CNM365. Chào ngày mới 7 tháng 8. Wikipedia Ngày này năm xưa. Tiết khí Lập thu (Bắt đầu mùa thu). Ngày Quốc khánh tại Bờ Biển Ngà (1960). Năm 1941, ngày mất Rabindranath Tagore (hình), nhà thơ Ấn Độ người Bengal, triết gia Bà La Môn và nhà dân tộc chủ nghĩa, người châu Á đầu tiên năm 1913 đoạt giải Nobel Văn chương, (ông sinh năm 1861).
7 tháng 8
Ngày 7 tháng 8 là ngày thứ 219 (220 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 146 ngày trong năm.
« Tháng 8 năm 2015 » | ||||||
CN | T2 | T3 | T4 | T5 | T6 | T7 |
1 | ||||||
2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 |
9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 |
16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 |
23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 |
30 | 31 | |||||
Mục lục
Sự kiện
- Lập thu (2015); ngày Quốc khánh tại Bờ Biển Ngà (1960).
- 933 – Mân Đế Vương Diên Quân phục vị sau một thời gian làm đạo tu đạo, ngày Mậu Tý (14) tháng 7 năm Quý Tị.
- Năm 1316 – Giáo hoàng Gioan XXII được bầu làm Giáo hoàng thứ 196 của Giáo hội công giáo Rôma.
- Năm 1789 – Bộ Chiến tranh Hoa Kỳ được thành lập, tồn tại cho đến năm 1947.
- Năm 1943 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Quân đội Đồng Minh đổ bộ lên nhóm đảo Guadalcanal nhằm đánh bật quân đội Nhật Bản, khởi đầu Chiến dịch Guadalcanal .
- Năm 2008 – Gruzia bắt đầu tiến hành chiến dịch quân sự quy mô lớn vào Nam Ossetia, khởi đầu Chiến tranh Nam Ossetia 2008.
Sinh
- 1868 – Giám mục Công giáo tiên khởi người Việt Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng (mất 1949)
Mất
- 1892 – Nguyễn Đức Ngữ, thủ lĩnh nghĩa quân chống Pháp cuối thế kỷ 19.
- 1941 – Rabindranath Tagore, nhà thơ Ấn Độ, (s. 1861)
Những ngày lễ và kỷ niệm
Tháng 1 | Tháng 2 | Tháng 3 | Tháng 4 | Tháng 5 | Tháng 6 | Tháng 7 | Tháng 8 | Tháng 9 | Tháng 10 | Tháng 11 | Tháng 12 |
Tham khảo
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về 7 tháng 8 |
Tiết khí
Tiết khí (tiếng Hán truyền thống: 節氣; phát âm PinYin: Jieqi) là 24 điểm đặc biệt trên quỹ đạo của Trái Đất xung quanh Mặt Trời, mỗi điểm cách nhau 15°. Tiết khí có xuất xứ từ Trung Quốc. Nó được sử dụng trong công tác lập lịch của các nền văn minh phương đông cổ đại như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên để đồng bộ hóa các mùa. Ở Việt Nam có một số học giả phân biệt tiết và khí. Họ cho rằng cứ một tiết lại đến một khí. Tuy nhiên để dễ hiểu, nhiều người vẫn gọi chung là tiết khí hoặc đơn giản chỉ là tiết.
Có hai yếu tố ảnh hưởng đến khoảng cách giữa hai tiết khí gần nhau, đó là:
- Vì quỹ đạo của Trái Đất là một hình elíp rất gần với hình tròn chứ không phải là một hình tròn nên vận tốc di chuyển của Trái Đất trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời không phải là một hằng số. Do đó khoảng cách tính theo thời gian giữa các tiết khí không phải là con số cố định.
- Do làm tròn thời điểm bắt đầu của mỗi tiết khí vào đầu ngày mà tiết khí đó bắt đầu.
Nên khoảng cách giữa hai tiết khí kề nhau sẽ ở trong khoảng 14-16 ngày. Lấy ví dụ trong kỷ nguyên J2000 khoảng thời gian từ điểm thu phân đến điểm xuân phân ở Bắc bán cầu là 6 ngày ngắn hơn khoảng thời gian từ điểm xuân phân đến điểm thu phân. Đó là do quỹ đạo hình elip của Trái Đất; vào tháng 1, Trái Đất ở gần Mặt Trời nhất (điểm cận nhật vào khoảng ngày 3 tháng 1) nên theo định luật Kepler nó phải chuyển động nhanh hơn thời kỳ ở xa Mặt Trời (điểm viễn nhật khoảng ngày 4 tháng 7). Chính vì thế nên nửa hoàng đạo từ điểm xuân phân đến điểm thu phân, Trái Đất đi hết 186 ngày. Nửa còn lại, từ điểm thu phân đến điểm xuân phân, chỉ cần 179 đến 180 ngày.
Mục lục
Hai mươi tư tiết khí
Bảng dưới đây liệt kê hai mươi tư tiết khí trong lịch các nước phương Đông:
Kinh độ Mặt Trời | Tiếng Việt | Tiếng Hoa1 | Tiếng Nhật | Tiếng Triều2 | Ý nghĩa3 | Ngày dương lịch4 |
---|---|---|---|---|---|---|
315° | Lập xuân | 立春 | 立春(りっしゅん) | 입춘(立春) | Bắt đầu mùa xuân | 4 tháng 2 |
330° | Vũ thủy | 雨水 | 雨水(うすい) | 우수(雨水) | Mưa ẩm | 19 tháng 2 |
345° | Kinh trập | 驚蟄(惊蛰) | 啓蟄(けいちつ) | 경칩(驚蟄) | Sâu nở | 5 tháng 3 |
0° | Xuân phân | 春分 | 春分(しゅんぶん) | 춘분(春分) | Giữa xuân | 21 tháng 3 |
15° | Thanh minh | 清明 | 清明(せいめい) | 청명(清明) | Trời trong sáng | 5 tháng 4 |
30° | Cốc vũ | 穀雨(谷雨) | 穀雨(こくう) | 곡우(穀雨) | Mưa rào | 20 tháng 4 |
45° | Lập hạ | 立夏 | 立夏(りっか) | 입하(立夏) | Bắt đầu mùa hè | 6 tháng 5 |
60° | Tiểu mãn | 小滿(小满) | 小満(しょうまん) | 소만(小滿) | Lũ nhỏ, duối vàng | 21 tháng 5 |
75° | Mang chủng | 芒種(芒种) | 芒種(ぼうしゅ) | 망종(芒種) | Chòm sao Tua Rua mọc | 6 tháng 6 |
90° | Hạ chí | 夏至 | 夏至(げし) | 하지(夏至) | Giữa hè | 21 tháng 6 |
105° | Tiểu thử | 小暑 | 小暑(しょうしょ) | 소서(小暑) | Nóng nhẹ | 7 tháng 7 |
120° | Đại thử | 大暑 | 大暑(たいしょ) | 대서(大暑) | Nóng oi | 23 tháng 7 |
135° | Lập thu | 立秋 | 立秋(りっしゅう) | 입추(立秋) | Bắt đầu mùa thu | 7 tháng 8 |
150° | Xử thử | 處暑(处暑) | 処暑(しょしょ) | 처서(處暑) | Mưa ngâu | 23 tháng 8 |
165° | Bạch lộ | 白露 | 白露(はくろ) | 백로(白露) | Nắng nhạt | 8 tháng 9 |
180° | Thu phân | 秋分 | 秋分(しゅうぶん) | 추분(秋分) | Giữa thu | 23 tháng 9 |
195° | Hàn lộ | 寒露 | 寒露(かんろ) | 한로(寒露) | Mát mẻ | 8 tháng 10 |
210° | Sương giáng | 霜降 | 霜降(そうこう) | 상강(霜降) | Sương mù xuất hiện | 23 tháng 10 |
225° | Lập đông | 立冬 | 立冬(りっとう) | 입동(立冬) | Bắt đầu mùa đông | 7 tháng 11 |
240° | Tiểu tuyết | 小雪 | 小雪(しょうせつ) | 소설(小雪) | Tuyết xuất hiện | 22 tháng 11 |
255° | Đại tuyết | 大雪 | 大雪(たいせつ) | 대설(大雪) | Tuyết dày | 7 tháng 12 |
270° | Đông chí | 冬至 | 冬至(とうじ) | 동지(冬至) | Giữa đông | 22 tháng 12 |
285° | Tiểu hàn | 小寒 | 小寒(しょうかん) | 소한(小寒) | Rét nhẹ | 6 tháng 1 |
300° | Đại hàn | 大寒 | 大寒(だいかん) | 대한(大寒) | Rét đậm | 21 tháng 1 |
Ghi chú:
- Trong ngoặc là tiếng Hoa giản thể nếu cách viết khác với tiếng Hoa phồn thể (truyền thống).
- Trong ngoặc là cách viết kiểu Hanja
- Ý nghĩa của các tiết về cơ bản là giống nhau trong các nước, tuy nhiên có một vài điểm khác nhau rõ rệt.
- Ngày bắt đầu của tiết khí có thể cách nhau trong phạm vi ±1 ngày.
Trong khoảng thời gian giữa các tiết khí như Đại tuyết, Tiểu tuyết trên thực tế ở miền bắc Việt Nam không có tuyết rơi. (Trừ một số đỉnh núi cao như Phan Xi Păng, Mẫu Sơn có thể có, tuy vậy tần số xuất hiện rất thấp và lại rơi vào khoảng thời gian của Tiểu hàn-Đại hàn).
Các điểm diễn ra hay bắt đầu các tiết xuân phân, hạ chí, thu phân, đông chí trùng với các điểm vernal equinox (điểm xuân phân), summer solstice (điểm hạ chí), autumnal equinox (điểm thu phân), winter solstice (điểm đông chí) trong tiếng Anh đối với Bắc bán cầu.
Ý nghĩa
Phân tích các tiết khí theo bảng trên đây, có thể nhận thấy chúng có liên quan đến các yếu tố khí hậu và thời tiết rất đặc trưng cho vùng đồng bằng sông Hoàng Hà của Trung Quốc. Trong quá khứ nó đã từng được áp dụng để tính toán các thời điểm gieo trồng ngũ cốc sao cho phù hợp với các điều kiện thời tiết và khả năng sinh trưởng của chúng. Tuy vậy nó cũng có thể áp dụng được cho các vùng lân cận như khu vực phía bắc Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên v.v. Chính vì thế lịch Trung Quốc xưa còn có tên gọi là nông lịch tức lịch nông nghiệp.
Phân định mùa
Theo tiết khí trong lịch Trung Quốc, các mùa bắt đầu bằng tiết khí có chữ “lập” trước tên mùa. Ví dụ: mùa xuân bắt đầu bằng tiết khí lập xuân.
Tuy nhiên phân định này chỉ đúng cho thời tiết các nước ở bắc bán cầu Trái Đất xung quanh vùng Trung Hoa cổ đại. Tại các nước phương Tây, các mùa được phân định bằng các thời điểm như điểm xuân phân, điểm hạ chí, điểm thu phân và điểm đông chí. Trong thiên văn học, mùa trên các hành tinh nói chung cũng phân theo kiểu phương Tây. Ví dụ, mùa xuân trên Sao Hỏa bắt đầu vào điểm xuân phân (kinh độ Mặt Trời bằng 0) và kết thúc vào điểm hạ chí (kinh độ Mặt Trời bằng 90°).
Xem thêm
Liên kết ngoài
- Ngày giờ các Sóc và Tiết khí từ năm 1000 đến hết năm 2999
Lập thu
Hai mươi tư tiết khí Kỷ nguyên J2000 |
||
Kinh độ | Tiết khí | Dương lịch (thông thường) |
---|---|---|
Xuân | ||
315° | Lập xuân | 4 – 5/2 |
330° | Vũ thủy | 18 – 19/2 |
345° | Kinh trập | 5 – 6/3 |
0° | Xuân phân | 20 – 21/3 |
15° | Thanh minh | 4 – 5/4 |
30° | Cốc vũ | 20 – 21/4 |
Hạ | ||
45° | Lập hạ | 5 – 6/5 |
60° | Tiểu mãn | 21 – 22/5 |
75° | Mang chủng | 5 – 6/6 |
90° | Hạ chí | 21 – 22/6 |
105° | Tiểu thử | 7 – 8/7 |
120° | Đại thử | 22 – 23/7 |
Thu | ||
135° | Lập thu | 7 – 8/8 |
150° | Xử thử | 23 – 24/8 |
165° | Bạch lộ | 7 – 8/9 |
180° | Thu phân | 23 – 24/9 |
195° | Hàn lộ | 8 – 9/10 |
210° | Sương giáng | 23 – 24/10 |
Đông | ||
225° | Lập đông | 7 – 8/11 |
240° | Tiểu tuyết | 22 – 23/11 |
255° | Đại tuyết | 7 – 8/12 |
270° | Đông chí | 21 – 22/12 |
285° | Tiểu hàn | 5 – 6/1 |
300° | Đại hàn | 20 – 21/1 |
Lập thu (tiếng Hán: 立秋) là một trong 24 tiết khí của của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Nó thường bắt đầu vào khoảng ngày 7 hay 8 tháng 8 dương lịch, khi Mặt Trời ở xích kinh 135° (kinh độ Mặt Trời bằng 135°). Đây là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước Đông Á chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cổ đại. Ý nghĩa của tiết khí này, đối với vùng Trung Hoa cổ đại, là Bắt đầu mùa thu.
Theo quy ước, tiết lập thu là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 7 hay 8 tháng 8 khi kết thúc tiết đại thử và kết thúc vào khoảng ngày 23 hay 24 tháng 8 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết xử thử bắt đầu.
Lịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và Lập thu nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì điểm diễn ra hay bắt đầu tiết Lập thu ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 135°. Ngày bắt đầu tiết Lập thu do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 7 hay 8 tháng 8 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước Lập thu là Đại thử và tiết khí kế tiếp sau là Xử thử.
Xem thêm
Tham khảo
Bờ Biển Ngà
Cộng hoà Côte d’Ivoire / Bờ Biển Ngà | |||||
---|---|---|---|---|---|
République de Côte d’Ivoire (tiếng Pháp) | |||||
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
Union – Discipline – Travail (Tiếng Pháp: “Đoàn kết – Kỷ luật – Lao động”) |
|||||
Quốc ca | |||||
L’Abidjanaise | |||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Cộng hòa tổng thống | ||||
• Tổng thống • Thủ tướng |
Alassane Ouattara Guillaume Soro |
||||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Pháp | ||||
Thủ đô | Yamoussoukro |
||||
Thành phố lớn nhất | Abidjan (thủ đô de facto) | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 322.460 km² (hạng 67) | ||||
Diện tích nước | 1,4 % | ||||
Múi giờ | GMT (UTC+0) | ||||
Lịch sử | |||||
Độc lập
|
|||||
Ngày thành lập | Từ Pháp 7 tháng 8 năm 1960[1] |
||||
Dân cư | |||||
Dân số ước lượng (2005) | 17.298.040 người (hạng 57) | ||||
Dân số (1975) | ≈6.700.000 người | ||||
Mật độ | 54 người/km² (hạng 118) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2005) | Tổng số: 28,460 tỷ Mỹ kim | ||||
HDI (2003) | 0,420 thấp (hạng 163) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Franc CFA (XOF ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .ci |
Cộng hòa Côte d’Ivoire (phiên âm là Cốt Đi-voa giống cách phát âm của Côte d’Ivoire trong tiếng Pháp), trong tiếng Việt thường được gọi là Bờ Biển Ngà, là một quốc gia nằm ở Tây Phi. Bờ Biển Ngà có biên giới giáp với Liberia, Guinea, Mali, Burkina Faso, và Ghana về phía tây, bắc, đông, và nằm bên cạnh Vịnh Guinea về phía nam.
Dân số của Bờ Biển Ngà năm 1998 là 15.366.672 người [2], năm 2009 là 20.617.068 người.[3]
Trước khi bị người châu Âu chiếm đóng, Bờ Biển Ngà bao gồm nhiều nước nhỏ như Gyaaman, Kong Empire, và Baoulé. Ngoài ra còn có hai vương quốc Anyi, đó là Indénié và Sanwi, những quốc gia đã cố gắng duy trì sự độc lập của mình trong suốt thời kì Pháp thuộc và kể cả về sau này, khi Bờ Biển Ngà đã giành được độc lập.[4] Hiệp định 1843-1844 đã buộc Bờ Biển Ngà chấp nhận sự bảo hộ của Pháp và vào năm 1883, Bờ Biển Ngà trở thành một bộ phận của hệ thống thuộc địa của Pháp.
Bờ Biển Ngà tuyên bố độc lập vào ngày 7 tháng 8 năm 1960. Từ năm 1960 đến 1993, Bờ Biển Ngà được lãnh đạo bởi Félix Houphouët-Boigny. Trong giai đoạn này, Bờ Biển Ngà vẫn giữ mối liên kết mật thiết về kinh tế với các nước láng giềng Tây Phi cũng như các nước Châu Âu, đặc biệt là Pháp. Tuy nhiên, sau giai đoạn lãnh đạo của Houphouët-Boigny, Bờ Biển Ngà đã trải qua hai cuộc đảo chính (1999 and 2001) và một cuộc nội chiến,[5] bất chấp cuộc bầu cử [6] và một hiệp định giữa chính phủ mới và nhóm nổi loạn được kí kết mang lại hòa bình cho Bờ Biển Ngà.[7] Bờ Biển Ngà là nền cộng hòa hiện thân của sức mạnh hành pháp hoàn toàn nằm trong tay của tổng thống. Thủ đô về mặt pháp lý của Bờ Biển Ngà là Yamoussoukro và thành phố lớn nhất là thành phố cảng Abidjan. Bờ Biển Ngà có 19 vùng và 81 tỉnh. Bờ Biển Ngà là thành viên của Tổ chức Hội nghị Hồi giáo, Liên minh châu Phi, Cộng đồng Pháp ngữ, Liên minh Latin, Cộng đồng Kinh tế Tây Phi và Khu vực hòa bình và hợp tác Nam Đại Tây Dương.
Ngôn ngữ chính thức là tiếng Pháp nhưng Bờ Biển Ngà có rất nhiều thổ ngữ bao gồm tiếng Baoulé, tiếng Dioula, tiếng Dan, tiếng Anyin và tiếng Cebaara Senufo. Tôn giáo chính ở Bờ Biển Ngà là đạo Hồi, đạo Thiên Chúa và những tôn giáo bản địa khác.
Thông qua xuất khẩu cà phê và cacao, Bờ Biển Ngà là một nền kinh tế mạnh mẽ ở Tây Phi trong những năm 60 và 70 thế kỉ XX. Tuy nhiên, trong những năm 1980, Bờ Biển Ngà đã phải trải qua khủng hoảng kinh tế, khiến cho quốc gia này trở nên rối loạn về chính trị cũng như xã hội. Kinh tế Bờ Biển Ngà trong thế kỉ XXI vẫn chủ yếu giữa vào kinh tế tiểu chủ nông nghiệp.[3]
Mục lục
Từ nguyên học
Trong tiếng Việt, quốc gia này được gọi là Bờ Biển Ngà và trong nhiều ngôn ngữ khác cũng mang ý nghĩa tương tự: Elfenbeinküste trong tiếng Đức, Costa de Marfil trong tiếng Tây Ban Nha, Costa do Marfim trong tiếng Bồ Đào Nha, Ivoorkust trong tiếng Hà Lan, v.v. Vào tháng 10 năm 1985, Chính phủ nước này yêu cầu là nước được gọi Côte d’Ivoire trong mọi ngôn ngữ.
Mặc dù đã có quyết định của Chính phủ Côte d’Ivoire, “Bờ Biển Ngà” vẫn là tên phổ biến nhất trong tiếng Việt và Elfenbeinküste phổ biến trong tiếng Đức [1][2]. Tuy nhiên, các chính phủ sử dụng tên “Côte d’Ivoire” với lý do ngoại giao, còn cẩm nang về văn phong báo chí thường khuyên dùng tên “Bờ Biển Ngà”.
Lịch sử
Thuở sơ khai
Rất khó để xác định khi nào xuất hiện dấu vết đầu tiên của con người ở Bờ Biển Ngà bởi vì thời tiết ẩm ướt của Bờ Biển không cho phép lưu giữ tốt những vết tích như vậy. Tuy nhiên, sự hiện diện của các loại vũ khí thô sơ cũng như các công cụ rời rạc (đặc biệt là dấu vết của các lưỡi rìu được mài sắc trên đất sét và những gì còn sót lại của việc nấu nướng và đánh cá) chứng tỏ khả năng một số lượng lớn người đã sinh sống ở Bờ Biển Ngà là có thể trong giai đoạn Hậu đồ đá (từ năm 15.000 đến năm 10.000 trước CN),[8] hoặc ít ra là trong giai đoạn Đồ đá mới.[9]
Tuy nhiên, những cư dân đầu tiên của Bờ Biển Ngà đã để lại dấu vết chứng minh cho sự tồn tại của mình rải rác khắp nơi trên vùng đất này. Những nhà sử học đều tin rằng những cư dân đầu tiên đó đã được thay thế hoặc bij đồng hóa bởi tổ tiên của cư dân Bờ Biển Ngà hiện nay bắt đầu từ thế kỉ XVI, bao gồm người Ehotilé (Aboisso), người Kotrowou (Fresco), người Zéhiri (Grand Lahou), người Ega và người Diès (Divo).[10]
Thời kỳ thuộc địa
Côte d’Ivoire là vùng đất hấp dẫn đối với các thương gia Pháp và Bồ Đào Nha từ thế kỉ 15. Họ đến đây để tìm kiếm ngà voi và nô lệ. Năm 1842, thực dân Pháp chiếm các vùng ven biển, thiết lập chế độ thuộc địa năm 1893 và sáp nhập vào lãnh thổ Tây Phi thuộc Pháp năm 1896. Năm 1934, Abidjan trở thành thủ đô, đất nước phát triển nhờ khai khẩn các đồn điền ca cao và cà phê, việc khai thác rừng được dễ dàng nhờ việc xây dựng đường sắt Abidjan–Niger kéo dài đến biên giới vùng Thượng Volta.
Độc lập
Côte d’Ivoire giành độc lập năm 1960. Côte d’Ivoire cùng Dahomay (Bénin), Niger và Burkina Faso thành lập đồng minh thuế quan năm 1959. Côte d’Ivoire là một trong những nước có nền kinh tế phát triển trong vùng châu Phi cận Sahara, đứng đầu thế giới về xuất khẩu ca cao, là một trong những nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới.
Houphouët-Boigny quản lý
Houphouët-Boigny trở thành Tổng thống sau khi đất nước độc lập (1960). Boigny tái đắc cử sáu lần và giữ chức này cho đến năm 1993. Lực lượng sinh viên, nông dân và thợ thuyền đã phản đối buộc Tổng thống phải hợp pháp hóa các đảng đối lập và tổ chức các cuộc bầu cử Tổng thống vào tháng 10 năm 1990. Houphouet Boigny giành thắng lợi với 81% số phiếu.
Về chính trị, Houphouët-Boigny lãnh đạo Bờ Biển Ngà với chính sách “bàn tay sắt”. Một số nhận xét mềm mỏng hơn cho rằng sự lãnh đạo của ông giống với hình thái “phụ quyền-gia trưởng”. Không có tự do báo chí và chỉ có một chính đảng tồn tại. Điều này được một số người chấp nhận điều này như yêu cầu tất yếu nhằm mục đích tranh thủ lá phiếu của cử tri. Houphouët-Boigny cũng bị chỉ trích bởi những vấn đề liên quan các dự án quy mô lớn. Nhiều người cho rằng việc chi hàng triệu USD để cải tạo Yamoussoukro, quê hương của Houphouët Boigny, thành thủ đô mới là vô cùng lãng phí; một số người khác thì ủng hộ tầm nhìn của ông theo hướng phát triển thành phố này thành một trung tâm hòa bình, giáo dục và tôn giáo ngay giữa lòng Bờ Biển Ngà. Nhưng vào những năm đầu thập niên 80 của thế kỉ 20, suy thoái kinh té thế giới cộng với hạn hán đã tác động không nhỏ đến kinh tế Bờ Biển Ngà. Cùng với việc lạm dụng khai thác gỗ và đường bị rớt giá, nợ nước ngoài của Bờ Biển Ngà tăng lên gấp 3. Tội phạm gia tăng một cách đáng lo ngại ở Abidjan.
Vào năm 1990, hàng trăm cán bộ nhà nước và sinh viên gây bạo loạn để phản đối tình trạng tham nhũng đang hoành hành. Cuộc bạo loạn buộc chính phủ phải chuyển sang nền dân chủ đa đảng. Sức khỏe của Houphouët-Boigny ngày càng yếu và chết vào năm 1993. Ông đề cử Henri Konan Bédié là người kế nhiệm.
Bédié quản lý
Tháng 10 năm 1995, Bédié giành chiến thắng áp đảo trước phe đối lập rời rạc và thiếu tổ chức trong lần tái tranh cử. Bédié thắt chặt sự kiểm soát về chính trị, tống giam hơn 700 người ủng hộ phe đối lập. Tuy nhiên, kinh tế của Bờ Biển Ngà lại có những dấu hiệu khả quan như lạm phát giảm và chính phủ cố gắng xóa bỏ nợ nước ngoài.
Khác với Houphouët-Boigny, người chủ trương tránh những mâu thuẫn sắc tộc và để ngỏ một số vị trí trong bộ máy hành chính cho những người nhập cư từ các nước láng giếng, Bản mẫu:Bedié chú trọng vào quan điểm “Ivority” (tiếng Pháp: Ivoirité) để loại bỏ đối thủ của ông ta Alassane Ouattara, vốn có bố mẹ là người phía bắc Bờ Biển Ngà, khỏi cuộc đua vào chiếc ghế tổng thống. Tuy nhiên, chính sách loại bỏ người nước ngoài này đã làm căng thẳng mối quan hệ giữa các sắc tộc khác nhau ở Bờ Biển Ngà, vốn từ trước đến nay có số lượng dân nhập cư chiếm phần lớn trong tổng số dân của cả nước.
Đảo chính năm 1999
Tương tự, Bédié đã loại bỏ nhiều đối thủ chính trị khỏi quân đội. Cuối năm 1999, một nhóm sĩ quan bất mãn với chính phủ đã tổ chức một cuộc đảo chính quân sự, đưa tướng Robert Guéï lên nắm quyền. Bédié bỏ trốn sang Pháp. Chính quyền mới đã giảm bớt tình hình tội phạm và tham nhũng, cùng với việc áp đặt giới nghiêm và vận động rộng khắp trên đường phố về một xã hội tiết kiệm hơn.
Gbagbo quản lý
Cuộc bầu cử tổng thống tháng 10 năm 2000 giữa hai ứng cử viên Laurent Gbagbo và Guéï diễn ra quyết liệt nhưng hòa bình. Sự kiện nổi bật tiếp theo cuộc bầu cử tổng thống được đánh dấu bằng cuộc bạo loạn của quân đội và dân chúng Bờ Biển Ngà. Cuộc bạo loạn đã khiến 180 người chết và Guéï phải nhường lại chiếc ghế cho Gbagbo. Tòa án tối cao Bờ Biển Ngà ra quyết định phế truất Alassane Ouattara vì gốc gác Burkinabé của ông ta. Hiến pháp Bờ Biển Ngà tại thời điểm đó cũng như dưới thời Guéï không cho phép người không đáp ứng đủ yêu cầu về quốc tịch đứng ra tranh cử tổng thống. Sự kiện này đã châm ngòi cho những xô xát bạo lực giữa người ủng hộ Alassane Ouattara, chủ yếu là cư dân đến từ phía bắc Bờ Biển Ngà, và cảnh sát chống bạo động ở thủ đô Yamoussoukro.
Mỗi bên đều tuyên bố thắng lợi trong cuộc bầu cử được cho là gian lận. Sự phản đối của nhân dân biến thành bạo động và buộc Tướng Guei rời khỏi nhóm quân đội nổí loạn mưu toan đảo chính. Tướng Guei và Bộ trưởng Bộ Nội vụ Doudou bị giết trong cuộc chiến giữa quân Chính phủ và phe nổi dậy. Tổng thống Laurent Gbagbo, đắc cử năm 2000, tố cáo Guei tiến hành đảo chính.
Đảo chính năm 2002
Bờ Biển Ngà vẫn còn phải đối mặt với hậu quả của cuộc khủng hoảng chính trị trong đó đỉnh điểm là vụ đảo chính năm 1999, cuộc bầu cử Tổng thống đương nhiệm Laurent Gbagbo vào năm 2000 và cuộc xung đột vũ trang năm 2002 giữa phe nổi loạn và lực lượng chính phủ. Kể từ tháng 9 năm 2002, tình hình này đã dẫn tới sự di dân ồ ạt của gần 1,7 triệu người, phá huỷ cơ sở hạ tầng kinh tế và sự rối loạn hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước.
Chính phủ thống nhất 2003
Cuộc chiến vẫn tiếp tục, ngay cả sau khi một hiệp định hòa bình do Pháp làm trung gian được kí kết tháng 1 năm 2003. Hiệp định này kêu gọi Chính phủ chia sẻ quyền lực với phe nổi dậy. Tình hình vẫn còn căng thẳng mặc dầu Tổng thống cam kết sẽ khôi phục dân chủ.
Hậu quả 2004 – 2007
Trong năm 2007, những thành tựu nổi bật cũng đã được ghi nhận trong việc tái lập các thẻ chế của nước Cộng hoà này. Đây là kết quả của việc thực hiện Thoả thuận chính trị Ouagadougou ký ngày 4 tháng 3 năm 2007 giữa các bên liên quan đến cuộc khủng hoảng. Tuy nhiên, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc vẫn tỏ lo ngại về sự chậm trễ trong thực hiện tiến trình hoà bình tại Bờ Biển Ngà theo thoả thuân Ouagadougou. Đến nay, thời điểm dự định cuộc bầu cử Tổng thống vẫn chưa được ấn định.
Các vùng và khu hành chính
Côte d’Ivoire được chia làm 19 vùng gồm:
Các vùng này lại được chia ra làm 58 khu hành chính.
Dân số ở các thành phố lớn
Thủ đô chính thức của Bờ Biển Ngà có dân số là Yamoussoukro (295.500 người), thành phố có dân số xếp thứ 4 trong cả nước. Abidjan, với dân số 3.310.500 người, là thành phố lớn nhất của Bờ Biển Ngà, là trung tâm thương mại và ngân hàng, thủ đô de facto của quốc giai này. Đây là thành phố có đông người nói tiếng Pháp nhất ở khu vực Tây Ph.
Thành phố | Dân số |
---|---|
Abidjan | 3.310.500 |
Bouaké | 775.300 |
Daloa | 489.100 |
Yamoussoukro | 295.500 |
Korhogo | 163.400 |
San Pédro | 151.600 |
Divo | 134.200 |
Chính trị
Từ năm 1983, thủ đô chính thức của Bờ Biển Ngà là Yamoussoukro; tuy nhiên, Abidjan vẫn là trung tâm hành chính của cả nước. Hầu hết các quốc gia khác đều đặt Đại sứ quán tại Abidjan, ngoại trừ Đại sứ quán Vương quốc Anh đã chấm dứt nhiệm vụ vì những hành động bạo lực và những cuộc tấn công liên tiếp nhằm vào người châu Âu ở Bờ Biển Ngà. Người dân Bờ Biển Ngà lúc này vẫn phải chịu đựng bạo lực tiếp diễn do nội chiến. Các tổ chức quốc tế về nhân quyền đã ghi nhận Bờ Biển Ngà có những vấn đề về đối xử với dân thường bị bắt giữ của cả hai phe trong cuộc nội chiến này và sự tái trỗi dậy việc lạm dụng lao động nộ lệ trẻ em ở các đồn điền cacao. Mặc dầu chiến sự đã gần như chấm dứt vào năm 2004, nhưng Bờ Biển Ngà vẫn bị chia cắt thành hai phe, phía Bắc nămd dưới quyền kiểm soát của lực lượng “Chiến binh mới”(FN). Cuộc bầu cử tổng thống dự kiến diễn ra vào tháng 10 năm 2005 để đi đến một thỏa thuận giữa các phe phái đối địch đúng vào tháng 3 năm 2007, tuy nhiên cuộc bầu cử này vẫn bị trì hoàn nhiều lần ngay cả trong giai đoạn chuẩn bị.
Thể chế Cộng hoà Tổng thống
Các đảng phái chính trị lớn: Liên minh Dân chủ Công dân, Đảng Dân chủ Bờ Biển Ngà, Đảng Lao động Bờ Biển Ngà, Liên minh Dân chủ và Hoà bình, Mặt trận nhân dân Bờ Biển Ngà (Đảng của Tổng thống Gbagbo).
Từ khi độc lập cho đến năm 1990, Đảng Dân chủ luôn nắm quyền tại Bờ Biển Ngà. Tháng 11 năm 1990, cuộc bầu cử Quốc hội đa đảng đầu tiên được tổ chức (có 19 đảng đối lập tham gia) nhưng đảng Dân chủ của ông F.H Boigny vẫn giành đa số tuyệt đối và tiếp tục nắm quyền (148/175 ghế trong Quốc hội).
Tình hình chính trị – xã hội hiện nay
Ngày 28 tháng 11 năm 2010 đã diễn ra cuộc bầu cử Tổng thống vòng hai giữa hai ứng cử viên là ông Laurent Gbagbo, Tổng thống mãn nhiệm (lên nắm quyền từ năm 2000) và ông Alasane Ouattara, nguyên là Thủ tướng nước này. Ngày 2 tháng 12 năm 2010, Chủ tịch Ủy ban Bầu cử độc lập Bờ Biển Ngà chính thức thông báo kết quả bầu cử với việc ông Alasane Ouattara giành 54,10% số phiếu (được thế giới thừa nhận là Tổng thống) và ông Laurent Gbagbo giành 45,90% số phiếu. Tuy nhiên, Tổng thống mãn nhiệm Gbagbo đã tố cáo lực lượng phiến loạn miền Bắc nước này gian lận bầu cử và không công nhận kết quả trên. Vì vậy, bạo lực đã nổ ra giữa hai phe ủng hộ hai Tổng thống. Việc ông Gbagbo không chấp nhận thất bại đã đẩy nước này vào cuộc nội chiến với hàng nghìn người bị thiệt mạng và hàng triệu người dân phải chạy khỏi Bờ Biển Ngà. Sau 4 tháng không chịu nhượng bộ, dinh thự của ông Gbagbo đã bị quân đội của tổng thống đắc cử Alassane Ouattara tấn công hôm 11 tháng 4 và ông Gbagbo bị bắt giữ.
Địa lý
Bờ Biển Ngà là một quốc gia Tây Phi hạ Sahara, bên vịnh Guinea, Đông giáp Ghana, Tây giáp Liberia và Guinea, Bắc giáp Mali và Burkina Faso. Địa hình được cấu tạo bởi các vùng cao nguyên và núi ở miền Tây; vùng Tây Bắc thoải dần về phía Nam gồm các vùng đồng bằng trầm tích và vùng duyên hải, bờ biển thấp và nhiều cát. Phía Nam chịu ảnh hưởng khí hậu xích đạo tạo điều kiện thích hợp cho các vùng rừng rậm phát triển và chuyển dần sang các khu rừng thưa và các đồng cỏ nhiệt đới ở phía Bắc.
Kinh tế
Việc duy trì mối liên hệ chặt chẽ với Pháp sau khi giành độc lập từ năm 1960, tính đa dạng trong xuất khẩu nông nghiệp cũng như việc khuyến khích đầu tư của nước ngoài là những nhân tố chủ yếu của kinh tế Bờ Biển Ngà. Trong những năm trở lại đây, Bờ Biển Ngà phải đối mặt với sự rớt giá và cạnh tranh mạnh mẽ của cà phê và ca cao trên thị trường nông sản thế giới. Chính điều này cùng với tham nhũng trong nước cao khiến cho cuộc sống cũng như xuất khẩu của người nông dân ngày càng trở nên khó khăn hơn.
Bờ Biển Ngà là một nước có tài nguyên phong phú, đặc biệt có nhiều kim cương, măng gan và sắt.
Ngành công nghiệp, nông nghiệp của Côte d’Ivoire phát triển khá cân đối. Bờ Biển Ngà là nhà xuất khẩu hàng đầu thế giới về ca cao và từ vài năm nay nước này còn có thêm nguồn thu xuất khẩu từ dầu lửa ngoài khơi. Tuy nhiên thu nhập của Côte d’Ivoire vẫn dựa chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp (70% dân số sống bằng nghề nông). Bên cạnh đó nền công nghiệp của Bờ Biển Ngà cũng khá phát triển như: công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng dệt, da, hoá chất, khai khoáng, sản phẩm gỗ, sửa chữa và đóng tàu.
Về ngoại thương, năm 2010, kim ngạch xuất khẩu của Bờ Biển Ngà đạt 10,25 tỷ USD với các sản phẩm ca cao, cà phê, gỗ, dầu lửa, bông, chuối, dứa, dầu cọ, cá. Các đối tác xuất khẩu chính gồm Hà Lan 13.92%, Pháp 10.75%, Mỹ 7.79%, Đức 7.2%, Nigeria 6.99%, Ghana 5.56%. Năm 2010, kim ngạch nhập khẩu của Bờ Biển Ngà đạt 7 tỷ USD với các mặt hàng chính là dầu thô, máy móc trang thiết bị, lương thực, thực phẩm. Do sản xuất lúa trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân nên mỗi năm, Bờ Biển Ngà phải mua khoảng 900.000 tấn gạo.
Các đối tác nhập khẩu chính gồm Nigeria 20.75%, Pháp 14.19%, Trung Quốc 7.18%, Thái Lan 5.09%.
Mặc dù trải qua gần 1 thập kỷ bất ổn chính trị nhưng Bờ Biển Ngà vẫn được xem là một trong những nền kinh tế hàng đầu khu vực Tây Phi. Với vị trí địa lý chiến lược, nguồn tài nguyên thiên nhiên, nông nghiệp, lâm nghiệp phong phú, nước này tiếp tục duy trì vai trò là nhà cung cấp hàng hoá và dịch vụ chính cho các nước láng giềng như Guinea, Mali, Burkina Faso… Cảng biển Abidjan và tuyến đường sắt nối Abidjan với thủ đô Ouagadouro (Burkina Faso) vẫn là tuyến đường xuất nhập cảnh ưu tiên, nhất là đối với những nước nằm sâu trong lục địa, mang lại nguồn thu ngoại tệ quan trọng cho ngân sách quốc gia.
Tỷ lệ tăng trưởng GDP: 3,8% (2009)
GDP bình quân đầu người: 1.100 USD (2009)
Dân số
77% dân số là người Bờ Biển Ngà, bao gồm nhiều dân tộc va nhóm ngôn ngữ khác nhau. Ở Bờ Biền Ngà có khoảng 65 ngôn ngữ. Phổ biến nhất là tiếng Dyula, được dùng trong giao dịch buôn bán và những người Hồi giáo.
Tiếng Pháp, ngôn ngữ chính thức của Bờ Biển Ngà, được giảng dạy trong trường học và là ngôn ngữ được sử dụng giữa các nhóm dân tộc khác nhau. Bờ Biển Ngà có 3 nhóm tôn giáo chính đó là đạo Hồi, đạo Thiên Chúa và những người theo thuyết vật linh.[3] Là một quốc gia có kinh tế ổn định ở khu vực Tây Phi nên Bờ Biển Ngà thu hút đến 3,4 triệu lao động đến từ các nước láng giềng như Liveria, Burkina Faso và Guinea, chiếm tới 20% dân số của Bờ Biển Ngà. Hơn 2/3 trong số những lao động này là người Hồi Giáo.
4% dân số Bờ Biển Ngà không phải là người gốc Phi. Họ là người Pháp,[11] Liban,[12] Việt Nam và Tây Ban Nha.
Văn học, nghệ thuật truyền thống và tượng hình, các công trình kiến trúc
Văn học Bờ Biển Nga rất đa dạng và phong phú từ phong cách cho đến những câu thành ngữ, tục ngữ có nguồn gốc tương đối vững chắc từ việc biên tập cho đến các tác giả có uy tín. Trong số những tác giả nổi tiếng, có thể kể đến Bernard Dadié, phóng viên, nhà văn, nhà soạn kịch, tiểu thuyết gia và cũng là nhà thơ đã thống trị văn đàn Bờ Biển Ngà ngay từ những năm 30 hay là Aké Loba (với L’Étudiant noir, 1960) và Ahmadou Kourouma (với Les Soleils des indépendances, 1968) đã nhận được giải thưởng Prix du Livre Inter vào năm 1998 cho tác phẩm mà đã trở thành kinh điển đối với văn học châu Phi En attendant le vote des bêtes sauvages[13].
Nét đặc trưng của nghệ thuật Bờ Biển Ngà xuất hiện trong nhiều vật dụng hàng ngày bằng các chất liệu đa dạng. Nghệ thuật này có mặt trên khắp đất nước, là minh chứng cho phong cách sống ở quốc gia này. Ví dụ như việc đan thúng, điêu khắc, chạm khắc gỗ, tạc tượng đã sử dụng rất nhiều chất liệu như gỗ, đồng, mây và tre…
Mặt nạ Dan, Baoulés, Gouros, Guérés và Bétés rất nổi tiếng ở Bờ Biển Ngà. Ngoài ra, nghề dệt tiếng tăm của những người Baoulés và những người Sénoufos đã trở thành bộ môn nghệ thuật hội họa trên nền vải. Những bức tượng nhỏ bằng đồng vốn xưa kia dùng để cân vàng nay lại được dùng làm vật trang trí, nhất là trong văn hóa Akan. Tuy nhiên, tất cả người dân Bờ Biển Ngà đều chia sẻ với nhau những vũ điệu truyền thống trên âm thanh của những nhạc cụ phổ biến như (tam-tams, balafon). Một số vũ điệu còn nổi tiếng khắp cả đất nước như: Temate của Facobly, Gouessesso và Danané, Boloye của vùng sénoufo, Zaouli của vùng gouro. Cũng nên nhắc đến những đồ sành sứ thủ công được chế tác bởi phụ nữ Bờ Biển Ngà, trong số đó nổi tiếng nhất là đồ sành sứ Katiola.
Di sản văn hóa này có sẵn và rất dồi dào. Rất nhiều tác phẩm truyền thống (đặc biệt là điêu khắc) được bày bán cho khách du lịch dừng chân ở các thành phố nghỉ mát nổi tiếng như Grand-Bassam hay Assinie. Một số khác còn được trưng bày trong các phòng triển lãm nghệ thuật hoặc tại viện bảo tàng văn hóa ở Abidjan.
Một số họa sĩ như Gilbert G. Groud và Michel Kodjo thường xuyên có những tác phẩm giá trị trong khi đó, mảng truyện tranh thuộc về Zohoré Lassane, họa sĩ phác thảo và cũng là người sáng lập ra tờ nhật báo hài hước và châm biếm Gbich !.
Có thể thấy ở Bờ Biển Ngà sự đa dạng trong những công trình lịch sử. Grand-Bassam, kinh đô đầu tiên của Bờ Biển Ngà chính là nơi tọa lạc của Dinh tổng trấn (Palais de Gouverneur), nơi đầu tiên chính quyền thuộc địa Pháp đặt trụ sở. Dinh thự này được sơ tác ở Pháp sau đó được xây dựng và hoàn thiện tại chính Bờ Biển Ngà vào năm 1983. Thành phố Grand-Bassam còn có khá nhiều công trình kiến trúc tuyệt đẹp theo lối kiến trúc thuộc địa kết hợp với chất liệu xây dựng bản địa như tòa nhà Varlet hay tòa nhà Ganamet thuộc về những thương gia giàu có.
Ở Abidjan, đại giáo đường Saint-Paul là một công trình kiến trúc rất đặc biệt có 2 mặt được làm hoàn toàn bằng kính theo dấu ấn của những người truyền giáo ở Châu Phi. Ở Yamoussoukro, Nhà thờ Đức Bà hòa bình được khánh thành bởi Giáo hoàng Jean-Paul II vào năm 1990. Nhà thờ này cũng là phiên bản của Nhà thờ lớn Saint-Pierre ở Roma và có thể đón tiếp 18000 đứng trong điện. Hơn nữa, đó được coi là một trong những kiến trúc tôn giáo lớn nhất trên thế giới về chiều cao và diện tích.[14][15] Người ta đã tiêu tốn khoảng 300 triệu USD để xây dựng côn trình kiến trúc này [16]. Bên cạnh đó, còn phải nhắc đến tòa nhà của Quỹ hòa bình Félix Houphouët-Boigny nổi tiếng.
Ở phía Bắc đất nước, những kiến trúc Hồi giáo theo phong cách Sudan xuất hiện từ thời kì đế chế Mali ở thế kỉ 14 cũng rất đáng chú ý. Theo các chuyên gia, đáng kể nhất trong số đó là nhà thờ Kaouara (tỉnh Ouangolodougou), nhà thờ Tengréla, nhà thờ Kouto, nhà thờ Nambira, hai nhà thờ khác ở Kong đều mang giá trị văn hóa, kiến trúc, lịch sử nhất định.[17].
Thể thao, truyền thông, giải trí
Người dân Bờ Biển Ngà rất ưa thích thể thao. Từ các sân golf ở Abidjan, Yamoussoukro và San-Pédro, Bờ Biển Ngà có thể tổ chức những cuộc thi đấu golf 9 lỗ hoặc 18 lỗ. Hằng năm, giải đấu golf quốc tế mở rộng mang tên Félix Houphouët Boigny vẫn diễn ra đều đặn ở Bờ Biển Ngà với sự tham gia của nhiều vận động viên chuyên nghiệp.
Những vùng phá và biển tạo cho Bờ Biển Ngà cơ hội phát triển nhiều môn thể thao dưới nước như lặn, lướt ván, đua thuyền buồm, canoe-kayak và bóng chuyền bãi biển. Đua ngựa và đua xe cũng rất phổ biến ở Bờ Biển Ngà. Bên cạnh đó còn có bóng ném, bóng rổ, bóng chuyền, bóng bầu dục, điền kinh và quần vợt.
Tuy nhiên, bóng đá luôn là môn thể thao số một ở Bờ Biển Ngà. Bóng đá thu hút nhiều người dân tham gia tập luyện, kể cả những khu vực hẻo lánh nhất của đất nước. Mỗi thành phố, thậm chí là mỗi khu phố đều tổ chức một giải đấu bóng đá riêng.
Liên đoàn bóng đá quốc gia Bờ Biển Ngà đã tổ chức và đưa vào thi đấu giải bóng đá cấp quốc gia Bờ Biển Ngà. Trong giải đấu này, hai đội bóng là Africa Sports National và ASEC Mimosas luôn tỏ ra vượt trội so với các đội bóng còn lại. Rất nhiều cầu thủ Bờ Biển Ngà đang phát triển sự nghiệp ở nước ngoài trong những đội bóng danh giá nhất thế giới. Chính những cầu thủ thi đấu ở nước ngoài này là nguồn lực chính cho đội tuyển bóng đá quốc gia Bờ Biển Ngà ở các giải đấu quốc tế.
Trong quá khứ, với sự dẫn dắt của những cầu thủ như Ben Badi, Gadji Celi et Alain Gouaméné, bóng đá Bờ Biển Ngà đã đạt được những thành công nhất định. Đến thế hệ của Didier Drogba, Bờ Biển Ngà lần đầu tiên đã góp mặt tại vòng chung kết bóng đá thế giới 2006.
Trong lĩnh vực truyền thông, Bờ Biển Ngà có đầy đủ các cơ quan phụ trách nghe nhìn, báo viết, kể cả các cơ quan quản lý chuyên nghiệp tuân theo sự điều hành của Ủy ban quốc gia về báo chí mà sau này là Hội đồng báo chí quốc gia (CNP), Hội đồng nghe nhìn quốc gia (CNCA) và một tổ chức tự quản giám sát đạo đức và tự do báo chí (OLPED).
Từ năm 1991, truyền thông của Bờ Biển Ngà được điều chỉnh bởi đạo luật số 91-1034 [18] · [19] · [20] về hoạt động báo chí chuyên nghiệp. Đài phát thanh truyền hình Bờ Biển Ngà (RTI) thuộc về nhà nước, được hỗ trợ tài chính nhờ tiền bản quyền, quảng cáo và các nguồn ủng hộ khác. Bao gồm 2 kênh truyền hình và 2 trạm phát thanh: La Première, TV2 – kênh giải trí phát sóng trong khu vực bán kính 200 km ở Abidjan, Radio Côte d’Ivoire, Fréquence 2 – kênh giải trí, Radio Jam, kênh radio tư nhân đầu tiên của Bờ Biển Ngà; Africahit Music TV.
Nhiều đầu báo khác nhau phần lớn đều tập trung ở Abidjan. Ngoài Tập đoàn báo buổi sáng Bác Ái (Groupe Fraternité Matin) với khoảng 25000 ấn bản mỗi ngày, 15 đầu báo khác đều do các công ty tư nhân nắm giữ.
Âm nhạc của Bờ Biển Ngà pha trộn nhiều trào lưu khác nhau, trong đó có thể kể đến những nhạc sĩ tiên phong như Ziglibithy, Gbégbé, Lékiné hay nhóm những nhạc sĩ thuộc thế hệ thứ hai (Zouglou, Zoblazo, Mapouka,Youssoumba…) và nhóm nhạc sĩ thuộc trào lưu hiện đại (Coupé-décalé). Âm nhạc Bờ Biển Ngà là sự kết hợp của nhiều điệu nhạc khiêu vũ.
Hài kịch rất được ưa chuộng ở Bờ Biển Ngà, đặc biệt là tác phẩm trào phúng của Digbeu Cravate, Zoumana, Adjé Daniel, Gbi de Fer, Jimmy Danger, Doh Kanon, Adrienne Koutouan, Marie Louise Asseu, Adama Dahico, Bamba Bakary, duo Zongo và Tao sản xuất, biểu diễn trên sân khấu và truyền hình.
Năm 2004, với sự phát triển của công nghệ kĩ thuật số, điện ảnh Bờ Biển Ngà đã cho ra đời hàng loạt bộ phim như Coupé-décalé (Fadiga de Milano đạo diễn) hay Le Bijou du sergent Digbeu [21] của Alex Kouassi, Signature của Alain Guikou hay là Un homme pour deux sœurs của Marie-Louise Asseu. Tính cho đến thời điểm hiện tại, trung bình cứ 3 tháng lại có một bộ phim được xuất xưởng. Những bộ phim này còn nhiều yếu kém về kĩ thuật (do hình ảnh hoặc âm thanh) nhưng sự hữu ích của công nghệ kĩ thuật số thật sự đã tạo ra bước ngoặt cho điện ảnh Bờ Biển Ngà.
Festival về nghệ thuật châu Phi Marché des arts du spectacle africain – MASA được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1993 bởi Tổ chức Pháp ngữ, đến tháng 3 năm 1998 đã nhanh chóng trở thành một chương trình có tính chất quốc tế nhằm phát triển những nghệ thuật hiện có tại châu Phi. Chương trình này là một dự án nghệ thuật liên quốc gia của châu Phi bao gồm một hội chợ về nghệ thuật trình diễn, một diễn đàn của những người làm nghệ thuật và một festival diễn ra hai năm một lần ở Abidjan.[22].
Faya Flow là cuộc thi hip hop lớn nhất ở Bờ Biển Ngà. Được tổ chức bởi Hiệp hội Tuổi trẻ Hip hop Năng động (JACH, đọc là “jack”) từ năm 2005, cuộc thi này nhằm mục đích thông qua hip hop tìm kiếm, phát hiện và giúp đỡ những tài năng ca hát và văn nghệ cho Bờ Biển Ngà.
Tham khảo
- ^ Bờ Biển Ngà
- ^ (tiếng Pháp) Premiers résultats définitifs du RGPH-98 (Recensement Général de la Population et de l’Habitation de 1998), Abidjan: Institut National de la Statistique, Bureau Technique Permanent du Recensement, 2002.
- ^ a ă â “Côte d’Ivoire”, The World Factbook, CIA Directorate of Intelligence, 24 tháng 7 năm 2008, truy cập 8 tháng 8 năm 2008.
- ^ Library of Congress Country Studies, Library of Congress, Tháng 11 năm 1988, truy cập 11 tháng 4 năm 2009
- ^ (tiếng Pháp) “Loi n° 2000-513 du 1er août 2000 portant Constitution de la République de Côte d’Ivoire”, Journal Officiel de la République de Côte d’Ivoire 42 (30), 3 tháng 8 năm 2000: 529–538, truy cập 7 tháng 8 năm 2008.
- ^ Background Note: Cote d’Ivoire, United States Department of State, Tháng 7 năm 2008, truy cập 7 tháng 8 năm 2008.
- ^ (tiếng Pháp) Accord politique de Ouagadougou, Presidency of the Republic of Côte d’Ivoire, 4 tháng 3 năm 2007, truy cập 7 tháng 8 năm 2008
- ^ Guédé, François Yiodé (1995), “Contribution à l’étude du paléolithique de la Côte d’Ivoire: État des connaissances”, Journal des africanistes 65 (2): 79–91, doi:10.3406/jafr.1995.2432, ISSN 0399-0346.
- ^ Rougerie 1978, tr. 246.
- ^ Kipré 1992, tr. 15–16.
- ^ “Ivory Coast – The Economy”. Countrystudies.us. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Ivory Coast – The Levantine Community”. Countrystudies.us. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2010.
- ^ Littérature africaine
- ^ (tiếng Pháp) Villes et villages, La Basilique Notre Dame de la Paix sur ReseauIvoire. Consulté le 9 juillet 2008
- ^ (tiếng Pháp) Côte d’Ivoire, des faits sur de la Basilique Notre Dame de Paix sur Abidjan.net. Consulté le 9 juillet 2008
- ^ (tiếng Anh) Everything Basilique Notre Dame de Paix sur The Everything Development Company. Consulté le 9 juillet 2008
- ^ (tiếng Pháp)Bản mẫu:Lire en ligne
- ^ (tiếng Pháp) Loi n°91-1033 du 31 décembre 1991 portant régime juridique de la presse, Journal Officiel de la République de Côte d’Ivoire, n° 2 du 9 janvier 1992
- ^ (tiếng Pháp) loi n° 91-1034 du 31 décembre 1991 portant statut des journalistes professionnels, Journal officiel de la République de Côte d’Ivoire, n° 2 du 9 janvier 1992
- ^ (tiếng Pháp) loi n°91-1001 du 27 décembre 1991 fixant le régime de la communication audiovisuelle, Journal Officiel de la République de Côte d’Ivoire, n° 2 du 9 janvier 1992
- ^ (tiếng Pháp) Marcel Appena, « Actualités-culture, Digbeu Cravate, acteur principal du film Le Bijou du sergent Digbeu: Nous tirons à boulets rouges sur les policiers… » sur Le matin d’Abidjan.com, 2008. Consulté le 4 Mai 2007
- ^ (tiếng Pháp) Présentation du Masa sur site du Masa. Consulté le 27 avril 2008
Liên kết ngoài
- Government
- (tiếng Pháp) Présidence de la République de Côte d’Ivoire Official Site of the Ivoirian President
- Embassy of Côte d’Ivoire in Japan government information and links
- Embassy of Côte d’Ivoire in Scandinavia
- Chief of State and Cabinet Members
- General information
- Country Profile from BBC News
- Cote-D’Ivoire from the Encyclopaedia Britannica
- Mục “Cote d’Ivoire” trên trang của CIA World Factbook.
- Cote d’Ivoire from UCB Libraries GovPubs
- Bờ Biển Ngà tại DMOZ (trang đề nghị)
Wikimedia Atlas của Côte d’Ivoire, có một số bản đồ liên quan đến Côte d’Ivoire.
- News
- allAfrica – Côte d’Ivoire news headline links
- Abidjan.Net news forum links
- Tourism
![]() |
Wikivoyage có chỉ dẫn du lịch về Côte d’Ivoire |
- Other
- Cote D’Ivoire literature
- Map of Côte d’Ivoire
- (tiếng Pháp) Parti Ivoirien du Peuple
- Akwaba in Ivory Coast
- French intervention in Ivory Coast 2002–2003
- Crisis briefing on Ivory Coast’s recovery from war from Reuters AlertNet
- Safer Access – A Precis of the Historical Security Context in Cote d’IvoirePDF (193 KiB)
![]() |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Bờ Biển Ngà |
Ấn Độ
भारत गणराज्य / Bhārat Ganarājya (tiếng Hindi) Republic of India (tiếng Anh) |
|||||
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
“Satyameva Jayate” (tiếng Phạn) “Truth Alone Triumphs” (tiếng Anh)[1] Chỉ có chân lý đắc thắng |
|||||
Quốc ca | |||||
![]() Jana Gana Mana |
|||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Cộng hòa nghị viện liên bang | ||||
Tổng thống Thủ tướng |
Pranab Mukherjee Narendra Modi |
||||
Ngôn ngữ chính thức | |||||
Thủ đô | New Delhi |
||||
Thành phố lớn nhất | Mumbai | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 3.287.590 km² (hạng 7) | ||||
Diện tích nước | 9,56% % | ||||
Múi giờ | IST (UTC+5:30) | ||||
Lịch sử | |||||
Độc lập từ Anh Quốc
|
|||||
15 tháng 8 năm 1947 | Nước tự trị | ||||
26 tháng 1 năm 1950 | Cộng hòa | ||||
Dân cư | |||||
Dân số ước lượng (2011) | 1.210.193.422[4] người (hạng 2) | ||||
Mật độ | 376,1 người/km² (hạng 31) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2013) | Tổng số: 4.962 tỷ Đô la Mỹ[5] | ||||
GDP (danh nghĩa) (2013) | Tổng số: 1.758 tỷ Đô la Mỹ[5] (hạng 10) Bình quân đầu người: 1.414 Đô la Mỹ[5] (hạng 146) |
||||
HDI (2012) | 0,554[6][7] trung bình (hạng 136) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Rupee Ấn Độ (INR ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .in
Tên miền khác[hiện]
|
Ấn Độ (tiếng Hindi: भारत(Bhārata), tiếng Anh: India), tên gọi chính thức là nước Cộng hòa Ấn Độ, là một quốc gia tại Nam Á. Đây là quốc gia lớn thứ bảy về diện tích, và đông dân thứ nhì trên thế giới với trên 1,2 tỷ người. Ấn Độ tiếp giáp với Ấn Độ Dương ở phía nam, biển Ả Rập ở phía tây-nam, và vịnh Bengal ở phía đông-nam, có biên giới trên bộ với Pakistan ở phía tây; với Trung Quốc, Nepal, và Bhutan ở phía đông-bắc; và Myanmar cùng Bangladesh ở phía đông. Trên Ấn Độ Dương, Ấn Độ lân cận với Sri Lanka và Maldives; thêm vào đó, Quần đảo Andaman và Nicobar của Ấn Độ có chung đường biên giới trên biển với Thái Lan và Indonesia.
Tiểu lục địa Ấn Độ là nơi xuất hiện văn minh lưu vực sông Ấn cổ đại, có các tuyến đường mậu dịch mang tính lịch sử cùng những đế quốc rộng lớn, và trở nên giàu có về thương mại và văn hóa trong hầu hết lịch sử lâu dài của mình.[8] Đây cũng là nơi bắt nguồn của bốn tôn giáo lớn: Ấn Độ giáo, Phật giáo, Jaina giáo và Sikh giáo; trong khi Do Thái giáo, Hỏa giáo, Cơ Đốc giáo và Hồi giáo được truyền đến vào thiên niên kỷ thứ nhất sau Công nguyên và cũng giúp hình thành nền văn hóa đa dạng của khu vực. Khu vực dần bị thôn tính và chuyển sang nằm dưới quyền quản lý của Công ty Đông Ấn Anh từ đầu thế kỷ 18, rồi nằm dưới quyền quản lý trực tiếp của Anh Quốc từ giữa thế kỷ 19. Ấn Độ trở thành một quốc gia độc lập vào năm 1947 sau một cuộc đấu tranh giành độc lập dưới hình thức đấu tranh bất bạo động do Mahatma Gandhi lãnh đạo.
Nền kinh tế Ấn Độ lớn thứ 11 thế giới xét theo GDP danh nghĩa và lớn thứ ba thế giới xét theo sức mua tương đương (PPP).[9] Sau các cải cách kinh tế dựa trên cơ sở thị trường vào năm 1991, Ấn Độ trở thành một trong số các nền kinh tế lớn có mức tăng trưởng nhanh nhất; và được nhận định là một nước công nghiệp mới. Tuy nhiên, quốc gia này vẫn tiếp tục phải đối diện với những thách thức từ nghèo đói, tham nhũng, kém dinh dưỡng, y tế công thiếu thốn, và chủ nghĩa khủng bố. Ấn Độ là một quốc gia vũ khí hạt nhân và là một cường quốc trong khu vực, có quân đội thường trực lớn thứ ba và xếp hạng tám về chi tiêu quân sự trên thế giới. Ấn Độ là một nước cộng hòa lập hiến liên bang theo thể chế nghị viện, gồm có 29 bang và 7 lãnh thổ liên bang. Ấn Độ là một xã hội đa nguyên, đa ngôn ngữ và đa dân tộc. Đây cũng là nơi có sự đa dạng về loài hoang dã trong nhiều khu vực được bảo vệ.
Mục lục
Từ nguyên
Thuật ngữ địa lý Bharat (भारत, phát âm [ˈbʱaːrət̪] ( )), được Hiến pháp Ấn Độ công nhận là một tên gọi chính thức của quốc gia, được sử dụng trong nhiều ngôn ngữ Ấn Độ với các biến thể.[10] Bharat bắt nguồn từ tên của Bharata, một nhân vật thần học được kinh thánh Ấn Độ giáo mô tả là một hoàng đế truyền thuyết của Ấn Độ cổ đại. Hindustan ([ɦɪnd̪ʊˈst̪aːn] ( )) có nguồn gốc từ một từ trong tiếng Ba Tư có nghĩa là “Vùng đất của người Hindu”; trước năm 1947, thuật ngữ này ám chỉ một khu vực bao trùm lên bắc bộ Ấn Độ và Pakistan. Nó đôi khi được sử dụng để biểu thị toàn bộ Ấn Độ.[11][12]
Trong các thư tịch Trung Quốc, thời nhà Hán gọi khu vực là “Thân Độc” (身毒), hay “Thiên Trúc” (天竺). Tên gọi Ấn Độ (tiếng Trung: 印度; bính âm: Yìndù) xuất hiện lần đầu trong “Đại Đường Tây Vực ký” của cao tăng Huyền Trang đời nhà Đường.[13]
Tên gọi India bắt nguồn từ Indus, từ này lại bắt nguồn từ một từ tiếng Ba Tư cổ là Hinduš. Thân từ của thuật ngữ tiếng Ba Tư bắt nguồn từ tiếng Phạn Sindhu, là tên gọi bản địa có tính lịch sử của sông Ấn (Indus).[14] Người Hy Lạp cổ đại gọi người Ấn Độ là Indoi (Ινδοί), có thể dịch là “người của Indus”.[15]
Lịch sử
Ấn Độ cổ đại
Người hiện đại về phương diện giải phẫu được cho là đến Nam Á từ 73-55.000 năm trở lại đây,[16] song các hài cốt được xác nhận của giống người này chỉ có niên đại sớm nhất là từ 30.000 năm trước.[17] Tại nhiều nơi trên tiểu lục địa Ấn Độ, người ta phát hiện được các di chỉ nghệ thuật trên đá gần cùng thời với thời đại đồ đá giữa, bao gồm các chỗ ở hang đá Bhimbetka tại Madhya Pradesh.[18] Khoảng năm 7000 TCN, các khu định cư thời đại đồ đá mới đầu tiên được biết đến đã xuất hiện trên tiểu lục địa, tại Mehrgarh và các di chỉ khác ở đông bộ Pakistan.[19] Chúng dần phát triển thành văn minh thung lũng sông Ấn,[20] là nền văn hóa đô thị đầu tiên tại Nam Á;[21] và phát triển hưng thịnh trong khoảng thời gian 2500–1900 TCN tại Pakistan và tây bộ Ấn Độ.[22] Nền văn minh này tập trung quanh các thành thị như Mohenjo-daro, Harappa, Dholavira, và Kalibangan, và dựa trên các hình thức sinh kế đa dạng, nền văn minh này có hoạt động sản xuất thủ công nghiệp mạnh cùng với mậu dịch trên phạm vi rộng.[21]
Trong giai đoạn 2000–500 TCN, xét theo khía cạnh văn hóa, nhiều khu vực tại tiểu lục địa chuyển đổi từ thời đại đồ đồng đá sang thời đại đồ sắt.[23] Vệ-đà là những thánh kinh cổ nhất của Ấn Độ giáo,[24] chúng được soạn trong giai đoạn này,[25] và các nhà sử học phân tích chúng để thừa nhận về một nền văn hóa Vệ-đà ở vùng Punjab và phần thượng của đồng bằng sông Hằng.[23] Hầu hết các sử gia cũng nhận định trong giai đoạn này có một vài làn sóng người Ấn-Arya nhập cư đến tiểu lục địa từ phía tây-bắc.[26][24][27] Chế độ đẳng cấp xuất hiện trong giai đoạn này, tạo nên một hệ thống thứ bậc gồm các tăng lữ, quân nhân, nông dân tự do, tuy nhiên loại trừ người dân bản địa bằng cách gán cho công việc của họ là thứ ô uế.[28] Trên cao nguyên Deccan, bằng chứng khảo cổ từ thời kỳ này khẳng định sự tồn tại của tổ chức chính trị ở một giai đoạn tù bang.[23] Tại nam bộ Ấn Độ, một lượng lớn các bia kỷ niệm cự thạch có niên đại từ thời kỳ này cho thấy có một sự tiến triển lên cuộc sống định cư, ngoài ra còn có các dấu vết về nông nghiệp, bể tưới tiêu, và thủ công truyền thống nằm không xa đó.[29]
Vào cuối giai đoạn Vệ-đà, khoảng thế kỷ 5 TCN, các tù bang nhỏ ở đồng bằng sông Hằng và tây-bắc thống nhất thành 16 quả đầu quốc và quân chủ quốc lớn, chúng được gọi là các mahajanapada.[30][31] Đô thị hóa nổi lên và các tính chất chính thống trong thời kỳ này cũng hình thành nên các phong trào tôn giáo không chính thống, hai trong số đó trở thành các tôn giáo độc lập. Phật giáo dựa trên lời dạy của Tất-đạt-đa Cồ-đàm, thu hút các môn đồ từ tất cả các tầng lớp xã hội trừ tầng lớp trung lưu; ghi chép biên niên sử về cuộc đời của Phật là trung tâm trong việc khởi đầu lịch sử thành văn tại Ấn Độ.[32][33][34] Đạo Jaina nổi lên trong thời kỳ của người mô phạm của nó là Mahavira.[35] Tại một thời kỳ mà đô thị thêm phần thịnh vương, cả hai tôn giáo đều duy trì sự từ bỏ như một tư tưởng,[36] và cả hai đều hình thành các truyền thống tu viện lâu dài. Về mặt chính trị, vào thế kỷ 3 TCN, Vương quốc Magadha (Ma Kiệt Đà) sáp nhập hoặc chinh phục các quốc gia khác để rồi nổi lên thành Đế quốc Maurya (Khổng Tước).[30] Đế quốc Maurya từng kiểm soát hầu hết tiểu lục địa ngoại trừ vùng viễn nam, song các khu vực lõi của nó nay bị phân ly bởi các khu vực tự trị lớn.[37][38] Các quốc vương của Maurya được biết đến nhiều với việc xây dựng đế quốc và quản lý sinh hoạt công cộng một cách quả quyết, như Ashoka từ bỏ chủ nghĩa quân phiệt và ủng hộ rộng rãi “Phật pháp“.[39][40]
Văn học Sangam viết bằng tiếng Tamil tiết lộ rằng vào giai đoạn từ 200 TCN đến 200 CN, nam bộ bán đảo nằm dưới quyền quản lý của các triều đại Chera, Chola, và Pandya, các triều đại này có quan hệ mậu dịch rộng rãi với Đế quốc La Mã cũng như với khu vực Tây và Đông Nam Á.[41][42] Ở bắc bộ Ấn Độ, Ấn Độ giáo khẳng định quyền kiểm soát phụ quyền trong gia đình, khiến phụ nữ tăng thêm tính lệ thuộc.[43][30] Đến thế kỷ 4 và 5, Đế quốc Gupta được hình thành tại đồng bằng sông Hằng với một phức hệ về hành pháp và phú thuế, trở thành hình mẫu cho các vương quốc sau này tại Ấn Độ.[44][45] Dưới chế độ Gupta, Ấn Độ giáo hồi phục dựa trên cơ sở lòng sùng đạo thay vì quản lý lễ nghi và bắt đầu khẳng định được mình.[46] Sự phục hồi của Ấn Độ giáo thể hiện qua việc nở rộ các công trình điêu khắc và kiến trúc, những thứ trở nên quen thuộc trong một giới tinh hoa đô thị.[45] Văn học tiếng Phạn cổ điển cũng nở rộ, và khoa học, thiên văn học, y học, toán học Ấn Độ có các tiến bộ đáng kể.[45]
Ấn Độ trung đại
Thời kỳ Ấn Độ trung đại đầu kéo dài từ năm 600 đến năm 1200, có đặc điểm là các vương quốc mang tính khu vực và đa dạng văn hóa.[47] Khi người cai trị phần lớn đồng bằng Ấn-Hằng từ 606 đến 647 là Hoàng đế Harsha cố gắng khoách trương về phía nam, ông chiến bại trước quân chủ của triều Chalukya ngự trị tại Deccan.[48] Khi người thừa tự của Harsha nỗ lực khoách trương về phía đông, ông ta chiến bại trước quân chủ của Pala ngự trị tại Bengal.[48] Khi triều Chalukya nỗ lực khoách trương về phía nam, họ chiến bại trước triều Pallava ở xa hơn về phía nam, triều Pallava lại đối đầu với triều Pandya và triều Chola ở xa hơn nữa về phía nam.[48] Không quân chủ nào trong giai đoạn này có thể thiết lập nên một đế quốc và kiểm soát liên tục các vùng đất nằm xa vùng lãnh thổ lõi của mình.[47] Trong thời kỳ này, các mục dân có đất đai bị phát quang để phát triển kinh tế nông nghiệp được thu nhận vào trong xã hội đẳng cấp, trở thành tầng lớp thống trị phi truyền thống mới.[49] Hệ thống đẳng cấp do đó bắt đầu thể hiện những khác biệt giữa các vùng.[49]
Trong thế kỷ 6 và 7, các bài thánh ca cầu nguyện đầu tiên được sáng tác bằng tiếng Tamil.[50] Toàn Ấn Độ mô phỏng theo điều đó và khiến cho Ấn Độ giáo tái khởi, và toàn bộ các ngôn ngữ hiện đại trên tiểu lục địa có sự phát triển.[50] Các vương thất lớn nhỏ tại Ấn Độ cùng các đền thờ mà họ bảo trợ thu hút một lượng rất lớn các thần dân đến kinh thành, các kinh thành cũng trở thành những trung tâm kinh tế.[51] Các đô thị thánh đường với kính cỡ khác nhau bắt đầu xuất hiện khắp nơi khi Ấn Độ trải qua một quá trình đô thị hóa nữa.[51] Đến thế kỷ 8 và 9, các ảnh hưởng của Ấn Độ được nhận thấy tại Đông Nam Á, khi mà văn hóa và hệ thống chính trị Nam Á được truyền bá ra các vùng đất mà nay là một phần của Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Malaysia, và Java.[52] Các thương nhân, học giả, và đôi khi là quân nhân Ấn Độ tham gia vào sự truyền bá này; người Đông Nam Á cũng có sự chủ động, nhiều người lưu lại một thời gian trong các trường dòng Ấn Độ và dịch các văn bản Phật giáo và Ấn Độ giáo sang ngôn ngữ của họ.[52]
Các thị tộc du cư Trung Á sử dụng kỵ binh và có các đội quân đông đảo được thống nhất nhờ dân tộc và tôn giáo, sau thế kỷ 10 họ liên tiếp tràn qua các đồng bằng ở tây-bắc của Nam Á, cuối cùng hình thành nên Vương quốc Hồi giáo Delhi vào năm 1206.[53] Vương quốc này kiểm soát phần lớn bắc bộ Ấn Độ, tiến hành nhiều hoạt động đánh phá xuống nam bộ Ấn Độ. Mặc dù chính quyền Hồi giáo ban đầu phá vỡ giới tinh hoa Ấn Độ, song các thần dân phi Hồi giáo của vương quốc này phần lớn vẫn duy trì được luật lệ và phong tục riêng của họ.[54][55] Vương quốc Hồi giáo Delhi nhiều lần đẩy lui quân Mông Cổ trong thế kỷ 13, cứu nguy Ấn Độ khỏi cảnh tàn phá giống như ở Trung và Tây Á. Vương quốc trở thành nơi định cư của những quân nhân bỏ trốn, người có học, pháp sư, thương gia, nghệ sĩ, thợ thủ công từ khu vực Trung và Tây Á, tạo nên một nền văn hóa Ấn-Hồi hổ lốn ở bắc bộ Ấn Độ.[56][57] Các cuộc đột kích của Vương quốc Hồi giáo Delhi và sự suy yếu của các vương quốc khu vực ở nam bộ Ấn Độ tạo điều kiện cho Đế quốc Vijayanagara bản địa hình thành.[58] Đế quốc phương nam này theo một truyền thống Shiva giáo mạnh mẽ và xây dựng nên kỹ thuật quân sự vượt lên trên Vương quốc Hồi giáo Delhi, kiểm soát được phần nhiều Ấn Độ Bán đảo,[59] và có ảnh hưởng đến xã hội nam bộ Ấn Độ trong một thời gian dài sau đó.[58]
Ấn Độ cận đại
Đầu thế kỷ 16, bắc bộ Ấn Độ khi đó nằm dưới quyền cai trị của các quân chủ mà phần lớn theo Hồi giáo,[60] song một lần nữa lại sụp đổ trước tính linh động và hỏa lực vượt trội của một thế hệ các chiến binh Trung Á mới.[61] Đế quốc Mogul ra đời song không nghiền nát các xã hội địa phương, mà thay vào đó là cân bằng và bình định họ thông qua các thủ tục quản trị mới[62][63] cùng giới tinh hoa cầm quyền vốn có đặc điểm đa dạng và bao dung,[64] tạo ra một nền cai trị có hệ thống hơn, tập trung hóa và thống nhất.[65] Nhằm tránh xiềng xích bộ lạc và bản sắc Hồi giáo, đặc biệt là dưới thời Akbar, người Mogul đoàn kết đế chế rộng lớn của họ thông qua lòng trung thành đối với một hoàng đế có địa vị gần như thần thánh, biểu đạt một nền văn hóa Ba Tư hóa.[64] Các chính sách kinh tế quốc gia của Mogul, vốn có phần lớn nguồn thu đến từ nông nghiệp[66] và yêu cầu các khoản thuế phải trả theo tiền bạc được quản lý chặt,[67] khiến cho các nông dân và thợ thủ công tiến vào những thị trường lớn hơn.[65] Đế quốc giữ được tình hình tương đối hòa bình trong phần lớn thế kỷ 17, và đây là một yếu tố giúp mở rộng kinh tế Ấn Độ,[65] kết quả là sự bảo trợ lớn hơn đối với hội họa, các loại hình văn chương, dệt, và kiến trúc.[68] Các nhóm xã hội mới kết hợp tại bắc bộ và tây bộ Ấn Độ, như Maratha, Rajput, và Sikh, giành được tham vọng về quân sự và quản trị dưới chế độ Mogul, và thông qua cộng tác hoặc tai họa, họ thu được cả sự công nhận và kinh nghiệm quân sự.[69] Sự mở rộng thương mại dưới chế độ Mogul giúp cho giới tinh hoa thương mại và chính trị Ấn Độ mới dọc theo các bờ biển nam bộ và đông bộ nổi bật lên.[69] Khi đế quốc tan rã, nhiều người trong giới tinh hoa này có thể theo đuổi và kiểm soát được công việc của họ.[70]
Đầu thế kỷ 18, khi mà ranh giới giữa thống trị thương mại và chính trị ngày càng bị lu mờ, một số công ty mậu dịch phương Tây, bao gồm Công ty Đông Ấn Anh, thiết lập nên các tiền đồn ven biển.[71][72] Công ty Đông Ấn Anh có quyền kiểm soát đối với các vùng biển, tiềm lực lớn hơn, có khả năng huấn luyện quân sự cùng công nghệ tiến bộ hơn, do vậy thu hút một bộ phận giới tinh hoa Ấn Độ. Nhờ đó, Công ty Đông Ấn Anh gặp thuận lợi trong việc giành quyền kiểm soát đối với vùng Bengal vào năm 1765 và gạt các công ty châu Âu khác ra ngoài lề.[73][71][74][75] Công ty Đông Ấn Anh tiếp tục tiếp cận được sự giàu có của Bengal, và sau khi tăng cường sức mạng và quy mô quân đội thì Công ty có năng lực thôn tính hoặc khuất phục hầu hết Ấn Độ vào thập niên 1820.[76] Ấn Độ sau đó không còn là nhà xuất khẩu hàng hóa chế tạo như một thời gian dài trước đó, mà trở thành một nơi cung cấp nguyên liệu cho Đế quốc Anh, và nhiều sử gia xem đây là lúc thời kỳ thực dân tại Ấn Độ bắt đầu.[71] Đương thời, do quyền lực kinh tế bị Nghị viện Anh Quốc tước bỏ một cách nghiêm trọng và do bản thân trên thực tế là một cánh tay nối dài của chính phủ Anh Quốc, Công ty Đông Ấn Anh bắt đầu có ý thức hơn trong việc tiến vào các hoạt động phi kinh tế như giáo dục, cải cách xã hội, và văn hóa.[77]
Ấn Độ hiện đại
Các sử gia xem thời kỳ hiện đại của Ấn Độ bắt đầu từ giai đoạn 1848-1885. Việc bổ nhiệm James Broun-Ramsay làm Toàn quyền của Công ty Đông Ấn Anh vào năm 1848 chuẩn bị cho những thay đổi cốt yếu đối với một quốc gia hiện đại. Chúng bao gồm củng cố và phân ranh giới chủ quyền, sự giám sát của người dân, và giáo dục cho công dân. Các biến đổi về công nghệ như đường sắt, kênh đào, và điện báo được đưa đến Ấn Độ không lâu sau khi chúng được giới thiệu tại châu Âu.[78][79][80][81] Tuy nhiên, sự bất mãn đối với Công ty cũng tăng lên trong thời kỳ này, và Khởi nghĩa Ấn Độ 1857 bùng nổ. Cuộc khởi nghĩa bắt nguồn từ những oán giận và nhận thức đa dạng, bao gồm cải cách xã hội kiểu Anh, thuế đất khắc nghiệt, và đối đãi tồi của một số địa chủ giàu có và phiên vương, nó làm rung chuyển nhiều khu vực ở bắc bộ và trung bộ Ấn Độ và làm lung lay nền móng của Công ty Đông Ấn Anh.[82][83] Mặc dù cuộc khởi nghĩa bị đàn áp vào năm 1858, song nó khiến cho Công ty Đông Ấn Anh giải thể và chính phủ Anh Quốc từ đó trực tiếp quản lý Ấn Độ. Những người cai trị mới công bố một nhà nước nhất thể và một hệ thống nghị viện từng bước theo kiểu Anh song có hạn chế, nhưng họ cũng bảo hộ các phó vương và quý tộc địa chủ nhằm tạo ra một thế lực hộ vệ phong kiến để chống lại bất ổn trong tương lai.[84][85] Trong các thập niên sau đó, hoạt động quần chúng dần nổi lên trên khắp Ấn Độ, cuối cùng dẫn đến việc thành lập Đảng Quốc đại Ấn Độ vào năm 1885.[86][87][88][89]
Sự phát triển nhanh chóng của kỹ thuật cùng với thương mại hóa nông nghiệp trong nửa sau thế kỷ 19 gây nên các khó khăn kinh tế: nhiều nông dân nhỏ trở nên phụ thuộc vào các nhu cầu của các thị trường xa xôi.[90] Số lượng nạn đói quy mô lớn gia tăng,[91] và có ít công việc công nghiệp được trao cho người Ấn Độ.[92] Tuy nhiên, nó cũng có những tác động tích cực: trồng trọt mang tính thương mại, đặc biệt là ở vùng Punjab mới được khơi kênh, khiến sản lượng lương thực dành cho tiêu dùng nội địa gia tăng.[93] Hệ thống đường sắt giúp cung cấp đồ cứu tế đến những nơi bị nạn đói nguy cấp,[94] giảm đáng kể chi phí vận chuyển hàng hóa,[94] và giúp ích cho ngành công nghiệp non trẻ của Ấn Độ.[93] Có khoảng một triệu người Ấn Độ phục vụ cho Anh Quốc trong Chiến tranh thế giới thứ nhất,[95] và sau cuộc chiến này là một thời kỳ mới. Thời kỳ này mang dấu ấn với các cải cách của Anh Quốc song cũng có các áp chế về luật pháp, với việc người Ấn Độ mãnh liệt hơn trong việc yêu cầu quyền tự trị, và với việc bắt đầu một phong trào bất bạo động bất hợp tác – trong đó Mohandas Karamchand Gandhi trở thành lãnh tụ và biểu tượng.[96] Trong thập niên 1930, Anh Quốc ban hành các cải cách lập pháp một cách chậm chạp; Đảng Quốc đại Ấn Độ giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử.[97] Thập niên tiếp theo chìm trong các cuộc khủng hoảng: Ấn Độ tham gia vào Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng Quốc đại kiên quyết bất hợp tác, và một đợt bột phát chủ nghĩa dân tộc Hồi giáo. Tất cả đều bị ngăn lại với việc Ấn Độ giành được độc lập vào năm 1947, song bị kiềm chế do thuộc địa này phân chia thành hai quốc gia: Ấn Độ và Pakistan.[98]
Để khẳng định hình ảnh là một quốc gia độc lập, hiến pháp Ấn Độ được hoàn thành vào năm 1950, xác định Ấn Độ là một nền cộng hòa thế tục và dân chủ.[99] Trong 60 năm kể từ đó, Ấn Độ trải qua cả những thành công và thất bại.[100] Đất nước này vẫn duy trì một chế độ dân chủ với các quyền tự do dân sự, một Tòa án tối cao hoạt động tích cực, và một nền báo chí độc lập ở mức độ lớn.[100] Tự do hóa kinh tế bắt đầu từ thập niên 1990, và tạo ra một tầng lớp trung lưu thành thị có quy mô lớn, biến Ấn Độ thành một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới,[101] và tăng cường ảnh hưởng địa chính trị của mình. Phim, âm nhạc, và giảng đạo của Ấn Độ đóng một vai trò ngày càng lớn trong văn hóa toàn cầu.[100] Tuy nhiên, Ấn Độ phải đương đầu với các vấn đề như nghèo nàn ở cả thành thị lẫn nông thôn;[100] từ xung đột liên quan đến tôn giáo và đẳng cấp;[102] từ quân nổi dậy Naxalite được truyền cảm hứng từ tư tưởng Mao Trạch Đông;[103] từ chủ nghĩa ly khai tại Jammu và Kashmir và tại Đông Bắc.[104] Có tranh chấp lãnh thổ chưa được giải quyết với Trung Quốc, từng leo thang thành Chiến tranh Trung-Ấn vào năm 1962;[105] và các cuộc chiến tranh biên giới với Pakistan bùng phát vào các năm 1947, 1965, 1971, và 1999.[105] Sự đối đầu hạt nhân Ấn Độ–Pakistan lên đến đỉnh vào năm 1998.[106]
Địa lý
Ấn Độ bao trùm phần lớn tiểu lục địa Ấn Độ và nằm trên đỉnh của mảng kiến tạo Ấn Độ– một phần của mảng Ấn-Úc.[107] Các quá trình địa chất học xác định được của Ấn Độ bắt đầu từ 75 triệu năm trước, khi đó tiểu lục địa Ấn Độ một bộ phận của siêu lục địa phương nam Gondwana và bắt đầu trôi giạt về phía đông-bắc qua Ấn Độ Dương (khi đó còn chưa thành hình) kéo dài trong 50 triệu năm.[107] tiểu lục địa sau đó va chạm và hút chìm bên dưới mảng Á-Âu đẩy lên cao dãy Himalaya có độ cao lớn nhất hành tinh. Dãy Himalaya hiện tiếp giáp với Ấn Độ ở phía Bắc và Đông-Bắc.[107] Tại đáy biển cũ nằm ngay phía nam dãy Himalaya, kiến tạo mảng hình thành nên một máng rộng lớn để rồi dần bị trầm tích từ sông bồi lấp;[108] hình thành nên đồng bằng Ấn-Hằng hiện nay.[109] Ở phía tây có hoang mạc Thar, dãy núi cổ Aravalli chia cắt hoang mạc này với đồng bằng Ấn-Hằng.[110]
Mảng Ấn Độ gốc còn lại hiện là phần Ấn Độ bán đảo, đây là phần cổ nhất và có địa chất ổn định nhất của Ấn Độ; viễn bắc của phần này là các dãy Satpura và Vindhya tại trung bộ Ấn Độ. Hai dãy song song này chạy từ bờ biển Ả Rập thuộc bang Gujarat ở phía tây đến cao nguyên Chota Nagpur có nhiều than thuộc bang Jharkhand ở phía đông.[111] Ở phía nam, ở hai bên sườn tây và đông của cao nguyên Deccan là các dãy núi ven biển được gọi là Ghat Tây và Ghat Đông;[112] cao nguyên có các thành hệ đá cổ nhất của quốc gia, một vài trong số đó có trên 1 tỷ năm tuổi. Ấn Độ nằm ở bắc Xích đạo, từ 6°44′ đến 35°30′ vĩ Bắc (37°6′ nếu tính cả vùng tuyên bố chủ quyền tại Kashmir) và từ 68°7′ đến 97°25′ kinh Đông.[113]
Ấn Độ có đường bờ biển dài 7.517 kilômét (4.700 mi); trong đó, 5.423 kilômét (3.400 mi) thuộc Ấn Độ bán đảo và 2.094 kilômét (1.300 mi) thuộc các dãy đảo Andaman, Nicobar, và Lakshadweep.[114] Theo biểu đồ thủy văn học của Hải quân Ấn Độ, bờ biển lục địa của quốc gia gồm: 43% là bãi biển cát; 11% là bờ đá, gồm cả vách đá; và 46% là bãi bùn hay bãi lầy.[114]
Các sông lớn bắt nguồn từ dãy Himalaya về căn bản chảy qua lãnh thổ Ấn Độ gồm có sông Hằng và Brahmaputra, cả hai đều đổ nước vào vịnh Bengal.[115] Các chi lưu quan trọng của sông Hằng bao gồm Yamuna và Kosi; độ dốc quá nhỏ của sông Kosi thường dẫn đến các trận lụt nghiêm trọng và thay đổi dòng chảy.[116] Các sông chính ở phần bán đảo có độ dốc lớn hơn nên giúp ngăn ngừa nạn lụt, gồm có Godavari, Mahanadi, Kaveri, và Krishna, chúng đều đổ nước vào vịnh Bengal;[117] trong khi Narmada và Tapti đổ nước vào biển Ả Rập.[118] Các địa điểm đặc biệt của vùng ven biển Ấn Độ là đồng lầy nước mặn Kutch ở tây bộ Ấn Độ và đồng bằng phù sa Sundarbans (chia sẻ với Bangladesh) ở đông bộ Ấn Độ.[119] Ấn Độ có hai quần đảo lớn: Lakshadweep, gồm các đảo san hô vòng ở ngoài khơi bờ biển tây-nam Ấn Độ; còn Quần đảo Andaman và Nicobar là một dãy núi lửa trên biển Andaman.[120]
Khí hậu Ấn Độ chịu ảnh hưởng mạnh từ dãy Himalaya và hoang mạc Thar, các cơn gió mùa vào mùa hè và mùa đông có sự tác động từ hai nơi này và mang ý nghĩa quan trọng về kinh tế và văn hóa.[121] Himalaya ngăn gió hạ giáng lạnh từ Trung Á thổi xuống, giữ cho phần lớn tiểu lục địa Ấn Độ ấm hơn so với những nơi khác cùng vĩ độ.[122][123] Hoang mạc Thar đóng một vai trò quyết định trong việc hút gió mùa mùa hè tây-nam chứa nhiều hơi ẩm từ tháng 6 đến tháng 10, cung cấp phần lớn lượng mưa của Ấn Độ.[121] Bốn nhóm khí hậu lớn chi phối tại Ấn Độ: nhiệt đớt mưa, nhiệt đới khô, cận nhiệt đới ẩm, núi cao.[124]
Môi trường
Tại Ấn Độ, các vấn đề chủ yếu về môi trường bao gồm suy thoái rừng và suy thoái đất nông nghiệp; cạn kệt tài nguyên nước, khoáng sản, rừng, cát và đá; suy thoái môi trường; các vấn đề về y tế công; mất đa dạng sinh học; các hệ sinh thái mất khả năng phục hồi và an ninh sinh kế cho người nghèo.[125] Tuy nhiên, theo các dữ liêu thu thập được và nghiên cứu tác động môi trường của các chuyên gia Ngân hàng Thế giới, từ năm 1995 đến năm 2010, Ấn Độ là một trong những nước có sự tiến bộ nhanh nhất thế giới trong việc giải quyết các vấn đề môi trường và cải thiện chất lượng môi trường.[126][127]
Đa dạng sinh học
Ấn Độ nằm trong vùng sinh thái Indomalaya và gồm có ba điểm nóng đa dạng sinh học.[128] Ấn Độ là một trong 17 quốc gia đa dạng sinh vật siêu cấp, có 8,6% tổng số loài thú, 13,7% tổng số loài chim, 7,9% tổng số loài bò sát, 6% tổng số loài lưỡng cư, 12,2% tổng số loài cá, và 6,0% tổng số loài thực vật có hoa.[129][130] Ấn Độ có nhiều loài đặc hữu, chiếm tỷ lệ 33%, và nằm tại các vùng sinh thái như rừng shola.[131] Môi trường sống trải dài từ rừng mưa nhiệt đới của quần đảo Andaman, Ghat Tây, và Đông Bắc đến rừng tùng bách trên dãy Himalaya. Giữa chúng là rừng sala sớm rụng ẩm ở đông bộ Ấn Độ; rừng tếch sớm rụng khô ở trung bộ và nam bộ Ấn Độ; và rừng gai do keo Ả Rập thống trị nằm ở trung bộ Deccan và tây bộ đồng bằng sông Hằng.[132] Dưới 12% đất đai của Ấn Độ có rừng rậm bao phủ.[133] Sầu đâu là một loài cây quan trọng tại Ấn Độ, được sử dụng rộng rãi trong thảo dược nông thôn Ấn Độ. Cây đề xuất hiện trên các ấn ở di chỉ Mohenjo-daro, Đức Phật giác ngộ dưới gốc của loài cây này.
Nhiều loài tại Ấn Độ bắt nguồn từ các taxon có nguồn gốc từ Gondwana- nơi mà mảng Ấn Độ tách ra từ hơn 106 triệu năm trước.[134] Ấn Độ bán đảo sau đó di chuyển đến và va chạm với siêu lục địa Laurasia và khởi đầu sự trao đổi loài trên quy mô lớn. Việc khởi đầu kỷ nguyên núi lửa và thay đổi khí hậu vào 20 triệu năm trước dẫn đến tuyệt chủng hàng loạt.[135] Các loài thú sau đó tiến vào Ấn Độ từ châu Á thông qua hai hành lang động vật địa lý học đi vòng qua sườn dãy Himalaya đang nổi lên.[132] Do đó, trong khi 45,8% số loài bò sát và 55,8% số loài lưỡng cư là đặc hữu, thì chỉ có 12,6% số loài thú và 4,5% số loài chim là đặc hữu.[130] Ấn Độ có 172 loài động vật bị đe dọa theo chỉ định của IUCN, hay 2,9% số loài gặp nguy hiểm.[136]
Việc loài người tràn ngập và tàn phá sinh thái trong những thập niên gần dây khiến các loài hoang dã gặp nguy hiểm cực kỳ lớn. Hệ thống các vườn quốc gia và khu bảo tồn khởi đầu từ năm 1935, và sau đó được mở rộng về căn bản. Năm 1972, Ấn Độ ban hành Luật bảo vệ loài hoang dã[137] và Dự án Hổ để bảo vệ những vùng hoang vu cốt yếu; Đạo luật Bảo tồn rừng được ban hành vào năm 1980 và sửa đổi bổ sung vào năm 1988.[138] Ấn Độ có hơn 500 khu bảo tồn loài hoang dã và 13 khu dự trữ sinh quyển,[139] bốn trong số đó là một phần của Hệ thống khu dự trữ sinh quyển thế giới; 25 khu đất ngập nước được đăng ký nằm dưới Công ước Ramsar.[140]
Chính trị
Ấn Độ được xem là nền dân chủ đông dân nhất trên thế giới.[141] Đây là một nước cộng hòa nghị viện với một hệ thống đa đảng,[142] có sáu chính đảng cấp quốc gia được công nhận, bao gồm Đảng Quốc đại Ấn Độ và Đảng Bharatiya Janata (Đảng Nhân dân Ấn Độ), và trên 40 chính đảng cấp địa phương.[143] Đảng Quốc đại được nhận định là có tư tưởng trung-tả hay là “tự do” trong văn hóa chính trị Ấn Độ, còn Đảng Bharatiya Janata có tư tưởng trung-hữu hay là “bảo thủ”. Trong hầu hết giai đoạn từ 1950 — tức khi Ấn Độ lần đầu tiên trở thành một nước cộng hòa — đến cuối thập niên 1980, Đảng Quốc đại nắm giữ đa số ghế trong Quốc hội. Tuy nhiên, kể từ đó, Đảng Quốc đại ngày càng chia sẻ nhiều hơn vũ đài chính trị với Đảng Bharatiya Janata,[144] cũng như với các chính đảng cấp địa phương mạnh khác trong các một liên minh đa đảng.[145]
Trong ba cuộc tổng tuyển cử đầu tiên tại nước Cộng hòa Ấn Độ, tức vào các năm 1951, 1957, và 1962, Đảng Quốc đại do Jawaharlal Nehru lãnh đạo đã dễ dàng giành chiến thắng. Khi Jawaharlal Nehru qua đời vào năm 1964, Lal Bahadur Shastri trở thành thủ tướng trong một thời gian ngắn; người kế vị sau khi Lal Bahadur Shastri qua đời năm 1966 là Indira Gandhi, người này lãnh đạo Đảng Quốc đại giành chiến thắng trong cuộc bầu cử năm 1967 và 1971. Sau khi quần chúng bất mãn vì tình trạng khẩn cấp mà bà tuyên bố vào năm 1975, Đảng Quốc đại thất cử vào năm 1977; đa số cử tri khi đó bỏ phiếu cho Đảng Janata mới thành lập và phản đối tình trạng khẩn cấp. Chính phủ của Đảng Janata kéo dài hơn ba năm. Đảng Quốc đại lại được bầu lên nắm quyền vào năm 1980, và trải qua thay đổi trong hàng ngũ lãnh đạo vào năm 1984 khi Indira Gandhi bị ám sát; kế nhiệm bà là người con trai Rajiv Gandhi, người này dễ dàng giành chiến thắng trong cuộc tổng tuyển cử cùng năm đó. Đảng Quốc đại lại thất cử vào năm 1989 trước một liên minh Mặt trận Quốc gia, lãnh đạo liên minh này là Đảng Janata Dal mới thành lập và liên minh với Mặt trận Cánh tả; chính phủ của liên minh này tồn tại chưa đầy hai năm.[146] Các cuộc bầu cử lại được tổ chức vào năm 1991; lần này không đảng nào giành được đa số tuyệt đối. Tuy nhiên, Đảng Quốc đại có thể thành lập nên một chính phủ thiểu số do P. V. Narasimha Rao lãnh đạo với địa vị là đảng đơn lẻ lớn nhất.[147]
Sau cuộc tổng tuyển cử năm 1996 là hai năm bất ổn chính trị, một vài liên minh đoản mệnh chia sẻ quyền lực. Đảng Bharatiya Janata lập nên một chính phủ tồn tại một thời gian ngắn trong năm 1996; sau đó là hai chính phủ do liên minh Mặt trận Thống nhất thành lập. Năm 1998, Đảng Bharatiya Janata có thể thành lập nên một liên minh thắng lợi là Liên minh Dân chủ Quốc gia do Atal Bihari Vajpayee lãnh đạo. Chính phủ Liên minh Dân chủ Quốc gia trở thành chính phủ phi Quốc đại, chính phủ liên minh đầu tiên hoàn tất nhiệm kỳ 5 năm.[148] Trong cuộc tổng tuyển cử năm 2004, một lần nữa không có đảng nào giành đa số tuyệt đối, song lần này Đảng Quốc đại nổi lên với địa vị là đảng đơn lẻ lớn nhất, họ thành lập một liên minh thắng lợi là Liên minh Cấp tiến Quốc gia (UPA). Liên minh nhận được sự ủng hộ của các đảng tả khuynh và các thành viên quốc hội phản đối Đảng Bharatiya Janata. Liên minh Cấp tiến Quốc gia trở lại nắm quyền sau cuộc tổng tuyển cử năm 2009 với số ghế cao hơn, và không còn cần phải có sự ủng hộ từ các đảng cộng sản tại Ấn Độ.[149] Năm đó, Manmohan Singh trở thành thủ tướng đầu tiên được tái cử cho một nhiệm kỳ 5 năm liên tiếp kể từ thời Jawaharlal Nehru.[150] Trong tổng tuyển cử năm 2014, đảng Bharatiya Janata trở thành chính đảng đầu tiên kể từ năm 1984 giành được đa số ghế và có thể cầm quyền mà không cần sự ủng hộ từ các chính đảng khác.[151]
Chính phủ
Ấn Độ là một liên bang với một hệ thống nghị viện nằm dưới sự khống chế của Hiến pháp Ấn Độ. Đây là một nước cộng hòa lập hiến với chế độ dân chủ đại nghị, trong đó “quyền lực đa số bị kiềm chế bởi các quyền thiểu số được bảo vệ theo pháp luật”. Chế độ liên bang tại Ấn Độ xác định rõ sự phân chia quyền lực giữa chính phủ liên bang và các bang. Chính phủ tuân theo sự kiểm tra và cân bằng của Hiến pháp. Hiến pháp Ấn Độ có hiệu lực vào ngày 26 tháng 1 năm 1950,[152] trong lời mở đầu của nó có viết rằng Ấn Độ là một nước cộng hòa có chủ quyền, xã hội, thế tục, dân chủ.[153] Mô hình chính phủ của Ấn Độ theo truyền thống được mô tả là “bán liên bang” do trung ương mạnh và các bang yếu,[154] song kể từ cuối thập niên 1990 thì Ấn Độ đã phát triển tính liên bang hơn nữa do kết quả của các thay đổi về chính trị, kinh tế và xã hội.[155][156]
Quốc kỳ | Tam sắc |
Quốc huy | Sư kinh Sarnath |
Quốc ca | Jana Gana Mana |
Bài hát | Vande Mataram |
Quốc lịch | Saka |
Quốc hí | không tuyên bố[157] |
Quốc hoa | sen hồng |
Quốc quả | xoài |
Quốc thụ | đa |
Quốc điểu | công Ấn Độ |
Động vật lục địa | hổ Bengal |
Động vật thủy sinh | cá heo sông |
Quốc hà | Hằng (Ganga) |
Chính phủ liên bang gồm ba nhánh:
- Hành pháp: Tổng thống Ấn Độ là nguyên thủ quốc gia[158] và được một đại cử tri đoàn quốc gia bầu gián tiếp[159] với một nhiệm kỷ 5 năm.[160] Thủ tướng Ấn Độ đứng đầu chính phủ và thi hành hầu hết quyền lực hành pháp.[161] Thủ tướng do tổng thống bổ nhiệm,[162] và theo quy ước là người được chính đảng hoặc liên minh đảng phải nắm giữ đa số ghế trong hạ viện ủng hộ.[161] Nhánh hành pháp của chính phủ Ấn Độ gồm có tổng thống, phó tổng thống, và Hội đồng Bộ trưởng do thủ tướng đứng đầu. Người được bổ nhiệm làm bộ trưởng phải là một thành viên trong các viện của quốc hội.[158] Trong hệ thống quốc hội Ấn Độ, hành pháp lệ thuộc lập pháp; thủ tướng và hội đồng Bộ trưởng chịu trách nhiệm trực tiếp trước hạ viện của quốc hội.[163]
- Lập pháp: Cơ quan lập pháp của Ấn Độ là lưỡng viện quốc hội. Quốc hội Ấn Độ hoạt động theo một hệ thống kiểu Westminster và gồm có thượng viện được gọi là Rajya Sabha (“Hội đồng các bang”) và hạ viện được gọi là Lok Sabha (“Viện Nhân dân”).[164] Rajya Sabha là một thể chế thường trực gồm có 245 thành viên phục vụ trong nhiệm kỳ 6 năm được đặt so le.[165] Hầu hết họ được bầu gián tiếp từ các cơ quan lập pháp bang và lãnh thổ và số lượng tương ứng với tỷ lệ dân số của bang so với dân số quốc gia.[162] 543 thành viên của Lok Sabha được bầu trực tiếp theo thể chế phổ thông đầu phiếu; họ đại diện cho các khu vực bầu cử riêng rẽ trong nhiệm kỳ 5 năm.[166] Hai thành viên còn lại của Lok Sabha do tổng thống chỉ định từ cộng đồng người Anh-Ấn, trong trường hợp tổng thống quyết định rằng cộng đồng này không được đại diện tương xứng.[167]
- Tư pháp: Ấn Độ có bộ máy tư pháp độc lập gồm ba cấp nhất thể,[168] gồm: Tòa án Tối cao do Chánh án đứng đầu, 25 tòa thượng thẩm, và một lượng lớn tòa án sơ thẩm.[168] Toà án Tối cao có thẩm quyền ban đầu đối với các vụ án liên quan đến các quyền cơ bản và tranh chấp giữa các bang và Trung ương; nó có quyền chống án đối với các tòa án thượng thẩm.[169] Nó có quyền công bố luật và vô hiệu hóa các luật liên bang hay bang mà trái với hiến pháp.[170] Tòa án Tối cao cũng là cơ quan diễn giải cuối cùng của hiến pháp.[171]
Phân vùng
Ấn Độ là một liên bang gồm 29 bang và 7 lãnh thổ liên bang.[172] Toàn bộ các bang, cùng các lãnh thổ liên bang Puducherry và Delhi, bầu nên cơ quan lập pháp và chính phủ theo hệ thống Westminster. Năm lãnh thổ liên bang còn lại do Trung ương quản lý trực tiếp thông qua các quản trị viên được bổ nhiệm. Năm 1956, dựa theo Luật Tái tổ chức các bang, các bang của Ấn Độ được tái tổ chức dựa trên cơ sở ngôn ngữ.[173] Kể từ đó, cấu trúc các bang phần lớn vẫn không thay đổi. Mỗi bang hay lãnh thổ liên bang được chia thành các huyện. Các huyện chia tiếp thành các tehsil và cuối cùng là các làng.
Các bang
Lãnh thổ liên bang
Quan hệ ngoại giao và quân sự
Kể từ khi độc lập vào năm 1947, Ấn Độ duy trì các quan hệ thân mật với hầu hết các quốc gia. Trong thập niên 1950, Ấn Độ ủng hộ mạnh mẽ quá trình phi thực dân hóa tại châu Phi và châu Á, đóng một vai trò lãnh đạo trong Phong trào Không liên kết.[174] Vào cuối thập niên 1980, quân đội Ấn Độ can thiệp ra nước ngoài theo lời mời của các quốc gia láng giềng: một hoạt động gìn giữ hòa bình tại Sri Lanka từ năm 1987 đếm năm 1990; và một cuộc can thiệp vũ trang để ngăn chặn một nỗ lực đảo chính tại Maldives. Ấn Độ có các mối quan hệ căng thẳng với Pakistan; hai quốc gia từng bốn lần tiến tới chiến tranh vào các năm 1947, 1965, 1971 và 1999. Ba trong số bốn cuộc chiến diễn ra trên lãnh thổ tranh chấp Kashmir, còn cuộc chiến năm 1971 diễn ra sau khi Ấn Độ ủng hộ nền độc lập cho Bangladesh.[175] Sau khi tiến hành chiến tranh với Trung Quốc vào năm 1962 và với Pakistan vào năm 1965, Ấn Độ theo đuổi các mối quan hệ quân sự và kinh tế gần gũi với Liên Xô; Liên Xô là nước cung ứng vũ khí lớn nhất cho Ấn Độ vào cuối thập niên 1960.[176]
Ngoài việc tiếp tục mối quan hệ chiến lược với Nga, Ấn Độ có quan hệ quân sự ở phạm vi rộng với Israel và Pháp. Trong những năm gần đây, quốc gia này đóng vai trò then chốt trong Hiệp hội Nam Á vì sự Hợp tác Khu vực và Tổ chức Thương mại Thế giới. Ấn Độ cung cấp 100.000 nhân viên quân sự và cảnh sát để phục vụ trong 35 hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc. Ấn Độ tham gia vào Hội nghị cấp cao Đông Á, G8+5, và nhiều diễn đàn đa phương khác.[177] Ấn Độ có các mối quan hệ kinh tế gần gũi với các khu vực Nam Mỹ, châu Á, và châu Phi; theo đuổi một chính sách “Hướng Đông” mà theo đó mưu cầu tăng cường quan hệ đối tác với các quốc gia ASEAN, Nhật Bản, và Hàn Quốc xoay quanh nhiều vấn đề, song đặc biệt là các vấn đề liên quan đến đầu tư kinh tế và an ninh khu vực.[178][179]
Sau khi Trung Quốc tiến hành vụ thử nghiệm hạt nhân vào năm 1964, và liên tục hăm dọa can thiệp hỗ trợ Pakistan trong cuộc chiến năm 1965, Ấn Độ tin rằng cần phải phát triển vũ khí hạt nhân.[180] Ấn Độ tiến hành vụ thử nghiệm vũ khí hạt nhân đầu tiên của mình vào năm 1974 và tiếp tục tiến hành vụ thử nghiệm dưới lòng đất vào năm 1998. Bất chấp các chỉ trích và trừng phạt quân sự, Ấn Độ không ký kết cả Hiệp ước cấm thử hạt nhân toàn diện và Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân, cho rằng chúng thiếu sót và phân biệt đối xử.[181] Ấn Độ duy trì chính sách hạt nhân “không sử dụng trước tiên” và phát triển năng lực bộ ba hạt nhân như một phần của học thuyết “răn đe tối thiểu đáng tin cậy” của mình.[182][183] Ấn Độ phát triển một hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo, và hợp tác với Nga nhằm phát triển một loại máy bay chiến đấu thế hệ thứ năm.[184] Các dự án quân sự bản địa khác liên quan đến việc thiết kế và bổ sung hàng không mẫu hạm lớp Vikrant và tàu ngầm hạt nhân lớp Arihant.[184]
Sau khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, Ấn Độ tăng cường hợp tác về kinh tế, chiến lược và quân sự với Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu.[185] Năm 2008, Hoa Kỳ và Ấn Độ ký kết một thỏa thuận hạt nhân dân sự. Mặc dù đương thời Ấn Độ là quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân và không phải là một bên của Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân, song quốc gia này nhận được miễn trừ từ Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế và Nhóm các nhà cung cấp hạt nhân, Ấn Độ do vậy thoát khỏi các hạn chế trước đây đối với công nghệ và thương mại hạt nhân. Như một hệ quả, Ấn Độ trở thành quốc gia thứ sáu sở hữu vũ khí hạt nhân trên thực tế.[186] Ấn Độ sau đó ký kết các thỏa thuận hợp tác liên quan đến năng lượng hạt nhân dân sự với Nga,[187] Pháp,[188] Anh Quốc,[189] và Canada.[190]
Tổng thống Ấn Độ là thống soái tối cao của lực lượng vũ trang quốc gia; với 1,6 triệu quân tại ngũ và xếp thứ ba thế giới trên tiêu chí này.[191] Quân đội Ấn Độ gồm có lục quân, hải quân, và không quân; các tổ chức phụ trợ gồm có Bộ tư lệnh chiến lược (Strategic Forces Command) và ba nhóm bán quân sự: Đội quân súng trường Assam, Lực lượng biên cảnh đặc chủng, và Lực lượng bảo vệ bờ biển Ấn Độ.[192] Ngân sách quốc phòng chính thức của Ấn Độ vào năm 2011 là 36,03 tỷ đô la Mỹ, chiếm 1,83% GDP.[193] Đối với năm tài chính 2012–2013, ngân sách dự thảo là 40,44 tỷ đô la Mỹ.[194] Theo một báo cáo của SIPRI năm 2008, phí tổn quân sự hàng năm của Ấn Độ dựa theo sức mua đứng ở mức 72,7 tỷ đô la Mỹ,[195] Năm 2011, ngân sách quốc phòng hàng năm tăng 11,6%,[196] song đây chưa bao gồm các ngân quỹ đến với quân đội thông qua các nhánh khác của chính phủ.[197] Năm 2012, Ấn Độ là nước nhập khẩu vũ khí lớn nhất thế giới; từ năm 2007 đến năm 2011, tiền mua vũ khí của Ấn Độ chiếm 10% tổng phí tổn dành cho mua sắm vũ khí quốc tế.[198] Phần lớn chi tiêu quân sự tập trung vào phòng thủ chống Pakistan và chống lại ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Trung Quốc tại Ấn Độ Dương.[196]
Kinh tế
Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế, năm 2013, nền kinh tế Ấn Độ có GDP danh nghĩa là 1.758 tỷ đô la Mỹ; và có GDP theo sức mua tương đương là 4.962 tỷ đô la Mỹ.[5] Ấn Độ có tốc độ tăng trưởng GDP trung bình đạt 5,8% mỗi năm trong hai thập niên qua, và đạt mức 6,1% trong giai đoạn 2011–12,[199] Ấn Độ là một trong các nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới.[200] Tuy nhiên, Ấn Độ đều xếp hạng trên 100 thế giới về GDP danh nghĩa bình quân đầu người và GDP PPP bình quân đầu người.[201] Cho đến năm 1991, tất cả các chính phủ Ấn Độ đều theo chính sách bảo hộ do chịu ảnh hưởng từ các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Sự can thiệp và sắp đặt của nhà nước là phổ biến, tạo nên một bức tường lớn ngăn cách kinh tế Ấn Độ với thế giới bên ngoài. Một cuộc khủng hoảng sâu sắc về cán cân thanh toán vào năm 1991 buộc đất nước phải tự do hóa nền kinh tế;[202] kể từ đó Ấn Độ chuyển đổi chậm hướng về một hệ thống thị trường tự do[203] với việc nhấn mạnh cả ngoại thương và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.[204] Mô hình nền kinh tế Ấn Độ trong thời gian gần đây phần lớn là tư bản chủ nghĩa.[203] Ấn Độ trở thành một thành viên của WTO từ ngày 1 tháng 1 năm 1995.[205]
Ấn Độ có lực lượng lao động gồm 486,6 triệu người theo số liệu năm 2011.[192] Lĩnh vực dịch vụ chiếm 55,6% GDP, lĩnh vực công nghiệp chiếm 26,3% và lĩnh vực nông nghiệp chiếm 18,1%. Các nông sản chính của Ấn Độ là lúa gạo, lúa mì, hạt có dầu, bông, đay, chè, mía, và khoai tây.[172] Các ngành công nghiệp chính của Ấn Độ là dệt, viễn thông, hóa chất, dược phẩm, công nghệ sinh học, chế biến thực phẩm, thép, thiết bị vận tải, xi măng, khai mỏ, dầu mỏ, máy móc, và phần mềm.[172] Năm 2008, Ấn Độ chiếm 1,68% giá trị ngoại thương toàn cầu;[206] Năm 2011, Ấn Độ là nước nhập khẩu lớn thứ 10 và nước xuất khẩu lớn thứ 19 trên thế giới.[207] Các mặt hàng xuất khẩu chính của Ấn Độ bao gồm các sản phẩm dầu mỏ, hàng dệt may, đồ kim hoàn, phần mềm, sản phẩm công nghệ, hóa chất, và gia công đồ da thuộc.[172] Các mặt hàng nhập khẩu chính gồm dầu, máy móc, ngọc, đá quý, phân bón, và hóa chất.[172] Từ năm 2001 đến năm 2011, đóng góp của các mặt hàng hóa dầu và công nghệ vào giá trị xuất khẩu tăng từ 14% lên 42%.[208]
Mức lương theo giờ tại Ấn Độ tăng gấp đôi trong thập niên đầu của thế kỷ 21.[209] Khoảng 431 triệu người Ấn Độ thoát nghèo kể từ năm 1985; các tầng lớp trung lưu của Ấn Độ được dự tính sẽ đạt khoảng 580 triệu người vào năm 2030.[210]
Năm 2010, Ấn Độ xếp hạng 51 về năng lực cạnh tranh toàn cầu, xếp hạng 7 về trình độ phát triển của thị trường tài chính, xếp hạng 24 về lĩnh vực ngân hàng, xếp hạng 44 về trình độ phát triển trong kinh doanh và xếp thứ 39 về cách tân, đứng trước một số nền kinh tế tiến bộ.[211] Năm 2009, 7 trong số 15 công ty gia công phần mềm hàng đầu thế giới đặt tại Ấn Độ, do vậy đất nước này được nhìn nhận là nơi gia công phần mềm thuận lợi thứ hai sau Hoa Kỳ.[212] Thị trường tiêu dùng của Ấn Độ hiện lớn thứ 11 thế giới, và dự kiến sẽ lên vị trí thứ 5 vào năm 2030.[210] Đến cuối tháng 5 năm 2012, Ấn Độ có 960,9 triệu thuê bao điện thoại,[213] và sau quý đầu tiên của năm 2013, Ấn Độ vượt qua Nhật Bản để trở thành thị trường điện thoại thông minh lớn thứ ba trên thế giới sau Trung Quốc và Hoa Kỳ.[214]
Ngành công nghiệp ô tô của Ấn Độ tăng trưởng nhanh thứ hai thế giới, doanh số bán hàng nội địa tăng 26% trong giai đoạn 2009–10,[215] và doanh số xuất khẩu tăng 36% trong giai đoạn 2008–09.[216] Công suất điện năng của Ấn Độ là 250 GW, trong đó 8% là năng lượng tái tạo.[217] Đến cuối năm 2011, ngành công nghiệp công nghệ thông tin của Ấn Độ tạo việc làm cho 2,8 triệu chuyên viên, tạo ra doanh thu gần 100 tỷ đô la Mỹ, tức bằng 7,5% GDP của Ấn Độ và đóng góp 26% kim ngạch xuất khẩu của Ấn Độ.[218]
Ngành công nghiệp dược phẩm của Ấn Độ nằm trong số các thị trường mới nổi quan trọng của công nghiệp dược phẩm thế giới. Thị trường dược phẩm Ấn Độ dự kiến đạt doanh thu 48,58 tỷ đô la Mỹ vào năm 2020. Ấn Độ chiếm 60% thị phần ngành công nghiệp sinh dược phẩm.[219]
Mặc dù tăng trưởng kinh tế ấn tượng trong các thập niên gần đây, Ấn Độ tiếp tục phải đối mặt với các thách thức về kinh tế-xã hội. Ấn Độ là nơi có số lượng người nhiều nhất sống dưới chuẩn nghèo quốc tế (1,25 đô la Mỹ/ngày) của Ngân hàng Thế giới,[220] tỷ lệ này giảm từ 60% năm 1981 xuống 42% năm 2005.[221] 48% số trẻ em Ấn Độ dưới 5 tuổi bị thiếu cân, một nửa số trẻ em dưới năm tuổi bị suy dinh dưỡng mãn tính, và tại các bang Madhya Pradesh, Andhra Pradesh, Bihar, Chhattisgarh, Haryana, Jharkhand, Karnataka, và Uttar Pradesh, chiếm 50,04% dân số Ấn Độ, 70% số trẻ em từ 6 tháng đến 59 tháng bị thiếu máu.[222] Kể từ năm 1991, bất bình đẳng kinh tế giữa các bang của Ấn Độ liên tục phát triển: sản phẩm nội địa ròng bình quân đầu người cấp bang của các bang giàu nhất vào năm 2007 gấp 3,2 lần so với các bang nghèo nhất.[223] Tham nhũng tại Ấn Độ được cho là gia tăng đáng kể.[224] Nhờ tăng trưởng mà GDP danh nghĩa bình quân đầu người của Ấn Độ tăng lên nhanh chóng kể từ năm 1991, tuy nhiên nó luôn ở mức thấp hơn so với các quốc gia đang phát triển khác tại châu Á như Indonesia, Iran, Malaysia, Philippines, Sri Lanka, hay Thái Lan, và được dự báo sẽ vẫn tiếp tục như vậy trong tương lai gần.[225]
Nhân khẩu
Với dân số 1.210.193.422 người theo điều tra tạm thời năm 2011,[4] Ấn Độ là quốc gia đông dân thứ hai trên thế giới. Tốc độ tăng trưởng dân số của Ấn Độ giảm xuống còn trung bình 1,76% mỗi năm trong giai đoạn 2001–2011,[4] từ mức 2,13% mỗi năm trong thập niên trước (1991–2001).[226] Tỷ suất giới tính theo điều tra năm 2011 là 940 nữ trên 1.000 nam.[4] Tuổi bình quân của cư dân Ấn Độ là 24,9 theo điều tra năm 2001.[192] Trong cuộc điều tra dân số hậu thuộc địa đầu tiên, tiến hành vào năm 1951, Ấn Độ có 361,1 triệu người.[227] Các tiến bộ về y tế trong suốt 50 năm vừa qua cùng với năng suất nông nghiệp gia tăng (Cách mạng xanh) khiến dân số Ấn Độ gia tăng nhanh chóng.[228] Ấn Độ tiếp tục phải đối mặt với một số thách thức liên quan đến sức khỏe cộng đồng.[229] Theo Tổ chức Y tế thế giới, 900.000 người Ấn Độ tử vong mỗi năm do uống nước bị nhiễm bẩn hay hít khí bị ô nhiễm.[230] Có khoảng 50 bác sĩ trên 100.000 người Ấn Độ.[231] Số người Ấn Độ sinh sống tại thành thị tăng trưởng 31,2% từ 1991 đến 2001.[232] Tuy nhiên, theo số liệu năm 2001, có trên 70% cư dân Ấn Độ sinh sống tại các vùng nông thôn.[233][234] Theo điều tra dân số năm 2001, có 27 đô thị trên 1 triệu dân tại Ấn Độ;[232] trong đó Delhi, Mumbai, Kolkata, Chennai, Bangalore, Hyderabad, Ahmedabad, và Pune là các vùng đô thị đông dân nhất. Tỷ lệ biết chữ năm 2011 là 74,04%: 65,46% đối với nữ giới và 82,14% đối với nam giới.[4] Kerala là bang có tỷ lệ người biết chữ cao nhất;[235] còn bang Bihar có tỷ lệ người biết chữ thấp nhất.[236]
Ấn Độ là nơi có hai nhóm ngôn ngữ lớn: Ấn-Arya (74% cư dân nói) và Dravidia (24%). Các ngôn ngữ khác được nói tại Ấn Độ thuộc các ngữ hệ Nam Á và Tạng-Miến. Ấn Độ không có ngôn ngữ quốc gia.[237] Tiếng Hindi có số lượng người nói lớn nhất và là ngôn ngữ chính thức của chính phủ.[238][239] Tiếng Anh được sử dụng rộng rãi trong kinh doanh và hành chính và có địa vị “ngôn ngữ phó chính thức”;[240] và có vị thế quan trọng trong giáo dục, đặc biệt là trong môi trường giáo dục đại học. Mỗi bang và lãnh thổ liên bang có một hoặc nhiều hơn các ngôn ngữ chính thức, và hiến pháp công nhận cụ thể 21 “ngôn ngữ xác định” (scheduled languages). Hiến pháp công nhận 212 nhóm bộ lạc xác định, họ chiếm tỷ lệ 7,5% trong dân số quốc gia.[241] Điều tra dân số năm 2001 đưa ra số liệu là 800 triệu người Ấn Độ (80,5% tổng dân số) là tín đồ Ấn Độ giáo, Ấn Độ giáo do vậy là tôn giáo lớn nhất tại Ấn Độ, sau đó là Hồi giáo (13,4%), Ki tô giáo (2,3%), đạo Sikh (1,9%), Phật giáo (0,8%), đạo Jaina (0,4%), Do Thái giáo, Hỏa giáo, và Bahá’í.[242] Ấn Độ có số tín đồ Ấn Độ giáo, Sikh giáo, Jaina giáo, Hỏa giáo, Bahá’í giáo đông nhất thế giới, và có số tín đồ Hồi giáo lớn thứ ba thế giới, đồng thời là quốc gia có đông người Hồi giáo nhất trong số các quốc gia mà họ không chiếm đa số.[243][244]
Văn hóa
Lịch sử văn hóa Ấn Độ kéo dài hơn 4.500 năm.[245] Trong thời kỳ Vệ Đà (k. 1700 – 500 TCN), các nền tảng của triết học, thần thoại, văn học Ấn Độ giáo được hình thành, ngoài ra còn có sự hình thành của nhiều đức tin và thực hành vẫn tồn tại cho đến nay, chẳng hạn như Dharma, Karma, yoga, và moksha.[15] Ấn Độ có sự đa dạng về mặt tôn giáo, trong đó Ấn Độ giáo, Sikh giáo, Hồi giáo, Kitô giáo, và Jaina giáo nằm trong số các tôn giáo lớn của quốc gia.[246] Ấn Độ giáo là tôn giáo chiếm ưu thế, được định hình thông qua nhiều trường phái mang tính lịch sử về tư tưởng, bao gồm các tư tưởng trong Áo nghĩa thư,[247] kinh Yoga, phong trào Bhakti,[246] và từ triết học Phật giáo.[248]
Nghệ thuật và kiến trúc
Phần nhiều kiến trúc Ấn Độ, bao gồm Taj Mahal, các công trình theo kiến trúc Mogul, và kiến trúc Nam Ấn, là sự pha trộn giữa các truyền thống bản địa cổ xưa với các phong cách nhập ngoại.[249] Kiến trúc bản xứ cũng mang tính vùng miền cao. Học thuyết Vastu shastra dịch theo nghĩa đen là “khoa học xây dựng” hay “kiến trúc”, và được gán cho những người mang tước vị Mamuni Mayan,[250] khám phá xem các quy luật của thiên nhiên ảnh hưởng thế nào đến chỗ ở của con người;[251] nó sử dụng các điều chỉnh hình học và định hướng chính xác để phản ánh nhận thức về cấu trúc vũ trụ.[252] Khi áp dụng trong kiến trúc đền Ấn Độ giáo, nó chịu ảnh hưởng từ Shilpa Shastras, một loạt các văn bản mang tính nền tảng có hình dạng thần thoại học cơ bản là Vastu-Purusha mandala– một hình vuông là hiện thân của “tuyệt đối”.[253] Taj Mahal được xây dựng tại Agra từ năm 1631 đến năm 1648 theo lệnh của Hoàng đế Shah Jahan để tưởng nhớ hoàng hậu của ông, nó được liệt vào danh sách di sản thế giới của UNESCO với miêu tả “viên ngọc quý của nghệ thuật Hồi giáo tại Ấn Độ và một trong những kiệt tác được khắp nơi ca tụng thuộc về di sản thế giới.”[254] Từ các yếu tố của kiến trúc Ấn-Hồi, Anh Quốc phát triển thành kiến trúc Ấn-Saracen phục hưng vào cuối thế kỷ 19.[255]
Văn học
Các tác phẩm văn học sớm nhất tại Ấn Độ được biên soạn từ khoảng năm 1400 TCN đến 1200 TCN, chúng được viết bằng tiếng Phạn.[256][257] Các tác phẩm nổi bật trong nền văn học tiếng Phạn này bao gồm các sử thi như Mahabharata và Ramayana, các tác phẩm kịch của tác gia Kālidāsa như Abhijnanasakuntalam, và thơ ca như Mahakavya.[258][259][260] Cuốn sách nổi tiếng về quan hệ tình dục là Kama Sutra (Dục kinh) cũng được viết bằng tiếng Phạn. Văn học Sangam phát triển từ năm 600 TCN đến năm 300 TCN tại Nam Ấn Độ, bao gồm 2.381 bài thơ, được xem như một tiền thân của văn học Tamil.[261][262][263][264] Từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 18, các truyền thống văn học của Ấn Độ trải qua một giai đoạn thay đổi mạnh mẽ do sự xuất hiện của các thi nhân sùng đạo như Kabir, Tulsidas, và Guru Nanak. Điểm đặc trưng của văn học giai đoạn này là thể hiện một hình ảnh đa dạng và rộng lớn về tư tưởng và biểu lộ tình cảm; như một hệ quả, các tác phẩm văn học Ấn Độ trung đại có sự khác biệt đáng kể so với các tác phẩm truyền thống cổ điển.[265] Đến thế kỷ 19, các tác gia Ấn Độ đi theo mối quan tâm mới về các vấn đề xã hội và mô tả tâm lý. Trong thế kỷ 20, văn học Ấn Độ chịu ảnh hưởng từ các tác phẩm của thi nhân và tiểu thuyết gia người Bengal Rabindranath Tagore.[266]
Nghệ thuật biểu diễn
thumb|200px|left|Các vũ nữ biểu diễn vũ điệu truyền thống Bihu từ bang đông bắc bộ Assam Âm nhạc Ấn Độ có các phong cách truyền thống và khu vực khác biệt. Âm nhạc cổ điển gồm có hai thể loại và các nhánh dân gian khác nhau của chúng: trường phái Hindustan ở bắc bộ và Carnatic ở nam bộ.[267] Các loại hình phổ biến được địa phương hóa gồm filmi và âm nhạc dân gian: baul bắt nguồn từ Bengal với truyền thống hổ lốn là một loại hình âm nhạc dân gian được biết đến nhiều. Khiêu vũ Ấn Độ cũng có các loại hình dân gian và cổ điển đa dạng, trong số những vũ điệu dân gian được biết đến nhiều, có Bhangra của Punjab, Bihu của Assam, Chhau của Tây Bengal và Jharkhand, Garba và Dandiya của Gujarat, Sambalpuri của Odisha, Ghoomar của Rajasthan, và Lavani của Maharashtra. Tám loại vũ điệu, trong đó nhiều loại đi kèm với các hình thức kể chuyện và yếu tố thần thoại được Viện Âm nhạc, Vũ đạo, Hí kịch Quốc gia ban cho địa vị vũ đạo cổ điển. Chúng gồm có Bharatanatyam của bang Tamil Nadu, Kathak của Uttar Pradesh, Kathakali và Mohiniyattam của Kerala, Kuchipudi của Andhra Pradesh, Manipuri của Manipur, Odissi của Odisha, và Sattriya của Assam.[268] Sân khấu tại Ấn Độ pha trộn các loại hình âm nhạc, vũ điệu, ứng khẩu hay đối thoại.[269] Sân khấu Ấn Độ thường dựa trên thần thoại Ấn Độ giáo, song cũng vay mượn từ các mối tình từ thời trung cổ hay các sự kiện xã hội và chính trị, và gồm có bhavai của Gujarat, Jatra của Tây Bengal, Nautanki và rRamlila ở Bắc Ấn Độ, Tamasha của Maharashtra, Burrakatha của Andhra Pradesh, Terukkuttu của Tamil Nadu, và Yakshagana của Karnataka.[270]
Điện ảnh
Ngành công nghiệp điện ảnh Ấn Độ tạo ra nghệ thuật điện ảnh đông người xem nhất thế giới.[271] Các truyền thống điện ảnh địa phương tồn tại trong các ngôn ngữ gồm Assam, Bengal, Hindi, Kannada, Malayalam, Punjab, Gujarat, Marath, Oriya, Tamil, và Telugu.[272] Điện ảnh nam bộ Ấn Độ chiếm tới 75% doanh thu phim toàn quốc.[273] Truyền hình tại Ấn Độ khởi đầu từ năm 1959 như một phương tiện truyền thông quốc doanh, và được mở rộng chậm chạp trong hai thập niên sau.[274] Sự độc quyền của nhà nước đối với truyền hình kết thúc vào thập niên 1990, và kể từ đó các kênh truyền hình vệ tinh ngày càng góp phần hình thành văn hóa đại chúng của xã hội Ấn Độ.[275] Ngày nay, truyền hình là phương tiện truyền thông đi sâu vào xã hội Ấn Độ nhất; các ước tính cho thấy vào năm 2012 có trên 554 triệu khán giả truyền hình, 462 triệu có kết nối vệ tinh hoặc/và kết nối cáp, lớn hơn các loại hình truyền thông đại chúng khác như báo chí (350 triệu), phát thanh (156 triệu) hay internet (37 triệu).[276]
Xã hội
Xã hội truyền thống Ấn Độ được xác định theo đẳng cấp xã hội, hệ thống đẳng cấp của Ấn Độ là hiện thân của nhiều xếp tầng xã hội và nhiều hạn chế xã hội tồn tại trên tiểu lục địa Ấn Độ. Các tầng lớp xã hội được xác định theo hàng nghìn nhóm đồng tộc thế tập, thường được gọi là jāti, hay “đẳng cấp”.[277] Ấn Độ tuyên bố tiện dân là bất hợp pháp vào năm 1947 và kể từ đó ban hành các luật chống phân biệt đối xử khác và khởi xướng phúc lợi xã hội, tuy vậy nhiều tường thuật vẫn cho thấy rằng nhiều Dalit (“tiện dân cũ”) và các đẳng cấp thấp khác tại các khu vực nông thôn tiếp tục phải sống trong sự cách ly và phải đối mặt với ngược đãi và phân biệt.[278][279][280] Tại những nơi làm việc ở đô thị của Ấn Độ, tại các công ty quốc tế hay công ty hàng đầu tại Ấn Độ, tầm quan trọng của hệ thống đẳng cấp bị mất đi khá nhiều.[281][282] Các giá trị gia đình có vị trí quan trọng trong văn hóa Ấn Độ, và các gia đình chung sống gia trưởng đa thế hệ là quy tắc tiêu chuẩn tại Ấn Độ, song các gia đình hạt nhân cũng trở nên phổ biến tại những khu vực thành thị.[283] Đại đa số người Ấn Độ, với sự ưng thuận của họ, kết hôn theo sự sắp xếp của cha mẹ hay các thành viên khác trong gia đình.[284] Hôn nhân được cho là gắn liền với sinh mệnh,[284] và tỷ lệ ly hôn rất thấp.[285] Tảo hôn tại Ấn Độ là việc phổ biến, đặc biệt là tại các vùng nông thôn; nhiều nữ giới tại Ấn Độ kết hôn trước độ tuổi kết hôn hợp pháp là 18.[286] Nhiều lễ hội tại Ấn Độ có nguồn gốc tôn giáo, trong đó có Chhath, Giáng sinh, Diwali, Durga Puja, Bakr-Id, Eid ul-Fitr, Ganesh Chaturthi, Holi, Makar Sankranti hay Uttarayan, Navratri, Thai Pongal, và Vaisakhi. Ấn Độ có ba ngày lễ quốc gia được tổ chức trên toàn bộ các bang và lãnh thổ liên bang: Ngày Cộng hòa, ngày Độc lập, và Gandhi Jayanti.
Trang phục
Bông được thuần hóa tại Ấn Độ từ khoảng 4000 TCN, và y phục truyền thống Ấn Độ có sự khác biệt về màu sắc và phong cách giữa các vùng và phụ thuộc vào các yếu tố khác nhau, bao gồm khí hậu và đức tin. Phong cách y phục phổ biến gồm phục trang được xếp nếp như sari cho nữ giới và dhoti hay lungi cho nam giới. Các loại phục trang được khâu cũng phổ biến, như shalwar kameez cho nữ giới và kết hợp kurta–pyjama hay quần áo kiểu Âu cho nam giới.[287] Việc đeo đồ kim hoàn tinh tế, được làm theo hình hoa thật thời Ấn Độ cổ đại, là một phần của truyền thống kéo dài từ khoảng 5.000 năm; người Ấn Độ cũng đeo đá quý như một thứ bùa.[288]
Thể thao
Tại Ấn Độ, một số môn thể thao bản địa truyền thống vẫn còn khá phổ biến, chẳng hạn như kabaddi, kho kho, pehlwani và gilli-danda. Một số hình thái sơ khởi của võ thuật châu Á, như kalarippayattu, musti yuddha, silambam, và marma adi, bắt nguồn tại Ấn Độ. Cờ vua thường được cho là có nguồn gốc từ Ấn Độ với tên gọi chaturanga, môn thể thao này đang lấy lại tính đại chúng bằng sự gia tăng số Đại kiện tướng người Ấn Độ.[289][290] Pachisi là tiền thân của parcheesi, Akbar Đại đế từng chơi trò này trên một kì trường khổng lồ bằng cẩm thạch.[291]
Việc đội tuyển Davis Cup Ấn Độ và các đội tuyển quần vợt khác tại Ấn Độ cải thiện được kết quả vào đầu thập niên 2010 khiến môn thể thao này gia tăng tính đại chúng tại nước này.[292] Ấn Độ có sự hiện diện tương đối mạnh trong các môn thể thao bắn súng, và giành một vài huy chương tại Thế vận hội, Giải vô địch bắn súng Thế giới, và Đại hội thể thao Thịnh vượng chung.[293][294] Ấn Độ cũng thành công trên cấp độ quốc tế trong các môn gồm cầu lông,[295] quyền Anh,[296] và đấu vật.[297] Bóng đá là môn thể thao phố biến tại Tây Bengal, Goa, Tamil Nadu, Kerala, và các bang đông-bắc.[298]
Ấn Độ có một Liên đoàn quản lý môn khúc côn cầu, đội tuyển khúc côn cầu quốc gia Ấn Độ từng giành chiến thắng trong Giải vô địch khúc côn cầu thế giới năm 1975, và tính đến năm 2012, Ấn Độ giành được tổng cộng 8 huy chương vàng, một huy chương bạc, và hai huy chương đồng Thế vận hội. Ấn Độ cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc đại chúng hóa môn cricket, và đây là môn thể thao phổ biến nhất tại quốc gia này. Đội tuyển cricket quốc gia Ấn Độ giành chiến thắng tại các giải vô địch cricket thế giới năm 1983 và 2011.
Ấn Độ từng tổ chức hoặc đồng tổ chức một vài sự kiện thể thao quốc tế: Á vận hội năm 1951 và 1982, vòng chung kết Giải vô địch Cricket thế giới năm 1987, 1996 và 2011; Đại hội thể thao Á-Phi năm 2013; Giải khúc côn cầu nam thế giới năm 2010; Đại hội thể thao khối Thịnh vương chung năm 2010. Các sự kiện thể thao quốc tế được tổ chức thường niên tại Ấn Độ bao gồm Chennai Open, Mumbai Marathon, Delhi Half Marathon, và Indian Masters. Cuộc đua Indian Grand Prix đầu tiên diễn ra vào cuối năm 2011.[299] Ấn Độ có truyền thống là quốc gia chiếm ưu thế tại Đại hội Thể thao Nam Á.
Chú thích
- ^ a ă â National Informatics Centre 2005
- ^ Wolpert 2003, tr. 1
- ^ “Profile | National Portal of India”. India.gov.in. Truy cập 23 tháng 8 năm 2013.
- ^ a ă â b c Ministry of Home Affairs 2011
- ^ a ă â b “Report for Selected Countries and Subjects”. World Economic Outlook Database, Quỹ Tiền tệ Quốc tế. 27 tháng 10 năm 2013. Truy cập 27 tháng 10 năm 2013.
- ^ United Nations 2012
- ^ Human Development Reports
- ^ Stein 1998, tr. 16–17
- ^ “Gross domestic product, current prices in US dollars, Oct 2013”. Truy cập 31 tháng 10 năm 2013.
- ^ Ministry of Law and Justice 2008
- ^ Kaye 1997, tr. 639–640
- ^ Encyclopædia Britannica
- ^ “Ấn Độ (India)-Tên gọi từ một con sông”. Bách khoa tri thức. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2014.
- ^ Oxford English Dictionary
- ^ a ă Kuiper 2010, tr. 86
- ^ Petraglia, Allchin & 2007, tr. 6
- ^ Singh 2009, tr. 64
- ^ Singh 2009, tr. 89–93
- ^ Possehl 2003, tr. 24–25
- ^ Kulke & Rothermund 2004, tr. 21–23
- ^ a ă Singh 2009, tr. 181
- ^ Possehl 2003, tr. 2
- ^ a ă â Singh 2009, tr. 255
- ^ a ă Singh 2009, tr. 186–187
- ^ Witzel 2003, tr. 68–69
- ^ Kulke & Rothermund 2004, tr. 31
- ^ Stein 2010, tr. 47
- ^ Kulke & Rothermund 2004, tr. 41–43
- ^ Singh 2009, tr. 250–251
- ^ a ă â Singh 2009, tr. 319
- ^ Kulke & Rothermund 2004, tr. 53–54
- ^ Kulke & Rothermund 2004, tr. 54–56
- ^ Stein 1998, tr. 21
- ^ Stein 1998, tr. 67–68
- ^ Singh 2009, tr. 312–313
- ^ Singh 2009, tr. 300
- ^ Stein 1998, tr. 78–79
- ^ Kulke & Rothermund 2004, tr. 70
- ^ Singh 2009, tr. 367
- ^ Kulke & Rothermund 2004, tr. 63
- ^ Stein 1998, tr. 89–90
- ^ Singh 2009, tr. 408–415
- ^ Stein 1998, tr. 92–95
- ^ Kulke & Rothermund 2004, tr. 89–91
- ^ a ă â Singh 2009, tr. 545
- ^ Stein 1998, tr. 98–99
- ^ a ă Stein 1998, tr. 132
- ^ a ă â Stein 1998, tr. 119–120
- ^ a ă Stein 1998, tr. 121–122
- ^ a ă Stein 1998, tr. 123
- ^ a ă Stein 1998, tr. 124
- ^ a ă Stein 1998, tr. 127–128
- ^ Ludden 2002, tr. 68
- ^ Asher & Talbot 2008, tr. 47
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 6
- ^ Ludden 2002, tr. 67
- ^ Asher & Talbot 2008, tr. 50–51
- ^ a ă Asher & Talbot 2008, tr. 53
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 12
- ^ Robb 2001, tr. 80
- ^ Stein 1998, tr. 164
- ^ Asher & Talbot 2008, tr. 115
- ^ Robb 2001, tr. 90–91
- ^ a ă Metcalf & Metcalf 2006, tr. 17
- ^ a ă â Asher & Talbot 2008, tr. 152
- ^ Asher & Talbot 2008, tr. 158
- ^ Stein 1998, tr. 169
- ^ Asher & Talbot 2008, tr. 186
- ^ a ă Metcalf & Metcalf 2006, tr. 23–24
- ^ Asher & Talbot 2008, tr. 256
- ^ a ă â Asher & Talbot 2008, tr. 286
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 44–49
- ^ Robb 2001, tr. 98–100
- ^ Ludden 2002, tr. 128–132
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 51–55
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 68–71
- ^ Asher & Talbot 2008, tr. 289
- ^ Robb 2001, tr. 151–152
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 94–99
- ^ Brown 1994, tr. 83
- ^ Peers 2006, tr. 50
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 100–103
- ^ Brown 1994, tr. 85–86
- ^ Stein 1998, tr. 239
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 103–108
- ^ Robb 2001, tr. 183
- ^ Sarkar 1983, tr. 1–4
- ^ Copland 2001, tr. ix–x
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 123
- ^ Stein 1998, tr. 260
- ^ Bose & Jalal 2011, tr. 117
- ^ Stein 1998, tr. 258
- ^ a ă Metcalf & Metcalf 2006, tr. 126
- ^ a ă Metcalf & Metcalf 2006, tr. 97
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 163
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 167
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 195–197
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 203
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 231
- ^ a ă â b Metcalf & Metcalf 2006, tr. 265–266
- ^ United States Department of Agriculture
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 266–270
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 253
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 274
- ^ a ă Metcalf & Metcalf 2006, tr. 247–248
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 293–295
- ^ a ă â Ali & Aitchison 2005
- ^ Dikshit & Schwartzberg, tr. 7
- ^ Prakash et al. 2000
- ^ Dikshit & Schwartzberg, tr. 11
- ^ Dikshit & Schwartzberg, tr. 8
- ^ Dikshit & Schwartzberg, tr. 9–10
- ^ Ministry of Information and Broadcasting 2007, tr. 1
- ^ a ă Kumar và đồng nghiệp 2006
- ^ Dikshit & Schwartzberg, tr. 15
- ^ Duff 1993, tr. 353
- ^ Dikshit & Schwartzberg, tr. 16
- ^ Dikshit & Schwartzberg, tr. 17
- ^ Dikshit & Schwartzberg, tr. 12
- ^ Dikshit & Schwartzberg, tr. 13
- ^ a ă Chang 1967, tr. 391–394
- ^ Posey 1994, tr. 118
- ^ Wolpert 2003, tr. 4
- ^ Heitzman & Worden 1996, tr. 97
- ^ Environmental Issues, Law and Technology – An Indian Perspective. Ramesha Chandrappa và Ravi.D.R, Research India Publication, Delhi, 2009, ISBN 978-81-904362-5-0
- ^ “The Little Green Data Book”. The World Bank. 2010.
- ^ “Environment Assessment, Country Data: India”. The World Bank. 2011.
- ^ Conservation International 2007
- ^ Zoological Survey of India 2012, tr. 1
- ^ a ă Puri
- ^ Basak 1983, tr. 24
- ^ a ă Tritsch 2001
- ^ Fisher 1995, tr. 434
- ^ Crame & Owen 2002, tr. 142
- ^ Karanth 2006
- ^ Mace 1994, tr. 4
- ^ Ministry of Environments and Forests 1972
- ^ Department of Environment and Forests 1988
- ^ Ministry of Environment and Forests
- ^ Secretariat of the Convention on Wetlands
- ^ United Nations Population Division
- ^ Burnell & Calvert 1999, tr. 125
- ^ Election Commission of India
- ^ Sarkar 2007, tr. 84
- ^ Chander 2004, tr. 117
- ^ Bhambhri 1992, tr. 118, 143
- ^ The Hindu 2008
- ^ Dunleavy, Diwakar & Dunleavy 2007
- ^ Kulke & Rothermund 2004, tr. 384
- ^ Business Standard 2009
- ^ DNA 2014
- ^ Pylee & 2003 a, tr. 4
- ^ Dutt 1998, tr. 421
- ^ Wheare 1980, tr. 28
- ^ Echeverri-Gent 2002, tr. 19–20
- ^ Sinha 2004, tr. 25
- ^ “In RTI reply, Centre says India has no national game”. Truy cập 4 tháng 8 năm 2012.
- ^ a ă Sharma 2007, tr. 31
- ^ Sharma 2007, tr. 138
- ^ Gledhill 1970, tr. 112
- ^ a ă Sharma 1950
- ^ a ă Sharma 2007, tr. 162
- ^ Mathew 2003, tr. 524
- ^ Gledhill 1970, tr. 127
- ^ Sharma 2007, tr. 161
- ^ Sharma 2007, tr. 143
- ^ Sharma 2007, tr. 360
- ^ a ă Neuborne 2003, tr. 478
- ^ Sharma 2007, tr. 238, 255
- ^ Sripati 1998, tr. 423–424
- ^ Pylee & 2003 b, tr. 314
- ^ a ă â b c Library of Congress 2004
- ^ Sharma 2007, tr. 49
- ^ Rothermund 2000, tr. 48, 227
- ^ Gilbert 2002, tr. 486–487
- ^ Sharma 1999, tr. 56
- ^ Alford 2008
- ^ Ghosh 2009, tr. 282–289
- ^ Sisodia & Naidu 2005, tr. 1–8
- ^ Perkovich 2001, tr. 60–86, 106–125
- ^ Kumar 2010
- ^ Nair 2007
- ^ Pandit 2009
- ^ a ă The Hindu 2011
- ^ Europa 2008
- ^ The Times of India 2008
- ^ British Broadcasting Corporation 2009
- ^ Rediff 2008 a
- ^ Reuters 2010
- ^ Curry 2010
- ^ Ripsman & Paul 2010, tr. 130
- ^ a ă â Central Intelligence Agency
- ^ Behera 2011
- ^ Behera 2012
- ^ Stockholm International Peace Research Institute 2008, tr. 178
- ^ a ă Miglani 2011
- ^ Shukla 2011
- ^ Stockholm International Peace Research Initiative 2012
- ^ International Monetary Fund 2011, tr. 2
- ^ Nayak, Goldar & Agrawal 2010, tr. xxv
- ^ International Monetary Fund
- ^ Wolpert 2003, tr. xiv
- ^ a ă Gargan 1992
- ^ Alamgir 2008, tr. 23, 97
- ^ WTO 1995
- ^ The Times of India 2009
- ^ World Trade Organisation 2010
- ^ Economist 2011
- ^ Bonner 2010
- ^ a ă Farrell & Beinhocker 2007
- ^ Schwab 2010
- ^ Sheth 2009
- ^ Telecom Regulatory Authority 2012
- ^ Natasha Lomas (26 tháng 6 năm 2013). “India Passes Japan To Become Third Largest Global Smartphone Market, After China & U.S.”. TechCrunch. AOL Inc. Truy cập 27 tháng 6 năm 2013.
- ^ Business Line 2010
- ^ Express India 2009
- ^ Yep 2011
- ^ Nasscom 2011–2012
- ^ Vishal Dutta, ET Bureau (10 tháng 7 năm 2012). “Indian biotech industry at critical juncture, global biotech stabilises: Report”. Economic Times. Truy cập 31 tháng 10 năm 2012.
- ^ World Bank 2006
- ^ World Bank a
- ^ Social Statistics Division. “Children in India 2012: A Statistical Appraisal”. Central Statistics Office, Government of India. tr. 10–11. Truy cập 2 tháng 9 năm 2013.
- ^ Pal & Ghosh 2007
- ^ Transparency International 2010
- ^ International Monetary Fund 2011
- ^ Ministry of Home Affairs 2010–2011 b
- ^ “Census Population” (PDF). Census of India. Ministry of Finance India.
- ^ Rorabacher 2010, tr. 35–39
- ^ World Health Organisation 2006
- ^ Robinson 2008
- ^ Dev & Rao 2009, tr. 329
- ^ a ă Garg 2005
- ^ Dyson & Visaria 2005, tr. 115–129
- ^ Ratna 2007, tr. 271–272
- ^ Skolnik 2008, tr. 36
- ^ Singh 2004, tr. 106
- ^ Dharwadker 2010, tr. 168–194, 186
- ^ Ottenheimer 2008, tr. 303
- ^ Mallikarjun 2004
- ^ Ministry of Home Affairs 1960
- ^ Bonner 1990, tr. 81
- ^ Ministry of Home Affairs 2010–2011
- ^ Global Muslim population estimated at 1.57 billion. The Hindu (8 tháng 10 năm 2009)
- ^ India Chapter Summary 2012
- ^ Kuiper 2010, tr. 15
- ^ a ă Heehs 2002, tr. 2–5
- ^ Deutsch 1969, tr. 3, 78
- ^ Nakamura 1999
- ^ Kuiper 2010, tr. 296–329
- ^ Silverman 2007, tr. 20
- ^ Kumar 2000, tr. 5
- ^ Roberts 2004, tr. 73
- ^ Lang & Moleski 2010, tr. 151–152
- ^ United Nations Educational, Scientific, and Cultural Organisation
- ^ Chopra 2011, tr. 46
- ^ Hoiberg & Ramchandani 2000
- ^ Sarma 2009
- ^ Johnson 2008
- ^ MacDonell 2004, tr. 1–40
- ^ Kālidāsa & Johnson 2001
- ^ Zvelebil 1997, tr. 12
- ^ Hart 1975
- ^ Encyclopædia Britannica 2008
- ^ Ramanujan 1985, tr. ix–x
- ^ Das 2005
- ^ Datta 2006
- ^ Massey & Massey 1998
- ^ Encyclopædia Britannica b
- ^ Lal 2004, tr. 23, 30, 235
- ^ Karanth 2002, tr. 26
- ^ Dissanayake & Gokulsing 2004
- ^ Rajadhyaksha & Willemen 1999
- ^ The Economic Times
- ^ Kaminsky & Long 2011, tr. 684–692
- ^ Mehta 2008, tr. 1–10
- ^ Media Research Users Council 2012
- ^ Schwartzberg 2011
- ^ World Bank 2011
- ^ Rawat 2011, tr. 3
- ^ Wolpert 2003, tr. 126
- ^ Messner 2009, tr. 51-53
- ^ Messner 2012, tr. 27-28
- ^ Makar 2007
- ^ a ă Medora 2003
- ^ Jones & Ramdas 2005, tr. 111
- ^ Cullen-Dupont 2009, tr. 96
- ^ Tarlo 1996, tr. xii, xii, 11, 15, 28, 46
- ^ Eraly 2008, tr. 160
- ^ Wolpert 2003, tr. 2
- ^ Rediff 2008 b
- ^ Binmore 2007, tr. 98
- ^ The Wall Street Journal 2009
- ^ British Broadcasting Corporation 2010 b
- ^ The Times of India 2010
- ^ British Broadcasting Corporation 2010 a
- ^ Mint 2010
- ^ Xavier 2010
- ^ Majumdar & Bandyopadhyay 2006, tr. 1–5
- ^ Dehejia 2011
Tham khảo
Tổng quan
- “India”, The World Factbook (Cơ quan Tình báo Trung ương (Hoa Kỳ)), truy cập 4 tháng 10 năm 2011
- “Country Profile: India” (PDF), Library of Congress Country Studies (ấn bản 5) (Đơn vị Nghiên cứu Liên bang Thư viện Quốc hội Mỹ), Tháng 12 năm 2004, truy cập 30 tháng 9 năm 2011
- Heitzman, J.; Worden, R. L. (tháng 8 năm 1996), India: A Country Study, Area Handbook Series, Washington, D.C.: Library of Congress, ISBN 978-0-8444-0833-0
- India, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, truy cập 14 tháng 10 năm 2011
- “Provisional Population Totals – Census 2011”, Office of the Registrar General and Census Commissioner (Bộ Nội chính Ấn Độ), 2011, truy cập 29 tháng 3 năm 2011
- “Constituent Assembly of India—Volume XII”, Constituent Assembly of India: Debates (Trung tâm Tin học Quốc gia (Ấn Độ)), 24 tháng 1 năm 1950, truy cập 17 tháng 7 năm 2011
- There’s No National Language in India: Gujarat High Court, The Times Of India, 6 tháng 1 năm 2007, truy cập 17 tháng 7 năm 2011
- “Table 1: Human Development Index and its Components” (PDF), Human Development Report 2011, Liên Hiệp Quốc, 2011
Từ nguyên
- Hindustan, Encyclopædia Britannica, truy cập 17 tháng 7 năm 2011
- Kaye, A. S. (1 tháng 9 năm 1997), Phonologies of Asia and Africa, Eisenbrauns, ISBN 978-1-57506-019-4
- Kuiper, K. biên tập (tháng 7 năm 2010), Culture of India, Rosen Publishing Group, ISBN 978-1-61530-203-1
- Constitution of India (PDF), Bộ Pháp luật và Tư pháp Ấn Độ, 29 tháng 7 năm 2008, truy cập 3 tháng 3 năm 2012, ‘Article 1(1): “India, that is Bharat, shall be a Union of States.”’
- “India”, Oxford English Dictionary, Oxford University Press, truy cập 17 tháng 7 năm 2011
Lịch sử
- Asher, C. B.; Talbot, C (1 tháng 1 năm 2008), India Before Europe (ấn bản 1), Cambridge University Press, ISBN 978-0-521-51750-8
- Bose, S.; Jalal, A. (11 tháng 3 năm 2011), Modern South Asia: History, Culture, Political Economy (ấn bản 3), Routledge, ISBN 978-0-415-77942-5
- Brown, J. M. (26 tháng 5 năm 1994), Modern India: The Origins of an Asian Democracy, The Short Oxford History of the Modern World (ấn bản 2), Oxford University Press, ISBN 978-0-19-873113-9
- Copland, I. (8 tháng 10 năm 2001), India 1885–1947: The Unmaking of an Empire (ấn bản 1), Longman, ISBN 978-0-582-38173-5
- Kulke, H.; Rothermund, D. (1 tháng 8 năm 2004), A History of India, 4th, Routledge, ISBN 978-0-415-32920-0
- Ludden, D. (13 tháng 6 năm 2002), India and South Asia: A Short History, One World Media, ISBN 978-1-85168-237-9
- Metcalf, B.; Metcalf, T. R. (9 tháng 10 năm 2006), A Concise History of Modern India (ấn bản 2), Cambridge University Press, ISBN 978-0-521-68225-1
- Peers, D. M. (3 tháng 8 năm 2006), India under Colonial Rule 1700–1885 (ấn bản 1), Pearson Longman, ISBN 978-0-582-31738-3
- Petraglia, Michael D.; Allchin, Bridget (2007), “Human evolution and culture change in the Indian subcontinent”, trong Michael Petraglia, Bridget Allchin, The Evolution and History of Human Populations in South Asia: Inter-disciplinary Studies in Archaeology, Biological Anthropology, Linguistics and Genetics, Springer, ISBN 978-1-4020-5562-1
- Possehl, G. (tháng 1 năm 2003), The Indus Civilization: A Contemporary Perspective, Rowman Altamira, ISBN 978-0-7591-0172-2
- Robb, P. (2001), A History of India, London: Palgrave, ISBN 978-0-333-69129-8
- Sarkar, S. (1983), Modern India: 1885–1947, Delhi: Macmillan India, ISBN 978-0-333-90425-1
- Singh, U. (2009), A History of Ancient and Medieval India: From the Stone Age to the 12th Century, Delhi: Longman, ISBN 978-81-317-1677-9
- Sripati, V. (1998), “Toward Fifty Years of Constitutionalism and Fundamental Rights in India: Looking Back to See Ahead (1950–2000)”, American University International Law Review 14 (2): 413–496
- Stein, B. (16 tháng 6 năm 1998), A History of India (ấn bản 1), Oxford: Wiley-Blackwell, ISBN 978-0-631-20546-3
- Stein, B. (27 tháng 4 năm 2010), trong Arnold, D., A History of India (ấn bản 2), Oxford: Wiley-Blackwell, ISBN 978-1-4051-9509-6
- “Briefing Rooms: India”, Economic Research Service (Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ), 17 tháng 12 năm 2009
- Thapar, Romila (2003), Penguin history of early India: from the origins to A.D.1300, Penguin Books, truy cập 13 tháng 2 năm 2012
- Witzel, Michael (2003), “Vedas and Upanișads”, trong Gavin D. Flood, The Blackwell companion to Hinduism, John Wiley & Sons, ISBN 978-0-631-21535-6, truy cập 15 tháng 3 năm 2012
- Wolpert, S. (25 tháng 12 năm 2003), A New History of India (ấn bản 7), Oxford University Press, ISBN 978-0-19-516678-1
Địa lý
- Ali, J. R.; Aitchison, J. C. (2005), “Greater India”, Earth-Science Reviews 72 (3–4): 170–173, doi:10.1016/j.earscirev.2005.07.005
- Chang, J. H. (1967), “The Indian Summer Monsoon”, Geographical Review 57 (3): 373–396, doi:10.2307/212640
- Forest (Conservation) Act, 1980 with Amendments Made in 1988 (PDF), Bộ Môi trường và Lâm nghiệp Quần đảo Andaman và Nicobar, 1988, truy cập 25 tháng 7 năm 2011
- Dikshit, K. R.; Schwartzberg, Joseph E., Land, “India”, Encyclopædia Britannica: 1–29
- Duff, D. (29 tháng 10 năm 1993), Holmes Principles of Physical Geology (ấn bản 4), Routledge, ISBN 978-0-7487-4381-0
- Kumar, V. S.; Pathak, K. C.; Pednekar, P.; Raju, N. S. N. (2006), “Coastal processes along the Indian coastline” (PDF), Current Science 91 (4): 530–536
- India Yearbook 2007, New Delhi: Cục Xuất bản, Bộ Thông tin và Truyền thông Ấn Độ, 2007, ISBN 978-81-230-1423-4
- Posey, C. A. (1 tháng 11 năm 1994), The Living Earth Book of Wind and Weather, Reader’s Digest, ISBN 978-0-89577-625-9
- Prakash, B.; Kumar, S.; Rao, M. S.; Giri, S. C. (2000), “Holocene Tectonic Movements and Stress Field in the Western Gangetic Plains” (PDF), Current Science 79 (4): 438–449
Đa dạng sinh học
- Ali, S.; Ripley, S. D.; Dick, J. H. (15 tháng 8 năm 1996), A Pictorial Guide to the Birds of the Indian Subcontinent (ấn bản 2), Mumbai: Oxford University Press, ISBN 978-0-19-563732-8
- Animal Discoveries 2011: New Species and New Records (PDF), Zoological Survey of India, 2012, truy cập 20 tháng 7 năm 2012
- Basak, R. K. (1983), Botanical Survey of India: Account of Its Establishment, Development, and Activities, truy cập 20 tháng 7 năm 2011
- “Hotspots by Region”, Biodiversity Hotspots (Conservation International), 2007, Bản gốc lưu trữ 11 tháng 8 năm 2010, truy cập 28 tháng 2 năm 2011
- Crame, J. A.; Owen, A. W. (1 tháng 8 năm 2002), Palaeobiogeography and Biodiversity Change: The Ordovician and Mesozoic–Cenozoic Radiations, Geological Society Special Publication (194), Học hội Địa chất Luân Đôn, ISBN 978-1-86239-106-2, truy cập 8 tháng 12 năm 2011
- Fisher, W. F. (tháng 1 năm 1995), Toward Sustainable Development?: Struggling over India’s Narmada River, Columbia University Seminars, M. E. Sharpe, ISBN 978-1-56324-341-7
- Griffiths, M. (6 tháng 7 năm 2010), The Lotus Quest: In Search of the Sacred Flower, St. Martin’s Press, ISBN 978-0-312-64148-1
- Karanth, K. P. (25 tháng 3 năm 2006), “Out-of-India Gondwanan Origin of Some Tropical Asian Biota” (PDF), Current Science (Học viện Khoa học Ấn Độ) 90 (6): 789–792, truy cập 18 tháng 5 năm 2011
- Mace, G. M. (tháng 3 năm 1994), “1994 IUCN Red List of Threatened Animals”, World Conservation Monitoring Centre (Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế), ISBN 978-2-8317-0194-3
- “Biosphere Reserves of India”, C. P. R. Environment Education Centre (Bộ Môi trường và Lâm nghiệp Ấn Độ), truy cập 17 tháng 7 năm 2011
- Indian Wildlife (Protection) Act, 1972, Bộ Môi trường và Lâm nghiệp Ấn Độ, 9 tháng 9 năm 1972, truy cập 25 tháng 7 năm 2011
- Puri, S. K., Biodiversity Profile of India, truy cập 20 tháng 6 năm 2007
- The List of Wetlands of International Importance (PDF), Ban Thư ký Công ước về Đất ngập nước, 4 tháng 6 năm 2007, tr. 18, Bản gốc lưu trữ 21 tháng 6 năm 2007, truy cập 20 tháng 6 năm 2007
- Tritsch, M. F. (3 tháng 9 năm 2001), Wildlife of India, London: HarperCollins, ISBN 978-0-00-711062-9
Chính trị
- Bhambhri, C. P. (1 tháng 5 năm 1992), Politics in India, 1991–1992, Shipra, ISBN 978-81-85402-17-8, truy cập 20 tháng 7 năm 2011
- Burnell, P. J.; Calvert, P. (1 tháng 5 năm 1999), The Resilience of Democracy: Persistent Practice, Durable Idea (ấn bản 1), Taylor & Francis, ISBN 978-0-7146-8026-2, truy cập 20 tháng 7 năm 2011
- Second UPA Win, A Crowning Glory for Sonia’s Ascendancy, Business Standard, 16 tháng 5 năm 2009, truy cập 13 tháng 6 năm 2009
- Chander, N. J. (1 tháng 1 năm 2004), Coalition Politics: The Indian Experience, Concept Publishing Company, ISBN 978-81-8069-092-1, truy cập 20 tháng 7 năm 2011
- Dunleavy, P.; Diwakar, R.; Dunleavy, C. (2007), The Effective Space of Party Competition (PDF) (5), Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị Luân Đôn, truy cập 27 tháng 9 năm 2011
- Dutt, S. (1998), “Identities and the Indian State: An Overview”, Third World Quarterly 19 (3): 411–434, doi:10.1080/01436599814325
- Echeverri-Gent, J. (tháng 1 năm 2002), “Politics in India’s Decentred Polity”, trong Ayres, A.; Oldenburg, P., Quickening the Pace of Change, India Briefing, London: M. E. Sharpe, tr. 19–53, ISBN 978-0-7656-0812-3
- “Current Recognised Parties” (PDF), Election Commission of India, 14 tháng 3 năm 2009, truy cập 5 tháng 7 năm 2010
- Gledhill, A. (30 tháng 3 năm 1970), The Republic of India: The Development of its Laws and Constitution, Greenwood, ISBN 978-0-8371-2813-9, truy cập 21 tháng 7 năm 2011
- Narasimha Rao Passes Away, The Hindu, 24 tháng 12 năm 2004, truy cập 2 tháng 11 năm 2008
- Mathew, K. M. (1 tháng 1 năm 2003), Manorama Yearbook, Malayala Manorama, ISBN 978-81-900461-8-3, truy cập 21 tháng 7 năm 2011
- “National Symbols of India”, Know India (Trung tâm Tin học Quốc gia (Ấn Độ)), truy cập 27 tháng 9 năm 2009
- Neuborne, B. (2003), “The Supreme Court of India”, International Journal of Constitutional Law 1 (1): 476–510, doi:10.1093/icon/1.3.476
- Pylee, M. V. (2003), “The Longest Constitutional Document”, Constitutional Government in India (ấn bản 2), S. Chand, ISBN 978-81-219-2203-6
- Pylee, M. V. (2003), “The Union Judiciary: The Supreme Court”, Constitutional Government in India (ấn bản 2), S. Chand, ISBN 978-81-219-2203-6, truy cập 2 tháng 11 năm 2007
- Sarkar, N. I. (1 tháng 1 năm 2007), Sonia Gandhi: Tryst with India, Atlantic, ISBN 978-81-269-0744-1, truy cập 20 tháng 7 năm 2011
- Sharma, R. (1950), “Cabinet Government in India”, Parliamentary Affairs 4 (1): 116–126
- Sharma, B. K. (tháng 8 năm 2007), Introduction to the Constitution of India (ấn bản 4), Prentice Hall, ISBN 978-81-203-3246-1
- Sinha, A. (2004), “The Changing Political Economy of Federalism in India”, India Review 3 (1): 25–63, doi:10.1080/14736480490443085
- World’s Largest Democracy to Reach One Billion Persons on Independence Day, Cơ quan Dân số Liên Hiệp Quốc, truy cập 5 tháng 10 năm 2011
- Wheare, K. C. (tháng 6 năm 1980), Federal Government (ấn bản 4), Oxford University Press, ISBN 978-0-313-22702-8
- “BJP first party since 1984 to win parliamentary majority on its own”, DNA, IANS, Ngày 16 tháng 5 năm 2014, truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2014
Ngoại giao và quân sự
- Alford, P. (7 tháng 7 năm 2008), G8 Plus 5 Equals Power Shift, The Australian, truy cập 21 tháng 11 năm 2009
- Behera, L. K. (7 tháng 3 năm 2011), Budgeting for India’s Defence: An Analysis of Defence Budget 2011–2012, Học viện Nghiên cứu và Phân tích Quốc phòng, truy cập 4 tháng 4 năm 2011
- Behera, L. K. (20 tháng 3 năm 2012), India’s Defence Budget 2012–13, Học viện Nghiên cứu và Phân tích Quốc phòng, truy cập 26 tháng 3 năm 2012
- “Russia Agrees India Nuclear Deal”, BBC News (BBC), 11 tháng 2 năm 2009, truy cập 22 tháng 8 năm 2010
- Curry, B. (27 tháng 6 năm 2010), Canada Signs Nuclear Deal with India, The Globe and Mail, truy cập 13 tháng 5 năm 2011
- “India, Europe Strategic Relations”, Europa: Summaries of EU Legislation (Liên minh châu Âu), 8 tháng 4 năm 2008, truy cập 14 tháng 1 năm 2011
- Ghosh, A. (1 tháng 9 năm 2009), India’s Foreign Policy, Pearson, ISBN 978-81-317-1025-8
- Gilbert, M. (17 tháng 12 năm 2002), A History of the Twentieth Century, William Morrow, ISBN 978-0-06-050594-3, truy cập 22 tháng 7 năm 2011
- India, Russia Review Defence Ties, The Hindu, 5 tháng 10 năm 2009, truy cập 8 tháng 10 năm 2011
- Kumar, A. V. (1 tháng 5 năm 2010), “Reforming the NPT to Include India”, Bulletin of Atomic Scientists, truy cập 1 tháng 11 năm 2010
- Miglani, S. (28 tháng 2 năm 2011), With An Eye on China, India Steps Up Defence Spending, Reuters, truy cập 6 tháng 7 năm 2011
- Nair, V. K. (2007), No More Ambiguity: India’s Nuclear Policy (PDF), Bản gốc lưu trữ 27 tháng 9 năm 2007, truy cập 7 tháng 6 năm 2007
- Pandit, R. (27 tháng 7 năm 2009), N-Submarine to Give India Crucial Third Leg of Nuke Triad, The Times of India, truy cập 10 tháng 3 năm 2010
- Perkovich, G. (5 tháng 11 năm 2001), India’s Nuclear Bomb: The Impact on Global Proliferation, University of California Press, ISBN 978-0-520-23210-5, truy cập 22 tháng 7 năm 2011
- India, France Agree on Civil Nuclear Cooperation, Rediff, 25 tháng 1 năm 2008, truy cập 22 tháng 8 năm 2010
- UK, India Sign Civil Nuclear Accord, Reuters, 13 tháng 2 năm 2010, truy cập 22 tháng 8 năm 2010
- Ripsman, N. M.; Paul, T. V. (18 tháng 3 năm 2010), Globalization and the National Security State, Oxford University Press, ISBN 978-0-19-539390-3, truy cập 22 tháng 7 năm 2011
- Rothermund, D. (17 tháng 10 năm 2000), The Routledge Companion to Decolonization, Routledge Companions to History (ấn bản 1), Routledge, ISBN 978-0-415-35632-9
- India Gets Its First Homegrown Fighter Jet, RIA Novosti, 10 tháng 1 năm 2011, truy cập 1 tháng 4 năm 2009
- Sharma, S. R. (1 tháng 1 năm 1999), India–USSR Relations 1947–1971: From Ambivalence to Steadfastness 1, Discovery, ISBN 978-81-7141-486-4
- Shukla, A. (5 tháng 3 năm 2011), China Matches India’s Expansion in Military Spending, Business Standard, truy cập 6 tháng 7 năm 2011
- Sisodia, N. S.; Naidu, G. V. C. (2005), Changing Security Dynamic in Eastern Asia: Focus on Japan, Promilla, ISBN 978-81-86019-52-8
- “SIPRI Yearbook 2008: Armaments, Disarmament, and International Security”, Stockholm International Peace Research Institute (Oxford University Press), 8 tháng 8 năm 2008, ISBN 978-0-19-954895-8, truy cập 22 tháng 7 năm 2011
- “Rise in international arms transfers is driven by Asian demand, says SIPRI”, Stockholm International Peace Research Initiative, 19 tháng 3 năm 2012, Bản gốc lưu trữ 13 tháng 1 năm 2013, truy cập 26 tháng 3 năm 2012
- India, US Sign 123 Agreement, The Times of India, 11 tháng 10 năm 2008, truy cập 21 tháng 7 năm 2011
Kinh tế
- Alamgir, J. (24 tháng 12 năm 2008), India’s Open-Economy Policy: Globalism, Rivalry, Continuity, Taylor & Francis, ISBN 978-0-415-77684-4, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Bonner, B (20 tháng 3 năm 2010), Make Way, World. India Is on the Move, The Christian Science Monitor, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- “India Lost $462bn in Illegal Capital Flows, Says Report”, BBC News (BBC), 18 tháng 11 năm 2010, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- “India Second Fastest Growing Auto Market After China”, Business Line, 9 tháng 4 năm 2010, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Drèze, Jean; Sen, Amartya (2013), An Uncertain Glory: India and Its Contradictions, Allen Lane
- India’s Economy: Not Just Rubies and Polyester Shirts, The Economist, 8 tháng 10 năm 2011, truy cập 9 tháng 10 năm 2011
- “Indian Car Exports Surge 36%”, Express India, 13 tháng 10 năm 2009, Bản gốc lưu trữ 2 tháng 1 năm 2013, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Report for Selected Countries and Subjects: India, Indonesia, Islamic Republic of Iran, Malaysia, Philippines, Sri Lanka, Thailand, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Tháng 4 năm 2011, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Farrell, D.; Beinhocker, E. (19 tháng 5 năm 2007), Next Big Spenders: India’s Middle Class, McKinsey & Company, truy cập 17 tháng 9 năm 2011
- Gargan, E. A. (15 tháng 8 năm 1992), India Stumbles in Rush to a Free Market Economy, The New York Times, truy cập 22 tháng 7 năm 2011
- World Economic Outlook Update (PDF), Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Tháng 6 năm 2011, truy cập 22 tháng 7 năm 2011
- Nayak, P. B.; Goldar, B.; Agrawal, P. (10 tháng 11 năm 2010), India’s Economy and Growth: Essays in Honour of V. K. R. V. Rao, SAGE Publications, ISBN 978-81-321-0452-0
- Pal, P.; Ghosh, J (tháng 7 năm 2007), “Inequality in India: A Survey of Recent Trends” (PDF), Economic and Social Affairs: DESA Working Paper No. 45 (Liên Hiệp Quốc), truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- The World in 2050: The Accelerating Shift of Global Economic Power: Challenges and Opportunities (PDF), PricewaterhouseCoopers, 1 tháng 1 năm 2011, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Schwab, K. (2010), The Global Competitiveness Report 2010–2011 (PDF), World Economic Forum, truy cập 10 tháng 5 năm 2011
- Sheth, N. (28 tháng 5 năm 2009), “Outlook for Outsourcing Spending Brightens”, The Wall Street Journal, truy cập 3 tháng 10 năm 2010
- Srivastava, V. C. (2008), “Introduction”, trong V.C. Srivastava, Lallanji Gopal, D.P. Chattopadhyaya, History of Agriculture in India (p to c1200 AD), History of Science, Philosophy and Culture In Indian Civization, V (Part 1), Concept Publishing Co, ISBN 8180695212
- Information Note to the Press (Press Release No. 143/2012) (PDF), Telecom Regulatory Authority of India, 4 tháng 7 năm 2012, truy cập 1 tháng 4 năm 2012
- Exporters Get Wider Market Reach, The Times of India, 28 tháng 8 năm 2009, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Corruption Perception Index 2010—India Continues to be Corrupt (PDF), Transparency International, 26 tháng 10 năm 2011, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- New Global Poverty Estimates—What It Means for India, Ngân hàng Thế giới, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- “India: Undernourished Children—A Call for Reform and Action”, Ngân hàng Thế giới, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Inclusive Growth and Service Delivery: Building on India’s Success (PDF), Ngân hàng Thế giới, 29 tháng 5 năm 2006, truy cập 7 tháng 5 năm 2009
- India Country Overview tháng 9 năm 2010, Ngân hàng Thế giới, Tháng 9 năm 2010, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Trade to Expand by 9.5% in 2010 After a Dismal 2009, WTO Reports, Tổ chức Thương mại Thế giới, 26 tháng 3 năm 2010, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Yep, E. (27 tháng 9 năm 2011), ReNew Wind Power Gets $201 Million Goldman Investment, The Wall Street Journal, truy cập 27 tháng 9 năm 2011
- Indian IT-BPO Industry, NASSCOM, 2011-2012, truy cập 22 tháng 6 năm 2012
- UNDERSTANDING THE WTO: THE ORGANIZATION Members and Observers, WTO, 1995, truy cập 23 tháng 6 năm 2012
Nhân khẩu
- Bonner, A. (1990), Averting the Apocalypse: Social Movements in India Today, Duke University Press, ISBN 978-0-8223-1048-8, truy cập 24 tháng 7 năm 2011
- Dev, S. M.; Rao, N. C. (2009), India: Perspectives on Equitable Development, Academic Foundation, ISBN 978-81-7188-685-2
- Dharwadker, A. (28 tháng 10 năm 2010), “Representing India’s Pasts: Time, Culture, and Problems of Performance Historiography”, trong Canning, C. M.; Postlewait, T., Representing the Past: Essays in Performance Historiography, University of Iowa Press, ISBN 978-1-58729-905-6, truy cập 24 tháng 7 năm 2011
- Drèze, J.; Goyal, A. (9 tháng 2 năm 2009), “The Future of Mid-Day Meals”, trong Baru, R. V., School Health Services in India: The Social and Economic Contexts, SAGE Publications, ISBN 978-81-7829-873-3
- Dyson, T.; Visaria, P. (7 tháng 7 năm 2005), “Migration and Urbanisation: Retrospect and Prospects”, trong Dyson, T.; Casses, R.; Visaria, L., Twenty-First Century India: Population, Economy, Human Development, and the Environment, Oxford University Press, ISBN 978-0-19-928382-8
- Garg, S. C. (19 tháng 4 năm 2005), Mobilizing Urban Infrastructure Finance in India (PDF), Ngân hàng Thế giới, truy cập 27 tháng 1 năm 2010
- Mallikarjun, B (tháng 11 năm 2004), “Fifty Years of Language Planning for Modern Hindi—The Official Language of India”, Language in India 4 (11), ISSN 19302940, truy cập 24 tháng 7 năm 2011
- Notification No. 2/8/60-O.L, Bộ Nội chính Ấn Độ, 27 tháng 4 năm 1960, truy cập 13 tháng 5 năm 2011
- “Religious Composition”, Office of the Registrar General and Census Commissioner (Bộ Nội chính Ấn Độ), 2010–2011, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- “Census Data 2001”, Office of the Registrar General and Census Commissioner (Bộ Nội chính Ấn Độ), 2010–2011, truy cập 22 tháng 7 năm 2011
- Ottenheimer, H. J. (2008), The Anthropology of Language: An Introduction to Linguistic Anthropology, Cengage, ISBN 978-0-495-50884-7
- Ratna, U. (2007), “Interface Between Urban and Rural Development in India”, trong Dutt, A. K.; Thakur, B, City, Society, and Planning 1, Concept, ISBN 978-81-8069-459-2
- Robinson, S. (1 tháng 5 năm 2008), “India’s Medical Emergency”, Time, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Rorabacher, J. A. (2010), Hunger and Poverty in South Asia, Gyan, ISBN 978-81-212-1027-0
- Singh, S. (2004), Library and Literacy Movement for National Development, Concept, ISBN 978-81-8069-065-5
- Skolnik, R. L. (2008), Essentials of Global Health, Jones & Bartlett Learning, ISBN 978-0-7637-3421-3
- Country Cooperation Strategy: India (PDF), Tổ chức Y tế Thế giới, Tháng 11 năm 2006, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
Văn hóa
- Binmore, K. G. (27 tháng 3 năm 2007), Playing for Real: A Text on Game Theory, Oxford University Press, ISBN 978-0-19-530057-4
- Bladholm, L. (12 tháng 8 năm 2000), The Indian Grocery Store Demystified (ấn bản 1), Macmillan Publishers, ISBN 978-1-58063-143-3
- “Saina Nehwal: India’s Badminton Star and “New Woman””, BBC News, 1 tháng 8 năm 2010, truy cập 5 tháng 10 năm 2010
- “Commonwealth Games 2010: India Dominate Shooting Medals”, BBC News, 7 tháng 10 năm 2010, truy cập 3 tháng 6 năm 2011
- Chopra, P. (18 tháng 3 năm 2011), A Joint Enterprise: Indian Elites and the Making of British Bombay, University of Minnesota Press, ISBN 978-0-8166-7037-6
- Cullen-Dupont, K. (tháng 7 năm 2009), Human Trafficking (ấn bản 1), Infobase Publishing, ISBN 978-0-8160-7545-4
- Das, S. K. (1 tháng 1 năm 2005), A History of Indian Literature, 500–1399: From Courtly to the Popular, Sahitya Akademi, ISBN 978-81-260-2171-0
- Datta, A. (2006), The Encyclopaedia of Indian Literature 2, Sahitya Akademi, ISBN 978-81-260-1194-0
- Dehejia, R. S. (7 tháng 11 năm 2011), “Indian Grand Prix Vs. Encephalitis?”, The Wall Street Journal, truy cập 20 tháng 12 năm 2011
- Deutsch, E. (30 tháng 4 năm 1969), Advaita Vedānta: A Philosophical Reconstruction, University of Hawaii Press, ISBN 978-0-8248-0271-4
- Dissanayake, W. K.; Gokulsing, M. (tháng 5 năm 2004), Indian Popular Cinema: A Narrative of Cultural Change (ấn bản 2), Trentham Books, ISBN 978-1-85856-329-9
- Southern Movies Account for over 75% of Film Revenues, The Economic Times, 18 tháng 11 năm 2009, truy cập 18 tháng 6 năm 2011
- Indian Dance, “South Asian Arts”, Encyclopædia Britannica, truy cập 17 tháng 7 năm 2011
- “Tamil Literature”, Encyclopædia Britannica, 2008, truy cập 24 tháng 7 năm 2011
- Eraly, A. (2008), India, Penguin Books, ISBN 978-0-7566-4952-4, truy cập 24 tháng 7 năm 2011
- Hart, G. L. (tháng 8 năm 1975), Poems of Ancient Tamil: Their Milieu and Their Sanskrit Counterparts (ấn bản 1), University of California Press, ISBN 978-0-520-02672-8
- Heehs, P. biên tập (1 tháng 9 năm 2002), Indian Religions: A Historical Reader of Spiritual Expression and Experience, New York University Press, ISBN 978-0-8147-3650-0, truy cập 24 tháng 7 năm 2011
- Henderson, C. E. (2002), Culture and Customs of India, Greenwood Publishing Group, ISBN 978-0-313-30513-9
- Hoiberg, D.; Ramchandani, I. (2000), Students’ Britannica India: Select Essays, Popular Prakashan, ISBN 978-0-85229-762-9
- Johnson, W. J. biên tập (1 tháng 9 năm 2008), The Sauptikaparvan of the Mahabharata: The Massacre at Night, Oxford World’s Classics (ấn bản 2), Oxford University Press, ISBN 978-0-19-282361-8
- Jones, G.; Ramdas, K. (2005), (Un)tying the Knot: Ideal and Reality in Asian Marriage, National University of Singapore Press, ISBN 978-981-05-1428-0
- Kālidāsa; Johnson, W. J. (15 tháng 11 năm 2001), The Recognition of Śakuntalā: A Play in Seven Acts, Oxford University Press, ISBN 978-0-19-283911-4
- Kaminsky, Arnold P.; Long, Roger D. (30 tháng 9 năm 2011), India Today: An Encyclopedia of Life in the Republic: An Encyclopedia of Life in the Republic, ABC-CLIO, ISBN 978-0-313-37462-3, truy cập 12 tháng 9 năm 2012</ref>
- Karanth, S. K. (tháng 10 năm 2002), Yakṣagāna, Abhinav Publications, ISBN 978-81-7017-357-1
- Kiple, K. F.; Ornelas, K. C. biên tập (2000), The Cambridge World History of Food, Cambridge: Cambridge University Press, ISBN 978-0-521-40216-3
- Kuiper, K. biên tập (1 tháng 7 năm 2010), The Culture of India, Britannica Educational Publishing, ISBN 978-1-61530-203-1, truy cập 24 tháng 7 năm 2011
- Kumar, V. (tháng 1 năm 2000), Vastushastra, All You Wanted to Know About Series (ấn bản 2), Sterling Publishing, ISBN 978-81-207-2199-9
- Lal, A. (2004), The Oxford Companion to Indian Theatre, Oxford University Press, ISBN 978-0-19-564446-3, truy cập 24 tháng 7 năm 2011
- Lang, J.; Moleski, W. (1 tháng 12 năm 2010), Functionalism Revisited, Ashgate Publishing, ISBN 978-1-4094-0701-0
- MacDonell, A. A. (2004), A History of Sanskrit Literature, Kessinger Publishing, ISBN 978-1-4179-0619-2
- Majumdar, B.; Bandyopadhyay, K. (2006), A Social History of Indian Football: Striving To Score, Routledge, ISBN 978-0-415-34835-5
- Makar, E. M. (2007), An American’s Guide to Doing Business in India, Adams, ISBN 978-1-59869-211-2
- Massey, R.; Massey, J (1998), The Music of India, Abhinav Publications, ISBN 978-81-7017-332-8
- Medora, N. (2003), “Mate Selection in Contemporary India: Love Marriages Versus Arranged Marriages”, trong Hamon, R. R.; Ingoldsby, B. B., Mate Selection Across Cultures, SAGE Publications, tr. 209–230, ISBN 978-0-7619-2592-7
- Messner, W. (2009), Working with India. The Softer Aspects of a Successful Collaboration with the Indian IT & BPO Industry, Springer, ISBN 978-3-540-89077-5
- Messner, W. (2012), Engaging with India. How to Manage the Softer Aspects of a Global Collaboration, Createspace, ISBN 978-1-466244900
- “Indian Readership Survey 2012 Q1: Topline Findings” (PDF). Media Research Users Council. Growth: Literacy & Media Consumption. Truy cập 12 tháng 9 năm 2012.
- Mehta, Nalin (30 tháng 7 năm 2008), Television in India: Satellites, Politics and Cultural Change, Taylor & Francis US, ISBN 978-0-415-44759-1, truy cập 12 tháng 9 năm 2012
- Is Boxing the New Cricket?, Mint, 24 tháng 9 năm 2010, truy cập 5 tháng 10 năm 2010
- Nakamura, H. (1 tháng 4 năm 1999), Indian Buddhism: A Survey with Bibliographical Notes, Buddhist Tradition Series (ấn bản 12), Motilal Banarsidass, ISBN 978-81-208-0272-8
- Puskar-Pasewicz, M. (16 tháng 9 năm 2010), Cultural Encyclopedia of Vegetarianism, Greenwood Publishing Group, ISBN 978-0-313-37556-9
- Raghavan, S. (23 tháng 10 năm 2006), Handbook of Spices, Seasonings, and Flavorings (ấn bản 2), CRC Press, ISBN 978-0-8493-2842-8
- Raichlen, S. (10 tháng 5 năm 2011), A Tandoor Oven Brings India’s Heat to the Backyard, The New York Times, truy cập 14 tháng 6 năm 2011
- Rajadhyaksha, A.; Willemen, P. biên tập (22 tháng 1 năm 1999), Encyclopaedia of Indian Cinema (ấn bản 2), British Film Institute, ISBN 978-0-85170-669-6
- Ramanujan, A. K. (dịch giả) (15 tháng 10 năm 1985), Poems of Love and War: From the Eight Anthologies and the Ten Long Poems of Classical Tamil, New York: Columbia University Press, tr. ix–x, ISBN 978-0-231-05107-1
- Rawat, Ramnarayan S (23 tháng 3 năm 2011), Reconsidering Untouchability: Chamars and Dalit History in North India, Indiana University Press, ISBN 978-0-253-22262-6
- Anand Crowned World Champion, Rediff, 29 tháng 10 năm 2008, truy cập 29 tháng 10 năm 2008
- Roberts, N. W. (12 tháng 7 năm 2004), Building Type Basics for Places of Worship (ấn bản 1), John Wiley & Sons, ISBN 978-0-471-22568-3
- Sarma, S. (1 tháng 1 năm 2009), A History of Indian Literature 1 (ấn bản 2), Motilal Banarsidass, ISBN 978-81-208-0264-3
- Schoenhals, M. (22 tháng 11 năm 2003), Intimate Exclusion: Race and Caste Turned Inside Out, University Press of America, ISBN 978-0-7618-2697-2
- Schwartzberg, J. (2011), Caste, “India”, Encyclopædia Britannica, truy cập 17 tháng 7 năm 2011
- Sen, A. (5 tháng 9 năm 2006), The Argumentative Indian: Writings on Indian History, Culture, and Identity (ấn bản 1), Picador, ISBN 978-0-312-42602-6
- Seymour, S.C. (28 tháng 1 năm 1999), Women, Family, and Child Care in India: A World in Transition, Cambridge University Press, ISBN 978-0-521-59884-2
- Silverman, S. (10 tháng 10 năm 2007), Vastu: Transcendental Home Design in Harmony with Nature, Gibbs Smith, ISBN 978-1-4236-0132-6
- Tarlo, E. (1 tháng 9 năm 1996), Clothing Matters: Dress and Identity in India (ấn bản 1), University of Chicago Press, ISBN 978-0-226-78976-7, truy cập 24 tháng 7 năm 2011
- Sawant Shoots Historic Gold at World Championships, The Times of India, 9 tháng 8 năm 2010, truy cập 25 tháng 5 năm 2011
- Taj Mahal, UNESCO, truy cập 3 tháng 3 năm 2012
- India Aims for Center Court, The Wall Street Journal, 11 tháng 9 năm 2009, truy cập 29 tháng 9 năm 2010
- Wengell, D. L.; Gabriel, N. (1 tháng 9 năm 2008), Educational Opportunities in Integrative Medicine: The A-to-Z Healing Arts Guide and Professional Resource Directory (ấn bản 1), The Hunter Press, ISBN 978-0-9776552-4-3
- “Intergenerational Mobility for Dalits Is Visible, Albeit Limited” (PDF). World Bank Report 2011. doi:10.1596/978-0-8213-8689-7. Truy cập 6 tháng 9 năm 2012.
- Xavier, L. (12 tháng 9 năm 2010), Sushil Kumar Wins Gold in World Wrestling Championship, The Times of India, truy cập 5 tháng 10 năm 2010
- Yadav, S. S.; McNeil, D.; Stevenson, P. C. (23 tháng 10 năm 2007), Lentil: An Ancient Crop for Modern Times, Springer, ISBN 978-1-4020-6312-1
- Zvelebil, K. V. (1 tháng 8 năm 1997), Companion Studies to the History of Tamil Literature, Brill Publishers, ISBN 978-90-04-09365-2
Liên kết ngoài
Tìm thêm về Ấn Độ tại những đồng dự án của Wikipedia: | |
![]() |
Từ điển ở Wiktionary |
![]() |
Sách ở Wikibooks |
![]() |
Cẩm nang du lịch ở Wikivoyage |
![]() |
Hồ sơ ở Wikiquote |
![]() |
Văn kiện ở Wikisource |
![]() |
Hình ảnh và phương tiện ở Commons |
![]() |
Tin tức ở Wikinews |
![]() |
Tài liệu giáo dục ở Wikiversity |
- Cổng thông tin quốc gia của Chính phủ Ấn Độ
- Mục “India” trên trang của CIA World Factbook.
- Ấn Độ tại DMOZ (trang đề nghị)
- Sơ lược Ấn Độ từ BBC News
- Mục từ Ấn Độ trên Encyclopædia Britannica
- Ấn Độ trên Thư viện Thông tin Chính phủ UCB
|
|
|
Rabindranath Tagore
Rabindranath Tagore | |
---|---|
![]() Rabindranath Tagore tại Kolkata, khoảng 1915
|
|
Sinh | 7 tháng 5 năm 1861 Kolkata, Ấn Độ |
Mất | 7 tháng 8, 1941 (80 tuổi) Kolkata, Ấn Độ |
Công việc | Nhà thơ, Nhà viết kịch, Triết gia |
Quốc gia | ![]() |
Giai đoạn sáng tác | Thời kỳ phục hưng Bengal |
Ảnh hưởng tới[hiện]
|
|
|
|
Chữ ký | ![]() |
Rabindranath Tagore, hay Rabindranath Thakur, (6 tháng 5 năm 1861 – 7 tháng 8 năm 1941) là một nhà thơ Bengal, triết gia Bà La Môn và nhà dân tộc chủ nghĩa được trao Giải Nobel Văn học năm 1913, trở thành người châu Á đầu tiên đoạt giải Nobel.
Tagore sinh tại Kolkata, Tây Bengal, Ấn Độ trong một gia đình trí thức truyền thống ở nhiều lĩnh vực. Bấy giờ, Calcutta là trung tâm giới trí thức của Ấn Độ. Có rất nhiều nhà văn, học giả, kịch tác gia… thường xuyên đến nhà Tagore để đàm luận vấn đề, tổ chức hòa nhạc, diễn kịch… Cha ông là Debendranath Tagore, một nhà triết học và hoạt động xã hội nổi tiếng, từ lâu ông muốn con mình trở thành luật sư nhưng Tagore không thích. Dù sao thì Tagore được hun đúc trong một môi trường văn hóa rất ưu việt. Khi đi học, cậu được học tất cả trên mọi lĩnh vực nhưng cậu thích nhất thơ ca, tiểu thuyết và kịch.
Mặc dù thơ chiếm ưu thế trong sự nghiệp của Tagore với hơn 1.000 bài (50 tập thơ) – bắt đầu từ việc năm 14 tuổi ông được đăng bài thơ “Tặng hội đền tín đồ Ấn Độ giáo“, ông cũng để lại nhiều tiểu thuyết (12 bộ dài và vừa), luận văn, hàng trăm truyện ngắn, kí, kịch (42 vở), 2000 tranh vẽ,… Không kém phần nổi tiếng trong số các tác phẩm của ông là hơn 2.000 bài hát, ngày nay được gọi là Rabindra Sangeet và được xem là kho tàng văn hoá Bengal, ở cả Tây Bengal thuộc Ấn Độ lẫn Bangladesh, liên quan sâu sắc tới mọi lĩnh vực.
Văn xuôi của Tagore đề cập đến các vấn đề xã hội, chính trị, giáo dục và nhãn quan của ông về tình huynh đệ phổ quát của con người. Thi ca của ông, xuất phát từ một tinh thần sâu sắc và sự hiến dâng, thường có nội dung ca ngợi thiên nhiên và cuộc sống. Đối với ông, sự phong phú muôn màu vẻ của cuộc sống là nguồn vui bất tận không mang yếu tố trần tục. Chủ đề tình yêu là mô-típ bàng bạc trong khắp các tác phẩm văn chương của ông.
Các bài hát của ông được chọn làm quốc ca của cả Ấn Độ và Bangladesh. Năm 1913, ông đoạt giải Nobel về văn chương cho bản dịch tiếng Anh của tác phẩm Gitanjali (Thơ dâng) của ông. Những tập thơ tiêu biểu của ông là Thơ dâng, Balaca, Người làm vườn, Mùa hái quả, Ngày sinh, Thơ ngắn…
Tagore cũng viết một số tác phẩm để phục vụ cho phong trào giải phóng Ấn Độ. Ông từ chối tước Hiệp sĩ (knight) của Hoàng gia Anh để phản đối cuộc Thảm sát Jallianwala Bagh tạiAmritsar năm 1919 mà lính Anh đã nã súng vào nhóm thường dân tụ tập không vũ trang, giết hơn 500 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em vô tội.
Quan điểm về giáo dục dẫn đưa ông thành lập trường của mình, gọi là Brahmacharyashram (brahmacaryāśrama, trung tâm giữ giới Phạm hạnh, brahmacarya), tại Santiniketan ở Tây Bengal năm 1901, nơi cha ông để lại mảnh đất cho ông làm tài sản. Sau năm 1921, trường này trở thành Đại học Vishwa-Bharti và đặt dưới quyền quản lí của chính phủ Ấn Độ từ năm 1951.
Tagore rất nhạy cảm với các sự kiện thế giới xảy ra trong thời đại của mình và biểu hiện niềm đau cũng như nỗi thất vọng đối với chiến tranh. Ông luôn khao khát nền hoà bình cho thế giới.
Các chuyến đi vòng quanh thế giới (Tagore từng tới Việt Nam) của Tagore đã mài dũa sự am hiểu các đặc trưng đa dạng của ông về các nền văn minh và dân tộc. Ông được xem là thí dụ điển hình cho sự kết hợp tinh tế của phương Đông và phương Tây trong văn chương.
Ngày nay Tagore vẫn là nguồn cảm hứng cho hơn 200 triệu người Bengal sống ở Tây Bengal của Ấn Độ và Bangladesh cũng như nhiều người trên khắp thế giới.
Tagore gọi Gandhi là “Mahatma” – linh hồn vĩ đại, và Gandhi (cũng như mọi người Ấn Độ) gọi Tagore là “Gurudev” – thánh sư.
Thơ ông đến với độc giả người Việt qua các bản dịch của Đỗ Khánh Hoan, Đào Xuân Quý và một số dịch giả khác.
Mục lục
Chú thích
- Bài viết
- Frenz, H. (editor) (1969), Rabindranath Tagore—Biography, Nobel Foundation, truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2009 Đã bỏ qua tham số không rõ
|dateformat=
(trợ giúp) - Meyer, L. (2004), “Tagore in The Netherlands”, Parabaas, truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2009 Đã bỏ qua tham số không rõ
|dateformat=
(trợ giúp) - Radice, W. (2003), “Tagore’s Poetic Greatness”, Parabaas, truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2009 Đã bỏ qua tham số không rõ
|dateformat=
(trợ giúp) - Robinson, A., “Rabindranath Tagore”, Encyclopædia Britannica, truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2009 Đã bỏ qua tham số không rõ
|dateformat=
(trợ giúp) - Sen, A. (1997), “Tagore and His India“, New York Review of Books, retrieved 2009-11-26
- Sách
- Brown, G. (1948), “The Hindu Conspiracy: 1914–1917”, The Pacific Historical Review (University of California Press) 17 (3): 299–310, ISSN 0030-8684
- Chakravarty, A. (editor) (1961), A Tagore Reader, Beacon Press, ISBN 978-0807059715
- Dutta, K.; Robinson, A. (1995), Rabindranath Tagore: The Myriad-Minded Man, Saint Martin’s Press, ISBN 0-312-14030-4
- Dutta, K. (editor); Robinson, A. (editor) (1997), Rabindranath Tagore: An Anthology, Saint Martin’s Press, ISBN 0-312-16973-6
- Roy, B. K. (1977), Rabindranath Tagore: The Man and His Poetry, Folcroft Library Editions, ISBN 0-8414-7330-7
- Stewart, T. (editor, translator); Twichell, C. (editor, translator) (2003), Rabindranath Tagore: Lover of God, Copper Canyon Press, ISBN 1-55659-196-9
- Tagore, R. (1977), Collected Poems and Plays of Rabindranath Tagore, Macmillan Publishing, ISBN 0-02-615920-1
- Thompson, E. (1926), Rabindranath Tagore: Poet and Dramatist, Read, ISBN 1-4067-8927-5
- Urban, H. B. (2001), Songs of Ecstasy: Tantric and Devotional Songs from Colonial Bengal, Oxford University Press, ISBN 0-19-513901-1
Đọc thêm
- Chaudhuri, A. (2004), The Vintage Book of Modern Indian Literature, Vintage, ISBN 0-375-71300-X
- Deutsch, A.; Robinson, A. (1989), The Art of Rabindranath Tagore, Monthly Review Press, ISBN 0-233-98359-7
- Deutsch, A. (editor); Robinson, A. (editor) (1997), Selected Letters of Rabindranath Tagore, Cambridge University Press, ISBN 0-521-59018-3
- Som, R. (2009), Rabindranath Tagore: The Singer and His Song, Viking, ISBN 978-0-670-08248-3
Một số bài thơ
LOTUS
On the day when the lotus bloomed, alas, my mind was straying,
and I knew it not. My basket was empty and the flower remained unheeded.
Only now and again a sadness fell upon me, and I started up from my
dream and felt a sweet trace of a strange fragrance in the south wind.
That vague sweetness made my heart ache with longing and it seemed to
me that is was the eager breath of the summer seeking for its completion.
I knew not then that it was so near, that it was mine, and that this
perfect sweetness had blossomed in the depth of my own heart.
Rabindranath Tagore
HOA SEN
Vào ngày sen nở, chao ôi,
Tâm hồn tôi bỗng bồi hồi lang thang
Tôi đâu có biết rõ ràng
Lẵng hoa trống rỗng, hoa vương chốn nào.
Giờ đây lại thấy buồn sao
Giật mình tỉnh mộng, xiết bao ngỡ ngàng
Thấy mùi hương lạ dịu dàng
Ướp trong làn gió phương Nam thổi về.
Hương thơm thoang thoảng đê mê
Làm lòng tôi chợt tái tê mơ mòng
Tưởng chừng mùa hạ mặn nồng
Thở hơi tha thiết cầu mong vẹn phần.
Tôi nào ngờ thấy quá gần
Hương ngào ngạt tỏa ngát thầm trong tôi
Hương hoa toàn hảo tuyệt vời
Nở ra trong đáy lòng tôi thơm lừng.
Dịch thơ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
Tham khảo
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Rabindranath Tagore |
- Gitanjali hoặc tại [1] (tiếng Anh)
- Một số tác phẩm của Tagore tại Dự án Gutenberg (tiếng Anh)
- Tâm tình hiến dâng, bản dịch The Gardener của Đỗ Khánh Hoan (hoặc tại [2]) (đến bài 67)
- Tuyên dương của Viện Hàn lâm Thụy Điển
- Đại học Vishwa-Bharti
|
- Sơ khai nhà khoa học
- Sinh 1861
- Mất 1941
- Nhà thơ Ấn Độ
- Người đoạt giải Nobel Văn chương
- Người Ấn Độ đoạt giải Nobel
- Người Kolkata
Bài viết mới trên TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
- Chào ngày mới 6 tháng 8
- Di sản Engels
- Đợi Anh
- Chào ngày mới 5 tháng 8
- Chào ngày mới 4 tháng 8
- Chào ngày mới 3 tháng 8
- Khổng Tử dạy và học
- Tiếng Anh cho em
- Chào ngày mới 2 tháng 8
- Rằm Xuân Hà Nội
- Chào ngày mới 1 tháng 8
- Chào ngày mới 31 tháng 7
- Henry Ford và Thượng Đế
- Chào ngày mới 30 tháng 7
- Lê Phụng Hiểu truyện hay nhớ mãi
- Chào ngày mới 29 tháng 7
- Ông Hồ Sáu làm kinh tế giỏi
- Biển Đông vạn dặm
- Chào ngày mới 28 tháng 7
- Bài thơ không thể nào quên
- Chào ngày mới 27 tháng 7
- Nhớ bạn
- Chào ngày mới 26 tháng 7
- Gọi đôi
- Chào ngày mới 25 tháng 7
- Mảnh đạn trong người
- Chào ngày mới 24 tháng 7
- Năm tháng đó là em
- Chào ngày mới 23 tháng 7
- Chào ngày mới 22 tháng 7
- Thăm Borlaug và Hemingway ở CIANO
- Chào ngày mới 20 tháng 7
- Biển Đông vạn dặm
- Chào ngày mới 19 tháng 7
- Chào ngày mới 18 tháng 7
- Chào ngày mới 17 tháng 7
- Lớp học trên đồng ĐăkGlong Oxfam
- Chào ngày mới 16 tháng 7
- Từ Mekong nhớ Neva
- Chào ngày mới 15 tháng 7
- Ngày mới yêu thương
- Chào ngày mới 14 tháng 7
- Chào ngày mới 13 tháng 7
- Mạc triều trong sử Việt
- Chào ngày mới 12 tháng 7
- Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời
- Giấc mơ tình yêu cuộc sống
- Chào ngày mới 11 tháng 7
- Khoảnh khắc tuyệt đẹp
- Tiếng Anh cho em
- Tháng Bảy mưa Ngâu
- Chào ngày mới 10 tháng 7
- Biển Đông vạn dặm
- Chào ngày mới 9 tháng 7
- Đợi mưa
- Ngày mới yêu thương
- Chào ngày mới 8 tháng 7
- Chào ngày mới 7 tháng 7
- Chào ngày mới 6 tháng 7
- Dưới đáy đại dương là Ngọc
- Lộc xuân cuộc đời
- Chào ngày mới 5 tháng 7
- Ngày mới yêu thương
- Biển Đông vạn dặm
- Chào ngày mới 4 tháng 7
- Trần Thánh Tông
- Bà Đen
- Lộc xuân cuộc đời
- Đọc lại và suy ngẫm 2
- Chào ngày mới 2 tháng 7
- Tiếng Anh cho em
- Biển Đông vạn dặm
- Chào ngày mới 1 tháng 7
- Lời vàng của Anbe Anhstanh
Video nhạc tuyển
Khí công Y đạo: Bài học tốt tự chăm sóc sức khỏe
Ban Mai
MAR AKRAM – Dancing with the wind♥
KimYouTube
Trở về trang chính
Hoàng Kim Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và học Cây Lương thực Dạy và Học Tình yêu cuộc sống Kim on LinkedIn KimYouTube Kim on Facebook