CNM365. Chào ngày mới 3 tháng 5. Wikipedia Ngày này năm xưa. Ngày Tự do Báo chí thế giới (World Press Freedom Day) theo Liên Hiệp Quốc. Năm 1481 – ngày mất của Quốc vương Mehmed II là vị Sultan thứ bảy của đế quốc Ottoman (cựu đế quốc Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ đã tồn tại từ năm 1299 đến 1923 với lãnh thổ rộng nhất năm 1680 đạt tới 11.5 triệu km²). Năm 1937 – Tiểu thuyết Cuốn theo chiều gió (hình) của Margaret Mitchell giành giải Pulitzer cho thể loại tác phẩm hư cấu.
3 tháng 5
Ngày 3 tháng 5 là ngày thứ 123 (124 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 242 ngày trong năm.
« Tháng 5 năm 2015 » | ||||||
CN | T2 | T3 | T4 | T5 | T6 | T7 |
1 | 2 | |||||
3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 |
10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 |
17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 |
24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 |
31 | ||||||
Mục lục
Sự kiện
- 1481 – Sultan Mehmed II của Ottoman từ trần với nguyên nhân được cho là do trúng độc, tin tức này khiến các quốc gia châu Âu ăn mừng.
- 1494 – Christopher Columbus lần đầu tiên xác định Jamaica.
- 1868 – Tướng Quân Tokugawa Keiki đầu hàng giao thành Edo cho quân đội của Thiên Hoàng, Mạc phủ Tokugawa kết thúc.
- 1875 – Đạo Quang Đế bổ nhiệm Tả Tông Đường là khâm sai đại thần, đốc biện Tân Cương quân vụ.
- 1937 – Tiểu thuyết Cuốn theo chiều gió của Margaret Mitchell giành giải Pulitzer cho tác phẩm hư cấu.
- 1931 – Nguyễn Phong Sắc, nhà cách mạng Việt Nam đã bị mật thám của Pháp bắt ở ga Hàng Cỏ. Ít lâu sau, ông bị họ thủ tiêu bí mật.
- 1960 – Hiệp hội Mậu dịch tự do châu Âu được thành lập với bảy thành viên.
- 1978 – Thư điện tử thương mại không yêu cầu (về sau gọi là “Thư rác”) được gửi đến mọi địa chỉ ARPANET tại Tây Duyên hải Hoa Kỳ.
- 1996 – Đoàn đại biểu từ 55 nước họp tại Genève đã đồng ý chấp nhận một số nguyên tắc mới trong việc sử dụng mìn nhưng không chấp nhận lệnh cấm sử dụng mìn hoàn toàn.
Sinh
- 1469 – Niccolò Machiavelli, nhà ngoại giao, nhà triết học chính trị, nhạc gia, nhà thơ, nhà soạn kịch người Ý(m. 1527).
- 1849 – Bertha Benz, doanh nhân người Đức trong lĩnh vực xe hơi (m. 1944)
- 1878 – Ngô Đức Kế sinh ở Hà Tĩnh, là nhà thơ, nhà báo, là chủ bút báo Hữu Thanh.
- Trần Nghi – tướng lĩnh người Trung Quốc (m. 1950)
- 1921 – Tạ Tỵ, hoạ sĩ Việt Nam
Người chết
- 1152 – Matilda xứ Boulogne, nữ hoàng Anh.
- 1270 – Béla IV, vua Hungary.
Những ngày lễ và kỷ niệm
- Ngày Tự do Báo chí thế giới (World Press Freedom Day) theo LHQ
Tháng 1 | Tháng 2 | Tháng 3 | Tháng 4 | Tháng 5 | Tháng 6 | Tháng 7 | Tháng 8 | Tháng 9 | Tháng 10 | Tháng 11 | Tháng 12 |
Tham khảo
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về 3 tháng 5 |
Ngày Tự do Báo chí thế giới
Ngày Tự do Báo chí thế giới | |
---|---|
Ngày | 3 tháng 5 |
Ngày Tự do Báo chí thế giới là ngày Liên Hiệp Quốc dành riêng để cổ vũ và nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của Tự do báo chí trên toàn thế giới.
Mục lục
Lịch sử
Theo đề nghị của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc, ngày 20.12.1993 Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc đã công bố ngày 3 tháng 5 là “Ngày Tự do Báo chí thế giới” (Nghị quyết số 48/432)[1][2] để nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của tự do báo chí và nhắc nhở các chính phủ về bổn phận phải tôn trọng và duy trì quyền tự do ngôn luận theo Điều 19 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và đánh dấu ngày kỷ niệm Tuyên ngôn Windhoek, một tuyên ngôn về những nguyên tắc tự do báo chí do các nhà báo châu Phi đưa ra năm 1991.
Các tổ chức như Phóng viên không biên giới (RSF) đã dùng ngày này để chỉ ra những biện pháp bạo lực và độc đoán của các nhà cầm quyền đối với báo chí, như bắt giam và giết hại các nhà báo. Theo tài liệu hàng năm của tổ chức “Phóng viên không biên giới” xuất bản ngày 3.5.2005 ở Genève thì riêng năm 2004 đã có 19 nhà báo bị giết ở Iraq. Chỉ riêng 4 tháng đầu năm 2005 trên thế giới đã có 22 nhà báo bị giết, trong đó có 9 người ở Iraq. Vào ngày 1 tháng Giêng năm 2005, trên thế giới có 107 người làm việc cho các phương tiện truyền thông bị cầm tù, chỉ tính riêng ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 26 và Cuba là 22 người.
UNESCO đánh dấu “Ngày Tự do Báo chí thế giới” bằng việc nhắc tới Giải Guillermo Cano cho Tự do Báo chí trên thế giới trao cho một cá nhân, một tổ chức hay một cơ quan xứng đáng, đã có đóng góp xuất sắc vào việc bảo vệ hoặc làm tăng cao quyền tự do báo chí trên khắp thế giới, nhất là khi việc này được thực hiện lúc phải đối mặt với sự nguy hiểm. Được thiết lập năm 1997, giải này đuợc trao theo sự tiến cử của một ban giám khảo độc lập gồm 14 chuyên gia về tin tức. Các tên ứng viên do các tổ chức phi chính phủ quốc tế và địa phương đấu tranh cho tự do báo chí và các nước thành viên UNESCO đề cử.
Giải được đặt tên như vậy để vinh danh Guillermo Cano Isaza, một nhà báo người Colombia đã bị ám sát ngay trước trụ sở tòa báo El Espectador của ông ở Bogotá, ngày 17.12.1986 vì ông viết nhiều bài tố cáo tội phạm của những ông trùm ma túy đầy thế lực ở Colombia.
UNESCO cũng đánh dấu “Ngày Tự do Báo chí thế giới” mỗi năm bằng cách tập hợp các chuyên gia phương tiện truyền thông, các tổ chức tự do báo chí và các cơ quan Liên Hiệp Quốc để đánh giá tình trạng tự do báo chí trên toàn thế giới và bàn luận các giải pháp để giải quyết những thách thức. Mỗi hội nghị tập trung vào một chủ đề liên quan đến tự do báo chí, bao gồm việc quản trị tốt, việc theo dõi đua tin của phương tiện truyền thông về nạn khủng bố, tinh trạng các tội phạm không bị trừng phạt và vai trò của các phương tiện truyền thông ở các nước sau khi xảy ra chiến tranh.
Ngày Tự do Báo chí thế giới năm 2011 2011 World Press Freedom Day celebration được tổ chức ở Washington, D.C., Hoa Kỳ từ ngày 1-3 tháng 5. Đây là lần đầu tiên Hoa Kỳ đứng ra tổ chức lễ kỷ niệm Ngày Tự do Báo chí thế giới. Chủ đề của ngày này năm nay là “Truyền thông thế kỷ 21: Các giới hạn mới, các rào cản mới”. Ngày kỷ niệm này đã khẳng định các nguyên tắc cơ bản của phương tiện truyền thông tự do trong thời đại kỹ thuật số – khả năng của các công dân nói lên ý kiến của họ và khả năng truy cập các nguồn thông tin độc lập khác nhau – 20 năm sau Tuyên ngôn ban đầu được đưa ra ở Windhoek, Namibia. Chương trình và chương trình nghị sự Ngày Tự do Báo chí thế giới 2011 có thể xem ở đây here.
Các Ngày Tự do Báo chí thế giới hàng năm được UNESCO và nước chủ nhà tổ chức vào ngày 3 tháng 5, thường khai mạc bằng thông điệp của Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc với sự chủ tọa của Tổng Giám đốc UNESCO và Tổng thống hay Thủ tướng nước chủ nhà.
Ngày Tự do Báo chí thế giới và các chủ đề
- 2014: Paris, Pháp – “Media Freedom for a Better Future:Shaping the post-2015 Development Agenda”
- 2013: San José, Costa Rica – “Safe to Speak: Securing Freedom of Expression in All Media” [3]
- 2012: Tunis, Tunisia – “New Voices: Media Freedom Helping to Transform Societies”
- 2011: Washington D.C., Hoa Kỳ – “21st Century Media: New Frontiers, New Barriers-“
- 2010: Brisbane, Úc – “Freedom of information: the right to know”.
- 2009: Doha, Qatar – “Dialogue, mutual understanding and reconciliation.”
- 2008: Maputo, Mozambique – “Celebrating the fundamental principles of press freedom.”
- 2007: Medellín, Colombia – “The United Nations and the freedom of press.”
- 2006: Colombo, Sri Lanka – “The media as drivers of change.”
- 2005: Dakar, Senegal – “Media and Good Governance”.
- 2004: Belgrade, Serbia – “Who decides how much information?”.
- 2003: Kingston, Jamaica – “The Media and Armed Conflict.”
- 2002: Manila, Philippines – “Covering the War on Global Terrorism.”
- 2001: Windhoek, Namibia – “combating racism and promoting diversity: the role of free press.”
- 2000: Genève, Thụy Sĩ – “Reporting the News in a Dangerous World: The Role of the Media in conflict settlement, Reconciliation and peace-building.”
- 1999: Bogota, Colombia – “Turbulent Eras: Generational Perspectives on Freedom of the Press.”
- 1998: Luân Đôn, Anh – “Press Freedom is a Cornerstone of Human Rights.”
2014
Tổ chức Phóng viên Không Biên giới công bố danh sách 100 ‘Anh hùng Thông tin’ nhân Ngày Tự do Báo chí Thế giới 2014 trong đó có ba người Việt Nam, ông Lê Ngọc Thanh, Phạm Chí Dũng và Trương Duy Nhất.[4]
Tham khảo
- ^ Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc Verbatim Report cuộc họp 85 phiên họp 48 trang 29 (được truy cập ngày {{{date}}})
- ^ Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc Document 624 phiên họp 48 Report of the Economic and Social Council – Draft Decision II trang 22 ngày ngày 17 tháng 12 năm 1993
- ^ Previous celebrations
- ^ Ba người Việt là ‘Anh hùng Thông tin’, BBC, 30.04.2014
Mehmed II
- “Fatih Sultan Mehmet” đổi hướng đến đây. Để biết về một chiếc cầu bắc qua eo biển Bosphorus, xem cầu Fatih Sultan Mehmet
Mehmed II | ||
---|---|---|
Sultan Thổ Nhĩ Kỳ | ||
![]() Sultan Mehmed II, tranh sơn dầu trên vải bạt, Gentille Bellini (1480). Nay được lưu giữ ở Phòng tranh Quốc gia (Luân Đôn)
|
||
Sultan của đế quốc Ottoman | ||
Trị vì | 3 tháng 2, 1451 – 3 tháng 5, 1481 | |
Tiền nhiệm | Murad II | |
Kế nhiệm | Bayezid II | |
Thông tin chung | ||
Thê thiếp | Amina Gul-Bahar Gulshah Hatun Sitti Mukrime Hatun Hatun Çiçek Helene Hatun Anna Hatun Hatun Alexias |
|
Hậu duệ |
|
|
Họ Osman | ||
Thân phụ | Murad II | |
Thân mẫu | Huma Hatun | |
Sinh | 30 tháng 3 năm 1432 Erdine, Thổ Nhĩ Kỳ |
|
Mất | 3 tháng 5 năm 1481 Hünkârcayırı, gần Gebze, Thổ Nhĩ Kỳ |
|
Tôn giáo | Hồi giáo | |
Mehmed II (Tiếng Thổ Ottoman: محمد الثانى Meḥmed-i s̠ānī, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: II. Mehmet), (còn được biết như Méchmét vô địch,[1] tức el-Fātiḥ (الفاتح) trong tiếng Thổ Ottoman, hay, Fatih Sultan Mehmet trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ; còn gọi là Mahomet II[2][3] ở châu Âu thời cận đại) (30 tháng 3 năm 1432, Edirne – 3 tháng 5 năm 1481, Hünkârçayırı, gần Gebze) là vị Sultan thứ bảy của đế quốc Ottoman (Rûm trước cuộc chinh phạt) trong một thời gian ngắn từ năm 1444 tới tháng 9 năm 1446, và sau đó là từ tháng 2 năm 1451 tới 1481. Ở tuổi 21, ông chinh phạt Constantinopolis, dẫn tới sự sụp đổ của Đế quốc Đông La Mã. Mehmet tiếp tục chinh chiến ở châu Á, thống nhất lại Tiểu Á, và mở rộng lãnh thổ tới Beograd ở châu Âu. Sau đó, ông hợp nhất chính sách trị dân cũ của Đông La Mã với chính sách trị dân của nhà Ottoman. Mehmet II không được xem là vị vua người dân tộc Turk đầu tiên của Constantinopolis, nhưng không lạ gì vì trước ông, Leo IV người Khazar, theo đạo Thiên Chúa, là Hoàng đế La Mã trên danh nghĩa. Ngoài Thổ Nhĩ Kỳ, ông còn nói được các tiếng Ả Rập, Hy Lạp, Ba Tư, Serbia, Ý,…[4]
Mục lục
Thiếu thời
Mehmed II là con trai thứ ba của Murad II (1404 – 1451), vị vua thứ sáu của Đế quốc Ottoman. Ngay từ nhỏ, Mehmed đã là một đứa trẻ khỏe mạnh và lanh lợi, trong khi đó những người anh trước của ông thường hay gầy yếu bệnh tật. Vì vậy, dù mẹ của Mehmed, Huma Hatun chỉ là một nữ nô, Mehmed lại được cha đặc biệt thương yêu và tin tưởng, chính Murad đã lấy tên cha mình là vua Mehmed I (1413-1420) để đặt cho con trai mình, với mong muốn đứa trẻ sau này sẽ làm nên nghiệp lớn như người ông nội của nó.[4] Khi Mehmed vừa bập bẹ biết nói thì Murad đã vời các thầy giáo giỏi nhất nước vào làm gia sư cho con trai mình. Tiếp theo, Murad II sắp xếp cho Mehmed vào học một trường học đặc biệt ở nội cung, đó cũng là nơi học của con cháu của các nhà quý tộc hoặc những đứa trẻ thông minh lanh lợi, con của các tù binh. Việc này nhằm giúp cho Mehmed kết giao với những người bạn tài năng để sau này họ sẽ giúp đỡ ông làm nên nghiệp lớn. Đồng thời, khi bắt đầu trưởng thành thì Mehmed được vua cha cử đi làm tổng trấn tỉnh Manisa tại Tiểu Á để học tập kinh nghiệm trị quốc.[4]
Trị vì lần đầu (1444 – 1446)
Năm 1444, Murad II đã cảm thấy quá mệt mỏi với các công việc triều chính và chiến tranh nên quyết định về phủ Manisa an hưởng tuổi già, và truyền ngôi cho Mehmed. Về phần vua con, được sự giúp đỡ của các thầy học và các đại thần, ông dần dần đã nắm được cách trị vì đất nước. Nhưng giữa lúc đó thì một sự biến quan trọng xảy ra: vua Władysław III của Ba Lan và Hungary gây chiến. Ông này trước đây đã phát động Thập tự chinh đánh bại quân Ottoman và kí hòa ước Segedin với Murad, nay nhân cơ hội Mehmed còn nhỏ tuổi liền cất binh, xé bỏ hòa ước Segedin, lấy cớ là hòa ước này do Władysław ký với Murad và khi Murad đã thoái vị thì nó không còn hiệu lực nữa. Được cộng hòa Venezia, Giáo hoàng, hoàng đế Đông La Mã và một số thế lực châu Âu khác ủng hộ, Władysław III đã tổ chức được một cuộc Thập tự chinh lớn. Thập tự quân nhanh chóng tiến sâu vào lãnh thổ Ottoman và áp sát trọng trấn Varna nằm trên bờ Hắc Hải.[4] Đồng thời, một số quan lại địa phương cũng nhân cơ hội tuyên bố độc lập.
Trước tình hình đó, Mehmed buộc phải vội vã phi ngựa tới phủ Manisa mời vua cha về chấp chính. Sau đó, Murad II đã xuất quân đánh tan tác đạo Thập tự quân tại trận Varna (1444), Władysław III cũng tử trận. Mối họa xâm lược bị đẩy lùi. Sang năm sau, Murad II lại trao quyền cho vua con rồi quay về Manisa.[4]
Tuy nhiên, một bộ phận Cấm vệ quân Janissary lại nổi loạn, tỏ ý không phục ấu chúa và đòi Murad quay trở lại ngôi vị. Không còn cách nào khác, tháng 5 năm 1446 Mehmed II lại phải đích thân ra Manisa mời vua cha về lên ngôi thêm một lần nữa.[4]
Khoảng thời gian chuẩn bị tích cực cho việc kế ngôi (1446 – 1451)
Sau hai cuộc phong ba nói trên, Mehmed cảm thấy rất rõ là với trình độ hiện có của mình, việc cai trị một tỉnh nhỏ thì được chứ cai trị một đất nước rộng lớn thì rõ ràng là ông chưa đủ sức. Vì vậy, sau đó ông đã ra sức học hỏi thêm kiến thức và chăm chỉ làm việc để bồi dưỡng kinh nghiệm cho mình.
Trong thời gian này, Mehmed đọc rất nhiều truyện ký về Alexandros Đại đế cũng như các tướng lĩnh La Mã nổi tiếng để từ đó rút ra kinh nghiệm về cách trị quốc cũng như các tri thức quân sự, chiến thuật, chiến lược, hậu cần… Ông cũng ra sức học thêm nhiều ngôn ngữ, ví dụ tiếng Ả Rập, Hy Lạp, Ba Tư, Serbia, Ý v.v… vì ông ý thức rõ rằng, quốc gia Ottoman nằm giáp giới giữa châu Âu và châu Á nên tình hình dân tộc và ngôn ngữ ở khu vực này khá đa dạng và phức tạp. Ngoài ra ông cũng rất yêu thích thi ca, thuộc lòng các bài thơ cổ Hy Lạp, La Mã, Ba Tư, bản thân Mehmed cũng là một nhà thơ. Mehmed còn là một người làm vườn giỏi, ông thường thư giãn bằng cách trồng tỉa vườn hoa và vườn cây ăn quả ở nội cung.
Triết học cũng thu hút niềm yêu thích của Mehmed, nhất là triết học Aristotle và triết học Khắc kỉ (Stoicism). Dần dần, sau năm năm, Mehmed từ một thiếu niên còn rất ngây thơ đã trở thành một thanh niên tài năng có học vấn rất uyên bác.[4]
Trị vì lần thứ hai (1451 – 1481)
Ngày 18 tháng 2 năm 1451, Murad II lâm bệnh và qua đời tại Edirne. Mehmed hay tin, lập tức cùng những người thân tín phi ngựa bất kể ngày đêm đến thủ đô, chấm dứt bổn phận của tổng trấn Manisa. Ngày 18 tháng 2 năm 1451, ông lên ngôi ở Edirne, trở thành vua thứ bảy của đế quốc Ottoman. Ngay ngày hôm đó, Mehmed đã hạ lệnh giết chết một người em trai cùng cha khác mẹ mới tám tháng tuổi của mình vì người em trai này, con của Murad II với một công chúa người Serbia, là một kẻ thù tiềm tàng trong việc tranh ngôi của Mehmed II. Vài năm sau ông còn ra một chiếu thư mà khiến ai cũng rùng mình, quy định rằng các hoàng đế nhà Ottoman có quyền giết chết các anh em của mình để duy trì hoàng vị và an ninh quốc gia.[4] Đây cũng là cơ sở cho các cuộc nồi da xáo thịt trong hoàng tộc Osman sau này. Từ đó, Mehmed hoàn toàn thay đổi cá tính, từ một con người nho nhã nhu nhược trở thành kẻ quyết tâm dùng cường quyền để mở rộng và củng cố nền thống trị của mình.
Mở rộng bờ cõi
Sự thất thủ Constantinopolis
Một trong những mục tiêu đầu tiên mà Mehmed II nhắm tới chính là lãnh thổ của Đế quốc Đông La Mã, lúc này chỉ còn kinh đô Constantinopolis và một số vùng phụ cận nhỏ xung quanh. Tới lúc Mehmed II lên ngôi, đế quốc Ottoman đã có lãnh thổ hết sức to lớn nằm vắt ngang châu Âu và châu Á. Tuy nhiên, tại trung tâm của đế quốc vẫn tồn tại lãnh thổ chưa chịu khuất phục của người Byzantine. Sự tồn tại này của chẳng khác chi một cây đinh đóng chặt vào ngay giữa quả tim của đế quốc. Vì vậy các vua nhà Ottoman đã từng nhiều lần có ý đồ nhổ bỏ chiếc đinh này khỏi lãnh thổ của mình. Ông cố của Mehmed là Bayezid I (1389 – 1402) đã từng mấy lần đem quân vây đánh Constantinopolis. Cha của Mehmed là Murad II cũng đã từng có lần bao vây ngôi thành suốt hai tháng. Nhưng vì địa thế hiểm trở cũng như sự vững chãi của các tường thành mà tất cả những nỗ lực này đều không thành công. Nay Mehmed II một lần nữa chuẩn bị lực lượng vây đánh Constantinopolis, quyết tâm hoàn tất sự nghiệp dang dở của các bậc tổ phụ.[4] Vì vậy không ngạc nhiên khi Mehmed rất khát khao làm chủ được Constantinopolis và biến nó thành thủ đô của Hồi giáo, điều này thể hiện qua hai câu nói:
“ | Trẫm chỉ có một mong muốn duy nhất. Hãy tặng Constantinopolis cho trẫm. | ” |
—Mehmed II, [5] |
“ | Thời đại hiện nay đã thay đổi rồi, ta muốn đi từ phía Đông sang phía Tây, cũng giống như trước kia người Tây phương đi đến Đông phương. Trên thế giới này chỉ có thể có một đế quốc, chỉ có thể có một tôn giáo, chỉ có thể có một vương quốc. Muốn thực hiện được sự liên hệ đó thì trên đời này không có địa phương nào thích hợp hơn là Constantinopolis. | ” |
—Mehmed II, [4] |
Năm 1451, Mehmed ráo riết củng cố hải quân Ottoman, và chuẩn bị cuộc chinh phạt Constantinopolis. Ở eo biển Bosporus chật hẹp, trước kia Bayezid I đã xây thành Anadoluhisarı ở phần châu Á; Mehmed dựng nên một ngôi thành vững chắc hơn, Rumelihisarı ở phần châu Âu, thế là ông hoàn toàn làm chủ eo biển Bosporus. Để xây ngôi thành này, Mehmet hạ lệnh đánh thuế lên những chiếc thuyền chạy trong phạm vi tầm ngắm của đại bác họ. Một tàu thuỷ Venezia đòi ông phải ngưng làm việc đó, bị bắn và chìm nghỉm.[6]
Ngày 6 tháng 4 năm 1453, Mehmed II và quân đội bắt đầu vây thành Constantinopolis. Ngày 29 tháng 5 năm 1453, Mehmed và quân đội đến sát chân thành nhưng đã gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ của quân hoàng đế Constantinus XI. Nhưng với ưu thế quá vượt trội về quân số cũng như trang bị, sau những cuộc giao chiến khốc liệt, quân Ottoman cuối cùng cũng tràn được vào thành.[5] Tuyệt vọng, hoàng đế Constantinus XI thốt lên: “Thành đã mất thì ta còn sống làm gì nữa!” rồi xông thẳng vào biển quân Ottoman và hy sinh. Thế là thành Constantinopolis thất thủ. Quân Ottoman tàn phá ngôi thành và bắt 6000 người làm nô lệ.[5] Nhưng sau đó, Mehmed thiên đô về Constantinopolis. Ngày 30 tháng 5 năm 1453, Mehmed chuyển đại thánh đường St. Sophia thành một Hagia Sophia, một thánh đường Hồi giáo, và bắt đầu xây dựng tân đô của Đế quốc.
Sau chiến thắng Constantinopolis, Mehmed II xưng hiệu “Hoàng đế La Mã” (Kayser-i Rûm), dù điều này không được công nhận bởi các vương quốc Tây Âu, giáo hội Chính thống giáo Hy Lạp hay các cộng đồng người Hy Lạp khác. 10 năm sau khi chinh phạt thành Constantinopolis, Sultan Mehmed II thân hành đến di tích thành cũ Troia và tuyên bố rằng ông đã rửa hận cho người thành Troia bằng việc chinh phạt người Hy Lạp – ở đây chỉ người Đông La Mã.[7]
Chinh chiến ở châu Á
Cuộc chinh phạt Constantinopolis khiến cho Mehmed II chuyển sự chú ý của mình sang phía đông. Trước đó, ông cố của Mehmed là Bayezid I đã thống nhất được Tiểu Á, nhưng cuộc tấn công của Đế quốc Timur đã phá nát Vương quốc Ottoman và khiến các vương quốc của người Thổ Nhĩ Kỳ ở miền Đông bán đảo Tiểu Á ly khai trở lại. Chính vì vậy, Mehmed II quyết tâm hoàn tất sự nghiệp dang dở của các bậc tổ phụ. Trước hết, ông chinh phạt các xứ của người Thổ, sau đó tiến lên phía Bắc và tiêu diệt Đế quốc Trebizond của người Đông La Mã vào năm 1461. Tiếp theo, Mehmed lại đánh nhau với xứ Ak Konyulu (hay còn được gọi là White Sheep) đang thống trị khu vực Đông Tiểu Á và Armenia. Lúc bấy giờ, với mục đích giảm nhẹ áp lực của Đế quốc Ottoman lên các thuộc địa của mình tại bán đảo Balkan, Cộng hòa Venezia đã xúi giục vua Ak Konyulu là Uzun Hasan gây chiến với Mehmed, đồng thời viện trợ vũ khí cho Hasan. Để đối phó với Hasan, Mehmed II đã phải huy động một đạo quân hùng mạnh với rất nhiều nhân lực và vật lực của toàn đế quốc, ngay cả hai người con trai là Mustafa và Bayezid cùng với quan chưởng ấn cũng trực tiếp tham gia chiến đấu.[4] Cuối cùng, quân Ottoman đại thắng trong trận Otlukbeli năm 1473.
Đến đây, Mehmed II đã nắm được quyền kiểm soát toàn bộ vùng Tiểu Á, đồng thời xây dựng vùng này thành khu vực trung tâm của đế quốc Ottoman và cả nhà nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ sau này. Thật vậy, những chiến thắng quân sự liên tiếp của Đế quốc Ottoman đã biến người Thổ Nhĩ Kỳ từ một ngoại tộc thành dân tộc chủ thể của Tiểu Á. Có thể nói, việc chinh phạt của Mehmed tại châu Á đã xúc tiến cho sự thành hình của dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại.[4]
Chinh chiến ở châu Âu
Tiếp đó, năm 1460 Mehmed II lại xua quân xâm chiếm lãnh địa của người Đông La Mã ở châu Âu là Morea trên bán đảo Peloponnese. Đến năm sau, Mehmed lại xâm chiếm Đế quốc Trebizond ở châu Á. Kết quả là hai lãnh địa cuối cùng của người Đông La Mã đều nằm dưới sự cai trị của Đế quốc Ottoman. Cuộc chinh phạt Constantinopolis đã đem lại niềm vinh dự và thanh thế lớn cho người Thổ Nhĩ Kỳ.
Quân Ottoman tiến về Đông Âu, tới cửa ngõ Beograd và bắt đầu nỗ lực đánh chiếm thành phố này từ tay Đại tướng Janós Hunyadi trong Cuộc vây hãm Beograd năm 1456. Các võ tướng Hungary giữ được thành, quân Ottoman phải triệt binh với tổn thất nặng nề. Dù vậy, cuối cùng thì người Thổ cũng chiếm được hầu hết Serbia.
Năm sau (1463), sau một cuộc tranh chấp về cống vật của vương quốc Bosnia, Mehmed đã chinh phạt Bosnia và nhanh chóng toàn thắng, vua cuối cùng của Bosnia là Stjepan Tomasevic bại vong.
Ông cũng gây chiến với chư hầu cũ của mình là vương công Vlad III Dracula xứ Wallachia. Năm 1462 Mehmed II đã gặt hái thảm bại khi bị Vlad tấn công trong cuộc tấn công ban đêm. Thế rồi, Mehmed chuyển sang giúp đỡ anh trai Vlad là Radu để trả thù cho những thất bại của quân đội Ottoman trên mặt trận. Với sự hỗ trợ của người Thổ, Radu nhanh chóng tước đoạt lãnh địa Wallachia trong cùng năm đó và buộc Vlad phải chạy trốn khỏi Wallachia.
Năm 1475, quân Ottoman giao chiến với Moldavia và bị Vương công Stefan III đánh tan tành trong trận Vaslui. Tuy nhiên đến năm 1476 Mehmed trả được thù khi tiêu diệt gần như hoàn toàn quân đội ít ỏi của Moldavia trong trận Valea Albă. Tiếp đó ông tiến quân đến Suceava và cướp bóc, tàn phá thủ phủ của vùng này, mặc dù sau đó ông đã thất bại trong việc đánh chiếm lâu đài Suceava và pháo đài Piatra Neamţ. Đúng lúc đó thì một trận dịch bùng lên trong hàng ngũ quân Ottoman, đồng thời với nguồn nước trở nên thiếu hụt và Vương công Stefan III lại nhận được 3 vạn viện binh do cựu thù của Mehmed, Vlad III Dracula chỉ huy. Mehmed II buộc phải bỏ dở chiến dịch và quân đội Ottoman triệt thoái.
Năm 1480, Mehmed II chinh phạt bán đảo Ý, để thực hiện mưu đồ “thống nhất Đế quốc La Mã cổ đại” của Mehmed. Thoạt đầu, quân Ottoman dễ dàng đánh chiếm thành phố Otranto vào năm 1480, nhưng ngay năm sau (1481) quân đội của Giáo hoàng đã đoạt lại vùng này sau khi Mehmed qua đời.
Trong những năm 1443 – 1468, Đế quốc Ottoman phải đối phó với cuộc khởi nghĩa của nhân dân Albania do Skanderbeg lãnh đạo. Skanderbeg nguyên là một nhà quý tộc Albania và là đại diện của nhà Ottoman tại Albania dưới thời Murad II. Nhưng thay vì phục vụ cho sultan, Skanderbeg đã vùng lên khởi nghĩa và cố gắng lôi kéo lực lượng của các hoàng thân Albania yêu nước, nhắm cùng đấu tranh chống lại ách đô hộ của nhà Ottoman. Cuộc khởi nghĩa này đã ngăn trở mưu đồ tấn công vào bán đảo Ý của Đế quốc Ottoman trong suốt một thời gian dài.
Kết quả
Những cuộc chiến của Mehmed II tại châu Âu chứng tỏ sự hiện diện của người Thổ ở đó không phải là nhất thời. Dưới thời Mehmed II, quân Ottoman chưa thể chiếm ưu thế trội hơn hẳn quân các nước vùng Balkan, nhưng cuộc chiến hãy còn tiếp diễn.
Kết quả của các cuộc chinh phạt trên là Mehmed đã nắm trong tay một Đế quốc Ottoman hết sức rộng lớn, gồm 28 tỉnh ở châu Âu và 21 tỉnh ở châu Á, bao trùm các phần đất của Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Bulgaria, Albania, Armenia và một phần Ukraina. Đến cuối đời, Mehmet bắt đầu sử dụng danh xưng “chúa tể của hai đất và hai biển” (hai đất là Tiểu Á và Romania, hai biển là Aegean và Hắc Hải).[4]
Các chính sách đối nội
Chính sách hành chính
Mehmed II sở dĩ có thể liên tục chiến thắng trên chiến trường, một phần là vì các đối thủ của ông là những thế lực phong kiến cát cứ hoặc các vương triều già nua đang suy sụp, nhưng cũng là nhờ ông có những biện pháp cai trị đất nước và quản lý quân đội rất hữu hiệu. Trong mọi sự vụ, ông luôn cực lực bài trừ thái độ lề mề chậm chạp, thiếu khí thế của các quan chức và luôn chú ý đến hiệu quả thực tế của công việc.[4] Ông đã hợp nhất chính sách trị dân cũ của hoàng đế Đông La Mã với chính sách trị dân của hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ. Mehmed còn viết một cuốn sách tổng hợp các học thuyết chính trị ở Đông La Mã và trong sách này, thuật ngữ ‘chính trị’ được dịch sang tiếng Ả Rập như “siyasah”.
Ngay trong năm đầu tiên cai trị, Mehmed II đã bắt tay vào cải tổ các cơ quan của triều đình, đặc biệt là ngân khố của quốc gia. Ông ra lệnh cho các quan viên thu thuế phải kiểm tra kỹ lưỡng sổ sách, rồi lại phái người đến kiểm tra các sổ sách này thêm một lần nữa. Bất cứ quan viên nào để sổ sách không rõ ràng đều bị cách chức chờ xét xử. Các cơ quan triều đình và địa phương cũng được cải tổ sâu rộng. Mehmet quy định ba cơ quan: Phủ Thái tể, Văn phòng Tài vụ Đại thần và Văn phòng Chánh án Tối cao đều có quyền lấy danh nghĩa hoàng đế để ra các mệnh lệnh về hành chính, tài chính và tôn giáo. Tất cả những điều lệ về triều phục, địa vị, đãi ngộ,… của các quan viên đều được quy định chặt chẽ và ghi chép trong sách Nghi lễ.[4]
Lúc này, triều đình Ottoman chia các quan chức ra làm hai loại: Nhân viên Nội đình bao gồm các sở Nội, Đốc sát, Tài chính, Đại sảnh, Tiểu sảnh chuyên lo việc sinh hoạt của hoàng đế và sinh hoạt trong cung, đảm nhiệm bởi các thái giám mặc áo dài trắng; nhân viên Ngoại đình gồm cố vấn của hoàng đế, thị vệ và các nhân viên triều đình chuyên lo việc sự vụ đất nước. Ở Trung ương gọi là hội nghị Quốc vụ, thành viên gồm cả tể tướng, chánh án Tối cao, tài chính Đại thần và thư ký Quốc vụ. Cơ quan này sẽ họp bàn với vua trong vòng mấy tiếng đồng hồ vào mỗi thứ bảy, chủ nhật, thứ hai và thứ ba hàng tuần. Còn ở sự vụ ở địa phương, bao gồm cả việc trưng binh trong thời chiến sẽ do những viên tổng trấn đảm nhiệm.[4]
Chính sách quân sự
Về quân sự, Mehmed II cũng tiến hành nhiều cải cách. Dưới triều của ông, quân đội Ottoman mới được chia làm bộ binh (Akincis), kỵ binh và hải quân.[4]
Bộ binh là nòng cốt của quân đội Ottoman. Trong chiến đấu, bộ binh cùng gươm và cung tên tác chiến cùng với kỵ binh, hoặc tập hợp thành các đội pháo binh để công phá thành lũy. Kỵ binh rất được Mehmed quan tâm, vì thời bấy giờ tác chiến chủ yếu dựa vào kỵ binh. Số kỵ binh do các lãnh chúa phong kiến cung cấp cho quân đội. Ngoài ra, Mehmed cũng tổ chức một đội kỵ binh thường trực, tuyển mộ từ Cấm vệ quân hoặc những người hầu.[4]
Hải quân Ottoman mãi tới thời sultan Mehmed II mới được xem là một lực lượng chính quy, và nó bắt đầu phát triển mạnh mẽ cũng vào thời của ông. Mehmed đã bắt đầu cho xây dựng một số xưởng đóng thuyền chiến trên các cảnh ven bờ biển để gia tăng số lượng hải thuyền của đế quốc. Nguyên nhân của việc này là nhằm hoàn thành việc vây hãm, cô lập Constantinopolis và khống chế hải lộ trên biển Đen và biển Aegean. Kết quả, trong một thời gian ngắn Ottoman đã có một lực lượng hải quân to lớn gồm ba bốn trăm chiếc thuyền, đủ sức đương đầu với các hạm đội Tây Ban Nha, Pháp và cộng hòa Venezia đương thời. Trong trận Constantinopolis, hải quân Ottoman đã đóng một vai trò rất quan trọng.[4]
Pháp luật và quan hệ phong kiến dưới thời Mehmed II
Mehmed II đã ban bố bộ luật đầu tiên của đế quốc Ottoman. Bộ luật này đã xác định nghĩa vụ của người nông dân đối với lãnh chúa phong kiến, đồng thời xác định chế độ phân phối ruộng đất phong kiến của đế quốc.[4]
- Thân phận người nông dân: theo bộ luật, người nông dân phải đóng đủ thứ tô thuế nặng nề cho lãnh chúa, đồng thời còn phải đi phu tải lương cho chúa phong kiến và làm việc bảy ngày không công trên đất của chúa phong kiến hàng năm. Nếu người nông dân để ruộng đất bỏ hoang trong một năm thì chúa phong kiến có quyền tịch thu nhà cửa ruộng đất của họ, đồng thời đánh thuế nặng trên phần đất này để bù vào tổn thất của mình. Tất cả những điều này có mục đích là buộc chặt người nông dân với ruộng đất.[4]
- Phân chia ruộng đất: ruộng đất được chia làm 3 loại: của Giáo hội, của quốc gia và của tư nhân. Trong đó ruộng đất của quốc gia là lớn nhất. Ruộng của quốc gia lại được chia làm 3 loại nhỏ. Loại thứ nhất là ruộng của hoàng gia và các đại thần, mỗi năm thu nhập vào khoảng 10 vạn akche (đơn vị tiền tệ Ottoman, thời đó 1 akche mua được 7 kg bột mì). Số ruộng hai loại kia được cấp phát cho các địa chủ bậc trung (thu nhập hằng năm từ 2 vạn – 10 vạn akche) và bậc nhỏ (thu nhập hằng năm 2000 – 1 vạn akche), tính tổng cộng có chừng 1 vạn địa chủ loại này. Các lãnh chúa phong kiến có nghĩa vụ phải nộp thuế và cống phẩm cho vua, trưng tập kỵ binh (trong thời chiến) và phải vâng theo mệnh lệnh của vua. Số lãnh chúa này tạo nên nền tảng thống trị của đế quốc.[4]
Chính sách tôn giáo
Có một điều đáng chú ý là thái độ của Mehmed II đối với tôn giáo rất là khoan dung và rộng rãi so với nhiều bậc đế vương cùng thời. Ông đã chấp nhận Chính thống giáo Đông phương, cho phép cho các giáo trưởng Thiên Chúa giáo truyền đạo ở Thổ Nhĩ Kỳ.
Ông đối xử rất khoan hồng với giáo dân và giáo hội Thiên Chúa giáo tại Constantinopolis và trên toàn đế quốc. Mehmed II cho phép cộng đồng Thiên Chúa giáo được tự trị ở Constantinopolis, và ông bổ nhiệm một cựu giáo trưởng Constantinopolis có quan điểm bất đồng với hoàng đế Constantinus XI làm tổng Giám mục của thành phố. Sau khi quân Ottoman chiếm Constantinopolis, tất nhiên là nhiều thánh đường Thiên Chúa giáo bị phá bỏ hoặc đổi thành thánh đường Hồi giáo (ví dụ đại thánh đường St. Sophia nổi tiếng ở Constantinopolis đã bị đổi thành thánh đường Hồi giáo Hagia Sophia), nhưng phần lớn những thánh đường Thiên Chúa giáo khác vẫn tồn tại. Dưới sự lãnh đạo của tổng Giám mục, họ có quyền tự trị về mặt tôn giáo, văn hóa và có một hệ thống pháp luật riêng (tất nhiên là họ vẫn phải tuân theo một số luật chung của đế quốc Ottoman). Thậm chí họ còn khỏi phải đi binh dịch và được phép mở trường học riêng để dạy bằng ngôn ngữ dân tộc.[4] Tuy nhiên ông chỉ cho phép các tín đồ Chính thống giáo Đông phương được sống ở Constantinopolis, trục xuất di dân đến từ Genova và Venezia cũng như các tín đồ Hồi giáo và Do Thái giáo ra khỏi thành phố này.
Về sau, Mehmed cũng cho phép giáo hội Thiên Chúa giáo của người Armenia, giáo hội Do Thái giáo của người Do Thái và giáo hội Hy Lạp cũng được hoạt động tự do trong khuôn khổ pháp luật của đế quốc Ottoman. Tất cả các giáo hội này được gọi là millet, (tạm dịch là tập đoàn hoặc dân tộc có tín ngưỡng đặc thù trong đế quốc Ottoman) mỗi millet do một lãnh tụ đứng đầu, có trách nhiệm trưng thu thuế cho hoàng đế Ottoman và đảm bảo các giáo dân biết giữ pháp luật và trung thành với triều đình Osman. Các millet ngoài việc chịu chung nghĩa vụ binh dịch, thuế má, tất cả phần còn lại đều được Mehmed cho phép tự trị. Những giáo dân trong millet khi phạm tội cũng chỉ bị xét xử trong các tòa án riêng của millet và chỉ chịu phạt theo luật riêng của millet, trừ những tội có dính đến trị an và hình sự thì phải bị trừng trị theo luật chung của đế quốc. Chính miệng ông đã nói với lãnh thụ người Serbia rằng:
“ | Bên cạnh một nhà thờ Hồi giáo, đều phải xây dựng một nhà thờ Thiên Chúa giáo, dân chúng của ông có thể cầu nguyện trong nhà thờ. | ” |
—Mehmed II, [4] |
Mehmed cũng đã tuyển mộ đội tân binh đến từ Devshirme. Trong đội quân này có nhiều giáo dân Thiên Chúa giáo trẻ tuổi. Đội quân này được chia làm 2 nhóm: các lính tráng có đủ tư cách nhất sẽ được phục vụ nhà vua trong cung điện; những người kém tài hơn nhưng có thể lực tốt thì sẽ được gia nhập toán Cấm vệ quân janissary của vua.
Văn hóa – Giáo dục
Ngay từ thời niên thiếu, Mehmed II đã bộc lộ một sự yêu thích đặc biệt về văn học và nghệ thuật. Sau này khi lên làm vua, ông mời nhiều danh họa Ý, người theo chủ nghĩa nhân văn và nhà triết học Hy Lạp đến cung điện, nói đúng hơn là chung quanh Mehmed thường tụ tập rất nhiều văn nhân học giả, cùng nhau bàn chuyện quốc sự hay làm thơ, vẽ tranh. Mehmed II cũng đã sáng tác một tập thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết và miêu tả những khung cảnh hoành tráng trên chiến trường. Đặc biệt, Mehmed đã phá vỡ thông lệ “không sùng bái hình nộm” của đạo Hồi, mà mời nhiều danh họa nổi tiếng ở Ý về vẽ chân dung cho ông.[4] Một trong số họ chính là họa sĩ Gentile Bellini người Venezia, đã vẽ một bức chân dung nổi tiếng của Mehmet II.[8] ông đã ra lệnh sưu tập nhiều bức danh họa nổi tiếng của đế quốc Đông La Mã cũng như những bức họa nổi tiếng khác trên thế giới. Đáng chú ý, trong số những bức họa được triều đình Ottoman cất giữ từ thời Mehmet II trở đi, có nhiều bức họa đời nhà Minh của Trung Quốc đương thờ.[4]
Giáo dục cũng là một mặt được Mehmed II quan tâm. Ông đã đầu tư xây dựng nhiều thư viện, trường học… tại kinh đô mới Constantinopolis. Chỉ riêng tại thánh đường Hồi giáo The Conqueror, Mehmed đã cho dựng lên bốn trường cao đẳng kinh văn xung quanh. Đồng thời ông cũng cho xây một trường học nội cung mới tại địa điểm của cung vua cũ ở Constantinopolis, nhằm đào tạo những quan viên được huấn luyện bài bản về mặt hành chính, bù đắp vào nhu cầu ngày càng tăng về các quan chức hành chính do cương thổ đế quốc càng lúc càng mở rộng. Học sinh chủ yếu là các tù binh 10-15 tuổi hoặc các thanh thiếu niên ở các giáo khu Thiên Chúa giáo. Chương trình học kéo dài 10-12 năm, bao gồm các môn như ngữ văn, văn học, nhạc, pháp luật, thần học, quân sự, toán, triết học, quản lý học và quản lý hành chính, thuế vụ, tài chính… Những học sinh nào không qua được các kỳ kiểm tra sẽ bị đuổi học ngay. Bản thân Mehmed cũng thường đến thăm hỏi tiến độ học tập của các học sinh trong trường.[4]
Để nâng cao chất lượng giáo dục, Mehmed II không ngại tốn kém, cho vời nhiều học giả nổi tiếng trong giới Hồi giáo cũng như tại châu Âu thời đó về giảng dạy tại các ngôi trường của Ottoman. Có dạo, khi ông vời được một nhà thiên văn nổi tiếng người Trung Á về thủ đô Constantinopolis, ngay lập tức tại ngoại ô Constantinopolis liền tiến hành xây dựng một ngôi trường lớn về toán học và một đài thiên văn bên cạnh.[4]
Qua đời
Giống như nhiều vị đế vương khác, trong thời kỳ cai trị của mình Mehmed II luôn luôn phải đối phó với những cuộc đấu tranh quyền lực trong triều đình. Đặc biệt nghiêm trọng, năm 1472 các đại thần phản loạn từng tổ chức âm mưu phế bỏ Mehmed để lập Cem, một đứa con nhỏ của ông lên ngôi, nhưng may mắn thay âm mưu bị phát hiện và những người dính líu đều bị trừng phạt. Vì vậy, từ một vị vua cởi mở, ưa kết giao, Mehmed II về cuối đời trở nên hết sức đa nghi. Ông đã sắp xếp rất nhiều biện pháp nhằm bảo vệ sự an toàn của bản thân. Ví dụ ông không cho bất kỳ ai mang vũ khí khi vào cung, kể cả những cận vệ của ông cũng phải vào tay không. Khi ăn ông không bao giờ ngồi chung bàn với người khác, và món ăn nào ông cũng bắt thuộc hạ nếm thử, khi biết không có độc ông mới ăn. Ông cũng xây dựng rất nhiều cụm bố phòng quanh cung điện. Để đề phòng bị giết hại khi tắm, ông đã đặt nhiều thiết bị phòng vệ chung quanh nhà tắm, và các cửa vào nhà tắm chỉ có thể từ trong mở ra, người ngoài không vào được. Cánh cửa cuối cùng còn lắp đặt máy bắn tên tự động.[4]
Theo “Thập đại tùng thư”, đề phòng kỹ như vậy Mehmed vẫn chết do bị ám sát. Cụ thể, Mehmed II bị sát hại tại Hunkârçayiri gần Gebze, Constantinopolis ngày 3 tháng 5 năm 1481 lúc mới 52 tuổi,[9] được tin là do bị các thái y gốc Do Thái đầu độc, còn kẻ chủ mưu là thái tử Bayezid,[9] do Bayezid quá nông nóng kế thừa vương vị[4]. Tình cảnh chết của ông rất thê thảm, cả mũi và miệng đều trào máu. Tương truyền trong thời gian này ông đang điều động binh mã đến miền Bắc Tiểu Á để chuẩn bị một cuộc viễn chinh, nhưng cái chết bất ngờ của ông đã khiến nó cùng với Mehmed vĩnh viễn nằm sâu dưới ba tấc đất.[4]
Xem thêm
- Chính
- Sultan, Padishah, Caesar, Đế quốc Byzantine, Đế quốc Ottoman
- Các sự kiện
- Các cuộc chinh phạt của Đế quốc Ottoman, Thời kì suy vong của Đế quốc Byzantine, Sự thất thủ của Constantinopolis, Trận chiến Varna
- Lãnh thổ
- Thổ Nhĩ Kỳ
- Khác
- Cem Sultan (em của vua Bayezid II)
Tài liệu tham khảo
- Thẩm Kiên (chủ biên) (2003). Thập đại tùng thư: 10 Đại Hoàng đế thế giới (bằng tiếng Việt, người dịch: Phong Đảo). NXB Văn hóa Thông tin. ISBN 8-35073-00232 Kiểm tra giá trị
|isbn=
(trợ giúp). - Philippides, Marios. Emperors, Patriarchs, and Sultans of Constantinople, 1373-1513: An Anonymous Greek Chronicle of the Sixteenth Century. Nguồn về Lịch sử và Giáo hội tại Thư viện Tổng Giám mục Iakovos, số 13. Brookline, Mass: NXB Hellenic College Press, 1990.
- Dwight, Harrison Griswold. Constantinople, Old and New. New York: NXB C. Scribner’s Sons, 1915.
- Hamlin, Cyrus. Among the Turks. New York: NXB R. Carter & Bros, 1878.
- Lord Kinross (1977). The Ottoman Centuries: The Rise And Fall Of The Turkish Empire. NXB HarperCollins. ISBN 0-688-08093-6.
- Murr Nehme, Lina (2003). 1453: The Fall of Constantinople. NXB Aleph Et Taw. ISBN 2868398162.
- Silburn, P. A. B. (1912). The evolution of sea-power. London: NXB Longmans, Green and Co.
- Dyer, T. H., & Hassall, A. (1901). [http://books.google.com/books?id=glwMAAAAYAAJ A history of modern Europe From the fall of Constantinople]. London: NXB G. Bell and Sons.
- Fredet, Peter (1888). Modern History; From the Coming of Christ and Change of the Roman Republic into an Empire, to the Year of Our Lord 1888. Baltimore: NXB J. Murphy & Co. Trang 383+
- Lê Ngọc Thái (chủ biên), Văn minh nhân loại và những bước ngoặt lịch sử, NXB Văn hóa thông tin, 2002
- Kohen, Elli; History of the Turkish Jews and Sephardim: Memories of the past golden age, University Press of America, (2007)
Chú thích
- ^ Azit Nexin (2002) Con cái chúng ta giỏi thật, Người dịch: Vũ Ngọc Tân, tr. 15
- ^ “Dates of Epoch-Making Events“, The Nuttall Encyclopaedia. (Gutenberg version)
- ^ Related to the Mahomet archaisms used for Mohammad. See Medieval Christian view of Muhammad for more information.
- ^ a ă â b c d đ e ê g h i k l m n o ô ơ p q r s t u ư v x y aa aă Thẩm Kiên (chủ biên), Thập đại Tùng thư – 10 đại hoàng đế thế giới. Phần 5: Sultan Muhammad II của đế quốc Thổ Ottoman, NXB Văn hóa Thông tin 2003 (người dịch: Phong Đảo)
- ^ a ă â Lê Ngọc Thái, sách đã dẫn, tr. 111
- ^ Silburn, P. A. B. (1912).
- ^ Turks.org.uk
- ^ Sultan Mehmed II – Olga’s Portrait
- ^ a ă Kohen, Elli; sách đã dẫn, tr. 19
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Mehmed II |
- Tiểu sử tại trang OttomanOnline.
- Contemporary portraits
- Chapter LXVIII: Reign Of Mahomet The Second, Extinction Of Eastern Empire của Edward Gibbon
Mehmed II
Sinh: 30 tháng 3 năm 1432 Mất: 3 tháng 2 năm 1481[tuổi 49] |
||
Hiệu | ||
---|---|---|
Tiền vị: Murad II |
Sultan của đế quốc Ottoman 1444 – 1446 |
Kế vị Murad II |
Tiền vị: Murad II |
Sultan của đế quốc Ottoman 3 tháng 2 năm 1451 – 3 tháng 5 năm 1481 |
Kế vị Bayezid II |
Tước hiệu thừa kế trên danh nghĩa | ||
Tiền vị: Tự phong |
Khalip của Hồi giáo 3 tháng 2 năm 1451 – 3 tháng 5 năm 1481 |
Kế vị Bayezid II |
|
- Phong trào ly giáo Đông-Tây
- Vua thiếu nhi thời Trung Cổ
- Vua bị ám sát
- Vua thiếu nhi bị truất phế
- Sinh 1432
- Mất 1481
- Người Edirne
- Người được in hình trên đồng tiền Thổ Nhĩ Kỳ
- Khalip thế kỷ 15
- Sultan nhà Ottoman thế kỉ 15
- Vua Turkic
- Vua bị giết
- Ly giáo Đông–Tây
Đế quốc Ottoman
|
Đế quốc Ottoman hay Đế quốc Osman (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: دولتِ عَليه عُثمانيه Devlet-i Âliye-i Osmâniyye, dịch nghĩa “Nhà nước Ottoman Tối cao”; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại: Osmanlı İmparatorluğu), cũng thỉnh thoảng được gọi là Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ, là một quốc hiệu Thổ Nhĩ Kỳ đã tồn tại từ năm 1299 đến 1923. Thời đỉnh cao quyền lực ở thế kỷ XVI và thế kỷ XVII, các lãnh thổ của Đế quốc Ottoman gồm các vùng Tiểu Á, Trung Đông, nhiều phần ở Bắc Phi, và đa phần đông nam châu Âu đến tận Kavkaz. Đế quốc Ottoman chiếm một vùng có diện tích khoảng 5,6 triệu km²,[1] dù vùng ảnh hưởng thực tế của đế quốc rộng hơn nhiều, nếu tính cả các vùng lân cận do các bộ lạc du mục cai quản, nơi quyền bá chủ của đế quốc này được công nhận. Đế quốc Ottoman tương tác với cả văn hóa phương Đông và phương Tây trong suốt lịch sử 624 năm của nó.
Mục lục
Lịch sử qua các thời kì
Nguồn gốc
Các tổ tiên của vương triều Ottoman là một phần của các bộ lạc người Tây Đột Quyết (Gokturk) miền tây đã di cư từ Trung Á bắt đầu từ thế kỷ 10. Định cư tại Ba Tư trong thời kỳ này, những người Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu mở rộng về phía tây tới Armenia và Tiểu Á vào đầu thế kỷ 11. Những đợt di chuyển này đã dẫn đến mâu thuẫn giữa họ với Đế quốc Byzantine, từng là một quyền lực chính trị nổi trội tại khu vực miền đông Địa Trung Hải kể từ thời kỳ La Mã, nhưng vào thế kỷ 11 bắt đầu một thời kỳ suy thoái dài. Người Thổ Seljuk đã thiết lập địa vị chắc chắn tại Tiểu Á sau chiến thắng lịch sử tại trận Manzikert năm 1071, để thành lập nhà Seljuk ở Tiểu Á. Tiếp theo sự xâm lăng của người Mông Cổ tới Tiểu Á trong thế kỷ XIII, triều đại này đã sụp đổ và lãnh thổ của nó đã bị phân chia thành nhiều vương quốc của người Thổ Nhĩ Kỳ, tức các beylik.
Dưới quyền bá chủ của nhà Seljuk ở Tiểu Á, bộ lạc Kayı của người Thổ Oğuz đã tạo ra một thể chế mà cuối cùng đã trở thành vương quốc Ottoman tại miền tây Tiểu Á. Thủ lĩnh người Kayı là Ertuğrul Gazi đã nhận được vùng đất này sau lưng Seljuk trong cuộc va chạm biên giới nhỏ. Hệ thống Seljuk tạo cơ hội cho sự bảo vệ vương quốc từ bên ngoài, và cũng cho phép nó phát triển cấu trúc nội tại của nó. Vị trí của Kayı trên ven rìa phía viễn tây của nhà nước Seljuk cho phép họ xây dựng lực lượng quân sự của mình thông qua sự hợp tác với các dân tộc khác sống tại miền tây Tiểu Á, nhiều trong số đó là những người theo Ki-tô giáo. Sau sự tan rã của nhà Seljuk, Kayı trở thành chư hầu của Hãn quốc Y Nhi của Mông Cổ.
Khởi đầu (1299-1326)
Tên gọi Ottoman có nguồn gốc từ Osman I (còn gọi là Osman Bey) (tiếng Ả Rập: Uthman) [2] (1299-1326), con trai của Ertuğrul Gazi, người đã tuyên bố sự độc lập của nhà nước Ottoman năm 1299. Trong khi các vương quốc khác của người Thổ Nhĩ Kỳ còn phải bận tâm với các mâu thuẫn nội bộ, Osman đã có thể mở rộng biên giới của khu định cư Ottoman về phía rìa của Đế quốc Byzantine. Ông đã dời đô tới Bursa, và định hình sự phát triển chính trị ban đầu của dân tộc. Người ta gọi ông với tên hiệu “Kara” vì sự can đảm của ông, Osman đã được ca ngợi là một ông vua hùng mạnh và năng động một thời gian rất dài sau khi ông mất, như được thể hiện trong thành ngữ của người Thổ Nhĩ Kỳ “Ông/anh ta có thể tuyệt vời như Osman”. Danh tiếng của ông cũng được đánh bóng trong câu chuyện thời Trung đại của người Thổ Nhĩ Kỳ, được biết dưới tên gọi “Giấc mơ của Osman“, một sự thành lập huyền thoại trong đó chàng trai trẻ Osman là người có đầy năng lực để chinh phục một đế quốc nhìn thấy trước.
Thời kỳ này là sự hình thành của triều đình Ottoman chính thức mà các cơ quan, tổ chức cấu thành ra nó gần như không thay đổi lớn gì trong gần 4 thế kỷ. Ngược lại với nhiều nhà nước cùng thời kỳ đó, hệ thống quan lại của Đế quốc Ottoman đã cố gắng tránh sự cai trị theo kiểu quân sự. Triều đình cũng tạo ra một thể chế pháp lý gọi là millet (kiểu lãnh thổ tự trị), mà trong đó thiểu số từ các dân tộc ít người và tôn giáo có khả năng quản lý công việc của chính họ với một sự độc lập đáng kể từ sự kiểm soát của trung ương.
Trong thế kỷ sau khi Osman qua đời, sự thống trị của Ottoman đã bắt đầu mở rộng trên toàn khu vực miền đông Địa Trung Hải và Balkan. Thessaloniki, một thành phố quan trọng của Venezia bị chiếm năm 1387, và chiến thắng của quân Thổ Nhĩ Kỳ tại trận Kosovo năm 1389 làm cho Serbia mất quyền kiểm soát trên vùng đất này, mở đường cho các cuộc xâm lược châu Âu của sultan. Trận Nicopolis năm 1396 được xem là cuộc Thập tự chinh cuối cùng của thời Trung cổ, trong trận này quân Thập tự chinh đại bại trước quân Ottoman. Với sự mở rộng ảnh hưởng của người Thổ vào vùng Balkan, thì cuộc chinh phục chiến lược vào Constantinople đã trở thành mục tiêu quyết định. Đế quốc đã chiếm được các vùng đất Byzantine phụ cận Constantinople, nhưng người La Mã vẫn đứng vững được khi Tamerlane xâm lược Tiểu Á, và bỏ tù sultan Bayezid I sau trận Ankara năm 1402. Các lãnh thổ Ottoman ở vùng Balkan (điển hình như Thessaloniki, Macedonia và Kosovo) đều bị mất năm 1402, nhưng các vùng đất này được Murad I chiếm lại trong thập niên 1430 – 1450.
Việc Bayezid bị bắt làm cho đất nước bị loạn lạc. Từ năm 1402 đến 1413, nội chiến bùng nổ giữa các con của Bayezit. Cuộc chiến này kết thúc khi vua Mehmed I lên ngôi và xây dựng lại đất nước, kết thúc Thời kì đứt quãng của Đế quốc Ottoman. Cháu nội ông, Mehmed II đã tái cấu trúc của cả nhà nước lẫn quân đội, và đã thể hiện các kỹ năng quân sự của mình trong cuộc chiếm đóng Constantinople vào ngày 29 tháng 5 năm 1453, khi mới 21 tuổi. Thành phố này trở thành kinh đô mới của Đế quốc Ottoman, và Mehmed II xưng làm Kayser-i Rum (Hoàng đế La Mã). Dù vậy, ngôi Hoàng đế La Mã của sultan Ottoman không được người Hy Lạp và các nước phương Tây công nhận, và các Nga hoàng cũng tự phong cho mình chức vị này. Để nắm vững ngôi Hoàng đế La Mã, Mehmed II khao khát chiếm Roma, và cho quân xâm lược bán đảo Ý, chiếm Otranto và Apulia ngày 28 tháng 7, 1480. Nhưng sau khi ông bị ám sát ngày 5 tháng 3, 1481, chiến dịch ở Ý thất bại và quân Ottoman rút lui về.
Lớn mạnh (1453-1683)
Các cuộc mở mang và cực điểm (1453-1566)
Vào thời lớn mạnh, Đế quốc Ottoman đã trải dài toàn bộ đông-nam châu Âu bờ bắc Địa Trung Hải, cả bờ biển bắc châu Phi cho đến Maroc phía nam Địa Trung Hải. Trong thế kỷ XVII, Đế quốc Ottoman có khoảng 25 triệu dân – một con số khổng lồ vào thời đó, gần bằng gấp đôi bất cứ nước nào ở châu Âu ngoại trừ Pháp. Gần 30 quốc gia hiện nay đã được thành lập từ lãnh thổ cũ của Đế quốc Ottoman: Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, Bulgaria, România, Nam Tư (sau này phân làm 5 nước độc lập), Hungary, Albania, Syria, Liban, Jordan, Israel, Aden, Kuwait, Ai Cập, Sudan, Libya, Iraq, Yemen, Tunisia, Algérie, Síp, Armenia, Gruzia, Ukraina và một phần nước Nga.
Vào đầu thế kỷ XVI, Đế quốc Ottoman trở thành một trong những nhà nước lớn nhất thế giới thời bấy giờ. Trong thời kì này, nhiều ông vua kiệt xuất lên cai trị Thổ Nhĩ Kỳ: điển hình như Selim I (1512-1520), người có công sát nhập vùng Trung Đông vào Ottoman. Vào năm 1514 trong trận Chaldiran, ông đã đánh bại vua Ismail I (1501-1524) nhà Safavid. Ông đã tiêu diệt nhà Mamluk ở Ai Cập vào năm 1517 rồi giành danh hiệu khalip từ nhà Abbasid ở Cairo (các sultan Ottoman tiếp tục giữ danh hiệu này đến năm 1924), bắt đầu thời kì Ai Cập thuộc Ottoman.
Sau khi Hoàng đế Selim I mất, Hoàng đế Suleiman I (1520-1566) tiếp tục mở mang đế quốc. Sau khi thôn tính được Beograd năm 1521, Suleyman chinh phục Vương quốc Hungary và sau chiến thắng trong trận Mohács năm 1526, đế quốc Osmanli chiếm được Hungary và nhiều vùng đất ở Trung Âu. Sau đó, năm 1529 ông bao vây thành Wien, nhưng vì thời tiết ở đây khắc nghiệt nên quân đội ông rút lui.[3] Năm 1532, 25.000 quân Ottoman mở cuộc tấn công Wien, nhưng bị đẩy lui cách Wien 97 km tại pháo đài Guns. Sau cuộc mở mang xa nhất của Ottoman năm 1543, hoàng đế Habsburg là Ferdinand công nhận quyền cai trị của Ottoman trên đất Hungary năm 1547. Dưới triều vua Suleyman I, Transilvania, Wallachia và Moldavia trở thành những công quốc chư hầu của đế quốc. Ở phía đông, Ottoman chiếm Bagdad từ tay Ba Tư năm 1535, chiếm được Lưỡng Hà và Hải quân Ottoman tiến vào Vịnh Ba Tư. Khi Hoàng đế Suleyman I qua đời, dân số Ottoman lên đến 15.000.000 người.[4] Công cuộc bành trướng của ông đã mang lại cho ông một Đế quốc Ottoman vô cùng rộng lớn, và thậm chí ông còn vượt xa cả những tham vọng của Hoàng đế Xerxes I của Đế quốc Ba Tư năm xưa.[5]
Quân đội Ottoman đã để lại những nhà nguyện Hồi giáo rải rác khắp các sườn đồi và thung lũng vùng Balkan. Nổi giận vì những biểu hiện cho việc chiếm đóng của người đạo Hồi này, các vương quốc theo đạo Cơ đốc ở Tây Âu xem người Thổ Nhĩ Kỳ là kẻ xâm lược Hy Lạp và các sắc dân theo Cơ đốc giáo khác. Nhưng đế quốc Ottoman rộng lượng hơn, chấp nhận tôn giáo khác với đạo Hồi. Sultan chính thức công nhận Giáo hội Hy Lạp và giáo khu của giáo chủ và các tổng giám mục, cho phép các giáo đường Chính thống giáo được duy trì tài sản của họ. Người Thổ Nhĩ Kỳ thích cai trị qua định chế chính trị địa phương, và để đổi lại cho tiền triều cống, các tỉnh Cơ đốc giáo được phép duy trì các hệ thống hành chính, thứ bậc và giai cấp.
Dấu hiệu suy yếu và sự hồi phục (1566-1683)
Năm 1571, Chiến tranh Thổ Nhĩ Kỳ-Venezia (1571-1573) nổ ra, quân Ottoman xâm chiếm đảo Síp. Hạm đội Liên minh Thần thánh (bao gồm Venezia, Tây Ban Nha, Savoie,…) đã đập tan Hạm đội Ottoman tại Lepanto. Nhưng, năm 1573 Hải quân Ottoman được khôi phục lại, kết quả là Venezia phải kí hòa ước và nhượng Síp cho Đế quốc Ottoman.[6]
Đế quốc Ottoman bấy giờ bao lần tung quân đi xâm lược Ba Tư. Người Ba Tư thuộc hệ phái Shia và tin mình là con cháu của Imam Ali bin Abu Talib, trong khi người Ottoman thuộc hệ phái Sunni. Đầu thế kỷ 17, quân Ba Tư tấn công lãnh thổ Đế quốc Ottoman ở Lưỡng Hà
Trong thế kỷ 16 và 17, Đế quốc Ottoman là một trong những thực thể chính trị mạnh nhất thế giới, các nước mạnh ở Đông Âu luôn bị đe dọa bởi sự mở rộng thường xuyên của nó qua Balkan và phần phía nam của Liên bang Ba Lan-Litva. Hải quân của nó cũng là một lực lượng rất mạnh ở Địa Trung Hải. Nhiều lần, quân đội Ottoman đã tấn công Trung Âu, bao vây Viên năm 1529 và một lần nữa năm 1683 trong nỗ lực chinh phục lãnh địa của gia tộc Habsburg, và cuối cùng chỉ bị đẩy lui bởi một liên minh to lớn của các nước mạnh tại châu Âu trên cả trên bộ và trên biển. Nó là quyền lực duy nhất không thuộc châu Âu đã thách thức được sự nổi lên về quyền lực của phương Tây trong khoảng giữa thế kỷ 15 và thế kỷ 20, tới mức nó đã trở thành một phần trong tổng thể của chính trị cân bằng quyền lực châu Âu, vì thế làm giảm bớt sự khác biệt giữa hai bên.
Đầu thế kỷ 17, Đế quốc Ottoman bắt đầu suy yếu. Các sultan vào lúc này thường chỉ vui hưởng trong hậu cung, ngoài ra, binh đoàn Janissary thường hay nổi dậy. Bên ngoài, quyền lực của đế quốc Ottoman bị suy giảm trầm trọng đến nỗi tàu thuyền của người Venezia và người Cozak thường xuyên quấy phá. Đế quốc được cứu nguy do tài năng của một đại gia đình làm quan Tể tướng gồm cha, con trai và em rể – đó là gia đìng Köprülü.
Năm 1656, dưới triều Mehmed IV (1648-1687), trong khi đế quốc gần bị sụp đổ,[cần dẫn nguồn] hậu cung đành phải cử một người Albania 71 tuổi, Köprülü Mehmed Pasha làm tể tướng (1656-1661). Ông này ra lệnh xử tử 50.000-60.000 người để bài trừ tham nhũng. Năm năm sau, lúc ông qua đời, tình hình có phần ổn định. Dưới quyền Tể tướng của con trai ông, Köprülü Fazıl Ahmed Pasha (1661-1676), và sau đó em rể ông, Kara Mustafa Pasha (1676-1683), uy quyền của Ottoman được hồi phục. Các hạm đội và quân của Venezia, Ba Lan, Áo và Nga bị đẩy lui. Quân đội Ottoman xâm chiếm Ukraina và Podolia. Năm 1680, đế quốc Ottoman đã đạt tới lãnh thổ rộng lớn nhất trong lịch sử đế quốc (11.5 triệu km²).
Năm 1683, đáp lời kêu gọi của Hungary chống lại hoàng đế Leopold I nhà Habsburg, sultan Mehmed IV đã ra lệnh cho tể tướng Kara Mustafa phái 200.000 quân ngược dòng sông sông Donau, và lần thứ hai trong lịch sử, quân Ottoman tiến đến chân tường thành của Wien, nhưng cuối cùng bị liên minh các nước Tây Âu (Liên minh Thần thánh), do vua Ba Lan Jan III Sobieski chỉ huy, đánh bại. Năm 1683, tại Beograd, sultan Mehmed IV ra lệnh thắt cổ tể tướng Kara Mustafa. Trận Wien đánh dấu sự bắt đầu của cuộc Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ (1683-1699) ở châu Âu.
Trong những năm tiếp theo, quân Ottoman bị đại bại do sức tiến công từ Wien. Quân Venezia công hãm Athena, nhưng không may là trong đợt pháo kích của họ, một quả đạn rơi trúng ngôi đền Parthenon được xây vào thế kỷ 5 TCN, lúc ấy được quân Ottoman dùng làm kho chứa thuốc súng. Ngày 26 tháng 9 năm 1687, ngôi đền lúc ấy còn khá nguyên vẹn bị nổ tung, để lại tình trạng cho đến bây giờ.
Cuộc đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ kết thúc với Hiệp ước Karlowitz ngày 26 tháng 1 năm 1699, và theo hiệp ước này, Đế quốc Ottoman phải nhượng cho Đế quốc Áo một số vùng lãnh thổ như Hungary thuộc Ottoman.[7]
Trong thời kì này, chỉ có hai vị sultan cai trị rất năng nổ, đó là: Murad IV (1612-1640) chiếm lại Yerevan (1635) và Bagdad (1639) từ tay Ba Tư và cai trị một cách độc đoán.[8] Mustafa II (1695-1703) mở cuộc tấn công nhà Habsburg ở Hungary trong các năm 1695-96, nhưng phải rút về sau khi thảm bại tại Zenta (11 tháng 9, 1697).[9]
Trì trệ và cải tổ (1699-1827)
Trong những năm tháng trì trệ, nhiều vùng đất ở Balkan bị nhượng lại cho nước Áo. Những vùng đất khác của Đế quốc Ottoman, như Ai Cập và Algérie, trở nên độc lập trên thực tế, và sau đó hứng chịu ảnh hưởng do các đế quốc thực dân như Anh và Pháp truyền bá. Vào thế kỷ 18, chính quyền trung ương đã ban cho các lãnh đạo và thủ lĩnh địa phương nhiều mức tự quyết hơn. Một loạt các cuộc chiến đã diễn ra giữa đế quốc Nga và đế quốc Ottoman từ thế kỉ từ 17 đến thế kỉ thứ 19.
Vào giai đoạn cuối của thời kỳ trì trệ, xuất hiện những cải tổ về nền giáo dục và công nghệ, bao gồm sự thiết lập những trường học lớn như Đại học công nghệ Istanbul; khoa học công nghệ được ghi nhận là đạt đỉnh cao ở thời Trung Cổ, đó là kết quả của việc các học giả Ottoman kết hợp cách học cổ điển với Triết học Hồi giáo và toán học cũng như các kiến thức tiên tiến về công nghệ của Trung Hoa như thuốc súng và la bàn. Tuy nhiên, cũng chính trong giai đoạn này, các thế lực bảo thủ và phản đối công nghệ xuất hiện. Hội đoàn các nhà văn của đế chế cho rằng kỹ thuật in ấn là “sáng tạo của quỷ dữ” khiến công nghệ in, được Gutenberg Johannes phát minh ở châu Âu năm 1450, phải mất 43 năm sau mới được giới thiệu tại Constantinople nhờ vào những người Do thái Sephardic. Những người Do Thái Sephardic, vốn sống ở Tây Ban Nha, di cư tới đế quốc Ottoman để trốn chạy cuộc thanh giáo tại Tây Ban Nha vào năm 1492 và mang theo kỹ nghệ in tới Ottoman.
Thời đại Tulip, được đặt tên vì tình yêu của Sultan Ahmed III (1703-1730) với hoa tulip và được dùng như biểu tượng của triều đại thanh bình của ông. Trong giai đọan này, chính sách của đế chế với châu Âu có sự thay đổi. au khi quân Nga đánh thắng quân Thụy Điển trong trận Poltava vào năm 1709, vua Thụy Điển là Karl XII có lúc đã trốn sang xin người Thổ Nhĩ Kỳ cho tị nạn[10]. Đất nước thanh bình từ năm 1718 đến 1730, sau khi Quân đội Thổ Ottoman đập tan tác quân Nga trong trận đánh tại sông Pruth năm 1712, Vương công Eugène xứ Savoie kéo quân Áo đánh chiếm thành phố Beograd,[11] và Hiệp định Passarowits được ký kết sau đó mang đến một giai đoạn đình chiến. Sau đó, Đế quốc cũng cải thiện hệ thống thành lũy ở các thành phố tiếp giáp các nước Balkan, để bảo vệ đất nước chống lại chủ nghĩa bành trướng của Châu Âu. Một số cải cách không dứt khoát cũng được tiến hành: hạ thuế; cải thiện hình ảnh của các bang Ottoman; hình thái đầu tiên của đầu tư tư nhân và doanh nghiệp tư nhân xuất hiện.
Vào năm 1736, Đế quốc Ottoman lại phải lâm chiến với Áo, và nước Áo thất bại.[12] Lúc này danh tướng Eugène xứ Savoie đã qua đời, do đó tinh thần quân Áo suy sụp, tổ chức kém cỏi, do đó đại bại, và đồng minh của họ là Nga đạt lợi thế hơn trong cuộc chiến tranh này.[13] Sau này, cuộc Chiến tranh Bảy năm (1756 – 1763) bùng nổ ở châu Âu.[14] Vua nước Phổ là Fryedrich II Đại Đế phải chống chọi với liên quân Nga – Áo – Pháp – Thụy Điển. Nền quân chủ Phổ bị suy sụy nghiêm trọng, nhiều lãnh thổ của nước này bị rơi vào tay địch quân. Vua Friedrich II Đại Đế trong vòng nhiều năm đã đàm phán với Đế quốc Ottoman và người Tartar, nhưng rồi ông chẳng thấy quân Thổ – Tartar đâu. Tuyệt vọng, nhà vua quyết định chờ quân Thổ – Tartar kéo đến vào tháng 2 năm 1762, nếu không ông sẽ nhận lấy cái chết anh dũng của Cato Trẻ.[15] Nhưng rồi liên quân chống Phổ đã tan rã và vua Friedrich II Đại Đế giành thắng lợi.[16] Sau năm 1768, khi tình hình Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva bất ổn, người Thổ Nhĩ Kỳ cũng can thiệp vào. Nhưng rồi ba nước Vương quốc Phổ, Áo và Nga đã tiến hành cuộc chia cắt Ba Lan lần thứ nhất vào nắm 1772.[17]
Công cuộc cải tổ quân sự Ottoman được bắt đầu với Sultan Selim III (1789-1807), vị vua tiến hành những nỗ lực lớn đầu tiên để hiện đại hóa quân đội gần biên giới Châu Âu. Những nỗ lực này, tuy vậy, đã bị cản trở bởi phong trào phản kháng bắt nguồn một phần từ các lãnh đạo tôn giáo và chủ yếu từ toán Ngự Lâm quân Janissary – toán kiêu binh này trở nên rất uy quyền và chẳng biết sợ vua. Với tư tưởng bảo thủ và lo sợ mất đại quyền, họ tiến hành cuộc bạo loạn Janissary. Do tiến hành một loạt cải cách, Sultan Selim III bị lật đổ, Hoàng tử cổ hủ Mustafa lên làm vua – tức Sultan Mustafa IV, và sát hại phần lớn các công thần phò vua Selim III năm xưa. Dưới triều vua Mustafa IV, Quân đội Ottoman liên tục bị quân Nga đánh bại. Vào năm 1808, hai bên ngừng bắn, một cuộc binh biến nổ ra. Alemdar Mustafa Pasha – một công thần của cựu hoàng Selim III, kéo quân vào kinh thành Constantinopolis đánh Sultan Mustafa VI. Nhà vua bèn truyền lệnh cho hành quyết cựu hoàng Selim III và hoàng đệ Mahmud, nhưng không may Mahmud trốn thoát. Ông lên làm Sultan Mahmud II (1808 – 1839) và giết chết cựu hoàng Mustafa IV.[18] Ông tiến hành thảm sát đẫm máu toán Ngự Lâm Quân Janissary, rồi giải tán luôn toán Ngự Lâm Quân này vaò năm 1826.
Suy vong và hiện đại hóa (1828-1908)
Tan rã (1908-1923)
Đầu thế kỷ 20, một nhóm người cải cách đòi hỏi phải đổi mới và hiện đại hóa nước Thổ, gọi là Những người Thổ trẻ. Năm 1909, họ lật đổ sultan Abdul Hamid II, nhưng họ đã làm cho Đế quốc Ottoman tan rã vì tập trung quyền lực Thổ Nhĩ Kỳ bất chấp sự phiền muộn của các dân tộc thuộc Ottoman ở Syria, Ả Rập, Albania, Bosna và Hercegovina, Kríti, Macedonia và Tripoli.
Với sự bùng nổ của Đệ nhất thế chiến năm 1914, Đế quốc vẫn còn kiểm soát phần lớn vùng Trung Đông, và về phe Liên minh trung tâm (Đế chế Đức, Đế quốc Áo-Hung,…), phe này thua trận. Các dân tộc vùng Trung Đông nổi dậy, và theo phe Entente (Nga, Anh, Pháp, Hoa Kỳ…) để giành độc lập.
Sự tan rã của đế quốc Ottoman là hậu quả trực tiếp của Đệ nhất thế chiến, khi phe Entente đánh bại phe Liên minh Trung tâm ở châu Âu cũng như các lực lượng Ottoman tại Mặt trận Trung Đông. Ở thời điểm kết thúc chiến tranh từ năm 1918, chính quyền nhà nước Ottoman sụp đổ và đế quốc bị Anh, Hy Lạp, Pháp, Ý, Armenia và Gruzia chinh phạt và phân chia. Những năm sau đó các nước mới độc lập từ Ottoman tuyên bố thành lập và năm 1919, Mustafa Kemal Atatürk và lực lượng Cách mạng Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu cuộc chiến tranh giành độc lập Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1923, lực lượng cách mạng Thổ thắng trận và Thổ Nhĩ Kỳ được độc lập. Cùng năm đó, đế quốc Ottoman cáo chung, sultan Mehmed VI Vahdettin thoái vị, và Mustafa Kemal Atatürk thành lập nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, dựa trên một phần lãnh thổ của đế quốc Ottoman.
Các thành viên của gia đình Osmanlı cai trị sau đó đã bị trục xuất khỏi Thổ Nhĩ Kỳ vào khoảng năm 1923–1924. Năm 1924, chế độ khalip bị bãi bỏ, khalip Abdul Mejid II nhà Ottoman cũng thoái vị. Năm 1974, sau 50 năm, Nghị viện Thổ Nhĩ Kỳ đã trao quyền tái yêu cầu quyền công dân Thổ Nhĩ Kỳ cho những con cháu của dòng họ này, và họ đều đã thực hiện điều đó trong những thập kỷ tiếp sau trong một quá trình đã hoàn thành với việc người đứng đầu dòng họ Ertuğrul Osman V đã được trao quyền công dân năm 2004.
Quá trình các lãnh thổ thuộc đế quốc Ottoman
|
Xã hội chính trị
Dân cư sinh sống trên lãnh thổ Ottoman chủ yếu theo đạo Hồi, và sắc tộc chính là người Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman, kế tiếp là người Ả Rập, người Kurd, người Tatar Krym, người Bosnia, người Albania v.v. Các sultan Đế quốc Ottoman cũng trị vì hàng triệu dân theo Cơ đốc giáo: người Hy Lạp, người Serb, người Hungari, người Bulgar…
Vì thế mà sợi dây chính trị nối kết các sắc tộc và tôn giáo khác nhau cần thiết phải linh động và lỏng lẻo. Sultan trị vì từ thủ đô Constantinople (nay là Thành phố Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng bộ máy hành chính địa phương nằm trong tay các tiểu vương, hoàng thân, hãn vương,…, có địa phương được tự trị mọi việc ngoại trừ cái tên. Các hoàng thân Cơ đốc giáo vùng Balkan được sultan chọn, nhưng một khi đã lên nắm quyền, lòng trung thành của họ chỉ thể hiện qua việc nộp triều cống cho các sultan. Mỗi năm, từng đoàn xe goòng tải đến Constantinople vàng và những loại tiền thuế. Hãn vương người Tatar của Hãn quốc Krym cai trị từ thủ phủ Bakhchisarai như là vị lãnh chúa độc tôn, chỉ có nhiệm vụ cung ứng 20.000-30.000 kỵ binh mỗi khi các triều đình Ottoman có chiến tranh. Về phía tây cách gần 2.000 kílômét, các vùng Tripoli, Tunis và Algérie chỉ thực hành nghĩa vụ chiến tranh bằng cách điều tàu chiến (bình thường làm giàu nhờ nghề hải tặc cướp bóc tất cả các nước) đi đánh các cường quốc Hải quân theo Cơ đốc giáo như Venezia và Genova.
Xuyên suốt lịch sử của họ, đế quốc Ottoman luôn luôn ở trong tình trạng chiến tranh. Khi vị sultan có tính khí mạnh mẽ và thông minh, đế quốc cường thịnh lên. Trong khi ông yếu đuối, thì đế quốc bị suy yếu. Điều dễ nhận thấy là cuộc đời trong cấm thành, chung quanh là phụ nữ đầy sinh lực nồng nàn và thái giám đầy mưu đồ, dễ làm cho một vị quân vương bị suy nhược. Một tình huống thứ hai trong lịch sử của đế quốc cũng khiến cho sultan trở thành con người kém cỏi. Điều oái oăm là việc này bắt đầu bằng hành động nhân từ. Cho đến thế kỷ 15, truyền thống ở Ottoman là một hoàng thái tử khi lên ngôi kế vị sẽ ra lệnh thắt cổ tất cả anh em trai còn lại, để triệt hạ mọi âm mưu soán ngôi, đó là theo lệnh của sultan Mehmed II – người khi lên ngôi năm 1451 đã giết một đứa em khác mẹ còn nằm trong nôi. Năm 1595, sultan Mehmed III (1595-1603) khi mới lên ngôi đã ra lệnh thắt cổ tất cả 19 em trai và, để tận diệt mọi mầm mống phản loạn, hạ sát luôn bảy vương phi của vua cha lúc đó đang mang thai. Tuy nhiên, đến năm 1603, ấu chúa Ahmed I (1603-1617) mới lên ngôi đã chấm dứt truyền thống khủng khiếp này khi không muốn giết người em nào. Thay vào đó, ông cách ly họ trong một khu riêng biệt, nơi họ không liên lạc được gì với thế giới bên ngoài. Một người em của Ahmed chính là sultan Mustafa I (1617-1618, 1622-1623) trong tương lai, Mustafa được xem là bị mất trí.
Từ lúc này trở đi, mọi hoàng tử Ottoman đều sống mỏi mòn trong khu biệt lập, bên cạnh chỉ có thái giám và cung phi đã quá tuổi sinh nở để ngăn ngừa họ có hậu duệ hòng làm phản. Nếu có một bé trai ra đời do sơ suất, đứa bé này không được phép làm rối loạn thứ tự truyền ngôi, nên phải bị xử tử. Vì thế, khi một sultan qua đời hoặc bị truất phế, một hoàng tử sống trong khu biệt lập có thể được triệu đến để được tấn phong – bởi vì theo luật Ottoman, người kế vị của sultan là người đàn ông cao tuổi nhất trong hoàng tộc. Trong số các hoàng tử ngu dốt và thụ động này, hiếm khi triều đình tìm được người có đủ sự phát triển trí tuệ hoặc kiến thức về chính trị để trị vì đế quốc. Vì vậy, có những trường hợp các vị sultan có điều kiện tinh thần không tốt như Mustafa I hay Ibrahim I (1640-1648).
Dinh Đại Vizia có quyền lực rộng lớn – có khi đủ mạnh để mưu đồ lật đổ và giết chết được sultan – nhưng cũng có nhiều rủi ro và ít khi hứa hẹn một cái chết êm thấm. Khi thất trận, Đại Vizia bị sultan quy trách nhiệm và tiếp theo đó là bị cách chức, đi đày hoặc không hiếm khi bị thắt cổ. Giữa các năm 1683-1703, có mười hai vị Đại Vizia đến và đi.[cần dẫn nguồn]
Xem thêm
- Biên niên sử Đế quốc Ottoman
- Nhà Ottoman
- Chiến tranh của Đế quốc Ottoman ở châu Âu
- Chiến tranh của Đế quốc Ottoman ở Cận Đông
- Hãn quốc Krym
- Cướp biển Berber
- Danh sách sultan của đế quốc đế quốc Ottoman
- Danh sách Đại Vizia của đế quốc Ottoman
Chú thích
- ^ “To Rule the Earth…”. Regnal Chronologies. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2006.
- ^ Tên Ottoman có lẽ gọi trại từ tiếng Ả Rập, sang tiếng Ý, rồi sang tiếng Pháp đến tiếng Anh, theo tự điển Merriem Webster [1] và tự điển Etymonline [2].
- ^ Inber, 50.
- ^ L.Kinross, The Ottoman Centuries:The Rise and Fall of the Turkish Empire, 206
- ^ Larry Wolff, Marco Cipolloni, The anthropology of the Enlightenment, trang 62
- ^ Davis, Paul K. “100 Decisive Battles: From the Ancient Times of the Present”
- ^ Norman Itzkowitz, Ottoman Empire and Islamic Tradition, tr.84.
- ^ Norman Itzkowitz, Ottoman Empire and Islamic Tradition, tr.73.
- ^ Norman Itzkowitz, Ottoman Empire and Islamic Tradition, tr.83-84.
- ^ Jay Luvaas, Frederick the Great on the Art of War, trang 357
- ^ Jay Luvaas, Frederick the Great on the art of war, trang 50
- ^ Jay Luvaas, Frederick the Great on the Art of War, trang 322
- ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 79
- ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 96
- ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 124
- ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 126
- ^ Jay Luvaas, Frederick the Great on the Art of War, trang 100
- ^ Gábor Ágoston, Bruce Alan Masters, Encyclopedia of the Ottoman Empire, trang 412
Tham khảo
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Đế quốc Ottoman |
|
|
|
- Cựu đế quốc
- Cựu quốc gia
- Khởi đầu năm 1299
- Chấm dứt năm 1923
- Lịch sử Thổ Nhĩ Kỳ
- Đế quốc
- Tiểu Á
- Cựu quốc gia châu Âu
- Cựu quốc gia bán đảo Balkan
- Đế quốc Ottoman
- Đế quốc Hồi giáo
- Cựu quốc gia châu Á
- Cựu quốc gia châu Phi
- Trung Đông
Danh sách sultan của đế quốc Ottoman
Sultan Nhà Ottoman | |
---|---|
Nền quân chủ cũ | |
![]() |
|
Huy hiệu chính thức | |
![]() |
|
Süleyman Đại đế (1520–1566) القانونى سليمان Nhà Chinh phạt xứ Hungary Kanunî Sultân Süleyman Khan (Nhà làm luật) |
|
Nhà quân chủ đầu tiên | Osman Bey Ghazi (1281–1326) عثمان غازی Sultân Osman Gazi (The Esquire – The Warrior) |
Nhà quân chủ cuối cùng | Mehmed VI Khan محمد سادس Mehmed Vâhīd ād-Dīn (The Unicity Of Faith) |
Danh hiệu | Bệ hạ[a] |
Dinh cơ chính thức | Các cung điện tại Istanbul:
|
Tấn phong | Cha truyền con nối |
Nền quân chủ bắt đầu | khoảng 1299 |
Kết thúc chế độ quân chủ | 1 tháng 11 năm 1922 |
Mục lục
Bộ máy hành chính
Từ năm 1299 đến 1922, các vua nhà Ottoman cai trị một đế quốc xuyên lục địa rộng lớn. Lúc hùng mạnh nhất, Đế quốc Ottoman trải dài từ Hungary ở phía bắc đến Somalia ở phía nam, và từ Algérie ở phía tây đến Iraq ở phía đông. Ban đầu, đế quốc có kinh đô tại Bursa ở Tiểu Á, sau đó dời về Edirne năm 1366 rồi lại dời về Constantinopolis (nay là Istanbul) năm 1453 khi thành phố này bị chiếm từ tay Đế quốc Đông La Mã (Byzantine).[1] Những năm đầu của đế quốc Ottoman được kể lại trong nhiều câu chuyện khác nhau mà rất khó xác định là lịch sử hay truyền thuyết; tuy nhiên, phần lớn sử gia nhất trí rằng đế quốc này ra đời năm 1299 và vị vua đầu tiên là Osman I, Hãn vương của bộ lạc Kayı người Thổ Oghuz.[2] Đế quốc Ottoman mà ông sáng lập đã tồn tại trong 6 thế kỷ, với 36 vị vua. Sau thất bại của phe Cường quốc Trung tâm mà Đế quốc Ottoman tham gia trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, đế quốc này tan rã. Đế quốc bị phân chia bởi các nước phe Hiệp ước thắng trận, sau đó thắng lợi của cuộc Chiến tranh giành độc lập Thổ Nhĩ Kỳ dẫn tới sự ra đời của nước Cộng hoà Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại.[3]
Trong phần lớn lịch sử Ottoman, nhà nước này theo chính thể quân chủ chuyên chế. Vua Thổ – với nhiều chức vị – đứng đầu trong cơ cấu có cấp bậc của Ottoman, và có vai trò trong chính trị, quân sự, pháp luật, xã hội, tôn giáo.[a] Trên lý thuyết, ông chỉ chịu trách nhiệm với mỗi Thượng đế và Thánh luật (şeriat của người Hồi giáo, được biết trong tiếng Ả Rập như sharia), mà ông là người thực thi trưởng. Thiên mệnh của ông được phản ánh trong các tước hiệu Hồi-Ba Tư, ví dụ như “hiện thân của Thượng Đế trên trần” (zill Allah fi’l-alem) và “khalip của bộ mặt trong trần gian” (halife-i ru-yi zemin).[4] Mọi đại thần đều do ông bổ nhiệm, và các bộ luật đều do ông ban hành dưới hình thư của một sắc dụ. Ông là tướng chỉ huy tối cao và có tước hiệu chính thức ở mọi vùng đất.[5] Sau sự thất thủ của Constantinopolis năm 1453, các sultan Ottoman tự xem mình như những kẻ kế vị của Đế quốc La Mã, cụ thể hơn là họ xưng Caesar (kaysar) và Hoàng đế.[4][6][7] Sau cuộc chinh phạt Ai Cập năm 1517, Selim I cũng xưng khalip, trở thành một ông vua của toàn Hồi giáo.[b] Một tân vương thường mang Gươm Osman, một nghi thức quan trọng tương đương với lễ đăng quang của các vua chúa Âu châu.[8] Nếu nhà vua không làm lễ mang gươm, ông không đủ tư cách để đưa con mình vào hàng những người kế vị.[9]
Dù chuyên chế và có thần quyền trong pháp lý và trong nguyên tắc, quyền của vua Thổ được thực thi có giới hạn.
Sự khác biệt giữa thời gian trị vì của các vua đầu và cuối là bằng chứng cho sự suy yếu của Đế quốc Ottoman. Suleiman I ở thời thịnh trị của đế quốc vào thế kỷ XVI, là vua trị vì lâu nhất trong lịch sử Ottoman: 46 năm. Murad V ở thời suy vong của đế quốc vào cuối thế kỷ XIX, được xem là vua trị vì ngắn nhất: chỉ 93 ngày rồi bị hạ bệ. Nền quân chủ lập hiến chỉ được thành lập dưới triều người kế vị Murad V, Abdülhamid II, nên ông trở thành vị vua chuyên chế cuối cùng, đồng thời là vị vua lập hiến đầu tiên của Đế quốc Ottoman.[10] Cháu của Abdülhamid II, Hoàng tử Ertuğrul Osman, sống ở thành phố New York năm 1939, là người đứng đầu của dòng họ Ottoman hiện nay và là người được quyền thừa kế ngai vàng Ottoman xưa.[11]
Danh sách sultan
Dưới đây là danh sách vua nhà Ottoman theo thứ tự thời gian, được lập theo thứ tự thời gian. Những tughra là những cái ấn hay chữ ký của các sultan Ottoman, được viết bằng thư pháp. Những tughra hiện diện ở mọi tài liệu chính thức cũng như đồng thời trên các đồng tiền, thậm chí còn được dùng để chỉ đến sultan thay vì dùng chân dung của ông. Phần “Ghi chú” có chứa thông tin về cuộc đời và huyết thống của nhà vua. Nếu một Sultan bị chết không phải vì lý do bệnh tật hoặc một cái chết tự nhiên thì lý do sẽ được ghi ở phía dưới. Đối với một số Sultan thời kỳ đầu, các Sultan nối ngôi sẽ chưa lên ngôi vội sau khi tiên vương của mình qua đời. Điều này xảy ra thường xuyên vì các Sultan không quyết định việc ai sẽ là người kế nhiệm mình và thường để xảy ra những chuyện theo kiểu “sự sống sót của người thích hợp nhất”, vì khi nhà vua qua đời, các con ông đánh chém lẫn nhau cho đến khi có kẻ chiến thắng. Bởi vì những vụ đấu đá nội bộ và những vụ giết anh em để chiếm ngai vàng, nên thời điểm và vị Sultan tiền nhiệm qua đời không trùng với ngày đăng quang của vị Sultan kế nhiệm.[12] Kể từ năm 1617, luật thừa kế thì hệ thống cha truyền con nối được đổi thành một hệ thống mà thay vào đó người lớn tuổi nhất trong dòng họ (ekberiyet) sẽ được chọn làm Sultan. Vì vậy, trong thế kỷ 17 ta không thấy bất cứ trường hợp cha truyền con nối nào mà thay vào đó, ngai vàng thường được trao cho chú hoặc bác.[13] Chế độ này được thực hiện cho đến khi chế độ Sultan bị hủy bỏ, mặc dụ trong thế kỷ 19, từng có cố gắng chọn con trưởng làm thái tử nhưng bất thành.[14]
Dưới đây là các vương hiệu mà các vị vua nhà Ottoman từng dùng:
- ‘Ala Hazrat-i-Aqdas-i-Hümayun (Đấng thiêng liêng) Sultan và Hãn,
- Padishah, Hoàng đế,
- Hünkar-i Khanedan-i Âl-i Osman, Quốc vương Nhà Ottoman,
- Sultan us-Selatin, Sultan của các vị Sultan,
- Khakan, nghĩa: Kha hãn,
- Amir ül-Mü’minin ve Khalifeh ül-Rasul Rub al-A’alimin, Người dẫn dắt các tín hữu và người kế nhiệm của Nhà tiên tri của Đức chúa trời,
- Khâdim ül-Haramayn ush-Sharifayn, Người giám hộ hai chốn tôn nghiêm (chỉ hai thành phố Mecca và Medina),
- Kaysar-i-Rûm, nghĩa: Hoàng đế La Mã
- Padişah-i thalath şehireha-i Qostantiniyye, Edirne ve Hüdavendigâr, ül şehireyn-i Dimaşq ve Qahira, tamam Azerbayjan, Mağrib, Barqah, Kayravan, Haleb, ül-‘Iraq-i ‘Arab vel ‘Ajam, Basra, ül-dulan-i Lahsa, Rakka, Musul, Partiyye, Diyârbekir, Kilikiyye, ül vilâyatun-i Erzurum, Sivas, Adana, Karaman, Van, Barbariyye, Habeş, Tunus, Trablus-i Garb, Şam, Kıbrıs, Rodos, Girit, ül vilâyet-i Mora, ül Bahr-i Sefid vel Bahr-i Siyah ve i-swahil, Anadolu, Rumeli, Bagdâd, Kurdistân, Yunanistan, Türkistan, Tatariyye, Çerkesyye, ül mintaqateyn-i Kabarda, Gürjistan, ül-Deşt-i Qipçaq, tamam ül-mamlikat-i Tatar, Kefe ve tamam ül-etraf, Bosna, ül şehir ve hisar-i Belgrat, ül vilâyet-i Sırbistan bil tamam ül-hisareha ve şehireha, tamam Arnavut, tamam Eflak ve Boğdan, ve tamam ül-mustamlak vel-hududeha, ve muteaddit mamalekat ve şehireha, Hoàng đế của ba thành phố Constantinopolis, Adrianople và Bursa, và các thành phố Damas và Cairo, cùng toàn thể Azerbaijan, của Magreb, của Barka, của Kairouan, của Aleppo, của người Ả Rập và của xứ Ba Tư thuộc Iraq, của Basra, của Al-Hasa strip, của Ar Raqqah, của Mosul, của Parthia, của Diyarbakır, của Cilicia, và của các tỉnh Erzurum, của Sivas, của Adana, của Karaman, của Van, của người Berber, của Abyssinia, của Tunisia, của Tripoli, của Damas, của Cyprus, của Rhodes, của Crete, của các tỉnh xứ Morea, của biển Địa Trung Hải, và Biển Đen cũng như bờ biển xung quanh của nó, của Anatolia, Rumelia, Baghdad, Hy Lạp, Turkistan, Tartary, Circassia, của khu vực Kabarda, của Georgia, của steppe of Kypchaks, của các vùng đất của người Thát Đát, của Kefe, của tất cả các khu vực lân cận, của Bosnia, của thành phố và pháo đài Beograd, của tỉnh Serbia, và tất cả pháo đài và thành phổ trên toàn Albania, của vùng Eflak của Bogdania, cũng như tất cả các nước chư hầu, và các vùng đất khác.
# | Vua | Chân dung | Lên ngôi | Kết thúc triều đại | Chữ ký | Ghi chú |
---|---|---|---|---|---|---|
1 | Osman I | ![]() |
kh. 1299 | kh. 1324 | — [c] |
|
2 | Orhan | kh. 1324 | kh. 1360 | |||
3 | Murad I Hüdavendigar |
![]() |
kh. 1360 | 1389 | ![]() |
|
4 | Bayezid I Tiếng Sét |
![]() |
1389 | 1402 |
|
|
Thời đứt quãng của Đế quốc Ottoman[d] (1402–1413) |
||||||
5 | Mehmed I | ![]() |
1413 | 1421 |
|
|
6 | Murad II | ![]() |
1421 | 1444 |
|
|
7 | Mehmed II Nhà chinh phạt |
![]() |
1444 | 1446 |
|
|
— | Murad II | ![]() |
1446 | 3 tháng 2 năm 1451 | ||
— | Mehmed II Người chinh phạt |
![]() |
3 tháng 2 năm 1451 | 3 tháng 5 năm 1481 |
|
|
8 | Bayezid II | ![]() |
19 tháng 5 năm 1481 | 25 tháng 4 năm 1512 |
|
|
9 | Selim I Hung bạo |
![]() |
25 tháng 4 năm 1512 | 21 tháng 9 năm 1520 |
|
|
10 | Suleyman I Đại đế hay Nhà làm luật |
![]() |
30 tháng 9 năm 1520 | 6 hoặc 7 tháng 9 năm 1566 | ![]() |
|
11 | Selim II Nghiện |
![]() |
29 tháng 9 năm 1566 | 21 tháng 12 năm 1574 |
|
|
12 | Murad III | ![]() |
22 tháng 12 năm 1574 | 16 tháng 1 năm 1595 |
|
|
13 | Mehmed III | ![]() |
27 tháng 1 năm 1595 | 21 tháng 12 năm 1603 |
|
|
14 | Ahmed I | ![]() |
21 tháng 12 năm 1603 | 22 tháng 11 năm 1617 |
|
|
15 | Mustafa I | ![]() |
22 tháng 11 năm 1617 | 26 tháng 2 năm 1618 | ||
16 | Osman II | ![]() |
26 tháng 2 năm 1618 | 19 tháng 5 năm 1622 |
|
|
— | Mustafa I | ![]() |
20 tháng 5 năm 1622 | 10 tháng 9 năm 1623 | ||
17 | Murad IV | ![]() |
10 tháng 9 năm 1623 | 8 hoặc 9 tháng 2 năm 1640 | ![]() |
|
18 | Ibrahim | ![]() |
9 tháng 2 năm 1640 | 8 tháng 8 năm 1648 |
|
|
19 | Mehmed IV | ![]() |
8 tháng 8 năm 1648 | 8 tháng 11 năm 1687 |
|
|
20 | Suleyman II | ![]() |
8 tháng 11 năm 1687 | 22 tháng 6 năm 1691 |
|
|
21 | Ahmed II | ![]() |
22 tháng 6 năm 1691 | 6 tháng 2 năm 1695 |
|
|
22 | Mustafa II | ![]() |
6 tháng 2 năm 1695 | 22 tháng 8 năm 1703 |
|
|
23 | Ahmed III | ![]() |
22 tháng 8 năm 1703 | 1 hoặc 2 tháng 10 năm 1730 |
|
|
24 | Mahmud I | ![]() |
2 tháng 10 năm 1730 | 13 tháng 12 năm 1754 |
|
|
25 | Osman III | ![]() |
13 tháng 12 năm 1754 | 29 or 30 tháng 10 năm 1757 |
|
|
26 | Mustafa III | ![]() |
30 tháng 10 năm 1757 | 21 tháng 1 năm 1774 |
|
|
27 | Abdülhamid I | ![]() |
21 tháng 1 năm 1774 | 6 hoặc 7 tháng 4 năm 1789 |
|
|
28 | Selim III | ![]() |
7 tháng 4 năm 1789 | 29 tháng 5 năm 1807 |
|
|
29 | Mustafa IV | ![]() |
29 tháng 5 năm 1807 | 28 tháng 7 năm 1808 |
|
|
30 | Mahmud II | ![]() |
28 tháng 7 năm 1808 | 1 tháng 7 năm 1839 |
|
|
31 | Abdülmecid I | ![]() |
1 tháng 7 năm 1839 | 25 tháng 6 năm 1861 |
|
|
32 | Abdülaziz | 25 tháng 6 năm 1861 | 30 tháng 5 năm 1876 |
|
||
34 | Abdülhamid II Vua Đỏ |
![]() |
31 tháng 8 năm 1876 | 27 tháng 4 năm 1909 |
|
|
35 | Mehmed V | ![]() |
27 tháng 4 năm 1909 | 3 tháng 7 năm 1918 |
|
|
36 | Mehmed VI | ![]() |
4 tháng 7 năm 1918 | 1 tháng 11 năm 1922 |
|
|
Dissolution of the Ottoman Empire[e] (1922–1923) |
||||||
— | Abdülmecid II (Chỉ xưng Caliph) |
![]() |
18 tháng 11 năm 1922 | 3 tháng 3 năm 1924 | — [c] |
t
Xem thêm
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Danh sách sultan của đế quốc Ottoman |
- Đế quốc Ottoman
- Nhà Ottoman
- Phả hệ nhà Ottoman
- Line of succession to the Ottoman throne
- Danh sách hoàng thái hậu nhà Ottoman
Ghi chú
- a1 2 : The full style of the Ottoman ruler was complex, as it was composed of several titles and evolved over the centuries. The title of sultan was used continuously by all rulers almost from the beginning. However, because it was widespread in the Muslim world, the Ottomans quickly adopted variations of it to dissociate themselves from other Muslim rulers of lesser status. Murad I, the third Ottoman monarch, styled himself sultan-i azam (the most exalted sultan) and hüdavendigar (emperor), titles used by the Anatolian Seljuqs and the Mongol Ilkhanids respectively. His son Bayezid I adopted the style Sultan of Rûm, Rûm being an old islamic name for Anatolia. The combining of the Islamic and Central Asian heritages of the Ottomans led to the adoption of the title that became the standard designation of the Ottoman ruler: Sultan [Name] Khan.[55] Ironically, although the title of sultan is most often associated in the Western world with the Ottomans, people within Turkey generally use the title of padishah far more frequently when referring to rulers of the Ottoman Dynasty.[56] The full style of the Ottoman sultan once the empire’s frontiers had stabilized became:[57]
“Người đứng đầu Gia tộc Osman, Sultan es Selatin (Sultan của các vị Sultan), Khakhan (Hãn của các vị hãn), người dẫn dắt các tín hữu và người kế nhiệm của Nhà tiên tri của Đức chúa trời, Người giám hộ thành Mecca, Medina và Jerusalem, Hoàng đế của ba thành phố Constantinopolis, Adrianople và Bursa, và các thành phố Damas và Cairo, cùng toàn thể Azerbaijan, của Magreb, của Barka, của Kairouan, của Aleppo, của người Ả Rập và của xứ Ba Tư thuộc Iraq, của Basra, của Al-Hasa strip, của Ar Raqqah, của Mosul, của Parthia, của Diyarbakır, của Cilicia, và của các tỉnh Erzurum, của Sivas, của Adana, của Karaman, của Van, của người Berber, của Abyssinia, của Tunisia, của Tripoli, của Damas, của Cyprus, của Rhodes, của Crete, của các tỉnh xứ Morea, của biển Địa Trung Hải, và Biển Đen cũng như bờ biển xung quanh của nó, của Anatolia, Rumelia, Baghdad, Hy Lạp, Turkistan, Tartary, Circassia, của khu vực Kabarda, của Georgia, của steppe of Kypchaks, của các vùng đất của người Thát Đát, của Kefe, của tất cả các khu vực lân cận, của Bosnia, của thành phố và pháo đài Beograd, của tỉnh Serbia, và tất cả pháo đài và thành phổ trên toàn Albania, của vùng Eflak của Bogdania, cũng như tất cả các nước chư hầu, và các vùng đất khác.
- b^ : The Ottoman Caliphate was one of the most important positions held by rulers of the Ottoman Dynasty. The caliphate symbolized their spiritual power, whereas the sultanate represented their temporal power. According to Ottoman historiography, Selim I acquired the title of caliph during his conquest of Egypt in 1517, after the last Abbasid in Cairo, Al-Mutawakkil III, relinquished the caliphate to him. However, the general consensus among modern scholars is that this transference of the caliphate was a fabricated myth invented in the 18th century when the idea of an Ottoman Caliphate became useful to bolster waning military power. In fact, Ottoman rulers had used the title of caliph before the conquest of Egypt, as early as Murad I. It is currently agreed that the caliphate “disappeared” for two-and-a-half centuries, before being revived with the Treaty of Küçük Kaynarca, signed between the Ottoman Empire and Catherine II of Russia in 1774. The treaty was highly symbolic, since it marked the first international recognition of the Ottomans’ claim to the caliphate. Although the treaty officialised the Ottoman Empire’s loss of the Crimean Khanate, it acknowledged the Ottoman caliph’s continuing religious authority over Muslims in Russia.[58] From the 18th century onwards, Ottoman sultans increasingly emphasized their status as caliphs in order to stir Pan-Islamist sentiments among the empire’s Muslims in the face of encroaching European imperialism. When World War I broke out, the sultan/caliph issued a call for jihad in 1914 against the Ottoman Empire’s Allied enemies, vainly inciting the subjects of the French, British and Nga empires to revolt. Abdülhamid II was by far the Ottoman sultan who made the most use of his caliphal position, and was recognized as caliph by many Muslim heads of state, even as far away as Sumatra.[59] He had his claim to the title inserted into the 1876 Constitution (Article 4).[60]
- c1 2 : Tughras were used by 35 out of 36 Ottoman sultans, starting with Orhan in the 14th century, whose tughra has been found on two different documents. No tughra bearing the name of Osman I, the founder of the empire, has ever been discovered, although a coin with the inscription “Osman bin Ertuğrul bin Gündüz Alp” has been identified.[61] Abdülmecid II, the last Ottoman caliph, also lacked a tughra of his own, since he did not serve as head of state (that position being held by Mustafa Kemal, President of the newly founded Republic of Turkey) but as a mere religious figurehead.
- d^ : The Ottoman Interregnum, also known as the Ottoman Triumvirate (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Fetret Devri), was a period of chaos in the Ottoman Empire which lasted from 1402 to 1413. It started following the defeat and capture of Bayezid I by the Turco-Mongol warlord Tamerlane at the Battle of Ankara, which was fought on 20 tháng 7 năm 1402. Bayezid’s sons fought each other for over a decade, until Mehmed I emerged as the undisputed victor in 1413.[62]
- e^ : The dissolution of the Ottoman Empire was a gradual process which started with the abolition of the sultanate and ended with that of the caliphate 16 months later. The sultanate was formally abolished on 1 tháng 11 năm 1922. Sultan Mehmed VI fled to Malta on 17 November aboard the British warship Malaya.[51] This event marked the end of the Ottoman Dynasty, not of the Ottoman State nor of the Ottoman Caliphate. On 18 November, the Grand National Assembly (TBMM) elected Mehmed VI’s cousin Abdülmecid II, the then crown prince, as caliph.[63] The official end of the Ottoman State was declared through the Treaty of Lausanne (24 tháng 7 năm 1923), which recognized the new “Ankara government,” and not the old Istanbul-based Ottoman government, as representing the rightful owner and successor state. The Republic of Turkey was proclaimed by the TBMM on 29 tháng 10 năm 1923, with Mustafa Kemal as its first President.[64] Although Abdülmecid II was a figurehead lacking any political power, he remained in his position of caliph until the office of the caliphate was abolished by the TBMM on 3 tháng 3 năm 1924.[60] Mehmed VI later tried unsuccessfully to reinstall himself as caliph in the Hejaz.[65]
Chú thích
- ^ Stavrides 2001,tr. 21
- ^ Glazer 1996, “The Ottoman Empire”
- ^ Glazer 1996, “War of Independence”
- ^ a ă Findley 2005, tr. 115
- ^ …
Ottoman_Institutions
- ^ Toynbee 1974, các trang. 22–23
- ^ Stavrides 2001, tr. 20
- ^ Quataert 2005, tr. 93
- ^ d’Osman Han 2001, “Ottoman Padishah Succession”
- ^ Glazer 1996, “External Threats and Internal Transformations”
- ^ Bernstein, Fred A. (26 tháng 3 năm 2006). “Not Quite a Castle, but It’s Home”. The New York Times. ISSN 0362-4331. OCLC 1645522. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2009.
- ^ Quataert 2005, tr. 91
- ^ Quataert 2005, tr. 92
- ^ Karateke 2005, các trang. 37–54
- ^ “Sultan Osman Gazi”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Sultan Orhan Gazi”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Sultan Murad Hüdavendigar Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ 17A16AE30572D313A79D6F5E6C1B43FFA6B896F16D985D5D “Sultan Yıldırım Beyezid Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Sultan Mehmed Çelebi Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ a ă “Sultan II. Murad Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ a ă “Chronology: Sultan II. Murad Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2009.
- ^ “Fatih Sultan Mehmed Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ Kafadar 1996, tr. xix
- ^ “Sultan II. Bayezid Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Yavuz Sultan Selim Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Kanuni Sultan Süleyman Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Sultan II. Selim Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Sultan III. Murad Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Sultan III. Mehmed Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Sultan I. Ahmed”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ a ă “Sultan I. Mustafa”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Sultan II. Osman Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Sultan IV. Murad Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Sultan İbrahim Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Sultan IV. Mehmed”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Sultan II. Süleyman Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Sultan II. Ahmed Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Sultan II. Mustafa Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Sultan III. Ahmed Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Sultan I. Mahmud Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Sultan III. Osman Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Sultan III. Mustafa Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Sultan I. Abdülhamit Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Sultan III. Selim Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Sultan IV. Mustafa Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Sultan II. Mahmud Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Sultan Abdülmecid Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Sultan Abdülaziz Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Sultan II. Abdülhamid Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Sultan V. Mehmed Reşad Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ a ă “Sultan VI. Mehmed Vahdettin Han”. Bộ Văn hóa và Du lịch Thổ Nhỹ Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ As̜iroğlu 1992, tr. 13
- ^ As̜iroğlu 1992, tr. 17
- ^ As̜iroğlu 1992, tr. 14
- ^ Peirce 1993, các trang. 158–159
- ^ M’Gregor, J. (July năm 1854). “The Race, Religions, and Government of the Ottoman Empire”. The Eclectic Magazine of Foreign Literature, Science, and Art (New York: Leavitt, Trow, & Co.) 32: tr. 376. OCLC 6298914. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2009.
- ^ Ozgen, Korkut. “The Ottomans History”. TheOttomans.org. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ Glassé, Cyril biên tập (2003). “Ottomans”. The New Encyclopedia of Islam. Walnut Creek, CA: AltaMira Press. tr. 349–351. ISBN 9780759101906. OCLC 52611080. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2009.
- ^ Quataert 2005, pp. 83–85
- ^ a ă Toprak 1981, pp. 44–45
- ^ Mensiz, Ercan. “About Tugra”. Tugra.org. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
- ^ Sugar 1993, pp. 23–27
- ^ As̜iroğlu 1992, p. 54
- ^ Glazer 1996, “Table A. Chronology of Major Kemalist Reforms”
- ^ Steffen, Dirk (2005). “Mehmed VI, Sultan”. Trong Tucker, Spencer. World War I: Encyclopedia. Volume III: M–R. Santa Barbara, CA: ABC-CLIO. tr. 779. ISBN 9781851094202. OCLC 162287003. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2009.
Liên kết ngoài
- “Website of the 700th Anniversary of the Ottoman Empire”.
- “Official website of the immediate living descendants of the Ottoman Dynasty”. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
Cuốn theo chiều gió
Cuốn theo chiều gió | |
---|---|
![]() |
|
Thông tin sách | |
Tác giả | Margaret Mitchell |
Quốc gia | Mỹ |
Ngôn ngữ | tiếng Anh |
Thể loại | Tình cảm, lịch sử |
Nhà xuất bản | Nhà xuất bản Macmillan |
Ngày phát hành | 30 tháng 6, 1936 |
Kiểu sách | In (bìa cứng và bìa mềm) |
Số trang | 1037 (xuất bản lần đầu) 1024 (sách bìa mềm của Warner Books) |
ISBN | ISBN 0-446-36538-6 (Warner) |
Bản tiếng Việt | |
Người dịch | Dương Tường |
Cuốn theo chiều gió (Nguyên văn: Gone with the wind), xuất bản lần đầu năm 1936, là một cuốn tiểu thuyết tình cảm của Margaret Mitchell, người đã dành giải Pulitzer với tác phẩm này năm 1937. Câu chuyện được đặt bối cảnh tại Georgia và Atlanta, miền Nam Hoa Kì trong suốt thời kì nội chiến và thời tái thiết. Tác phẩm xoay quanh Scarlett O’Hara, một cô gái miền Nam đầy sức mạnh, phải tìm mọi cách để sống sót qua chiến tranh và vượt lên cuộc sống khó khăn trong thời hậu chiến. Tiểu thuyết đã được chuyển thể thành phim năm 1937.
Mục lục
- 1 Nhan đề
- 2 Cốt truyện
- 3 Nhân vật
- 3.1 Gia đình Butler
- 3.2 Gia đình O’hara (đồn điền Tara)
- 3.3 Gia đình Wilkes (đồn điền Twelve Oaks)
- 3.4 Gia đình Hamilton
- 3.5 Gia đình Tarleton (đồn điền Fairhill)
- 3.6 Gia đình Fontaine (đồn điền Mimosa)
- 3.7 Gia đình Munroe (đồn điền Lovejoy)
- 3.8 Gia đình Calvert (đồn điền Pine Bloom)
- 3.9 Gia đình Merriwether
- 3.10 Gia đình Meade
- 3.11 Gia đình Elsing
- 3.12 Các nhân vật khác
- 4 Chuyển thể
- 5 Giải thưởng
- 6 Xem thêm
- 7 Chú thích
- 8 Liên kết ngoài
Nhan đề
Ban đầu tác giả từng có ý định đặt nhan đề Ngày mai là một ngày khác (Tomorrow is Another Day) cho tiểu thuyết, lấy từ câu kết thúc tác phẩm.[1] Các nhan đề từng được xem xét bao gồm: Bugles Sang True, Not in Our Stars, và Tote the Weary Load.[2] Nhan đề cuối cùng mà tác giả được lấy từ dòng đâu tiên của khổ 3 bài thơ Non Sum Qualis Eram Bonae sub Regno Cynarae của Ernest Dowson:
Nguyên văn:
- I have forgot much, Cynara! gone with the wind,
- Flung roses, roses riotously with the throng,
- Dancing, to put thy pale, lost lilies out of mind…[3]
Scarlett O’Hara sử dụng cụm từ nhan đề khi cô tự vấn bản thân mình liệu nhà cô ở “Tara” có còn đứng vững hay đã bị “cuốn theo chiều gió quét qua Georgia”[4] Theo cách hiểu chung, “Cuốn theo chiều gió” là một lối nói ẩn dụ cho sự ra đi của một cuộc sống đã từng tồn tại ở miền Nam trước Nội chiến. Khi được dùng trong bài thơ của Dowson về “Cynara”, cụm từ “cuốn theo chiều gió” ám chỉ sự mất mát về tình cảm chứ không mang ý nghĩa giống như nhan đề tiểu thuyết.[5]
Cốt truyện
Cuốn theo chiều gió được chia làm 5 phần:
Phần 1
Tác phẩm lấy bối cảnh miền Nam nước Mỹ trước cuộc nội chiến, một thế giới với những đồn điền bông vải sang cả trải dài bất tận theo những mộng mơ của một xã hội thượng lưu quý phái. Tiểu thuyết mở đầu vào tháng 4 năm 1861 bằng cảnh nhân vật chính của truyện, Scarlett O’Hara đang ngồi tại đồn điền Tara nhà mình ở hạt Clayton, Georgia cùng tán gẫu với 2 anh em sinh đôi Brent và Stuart Tarleton sống ở đồn điền kế bên. Qua cuộc nói chuyện này, Scarlett biết rằng người nàng thầm yêu từ lâu, Ashley Wilkes chuẩn bị đính hôn với cô em họ là Melanie Hamilton ở Atlanta. Scarlett choáng váng khi nghe tin đó và cuộc nói chuyện cũng kết thúc. Nàng vội vã đi tìm cha mình, Gerald O’Hara, để xác minh lại câu chuyện và cha nàng khuyên nếu nàng và Ashley lấy nhau sẽ là một điều tồi tệ và nàng nên lấy một trong hai anh em sinh đôi trên.
Scarlett cho rằng Ashley có ý định đính hôn vì chàng không biết nàng đã yêu mình. Nàng quyết định trong buổi tiệc ngoài trời tại trại Twelve Oaks sẽ thổ lộ tình yêu với chàng và cùng chàng trốn đi. Nhưng mọi thứ không theo kế hoạch của Scarlett: Ashley ân cần với nàng nhưng nói rằng chàng vẫn sẽ cưới Melanie. Vị khách không mời trong buổi tiệc, Rhett Butler, người vô tình lắng nghe toàn bộ câu chuyện buông lời trêu chọc Scarlett làm nàng nổi điên, điều này lại ngẫu nhiên quyến rũ Rhett. Trong cơn tức giận cùng với việc nghe lén Honey Wilkes, vợ chưa cưới của Charles Hamilton nói xấu mình, Scarlett đã nhận lời lấy Charles Hamilton vừa làm Ashley ghen vừa trả thù Honey. Buổi tiệc kết thúc cũng là lúc có tin cuộc Nội chiến Hoa Kỳ nổ ra và các chàng trai phải đi nhập ngũ.
Đám cưới của Scarlett diễn ra nhanh chóng sau đó 2 tuần để Charles nhập ngũ, một ngày trước đám cưới giữa Ashley và Melanie. Một tuần sau khi cưới, Charles nhập ngũ và 2 tuần sau, Ashley cùng đội kị binh của tiểu bang lên đường. Tuy nhiên, Charles đã chết vì đậu mùa ở căn cứ Nam Carolina trước khi có dịp được ra chiến trường. Sau đó, con trai Charles ra đời và được đặt tên là Wade Hampton Hamilton (theo tên chỉ huy của Charles là tướng Wade Hamilton).
Trở thành một góa phụ làm thay đổi cuộc sống hằng ngày của Scarlett: Lúc nào cũng mặc đồ tang, không chuyện trò sôi nổi hoặc cười to, không vui vẻ khi gặp đàn ông. Scarlett cảm thấy đau đớn vì sự buồn chán và việc phải làm mẹ hơn là cái chết của chồng. Mẹ nàng, Ellen O’Hara, muốn nàng vơi bớt nỗi buồn đã gửi nàng đến Atlanta sống cùng Melanie và bà cô của Charles, Pittypat Hamilton.
Phần 2
Scarlett đến Atlanta vào tháng 5 năm 1862. Tại đây, Scarlett nhanh chóng thích sự nhộn nhịp và hối hả của thành phố này. Nàng bị bắt buộc làm y tá tình nguyện ở dưỡng đường nhưng vô cùng chán ghét công việc này. Vì còn đang chịu tang chồng nên nàng bị cấm đoán đủ thứ, trong đó có cuộc bán đồ phúc thiện với sự góp mặt của nhiều cư dân thành phố, nhưng đến cuối cùng, Scarlett may mắn được dự vì để thay cho một bà khác có con bị bệnh. Tại đây, nàng gặp lại Rhett Butler, mà giờ đây là một thuyền trưởng vượt phong tỏa nổi tiếng, chuyên chở các mặt hàng thiết yếu cho miền Nam. Rhett Butler đã mời nàng nhảy với cái giá 150 dollar vàng. Mặc dù đang chịu tang nhưng Scarlett vẫn đồng ý vì nàng thèm muốn được khiêu vũ cuồng nhiệt với bất kì giá nào để thoát khỏi cái vỏ nhàm chán của một góa phụ.
Kể từ đó mối quan hệ giữa Scarlett và Rhett được cải thiện. Rhett bằng bản tính hài hước, hay trêu chọc Scarlett và cố làm cho nàng vui. Tuy nhiên gần như cả thành phố đều căm ghét hắn. Scarlett lại lúc nào cũng chỉ nghĩ đến Ashley. Tình hình ngoài mặt trận ngày càng căng thẳng. Thất bại của quân đội Hợp bang trong trận Gettysburg tạo nên một bước ngoặt trong cuộc nội chiến và thương vong của quân đội Hợp bang ngày càng nhiều. Giáng sinh năm 1862, Ashley trở về nhưng trái với mong đợi của Scarlett, chàng chỉ quan tâm đến vợ mình, Melanie. Ngày Ashley rời nhà trở lại chiến trường, Scarlett lại một lần nữa thổ lộ tình yêu với chàng hi vọng chàng sẽ bỏ vợ để cưới nàng nhưng chàng không nói gì và dặn dò nàng chăm sóc Melanie nếu chàng có mệnh hệ gì ngoài chiến trường. Chàng vội vã ra đi và lần thứ hai, Scarlett vỡ mộng.
Phần 3
Cuộc nội chiến ngày càng diễn biến bất lợi cho miền Nam. Sau những thất bại liên tiếp của quân đội Hợp bang, quân đội Liên bang đã tiến sát và bao vây Atlanta, do đó người dân thành phố phải tổ chức di tản. Tuy nhiên, Scarlett và Melanie không thể đi cùng mọi người vì Melanie đang có thai và có thể sinh con bất cứ lúc nào. Do các bác sĩ phải chăm sóc các thương binh, lúc này đã tràn ngập thành phố nên Scarlett phải đỡ đẻ cho Melanie. Sau khi Melanie sinh xong, Scarlett phải cầu cứu Rhett và hắn đã lấy cắp của quân đội cho nàng một chiếc xe ngựa nhưng con ngựa vô cùng ốm yếu. Hắn chở Melanie và con nàng, Prissy, Wade và Scarlett, chạy khỏi Atlanta. Tuy vậy, đi đến giữa đường thì Rhett bỏ mặc những người còn lại để gia nhập quân đội Hợp bang. Trước khi đi, hắn hôn nàng và nói yêu nàng nhưng Scarlett giận dữ chửi rủa và tát hắn.
Scarlett trở về đồn điền Tara và gặp những cảnh tượng kinh hoàng: Mẹ mất vì bệnh, ngôi nhà bị tàn phá nặng nề, phần lớn các nô lệ đã bỏ trốn, 2 người em gái bệnh nặng nằm liệt giường và người cha bị sốc vì cái chết của vợ cũng trở nên loạn trí. Giờ đây Scarlett trở thành chủ nhân đích thực của Tara. Bằng bản tính ngoan cường và cách suy nghĩ thực tế, nàng dần vực dậy ấp Tara và làm mọi công việc, kể cả những việc mà khi xưa chỉ có nô lệ làm. Một tên lính Yankee đến ăn cắp đã bị nàng cầm súng bắn chết. Melanie vẫn còn phải nằm trên giường sau khi sinh xong nhưng vẫn cầm thanh kiếm của Charles đến giúp tuy nàng không đủ sức nâng nó. Hành động này khiến Scarlett thán phục và tình cảm của cô dành cho Melanie giờ đây bắt đầu trỗi dậy. Sau đó, Scarlett đã lấy tiền và ngựa của tên lính bị giết rồi chôn hắn ta ngay tại ấp Tara.
Chiến tranh gần kết thúc và Tara lại bị tàn phá lần nữa khi quân đội Liên bang đến. Một tháng sau thì cuộc nội chiến kết thúc với thắng lợi thuộc về Liên bang. Những người lính Hợp bang trên đường trở về nhà đã ghé qua Tara để lấy thức ăn hoặc dưỡng thương. Trong số đó có một người lính bị thương nặng tên là Will Benteen, được em gái Scarlett là Carreen chăm sóc cẩn thận. Sau khi bình phục, Will đã ở lại ấp Tara và giúp đỡ Scarlett vực dậy nó. Có Will, công việc của Scarlett đã được đỡ đần rất nhiều.
Ashley sau khi chiến tranh kết thúc vẫn chưa về được liền vì còn là tù binh của Liên bang. Một ngày kia chàng bất ngờ xuất hiện tại ấp Tara. Cả Scarlett và Melanie đều chạy ra đón chàng nhưng Will ngăn Scarlett lại và hỏi cô: “Anh ta là chồng cô ấy, phải không nào?” khiến Scarlett bất đắc dĩ phải quay trở lại.
Phần 4
Chiến tranh kết thúc nhưng một lần nữa số phận Tara lại bị đe doạ khi chính phủ Yankee tăng tiền thuế của đồn điền lên để Scarlett không có tiền trả và phải nhượng lại Tara cho tên quản gia Yankee Jonas Wilkerson và vợ hắn, một kẻ da trắng cặn bã. Để có tiền cứu Tara, Scarlett phải đến Atlanta mượn tiền Rhett. Rhett vô cùng giàu có nhưng lúc này đang phải ngồi tù. Scarlett trang điểm và đến thăm Rhett để mượn một khoản tiền mà không để hắn biết là nàng đang cố tán tỉnh hắn vì tiền. Nàng đã gần như thuyết phục được Rhett cho đến khi đôi mắt sắc sảo của hắn thấy đến bàn tay chai sần của Scarlett, bằng chứng cho những công việc nặng nhọc mà nàng đã làm và hoàn cảnh của gia đình, khiến cô phải thú nhận mục đích thật sự của chuyến viếng thăm. Cuối cùng, Rhett đã từ chối cho cô mượn tiền. Trong cơn tuyệt vọng, Scarlett tình cờ gặp Frank Kennedy, chồng chưa cưới của Suellen, nay đã là chủ một cửa hàng và có một khoản tiền khá. Bằng cách nói dối Frank rằng Suellen đã lấy người khác, Scarlett đã quyến rũ Frank để ông lấy mình. Nàng đã thành công và có tiền cứu Tara. Sau khi ra tù, Rhett cho nàng mượn tiền để có thể mua thêm xưởng cưa với điều kiện là nàng không được dùng tiền giúp Ashley Wilkes.
Scarlett điều hành xưởng cưa rất thành công nhưng nó cũng làm cho nàng bị nhiều dị nghị vì đó không phải là việc dành cho phụ nữ. Sau đó nàng đã có thai với Frank nhưng vẫn thường xuyên phơi mình nơi công cộng nên ngày càng nhiều người khinh ghét. Sau đó không lâu, Gerald qua đời. Khi về Tara dự đám tang, nàng biết được rằng cái chết của cha mình có liên quan trực tiếp đến cô em gái Suellen. Will dù yêu Carreen nhưng cuối cùng đã lấy Suellen để làm dịu lại quan hệ gia đình. Carreen sau cái chết của Brent Tarleton vì quá đau khổ nên gửi mình vào tu viện. Sau đám tang cha, Scarlett đã mời Ashley trở lại Atlanta giúp nàng điều hành xưởng cưa và ngăn chàng lên miền bắc kiếm việc làm. Ashley lưỡng lự nhưng Melanie kiên quyết đồng ý nên Ashley đành chiều theo ý vợ.
Sau khi sinh con, Scarlett thường xuyên lái xe ngựa một mình đến xưởng cưa mặc dù đã nhiều lần được cảnh báo về sự nguy hiểm. Một ngày nọ nàng bị một tên da trắng nghèo khổ và một tên da đen giải phóng tấn công và suýt bị cưỡng hiếp. May mắn là Big Sam, một nô lệ da đen từng làm việc ở Tara, đã cứu nàng kịp thời. Frank, Ashley và một số người đàn ông khác thuộc đảng Ku Klux Klan phải đi trả thù và kết cục là Ashley bị thương và Frank bị giết. Còn các thành viên còn lại được Rhett, với sự giúp đỡ của Belle Watling, một gái mại dâm ở Atlanta, đã dựng chuyện và tìm cách cứu họ. Từ đó mối quan hệ của Rhett và nhân dân thành phố dần dần được cải thiện. Sau cái chết của Frank, Rhett ngay lập tức cầu hôn Scarlet trước khi nàng có thể lấy một người nào khác.
Phần 5
Scarlett lấy Rhett. Hắn chiều chuộng nàng hết mức và tạo điều kiện cho nàng hưởng thụ những thú vui mà Scarlett chưa bao giờ biết đến ở New Orleans. Cũng qua Rhett mà Scarlett có được những người bạn mới: Những người Yankee và những kẻ giàu lên nhờ đầu cơ và làm ăn gian dối trong chiến tranh. Do đó mà mối quan hệ giữa vợ chồng Scarlett và những người bạn cũ ngày càng trở nên xấu đi và đỉnh điểm là trong 1 buổi tiệc, vợ chồng Scarlett đã mời thống đốc bang thuộc đảng Cộng hòa đến dự khiến tầng lớp thượng lưu miền Nam hoàn toàn cắt đứt mối quan hệ với hai người, ngoại trừ Melanie.
Scarlett sau đó cũng sinh cho Rhett 1 đứa con gái mặc dù nàng cũng không hề muốn. Đứa bé được đặt tên là Eugenia Victoria (theo tên nữ hoàng Victoria và hoàng hậu Pháp Eugenie). Cô bé vô cùng xinh đẹp với đôi mắt xanh dương nên được đặt thêm biệt danh Bonnie Blue Butler, theo tên lá cờ Hợp bang – Bonnie Blue Flag (lá cờ xanh xinh đẹp). Rhett vô cùng hạnh phúc và rất thương yêu con gái mình. Nhưng vì tình yêu với Ashley, Scarlett kiên quyết không ngủ chung với chồng nữa để tránh việc mang thai lần nữa. Rhett tức giận và cãi cọ liên tục với nàng về mối quan hệ bạn bè, cách nuôi dạy con cái. Hắn muốn con gái mình sẽ trở thành một công chúa trong tầng lớp thượng lưu miền Nam cũ. Rồi Rhett cùng với con gái đi khỏi Atlanta một thời gian.
Tại Georgia, sự tham nhũng của đảng Cộng Hòa ngày càng tăng và khiến uy tín của đảng này giảm sút đến không ngờ. Rhett giờ đây lại đứng về đảng Dân chủ cùng với những bạn bè xưa cũ khiến cho quan hệ giữa hắn và họ ngày một tốt đẹp, thực chất là hắn muốn gây dựng một tương lai đảm bảo và thanh danh cho Bonnie, cô con gái hắn yêu thương vô hạn. Rhett giờ đây còn nổi tiếng là một người bố yêu thương con hết mực.
Melanie tổ chức một bữa tiệc sinh nhật bất ngờ cho Ashley. Melanie nhờ Scarlett đến xưởng cưa giữ chân Ashley để mình có thêm thời gian chuẩn bị. Tại đây, Ashley và Scarlett vì xúc động khi nhớ về những ngày xưa êm đềm, đã ôm nhau trong tình cảm trong sáng, nhưng lại bị India Wilkes, bà Elsing và Archie, đánh xe của Melanie bắt gặp. Rhett biết được chuyện này từ Archie nhưng vẫn bắt Scarlett phải đến dự buổi sinh nhật của Ashley với phong thái kiêu hãnh và can đảm, để không huỷ hoại tương lai của Bonnie. Melanie cũng nghe chuyện nhưng với tâm hồn trong sáng, nàng nhất mực không tin và ra sức bênh vực Scarlett. Melanie một lòng tin tưởng Scarlett vì những gì Scarlett đã làm cho nàng. Cũng vì đứng về phía Scarlett, Melanie đã gây chia rẽ trong gia đình và bạn bè thân hữu.
Đêm hôm đó, Scarlett bắt gặp Rhett trong trạng thái say khướt. Sau đó, Rhett xốc bổng nàng lên cầu thang và cả hai trải qua một đêm ân ái đầy nồng nàn. Scarlett thức dậy một mình vào sáng hôm sau và háo hức muốn gặp chồng nhưng Rhett lẩn tránh nàng. Rhett đưa Bonnie đến Luân Đôn. Hắn bỏ đi khiến Scarlett cảm thấy day dứt về những việc mình đã làm với hắn và cả với hai đứa con đầu của mình. Nàng có thai lần nữa và đây là lần đầu tiên cảm thấy hạnh phúc vì điều đó. Ngày Rhett cùng Bonnie trở về, nàng đã háo hức muốn báo tin đó cho Rhett, nhưng không tin vào tình yêu mình nhìn thấy trong mắt Scarllet, hắn giễu cợt nàng. Scarllet quá tức giận nên ngã cầu thang và sẩy thai.
Sau tai nạn đó, Scarlett phải về Tara một thời gian để điều dưỡng. Rhett đã bàn với Ashley tìm cách lừa Scarlett để cô nhượng lại hai xưởng cưa cho Ashley. Đảng Cộng hòa cuối cùng cũng bị lật nhào, kéo theo đó là những người bạn mới của Scarlett. Bonnie ngày càng được Rhett cưng chiều. Cô bé rất thích cưỡi ngựa. Một ngày, Bonnie gặp tai nạn trong khi cho ngựa vượt rào và gãy cổ. Rhett bị chấn động tâm lí nặng nề sau cái chết của Bonnie và chỉ có Melanie mới giúp hắn vượt qua cú sốc đó.
Melanie mang thai và giấu mọi người để sinh con, mặc dù đã bị bác sĩ cấm đoán. Nhưng do thể trạng quá yếu, nàng lâm nguy kịch. Scarlett về sau khi nhận được điện khẩn của Rhett. Trên giường bệnh, Melanie trăng trối lại với Scarlett hãy giúp nàng chăm sóc Ashley và Beau. Cuối cùng, Melanie khuyên Scarlett hãy trân trọng Rhett và tình cảm của hắn. Scarlett bỏ chạy và gặp Ashley. Giờ đây nàng mới nhận ra Melanie quan trọng với mình đến nhường nào và suốt bao nhiêu năm qua, tình yêu của nàng đối với Ashley cũng chỉ như khi một đứa bé muốn với tới một mặt trăng hão huyền, đó là tình yêu do nàng tự tưởng tượng ra.
Trong lúc tuyệt vọng, Scarlett nghĩ đến Rhett và chợt nhận ra Rhett mới là người nàng cần. Nàng đã dần yêu Rhett trong bao nhiêu năm qua nhưng cái bóng quá lớn của Ashley đã chặn tầm mắt nàng lại. Rhett luôn luôn ở bên Scarlett mỗi khi nàng cần và giúp đỡ nàng theo cách tuyệt vời nhất, bằng sự thông hiểu sâu sắc. Nàng vội vã đi tìm Rhett. Nhưng giờ đây hắn lại hoàn toàn ghẻ lạnh với nàng. Hắn lạnh lùng bảo tình yêu bao năm qua hắn dành cho nàng giờ đã lụi tàn cùng với sự thờ ơ hắn nhận được, chỉ còn lại hai điều nàng ghét nhất là lòng thương hại và nhân từ.
Choáng váng vì những gì nghe thấy nhưng Scarlett vẫn can đảm thổ lộ: “Nhưng em yêu anh “. Rhett thản nhiên đáp lại: “Đó là nỗi bất hạnh của em”. Rồi hắn bảo nàng rằng hắn sắp đi xa và có thể sẽ trở về quê nhà Charleston để tìm lại những ngày xưa cũ êm đềm và đẹp đẽ. Scarlett van lơn: “Ôi anh yêu dấu, em biết làm gì nếu anh đi ?” và Rhett trả lời bằng 1 giọng hờ hững nhưng dịu dàng: “Em yêu ạ, anh cóc cần quan tâm”.
Scarlett lặng lẽ nhìn Rhett bỏ đi và giờ đây nàng nhận ra, vì nàng không hiểu hai người mình yêu nên đã để tuột mất cả hai. Nàng quyết định sẽ trở về Tara, nơi nàng đã từng vực dậy từ trắng tay. Với tính tình mạnh mẽ cứng cỏi, Scarlett tin rằng mình có thể chiếm lại được Rhett. Chưa người đàn ông nào cưỡng lại nàng nếu nàng quyết tâm chinh phục. Tác phẩm kết thúc bằng hình ảnh Scarlett đầy cương nghị đứng trước thềm Tara ngập nắng với câu tiếp sức mạnh quen thuộc của mình: “Sau tất cả, ngày mai là một ngày mới” (After all, tomorrow is another day!)
Nhân vật
Gia đình Butler
- Katie Scarlett O’Hara Hamilton Kennedy Butler: Nhân vật chính của tác phẩm, một cô gái xinh đẹp, con của một gia đình điền chủ giàu có ở đồn điền Tara, hạt Clayton, Georgia. Cô đã 3 lần kết hôn, tính tình ích kỷ, ngang bướng nhưng đầy nghị lực.
- Rhett Butler: Người chồng thứ 3 của Scarlett, một con người từng trải, mưu trí, vô cùng thông minh và sâu sắc, thực dụng nhưng cũng rất đa cảm và có một tình yêu thương vô bờ bến với Scarlett và Bonnie.
- Wade Hampton Hamilton: con trai của Scarlett và người chồng thứ nhất, Charles Hamilton.
- Ella Lorena Kennedy: Con gái của Scarlett và người chồng thứ hai, Frank Kennedy.
- Eugenie Victoria “Bonnie Blue” Butler: con gái của Scarlett và Rhett. Chết vì ngã ngựa.
- Ross Butler: Em trai Rhett.
- Rosemary Butler: Em gái Rhett.
Gia đình O’hara (đồn điền Tara)
- Gerald O’Hara: Cha của Scarlett, một người Ireland thấp bé, phúc hậu và vui vẻ, gây dựng nên đồn điền Tara từ hai bàn tay trắng.
- Ellen Robillard O’Hara: Mẹ của Scarlett, xuất thân trong một gia đình quý phái gốc Pháp ở Savannah, một mệnh phụ cao quý và đức hạnh, là chỗ dựa tinh thần của Scarlett cho đến khi bà qua đời vì bệnh thương hàn trong lúc Tara bị quân Yankee vây hãm.
- Susan Eleanor “Suellen” O’Hara: Em gái thứ hai của Scarlett, một cô gái lười biếng và đua đòi.
- Caroline Irene “Carreen” O’Hara: Em gái thứ ba của Scarlett, hiền lành và tốt bụng, không quên được cái chết của Brent nên vào tu viện Charleston.
- Gerald O’hara. Jr: ba cậu con trai đã chết trước khi biết đi của Gerald.
- Mammy: Bà vú da đen nghiêm khắc và cứng cỏi của Scarlett.
- Pork: Nô lệ đầu tiên của Gerald O’Hara và vô cùng trung thành.
- Dilcey: Vợ của Pork, được ông Gerald mua về từ Twelve Oaks.
- Prissy: Con gái của Pork và Dilsey, vú em của Wade và ở cùng với Scarlett tại Atlanta thời kì đầu của chiến tranh.
- Big Sam: Nô lệ da đen rất khỏe mạnh đã cứu Scarlett khỏi bị cưỡng hiếp tại Shantytown.
- Will Benteen: Một người lính Liên minh miền Nam dừng chân ở Tara trên đường trở về quê hương sau khi đầu hàng và ở lại luôn tại đó để giúp đỡ Scarlett, yêu Carreen nhưng cuối cùng kết hôn với Suellen.
Gia đình Wilkes (đồn điền Twelve Oaks)
- John Wilkes: Chủ đồn điền Twelve Oaks và là cha của Ashley, Honey và India.
- George Ashley Wilkes: Chồng của Melanie và là người Scarlett theo đuổi đến gần hết tác phẩm. Một người đàn ông quý phái và hay mơ mộng, thông minh nhưng yếu đuối, dễ gục ngã trước thực tế.
- Melanie Hamilton Wilkes: Vợ và là em họ của Ashley, chị chồng Scarlett, một người phụ nữ quý phái, mảnh mai, hiền dịu, đôn hậu nhưng lại đầy nghị lực và sức mạnh tiềm ẩn, là điểm tựa tinh thần của Ashley và Scarlett. Nàng qua đời trong khi mang thai đứa con thứ hai vì không đủ sức khỏe.
- Beauregard Wilkes: Con trai của Melanie và Ashley.
- India Wilkes: Con gái của John Wilkes, em gái Ashley. Là một cô gái kì dị và ngang bướng. Đính hôn với Stuart Tarleton nhưng anh tử trận trong trận Gettysburg nên cô quyết tâm ở vậy. Sống với bà Pittypat sau khi Scarlett cưới Rhett.
- Honey Wilkes: Con gái của John Wilkes, em gái Ashley, vợ chưa cưới của Charles Hamilton trước khi Scarlett lấy anh ta.
Gia đình Hamilton
- Đại tá William. R. Hamilton: cha của Charles và Melanie, đã chết.
- Chú Henry Hamilton: chú của Melanie và Charles, luật sư tại Atlanta, một ông già nhỏ nhắn và vui tươi.
- Cô Sarah Jane “Pittypat” Hamilton: Cô của Melanie và Charles, sống ở Atlanta, một đứa trẻ trong hình dáng của một bà cô đứng tuổi mập mạp.
- Charles Hamilton: Anh trai của Melanie, chồng đầu tiên của Scarlett, cha của Wade Hampton. Tính tình nhút nhát, e thẹn, chết vì bệnh đậu mùa ở Nam Carolina sau 2 tháng lấy Scarlett.
- Bác Peter: Nô lệ trung thành của nhà Hamilton.
Gia đình Tarleton (đồn điền Fairhill)
- Jim Tarleton: cha của 8 anh em Tarleton
- Beatrice Tarleton: vợ của Jim, mẹ của 4 đứa con trai và 4 cô con gái, tính tình nóng nảy nhưng giàu tình thương, yêu ngựa như tính mạng.
- Boyd Tarleton: con cả, hi sinh trong chiến tranh.
- Thomas “Tom” Tarleton: con thứ, hi sinh tại trận Gettysburg
- Stuart và Brenton Tarleton: Hai anh em song sinh nghịch ngợm, vui tươi, bạn thời thơ ấu của Scarlett, hi sinh tại trận Gettysburg
- Hetty, Camilla, Randa, Elizabeth Tarleton: bốn cô con gái út nhà Tarleton.
Gia đình Fontaine (đồn điền Mimosa)
- Ông bác sĩ Fontaine: Hi sinh trong chiến tranh
- Bà cụ Fontaine: Một bà già cằn cỗi khó tính, hay dạy bảo Scarlett
- Joseph “Joe” Fontaine: hi sinh trong trận trận Gettysburg, chồng của Sally Munroe.
- Tony Fontaine: Từng tham gia nội chiến, trốn đi Texas sau khi bắn chết một tên da đen để rửa nhục cho em dâu.
- Alex Fontaine: Từng tham gia nội chiến, sau cưới chị dâu goá Sally Munroe.
Gia đình Munroe (đồn điền Lovejoy)
- Buck Munroe và Evan Munroe: điền chủ của Lovejoy.
- La Fayette Munroe: con trai độc nhất, hi sinh tại trận Gettysburg, người yêu của Cathleen Calvert.
- Sally Munroe Fontaine: con gái ông bà Munroe, vợ goá của Joe Fontaine, sau cưới Alex Fontaine.
- Alice, Dimity, Letty Munroe: con gái ông bà Munroe.
Gia đình Calvert (đồn điền Pine Bloom)
- Hugh Calvert: Điền chủ
- Rainfort Calvert, Cade Calvert: hai con trai, đều hi sinh trong chiến tranh.
- Cathleen Calvert Hilton: một cô gái xinh xắn nhưng rỗng tuếch, sau chiến tranh bị buộc phải lấy tên quản gia Yankee.
- Hilton: quản gia người Yankee, chồng của Cathleen, góp phần gây ra cái chết của Gerald.
Gia đình Merriwether
- Cụ ông Merriwether: bạn của chú Henry, là người lạc quan, vui vẻ, cũng tham dự vụ đột kích của Klan.
- Bà Merriwether: quả phụ, con dâu cụ Merriwether, một trong những bà trụ cột ở Atlanta, tính tình nóng nảy, hay chỉ trích Scarlett.
- Maybelle Merriwether Picard: con gái bà Merriwether
- René Picard: người Créole, chồng của Maybelle.
- Raoul Picard: con trai Maybelle và René
Gia đình Meade
- Bác sĩ Meade: kênh kiệu, hay ra vẻ đạo đức, tham dự vụ đột kích của Klan và được Rhett cứu.
- Darcy Meade: con trai cả của ông bà Medea, hy sinh tại trận Gettysburg.
- Phil Meade: con trai thứ, cũng hy sinh trong chiến tranh.
Gia đình Elsing
- Bà Elsing: một bà quả phụ kiểu cách, hay lên mặt dạy đời, một trong những trụ cột ở Atlanta.
- Hugh Elsing: con trai bà Elsing, đốc công của Scarlett nhưng bị giáng xuống làm đánh xe.
- Fanny Elsing Wellburn: con gái bà Elsing, người yêu của Dallas McLure, lấy Tommy Wellburn sau khi Dallas chết.
- Tommy Wellburn: một phế binh, sau chiến tranh làm thầu khoán, chết cùng Frank Kennedy trong vụ đột kích của Klan.
Các nhân vật khác
- Frank Kennedy: Trước là chồng chưa cưới của Suellen, sau trở thành chồng thứ hai của Scarlett, cha của Ella Lorena. Một người tốt bụng, chết trong một vụ đột kích của Ku Klux Klan để trả thù cho Scarlett.
- Belle Watling: Gái mại dâm ở Atlanta, bạn thân của Rhett.
- Jonas Wilkerson: Đốc công cũ tại Tara, cha của đứa con hoang của Emmie Slattery.
- Emmie Slattery: Vợ Jonas Wilkerson, thuộc gia đình da trắng cặn bã, bị mọi người khinh bỉ.
- Archie: Đánh xe và bảo vệ của Melanie, từng vào tù 40 năm vì tội giết người vợ ngoại tình.
Chuyển thể
Cuốn theo chiều gió được nhiều lần được đưa lên màn ảnh nhưng nổi tiếng nhất là bộ phim cùng tên năm 1939 với sự tham gia của Clark Gable và Vivien Leigh.
Tác phẩm cũng được chuyển thể thành vở nhạc kịch Scarlett, công diễn năm 1972 và vở nhạc kịch Cuốn theo chiều gió, công diễn năm 2008.[6]
Đạo diễn Nhật Takarazuka Revue cũng soạn một vở nhạc kịch cùng tên phỏng theo bộ tiểu thuyết, công diễn lần đầu năm 1977.
Giải thưởng
Xem thêm
- Nội chiến Hoa Kì.
- Scarlett O’Hara.
- Rhett Butler.
- Melanie Wilkes
- Ashley Wilkes
- 100 cuốn sách hay nhất thế kỷ 20 của Le Monde
Chú thích
- ^ Jenny Bond and Chris Sheedy, (2008) Who the Hell is Pansy O’Hara?: The Fascinating Stories Behind 50 of the World’s Best-Loved Books, Penguin Books, trg 96. ISBN 978-0-14-311364-5
- ^ The Making of Gone With the Wind, Gavin Lambert (February 1973) Atlantic Monthly. Cập nhập ngày 14 tháng 5, 2011.
- ^ Ernest Dowson (1867-1900),Non Sum Qualis Eram Bonae sub Regno Cynarae. Cập nhập ngày 29 tháng 8, 2011
- ^ Phần 3, Chương 24
- ^ John Hollander, (1981) The Figure of Echo: a mode of allusion in Milton and after, University of California Press, trg 107. ISBN 9780520053236
- ^ “Gone with the Wind show to close”. BBC News. 1 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2008.
Liên kết ngoài
Tiếng Anh
![]() |
Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: |
- Tiểu thuyết của Margaret Mitchell
- Tiểu thuyết chiến tranh
- Tiểu thuyết đoạt giải Pulitzer
- Tiểu thuyết 1936
- Cuốn theo chiều gió
- Tiểu thuyết nước ngoài có bản dịch tiếng Việt
- Phim 1939
- Phim có nhà quay phim giành giải Oscar cho quay phim xuất sắc nhất
- Phim Mỹ
- Phim lấy bối cảnh ở Luân Đôn
- Phim sử thi
- Phim tiếng Anh
- Phim được lưu trữ tại Cơ quan lưu trữ phim Quốc gia Hoa Kỳ
- Nam Hoa Kỳ trong các tác phẩm giả tưởng
Video yêu thích
Audio Book Cuốn Theo Chiều Gió Phần 1
KimYouTube
Trở về trang chính
Hoàng Kim Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và học Cây Lương thực Dạy và Học Tình yêu cuộc sống Kim on LinkedIn Kim on Facebook