CNM365. Chào ngày mới 28 tháng 6. Ngày Gia đình Việt Nam. Wikipedia Ngày này năm xưa. Năm 1838 – Lễ đăng quang của Nữ hoàng Victoria. Năm 2006 – Cộng hòa Montenegro trở thành thành viên thứ 192 của Liên Hiệp Quốc.
28 tháng 6
Ngày 28 tháng 6 là ngày thứ 179 (180 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 186 ngày trong năm.
« Tháng 6 năm 2015 » | ||||||
CN | T2 | T3 | T4 | T5 | T6 | T7 |
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | |
7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 |
14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 |
21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 |
28 | 29 | 30 | ||||
Mục lục
Sự kiện
Thế kỷ 11
- 1098 – Quân đội Châu Âu tham gia Cuộc thập tự chinh thứ nhất đánh bại Kerbogha tại Mosul.
Thế kỷ 14
- 1389 – Đế quốc Ottoman đánh bại quân Serbia trong trận Kosovo, mở đường cho đế quốc này chiếm toàn bộ Đông Nam Châu Âu.
Thế kỷ 16
- 1519 – Charles V trở thành hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh.
Thế kỷ 17
- 1635 – Guadeloupe trở thành thuộc địa của Pháp.
- 1651 – Trận Beresteczko giữa Ba Lan và Ukraine.
Thế kỷ 18
- 1778 – Chiến tranh Cách mạng Mỹ: Trận Monmouth giữa Lực lượng cách mạng Mỹ dưới quyền George Washington và quân đội Anh của Sir Henry Clinton.
Thế kỷ 19
- 1838 – Lễ đăng quang của Nữ hoàng Victoria.
- 1865 – Binh đoàn Potomac giải tán sau Nội chiến Hoa Kỳ
Thế kỷ 20
- 1914 – Đại Công tước Đế quốc Áo-Hung Franz Ferdinand bị ám sát tại Sarajevo, nguyên nhân trực tiếp của Thế chiến thứ nhất
- 1919 – Hòa ước Versailles được ký kết trong Cung điện Versailles ở Paris để chính thức chấm dứt Thế chiến thứ nhất
- 1940 – Liên Xô lấy lại vùng Bessarabia (ngày nay là Moldova) từ tay România.
- 1942 – Quân đội Đức Quốc Xã bắt đầu tấn công Quân đội Liên Xô trên hướng Voronezh, mở màn Chiến dịch Blau diễn ra tại phía nam Liên Xô.
- 1950 – Seoul bị chiếm bởi quân đội Bắc Triều Tiên trong Chiến tranh Triều Tiên.
- 1967 – Israel sáp nhập vào lãnh thổ vùng Đông Jerusalem.
- 1991 – Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) ngừng hoạt động.
- 1994 – Các thành viên của giáo phái Aum Shinrikyo đã khủng bố bằng khí độc trong đường tàu điện ngầm tại Matsumoto, Nhật bản, làm 7 người chết và 660 người bị thương.
Thế kỷ 21
- 2006 – Cộng hòa Montenegro trở thành thành viên thứ 192 của Liên Hiệp Quốc.
Sinh
- 1731 – Cố Luân Hoà Kính công chúa (固倫和敬公主) con gái của Càn Long và Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu
- 1955 – Eric Gates, cầu thủ bóng đá Anh
- 1971 – Fabien Barthez, thủ môn người Pháp
- 1972 – Ngô Bảo Châu, Giáo sư Toán có hai quốc tịch Việt Nam và Pháp
- 1978 – Ha Ji Won, nữ diễn viên Hàn Quốc
- 1991 – Seohyun, ca sĩ ban nhạc Girls’ Generation,Hàn Quốc
- 1993 – Daehyun, ca sĩ ban nhạc B.A.P, Hàn Quốc
Mất
Ngày lễ và kỷ niệm
Tháng 1 | Tháng 2 | Tháng 3 | Tháng 4 | Tháng 5 | Tháng 6 | Tháng 7 | Tháng 8 | Tháng 9 | Tháng 10 | Tháng 11 | Tháng 12 |
Tham khảo
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về 28 tháng 6 |
Ngày gia đình Việt Nam
Ngày gia đình Việt Nam là một ngày lễ tôn vinh mái ấm gia đình Việt Nam, là ngày mọi người trong gia đình quan tâm đến nhau, xã hội quan tâm đến trẻ nhỏ và những người không có bố mẹ, cặp vợ chồng phải hiểu được giá trị mái ấm và cùng nhau vượt qua sóng gió để có một gia đình hạnh phúc “Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc“. Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ký ban hành Quyết định 72/2001/QĐ-TTG[1] chọn ngày 28 tháng 6 hàng năm là ngày gia đình Việt Nam.
Xem thêm
- Ngày Gia đình (enwiki)
Tham khảo
Liên kết ngoài
- Quyết định về Ngày Gia đình Việt Nam Báo Gia đình và Xã hội 28 Tháng 12, 2006
- “Ngày gia đình Việt Nam” nhìn từ góc… chuyển động!
- Hạnh phúc không xa vời
- Ngày gia đình Việt Nam 28/6: Những gia đình hoa hồng
Victoria của Anh
Nữ vương Victoria của Anh (tiếng Anh: Queen Victoria; 24 tháng 5, 1819 – 22 tháng 1, 1901), hay Alexandrina Victoria, là Nữ vương của Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland từ [20 tháng 7, 1837] và là Nữ hoàng Ấn Độ đầu tiên của Đế chế Anh từ [1 tháng 5, 1876] cho tới khi bà chết. Sự cai trị của bà với tư cách Nữ vương kéo dài 63 năm và 7 tháng, dài hơn sự trị vì của bất cứ vị quân chủ Anh nào trước đó. Giai đoạn với tâm điểm là thời kì trị vì của bà được biết đến với tên gọi Thời đại Victoria (Victorian era), một thời kì với những tiến bộ công nghiệp, chính trị và quân sự tại Vương quốc Anh.
Dù Victoria lên ngai vàng tại thời điểm Vương quốc Anh đã là một nền quân chủ lập hiến hoàn chỉnh trong đó vua hoặc nữ vương nắm quyền lực hạn chế và thực thi các quyền đó với lời khuyên của thủ tướng, bà vẫn thể hiện là một nhân vật biểu tượng quan trọng của thời kì đó. Thời đại Victoria thể hiện rõ đỉnh cao của Cách mạng Công nghiệp, một giai đoạn của những tiến bộ xã hội, kinh tế và công nghệ đáng kể tại Vương quốc Anh. Sự trị vì của Victoria được đánh dấu bởi sự bành trướng vĩ đại của Đế quốc Anh; trong giai đoạn này đế quốc Anh đạt được đỉnh cao, trở thành cường quốc hàng đầu của thời đại đó.
Nữ vương Victoria là con gái của hoàng tử Edward Augustus, Công tước xứ Kent và Strathearn, và là cháu gái của vua George III và cháu gọi vua William IV là chú. Bà đã sắp đặt hôn lễ cho 9 đứa con và 42 đứa cháu xuyên suốt châu lục, ràng buộc châu Âu với nhau; điều này đã tạo cho bà biệt hiệu “bà ngoại của châu Âu”.[1] Bà là quân vương Anh cuối cùng của Nhà Hanover; con của bà, Vua Edward VII thuộc về Nhà Saxe-Coburg và Gotha.
Mục lục
Dòng dõi và gia đình
Cha của Victoria là Edward Augustus, Công tước xứ Kent và Strathearn, con trai thứ 4 của George III và là em trai của William IV của Anh. Trong danh sách kế vị, cháu gái của Edward, Công chúa Charlotte của xứ Wales là người cháu hợp pháp duy nhất của George III. Cái chết của công chúa vào năm 1817 mau chóng trở thành một cuộc khủng hoảng trong việc thừa kế ngai vàng tại Anh, và điều đó đã tạo ra sức ép đối với Công tước xứ Kent buộc ông phải kết hôn và có con.
Vào năm 1818, ông cưới Công chúa Victoria của Saxe-Coburg-Saalfeld, một công chúa người Đức có anh trai là Leopold, chồng của công chúa Charlotte. Đứa con duy nhất của công tước và công nương Victoria, sinh vào lúc 4h15 ngày 24 tháng 5, năm 1819 tại cung điện Kensington ở Luân Đôn.[2]
Được vẽ bởi Stephen Poyntz Denning, 1823
Công chúa được rửa tội riêng bởi Tổng giám mục xứ Canterbury, Charles Manners-Sutton, vào ngày 24 tháng 6 năm 1819 tại cung điện Kensington.[3] Công chúa được đặt tên là Alexandrina, theo tên của cha đỡ đầu, Hoàng đế Aleksandr I của Nga, và theo tên Victoria của mẹ.
Khi sinh ra, Victoria đứng thứ 5 trong dòng dõi kế thừa sau cha mình và 3 người anh trai là: Hoàng tử Regent, Hoàng tử Frederick và Công tước xứ Clarence (sau là vua William IV).[4] Hoàng tử Regent xa lánh vợ mình và Công nương xứ York lúc đó đã 52 tuổi, vì thế hai người anh trai gần như không thể có thêm con được nữa. Công tước xứ Kent và Clarence kết hôn vào cùng ngày 12 tháng trước khi Victoria sinh ra, nhưng cả hai đứa con gái của nhà Clarence (sinh vào hai năm liên tiếp 1819 và 1820) đều chết khi mới sinh. Cha và ông của công chúa mất vào năm 1820, và công tước xứ York chết vào năm 1827. Trước cái chết của chú mình là vua George IV vào năm 1830, công chúa trở thành người thừa kế hợp pháp cho vị vua còn sống kế tiếp, đồng thời là chú của công chúa, vua William IV. Đạo luật Nhiếp chính năm 1830 tạo ra một điều khoản đặc biệt cho Công nương xứ Kent có thể làm nhiếp chính trong troừng hợp William chết trong khi Victoria vẫn còn là một đứa trẻ.[5] Vua William không tin tưởng vào khả năng của nữ Công tước để làm nhiếp chính, và vào năm 1836 ông tuyên bố trước mặt nữ Công tước rằng ông muốn sống cho đến sinh nhật lần thứ 18 của Victoria để bà không thể nắm được quyền nhiếp chính.[6]
Người thừa kế hợp pháp
Vẽ bởi George Hayter
Sau này Victoria đã miêu tả thời thơ ấu của mình “khá u sầu”.[7] Mẹ của bà cực kỳ bảo vệ và che chở bà, và Victoria được nuôi dưỡng cách ly với những đứa trẻ khác dưới một hệ thống gọi là “Hệ thống Kensington“, một tập hợp những điều lệ và nghi thức được đặt ra bởi Công nương và tên quản gia tham vọng và độc đoán của bà, ông John Conroy, người bị đồn đại là nhân tình của Công nương.[8] Hệ thống này không cho phép công chúa gặp những người mà mẹ công chúa và Conroy xem là có thể gây phiền phức (bao gồm hầu hết gia đình bên nội của công chúa), và được đặt ra để làm cho công chúa trở nên yếu ớt và phải phụ thuộc vào bọn họ.[9] Công nương lảng tránh cung điện của nhà vua bởi vì những đứa con khác của Vua xem bà ta là cái gai trong mắt,[10] và có lẽ sẽ làm xuất hiện Giáo lý thời Victorian bằng cách khăng khăng rằng con gái của bà tránh bất cứ sự xuất hiện nào của những biểu hiện tình dục không đứng đắn.[11] Victoria cùng ngủ chung phòng với mẹ mình mỗi đêm, học với gia sư riêng theo một thời khóa biểu đều đặn, và dành giờ chơi với những con búp bê và chú chó Dash giống Xpanhơn.[12] Công chúa học tiếng Pháp, Đức, Ý và tiếng Lantin,[13] nhưng công chúa chỉ nói tiếng Anh ở nhà.[14]
Vào năm 1830, Công nương xứ Kent và Conroy dẫn Victoria đến trung tâm Anh để thăm Đồi Malvern, dừng chân ở các thị trấn và dinh thự lớn trên đường đi.[15] Những chuyến đi tương tự tới nhiều vùng của Anh và xứ Wales được thực hiện vào các năm 1832, 1833, 1834, và 1835. Nhằm làm Vua William phải bực mình, Victoria luôn được chào đón nồng nhiệt ở những nơi dừng chân.[16] William so sánh những chuyến đi này với những chuyến du hành hoàng gia của vua và ông lo rằng họ đang vẽ nên chân dung của Victoria như là một đối thủ của ông hơn là một người kế thừa hợp pháp.[17] Victoria không thích những chuyến đi này cho lắm, những sự xuất hiện trước công chúng liên tục như vậy khiến cô bé mệt mỏi và đổ bệnh, cô bé hầu như không có thời gian để nghỉ ngơi.[18] Công chúa đã phản đối với lý do là không được nhà Vua chấp thuận, nhưng mẹ công chúa gạt bỏ những phàn nàn của đứa vua vì cho rằng ông ta chỉ ghen tức, và bắt Victoria tiếp tục những chuyến du hành này.[19] Tại thị trấn Ramsgate vào tháng 10 năm 1835, Victoria bị sốt rất nặng, nhưng Conroy lại gạt bỏ chuyện bị ốm và cho rằng đó chỉ là bệnh giả vờ của trẻ con.[20] Trong lúc Victoria bị ốm, Conroy và Công nương đã không thành công trong việc thúc ép công chúa cho ông ta làm thư ký riêng của công chúa.[21] Đến lúc là một thiếu nữ, Victoria đã kịch liệt phản đối những cố gắng của mẹ mình và Conroy để bổ nhiệm ông ta làm thư ký riêng.[22] Khi trở thành Nữ hoàng, bà đã cấm ông ta không được xuất hiện trước mặt mình, nhưng ông ta vẫn còn ở tại nhà của công nương.[23]
Đến năm 1836, anh trai của công nương là Leopold, là vua của Bỉ từ năm 1831, mong cháu gái của ông là công chúa kết hôn với cháu trai mình là Hoàng tử Albert xứ Saxe-Coburg và Gotha.[24] Leopold, mẹ của Victoria, và cha của Albert (Ernest I, Công tước xứ Saxe-Coburg và Gotha) là anh em. Leopold sắp xếp cho mẹ của Victoria mời bà con ở xứ Coburg đến thăm bà vào tháng 5 năm 1836, với mục đích là giới thiệu Albert cho Victoria.[25] William IV lại không chấp thuận bất cứ hôn nhân nào với nhà Coburg, và thay vào đó ông lại muốn Victoria kết hôn với Hoàng tử Alexander của Hà Lan, con trai thứ hai của Hoàng tử xứ Orange.[26] Victoria cảnh giác với những kế hoạch hôn nhân và đánh giá một cách kỹ càng về sự phô trương những tư cách của các hoàng tử.[27] Theo nhật ký của công chúa, bà rất thích thú với nhóm của Albert ngay từ đầu. Sau chuyến thăm này, bà viết “Albert thật là đẹp trai, tóc của anh ấy giống với màu tóc của ta, mắt của anh ấy thật to và có màu xanh, và anh ấy còn có một cái mũi đẹp và một đôi môi rất ngọt ngào cùng những hàm răng chắc khỏe; nhưng sự hấp dẫn của gương mặt anh ấy chính là nét mặt, đó là thứ thú vị nhất.”[28] Alexander thì lại “quá đơn điệu”.[29]
Victoria viết thư cho chú của mình là Leopold, người mà Victoria xem là “vị cố vấn giỏi và tốt bụng nhất”,[30] để cảm ơn ông “cho triển vọng về một hạnh phúc “lớn lao” mà bác đã mang lại cho cháu, trong con người của Albert thân yêu… Anh ấy sở hữu mọi phẩm chất mà cháu ao ước và làm cho cháu hoàn toàn hài lòng. Anh ấy thật là nhạy cảm, thật tốt bụng, thật là giỏi, và cũng thật dễ thương. Bên cạnh đó anh ấy có vẻ bề ngoài dễ chịu và thú vị mà bác có thể thấy ngay.”[31] Tuy nhiên vào năm 17 tuổi, cho dù Victoria rất thích Albert, nhưng công chúa chưa sẵn sàng để kết hôn. Các bên chưa thể thực hiện một cam kết chính thức, nhưng cho rằng việc kết hôn sẽ diễn ra trong thời gian thích hợp.[32]
Thời kì đầu trị vì
Victoria được 18 tuổi vào ngày 24 tháng 5 năm 1837, và do đó vấn đề nhiếp chính không cần phải xem xét nữa. Vào ngày 20 tháng 6 năm 1837, William IV chết vào năm 71 tuổi, và Victoria trở thành Nữ hoàng của Vương quốc Anh. Trong nhật ký của mình, bà viết, “Tôi được mẹ đánh thức vào lúc 6 giờ, bà nói Tổng giám mục xứ Canterbury và Huân tước Conyngham đang ở đây và muốn được gặp tôi. Tôi ra khỏi giường và vào phòng khách (chỉ khoác thêm áo choàng) và đi một mình, và gặp họ. Sau đó Huân tước Conyngham cho tôi biết rằng người Chú đáng thương của tôi, nhà Vua, đã không còn nữa, và ông chết vào 2 giờ 12 phút sáng nay, và do đó Tôi là Nữ hoàng.”[33] Các văn bản chính thức chuẩn bị cho ngày đầu tiên lên ngôi của Nữ hoàng cho rằng tên bà là Alexandrina Victoria, nhưng tên thánh của bà không làm bà ưng ý và không được sử dụng lại lần nữa.[34]
Từ năm 1714, nước Anh đã chia quyền cai trị cho Hanover ở Đức, nhưng dưới Đạo luật Salic, phụ nữ không được có mặt trong dòng dõi kế vị của Hanover. Trong khi Victoria được thừa hưởng toàn bộ lãnh thổ và thuộc địa của Anh, Hanover đã trao chức vua cho người chú ít tiếng tăm của bà là Công tước xứ Cumberland và Teviotdale, chính là vua Ernest Augustus I của Hanover. Ông là người kế vị hợp pháp cho đến khi bà kết hôn và có con.[35]
Trong thời gian bà lên ngôi, chính phủ được lãnh đạo bởi thủ tướng chính phủ thuộc đảng Whig, Huân tước Melbourne, ông đã ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến vị Nữ hoàng thiếu kinh nghiệm chính trị, và bà tin cẩn trao cho ông chức cố vấn.[36] Charles Greville cho rằng ông Melbourne góa vợ và không có con này “thích thú một cách nồng nhiệt đối với Nữ hoàng bởi vì có lẽ ông xem bà là đứa con gái mà ông đã từng có trước đây”, và Victoria có lẽ cũng xem ông như một người cha.[37] Lễ đăng quang Nữ hoàng diễn ra vào ngày 28 tháng 6 năm 1838, và bà trở thành vị quốc chủ đầu tiên sinh sống tại Cung điện Buckingham.[38] Bà hưởng thu nhập của các công tước Lancaster và Cornwall, và được cấp tiền nghị viện 385 000 bảng một năm. Bà rất cẩn trọng khi trả các khoản nợ cho cha mình.[39]
Vào buổi đầu triều đại, Victoria rất nổi tiếng,[40] nhưng danh tiếng của bà đã phải trải qua một mưu đồ triều đình vào năm 1839 khi một trong những thị nữ của mẹ bà, Quý bà Flora Hastings, với cái bụng ngày càng to (thực chất là bị khối u) và bị đồn đại rằng bà đang mang thai ngoài giá thú với Ông John Conroy.[41] Victoria đã tin những tin đồn này.[42] Nữ hoàng rất ghét Conroy, và khinh miệt “Bà Flora ghê tởm” ấy,[43] bởi vì bà ta đã thông đồng với Conroy và Công nương xứ Kent đặt ra Hệ thống Kensington.[44] Ban đầu, Bà Flora từ chối một cuộc kiểm tra sức khỏe rõ ràng, cho đến giữa tháng hai thì bà cũng đồng ý, và kết quả là Bà Flora vẫn còn trinh trắng.[45] Conroy, gia đình Hasting và Đảng Bảo thủ đối lập đã tổ chức một cuộc vận động đông đảo và lôi kéo Nữ hoàng trong việc truyền những tin đồn không đúng sự thật về Bà Flora.[46] Khi Bà Flora chết vào tháng 7, khám nghiệm tử thi phát hiện một khối u lớn trong gan của bà đã sưng to ra phần bụng.[47] Khi xuất hiện trước công chúng, Victoria đã bị chế giễu và gọi là “Bà Melbourne”.[48]
Vào năm 1839, Melbourne từ chức sau khi Đảng Cấp tiến và Đảng Bảo Thủ (cả hai đảng mà Victoria rất ghét) bỏ phiếu cho một dự luật để hủy bỏ hiến pháp ở Jamaica. Dự luật xóa bỏ quyền lực chính trị của các chủ đồn điền đang kháng cự những phương sách liên quan đến việc bãi bỏ nô lệ.[49] Nữ hoàng đã ủy thác cho một thành viên của Đảng Bảo thủ, ông Robert Peel, thành lập một Chính phủ mới. Vào thời điểm đó, theo thường lệ thì Thủ tướng sẽ bổ nhiệm những thành viên thường là đồng minh chính trị của ông ta và vợ chồng của họ. Nhiều Thị nữ của Nữ hoàng là vợ của những thành viên đảng Whig, và Peel có dự tính thay thế họ bằng những bà vợ của thành viên đảng Bảo thủ. Vào thời điểm mà sau này gọi là “cuộc khủng hoảng phòng ngủ”, Victoria nghe theo lời của Melbourne, đã phản đối sự xóa bỏ đó của Thủ tướng. Peel từ chối cầm quyền dưới sự áp đặt hạn chế của Nữ hoàng, và do đó ông đã từ bỏ phận sự của mình, cho phép Melbourne hồi phục chức vụ.[50]
Kết hôn
Vẽ bởi George Hayter
Mặc dù là nữ hoàng, nhưng một người phụ nữ trẻ chưa lập gia đình như Victoria theo tục lệ thường phải ở với mẹ, mặc cho sự bất hòa giữa hai mẹ con do Hệ thống Kensington cộng với việc mẹ Nữ hoàng vẫn tiếp tục dựa dẫm vào Conroy.[51] Mẹ của bà bị đưa đến một căn phòng biệt lập trong Cung điện Buckingham, và Victoria thường từ chối gặp mẹ mình.[52] Khi Victoria phàn nàn với Melbourne rằng sự gần gũi như thế với mẹ có thể làm cho bà “dằn vặt đau khổ trong nhiều năm”, Melbourne rất thông cảm nhưng ông nói rằng điều đó có thể tránh được bằng hôn nhân, cái mà Victoria gọi là một “khả năng bất ngờ” (nguyên văn: schocking alternative).[53] Bà có vẻ lấy làm hứng thú về học thức của Albert cho vai trò tương lai của ông chính là người chồng của bà, nhưng bà kháng cự lại những nỗ lực đẩy bà vào hôn nhân.[54]
Victoria tiếp tục khen ngợi Albert trong chuyến viếng thăm thứ hai của ông vào tháng 10 năm 1839. Albert và Victoria đã yêu mến nhau và Nữ hoàng cầu hôn ông vào ngày 15 tháng 10 năm 1839, chỉ năm ngày sau khi ông đến Windsor.[55] Họ đã kết hôn vào ngày 10 tháng 2 năm 1840, tại Nhà thờ Hoàng gia của Cung điện St. Jame, Luân Đôn. Bà dành cả buổi tối sau lễ cưới của họ nằm trên giường ngủ trong cơn nhức đầu, nhưng vẫn kịp viết một cách đê mê trong cuốn nhật ký của chính bà:
Ta CHƯA BAO GIỜ, CHƯA BAO GIỜ có một buổi tối như thế nào!!! Albert YÊU DẤU YÊU DẤU NHẤT NHẤT CỦA TA… tình yêu và tình cảm quá mức anh trao cho ta nặng trĩu tình yêu và hạnh phúc mà ta không bao giờ có thể hi vọng được cảm nhận như thế trước đây! Anh siết chặt ta trong cánh tay của anh ấy, và chúng ta đã hôn nhau lần nữa và lần nữa! Vẻ đẹp của anh, sự ngọt ngào và lịch lãm của anh – thật sự ta không bao giờ có thể cảm ơn đủ khi có một Người chồng! … để có thể được gọi bằng những cái tên âu yếm, ta chưa bao nghe ai gọi ta như thế bao giờ – là niềm hạnh phúc và xa hơn là niềm tin! Ôi! Đây là ngày hạnh phúc nhất trong đời ta![56]
Albert trở thành một cố vấn chính trị quan trọng đồng thời là người bạn đời của Nữ hoàng, thế chỗ cho Huân tước Melbourne vốn là một nhân vật có ảnh hướng lớn lao trong nửa đầu đời của Nữ hoàng.[57] Mẹ của Victoria đã bị đuổi ra khỏi cung điện đến Nhà Ingestre tại Quảng trường Belgrave. Sau khi Công chúa Augusta qua đời vào năm 1840, mẹ của Victoria bị chuyển đến cả Nhà Clarence và Frogmore.[58] Nhờ sự hòa giải của Albert mà mối quan hệ giữa hai mẹ con dần dần được cải thiện[59]
Trong thời gian Victoria mang thai đứa con đầu tiên vào năm 1840, trong những tháng đầu tiên kết hôn, Edward Oxford lúc đó mới mười tám tuổi đã cố gắng ám sát bà khi bà đang ngồi xe ngựa với Hoàng tử Albert trên đường đến thăm mẹ. Oxford đã bắn hai phát súng, nhưng cả hai lần đều không trúng. Hắn ta đã bị gán cho tội danh phản quốc, nhưng lại được trắng án vì người ta cho rằng hắn bị điên.[60] Hậu quả trực tiếp của cuộc tấn công chính là sự nổi tiếng của Victoria ngày càng cao, giảm thiểu những sự bất bình bấy lâu trong vụ việc của thị nữ Hastings và cuộc khủng hoảng giường ngủ.[61] Con gái của bà cũng tên là Victoria, sinh vào ngày 21 tháng 11 năm 1840. Nữ hoàng ghét việc mang thai,[62] bà chán ghét việc cho con bú,[63] và nghĩ rằng những đứa bé mới sinh đều xấu xí.[64] Tuy vậy, bà và Albert tiếp tục có thêm 8 đứa con.
Gia đình Victoria được quản lý bởi quản gia từ thời nhỏ của Victoria là Nữ nam tước Louise Lehzen đến từ Hanover. Lehzen có một sức ảnh hưởng lớn đến Victoria, và đã khuyến khích bà chống lại Hệ thống Kensington.[65] Tuy nhiên Albert lại cho rằng Lehzen không có trình độ, và sự quản lý tồi tệ của bà đe dọa cho sức khỏe con gái ông. Sau một loạt những cuộc tranh cãi điên tiết giữa Victoria và Albert về vấn đề này, Lehzen được cho về hưu, và mối quan hệ thân thiết giữa Nữ hoàng và bà quản gia xem như chấm dứt.[66]
![]() |
Xin hãy cùng đóng góp cho bài hoặc đoạn này bằng cách phát triển nó. Nếu bài viết đã được phát triển, hãy gỡ bản mẫu này. |
Tham khảo
- ^ Carolly Erickson (1997). Her Little Majesty: The Life of Queen Victoria. Simon & Schuster. ISBN 0-7432-3657-2.
- ^ Hibbert, pp. 3–12; Strachey, pp. 1–17; Woodham-Smith, pp. 15–29
- ^ Cha mẹ đỡ đầu của công chúa là Hoàng đế Aleksandr I của Nga (được đại diện bởi người chú là Công tước xứ York), chú của công chúa là Hoàng tử Regent, dì của công chúa là Công chúa Augusta) và bà ngoại là Dowager Duchess của Saxe-Coburg-Saalfeld (đại diện bởi dì của Victoria Công chúa Mary, Nữ bá tước xứ Gloucester và Edinburgh).
- ^ Longford, p. 24
- ^ Hibbert, p. 31; St Aubyn, p. 26; Woodham-Smith, p. 81
- ^ Hibbert, p. 46; Longford, p. 54; St Aubyn, p. 50; Waller, p. 344; Woodham-Smith, p. 126
- ^ Hibbert, p. 19; Marshall, p. 25
- ^ Hibbert, p. 27; Longford, pp. 35–38, 118–119; St Aubyn, pp. 21–22; Woodham-Smith, pp. 70–72. Tin đồn này bị cho là sai bởi những người viết tiểu sử.
- ^ Hibbert, pp. 27–28; Waller, pp. 341–342; Woodham-Smith, pp. 63–65
- ^ Hibbert, pp. 32–33; Longford, pp. 38–39, 55; Marshall, p. 19
- ^ Lacey, Robert (2006) Great Tales from English History, Volume 3, London: Little, Brown, and Company, ISBN 0-316-11459-6, pp. 133–136
- ^ Waller, pp. 338–341; Woodham-Smith, pp. 68–69, 91
- ^ Hibbert, p. 18; Longford, p. 31; Woodham-Smith, pp. 74–75
- ^ Longford, p. 31; Woodham-Smith, p. 75
- ^ Hibbert, pp. 34–35
- ^ Hibbert, pp. 35–39; Woodham-Smith, pp. 88–89, 102
- ^ Hibbert, p. 36; Woodham-Smith, pp. 89–90
- ^ Hibbert, pp. 35–40; Woodham-Smith, pp. 92, 102
- ^ Hibbert, pp. 38–39; Longford, p. 47; Woodham-Smith, pp. 101–102
- ^ Hibbert, p. 42; Woodham-Smith, p. 105
- ^ Hibbert, p. 42; Longford, pp. 47–48; Marshall, p. 21
- ^ Hibbert, pp. 42, 50; Woodham-Smith, p. 135
- ^ Marshall, p. 46; St Aubyn, p. 67; Waller, p. 353
- ^ Longford, pp. 29, 51; Waller, p. 363; Weintraub, pp. 43–49
- ^ Longford, p. 51; Weintraub, pp. 43–49
- ^ Longford, pp. 51–52; St Aubyn, p. 43; Weintraub, pp. 43–49; Woodham-Smith, p. 117
- ^ Weintraub, pp. 43–49
- ^ Victoria quoted in Weintraub, p. 49 and Marshall, p. 27
- ^ Victoria quoted in Hibbert, p. 99; St Aubyn, p. 43; Weintraub, p. 49 and Woodham-Smith, p. 119
- ^ Victoria’s journal, October 1835, quoted in St Aubyn, p. 36 and Woodham-Smith, p. 104
- ^ Hibbert, p. 102; Marshall, p. 60; Waller, p. 363; Weintraub, p. 51; Woodham-Smith, p. 122
- ^ Waller, pp. 363–364; Weintraub, pp. 53, 58, 64, and 65
- ^ St Aubyn, pp. 55–57; Woodham-Smith, p. 138
- ^ Woodham-Smith, p. 140
- ^ Packard, pp. 14–15
- ^ Hibbert, pp. 66–69; St Aubyn, p. 76; Woodham-Smith, pp. 143–147
- ^ Greville quoted in Hibbert, p. 67; Longford, p. 70 and Woodham-Smith, p. 143–144
- ^ St Aubyn, p. 69; Waller, p. 353
- ^ Hibbert, p. 58; Longford, pp. 73–74; Woodham-Smith, p. 152
- ^ Marshall, p. 42; St Aubyn, pp. 63, 96
- ^ Marshall, p. 47; Waller, p. 356; Woodham-Smith, pp. 164–166
- ^ Hibbert, pp. 77–78; Longford, p. 97; St Aubyn, p. 97; Waller, p. 357; Woodham-Smith, p. 164
- ^ Victoria’s journal, ngày 25 tháng 4 năm 1838, quoted in Woodham-Smith, p. 162
- ^ St Aubyn, p. 96; Woodham-Smith, pp. 162, 165
- ^ Hibbert, p. 79; Longford, p. 98; St Aubyn, p. 99; Woodham-Smith, p. 167
- ^ Hibbert, pp. 80–81; Longford, pp. 102–103; St Aubyn, pp. 101–102
- ^ Longford, p. 122; Marshall, p. 57; St Aubyn, p. 104; Woodham-Smith, p. 180
- ^ Hibbert, p. 83; Longford, pp. 120–121; Marshall, p. 57; St Aubyn, p. 105; Waller, p. 358
- ^ St Aubyn, p. 107; Woodham-Smith, p. 169
- ^ Hibbert, pp. 94–96; Marshall, pp. 53–57; St Aubyn, pp. 109–112; Waller, pp. 359–361; Woodham-Smith, pp. 170–174
- ^ Longford, p. 84; Marshall, p. 52
- ^ Longford, p. 72; Waller, p. 353
- ^ Woodham-Smith, p. 175
- ^ Hibbert, pp. 103–104; Marshall, pp. 60–66; Weintraub, p. 62
- ^ Hibbert, pp. 107–110; St Aubyn, pp. 129–132; Weintraub, pp. 77–81; Woodham-Smith, pp. 182–184, 187
- ^ Hibbert, p. 123; Longford, p. 143; Woodham-Smith, p. 205
- ^ St Aubyn, p. 151
- ^ Hibbert, p. 265, Woodham-Smith, p. 256
- ^ Marshall, p. 152; St Aubyn, pp. 174–175; Woodham-Smith, p. 412
- ^ Hibbert, pp. 421–422; St Aubyn, pp. 160–161
- ^ Woodham-Smith, p. 213
- ^ Hibbert, pp. 130; Longford, p. 154; Marshall, p. 122; St Aubyn, p. 159; Woodham-Smith, p. 220
- ^ Hibbert, p. 149; St Aubyn, p. 169
- ^ Hibbert, p. 149; Longford, p. 154; Marshall, p. 123; Waller, p. 377
- ^ Longford, p. 56; St Aubyn, p. 29
- ^ Hibbert, pp. 150–156; Marshall, p. 87; St Aubyn, pp. 171–173; Woodham-Smith, pp. 230–232
- ^ Queen Victoria and the Princess Royal, Royal Collection, truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2010
Tham khảo thư loại
- Hibbert, Christopher (2000) Queen Victoria: A Personal History, London: HarperCollins, ISBN 0-00-638843-4
- Longford, Elizabeth (1964) Victoria R.I., London: Weidenfeld & Nicolson, ISBN 0-297-17001-5
- Marshall, Dorothy (1972) The Life and Times of Queen Victoria, London: Weidenfeld & Nicolson, ISBN 0-297-83166-6 [1992 reprint]
- Packard, Jerrold M. (1998) Victoria’s Daughters, New York: St. Martin’s Press, ISBN 0-312-24496-7
- Potts, D. M.; Potts, W. T. W. (1995) Queen Victoria’s Gene: Haemophilia and the Royal Family, Stroud: Alan Sutton, ISBN 0-7509-1199-9
- St Aubyn, Giles (1991) Queen Victoria: A Portrait, London: Sinclair-Stevenson, ISBN 1-85619-086-2
- Strachey, Lytton (1921) Queen Victoria, London: Chatto and Windus
- Waller, Maureen (2006) Sovereign Ladies: The Six Reigning Queens of England, London: John Murray, ISBN 0-7195-6628-2
- Weintraub, Stanley (1997) Albert: Uncrowned King, London: John Murray, ISBN 0-7195-5756-9
- Woodham-Smith, Cecil (1972) Queen Victoria: Her Life and Times 1819–1861, London: Hamish Hamilton, ISBN 0-241-02200-2
Công bố những nguồn chính
- Benson, A.C.; Esher, Viscount (editors, 1907) The Letters of Queen Victoria: A Selection of Her Majesty’s Correspondence Between the Years 1837 and 1861, London: John Murray
- Bolitho, Hector (editor, 1938) Letters of Queen Victoria from the Archives of the House of Brandenburg-Prussia, London: Thornton Butterworth
- Buckle, George Earle (editor, 1926) The Letters of Queen Victoria, 2nd Series 1862–1885, London: John Murray
- Buckle, George Earle (editor, 1930) The Letters of Queen Victoria, 3rd Series 1886–1901, London: John Murray
- Connell, Brian (1962) Regina v. Palmerston: The Correspondence between Queen Victoria and her Foreign and Prime Minister, 1837–1865, London: Evans Brothers
- Duff, David (editor, 1968) Victoria in the Highlands: The Personal Journal of Her Majesty Queen Victoria, London: Muller
- Dyson, Hope; Tennyson, Charles (editors, 1969) Dear and Honoured Lady: The Correspondence between Queen Victoria and Alfred Tennyson, London: Macmillan
- Esher, Viscount (editor, 1912) The Girlhood of Queen Victoria: A Selection from Her Majesty’s Diaries, 1832–40, London: John Murray
- Fulford, Roger (editor, 1964) Dearest Child: Letters Between Queen Victoria and the Princess Royal, 1858–61, London: Evans Brothers
- Fulford, Roger (editor, 1968) Dearest Mama: Letters Between Queen Victoria and the Crown Princess of Prussia, 1861–64, London: Evans Brothers
- Fulford, Roger (editor, 1971) Beloved Mama: Private Correspondence of Queen Victoria and the German Crown Princess, 1878–85, London: Evans Brothers
- Fulford, Roger (editor, 1971) Your Dear Letter: Private Correspondence of Queen Victoria and the Crown Princess of Prussia, 1863–71, London: Evans Brothers
- Fulford, Roger (editor, 1976) Darling Child: Private Correspondence of Queen Victoria and the German Crown Princess of Prussia, 1871–78, London: Evans Brothers
- Hibbert, Christopher (editor, 1984) Queen Victoria in Her Letters and Journals, London: John Murray, ISBN 0719541077
- Hough, Richard (editor, 1975) Advice to a Grand-daughter: Letters from Queen Victoria to Princess Victoria of Hesse, London: Heinemann, ISBN 0434348619
- Jagow, Kurt (editor, 1938) Letters of the Prince Consort 1831–61, London: John Murray
- Mortimer, Raymond (editor, 1961) Queen Victoria: Leaves from a Journal, New York: Farrar, Straus & Cudahy
- Ponsonby, Sir Frederick (editor, 1930) Letters of the Empress Frederick, London: Macmillan
- Ramm, Agatha (editor, 1990) Beloved and Darling Child: Last Letters between Queen Victoria and Her Eldest Daughter, 1886–1901, Stroud: Sutton Publishing, ISBN 9780862998806
- Victoria, Queen (1868) Leaves from the Journal of Our Life in the Highlands from 1848 to 1861, London: Smith, Elder
- Victoria, Queen (1884) More Leaves from the Journal of Our Life in the Highlands from 1862 to 1882, London: Smith, Elder
Đọc thêm
- Arnstein, Walter L. (2003) Queen Victoria, New York: Palgrave Macmillan, ISBN 978-0333638064
- Gardiner, Juliet (1997) Queen Victoria, London: Collins and Brown, ISBN 978-1855854697
- Weintraub, Stanley (1987) Victoria: Biography of a Queen, London: HarperCollins, ISBN 978-0049230842
Liên kết ngoài
![]() |
Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: |
![]() |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Victoria của Anh |
- Works by Queen Victoria at archive.org
- The Death of Queen Victoria Original reports from The Times
- Tài liệu lưu trữ liên quan đến Victoria của Anh liệt kê tại Cơ quan lưu trữ quốc gia Vương quốc Anh
- Historical Images related to Victoria at English Heritage
Victoria của Anh
Nhánh thứ của Nhà Welf
Sinh: 24 tháng năm 1819 Mất: 22 tháng 1901 |
||
Tước hiệu | ||
---|---|---|
Tiền vị: William IV |
Nữ hoàng Anh Quốc 20 tháng 6 1837 – 22 tháng 1 1901 |
Kế vị Edward VII |
Trống ngôi
Người cuối cùng giữ danh hiệu
Bahadur Shah II |
Nữ hoàng Ấn Độ 1 tháng 5 1876 – 22 tháng 1 1901 |
|
British monarchy | ||
Tiền vị: Hoàng tử William, Công tước của Clarence |
‘Người thừa kế ngai vàng’ 26 tháng 6 1830 – 20 tháng 6 1837 |
Kế vị Ernest Augustus I của Hanover |
Liên Hiệp Quốc
Liên Hiệp Quốc
|
||||||
---|---|---|---|---|---|---|
|
||||||
Các thành viên của Liên Hiệp Quốc
|
||||||
Ngôn ngữ hành chính |
6 ngôn ngữ[hiện]
|
|||||
Các quốc gia thành viên | 193 thành viên | |||||
Người đứng đầu | ||||||
– | Tổng thư ký | Ban Ki-moon | ||||
– | Phó Tổng thư ký | Jan Eliasson | ||||
– | Chủ tịch hội đồng | Vuk Jeremić | ||||
– | Chủ tịch HĐBA | Harold Caballeros | ||||
Thành lập | ||||||
– | Thành lập | 26/06/1945 | ||||
– | Những hiệp ước và điều lệ được thi hành | 24/10/1945 | ||||
Trang web Trang chính thức của Liên Hiệp Quốc |
||||||
Liên Hiệp Quốc là một tổ chức nhằm duy trì an ninh và hoà bình cho các quốc gia độc lập trên thế giới |
Liên Hiệp Quốc hay Liên Hợp Quốc (thường được viết tắt là LHQ) là một tổ chức quốc tế có mục đích duy trì hòa bình và an ninh trên thế giới, phát triển các mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc và tiến hành hợp tác quốc tế giữa các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc.
Hiện nay, Liên Hiệp Quốc có 193 thành viên, bao gồm hầu hết các quốc gia có chủ quyền trên Trái Đất. Liên Hiệp Quốc sử dụng 6 ngôn ngữ chính thức: tiếng Ả Rập, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Trung.
Từ trụ sở trong lãnh phận quốc tế tại thành phố New York, Liên Hiệp Quốc và các cơ quan chuyên môn của nó quyết định các vấn đề về điều hành và luật lệ. Theo hiến chương LHQ thì tổ chức này gồm 6 cơ quan chính, chủ yếu gồm: Đại hội đồng, Hội đồng Bảo An, Hội đồng kinh tế và xã hội, Ban thư kí, Tòa án Quốc tế vì Công lý, Hội đồng Ủy trị Liên Hiệp Quốc. Ngoài ra, một số tổ chức tiến hành quản lý các cơ quan của Hệ thống Liên Hiệp Quốc, ví dụ như Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF).
Nhân vật đại diện tiêu biểu nhất của Liên Hiệp Quốc là Tổng thư kí, đương nhiệm là Ban Ki-moon, người Hàn Quốc.
Kinh phí hoạt động của Liên Hiệp Quốc được hình thành bằng tài trợ đóng góp tự nguyện và nguồn niên liễm có kiểm soát từ các nước thành viên
Mục lục
- 1 Các tổ chức trong Liên Hợp Quốc
- 2 Lịch sử hình thành
- 3 Thành viên
- 4 Trụ sở
- 5 Tài chính
- 6 Ngôn ngữ
- 7 Các mục đích và hoạt động
- 7.1 Các mục đích của Liên Hiệp Quốc
- 7.2 Các hội nghị quốc tế
- 7.3 Những năm quốc tế và những vấn đề liên quan
- 7.4 Mục tiêu kiểm soát và giải giáp vũ khí
- 7.5 Giữ gìn hòa bình
- 7.6 Nhân quyền
- 7.7 Hỗ trợ nhân đạo và Phát triển quốc tế
- 7.8 Các hiệp ước và luật pháp quốc tế
- 7.9 Những gương mặt nổi tiếng của Liên Hiệp Quốc
- 8 Cải cách
- 9 Những mục tiêu phát triển thiên niên kỷ
- 10 Những thành công và thất bại trong các vấn đề an ninh
- 11 Chỉ trích và mâu thuẫn
- 12 Chính sách nhân sự
- 13 Liên Hiệp Quốc trong văn hóa đại chúng
- 14 Xem thêm
- 15 Tham khảo
- 16 Đọc thêm
- 17 Liên kết ngoài
- 18 Bản đồ
Các tổ chức trong Liên Hợp Quốc
Ngân hàng Thế giới (World Bank Group – WBG)
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund – IMF)
Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (World Intellectual Property Organization – WIPO)
Lực lượng gìn giữ hoà bình Liên Hợp Quốc (Department Of Peacekeeping Operations – DPKO)
Lịch sử hình thành
Trụ sở Liên Hiệp Quốc được đặt trong lãnh phận quốc tế tại Manhattan, Thành phố New York, Hoa Kỳ.
Tiền thân của Liên Hiệp Quốc là Hội Quốc Liên (League of Nations), vốn là một sáng kiến của Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Hoa Kỳ tuy sáng lập nhưng lại không chính thức làm hội viên, hơn thế quy chế hoạt động của hội lại lỏng lẻo, các cường quốc như Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, Pháp, Nga, Đức, Ý, Nhật Bản tham gia vốn chỉ để tranh giành ảnh hưởng cho mình. Dù hội đạt được một số thành tựu đáng kể trong công cuộc giải phóng phụ nữ cũng như những hoạt động nhân đạo nhưng chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và buộc Hội quốc liên phải giải tán.
Sau Thế chiến thứ hai, các nước Khối Đồng Minh và nhân dân thế giới có nguyện vọng giữ gìn hòa bình và ngăn chặn các cuộc chiến tranh thế giới mới. Tại Hội nghị Yalta, nguyên thủ ba nước Liên Xô, Mỹ, Anh đã thống nhất thành lập tổ chức quốc tế để giữ gìn hòa bình và an ninh thế giới. Trên cơ sở Hội nghị Durbarton Oaks ở Washington, D.C., từ 25 tháng 4 đến 26 tháng 6 năm 1945, đại diện của 50 quốc gia đã họp tại San Francisco, California, Hoa Kỳ để thông qua Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Ngày 24 tháng 10 năm 1945, Liên Hiệp Quốc chính thức được thành lập. Tuy vậy, Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc (General Assembly) đầu tiên, tham dự bởi 51 nước, không được tổ chức cho mãi đến ngày 10 tháng 1 năm 1946 (tại Nhà họp chính Westminster ở Luân Đôn).
“Một sự nghiệp vĩ đại để tạ ơn Đức Chúa toàn năng…” Tổng thống Mỹ Harry S. Truman đã nói như vậy về thành tựu của hội nghị tại San Francisco, một hội nghị đã góp phần vào việc soạn thảo bản Hiến chương Liên Hợp Quốc năm 1945. Câu nói của tổng thống Truman đã đại diện cho hàng triệu người, những người tin rằng tổ chức mới này sẽ làm cho những cuộc chiến tranh thế giới lùi sâu vào dĩ vãng. Lời tựa của bản Hiến chương đã nêu rõ mục đích của tổ chức này: “Chúng tôi, những dân tộc của Liên Hợp Quốc, quyết tâm cứu những thế hệ mai sau khỏi thảm họa chiến tranh…”.
Thành viên
Tới năm 2011 có 193 quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc, gồm tất cả các quốc gia độc lập được thế giới công nhận. Trong số những nước không phải thành viên, đáng chú ý nhất là Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), ghế của họ tại Liên Hiệp Quốc đã được chuyển giao cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1971; Tòa Thánh (thực thể quản lý Thành Vatican), vốn đã từ bỏ quy chế thành viên nhưng vẫn là một quốc gia quan sát viên; Nhà nước Palestine (là một quan sát viên cùng với Chính quyền Quốc gia Palestine). Hơn nữa, những dân tộc dưới chủ quyền nước ngoài và các quốc gia không được công nhận cũng không hiện diện tại Liên Hiệp Quốc, như Transnistria. Thành viên mới nhất của Liên Hiệp Quốc là Nam Sudan, chính thức gia nhập ngày 14 tháng 7 năm 2011.
Liên Hiệp Quốc đã vạch ra các nguyên tắc cơ bản cho tư cách thành viên:
- Tư cách thành viên của Liên Hiệp Quốc mở rộng cho tất cả các quốc gia yêu chuộng hòa bình và chịu chấp nhận các nguyên tắc được đặt ra trong Hiến chương hiện thời và trong các phán quyết của Tổ chức, có thể và sẵn sàng thực thi những nguyên tắc đó.
- Sự thu nhận một quốc gia như thế vào Liên Hiệp Quốc sẽ bị ảnh hưởng bởi quyết định của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc với sự giới thiệu của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.
—Hiến chương Liên Hiệp Quốc, Chương 2, Phần 4, http://www.un.org/aboutun/charter/
Trụ sở
Toà nhà trụ sở Liên Hiệp Quốc hiện nay được xây dựng trên một khu đất rộng 16 acre tại Thành phố New York trong giai đoạn từ năm 1949 tới 1950, bên cạnh Khu phía Đông của thành phố. Khu đất này được John D. Rockefeller, Jr. mua với giá 8.5 triệu dollar, con trai ông Nelson là nhà thương thuyết chủ yếu với chuyên viên thiết kế William Zeckendorf, vào tháng 12 năm 1946. Sau đó John D. Rockefeller, Jr. tặng khu đất này cho Liên Hiệp Quốc.
Trụ sở được một đội các kiến trúc sư quốc tế gồm cả Le Corbusier (Thuỵ Sĩ), Oscar Niemeyer (Brasil) và đại diện từ nhiều nước khác thiết kế. Wallace K. Harrison, một cố vấn của Nelson Rockefeller, lãnh đạo đội. Đã xảy ra một vụ rắc rối giữa những người tham gia về thẩm quyền của từng người. Trụ sở Liên Hiệp Quốc chính thức mở cửa ngày 9 tháng 1 năm 1951. Trụ sở chính của Liên Hiệp Quốc nằm tại New York, trụ sở một số cơ quan khác của tổ chức này nằm tại Geneva, La Hay, Wien, Montréal, Copenhagen, Bonn và nhiều nơi khác.
Địa chỉ trụ sở Liên Hiệp Quốc là 760 United Nations Plaza, New York, NY 10017, USA. Vì những lý do an ninh, tất cả thư từ gửi tới địa chỉ trên đều được tiệt trùng.[1]
Các tòa nhà Liên Hiệp Quốc đều không được coi là các khu vực tài phán chính trị riêng biệt,[cần dẫn nguồn] nhưng thực sự có một số quyền chủ quyền. Ví dụ, theo những thỏa thuận với các nước chủ nhà Cơ quan quản lý thư tín Liên Hiệp Quốc được phép in tem thư để gửi thư tín trong nước đó. Từ năm 1951 văn phòng tại New York, từ năm 1969 văn phòng tại Geneva, và từ năm 1979 văn phòng tại Wien đã in ấn tem riêng của mình. Các tổ chức của Liên Hiệp Quốc cũng sử dụng tiền tố viễn thông riêng, 4U, và về mặt không chính thức, các trụ sở tại New York, Geneva và Wien được coi là các thực thể riêng biệt đối với các mục đích radio không chuyên.
Bởi trụ sở chính của Liên Hiệp Quốc đã trải qua một quá trình sử dụng khá dài, Liên Hiệp Quốc hiện đang trong quá trình xây dựng một trụ sở tạm do Fumihiko Maki thiết kế trên Đại lộ thứ nhất giữa Phố 41 và Phố 42 để dùng tạm khi công trình hiện nay đang được tu sửa.[2]
Trước năm 1949, Liên Hiệp Quốc sử dụng nhiều địa điểm tại Luân Đôn và tiểu bang New York.[3]
Tài chính
Quốc gia thành viên | Đóng góp (% ngân sách LHQ) |
---|---|
![]() |
22,000% |
![]() |
10,833% |
![]() |
7,141% |
![]() |
5,593% |
![]() |
5,179% |
![]() |
5,148% |
![]() |
4,448% |
![]() |
2,984% |
![]() |
2,973% |
![]() |
2,934% |
![]() |
2,438% |
![]() |
2,074% |
![]() |
1,994% |
![]() |
1,842% |
![]() |
1,654% |
Quốc gia thành viên khác | 20,765% |
Liên Hiệp Quốc hoạt động nhờ tiền đóng góp và tiền quyên tự nguyện từ các quốc gia thành viên. Những ngân sách chính thức hai năm của Liên hiệp quốc và các tổ chức chuyên biệt của họ lấy từ những khoản đóng góp. Đại hội đồng thông qua ngân sách chính thức và quyết định khoản đóng góp của mỗi quốc gia thành viên. Điều này dựa chủ yếu trên năng lực chi trả của mỗi nước, tính theo những số liệu thống kê thu nhập cùng với những yếu tố khác.
Đại hội đồng đã đưa ra nguyên tắc rằng Liên hiệp quốc sẽ không quá phụ thuộc vào bất kỳ một quốc gia thành viên nào trong lĩnh vực tài chính cần thiết cho những hoạt động của mình. Vì thế, có một mức “trần”, quy định khoản tiền tối đa một nước có thể đóng góp cho ngân sách. Tháng 12 năm 2000, Đại hội đồng đã sửa đổi tỷ lệ đóng góp để phản ánh chính xác hơn cục diện thế giới hiện tại. Như một phần của sự sửa đổi này, trần đóng góp được giảm từ 25% xuống 22%. Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất đóng góp ở mức trần, nhưng những khoản tiền họ còn thiếu lên tới hàng trăm triệu dollar (xem Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc). Theo mức đóng góp mới được thông qua năm 2000, các nước đóng góp lớn khác vào ngân sách Liên Hiệp Quốc năm 2001 là Nhật Bản (19.63%), Đức (9.82%), Pháp (6.50%), Anh (5.57%), Ý (5.09%), Canada (2.57%), Tây Ban Nha (2.53%) và Brasil (2.39%).[5]
Các chương trình đặc biệt của Liên Hiệp Quốc không được tính vào ngân sách chính thức của tổ chức này (ví dụ như UNICEF và Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc – UNDP), chúng hoạt động nhờ những khoản quyên góp tự nguyện từ các chính phủ thành viên. Một số các khoản đóng góp dưới hình thức các loại thực phẩm nông nghiệp viện trợ cho những người bị ảnh hưởng, nhưng chủ yếu vẫn là tiền mặt.
Ngôn ngữ
Liên Hiệp Quốc sử dụng sáu ngôn ngữ chính thức: tiếng Ả Rập, tiếng Hoa, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga và tiếng Tây Ban Nha.[6] Ban thư ký sử dụng hai ngôn ngữ làm việc: (tiếng Anh và tiếng Pháp).
Khi Liên Hiệp Quốc được thành lập, năm ngôn ngữ chính thức được lựa chọn là: tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Nga. Tiếng Ả Rập được đưa vào thêm năm 1973. Hiện có những tranh cãi trái chiều về việc liệu có nên giảm bớt số lượng ngôn ngữ chính thức (ví dụ chỉ giữ lại tiếng Anh) hay nên tăng thêm con số này.[cần dẫn nguồn] Áp lực đòi đưa thêm tiếng Hindi thành ngôn ngữ chính thức đang ngày càng gia tăng.[cần dẫn nguồn] Năm 2001, các nước nói tiếng Tây Ban Nha phàn nàn rằng tiếng Tây Ban Nha không có tư cách ngang bằng so với tiếng Anh.[7] Những nỗ lực chống lại sự tụt giảm vị thế của tiếng Pháp trong tổ chức này cũng rất to lớn;[8] vì thế tất cả các Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đều phải biết dùng tiếng Pháp và rõ ràng việc Tổng thư ký mới Ban Ki-Moon gặp khó khăn để có thể nói trôi chảy ngôn ngữ này trong buổi họp báo đầu tiên của ông [9] bị một số người coi là một sự mất điểm [10].
Tiêu chuẩn của Liên Hiệp Quốc đối với các tài liệu bằng tiếng Anh (Hướng dẫn xuất bản Liên Hiệp Quốc) tuân theo quy tắc của tiếng Anh. Liên Hiệp Quốc và tất cả các tổ chức khác là một phần của hệ thống Liên Hiệp Quốc sử dụng phương pháp đánh vần Oxford. Tiêu chuẩn của Liên Hiệp Quốc về tiếng Hoa (Quan thoại) đã thay đổi khi Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) phải nhường ghế cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1971. Từ năm 1945 đến 1971 kiểu chữ phồn thể được sử dụng, và từ năm 1971 kiểu chữ giản thể đã thay thế.
Trong số các ngôn ngữ chính thức của Liên Hiệp Quốc, tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức của 52 quốc gia thành viên, tiếng Pháp của 29 thành viên, tiếng Ả Rập là 24, tiếng Tây Ban Nha là 20, tiếng Nga tại 4 và tiếng Trung Quốc tại 2 nước. Tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Đức là những ngôn ngữ được sử dụng ở khá nhiều nước thành viên Liên Hiệp Quốc (8 và 6) nhưng lại không phải là ngôn ngữ chính thức của tổ chức này.
Các mục đích và hoạt động
Các mục đích của Liên Hiệp Quốc
Những mục đích được nêu ra của Liên Hiệp Quốc là ngăn chặn chiến tranh, bảo vệ nhân quyền, cung cấp một cơ cấu cho luật pháp quốc tế, và để tăng cường tiến bộ kinh tế, xã hội, cải thiện các điều kiện sống và chống lại bệnh tật.[11] Liên Hiệp Quốc tạo cơ hội cho các quốc gia nhằm đạt tới sự cân bằng trong sự phụ thuộc lẫn nhau trên bình diện thế giới và giải quyết các vấn đề quốc tế. Nhằm mục đích đó, Liên Hiệp Quốc đã phê chuẩn một Tuyên ngôn Chung về Nhân quyền năm 1948.[12]
Các hội nghị quốc tế
Các quốc gia Liên Hiệp Quốc và các cơ quan đặc biệt của nó — “những stakeholder” của hệ thống — đưa ra hướng dẫn và quyết định về những vấn đề lớn và vấn đề hành chính trong những cuộc gặp thông lệ được tổ chức suốt năm. Các cơ cấu quản lý được hình thành từ các quốc gia thành viên, không chỉ gồm Đại hội đồng, Hội đồng Kinh tế Xã hội và Hội đồng Bảo an, mà còn cả các cơ cấu tương đương chịu trách nhiệm quản lý tất cả các cơ quan khác của Hệ thống Liên Hiệp Quốc. Ví dụ Đại hội đồng Y tế và Ban Chấp hành quản lý công việc của Tổ chức Y tế Thế giới.
Khi một vấn đề được coi là có tầm quan trọng đặc biệt, Đại hội đồng có thể triệu tập một phiên họp đặc biệt để tập trung sự chú ý toàn cầu và xây dựng một phương hướng hành động chung. Những ví dụ gần đây gồm:
- Hội thảo Liên Hiệp Quốc về Môi trường và Phát triển (Thượng đỉnh Trái Đất) tại Rio de Janeiro, Brasil, tháng 6 năm 1992, dẫn tới sự thành lập Uỷ ban Liên Hiệp Quốc về sự Phát triển Bền vững nhằm thực hiện những điều đã được ký kết tại Chương trình nghị sự 21, văn bản cuối cùng về những thỏa thuận đã được các chính phủ thảo luận tại UNCED;
- Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển, được tổ chức tại Cairo, Ai Cập, vào tháng 9 năm 1994, đã thông qua một chương trình hành động nhằm giải quyết các thách thức nguy ngập và mối quan hệ liên quan giữa dân số và sự phát triển bền vững trong vòng 20 năm tới;
- Hội nghị Thế giới lần thứ tư về Phụ nữ, được tổ chức tại Bắc Kinh, Trung Quốc, vào tháng 9 năm 1995, tìm cách đẩy nhanh việc thực hiện những thỏa thuận lịch sử đã đạt được tại Hội nghị Thế giới lần thứ ba về Phụ nữ;
- Hội nghị Liên Hiệp Quốc lần thứ hai về Sự định cư Loài người (Habitat II), được triệu tập tháng 6 năm 1996 tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ, đánh giá những thách thức trước sự phát triển và quản lý định cư loài người trong thế kỷ 21.
- ICARA 2 or ICARA II: Hội nghị Quốc tế về sự Hỗ trợ Người tị nạn tại châu Phi được thành lập năm 1984.
Những năm quốc tế và những vấn đề liên quan
Liên Hiệp Quốc tuyên bố và điều phối “Năm quốc tế…” nhằm tập trung sự chú ý của thế giới vào các vấn đề quan trọng. Sử dụng hình tượng Liên Hiệp Quốc, một logo được thiết kế đặc biệt cho năm đó, và cơ sở hạ tầng của Hệ thống Liên Hiệp Quốc nhằm phối hợp các sự kiện trên khắp thế giới, nhiều năm đã trở thành điểm xúc tác cho những vấn đề quan trọng trên phạm vi thế giới.
- Đại sứ thiện chí UNESCO
- Di sản văn hóa thế giới UNESCO
- Đại sứ thiện chí của UNHCR
- Thành phố Liên Hiệp Quốc vì hòa bình
Mục tiêu kiểm soát và giải giáp vũ khí
Hiến chương năm 1945 của Liên Hiệp Quốc dự định đưa ra một hệ thống quy định sẽ đảm bảo “sự chi tiêu nhỏ nhất các nguồn tài nguyên con người và kinh tế thế giới cho vũ khí”. Phát minh ra các loại vũ khí hạt nhân xảy ra chỉ vài tuần sau khi Hiến chương được ký kết và ngay lập tức thúc đẩy ý tưởng hạn chế và giải giáp vũ khí. Trên thực tế, nghị quyết đầu tiên của phiên họp đầu tiên của Đại hội đồng (ngày 24 tháng 1 năm 1946) có tiêu đề “Sự thành lập một Ủy ban giải quyết các Vấn đề Phát sinh do sự Phát minh ra Năng lượng Nguyên tử” và kêu gọi đưa ra những đề xuất khoa học cho “sự hạn chế trang bị các loại vũ khí nguyên tử và tất cả các loại vũ khí chính khác với mục đích hủy diệt hàng loạt”.
Liên Hiệp Quốc đã lập ra nhiều diễn đàn nhằm giải quyết các vấn đề giải giáp vũ khí đa biên. Các diễn đàn chính là Ủy ban Thứ nhất của Đại hội đồng và Cao ủy về Giải giáp vũ khí Liên Hiệp Quốc. Những vấn đề được đưa vào chương trình nghị sự gồm việc ước tính những giá trị có được sau những hiệp ước cấm thử hạt nhân, kiểm soát vũ khí không gian, những nỗ lực nhằm ngăn chặn các loại vũ khí hóa học, giải giáp vũ khí hạt nhân và vũ khí thông thường, những khu vực không vũ khí hạt nhân, giảm bớt ngân sách quân sự, và các biện pháp nhằm tăng cường an ninh quốc tế.
Hội nghị Giải giáp là một diễn đàn được cộng đồng thế giới lập ra để đảm phán về các thỏa thuận kiểm soát vũ khí đa bên và giải giáp vũ khí. Diễn đàn có 66 thành viên đại diện cho mọi khu vực trên thế giới, gồm cả năm quốc gia hạt nhân chính (Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Pháp, Nga, Anh Quốc và Hoa Kỳ). Tuy hội nghị không phải là một tổ chức chính thức của Liên Hiệp Quốc, nó kết nối với tổ chức này thông qua sự hiện diện cá nhân của Tổng thư ký; người đồng thời cũng là tổng thư ký của hội nghị. Những nghị quyết được Đại hội đồng thông qua thường yêu cầu hội nghị xem xét các vấn đề giải giáp riêng biệt. Đổi lại, hàng năm hội nghị thông báo các hoạt động của mình cho Đại hội đồng.
Giữ gìn hòa bình
Lính gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc được gửi tới nhiều vùng nơi các cuộc xung đột quân sự mới chấm dứt, nhằm buộc các bên tôn trọng các thỏa thuận hòa bình và ngăn chặn tình trạng thù địch tái diễn, ví dụ tại Đông Timor cho tới khi nước này giành độc lập năm 2001. Các lực lượng đó do các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc đóng góp, và việc tham dự vào các chiến dịch gìn giữ hòa bình là không bắt buộc; tới nay chỉ có hai quốc gia là Canada và Bồ Đào Nha, đã tham gia vào tất cả các chiến dịch gìn giữ hòa bình.[cần dẫn nguồn] Liên Hiệp Quốc không duy trì bất kỳ một lực lượng quân sự độc lập nào. Tất cả các chiến dịch gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc phải được Hội đồng bảo an thông qua.
Những người sáng lập Liên Hiệp Quốc đã thực sự hy vọng rằng tổ chức này sẽ hoạt động để ngăn chặn những cuộc xung đột giữa các quốc gia và các cuộc chiến tranh trong tương lai. Những hy vọng đó không hoàn toàn trở thành hiện thực. Trong thời Chiến tranh Lạnh (từ khoảng năm 1945 tới năm 1991), sự phân chia thế giới thành những phe thù địch khiến thỏa thuận gìn giữ hòa bình rất khó được thông qua. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, lại tái xuất hiện những lời kêu gọi biến Liên Hiệp Quốc trở thành một cơ quan đảm bảo hòa bình quốc tế, bởi hàng chục những cuộc xung đột quân sự vẫn tiếp tục diễn ra trên khắp thế giới. Nhưng sự tan vỡ của Liên bang Xô viết cũng khiến Hoa Kỳ có được vị thế thống trị toàn cầu duy nhất, tạo ra nhiều thách thức mới cho Liên Hiệp Quốc.
Các chiến dịch gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc sử dụng nguồn tài chính từ các khoản đóng góp, tính theo công thức đóng góp tỷ lệ thông thường, nhưng gồm cả những chi phí cộng thêm đối với năm thành viên thường trực của Hội đồng bảo an, những nước có quyền thông qua việc tiến hành những chiến dịch gìn giữ hòa bình đó. Khoản thu thêm này sẽ bù đắp cho những khoản phí gìn giữ hòa bình của các quốc gia kém phát triển. Tháng 12 năm 2000, Liên Hiệp Quốc đã sửa đổi tỷ lệ đóng góp vào ngân sách hoạt động và ngân sách gìn giữ hòa bình. Tỷ lệ đóng góp cho việc gìn giữ hòa bình sẽ được thay đổi sáu tháng một lần và dự kiến là gần 27% cho năm 2003. Hoa Kỳ dự định đóng góp chi phí gìn giữ hòa bình ở mức thấp này và đang tìm kiếm sự ủng hộ pháp lý từ phía Nghị viện nhằm cho phép giải ngân các khoản góp họ còn nợ Liên Hiệp Quốc.
Các lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc (được gọi là Quân mũ nồi xanh) đã nhân được Giải Nobel năm 1998 cho công lao giữ gìn Hòa bình của họ. Năm 2001, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan đã đoạt giải Nobel Hòa bình “vì nỗ lực cho một thế giới hòa bình và được tổ chức tốt hơn.”
Liên Hiệp Quốc có nhiều loại Huy chương Liên Hiệp Quốc để trao cho những thành viên quân sự tham gia vào việc gìn giữ các thỏa thuận hòa bình của tổ chức này. Huy chương đầu tiên ra đời là Huy chương Phục vụ Liên Hiệp Quốc, được trao cho các lực lượng Liên Hiệp Quốc tham gia vào cuộc Chiến tranh Triều Tiên. Huy chương NATO cũng ra đời với mục tiêu như trên và cả hai loại này đều được coi là huy chương quốc tế chứ không phải huy chương quân sự.[cần dẫn nguồn]
Nhân quyền
Bài này là một bản dịch thô từ ngôn ngữ khác. Đây có thể là kết quả của máy tính hoặc của người chưa thông thạo dịch thuật. Xin hãy giúp tăng chất lượng bản dịch. |
Việc theo đuổi mục tiêu nhân quyền là một lý do chính của việc thành lập Liên Hiệp Quốc. Sự tàn bạo của Thế chiến thứ hai và nạn diệt chủng dẫn tới một kết luận chung rằng tổ chức mới này phải hoạt động để ngăn chặn bất kỳ một thảm kịch nào như vậy trong tương lai. Một mục tiêu ban đầu là tạo ra một khung pháp lý để xem xét và hành động trước những vấn đề về vi phạm nhân quyền.
Hiến chương Liên Hiệp Quốc bắt buộc tất cả các quốc gia thành viên phải khuyến khích “sự tôn trọng toàn diện, và sự tuân thủ, nhân quyền” và tiến hành “các hành động chung hay riêng rẽ” cho mục tiêu đó. Tuyên bố Chung về Nhân quyền, dù không chính thức ràng buộc, đã được Đại hội đồng thông qua năm 1948 như là một tiêu chuẩn chung để hướng tới đối với mọi nước thành viên. Đại hội đồng thường đề cập tới các vấn đề nhân quyền.
Ngày 15 tháng 3 năm 2006 Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã bỏ phiếu với kết quả áp đảo để thay thế Uỷ ban nhân quyền (Human rights Commission) bằng Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc(Human Rights Council).[13] Mục tiêu của nó là giải quyết các vụ vi phạm nhân quyền. Uỷ ban nhân quyền đã nhiều lần bị chỉ trích vì thành phần thành viên của nó.[cần dẫn nguồn] Đặc biệt, chính nhiều nước thành viên của cơ quan này cũng có thành tích nhân quyền kém cỏi, gồm cả những nước có đại diện được bầu làm chủ tịch ủy ban.[cần dẫn nguồn]
Hiện có bảy Cơ cấu hiệp ước nhân quyền liên quan tới Liên Hiệp Quốc, gồm Ủy ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốc và Ủy ban về Sự hạn chế và Ngăn chặn bạo hành chống Phụ nữ. Ban thư ký của sáu (trừ Ủy ban Hạn chế và ngăn chặn bạo hành chống phụ nữ) đều do văn phòng Cao Ủy nhân quyền Liên Hiệp Quốc điều hành.
Liên Hiệp Quốc và các cơ quan của mình là nhân tố chủ chốt thúc đẩy và áp dụng các nguyên tắc thiêng liêng trong Tuyên bố Chung về Nhân quyền. Một trường hợp như thế là việc Liên Hiệp Quốc hỗ trợ các nước đang trong quá trình chuyển tiếp sang chế độ dân chủ. Hỗ trợ kỹ thuật trong việc tổ chức các cuộc bầu cử tự do và công bằng, cải thiện các cơ cấu pháp lý, khởi thảo hiến pháp, huấn luyện các nhân viên nhân quyền, và chuyển các phong trào vũ trang thành các đảng chính trị đã đóng góp rất lớn vào quá trình dân chủ hóa trên khắp thế giới. Liên Hiệp Quốc đã giúp tổ chức các cuộc bầu cử tại những quốc gia vốn có thành tích dân chủ yếu kém, gồm cả hai quốc gia gần đây là Afghanistan và Đông Timor.
Liên Hiệp Quốc cũng là một diễn đàn hỗ trợ quyền phụ nữ tham gia đầy đủ vào đời sống chính trị, kinh tế và xã hội của đất nước họ. Liên Hiệp Quốc góp phần vào việc hướng sự chú ý của dư luận vào khái niệm nhân quyền thông qua các hiệp ước của nó và sự chú ý của tổ chức này vào những vụ lạm dụng đặc biệt thông qua các nghị quyết của Đại hội đồng hay Hội đồng bảo an hay thông qua những quyết định của Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ).
Đầu năm 2006, một nhóm hội thảo chống tra tấn tại Liên Hiệp Quốc đã đề xuất việc đóng cửa Nhà tù Vịnh Guantanamo và chỉ trích cái gọi là sự sử dụng những nhà tù bí mật và sự nghi ngờ việc vận chuyển tù nhân tới nước ngoài cho mục đích hỏi cung của Hoa Kỳ.[cần dẫn nguồn] Một số thành viên Đảng Dân chủ Hoa Kỳ và các nhóm nhân quyền cho rằng hệ thống nhà tù bí mật của CIA không cho phép giám sát được các vụ vi phạm nhân quyền và hy vọng chúng sẽ sớm bị đóng cửa.
Hỗ trợ nhân đạo và Phát triển quốc tế
Phối hợp với các tổ chức khác như Chữ thập đỏ, Liên Hiệp Quốc cung cấp thực phẩm, nước uống, nơi cư ngụ và các dịch vụ nhân đạo khác cho những người dân đang phải chịu nạn đói, phải rời bỏ nhà cửa vì chiến tranh, hay bị ảnh hưởng bởi các thảm họa khác. Các cơ quan nhân đạo chính của Liên Hiệp Quốc là Chương trình Lương thực Thế giới (đã giúp cung cấp thực phẩm cho hơn 100 triệu người mỗi năm ở hơn 80 quốc gia), Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn hiện điều hành các dự án ở hơn 116 nước, cũng như các chiến dịch gìn giữ hòa bình tại hơn 24 quốc gia. Nhiều lần, các nhân viên cứu trợ của Liên Hiệp Quốc đã trở thành mục tiêu của các vụ tấn công (xem Các vụ tấn công vào nhân viên cứu trợ nhân đạo).
Liên Hiệp Quốc cũng tham gia vào việc hỗ trợ phát triển, ví dụ thông qua việc đưa ra Các mục tiêu Thiên niên kỷ. Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) là tổ chức đa bên lớn nhất tiến hành hỗ trợ kỹ thuật trên thế giới. Các tổ chức khác như WHO, UNAIDS, và Quỹ thế giới Phòng chống AIDS, Lao và Sốt rét — là các định chế hàng đầu trong cuộc chiến chống lại bệnh tật trên thế giới, đặc biệt tại các nước nghèo. Quỹ dân số Liên Hiệp Quốc là nhà cung cấp chính các dịch vụ sinh sản. Quỹ này đã giúp giảm tỷ lệ tử vong ở bà mẹ và trẻ em tại 100 quốc gia.
Hàng năm Liên Hiệp Quốc đưa ra Chỉ số Phát triển Con người (HDI), một biện pháp so sánh xếp hạng quốc gia theo sự nghèo khổ, học vấn, giáo dục, tuổi thọ, và các yếu tố khác.
Liên Hiệp Quốc khuyến khích phát triển con người thông qua nhiều cơ quan và văn phòng của mình:
- Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) loại trừ bệnh đậu mùa năm 1977 và đang tiến gần tới mục tiêu loại trừ bệnh bại liệt.
- Ngân hàng Thế giới / Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) Ghi chú: Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế được thành lập với tư cách các thực thể riêng biệt khỏi Liên Hiệp Quốc thông qua Thỏa thuận Bretton Woods năm 1944. Sau đó, vào năm 1947, một thỏa thuận khác được ký kết biến các tổ chức hậu Bretton Woods trở thành các cơ quan độc lập, chuyên biệt và là những cơ quan giám sát bên trong cơ cấu Liên Hiệp Quốc. Đây là trang của Ngân hàng Thế giới làm sáng tỏ quan hệ giữa hai tổ chức.
- Chương trình Môi trường Liên Hiệp Quốc (UNEP)
- Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP)
- Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO)
- Quỹ Trẻ em Liên Hiệp Quốc(UNICEF)
- Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn (UNHCR)
Ngày 9 tháng 3 năm 2006, Tổng thư ký Kofi Annan đã lập ra Quỹ Cứu trợ Khẩn cấp Trung ương (CERF) dành cho những người dân Châu Phi đang bị nạn đói đe doạ.[14]
Liên Hiệp Quốc cũng có một cơ quan gọi là Hội đồng Lương thực Thế giới với mục đích phối hợp các bộ nông nghiệp các nước nhằm giảm nhẹ nạn đói và suy dinh dưỡng. Tổ chức này tạm ngừng hoạt động năm 1993.
Các hiệp ước và luật pháp quốc tế
Liên Hiệp Quốc đàm phán các hiệp ước như Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển nhằm tránh những nguy cơ xung đột quốc tế tiềm tàng. Những tranh cãi về việc sử dụng các đại dương có thể được phân xử tại một tòa án đặc biệt.
Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) là tòa án chính của Liên Hiệp Quốc. Mục tiêu của tòa án này là để phán xử những tranh cãi giữa các quốc gia thành viên. ICJ bắt đầu hoạt động năm 1946 và vẫn đang xem xét nhiều vụ việc. Các trường hợp đáng chú ý gồm:
- Congo và Pháp, khi Cộng hòa Dân chủ Congo cáo buộc Pháp bắt giữ bất hợp pháp các cựu lãnh đạo bị cho là tội phạm chiến tranh; và Nicaragua với Hoa Kỳ, khi Nicaragua buộc tội Mỹ trang bị vũ khí bất hợp pháp cho Contras (vụ này dẫn tới Vụ Iran-Contra).
- Năm 1993, đối phó với sự “thanh lọc sắc tộc” tại Nam Tư cũ, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc đã thành lập Tòa án tội phạm quốc tế cho Nam Tư cũ. Năm 1994, đối phó với nạn diệt chủng tại Rwanda, Hội đồng đã thành lập Tòa án tội phạm quốc tế cho Rwanda. Việc phán xử tại hai tòa án đó đã thiết lập nên cơ sở xác định hiện nay rằng hành vi tội phạm cưỡng bức trong những cuộc xung đột quân sự là tội ác chiến tranh.[15]
- Năm 1998 Đại hội đồng kêu gọi triệu tập một hội nghị tại Roma về việc thành lập một Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC), tại đây “Quy chế Roma” đã được thông qua. Tòa án Tội phạm quốc tế bắt đầu hoạt động năm 2002 và tiến hành phiên xử đầu tiên năm 2006.[16] Đây là tòa án quốc tế thường trực đầu tiên chịu trách nhiệm xét xử những người bị cho là phạm các tội ác nghiêm trọng theo luật pháp quốc tế gồm cả tội ác chiến tranh và diệt chủng. Tuy nhiên, hoạt động của ICC độc lập với Liên Hiệp Quốc cả về nhân sự và tài chính, dù một số cuộc gặp gỡ của cơ quan điều hành ICC, Đại hội đồng các Quốc gia tham gia Quy chế Roma, được tổ chức tại Liên Hiệp Quốc. Có một “thỏa thuận quan hệ” giữa ICC và Liên Hiệp Quốc để quy định mối quan hệ giữa hai định chế này với nhau.[17][18]
- Năm 2002, Liên Hiệp Quốc đã thành lập Tòa án đặc biệt cho Sierra Leone để đối phó trước những hành động tàn bạo xảy ra trong thời gian nội chiến tại nước này.
Cũng có một SCIU (Đơn vị Điều tra những Tội ác Nghiêm trọng) cho Đông Timor.
Những gương mặt nổi tiếng của Liên Hiệp Quốc
Nhiều cá nhân theo chủ nghĩa nhân đạo và người nổi tiếng đã cùng hoạt động với Liên Hiệp Quốc, gồm Amitabh Bachchan, Audrey Hepburn, Eleanor Roosevelt, Danny Kaye, Roger Moore, Peter Ustinov, Bono, Jeffrey Sachs, Angelina Jolie, Mẹ Teresa, Shakira, Jay Z và Nicole Kidman.
Cải cách
Những năm gần đây đã có nhiều lời kêu gọi cải cách Liên Hiệp Quốc. Nhưng vẫn chưa có nhiều triển vọng sáng sủa, chỉ riêng việc các nước chịu đồng thuận với nhau, về cách cải tổ như thế nào. Một số nước muốn Liên Hiệp Quốc đóng một vai trò lớn và hiệu quả hơn trong các công việc chung của thế giới, những nước khác muốn giảm xuống chỉ còn vai trò nhân đạo. Cũng có nhiều lời kêu gọi cải cách quy chế thành viên trong Hội đồng Bảo an nhằm phản ánh chính xác hơn tình thế địa chính trị quốc tế ngày nay (ví dụ tăng số thành viên Châu Phi, Nam Mỹ và Châu Á).[cần dẫn nguồn] Năm 2004 và 2005, những chứng cớ như quản lý kém và tham nhũng liên quan tới Chương trình đổi dầu lấy lương thực cho Iraq dưới thời Saddam Hussein khiến một lần nữa những lời kêu gọi cải cách lại dấy lên.[cần dẫn nguồn]
Một chương trình cải cách chính thức đã được Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan đưa ra một thời gian ngắn sau khi ông nhậm chức trong nhiệm kỳ đầu tiên ngày 1 tháng 1 năm 1997. Những hành động cải cách liên quan tới việc thay đổi số lượng thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc (hiện chỉ phản ánh quan hệ quyền lực năm 1945); biến quá trình hoạt động của bộ máy trở nên công khai hơn, nhấn mạnh trên hiệu quả; biến Liên Hiệp Quốc trở nên dân chủ hơn; và áp đặt một biểu thuế quốc tế trên các công ty sản xuất vũ khí toàn cầu.[cần dẫn nguồn]
Tháng 9 năm 2005, Liên Hiệp Quốc đã triệu tập một Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới với sự tham gia của hầu hết nguyên thủ quốc gia các nước thành viên, trong một khóa họp toàn thể của phiên họp toàn thể Đại hội đồng lần thứ 60. Liên Hiệp Quốc gọi cuộc họp thượng đỉnh là “một cơ hội hàng thế hệ mới có một lần nhằm đưa ra những quyết định quan trọng về phát triển, an ninh, nhân quyền và cải cách liên hiệp quốc”.[19] Tổng thư ký Kofi Annan đã đề xuất hội nghị đồng ý về một “thỏa thuận cả gói” để cải cách Liên Hiệp Quốc sửa chữa lại các hệ thống quốc tế vì hòa bình và an ninh, nhân quyền và phát triển, để khiến chúng có khả năng giải quyết những thách thức rất lớn mà Liên Hiệp Quốc sẽ phải đối mặt trong thế kỷ 21. Các nhà lãnh đạo thế giới đã đồng thuận trên một văn bản về những vấn đề đáng chú ý đó như:
- thành lập một Hội đồng xây dựng hòa bình để tạo lập một cơ cấu trung tâm nhằm giúp đỡ các quốc gia đang đứng trước nguy cơ xung đột;
- thỏa thuận rằng cộng đồng quốc tế có quyền can thiệp khi các chính phủ quốc gia không thể hoàn thành trách nhiệm của họ trong việc bảo vệ các công dân của mình khỏi những hành động tội ác;
- một Ủy ban Nhân quyền (thành lập ngày 9 tháng 5 và sẽ bắt đầu hoạt động 19 tháng 6);[20]
- một thỏa thuận cung cấp thêm những nguồn tài nguyên cho Văn phòng các Dịch vụ Giám sát Nội bộ Liên Hiệp Quốc;
- nhiều thỏa thuận chi thêm hàng tỷ dollar nhằm đạt các Mục tiêu Thiên niên kỷ;
- một sự lên án rõ ràng và không tham vọng với chủ nghĩa khủng bố “ở mọi hình thức và mọi kiểu”;
- một quỹ dân chủ;
- một thỏa thuận nhằm chấm dứt hoạt động của Hội đồng Ủy trị vì hội đồng này đã hoàn thành sứ mệnh của mình.[21]
Dù các nước thành viên Liên Hiệp Quốc chưa đạt được nhiều thành quả trên con đường cải cách sự quan liêu của tổ chức này, Annan vẫn tiếp tục tiến hành những cải cách trong phạm vi quyền hạn của mình. Ông đã lập ra các văn phòng đạo đức, chịu trách nhiệm trừng phạt những hành vi gian lận tài chính mới bị phanh phui và đề xuất những chính sách ngăn ngừa mới. Tới cuối tháng 12 năm 2005, ban thư ký đã hoàn thành việc xem xét lại toàn bộ ủy nhiệm của Đại hội đồng từ hơn năm năm trước. Việc điều tra này là cơ sở căn bản để các quốc gia thành viên quyết định tăng hay giảm các chương trình hoạt động theo hiệu quả của chúng.[cần dẫn nguồn]
Những mục tiêu phát triển thiên niên kỷ
Các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ là tám mục tiêu mà toàn bộ 192 nước thành viên Liên Hiệp Quốc đã đồng ý sẽ hoàn thành vào năm 2015. Borgen Project ước tính rằng cần chi khoảng 40-60 tỷ dollar mỗi năm để đạt tám mục tiêu trên.
Tuyên bố thiên niên kỷ Liên Hiệp Quốc, được ký kết tháng 9 năm 2001, hứa hẹn:
- Loại trừ nghèo đói;
- Hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học;
- Khuyến khích bình đẳng giới và tăng quyền cho phụ nữ;
- Giảm tỷ lệ tử vong trẻ em;
- Cải thiện sức khỏe bà mẹ;
- Chiến đấu chống HIV/AIDS, sốt rét, và các bệnh tật khác;
- Đảm bảo môi trường bền vững;
- Khuyến khích một mối quan hệ đối tác phát triển quốc tế.
Những thành công và thất bại trong các vấn đề an ninh
Một phần lớn trong chi tiêu của Liên Hiệp Quốc là để giải quyết các vấn đề cốt lõi về hòa bình và an ninh của Liên Hiệp Quốc. Ngân sách gìn giữ hòa bình năm tài chính 2005-2006 gần 5 tỷ dollar (so với mức gần 1.5 tỷ dollar ngân sách chính của Liên Hiệp Quốc trong cùng giai đoạn)[cần dẫn nguồn], với khoảng 70.000 quân được triển khai cho 17 chiến dịch khắp thế giới. Báo cáo An ninh Con người 2005 [22], do Trung tâm An ninh Con người thuộc Đại học British Columbia đưa ra với sự hộ trợ từ nhiều chính phủ và quỹ khác cho thấy một sự sụt giảm lớn, nhưng phần lớn không được công nhận, trong số lượng các cuộc chiến, những vụ diệt chủng và những vụ vi phạm nhân quyền từ cuối giai đoạn Chiến tranh Lạnh. Những con số thống kê gồm:
- Giảm 40% những cuộc xung đột bạo lực.
- Giảm 80% những cuộc xung đột gây đổ máu nhiều nhất.
- Giảm 80% những cuộc diệt chủng và thanh lọc chính trị.
Báo cáo, do Oxford University Press[cần dẫn nguồn], cho rằng sự tuyên truyền cho một học thuyết quốc tế – chủ yếu do Liên Hiệp Quốc đề xướng – là nguyên nhân chính mang lại sự sụt giảm những cuộc xung đột quân sự, dù bản báo cáo cho thấy bằng chứng về sự tranh cãi này đa phần chỉ mang tính hoàn cảnh.
Bản báo cáo chỉ ra nhiều khoản đầu tư riêng biệt đã chi:[23]
- Tăng sáu lần số lượng các chiến dịch của Liên Hiệp Quốc được tiến hành để ngăn chặn chiến tranh trong giai đoạn 1990 tới 2002.
- Tăng bốn lần cho các nỗ lực nhằm chấm dứt những cuộc xung đột đang diễn ra, từ năm 1990 tới 2002.
- Tăng bảy lần số lượng ‘Bạn bè của Tổng thư ký’, ‘Các nhóm tiếp xúc’ và các cơ cấu do chính phủ đề xuất nhằm hỗ trợ các chiến dịch kiến tạo hòa bình và xây dựng hòa bình trong giai đoạn từ 1990 đến 2003.
- Tăng mười một lần số lượng các lệnh trừng phạt kinh tế chống lại các chế độ cầm quyền trên khắp thế giới từ 1989 tới 2001.
- Tăng bốn lần số lượng các chiến dịch gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc, từ 1987 đến 1999.
Tính trung bình, những nỗ lực trên vừa nhiều vừa quá lớn lại phức tạp hơn những chiến dịch thời Chiến tranh Lạnh.
Trong lĩnh vực gìn giữ hòa bình, các thắng lợi gồm:
- Văn phòng Giải trình Chính phủ Hoa Kỳ đã kết luận rằng việc gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc có chi phí ít hơn tám lần so với khoản chi cho lực lượng Hoa Kỳ.[24]
- Một nghiên cứu năm 2005 của RAND Corp cho thấy Liên Hiệp Quốc thành công ở hai trong số ba chiến dịch gìn giữ hòa bình của mình. Nghiên cứu này cũng so sánh những nỗ lực xây dựng nhà nước của Liên Hiệp Quốc với cũng nỗ lực của Hoa Kỳ, và thấy rằng trong tám trường hợp của Liên Hiệp Quốc, bảy trường hợp diễn ra trong hòa bình, trong khi trong tám trường hợp của Hoa Kỳ, bốn diễn ra trong hòa bình, và bốn không hề hay chưa hề có hòa bình.[25]
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc bất đắc dĩ phải thực hiện các nghị quyết của Hội đồng Bảo an. Iraq được cho là đã vi phạm 17 nghị quyết của Hội đồng bảo an từ ngày 28 tháng 6 năm 1991 cũng như đã tìm cách né tránh những lệnh trừng phạt kinh tế của Liên Hiệp Quốc. Trong gần một thập kỷ, Israel bất chấp các nghị quyết kêu gọi tháo dỡ các khu định cư của họ tại Bờ Tây và Dải Gaza. Những thất bại đó xuất phát từ tình trạng phụ thuộc đa chính phủ của Liên Hiệp Quốc – ở nhiều khía cạnh đây là một tổ chức gồm 192 quốc gia thành viên và luôn cần phải có sự nhất trí, chứ không phải là một tổ chức độc lập. Thậm chí khi các hành động được 15 nước thành viên Hội đồng bảo an thông qua, Ban thư ký hiếm khi cung cấp đủ các nguồn tài nguyên cần thiết để thực hiện các sứ mệnh đó.
Những thất bại khác trong vấn đề an ninh gồm:
- Thất bại trong việc ngăn chặn vụ Diệt chủng tại Rwanda năm 1994, dẫn tới cái chết của gần một triệu người, vì các thành viên của hội đồng bảo an từ chối thông qua bất kỳ một hành động quân sự nào.[26]
- Thất bại của MONUC (Nghị quyết 1292 của UNSC) trong việc can thiệp một cách có hiệu quả vào cuộc Chiến tranh Congo lần thứ hai, liên quan tới gần năm triệu người tại Cộng hòa Dân chủ Congo, 1998-2002 (với những trận đánh vẫn đang tiếp diễn), và trong việc tiến hành cung cấp viện trợ nhân đạo.
- Thất bại trong việc can thiệp vào Cuộc thảm sát Srebrenica năm 1995, dù sự thực là Liên hiệp quốc đã coi Srebrenica là một “thiên đường an toàn” cho những người tị nạn và phái 600 lính gìn giữ hòa bình Hà Lan tới bảo vệ nó.
- Thất bại trong việc cung cấp thực phẩm tới những người dân đói khát tại Somalia; thực phẩm thường bị các lãnh chúa địa phương chiếm đoạt. Một nỗ lực của Hoa Kỳ/Liên Hiệp Quốc trong việc bắt giữ các vị lãnh chúa đó đã dẫn tới Trận Mogadishu năm 1993.
- Thất bại trong việc thực hiện 1559 và Nghị quyết 1701 của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc kêu gọi giải giáp các nhóm bán quân sự Liban như Fatah và Hezbollah.
- Lạm dụng tình dục của binh lính gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc. Binh lính gìn giữ hòa bình từ nhiều quốc gia đã bị thải hồi khỏi các chiến dịch gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc vì hành động lạm dụng và bóc lột tình dục các cô gái, thậm chí mới chỉ 8 tuổi, trong một số chiến dịch gìn giữ hòa bình khác nhau. Sự lạm dụng tình dục này vẫn diễn ra dù đã có nhiều sự phát hiện và bằng chứng từ Văn phòng Liên Hiệp Quốc về Dịch vụ Giám sát Nội bộ.[27][28] Một cuộc điều tra nội bộ năm 2005 của Liên Hiệp Quốc cho thấy sự khai thác và lạm dụng tình dục đã được báo cáo tại ít nhất năm quốc gia nơi các binh lính gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc được triển khai, gồm Cộng hòa Dân chủ Congo, Haiti, Burundi, Côte d’Ivoire và Liberia.[29] BBC đã tiến hành một cuộc điều tra tương tự, và cũng chỉ ra một số thành viên Chương trình Lương thực Thế giới cũng có những hành vi lạm dụng.[30]
Chỉ trích và mâu thuẫn
Hội đồng bảo an
- Xem bài chính tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc
Liên Hiệp Quốc đã bị chỉ trích vì không thể hoạt động một cách rõ ràng và kiên quyết khi đối đầu trước một vụ khủng hoảng. Những ví dụ gần đây gồm chương trình hạt nhân của Iran và sự diệt chủng trong cuộc xung đột Darfur, Sudan. Vì mỗi nước trong số năm thành viên thường trực của Hội đồng bảo an đều có quyền phủ quyết, và bởi vì họ thường bất đồng với nhau, đã rất nhiều lần không có bất kỳ một hành động nào được thông qua. Thông thường, nhưng không phải là luôn luôn, sự chia rẽ này xuất hiện giữa Hoa Kỳ ở một phía và Trung Quốc, Nga hay cả hai ở phía kia. Một số lần Hội đồng bảo an đồng thuận với nhau nhưng lại thiếu sự quyết tâm hay phương tiện để thực thi các nghị quyết của họ. Một ví dụ gần đây là Cuộc khủng hoảng Israel-Liban 2006, không hành động nào được thực hiện theo Nghị quyết 1559 và Nghị quyết 1701 để giải giáp các lực lượng du kích phi chính phủ như Hezbollah. Những lời chỉ trích đặt nghi vấn về hiệu năng và sự thích hợp của Hội đồng bảo an bởi vì khi vi phạm vào một nghị quyết do Hội đồng này đưa ra, thường cũng không xảy ra hậu quả nào cả. (Xem Cải cách Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.)
Giám sát nhân quyền
Các quốc gia như Sudan và Libya, với những nhà lãnh đạo rõ ràng có bảng thành tích nhân quyền kém cỏi vẫn(theo quan điểm của Mỹ và một số nước được là thành viên của Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Nhân quyền (HRC) cũ,[31][32] và việc Libya được bầu làm chủ tịch của Ủy ban này, đã từng là một vấn đề bàn cãi. Những nước đó cho rằng, các quốc gia phương tây, mà họ cho là có thái độ thù địch thực dân và tàn bạo, không có quyền đặt vấn đề về tư cách thành viên của họ trong Ủy ban này.
Tuy nhiên vào ngày 15 tháng 3 năm 2006 Đại hội đồng đã thông qua nghị quyết thành lập một cơ chế mới – Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc – để thay thế Ủy ban trên. Cơ quan này có các quy định chặt chẽ hơn về quy chế thành viên gìn giữ hòa bình gồm cả một bản thành tích chung về nhân quyền và tăng số lượng phiếu cần bầu cần thiết để một quốc gia có đủ tư cách tham gia, từ hình mẫu bầu theo danh sách vùng với Hội đồng kinh tế xã hội 53 thành viên chuyển sang tất cả một nửa trong số 192 thành viên của Đại hội đồng.
Ngày 9 tháng 5 năm 2006 47 thành viên mới được bầu vào hội đồng. Trong khi một số nước như Cuba, Pakistan, Nga, Ả Rập Saudi và Azerbaijan được bầu[33][34][35], thì một số nước khác không có mặt trong Hội đồng mới như:
- Các nước không được tham gia: Syria, Bắc Triều Tiên, Belarus và Myanma
- Các quốc gia từng là thành viên của Ủy ban: Zimbabwe, Sudan, Nepal và Libya
- Các quốc gia muốn tham gia nhưng không nhận đủ số phiếu: Iran, Venezuela, Thái Lan, Iraq và Kyrgyzstan
Vì những thay đổi trong cơ chế thành viên giữa Ủy ban và Hội đồng, số lượng quốc gia bị Hội đồng Tự do coi là “Không tự do” chiếm hơn một nửa.
Thiếu hiệu năng do tính quan liêu
Liên Hiệp Quốc đã bị cáo buộc thiếu tính hiệu năng và lãng phí vì cơ cấu cồng kềnh và quan liêu quá mức của nó. Trong thập niên 1990, Hoa Kỳ, nước hiện đóng góp nhiều nhất cho ngân sách tổ chức này, đã coi sự thiếu hiệu quả là một nguyên nhân khiến họ trì hoãn các khoản đóng góp. Việc chi trả những khoản thiếu này chỉ được thực hiện với điều kiện về sáng kiến cho một cuộc cải cách lớn. Năm 1994 Văn phòng Dịch vụ Giám sát Nội bộ (OIOS) được thành lập theo quyết định của Đại hội đồng nhằm đóng vai trò giám sát tính hiệu năng của tổ chức.[36] Một chương trình cải cách đã được đề xuất, nhưng vẫn chưa được Đại hội đồng thông qua.[37][38]
Sự phân biệt đối xử chống Israel
Liên Hiệp Quốc cũng đã bị cáo buộc thực hiện tiếp cận một chiều đối với các vấn đề Trung Đông và cuộc xung đột Israel-Palestine.[39][40][41] Những lời cáo buộc cho rằng Israel đã bị phân biệt đối xử trong tổ chức quốc tế này với cách đối xử chỉ trích một chiều độc nhất từ trước tới nay. Không giống như tất cả các nhóm người tị nạn khác, người Palestine có cơ quan riêng của họ bên trong Liên Hiệp Quốc (Cơ quan Cứu trợ và Việc làm Liên Hiệp Quốc cho người tị nạn Palestine) tách biệt với Văn phòng Cao Ủy Liên Hiệp Quốc về Người tị nạn, vốn chịu trách nhiệm về tất cả các vấn đề người tị nạn trên thế giới.[42]
Cho tới tận năm 2000, Israel không có tư cách thành viên bên trong bất kỳ một nhóm cấp vùng nào của Liên Hiệp Quốc. Trên thực tế, điều này có nghĩa là Israel bị cấm hoạt động trong các cơ quan Liên Hiệp Quốc như Hội đồng Bảo an. Việc cho phép Israel tham gia đầy đủ hơn bên trong Liên Hiệp Quốc với tư cách là một quốc gia thành viên Tây Âu và các nhóm cấp vùng khác gần đây chỉ mang tính tạm thời và bắt buộc phải được gia hạn định kỳ. Israel chỉ được phép tham gia vào các hoạt động tại Thành phố New York của Liên Hiệp Quốc và bị loại trừ khỏi các văn phòng Liên Hiệp Quốc tại Geneva, Nairobi, Roma và Wien là những văn phòng quản lý các vấn đề như nhân quyền và kiểm soát vũ khí. Việc chỉ trích Israel đã trở thành một công việc thường ngày đối với nhiều cơ quan Liên Hiệp Quốc như Hội đồng Nhân quyền.
Bất lực trước vấn đề diệt chủng và nhân quyền
Liên Hiệp Quốc cũng bị cáo buộc đã cố tình làm ngơ trước hoàn cảnh khó khăn của nhiều người trên khắp thế giới, đặc biệt tại nhiều vùng ở Châu Á, Trung Đông và Châu Phi. Những ví dụ hiện tại gồm việc Liên Hiệp Quốc không hành động gì trước chính phủ Sudan tại Darfur,[43] việc thanh lọc sắc tộc của chính phủ Trung Quốc tại Tây Tạng và Israel tại các vùng lãnh thổ Palestine.
Bê bối trong chương trình đổi dầu lấy lương thực
Chương trình đổi dầu lấy lương thực được Liên Hiệp Quốc đưa ra năm 1995. Mục tiêu của nó là cho phép Iraq bán dầu ra thị trường thế giới để đổi lấy lương thực, thuốc men, và các đồ nhu yếu phẩm khác cho người dân Iraq bị ảnh hưởng bởi lệnh cấm vận kinh tế quốc tế, mà không cho phép Chính phủ Iraq tái xây dựng lại lực lượng quân đội của mình sau cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ nhất. Chương trình đã bị ngắt quãng vào cuối năm 2003 trước những lời cáo buộc ngày càng lan rộng về sự lạm dụng và tham những. Cựu giám đốc, Benon Sevan người Síp, là người đầu tiên bị đình chỉ chức vụ và sau đó phải từ chức khỏi Liên Hiệp Quốc, khi một bản báo cáo tạm thời của ban điều tra do Liên Hiệp Quốc hỗ trợ dưới sự lãnh đạo của Paul Volcker kết luận rằng Sevan đã nhận đút lót từ phía chính quyền Iraq và đề xuất việc bãi bỏ quyền bất khả xâm phạm thuộc Liên Hiệp Quốc của ông ta nhằm mở đường cho một cuộc điều tra tội phạm.[44]
Dưới sự bảo hộ của Liên Hiệp Quốc, số lượng dầu mỏ trị giá hơn 65 tỷ đôla của Iraq đã được bán ra thị trường thế giới. Về mặt chính thức, khoảng 46 tỷ đã được chi cho các mục đích nhân đạo. Số còn lại được dành trả cho những khoản bồi thường cho cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh thông qua một Quỹ Chi trả, số tiền quản lý và hoạt động của Liên Hiệp Quốc cho chương trình này chiếm 2,2%, và chương trình thanh sát vũ khí chiếm 0,8%.
Con trai của Kofi Annan là Kojo Annan cũng dính líu tới vụ này, với lời buộc tội đã kiếm được một cách bất hợp pháp nhiều hợp đồng trong chương trình đổi dầu lấy lương thực của Liên Hiệp Quốc cho công ty Cotecna Thụy Sĩ. Ngoại trưởng Ấn Độ, Natwar Singh, đã phải từ chức vì vai trò của ông trong vụ này.[cần dẫn nguồn]
Chính phủ Úc đã lập ra Cole Inquiry vào tháng 11 năm 2005 nhằm điều tra xem liệu Ủy ban Bột mì Úc (Australian Wheat Board – AWB) có vi phạm điều luật nào khi thực hiện những hợp đồng của họ với Iraq trong Chương trình đổi dầu lấy lương thực. AWB đã trả chính quyền của Saddam Hussein khoảng 300 triệu đôla, thông qua một công ty bình phong là Alia, để có được những hợp đồng cung cấp bột mì cho Iraq. Thủ tướng Úc (John Howard), Phó thủ tướng (Mark Vaile) và Bộ trưởng ngoại giao (Alexander Downer) bác bỏ việc họ có biết về việc đó khi bị gọi ra điều trần trước ủy ban. Đã có thông tin cho rằng dù chính phủ Úc không điều hành AWB một cách đủ hiệu quả để ngăn chặn sự việc đó, Liên Hiệp Quốc đúng ra phải tích cực hơn trong việc yêu cầu chính phủ nước này tiến hành điều tra. Cole Inquiry dự định sẽ báo cáo vào ngày 24 tháng 11 năm 2006.[45]
Những cáo buộc về lính gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc
Tháng 12 năm 2004, trong chiến dịch gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc tại Congo, ít nhất 68 vụ bị cho là cưỡng hiếp, mại dâm và hơn 150 cáo buộc khác đã bị các nhà điều tra Liên Hiệp Quốc phát giác, tất cả đều có liên quan tới binh lính gìn giữ hòa bình, đặc biệt là các binh lính từ Pakistan, Uruguay, Maroc, Tunisia, Nam Phi và Nepal. Những binh lính gìn giữ hòa bình từ 3 trong số các quốc gia này cũng bị cáo buộc cố tình cản trở quá trình điều tra.[46] Tương tự, một chuyên gia hậu cần Liên Hiệp Quốc người Pháp tại Congo cũng bị cáo buộc hãm hiếp và khiêu dâm trẻ em trong cùng tháng.[47]
BBC đã thông báo rằng các cô gái trẻ đã bị binh lính gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc lạm dụng và hãm hiếp tại Port-au-Prince.[48] Những lời cáo buộc tương tự cũng đã được nêu ra tại Liberia [29] và Sudan.[49]
Chính sách nhân sự
Liên Hiệp Quốc và các cơ quan của mình được hưởng quy chế miễn trừ đối với pháp luật tại các quốc gia nơi họ hoạt động, gìn giữ không thiên vị với sự tôn trọng nước chủ nhà, và quốc gia thành viên.[cần dẫn nguồn] Việc thuê mướn và sa thải, giờ làm việc và môi trường làm việc, thời gian nghỉ, hưu trí, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tuổi thọ, lương bổng, tiền trợ cấp xa gia đình và các điều kiện sử dụng lao động chung thực hiện theo các quy định của Liên Hiệp Quốc. Sự độc lập này cơ phép các cơ quan thực hiện các chính sách nguồn nhân lực thậm chí trái ngược với luật lệ của nước chủ nhà hay quốc gia thành viên. Ví dụ, một người không đủ tư cách làm việc tại Thụy Sĩ, nơi Tổ chức Lao động Thế giới (ILO) đóng trụ sở, không thể được làm việc cho ILO trừ khi anh/cô ta là người của quốc gia thành viên ILO.
Người hút thuốc
Tổ chức Y tế Thế giới, một cơ quan của Liên Hiệp Quốc, đã cấm tuyển những người hút thuốc từ ngày 1 tháng 12 năm 2005, nhằm khuyến khích một môi trường làm việc không thuốc lá.[50] Cũng có một lệnh cấm hút thuốc bên trong trụ sở Liên Hiệp Quốc, nhưng một số quốc gia thành viên cho phép hút thuốc bên trong đại sứ quán của mình tại Liên Hiệp Quốc. Hơn nữa, những người sử dụng ma tuý không được phép làm việc cho Liên Hiệp Quốc.
Hôn nhân đồng giới
Dù có sự độc lập trong những vấn đề chính sách nguồn nhân lực, các cơ quan Liên Hiệp Quốc tự nguyện áp dụng các điều luật của các quốc gia thành viên về vấn đề hôn nhân đồng giới, cho phép các quyết định về tình trạng sử dụng nhân công có hôn nhân đồng giới được đưa ra dựa theo từng quốc gia. Họ công nhân các cuộc hôn nhân đồng giới chỉ khi người đó là công dân của các quốc gia công nhận sự hôn nhân đó. Một số cơ quan cung cấp khoản trợ cấp hạn chế cho những vợ/chồng người địa phương của nhân viên của mình.
Liên Hiệp Quốc trong văn hóa đại chúng
Một hoạt động giáo dục được gọi là Mô hình Liên Hiệp Quốc đã trở nên quen thuộc trong các trường học trên khắp thế giới. Mô hình Liên Hiệp Quốc có các sinh viên đóng vai (thông thường) một cơ cấu trong Hệ thống Liên Hiệp Quốc để giúp họ phát triển khả năng trong tranh luận và trong ngoại giao. Những cuộc hội thảo được cả các trường đại học và cao đẳng tổ chức. Các ủy ban thường được đưa ra làm mô hình gồm các Ủy ban Đại hội đồng, các ủy ban ECOFIN, Hội đồng bảo an và một số lớn các ủy ban chuyên trách như một Hội đồng Lịch sử An Ninh hay Nhóm Quản lý Cấp cao. Các sinh viên tranh luận về các chủ đề Liên Hiệp Quốc đang tham gia tháo gỡ và tìm cách thể hiện quan điểm của quốc gia mình nhằm tiến tới một giải pháp chung.
Nhận thức Liên Hiệp Quốc với tư cách một tổ chức lớn, bao hàm chính phủ các nước trên thế giới khiến nhiều ý tưởng về chính phủ thế giới và dân chủ toàn cầu ngày càng xuất hiện nhiều. Liên Hiệp Quốc cũng là mục tiêu của các học thuyết âm mưu.[51]
Xem thêm
- Đảng Độc lập Puerto Rico
- Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới 2005 về Các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ và Cải cách Liên Hiệp Quốc
- Dân chủ Toàn cầu
- Ủy ban Điều tra Độc lập: đã điều tra sự tham nhũng và sai lầm của Chương trình Đổi dầu lấy lương thực của Liên Hiệp Quốc.
- Quan hệ quốc tế
- Mô hình Liên Hiệp Quốc
- Chương trình Đổi dầu lấy lương thực
- Hiệp hội Liên Hiệp Quốc
- Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc
- Trường Quốc tế Liên Hiệp Quốc
- Đại hòa Hòa bình của Liên Hiệp Quốc
- Danh sách các Đại diện thường trực tại Liên Hiệp Quốc
- Các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc
- Cơ quan quản lý thư tín Liên Hiệp Quốc
- Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc
- Hệ thống Liên Hiệp Quốc
- Đại học Liên Hiệp Quốc
- UNIS-UN
- Những tổ chức hướng đạo sinh Liên Hiệp Quốc
- Màu xanh da trời Liên Hiệp Quốc, màu cờ Liên Hiệp Quốc
Tham khảo
- ^ “Security Notice”. United Nations. 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 11 năm 2001.
- ^ See United Nations headquarters#Renovation plans
- ^ The Story of United Nations Headquarters http://www.un.org, United Nations. Truy cập 20 tháng 9, 2006.
- ^ “Assessment of Member States’ contributions to the United Nations regular budget for 2013” (PDF). UN Secretariat. Ngày 11 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2013.
- ^ “United Nations Fact Sheet”. USDOS Fact Sheets. U.S. Department of State. 7 tháng 9 năm 2001.
- ^ “What are the official languages of the United Nations?” (bằng tiếng Anh). United Nations. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2003. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2006.
- ^ “Plea to UN: ‘More Spanish please’” (bằng tiếng Anh). BBC News. 21 tháng 6 năm 2001. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2006.
- ^ “Next U.N. secretary-general flunks first French test with U.N. press corps” (bằng tiếng Anh). International Herald Tribune. 14 tháng 12 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 1 năm 2007. Truy cập 2007-15-12.
- ^ “Press Conference by Secretary-General-designate” (bằng tiếng Anh). UN. 14 tháng 12 năm 2006. Truy cập 2007-15-12.
- ^ “Is Ban Ki-moon a franco-phoney?” (bằng tiếng Anh). CBC. 14 tháng 12 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 1 năm 2007. Truy cập 2007-15-12.
- ^ “UN Charter”. Un.org. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Human Rights”. Un.org. 10 tháng 12 năm 1948. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2010.
- ^ “UN creates new human rights body”. BBC. Ngày 15 tháng 3 năm 2006.
- ^ [1][liên kết hỏng]
- ^ “Rape as a War Crime”. Converge.org.nz. 29 tháng 10 năm 1999. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Africa | DR Congo rebel faces Hague trial”. BBC News. 17 tháng 3 năm 2006. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ [2][liên kết hỏng]
- ^ [3][liên kết hỏng]
- ^ “General Assembly of the United Nations”. Un.org. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ [4][liên kết hỏng]
- ^ “2005 World summit outcome”. UN. 09-2005. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 9 năm 2005. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Human Security Report and Briefs”. Humansecurityreport.info. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “p. 9”. Humansecurityreport.info. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2010.
- ^ “GAO-06-331 Peacekeeping: Cost Comparison of Actual UN and Hypothetical U.S. Operations in Haiti” (PDF). Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “The UN’s Role in Nation-Building: From the Congo to Iraq” (PDF). Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ [5][liên kết hỏng]
- ^ “U.N. ‘peacekeepers’ rape women, children”. Worldnetdaily.com. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Africa | UN soldiers arrested in DR Congo”. BBC News. 13 tháng 2 năm 2005. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ a ă The New York Times – Breaking News, World News & Multimedia
- ^ “Africa | Liberia sex-for-aid ‘widespread’”. BBC News. 8 tháng 5 năm 2006. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Africa | Human Rights Watch”. Hrw.org. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Africa | Human Rights Watch”. Hrw.org. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Successful UN Human Rights Council Elections Demonstrate UN Members are Taking Reform Effort Seriously.” Open Society Policy Center. 9 tháng 5 năm 2006
- ^ “International Institutions: UN Reform.” Citizens for Global Solutions. 10 tháng 5 năm 2006. 1 Aug. 2006.
- ^ “Annex a: Election Result Tables.” Open Society Policy Center. 9 tháng 5 năm 2006. 1 Aug. 2006.
- ^ Reddy, Shravanti (29 tháng 10 năm 2002). “Watchdog Organization Struggles to Decrease UN Bureaucracy” (bằng tiếng Anh). Global Policy Forum. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2006.
- ^ Annan, Kofi (2005). “In Larger Freedom” (bằng tiếng Anh). United Nations. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2006.
- ^ F. Stockman, J. Lauria (11 tháng 9 năm 2005). “UN faces major hurdles on reform measures” (bằng tiếng Anh). The Boston Globe. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2006.
- ^ [6][liên kết hỏng]
- ^ “The UN and the Jews”. Cdn-friends-icej.ca. 26 tháng 2 năm 2004. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Israel and the United Nations – Introduction”. Adl.org. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “UNRWA”. Un.org. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2000. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “CNN.com – U.N. report: Darfur not genocide – 31 tháng 1, 2005”. Edition.cnn.com. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Middle East | Oil-for-food chief ‘took bribes’”. BBC News. 8 tháng 8 năm 2005. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Australian Government Attorney-General’s Department – UN Oil For Food Inquiry – Home”. Ag.gov.au. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ Post Store (16 tháng 12 năm 2004). “U.N. Sexual Abuse Alleged in Congo”. washingtonpost.com. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ [7][liên kết hỏng]
- ^ “Americas | UN troops face child abuse claims”. BBC News. 30 tháng 11 năm 2006. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ Holt, Kate (2 tháng 1 năm 2007). “UN staff accused of raping children in Sudan”. Telegraph. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ World Health Organization (2006). “What are we looking for?”. WHO Employment Site (bằng tiếng Anh). Đã bỏ qua tham số không rõ
|accessyear=
(trợ giúp); Đã bỏ qua tham số không rõ|accessmonthday=
(trợ giúp) - ^ Gotcher, Dean. U. N. Watch: UNDERSTANDING HOW THE HEGELIAN DIALECTIC IS TRANSFORMING THE WORLD TO BRING IN THE NEW WORLD ORDER. Newsletter bởi Joan Veon. The Women’s International Media Group. Đã bỏ qua tham số không rõ
|subjectlink=
(trợ giúp)
Đọc thêm
- “Think Again: The United Nations”, Madeleine K. Albright, Foreign Policy, September/October, 2004
- Hans Köchler, Quo Vadis, United Nations?, in: Law Review, Polytechnic University of the Philippines, College of Law, tháng 5 năm 2005 Online version
- An Insider’s Guide to the UN, Linda Fasulo, Yale University Press (November 1, 2003), hardcover, 272 pages, ISBN 0-300-10155-4
- United Nations: The First Fifty Years, Stanley Mesler, Atlantic Monthly Press (March 1, 1997), hardcover, 416 pages, ISBN 0-87113-656-2
- United Nations, Divided World: The UN’s Roles in International Relations edited by Adam Roberts and Benedict Kingsbury, Oxford University Press; 2nd edition (January 1 1994), hardcover, 589 pages, ISBN 0-19-827926-4
- A Guide to Delegate Preparation: A Model United Nations Handbook, edited by Scott A. Leslie, The United Nations Association of the United States of America, 2004 edition (tháng 10 năm 2004), softcover, 296 pages, ISBN 1-880632-71-3
- “U.S. At War – International.” Time Magazine XLV.19 May 7, 1945: 25-28.
Liên kết ngoài
Tìm thêm về United Nations tại những đồng dự án của Wikipedia: | |
![]() |
Từ điển ở Wiktionary |
![]() |
Sách ở Wikibooks |
![]() |
Cẩm nang du lịch ở Wikivoyage |
![]() |
Hồ sơ ở Wikiquote |
![]() |
Văn kiện ở Wikisource |
![]() |
Hình ảnh và phương tiện ở Commons |
![]() |
Tin tức ở Wikinews |
![]() |
Tài liệu giáo dục ở Wikiversity |
- Trang chủ của Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam
- Liên hợp quốc tại Từ điển bách khoa Việt Nam
- Tuyên ngôn nhân quyền thế giới
- Thông tin cơ bản về Liên Hiệp Quốc tại trang web Bộ Ngoại giao Việt Nam
- United Nations – Official site
- Member States of the United Nations
- United Nations (UN) tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
- Problems of The United Nations
- United Nations eLearning Unit created by ISRG – University of Innsbruck
- Permanent Missions To The United Nations
- Task Force on United Nations – U.S. Institute of Peace
- History of the United Nations – UK Government site
- Website of the Committee for a Democratic UN (German and English versions)
- Website of the Global Policy Forum, an independent think-tank on the UN
- UN Reports by Inner City Press, accredited media at UN
- Documents and Resources on U.N., War, War Crimes and Genocide
- Economist.com background
- United Nations Paper Money, 1946-56
- Criticisms of the Secretary-General
- – A conceptual response at the United Nations to the Srebrenica massacre in tháng 7 năm 1995
- A list of the outcomes of the 2005 World Summit
- Hans Köchler, The United Nations and International Democracy. The Quest for UN Reform (1997)
- International Progress Organization: Web Site on United Nations reform
- ReformtheUN.org – Tracking Developments on UN Reform
- United Nations: Change at the Helm – Change for the Whole Ship? – Independent news reports by the news agency Inter Press Service
Bản đồ
|
- Liên Hiệp Quốc
- Tổ chức đoạt giải Nobel Hòa bình
- Tổ chức quốc tế
- Tổ chức được thành lập năm 1945
- Tổ chức liên chính phủ thành lập theo hiệp ước
Bài viết mới
- Thạch Lam hạt ngọc đời nay
- Helen Keller người mù điếc huyền thoại
- Chào ngày mới 27 tháng 6
- Chào ngày mới 26 tháng 6
- Chào ngày mới 25 tháng 6
- GS Trần Văn Khê người Thầy nhạc Việt
- Nguyễn Hiến Lê học và viết
- Lộc xuân cuộc đời
- Quà tặng cuộc sống
- Chào ngày mới 24 tháng 6
- Ngày mới yêu thương
- Chào ngày mới 23 tháng 6
- Lộc xuân cuộc đời
- Chào ngày mới 22 tháng 6
- Chào ngày mới 21 tháng 6
- Biển Đông vạn dặm
- Con là nguồn hạnh phúc đầu tiên
- Chào ngày mới 20 tháng 6
- Từ Mao Trạch Đông đến Tập Cận Bình
- Ngày mới Mạnh Hạo Nhiên
- Chào ngày mới 19 tháng 6
- Hoa của Đất
- Tiếng Anh cho em
- Yêu sách 8 điểm của Nguyễn Ái Quốc
- Chào ngày mới 18 tháng 6
- Chào ngày mới 17 tháng 6
- Biển Đông vạn dặm
- Chào ngày mới 16 tháng 6