nhất chiếm 25% ở Nam Á,[11] 20% Trung Đông,[12] và 15% ở hạ Sahara. Một số cộng đồng khác ở Châu Âu, Trung Quốc, Nga, và châu Mỹ. Các cộng đồng di dân và chuyển đạo cũng có ở nhiều nơi trên thế giới.
Mục lục
Nguồn gốc
Đối với người ngoài, đạo Hồi giáo ra đời vào thế kỷ 7 tại bán đảo Ả Rập, do Thiên Sứ Muhammad nhận mặc khải của thượng đế truyền lại cho con người qua thiên thần Jibrael. Đạo Hồi chỉ tôn thờ Allah Đấng Tối Cao, Đấng Duy Nhất (tiếng Ả Rập: الله Allāh). Đối với tín đồ, Muhammad là vị Thiên Sứ cuối cùng được Allah mặc khải Thiên Kinh Qur’an (còn viết là Koran) qua Thiên thần Jibrael.
Điều đầu tiên chúng ta nên biết và hiểu rõ về Islam là từ “Islam” có nghĩa là gì. Tên Islam không được đặt theo tên người như trong trường hợp Kitô giáo, được đặt tên theo Chúa Giê-su, Phật giáo được đặt tên theo Đức Phật, đạo Khổng được đặt tên theo Đức Khổng Tử, và chủ nghĩa Mác được đặt tên theo Các Mác.
Các tên gọi và cụm từ liên quan
Nguyên nghĩa của « Hồi giáo » trong tiếng Ả Rập là Islam và có nghĩa là “vâng mệnh, quy phục Thượng Đế”. Người theo Islam, trong tiếng Ả Rập gọi là Muslim, do đó có các chữ muslim, moslem tiếng Anh và musulman tiếng Pháp. Danh từ « Hồi giáo » xuất xứ từ dân tộc Hồi Hột. Hồi Hột là nước láng giềng phương bắc của Trung Quốc từ năm 616 đến 840. Lúc rộng lớn nhất lãnh thổ họ đông đến Mãn Châu, tây đến Trung Á [13], và họ đã giúp nhà Đường dẹp được loạn An Lộc Sơn. Với thời gian, cách gọi đổi thành « Hồi Hồi ». Tài liệu xưa nhất dùng danh từ « Hồi Hồi » là Liêu Sử, soạn vào thế kỷ 12.[14] Đời nhà Nguyên (1260 – 1368), tại Trung Quốc, cụm từ « người Hồi Hồi » được dùng để chỉ định người Trung Á, bất luận theo tín ngưỡng nào. Đến đời Minh (1368 – 1644), cụm từ « người Hồi Hồi » mới dần dần đổi nghĩa để chỉ định tín đồ Islam.[14]
Trước đó, người Hán thường gọi Islam là « Đại Thực giáo » hay « đạo A-lạp-bá ».[15] « A-lạp-bá » là phiên âm tiếng Hán của danh từ « Ả Rập ». « Đại Thực » là phiên âm của chữ « Tazi », tiếng Ba Tư dùng gọi người « Ả Rập », vì « Tazi » là tên một bộ tộc người « Ả Rập » tiếp xúc nhiều với Ba Tư thời xưa.[16]
Bởi « Hồi Hồi » là tên gọi chủng tộc, không phải là dịch nghĩa của chữ Islam hay một tôn chỉ của Islam, nên một số người hạn chế dùng danh từ « Hồi giáo » hay « đạo Hồi ». Trường hợp các tên « Đại Thực » hay « A-lạp-bá » cũng thế. Bởi thế, tại Trung Quốc, ngay từ năm 1335, thời nhà Nguyên, đã có người đề ra cụm từ Thanh Chân giáo (清真教) để thích nghi hơn với tiếng Hán[17]. Đề nghị này được hưởng ứng rộng rãi nên ngày nay Thanh Chân giáo là cụm từ được ghi trong nhiều từ điển tiếng Hán [18]. Tại Trung Quốc ngày nay cũng có nhiều “Thanh Chân tự” (清真寺) (thánh đường Islam) và “Thanh Chân thực đường” (清真菜堂) (quán ăn, nhà ăn halal).
Ngày nay tại Trung Quốc người ta cũng thường gọi Islam theo phiên âm là Y Tư Lan giáo (伊斯蘭教 Yīsīlán jiào).[19]. Cơ quan đại diện Islam chính thức tại Trung Quốc có tên là “Trung Quốc Y Tư Lan giáo hiệp hội” (中国伊斯兰教协会 Zhōngguó Yīsīlánjiào xiéhuì) được ra đời ngày 11 tháng 5 năm 1953, trực thuộc chính quyền và có trụ sở tại Bắc Kinh. Wikipedia Trung văn cũng dùng danh từ Y Tư Lan giáo.
Nhiều tài liệu, văn bản trong tiếng Việt từ nhiều năm nay cũng dùng danh từ đạo Islam hay đạo Ixlam. Tuy nhiên, nhiều tín hữu Islam nói tiếng Việt vẫn dùng danh từ Hồi giáo vì đã quen nghĩ đến, nói đến danh từ này một cách tôn kính.
Giáo lý
Tuy cùng một hệ thống nhất thần của các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham nhưng giáo lý Hồi giáo không chịu ảnh hưởng tư tưởng của Ki tô giáo và Do Thái giáo. Thể hiện rõ trong kinh Koran (trong 6219 câu của kinh này đã thể hiện nội dung của kinh Cựu Ước và Tân Ước). Không như những tôn giáo bạn, đạo Hồi chỉ có duy nhất một quyển thiên kinh Qur’an, gồm có 114 chương, 6236 tiết. Đối với các tín đồ Hồi giáo, thiên kinh Qur’an là một vật linh thiêng, vì đó chính là lời phán của Allah Đấng Toàn Năng.
Người Hồi giáo tin tưởng các vị sứ giả đến trước sứ giả Muhammad, kể từ Adam đến Jesus xuyên qua Noah, Abraham, Moise, v.v. Họ cũng tin tưởng Cựu ước và Tân ước là kinh sách của Allah nhưng họ không thi hành theo vì sự “lệch lạc” do người Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo tạo ra và thiên kinh Qur’an được Allah mặc khải xuống để điều chỉnh lại những gì đã sai trái ở hai kinh sách đó.
- Jesus đối với người Hồi giáo là một sứ giả rất được kính mến, nhưng họ không tin Jesus là con của Thiên Chúa (Allah), đối với họ Jesus chỉ là một con người, một sứ giả như mọi sứ giả khác vì theo quan điểm của Hồi giáo thì Thiên Chúa không có con, như Thiên kinh Qur’an đã phán:
- Allah là Đấng Tạo Thiên Lập Địa! Làm thế nào Ngài có con khi Ngài không hề có người bạn đường? Chính Ngài là Đấng đã sáng tạo và thông hiểu tất cả mọi vật.” (trích 6:101)
- Hồi giáo không chấp nhận tội tổ tông, việc làm của Adam và Eve không phải là nguồn gốc tội lỗi của loài người. Và không có một ai có quyền rửa tội cho một ai khác; ngoại trừ Allah.
Sự khác nhau giữa Cựu Ước, Tân Ước và Thiên Kinh Qur’an trên quan điểm Đấng Toàn Năng như sau:
Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình.
Ta và Cha ta là một.
Ngài là Đấng Duy Nhất. Allah Đấng Độc Lập và Cứu Rỗi. Ngài chẳng sinh ra ai và cũng chẳng ai sinh ra Ngài. Không một ai đồng đẳng với Ngài.
Đạo Hồi không có Mười Điều Răn như đạo Ki Tô nhưng kinh Qur’an cũng liệt kê mười điều tương tự:
- Chỉ tôn thờ một Thiên Chúa (tiếng Á Rập là Allah).
- Vinh danh và kính trọng cha mẹ.
- Tôn trọng quyền của người khác.
- Hãy bố thí rộng rãi cho người nghèo.
- Cấm giết người, ngoại trừ trường hợp đặc biệt (*).
- Cấm ngoại tình.
- Hãy bảo vệ và chu cấp trẻ mồ côi.
- Hãy cư xử công bằng với mọi người.
- Hãy trong sạch trong tình cảm và tinh thần.
- Hãy khiêm tốn
(*) Trường hợp đặc biệt được phép giết người mà không bị trọng tội là:
1) Trong khi kháng cự hoặc chiến đấu chống lại những kẻ lùng giết người đạo mình nhằm cưỡng bách bỏ đạo. Nhưng nếu chiến thắng, phải noi gương thiên sứ Muhammad, tha thứ và đối xử nhân đạo với phần đông kẻ bại trận.
2) Giết những tên sát nhân để trừ hại cho dân lành.
Ngoài ra tín đồ Hồi giáo có một số luật lệ:
- Một lần trong đời, họ phải hành hương về thánh địa Mecca, nhưng với điều kiện họ không vay mượn hay xin phí tổn. Trước khi đi, họ phải lo cho gia đình vợ con đầy đủ những nhu cầu cần thiết trong thời gian họ vắng mặt hành hương.
- Nghiêm cấm ăn máu, thịt con vật đã chết trước khi được cắt tiết theo nghi thức; không được ăn thịt lợn vì lợn là con vật ô uế.[20]
- Nghiêm cấm uống rượu và các thức uống lên men.
- Nghiêm cấm cờ bạc.
- Nghiêm cấm gian dâm và trai gái quan hệ xác thịt trước khi cưới hỏi.
- Nghiêm cấm ăn những con vật ăn thịt sống hay ăn tạp (như chó, mèo, chuột, v.v.).
- Người Hồi giáo chỉ được ăn thịt halal, tức là thịt đã được giết mổ theo nghi thức của đạo Hồi. Tuy nhiên, trong trường hợp tuyệt đối không có gì ăn, họ được ăn mọi thứ để duy trì sự sống.
- Hàng năm phải thực hiện tháng ăn chay Ramadan để tưởng nhớ và biết thương xót người nghèo. Tháng này tính theo lịch Mặt Trăng. Trong tháng này, khi còn ánh sáng Mặt Trời, họ không được ăn và uống, đến đêm thì mới ăn. Cũng trong tháng này, con người phải tha thứ và sám hối, vợ chồng không được gần nhau vào ban ngày nhưng ban đêm vẫn có thể ân ái với nhau. Trẻ em và phụ nữ có mang không phải thực hiện Ramadan.
- Hồi giáo nghiêm cấm kỳ thị chủng tộc và tôn giáo, tín đồ Hồi giáo không được phép chỉ trích cũng như phán xét người khác. Đó là việc của Allah Đấng Toàn Năng
Trên phương diện khoa học nhân văn, Hồi giáo là một tôn giáo ra đời vào thế kỷ thứ 7, dựa trên những nền tảng có sẵn của Do Thái giáo và Kitô giáo. Đôi khi người ta cũng gọi Hồi giáo là đạo Muhammad (Muhammadanism), theo tên của đức sáng tổ.
Tuy nhiên, với những tín đồ Hồi giáo, đạo của họ là đạo thường hằng trong vũ trụ, do Thượng Đế tạo ra, và vì Thượng Đế vốn bất sinh bất diệt nên đạo của Ngài cũng bất sinh bất diệt; còn Muhammad đơn thuần chỉ là một người “thuật nhi bất tác”, thuật lại cho mọi người những mặc khải của Thượng Đế mà thôi. Trong quan niệm của các tín đồ, Hồi giáo không khởi sinh từ Muhammad. Với họ, con người đầu tiên do Thượng Đế tạo ra, tức Adam, là tín đồ Hồi giáo đầu tiên, và ngay từ thuở hồng hoang, khắp đất trời đã là một vương quốc Hồi giáo. Không chỉ người mà thôi, mà tất cả muông thú, cỏ cây đều tuân theo Hồi giáo cả. Sở dĩ Adam và loài người được kiến tạo là để thay mặt Thượng Đế cai quản các loài thảo cầm ở nhân gian. Và vì đẳng cấp của loài người cao như thế tự do ý chí nên vấn đề nảy sinh từ đây. Sự tự do ý chí đôi khi dẫn đến những lầm lạc, lầm lạc dẫn đến rời bỏ Thượng Đế, và xa dần chính đạo. Khi Adam, con người đầu tiên và cũng là Thiên Sứ đầu tiên, lìa trần, con cháu ông, không còn ai chỉ bảo, càng lún sâu vào con đường tối. Do thế mà Thượng Đế lại phải gửi xuống nhân gian những vị Thiên Sứ mới để nhắc lại Thiên Đạo, đưa loài người về đúng nẻo ngay. Trước Muhammad, đã có hằng trăm ngàn Thiên Sứ giảng lời mặc khải ở trần thế, trong đó có Noah, Abraham (Ibrohim), Moses (Musa), David (Dawud) và Jesus (Ysa)… Tuy nhiên, một là do loài người u mê chưa tỉnh ngộ, hai là do sự ngoan cố, tự cao, tự đại của con người, mà chính đạo vẫn bị bóp méo như thường. Rốt cuộc, đến thế kỷ 7, Thượng Đế khải thị cho Muhammad, và biến ông trở thành vị Thiên Sứ hoàn hảo nhất trước nay, hơn hẳn những Thiên Sứ tiền nhiệm. Do đó mà đạo của Muhammad truyền bá cũng là hoàn hảo nhất, không thể bị bóp méo như trước kia. Muhammad là vị Thiên Sứ cuối cùng, và bất cứ ai dám xưng Thiên Sứ sau Muhammad đều là kẻ tà giáo. Như đã thấy ở trên, Abraham (Ibrohim) cử xuống cho Do Thái Giáo, và Giêsu (Ysa) cử xuống cho Kitô giáo, đều có vị trí Thiên Sứ trong Hồi giáo. Như vậy, Thiên Chúa mà ba tôn giáo này thờ phượng chỉ là một.
Từ Allah trong tiếng Ả Rập mang nghĩa là Thượng Đế. (Những Kitô hữu người Ả Rập khi cầu nguyện cũng gọi Đức Chúa Cha là Allah). Thượng Đế dĩ nhiên phải cao hơn Thánh và là duy nhất, vả lại trong đạo Hồi chính thống hoàn toàn không có khái niệm Thánh. Người Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo cũng được tín đồ Hồi giáo tương đối coi trọng và gọi là Giáo Dân Thánh Thư (People of The Book). Kinh Thánh Kitô giáo cũng là sách thiêng trong Hồi giáo, có điều người ta coi nó không đầy đủ và hoàn thiện như Koran.
Năm cột trụ của Hồi giáo
Năm điều căn bản của đạo Hồi:
- Tuyên đọc câu Kalimah Sahadah: Ash Ha Du Allah Ila Ha Il Lallah Wa Ash ha du an na Muhammader rosu Lullah, có nghĩa Tôi công nhận Allah là thượng đế duy nhất và ngoài ra không có ai khác cả và tôi công nhận Muhammad là vị sứ giả cuối cùng của Ngài
- Cầu nguyện ngày năm lần: Buổi bình minh, trưa, xế trưa, buổi hoàng hôn và tối.
- Bố thí.
- Nhịn chay tháng Ramadan.
- Hành hương tại Mecca.
Sự phân chia Hồi giáo
Đến nay Hồi giáo đã chia ra làm nhiều nhánh với những giáo lý và quan điểm chính trị khác biệt.
Sunni
Hồi giáo dòng Sunni chiếm 75%–90% số người theo Đạo Hồi.[9] Dòng Sunni cũng có tên Ahl as-Sunnah nghĩa là “người truyền thống [của Muhammad]”.[21]
Người theo Sunni tin rằng bốn Khalip đầu tiên là những người thừa kế hợp pháp của Muhammad; vì Chúa không chỉ định bất kỳ lãnh đạo đặc biệt nào để kế thừa ông và những người này được bầu ra. Người theo Sunni tin rằng bất cứ ai là người công chính và chỉ có thể là một khalip nhưng họ phải hành động theo kinh Qur’an và Hadith.
Sunni theo Quran, sau đó là Hadith. Sau đó, các vấn đề pháp lý không được tìm thấy trong Kinh Qur’an hoặc Hadith, họ theo bốn madh’habs (trường phái tư tưởng): Hanafi, Hanbali, Maliki và Shafi’i, được thành lập xung quanh những lời dạy tương ứng của Abū Hanifa, Ahmad bin Hanbal, Malik ibn Anas và al-Shafi’i.
Tất cả 4 chấp nhận tính hợp pháp của nhau và Đạo Hồi có thể chọn bất kỳ một để theo.[22] Salafi (hay Ahl al-Hadith (Arabic: أهل الحديث; The people of hadith), hoặc từ miệt thị Wahhabi theo cách gọi của đối thủ họ) là một phong trào Hồi Giáo cực kỳ chính thống đã đưa lớp người Hồi Giáo đầu tiên là một hình mẫu điển hình.[23]
Shia
Shi’a chiếm 10–20% số người theo đạo Hồi và là nhánh lớn thứ 2.[10]
Trong khi Sunni tin rằng Muhammad không chỉ định một người kế nhiệm và do đó kế nhiệm ông sẽ được chọn bởi cộng đồng thì Shia tin rằng trong lần hành hương cuối cùng của Muhammad đến Mecca, ông đã chỉ định con nuôi của ông là Ali ibn Abi Talib, làm người kế vị trong Hadith of the pond of Khumm. Và thế là họ tin rằng Ali ibn Abi Talib là Imam (lãnh đạo) đầu tiên, và bác bỏ tính hợp pháp của các khalip Hồi giáo trước Abu Bakr, Uthman ibn al-Affan và Umar ibn al-Khattab.
Hồi Giáo Shia có nhiều nhánh, nhánh lớn nhất là Twelvers phát triển phần lớn ở Iran, Iraq, Azerbaijan, Bahrain, Ấn Độ, Pakistan và Liban. Tiếp theo là Zaidis và Ismaili. Sau cái chết của Imam Jafar al-Sadiq (cháu lớn của Abu Bakr và Ali ibn Abi Talib) được xem là lãnh tụ thứ 6 của người Shia, Ismailis bắt đầu theo con trai ông Isma’il ibn Jafar và Twelver Shia’s (Ithna Asheri) bắt đầu theo con trai khác của ông Musa al-Kazim làm Imam thứ 7. Zaydis theo Zayd ibn Ali, chú của lãnh tụ Jafar al-Sadiq, là lãnh tụ thứ 5.
Các nhóm khác nhỏ hơn gồm Bohra và Druze,[24] cũng như Alawites và Alevi.
Sufism
Các dòng khác
Thánh địa Mecca
Theo quy định của hồi giáo, mỗi giáo dân ít nhất một lần trong cuộc đời phải hành hương về thánh địa Mecca bằng chính kinh phí của bản thân mình và trước khi đi phải chuẩn bị đồ ăn thức uống cho người thân (những người ở nhà, không đi hành hương) trong thời gian mà họ đi vắng. Vào tháng Ramadan, người Hồi giáo hành hương về đây (và chỉ có người Hồi giáo mới được về đây).[25][26] Sau khi hành hương đến Mecca, tín đồ đạo Hồi sẽ có được danh hiệu là “Haj” hoặc “Haji”.
Chú thích
- ^ “Israel haven for new Bahai world order”. Agence France-Presse. 18 tháng 11 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2013.
- ^ Fastest Growing Religion; Christianity
- ^ “The List: The World’s Fastest-Growing Religions”. Foreign Policy. 14 tháng 5 năm 2007. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2013.
- ^ PBS – Islam: Empire of Faith – Faith – Islam Today
- ^ Lippman, Thomas W. (7 tháng 4 năm 2008). “No God But God”. U.S. News & World Report. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2013.
- ^ Major Religions Ranked by Size
- ^ Greene, Richard Allen (12 tháng 10 năm 2009). “Nearly 1 in 4 people worldwide is Muslim, report says”. CNN. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2013.
- ^ “The World Factbook”. CIA Factbook. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2010.
- ^ a ă See:
- “Sunnite”. Encyclopædia Britannica Online. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2010. “They numbered about 900 million in the late 20th century and constituted nine-tenths of all the adherents of Islām.”
- Islamic Beliefs, Practices, and Cultures. Marshall Cavendish. 2010. tr. 352. ISBN 0-7614-7926-0. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2011. “A common compromise figure ranks Sunnis at 90 percent.”
- “Mapping the Global Muslim Population: A Report on the Size and Distribution of the World’s Muslim Population”. Pew Research Center. Ngày 7 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2013. “Of the total Muslim population, 10-13% are Shia Muslims and 87-90% are Sunni Muslims.”
- “Quick guide: Sunnis and Shias”. BBC News. 6 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2011. “The great majority of Muslims are Sunnis – estimates suggest the figure is somewhere between 85% and 90%.”
- Sunni Islam: Oxford Bibliographies Online Research Guide “Sunni Islam is the dominant division of the global Muslim community, and throughout history it has made up a substantial majority (85 to 90 percent) of that community.”
- “Sunni and Shia Islam”. Library of Congress Country Studies. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2011. “Sunni constitute 85 percent of the world’s Muslims.”
- “Sunni”. Berkley Center for Religion, Peace, and World Affairs. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2012. “Sunni Islam is the largest denomination of Islam, comprising about 85% of the world’s over 1.5 billion Muslims.”
- “Tension between Sunnis, Shiites emerging in USA”. USA Today. 24 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2013. “Among the world’s estimated 1.4 billion Muslims, about 85% are Sunni and about 15% are Shiite.”
- Inside Muslim minds “around 80% are Sunni”
- Who Gets To Narrate the World “The Sunnis (approximately 80%)”
- A world theology N. Ross Reat “80% being the Sunni”
- Islam and the Ahmadiyya jama’at “The Sunni segment, accounting for at least 80% of the worlds Muslim population”
- Eastern Europe Russia and Central Asia “some 80% of the worlds Muslims are Sunni”
- A dictionary of modern politics “probably 80% of the worlds Muslims are Sunni”
- “Religions”. The World Factbook. Central Intelligence Agency. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2010. “Sunni Islam accounts for over 75% of the world’s Muslim population…”
- ^ a ă See
- “Shīʿite”. Encyclopædia Britannica Online. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2010. “Shīʿites have come to account for roughly one-tenth of the Muslim population worldwide.”
- “Mapping the Global Muslim Population: A Report on the Size and Distribution of the World’s Muslim Population”. Pew Research Center. Ngày 7 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2013. “The Pew Forum’s estimate of the Shia population (10-13%) is in keeping with previous estimates, which generally have been in the range of 10-15%. Some previous estimates, however, have placed the number of Shias at nearly 20% of the world’s Muslim population.”
- “Shia”. Berkley Center for Religion, Peace, and World Affairs. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2011. “Shi’a Islam is the second largest branch of the tradition, with up to 200 million followers who comprise around 15% of all Muslims worldwide…”
- “Religions”. The World Factbook. Central Intelligence Agency. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2010. “Shia Islam represents 10-20% of Muslims worldwide…”
- Iran, Israel and the United States “The majority of the world’s Islamic population, which is Sunni, accounts for over 75% of the Islamic population; the other 10-20 percent is Shia.” (reference: CIA)
- Sue Hellett; U.S. should focus on sanctions against Iran “Let me review, while Shia Islam makes up only 10-20 percent of the world’s Muslim population, Iraq has a Shia majority (between 60-65 percent), but had a Sunni controlled government under Saddam Hussein and cronies from 1958-2003… (If you like government figures, see the CIA World Factbook.)”
- ^ a ă Miller (2009, tr. 8,17)
- ^ See:
- Esposito (2002b, tr. 21)
- Esposito (2004, tr. 2,43)
- Miller (2009, tr. 9,19)
- ^ “Manuel d’Histoire, de Généalogie et de Chronologie de tous les Etats du Globe depuis les temps les plus reculés jusqu’à nos jours”, Stokvis A.M.H.J., tr 184-186.
- ^ a ă “Islam in Traditional China. A short history to 1800.” Donald. D. Leslie, tr. 196.
- ^ “Trung Quốc Sử Lược”. Phan Khoang.
- ^ “Le Prophète de l’Islam, sa vie, son oeuvre”, Muhammad Hamidullah, tr. 329.
- ^ “Musulmans de Chine – Une anthropologie des Hui du Henan”, Elisabeth Allès, tr. 31.
- ^ Từ điển Hán – Việt, Nhà xuất bản ngoại văn Bắc Kinh, 1994, tr. 547.
- ^ Từ điển Hán – Việt, Nhà xuất bản ngoại văn Bắc Kinh, 1994, tr. 780.
- ^ Thịt heo qua Cựu ước-Tân ước-Qur’an và y học
- ^
- “Islam Today”. Islam: Empire of Faith (2000). PBS. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2010. “Islam, followed by more than a billion people today, is the world’s third fastest growing religion.”
- Lippman, Thomas W. (7 tháng 4 năm 2008). “No God But God”. U.S. News & World Report. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2013. “Islam is the youngest, the fastest growing, and in many ways the least complicated of the world’s great monotheistic faiths. It is a unique religion based on its own holy book, but it is also a direct descendant of Judaism and Christianity, incorporating some of the teachings of those religions—modifying some and rejecting others.”
- “Understanding Islam”. Susan Headden. U.S. News & World Report. Ngày 7 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2010.
- “Major Religions of the World Ranked by Number of Adherents”. Adherents.com. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2007.
- ^ See:
- Esposito (2003, tr. 275,306)
- “Shariah”. Encyclopædia Britannica Online.
- “Sunnite”. Encyclopædia Britannica Online.
- ^ Salafi Islam GlobalSecurity.org. Truy cập 2010-11-09.
- ^ See:
- Kramer (1987), Syria’s Alawis and Shiism pp.237–254
- Shia branches
- ^ Peters, Francis E. (1994). The Hajj: The Muslim Pilgrimage to Mecca and the Holy Places. Princeton University Press. tr. 206. ISBN 0-691-02619-X.
- ^ Esposito, John L. (2011). What everyone needs to know about Islam. Oxford University Press. tr. 25. ISBN 9780199794133. “Mecca, like Medina, is closed to non-Muslims”
Tham khảo
- Arberry, A. J. (1996). The Koran Interpreted: A Translation (ấn bản 1). Touchstone. ISBN 978-0684825076.
- Khan, Muhammad Muhsin; Al-Hilali Khan, Muhammad Taqi-ud-Din (1999). Noble Quran (ấn bản 1). Dar-us-Salam Publications. ISBN 978-9960740799.
- Kramer (ed.), Martin (1999). The Jewish Discovery of Islam: Studies in Honor of Bernard Lewis. Syracuse University. ISBN 978-9652240408.
- Kuban, Dogan (1974). Muslim Religious Architecture. Brill Academic Publishers. ISBN 9004038132.
- Lewis, Bernard (1994). Islam and the West. Oxford University Press. ISBN 978-0195090611.
- Lewis, Bernard (1996). Cultures in Conflict: Christians, Muslims, and Jews in the Age of Discovery. Oxford University Press. ISBN 978-0195102833.
- Mubarkpuri, Saifur-Rahman (2002). The Sealed Nectar: Biography of the Prophet. Dar-us-Salam Publications. ISBN 978-1591440710.
- Najeebabadi, Akbar Shah (2001). History of Islam. Dar-us-Salam Publications. ISBN 978-1591440345.
- Nigosian, S. A. (2004). Islam: Its History, Teaching, and Practices . Đại học Indiana Press. ISBN 978-0253216274.
- Rahman, Fazlur (1979). Islam (ấn bản 2). University of Chicago Press. ISBN 0-226-70281-2.
- Tausch, Arno (2009). Muslim Calvinism (ấn bản 1). Rozenberg Publishers, Amsterdam. ISBN 978-905170995 Kiểm tra giá trị
|isbn=
(trợ giúp). - Tausch, Arno (2009). What 1.3 Billion Muslims Really Think: An Answer to a Recent Gallup Study, Based on the “World Values Survey“. Foreword Mansoor Moaddel, Eastern Michigan University (ấn bản 1). Nova Science Publishers, New York. ISBN 978-1-60692-731-1.
- Walker, Benjamin (1998). Foundations of Islam: The Making of a World Faith. Peter Owen Publishers. ISBN 978-0720610383.
Đọc thêm
- “Islam in Traditional China. A short history to 1800.”, Donald D. Leslie, Canberra College of Advanced Education (CCAE), Canberra 1986.
- “Le Prophète de l’Islam, sa vie, son oeuvre”, Muhammad Hamidullah, Editions El-Najah, 6ème édition augmentée, Paris 1998.
- “Manuel d’Histoire, de Généalogie et de Chronologie de tous les Etats du Globe depuis les temps les plus reculés jusqu’à nos jours”, Stokvis A.M.H.J., Leiden, 1888-1893 (ré-édition en 1966 par B.M.Israel).
- “Musulmans de Chine – Une anthropologie des Hui du Henan”, Elisabeth Allès, Editions EHESS, Paris 2000.
- “Trung Quốc Sử Lược”, Phan Khoang, bản in lần thứ ba, Sài gòn và Huế 1958.
- “Từ điển Hán – Việt”, Nhà xuất bản ngoại văn Bắc Kinh, 1994.
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Hồi giáo |
- Islam tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
- Đạo Hồi tại Từ điển bách khoa Việt Nam (tiếng Việt)
- Chân lý Islam, trang thông tin về Hồi giáo tại Việt Nam.
- Trung tâm Islam
- Đạo Hồi ở Việt Nam
- Hồi giáo Các trang đặc biệt
- Đôi nét về mâu thuẫn giữa dòng Sunni và Shiite, Ban Tôn giáo chính phủ CHXHCN VN
- Mỗi năm, hàng triệu người hành hương về thánh địa Mecca
Rio de Janeiro
Rio de Janeiro (phát âm IPA [ˈʁiu dʒi ʒaˈneiɾu]; theo tiếng Bồ Đào Nha nghĩa là “sông tháng Giêng”) là thành phố tại bang cùng tên (Bang Rio de Janeiro) ở phía nam của Brasil với diện tích 1260 km² và dân số là 5.613.000 người. Thành phố này đã từng là thủ đô của Brasil giai đoạn 1763-1960 và của Đế quốc Bồ Đào Nha từ 1808-1821. Thành phố thường được gọi tắt là Rio và nickname là A Cidade Maravilhosa (thành phố kỳ diệu). Vùng đô thị Rio de Janeiro có dân số lên đến 11.620.000 dân.
Thành phố này nổi tiếng với phong cảnh tự nhiên, các lễ hội carnival và nhạc samba và các loại hình âm nhạc khác, các bãi biển. Ở đây có bức tượng lớn của Đức Jesus đứng trên đỉnh núi nhìn ra biển. Sân bay quốc tế Galeão – Antônio Carlos Jobim kết nối thành phố Rio de Janeiro với các tuyến điểm Brasil và các thành phố trên thế giới. Dù có vẻ đẹp và sự quyến rũ, thành phố này vẫn là một trong những thành phố bạo động nhất thế giới.[1][2][3]
Mục lục
Địa lý
Rio de Janeiro nằm trên một dãi dọc theo bờ biển Đại Tây Dương của Brasil, gần chí tuyến nam, nơi có bờ biển chạy theo hướng đông-tây. Hướng phần lớn về phía nam, thành phố được thành lập trên một eo biển thuộc vịnh Guanabara (Baía de Guanabara), và lới vào của eo biển này được đánh dấu bởi một điểm trên đất liền được gọi là “Pão de Açúcar” – “calling card” của thành phố.[4]
Trung tâm (Centro) của Rio nằm trên các đồng bằng của bờ biển phía tây vịnh Guanabara. Phần lớn hơn của thành phố thường được gọi là vùng phía Bắc kéo dài về hướng bắc trên các đồng bằng được cấu tạo bởi trầm tích biển và lục địa và trên các quả đồi cũng như các núi đá. Phần phía nam của thành phố kéo dài đến các bờ biển nô ra vùng biển mở, bị các núi ven biển chia cắt với phần trung tâm và phía bắc. Các núi và đồi này là những nhánh của Serra do Mar kép dài về phía tây nam, một dãi núi cấu tạo bởi gneiss-granite cổ tạo thành các sườn phía nam của cao nguyên Brazil. Vùng phía tây rộng lớn kéo dài bị phân cắt bởi các địa hình núi, đã được nối liền bởi các đường bộ và đường hầm mới vào cuối thế kỷ 20.[5]
Dân số của thành phố Rio de Janeiro định cư trên một khu vực có diện tích 1182,3 km2,[6] vào khoảng 6.000.000.[7] Dân số của vùng đại đô thị này vào khoảng 11–13.5 triệu. Thành phố này từng là thủ đô của Brazil cho đến năm 1960, khi Brasilia được chọn làm thủ đô.
Khí hậu
Rio thuộc vùng khí hậu savan nhiệt đới rất gần với ranh giới khí hậu nhiệt đới gió mùa theo phân loại khí hậu của Köppen, và thường đặc trưng bởi thời gian mưa kéo dài từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau.[8] Ở các khu vực thuộc đất liền của thành phố, nhiệt độ trên 40 °C thường xuất hiện trong suốt hè mặc dù hiếm gặp trong các giai đoạn dài trong khi nhiệt độ tối đa trên 27 °C có thể xuất hiện trong một tháng (monthly basis).
Dọc theo bờ biển, gió thay đổi hướng thường xuyên tạo ra nhiệt độ ôn hòa. Do vị trí địa lý, thành phố thường thường hứng chịu các đợt lạnh kéo đến đầu tiên từ Nam Cực đặc biệt vào mùa thu và đông làm cho thời tiết thay đổi thường xuyên. Hầu hết trong mùa hè các đợt mưa rào thường gây ra lũ và lở đất. Các vùng núi có lượng mưa lớn hơn vì chúng là lá chắn luồn gió ẩm thổi đến từ Đại Tây Dương.[9]
Có người từng nói rằng thành phố từng hứng chịu các đợt sương giá trong quá khứ, nhưng thông tin này không bao giờ được xác nhận. Một số khu vực thuộc bang bang Rio de Janeiro từng có mưa đá nhưng không thường xuyên (hiện tượng này hiếm gặp hoặc chỉ xảy ra hạn chế trong một vài vùng thuộc vùng đại đô thị và các vùng ngoại ô phía tây của thành phố),[10] mỗi 2 thập kỷ hoặc ít hơn ở một số khu vực, và ở những khu vực khác có tuyết trên một lần trong mỗi thế kỷ, chủ yếu ở các thành phố Resende và Itatiaia (vĩ độ thấp hơn so với Rio de Janeiro, nhưng ở độ cao lớn hơn),[cần dẫn nguồn] các khu vực lạnh nhất ở bên dưới Nam Brasil, và nhiều phần là có sương giá.
Nhiệt độ trung bình thấp nhất nhàng năm là 21 °C, nhiệt độ trung bình cao nhất hàng năm là 27 °C, và nhiệt độ trung bình hàng năm là 23 °C. Lượng mưa trung bình hàng năm là 1.175 mm. Theo INMET, nhiệt độ thấp nhất ghi nhận được là 4,8 °C vào tháng 7 năm 1928 ở Campo dos Afonsos bairro (tiếng Bồ Đào Nha là “vùng lân cận”), và nhiệt độ tuyệt đối cao nhất là 44 °C vào tháng 2. Nhiệt độ thấp nhất từng xảy ra trong thế kỷ 21 cho đến nay là 8,1 °C ở Vila Militar vào tháng 7 năm 2011.[11] Temperatures below 10 °C (50 °F) are very rare in the city. The temperature varies according to elevation, distance from the coast, and type of vegetation. Winter brings mild temperatures and less rain than in the summer.
Nhiệt độ trung bình hàng năm của biển là dao động 23-24 °C, từ 22 °C trong giai đoạn tháng 7-10 đến 26 °C trong tháng 2 và tháng 3.[12] The wettest and driest months tend to be December and August respectively.
[ẩn]Dữ liệu khí hậu của Rio de Janeiro | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tháng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
Cao kỉ lục °C (°F) | 38.1 | 37.7 | 37.4 | 37.1 | 36.3 | 32.5 | 33.3 | 35.9 | 37.2 | 36.8 | 38.2 | 39.0 | 39,0 |
Trung bình cao °C (°F) | 30.1 | 30.2 | 29.4 | 27.8 | 26.4 | 25.2 | 25.0 | 25.5 | 25.4 | 26.0 | 27.4 | 28.6 | 27,3 |
Trung bình ngày, °C (°F) | 26.3 | 26.6 | 26.0 | 24.4 | 22.8 | 21.8 | 21.3 | 21.8 | 22.2 | 22.9 | 24.0 | 25.3 | 23,8 |
Trung bình thấp, °C (°F) | 23.3 | 23.5 | 23.3 | 21.9 | 20.4 | 18.7 | 18.4 | 18.9 | 19.2 | 20.2 | 21.4 | 22.4 | 21,0 |
Thấp kỉ lục, °C (°F) | 17.7 | 18.9 | 18.6 | 16.2 | 11.1 | 11.6 | 12.2 | 10.6 | 10.2 | 10.1 | 16.5 | 17.1 | 10,1 |
Lượng mưa, mm (inches) | 137.1 (5.398) |
130.4 (5.134) |
135.8 (5.346) |
94.9 (3.736) |
69.8 (2.748) |
42.7 (1.681) |
41.9 (1.65) |
44.5 (1.752) |
53.6 (2.11) |
86.5 (3.406) |
97.8 (3.85) |
134.2 (5.283) |
1.069,4 (42,102) |
% độ ẩm | 79 | 79 | 80 | 80 | 80 | 79 | 77 | 77 | 79 | 80 | 79 | 80 | 79,1 |
Số ngày mưa TB (≥ 1.0 mm) | 11 | 7 | 8 | 9 | 6 | 6 | 4 | 5 | 7 | 9 | 10 | 11 | 93 |
Số giờ nắng trung bình hàng tháng | 211.9 | 201.3 | 206.4 | 181.0 | 186.3 | 175.1 | 188.6 | 184.8 | 146.2 | 152.1 | 168.5 | 179.6 | 2.181,8 |
Nguồn: INMET[13] |
Thiên nhiên
Rio de Janeiro – thành phố giữa núi và biển | |
---|---|
![]() |
|
![]() |
|
Quốc gia | ![]() |
Kiểu | Văn hóa |
Hạng mục | v, vi |
Tham khảo | 1100 |
Vùng UNESCO | Châu Mỹ |
Lịch sử công nhận | |
Công nhận | 2012 (kì thứ 36) |
Rio de Janeiro được mệnh danh là thành phố giữa núi và biển với những bãi biển cát trắng trải dài, thảm thực vật của Vườn quốc gia Tijuca và Vườn bách thảo, đỉnh núi Corcovado (với bức tượng chúa Kitô nổi tiếng), những ngọn đồi xung quanh vịnh Guanabara.. tất cả tạo ra một sự hài hòa giữa một đô thị đông dân cư, góp phần cho phong cảnh văn hóa sống ngoài trời của thành phố.
Với những giá trị văn hóa, các công trình kiến trúc hài hòa với núi và biển, UNESCO đã công nhận Rio de Janeiro là di sản thế giới vào năm 2012 với các khu vực bao gồm: Bức tượng chúa Kitô, Vườn bách thảo, các công trình dọc bờ biển Copacabana, các công trình ở các ngọn đồi quanh Guanabara, công viên văn hóa của thành phố.
Nhân khẩu học
Theo Viện Địa lý và Thống kê Brasil, năm 2010 thành phố có 5.940.224 người định cư.[14] Trong đó 3.234.812 là người da trắng (51,2%), 2.307.104 là người da nâu (36.5%), 724,197 là người da đen (11.5%), 46,484 người Đông Á (0.7%), 6,320 là người Amerindian (0.1%).[15]
Năm 2010, Rio de Janeiro là thành phố đông dân thứ 2 Brasil sau São Paulo.[16]
Năm 2010, thành phố có 1.200.697 cặp vợ chồng khác giới, và 5.612 cặp đồng giới (xem thêm quyền LGBT ở Brazil). Dân số của Rio de Janeiro gồm 53,2% nữ và 46,8% nam.[15]
Trước khi người châu Âu đến thuộc địa hóa, có ít nhất bảy dân tộc bản địa và nói 20 ngôn ngữ trong vùng này. Một phần trong đó sử dụng tiếng Bồ Đào Nha và một nhóm khác sử dụng tiếng Pháp. Những người nói tiếng Pháp sau đó bị tiêu diệt bởi những người Bồ Đào Nha, trong khi phần khác đã bị đồng hóa.[17]
Rio de Janeiro là nơi định cư của phần lớn dân người Bồ Đào Nha ở ngoài Lisbon ở Bồ Đào Nha.[18][19] Sau khi độc lập khỏi Bồ Đào Nha, Rio de Janeiro trở thành nơi đến của hàng trăm ngàn người di cư khỏi Bồ Đào Nha, chủ yếu trong đầu thế kỷ 20. Người nhập cư chủ yếu là nông dân nghèo sau đó họ tìm thấy sự hưng thịnh khi làm công nhân và tiểu thương ở Rio.[20] Sự ảnh hưởng văn hóa của Bồ Đào Nha vẫn còn ở một số nơi trong thành phố (và các nơi khác của Rio de Janeiro), bao gồm kiến trúc và ngôn ngữ — hầu hết mỗi người bản địa của Brazil có liên kết văn hóa với Rio và nơi sinh sống biết cách làm thế nào để dễ dàng làm phân biệt giữa fluminense và các tiếng địa phương Brasil khác.
Nhóm | Dân số | Tỉ lệ[21] |
---|---|---|
Người Bồ Đào Nha nhập cư | 106,461 | 20.36% |
Người Brasil có ít nhất 01 người là bố mẹ | 161,203 | 30.84% |
Người Bồ Đào Nha di cư và con cháu của họ | 267,664 | 51.2% |
Cộng đồng người da đen được hình thành từ những cư dân mà tổ tiên của họ bị bán làm nô lệ, hầu hết từ Angola hoặc Mozambique, cũng như phần lớn người gốc Angolan, Mozambican và Tây Phi ở các phần khác của Brazil. Vũ điệu samba (từ Bahia với ảnh hưởng của Angolan) và các phiên bản lễ hội carnival địa phương nổi tiếng (từ châu Âu) đầu tiên chịu sự ảnh hưởng của cộng đồng da đen ở Rio.
Kinh tế
Rio de Janeiro có GDP lớn thứ 2 trong nhóm các thành phố ở Brasil xếp sau São Paulo. Theo IBGE, GDP năm 2008 khoảng 201 tỉ USD, ciếm 5,1% GDP toàn quốc. Lĩnh vực dịch vụ chiếm tỉ lệ lớn nhất (65,52%), xếp sau là từ thuế (23,38%), công nghiệp (11,06%) và nông nghiệp (0,04%).[22]
Giáo dục
Tiếng Bồ Đào Nha là quốc ngữ và là ngôn ngữ được giảng dạy chính thức tại các trường. Tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha cũng một phần cũng được giảng dạy chính thức trong chương trình đào tạo tại các trường trung học. Ngoài ra, cũng có các trường quốc tế như American School of Rio de Janeiro, Our Lady of Mercy School, Corcovado German School, Lycée Français và British School of Rio de Janeiro.
Các cơ sở giáo dục
Thành phố có nhiều trường đại học. Bộ Giáo dục Brasil đã xác nhận có khoảng 99 cơ sở đào tạo bậc trung học trở lên ở thành phố này.[23] Some notable higher education institutions are:
- Đại học liên bang Rio de Janeiro (UFRJ);
- Đại học Rio de Janeiro (UERJ);
- Đại học liên bang Rural do Rio de Janeiro (UFRRJ);
- Đại học liên bang Fluminense (UFF);
- Đại học Công giáo Rio de Janeiro (PUC-Rio);
- Getúlio Vargas Foundation (FGV);
- Học viện Kỹ thuật quân sự (IME);
- Viện Công nghệ Khoa học máy tính Rio de Janeiro (IST-Rio);
- Đại học liên bang tại Rio de Janeiro (UNIRIO);
- Đại học Estácio de Sá (UNESA);
- Học viện Quốc gia về toán cơ bản và ứng dụng (IMPA).
Có hơn 137 cơ sở đào tạo trong toàn bang Rio de Janeiro.[24]
Hệ thống giáo dục
Các trường tiểu học phần lớn chịu sự kiểm soát của chính quyền thành phố, trong khi vai trò của bang thì chi phối hệ thống các trường trung học. Cũng có một số nhỏ các trường chịu sự quản lý của chính quyền liên bang như trường hợp của Colégio Pedro II, Colégio de Aplicação da UFRJ và Centro Federal de Educação Tecnológica of Rio de Janeiro (CEFET-RJ). Ngoài ra, Rio cũng phát triển các trường tư thục ở tất cả các bậc học. Rio là nơi đặt trụ sở của nhiều trường cấp đại học.
Phát triển con người
Phát triển con người của Rio thay đổi mang tính địa phương, phản ánh sự biệt không gian và bất bình đẳng kinh tế xã hội. Năm 2000, một số khu vực lân cận của Rio có Chỉ số phát triển con người cao hơn hầu hết các quốc gia phát triển nhất trên thế giới.[25]
Các vấn đề xã hội
Có sự khác biệt đáng kể giữa người giàu và người nghèo ở Rio de Janeiro.[26] Mặc dù thành phố được xếp vào nhóm các đô thị lớn trên thế giới, 1/5 dân cư sống trong các khu vực lân cận gọi là khu ổ chuột, là các khu nhà ở không có quy định nào cả.[27] Trong các khu ổ chuột, 15% dân số là người nghèo, so với 10% tổng dân số.[28] Chính phủ cũng có những giải pháp về vấn đề này như chương trình “Favela Bairro” nhằm di dời cư dân sống trong khu ổ chuột đến các chúng cư như Cidade de Deus, và để cải thiện các điều kiện sống trong khu ổ chuột, và đưa các khu vực này lên ngang tầm với các khu khác của thành phố.
Tội phạm
Rio có tỉ lệ tội phạm cao đặc biệt là tội giết người ở São Cristóvão/Mangueira, Grande Tijuca và Copacabana/Leme.[29] Năm 2006, 2.273 bị sát hại trong thành phố tương ứng 37,7 trường hợp trên 100.000 dân.[30] Theo một nghiên cứu của chính phủ liên bang,[1] đô thị này xếp thứ 206 trên 5.565 trong danh sách các thành phố và đô thị có bạo lực cao nhất ở Brazil. Giữa năm 1978 và 2000, có 49.900 người bị giết ở Rio.[31] The urban warfare involves drug-traffic battle with police fighting against outlaws, hoặc thậm chí cảnh sát tham nhũng. Năm 2007, cảnh sát bị cáo buộc đã giết 1.330 người ở bang state of Rio Janeiro,[32] tăng 25% so với năm 2006 với 1.063 người bị giết. Trong khi đó cảnh sát trên khắp nước Mỹ đã giết 347 người trong năm 2006.[33][34]
Quan hệ quốc tế
Thành phố kết nghĩa
Dưới đây là danh sách các thành phố kết nghĩa với Rio de Janeiro [35][36][37][38][39][40][41][42][43][44][45][46][47][48][49][50][51][52][53].
Châu Mỹ | Châu Âu | Chau Á và châu Phi | |||
---|---|---|---|---|---|
![]() |
Mexico City, Mexico | ![]() |
Amsterdam, Hà Lan | ![]() |
Batangas City, Philippines |
![]() |
Managua, Nicaragua | ![]() |
Saint Petersburg, Nga | ![]() |
Kobe, Nhật Bản |
![]() |
Caracas, Venezuela | ![]() |
Warsaw, Ba Lan[54] | ![]() |
Tunis, Tunisia |
![]() |
Puerto Varas, Chile | ![]() |
Lisbon, Santo Tirso và Vila Nova de Gaia, Bồ Đào Nha | ![]() |
Seoul, Hàn Quốc |
![]() |
La Paz, Bolivia | ![]() |
Barcelona, Tây Ban Nha | ![]() |
Santa Cruz de Tenerife, Tây Ban Nha |
![]() |
Miami, Hoa Kỳ | ![]() |
Montpellier, Pháp | ![]() |
Petah Tikva, Israel |
![]() |
Oklahoma City, Hoa Kỳ | ![]() |
Liverpool, Anh | ![]() |
Mumbai, Ấn Độ |
![]() |
Newark, Hoa Kỳ | ![]() |
Paris, Pháp | ![]() |
Durban, Nam Phi |
![]() |
Atlanta, Hoa Kỳ | ![]() |
Guimarães[55] và Póvoa de Varzim, Bồ Đào Nha | ![]() |
Beirut, Li băng |
![]() |
Vancouver, Canada[56] | ![]() |
Madrid, Spain[57] | ![]() |
Casablanca, Maroc |
![]() |
Buenos Aires, Argentina | ![]() |
Kiev, Ukraina[58] | ![]() |
Lagos, Nigeria |
![]() |
Belo Horizonte, Brasil[59] | ![]() |
Bucharest, România[60] | ![]() |
Rufisque, Senegal[61] |
![]() |
Natal, Brasil[62] | ![]() |
Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ | ![]() |
Beijing, Trung Quốc |
![]() |
Batumi, Gruzia |
Tham khảo
- ^ a ă Folha de S. Paulo website, “Número de homicídios cai no Brasil”, published 30 January 2008, retrieved 14 February 2008. See the.xls file linked in the article.
- ^ BBC NEWS | Americas | Rio hit by deadly gang violence
- ^ FOXNews.com – Brazil to Send Federal Troops to Rio de Janeiro to Quell Gang Violence – International News | News of the World | Middle East News | Europe News
- ^ Where is Rio de Janeiro?
- ^ Rio de Janeiro — History.com Articles, Video, Pictures and Facts
- ^ “Área Territorial Oficial” (bằng tiếng Bồ Đào Nhae). IBGE. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2007.
- ^ “Estimativas para 1° de Julho de 2006” (bằng tiếng Bồ Đào Nhae). IBGE. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2007.
- ^ Rio de Janeiro Destination Guide from The Weather Channel. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2007.
- ^ Rio de Janeiro Weather Forecast & Climate – Weather In Rio de Janeiro, Brazil
- ^ (tiếng Bồ Đào Nha) “Hail falls in Rio de Janeiro’s West Zone and Baixada Fluminense”. Globo News. 12 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2012.
- ^ “Record lowest temperature since 7.3°C(45 °F) in 2000”. Truy cập tháng 2 năm 2012.
- ^ “Rio de Janeiro Climate Guide”. Truy cập 2011.
- ^ “NORMAIS CLIMATOLÓGICAS DO BRASIL 1961-1990” (bằng Portuguese). Instituto Nacional de Meteorologia. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2014.
- ^ 2010 IGBE Census (tiếng Bồ Đào Nha)
- ^ a ă 2010 IGBE Census (tiếng Bồ Đào Nha)
- ^ (tiếng Bồ Đào Nha)The largest Brazilian cities – 2010 IBGE Census
- ^ “Tem índio no Rio”. Paginas.terra.com.br. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2009.
- ^ “Portuguese in Brazil and Rio”. Blogluso-carioca.blogspot.com. Ngày 29 tháng 7 năm 2006. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Portuguese descent in the city of Rio de janeiro and Brazil”. Presidencia.pt. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Brasil 500 anos”. .ibge.gov.br. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2009.
- ^ Rio de Janeiro, uma cidade… – Google Livros. Books.google.com.br. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2011.
- ^ Rio de Janeiro %28city%29
- ^ Search results on the database
- ^ Universidades no Rio de Janeiro
- ^ HDI (PDF) (bằng tiếng Bồ Đào Nhae). Rio, Brazil: PNUD. 2000. ISBN 85-240-3919-1. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2008.
- ^ Disparities between rich and poor[liên kết hỏng]
- ^ “Barracos em expansão”. Iets.org.br. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2010.
- ^ “FGV: desigualdade entre favela e asfalto cai no Rio”. Revistaepoca.globo.com. Ngày 31 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2010.
- ^ “North Zone of Rio and Violence”. Noticias.bol.uol.com.br. Ngày 24 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2010.
- ^ “O DIA Online – Rio no mapa da morte”. odia.terra.com.br. Ngày 30 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2010.
- ^ “O Dia Online”. odia.terra.com.br. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2010.
- ^ “O Dia Online”. odia.terra.com.br. Ngày 19 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2010.
- ^ Blog da Renajorp: Polícia do Rio mata 41 civis para cada policial morto[liên kết hỏng]
- ^ “Needs password, UOL – área restrita”.
- ^ “Sister cities”. Radikal.com.tr. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Sister cities”. Managua.gob.ni. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Sister cities”. Eng.gov.spb.ru. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2010.
- ^ Sister cities
- ^ “Sister cities” (PDF). Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Sister cities”. Atlantaga.gov. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Sister cities” (PDF). Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2010.
- ^ http://spl.camara.rj.gov.br/spldocs/pl/0099/pl1593_0099_001493.pdf
- ^ “Sister cities” (PDF). Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Sister cities” (PDF). Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2010.
- ^ http://spl.camara.rj.gov.br/spldocs/pl/2001/pl0444_2001_000513.pdf
- ^ “Sister cities” (PDF). Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Microsoft Word – p” (PDF). Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2010.
- ^ Sister cities[liên kết hỏng]
- ^ “Barcelona internacional — Ciutats agermanades” (bằng Catalan). 2006–2009 Ajuntament de Barcelona. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2009.
- ^ “Mapa Mundi de las ciudades hermanadas”. Ayuntamiento de Madrid.
- ^ “Sister cities” (PDF). Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Sister cities”. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Les pactes d’amitié et de coopération”. Paris.fr. Ngày 17 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Miasta partnerskie Warszawy”. um.warszawa.pl. Biuro Promocji Miasta. Ngày 4 tháng 5 năm 2005. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2008.
- ^ Lei nº 2.643/1998. Câmara Municipal do Rio de Janeiro. Página visitada em 26 de dezembro de 2008.
- ^ “Rio 2016”. Rio 2016. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Mapa Mundi de las ciudades hermanadas” (bằng (tiếng Tây Ban Nha)). http://www.munimadrid.es. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Lei Municipal do Rio de Janeiro 4917 de 2008 – Wikisource” (bằng (tiếng Bồ Đào Nha)). Pt.wikisource.org. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2010.
- ^ http://spl.camara.rj.gov.br/spldocs/pl/2006/pl0980_2006_008195.pdf
- ^ “Lei Municipal do Rio de Janeiro 3467 de 2002 – Wikisource” (bằng (tiếng Bồ Đào Nha)). Pt.wikisource.org. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Lei Municipal do Rio de Janeiro 3152 de 2000 – Wikisource” (bằng (tiếng Bồ Đào Nha)). Pt.wikisource.org. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2010.
- ^ Leis sancionadas e vetos (21 de janeiro de 2008). Lei n.º 4.752/2008. Câmara Municipal do Rio de Janeiro. Página visitada em 26 de outubro de 2008.
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Rio de Janeiro |
![]() |
Wikivoyage có chỉ dẫn du lịch về Rio de Janeiro |
|
|
Môi trường
Môi trường là một tổ hợp các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh bên ngoài của một hệ thống nào đó. Chúng tác động lên hệ thống này và xác định xu hướng và tình trạng tồn tại của nó. Môi trường có thể coi là một tập hợp, trong đó hệ thống đang xem xét là một tập hợp con. Môi trường của một hệ thống đang xem xét cần phải có tính tương tác với hệ thống đó.
Một định nghĩa rõ ràng hơn như: Môi trường là tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con người, ảnh hưởng tới con người và tác động đến các hoạt động sống của con người như: không khí, nước, độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người và các thể chế.
Nói chung, môi trường của một khách thể bao gồm các vật chất, điều kiện hoàn cảnh, các đối tượng khác hay các điều kiện nào đó mà chúng bao quanh khách thể này hay các hoạt động của khách thể diễn ra trong chúng.
Từ này được sử dụng với ý nghĩa chuyên biệt trong các ngữ cảnh khác nhau:
Mục lục
Khoa học về sự sống
- Trong sinh vật học, môi trường có thể định nghĩa như là tổ hợp của các yếu tố khí hậu, sinh thái học, xã hội và thổ nhưỡng tác động lên cơ thể sống và xác định các hình thức sinh tồn của chúng. Vì thế, môi trường bao gồm tất cả mọi thứ mà có thể có ảnh hưởng trực tiếp đến sự trao đổi chất hay các hành vi của các cơ thể sống hay các loài, bao gồm ánh sáng, không khí, nước, đất và các cơ thể sống khác. Xem thêm môi trường tự nhiên.
- Trong kiến trúc, khoa học lao động và bảo hộ lao động thì môi trường là toàn bộ các yếu tố trong phòng hay của tòa nhà có ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe và hiệu quả làm việc của những người sống trong đó—bao gồm kích thước và sự sắp xếp không gian sống và các vật dụng, ánh sáng, sự thông gió, nhiệt độ, tiếng ồn, v.v. Nó cũng có thể nói đến như là tập hợp của kết cấu xây dựng. Xem thêm môi trường kiến trúc.
- Xem thêm địa lý để biết thêm về chủ thể được nghiên cứu của môi trường. Trong các sách báo phương Tây có thuật ngữ viết tắt như SOSE (Studies of Society & the Environment) không chỉ là các nghiên cứu về môi trường mà còn là của các bộ môn khoa học xã hội.
- Trong tâm lý học, môi trường luận là một học thuyết cho rằng môi trường (trong ý nghĩa chung cũng như trong ý nghĩa xã hội) đóng vai trò quan trọng hơn di truyền trong việc xác định sự phát triển của cá nhân.
Chức năng của môi trường sống
- Môi trường là không gian sống của con người và sinh vật. Trong quá trình tồn tại và phát triển con người cần có các nhu cầu tối thiểu về không khí, độ ẩm, nước, nhà ở… cũng như các hoạt động vui chơi giải trí khác. Tất cả các nhu cầu này đều do môi trường cung cấp. Tuy nhiên khả năng cung cấp các nhu cầu đó của con người là có giới hạn và phụ thuộc vào trình độ phát triển của từng quốc gia và ở từng thời kì.
- Môi trường là nơi cung cấp các nhu cầu về tài nguyên cho con người như đất, đá, tre, nứa, tài nguyên sinh vật. Tất cả các tài nguyên này đều do môi trường cung cấp và giá trị của tài nguyên phụ thuộc vào mức độ khan hiếm của nó trong xã hội. – Môi trường là nơi chứa đựng, đồng hóa các chất thải của con người trong quá trình sử dụng các tài nguyên thải vào môi trường. Các tài nguyên sau khi hết hạn sử dụng, chúng bị thải vào môi trường dưới dạng các chất thải. Các chất thải này bị các quá trình vật lý, hóa học, sinh học phân hủy thành các chất vô cơ, vi sinh quay trở lại phục vụ con người. Tuy nhiên chức năng là nơi chứa đựng chất thải của môi trường là có giới hạn. Nếu con người vượt quá giới hạn này thì sẽ gây ra mất cân bằng sinh thái và ô nhiễm môi trường.
Khoa học tự nhiên
- Trong nhiệt động lực học, môi trường được hiểu như là bất kỳ một khách thể nào không phải là một bộ phận của hệ thống đang nghiên cứu, và nó có thể nhận nhiệt từ hệ thống hay cung cấp ngược lại cho hệ thống; xem thêm môi trường (nhiệt động lực học).
- Trong hóa học và hóa sinh học, môi trường là tính chất hóa học của dung dịch trong đó phản ứng hóa học diễn ra, chủ yếu là chỉ số pH của nó (tức là dung dịch mang tính axít hay tính kiềm).
- Trong luyện kim và gốm sứ, môi trường thông thường được nói đến như là đặc trưng mang tính ôxi hóa hay khử của luồng hơi đốt hay lửa chủ đạo trong một số công nghệ sử dụng nhiệt độ cao.
Nghệ thuật tự do và khoa học xã hội
- Trong ngữ cảnh phi kỹ thuật, chẳng hạn như chính trị, môi trường thông thường được nói đến là môi trường tự nhiên, là một phần của thế giới tự nhiên mà được coi là có giá trị hay quan trọng đối với loài người vì bất kỳ lý do nào. Xem thêm môi trường tự nhiên.
- Trong văn học, lịch sử và xã hội học, môi trường là nền văn hóa mà trong đó các cá nhân sinh sống hay được giáo dục cũng như là các cá nhân khác và các thiết chế về quan hệ xã hội mà cá nhân đó tiếp xúc và tương tác. Xem thêm môi trường xã hội.
- Trong các tổ chức và cơ quan, môi trường được coi là các điều kiện xã hội và tâm lý mà các thành viên của các tổ chức này cảm nhận được. Xem môi trường công việc.
- Trong bất kỳ cuộc họp mặt hay hội nghị nào, môi trường có thể coi là biểu hiện của tâm trạng hay sở thích chủ đạo của những người tham dự.
- Trong thế giới tưởng tượng, đặc biệt là trong khoa học viễn tưởng môi trường có thể là thế giới viễn tưởng nào đó hay những khung cảnh mà trong đó các câu chuyện khác nhau được đưa ra. Xem thế giới viễn tưởng.
Khoa học máy tính và thông tin
- Trong khoa học máy tính, môi trường có nghĩa chung là các dữ liệu, tiến trình hay thiết bị mặc dù không được đặt tên gọi một cách rõ ràng như là các tham số của ngành khoa học tính toán, nhưng có thể ảnh hưởng tới đầu ra của nó.
- Trong lập trình chức năng, phép tính lambda và các ngôn ngữ lập trình, môi trường thông thường có nghĩa là các từ định danh đã được định nghĩa ngoài hàm đã cho nhưng có thể được sử dụng trong nó. Nói cách khác, môi trường là mọi thứ có phạm vi tổng thể hay không cục bộ đối với hàm đó.
- Trong một số hệ điều hành như Unix, DOS và Microsoft Windows, môi trường là một tập hợp của các biến môi trường trong dạng var=giá trị được sử dụng bởi các ứng dụng và thư viện để tác động tới các ưu tiên tiêu chuẩn.
- Tổng quát hơn, môi trường còn có nghĩa là các phần cứng và hệ điều hành mà trong đó các chương trình được thực thi; xem thêm nền tảng hệ thống máy tính.
Xem thêm
- Danh sách các chủ đề môi trường
- Danh sách các tổ chức môi trường
- Giáo dục bảo vệ môi trường
- Phong trào bảo tồn
- Phong trào sinh thái học
- Phong trào môi trường
- Công nghệ môi trường
- Môi trường luận
Liên kết ngoài
Giấc mơ hạnh phúc
Chào ngày mới 7 tháng 6
Biển Đông vạn dặm
Chào ngày mới 6 tháng 6
Biển Đông và sông Mekong
Chào ngày mới 5 tháng 6
Tô Đông Pha uống rượu ở Tây Hồ
Chào ngày mới 4 tháng 6
Quà tặng cuộc sống