CNM365. Chào ngày mới 28 tháng 5. Wikipedia Ngày này năm xưa. Năm 1905 – Chiến tranh Nga-Nhật: Hạm đội của Nga thất bại nặng nề trước Hạm đội của Nhật Bản trong Hải chiến Tsushima. Hải quân Nhật Bản với chiến thắng vẻ vang này, được xem là đã làm nên một trong những thắng lợi hủy diệt lớn nhất trên biển trong suốt bề dày lịch sử nhân loại, buộc Nga phải ký Hiệp định Portsmouth, nhượng lại cho Nhật Bản các quyền lợi ở châu Á
và khẳng định vai trò bá chủ của Nhật Bản ở Đông Á. Năm 1900 – ngày sinh Cao Xuân Huy, (hình) giáo sư chuyên về lịch sử tư tưởng triết học Phương Đông, người Nghệ An. Năm 1840 – ngày mất Nhà bác học Việt Nam Phan Huy Chú.
28 tháng 5
Ngày 28 tháng 5 là ngày thứ 148 (149 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 217 ngày trong năm.
« Tháng 5 năm 2015 » | ||||||
CN | T2 | T3 | T4 | T5 | T6 | T7 |
1 | 2 | |||||
3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 |
10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 |
17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 |
24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 |
31 | ||||||
Mục lục
Sự kiện
- 585 TCN – Hiện tượng nhật thực xảy ra như dự đoán của nhà triết học và khoa học Hy Lạp Thales.
- 1351 – Lưu Phúc Thông phát động khởi nghĩa, đánh chiếm Dĩnh châu, khởi đầu khởi nghĩa Khăn Đỏ chống triều Nguyên.
- 1858 – Đế quốc Nga và triều Thanh ký kết điều ước Ái Hồn, theo đó vùng đất phía bắc sông Amur trở thành lãnh thổ của Nga.
- 1871 – Công xã Paris hoàn toàn thất thủ trước quân Versailles.
- 1905 – Chiến tranh Nga-Nhật: Hạm đội của Nga thất bại nặng nề trước Hạm đội của Nhật Bản trong Hải chiến Tsushima, hải chiến mang tính hủy diệt duy nhất trong lịch sử được tiến hành bằng hạm đội thiết giáp hạm hiện đại.
- 1937 – Hãng sản xuất ô tô Volkswagen (VW) của Đức được thành lập.
- 1964 – Liên đoàn Ả Rập thành lập Tổ chức Giải phóng Palestine với mục tiêu tiêu diệt Nhà nước Israel thông qua đấu tranh.
- 1989 – AIDC F-CK-1 Ching-kuo, loại máy bay tiêm kích do Trung Hoa Dân Quốc thiết kế và phát triển với trợ giúp từ Hoa Kỳ, có chuyến bay thử nghiệm thành công đầu tiên.
- 1999 – Sau 21 năm phục chế, bức hoạ kiệt tác Bữa ăn tối cuối cùng của Leonardo da Vinci tiếp tục được đưa ra trưng bày tại Milano, Ý.
Sinh
- 1827 – Nguyễn Thông, danh sĩ, đại thần Việt Nam (m. 1884)
- 1900 – Cao Xuân Huy, giáo sư chuyên về lịch sử tư tưởng triết học Phương Đông, người Nghệ An.
Mất
- 1840 – Nhà bác học Việt Nam Phan Huy Chú.
- 1849 – Nữ tiểu thuyết gia người Anh Anne Brontë (s. 1820)
- 2007 – Đại tướng Công an Nhân dân Việt Nam Mai Chí Thọ.
Những ngày lễ và kỷ niệm
Tháng 1 | Tháng 2 | Tháng 3 | Tháng 4 | Tháng 5 | Tháng 6 | Tháng 7 | Tháng 8 | Tháng 9 | Tháng 10 | Tháng 11 | Tháng 12 |
Tham khảo
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về 28 tháng 5 |
Hải chiến Tsushima
|
|
Hải chiến Tsushima (chữ Hán: 對馬海戰, tên Hán-Việt là Đối Mã hải chiến, tiếng Nga: Цусимское сражение) là một trận hải chiến giữa hạm đội của Đế quốc Nga và hạm đội của Đế quốc Nhật Bản diễn ra tại eo biển Tsushima trong Chiến tranh Nga-Nhật ngày 27-28 tháng 5 năm 1905. Với chiến thắng vẻ vang này, Hải quân Nhật Bản được xem là đã làm nên một trong những thắng lợi hủy diệt trên biển lớn nhất trong suốt bề dày lịch sử nhân loại.[1] Đây cũng là trận hải chiến mang tính quyết định duy nhất bằng hạm đội tàu thép hiện đại trong lịch sử hải quân, cũng như là trận hải chiến đầu tiên mà điện báo không dây (radio) đóng vai trò quan trọng then chốt.
Trong trận hải chiến, Hạm đội Nhật Bản dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Tōgō Heihachirō tiêu diệt hai phần ba hạm đội Nga dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Zinovy Rozhestvensky. Theo sách Theodore Rex (ISBN 0-394-55509-0), sử gia Edmund Morris gọi nó là trận hải chiến lớn nhất kể từ sau trận Trafalgar. Nó là trận hải chiến lớn nhất thời kỳ chiến hạm tiền-dreadnought.
Trận chiến kết thúc với thắng lợi to lớn của hạm đội Nhật, buộc Nga phải ký Hiệp định Portsmouth, nhượng lại cho Nhật Bản các quyền lợi ở châu Á và khẳng định vai trò bá chủ của Nhật Bản ở Đông Á.
Được xem là một thắng lợi quyết định và toàn diện nhất trong quân sử trên biển[1], hải chiến Tsushima là trận hải chiến đầu tiên trong lịch sử khi các thiết giáp hạm đóng vai trò quyết định kết cục trận đánh. Hơn thế nữa, phải kể đến hạm đội Nga của Đô đốc Rozhestvensky khi buộc phải thực hiện một cuộc hải trình kéo dài lên đến 18.000 hải lý (chừng 33.000 km) để đến được đích là vùng Viễn Đông vì Anh, đồng minh của Nhật không cho quân Nga đi qua kênh đào Suez.
Trước khi chiến tranh Nga-Nhật nổ ra, các cường quốc đã cho đóng tàu chiến với đủ loại pháo với các cỡ nòng khác nhau, chủ yếu là 150mm (6-inch), 203mm (8-inch), 254mm (10-inch) và 305mm (12-inch), với dự kiến là các chiến hạm này sẽ đánh giáp lá cà trong đội hình khép kín để quyết định chiến trường. Kinh nghiệm chiến trường cho thấy các cỗ trọng pháo với tầm bắn xa có lợi thế hơn, được ưa chuộng trong các trận hải chiến hơn là các khẩu đội pháo gồm nhiều cỡ nòng hỗn hợp. Ngay từ năm 1904, Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã cho đóng tàu Satsuma (hạ thủy ngay trước trận hải chiến Tsushima, ngày 15 tháng 5 năm 1905), chiếc tàu chiến đầu tiên được trang bị hoàn toàn bằng trọng pháo. Hải quân Hoàng gia của Đế quốc Anh nhanh chóng bắt nhịp, khởi công đóng tàu chiến HMS Dreadnought tháng 10 năm 1905, và trở thành tàu chiến đầu tiên được trang bị hoàn toàn bằng đại pháo 305mm. Tàu HMS Dreadnought được hạ thủy vào năm 1906, đánh dấu mốc thời kỳ tiền-dreadnought trước 1906 và dreadnought từ 1906 trở đi.
Mục lục
Hoàn cảnh
Vào năm 1894-1895, chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất kết thúc với thắng lợi của Nhật Bản, buộc triều đình Mãn Thanh phải chấp thuận nhượng lại Mãn Châu và bán đảo Triều Tiên. Điều này gây hại cho chính sách xâm lược của Nga ở Mãn Châu, do đó Nga đã liên kết với Pháp và Đức để ép Nhật nhượng lại các quyền lợi này cho Nga. Điều này đã gây ra sự căm oán của người Nhật và nước Nhật sau đó đã bắt đầu 1 chương trình phát triển hải quân để chuẩn bị cho 1 cuộc chiến mới với Nga.
Năm 1902, Liên minh Hải quân Anh-Nhật được ký kết, Anh cam đoan nếu Nhật phải chiến đấu với 2 kẻ thù trở lên thì Anh quốc sẽ dùng các lực lượng của mình để giúp Nhật. Do đó khi chiến tranh nổ ra thì cả Pháp lẫn Đức đều không dám giúp Nga.
Sau hòa ước Bắc Kinh, Nga chiếm trọn Mãn Châu. Nhật yêu cầu Nga rút binh về, trả Mãn Châu cho nhà Thanh. Nga chống lại, chỉ đồng ý cho Nhật buôn bán ở Nam bộ Triều Tiên, còn Bắc bộ Triều Tiên và Mãn Châu, Phụng Thiên đều thuộc về Nga. Nhật tấn công ngay.
Chiến tranh ở vùng Viễn Đông
Ngày 8 tháng 2 năm 1904, các khu trục hạm của Hải quân Nhật bất ngờ tấn công Hạm đội Viễn Đông của Nga bỏ neo tại cảng Lữ Thuận, ba tàu chiến trong đó có hai chiến hạm và một tuần dương hạm bị hư hại trong trận đánh. Trong khi cuộc tiến công của Nhật làm cho cả nước Nga sững sờ thì các nước Anh-Mỹ đều tỏ ý khen ngợi sự táo bạo của ngưới Nhật. Chiến tranh Nga-Nhật bùng nổ. Mục tiêu đầu tiên của Nhật Bản là kiểm soát đường liên lạc và tiếp vận nối liền Nhật Bản với lục địa Á châu, để Nhật Bản có thể tiếp tục cuộc chiến tranh ở Mãn Châu. Để đạt được điều này, Nhật cần phải vô hiệu hóa sức mạnh hải quân Nga ở Viễn Đông. Ban đầu, hải quân Nga án binh bất động và không giao chiến với quân Nhật, quân Nhật có thể đổ bộ dễ dàng lên Triều Tiên mà không gặp phải bất kỳ sự chống cự nào. Sau những thất bại thảm hại trên bộ lẫn trên biển, Đô đốc Nga Stepan Osipovich Makarov được cử tới Viễn Đông đã thổi vào hạm đội Nga sức sống mới và họ đã có thể giành được một số thắng lợi nhỏ trước người Nhật. Tuy nhiên, trong 1 trận hải chiến, kỳ hạm của Đô đốc Makarov là chiến hạm Petropavlovsk trúng thủy lôi Nhật, đô đốc bị tử trận, người kế nhiệm đô đốc không dám thách thức Hạm đội Nhật Bản. Kết quả là hạm đội Nga bị giam chân ở cảng Lữ Thuận.
Tới tháng 5, quân Nhật đổ bộ lên bán đảo Liêu Đông và tới tháng 8 bắt đầu vây hãm hoàn toàn hạm đội Nga. Tháng 8, bộ chỉ huy Nga quyết định cho Đệ nhất Hải đội Thái Bình Dương xuất kích và liên hợp với Hải đội Vladivostok để đối phó với quân Nhật. Tuy nhiên, cả hai Hải đội của Hạm đội Thái Bình Dương này đều bị đánh tan trong các trận hải chiến tại biển Hoàng Hải và Uslan vào ngày 10 và 14 tháng 8 năm 1904. Những tàu chiến còn sống sót của hạm đội Nga, cuối cùng đều bị nhận chìm ở cảng Lữ Thuận.
Diễn biến
Mở màn
Hải quân Nga định lẩn trốn về Vladivostok, nên khi họ tiến về lãnh hải Nhật Bản, họ chuyển hướng khỏi các hải trình quen thuộc để tránh bị phát hiện. Tới đêm ngày 26 rạng ngày 27, Hạm đội Nga đã tiến đến eo biển Tsushima.
Đêm đó trời tối đen, nhiều sương, một làn sương mù bao trùm lên toàn eo biển, nên quân Nga có ưu thế ban đầu. Tuy nhiên đến 2:45 sáng, tàu tuần dương Shinano Maru của hải quân Nhật phát hiện ra ba ánh đèn của một tàu ở đằng xa chân trời, nên tiến lại gần để dò xét. Đó là các đèn hoa tiêu trên boong tàu cứu hộ Orel. Tới 4:30am, tàu Shinano Maru tiến lại gần con tàu kia, và nhận thấy con tàu này không mang hải pháo và có vẻ là một tàu phụ trợ. Tàu Orel nhầm chiếc Shinano Maru với một tàu khác của Nga nên không đánh động cho hạm đội, thay vào đó, nó đánh tín hiệu báo cho tàu Nhật biết là các tàu của Nga đang ở gần đó. Chiếc Shinano Maru sau đó phát hiện ra bóng dáng của mười chiếc tàu khác trong sương mù. Hạm đội Nga như vậy là đã bị phát hiện, và cơ hội để lẻn đến Vladivostok mà không bị phát giác đã mất.
Tới 4:55 sáng, Thuyền trưởng Narukawa của chiếc Shinano Maru đánh radio cho Đô đốc Togo ở Masampo rằng “Địch quân đang ở ô số 203”. Tới 5 giờ, do bắt được tín hiệu radio mà phía Nga biết được họ đã bị phát hiện, và các tàu tuần dương trinh sát của Nhật đang tiến đến gần. Lúc 5:05 sáng, Đô đốc Togo nhận được tín hiệu và ngay lập tức chuẩn bị cho hạm đội của mình xuất kích.
Giao tranh bắt đầu
6:34 phút sáng, trước khi xuất phát với Hạm đội Liên hợp, Đô đốc Togo đánh điện về cho bộ trưởng hải quân ở Tokyo:
“ | Tôi vừa nhận được tin là đã phát hiện ra hạm đội địch. Hạm đội của chúng ta sẽ thẳng tiến ra biển để tấn công và tiêu diệt đối phương. | ” |
—Togo[2] |
Cùng thời gian, toàn bộ hạm đội Nhật Bản triển khai trên biển, Đô đốc Togo từ kỳ hạm Mikasa chỉ huy trên bốn mươi tàu để nghênh chiến với quân Nga. Trong khi đó, các tàu tuần tiễu của Nhật vẫn bí mật theo dõi và liên tục cứ vài phút lại báo về đội hình và hướng di chuyển của hạm đội Nga. Trời đang có sương mù làm tầm nhìn bị sút giảm, và thời tiết rất xấu. Tới 1:40 chiều, cả hai hạm đội phát hiện đối phương và chuẩn bị tác chiến. Tới 1:55 phút, Đô đốc Togo hạ lệnh trương lá hiệu kỳ Z (Z-flag):
“ | Vận mệnh Đế quốc phụ thuộc vào kết cục trận đánh này, mỗi binh sĩ hãy tận lực thực hiện nhiệm vụ. | ” |
—Togo[3] |
Khi nói câu này, ông đã vô tình lặp lại câu nói nổi tiếng của Đô đốc Nelson trước trận hải chiến Trafalgar năm 1805.
Trận đánh ban ngày
Hạm đội Nga di chuyển từ hướng nam-tây nam về hướng bắc-đông bắc, hạm đội Nhật từ hướng tây về hướng đông bắc. Đô đốc Togo hạ lệnh cho hạm đội của mình lần lượt nối nhau quay ngoặt lại, sao cho các tàu chiến của ông có cùng hướng di chuyển với các tàu Nga, mặc dù làm như vậy có thể gây nguy hiểm cho chiếc tàu đang đổi hướng. Việc chuyển hướng hạm đội 180 độ hình chữ U cuối cùng cũng được thực hiện thành công. Hai đội tàu đối diện nhau tạo thành hai đường thẳng, được giữ ở khoảng cách 6200 mét và nã đạn pháo vào nhau.
Các trận hải chiến thường bắt đầu ở khoảng cách gần, nên Đô đốc Togo đã có thể ngay tức khắc chiếm lợi thế bằng cách gây bất ngờ. Tàu chiến Nhật có thể đạt đến tốc độ 16 hải lý, nhưng hạm đội Nga chỉ có thể di chuyển với tốc độ 8 hải lý, một phần vì vướng các tàu vận tải đi theo. Đô đốc Togo lợi dụng ưu thế vận tốc này, cộng với năng lực tuyệt vời của binh sỹ dưới quyền, có được do khổ công huấn luyện, cắt ngang hạm đội Nga theo “hình chữ T” hai lần để giáng nhiều tổn thất lên hạm đội Nga.
Tốc độ bắn của hải quân Nhật hết sức xuất sắc, lên đến hơn 2.000 phát trọng pháo trong một phút. Hơn thế nữa, quân Nhật dùng một loại thuốc đạn mới, bắn vào phần thân trên các chiến hạm Nga gây ra nhiều đám cháy trên các tàu bị bắn trúng. Sự chính xác của pháo thủ Nhật khiến cho quân Nga phải kinh ngạc.
Đô đốc Rozhestvensky bị loại khỏi vòng chiến do bị một mảnh pháo bắn vào xương sọ. Hạm đội Nga mất các chiến hạm Knyaz Suvorov, Oslyabya, Imperator Aleksander III and Borodino ngay trong ngày 27 tháng 5. Phía Nhật chỉ bị một số hư hại nhẹ, chủ yếu là ở tàu Mikasa. Tới tối, Chuẩn đô đốc Nebogatov nắm quyền chỉ huy hạm đội Nga.
Trận đánh đêm
Khoảng 8 giờ tối, 37 tàu phóng lôi của Nhật và 21 khu trục hạm được tung vào trận. Các tàu khu trục đánh vào các tàu tiền phương, trong khi các tàu phóng lôi đánh vào mạn đông và nam của Hạm đội Nga. Các tàu Nhật tấn công mãnh liệt trong suốt 3 giờ không ngưng nghỉ, kết quả là trong đêm tối đã có những lần các tàu phóng lôi cỡ nhỏ của Nhật và chiến hạm Nga đâm vào nhau. Các tàu của Nga bị phân tán thành nhiều nhóm nhỏ, tìm cách đào thoát về hướng bắc. Tới 11 giờ đêm, hạm đội Nga dường như biến mất, nhưng họ để lộ vị trí của mình cho quân Nhật khi họ bật đèn pha lên, điều nghịch lý là các đèn pha này được bật lên để tìm kiếm tàu địch. Chiếc tàu chiến già nua Navarin đâm phải thủ lôi và phải dừng lại hoàn toàn, kết quả là nó bị 4 thủy lôi nữa bắn trúng và chìm. Trong thủy thủ đoàn gồm 622 người, chỉ có 3 người sống sót, được quân Nhật vớt lên.
Chiến hạm Sisoy Veliki bị hư hại nặng do trúng thủy lôi vào mạn tàu và phải đánh chìm vào ngày hôm sau. Hai tàu bọc thép cũ, tàu Đô đốc Nakhimov và Vladimir Monomakh cũng bị hư hại nặng: chiếc thứ nhất bị thủy lôi đánh trúng vào mũi tàu, chiếc thứ hai đâm vào một tàu khu trục Nhật. Cả hai chiếc đều phải đánh chìm bởi thủy thủ đoàn vào sáng ngày hôm sau, chiếc tàu Đô đốc Nakhimoff ngoài khơi đảo Tsushima khi nước tràn vào tàu. Cuộc tấn công ban đêm làm hải quân Nga rất căng thẳng, vì họ đã mất hai tàu chiến và hai tuần dương hạm bọc thép, trong khi hải quân Nhật chỉ mất ba tàu phóng lôi.
Đầu hàng
Trong đêm giao tranh xảy ra, Đô đốc Togo đã có thể cho bộ phận chính yếu của hạm đội mình, gồm các tàu bọc thép nghỉ ngơi. Tới 9:30 sáng, các tàu Nga đang tìm cách chạy về hướng bắc bị phát hiện. Tới 10:34, nhận thấy tình hình đã trở nên tuyệt vọng, Đô đốc Negobatov hạ lệnh cho hạm đội đầu hàng bằng cách trương lên lá cờ mang ký hiệu XGE, có nghĩa quốc tế là đầu hàng. Cho tới tận 10:53 quân Nhật mới chấp nhận đầu hàng. Tới đêm ngày 28 tháng 5, các tàu đơn lẻ của Nga còn tiếp tục bị tàu Nhật truy đuổi cho tới khi chúng bị đánh chìm hoặc bị bắt.
Kết quả
Theo tác giả Julian S. Corbett, với đại thắng này, Hải quân Nhật Bản đã làm nên một “thắng lợi quyết định và toàn diện nhất của thủy quân trong lịch sử“.[1]
Tổn thất phía Nga
Phía Nga mất 4.380 người chết, 5.917 người bị bắt sống, trong đó có hai đô đốc. Với thiệt hại nặng nề của Hải quân Nga, thảm họa Tsushima được xem là một trong những trận đánh hủy diệt duy nhất của thủy quân trong suốt bề dày lịch sử nhân loại[1].
- Thiết giáp hạm
Các chiến hạm Hoàng thân Suvorov, Hoàng đế Alekxandr III, Borodino và Oslyabya bị mất trong trận đánh ngày 27 tháng 5. Chiếc Navarin bị mất trong đêm ngày 27 rạng sáng ngày 28, trong khi chiếc Sissoi Veliky, Đô đốc Nakhimov và Đô đốc Ushakov hoặc bị đánh đắm hoặc bị chìm ngày tiếp theo. Bốn chiến hạm khác dưới quyền chỉ huy của Chuẩn đô đốc Nebogatov buộc phải đầu hàng và trở thành chiến lợi phẩm cho quân Nhật. Nhóm tàu này gồm một tàu loại mới, chiếc Orel, cùng với một thiết chiến hạm loại cũ, chiếc Hoàng đế Nikolai I và hai chiến hạm tuần duyên loại nhỏ Đô đốc Graf Apraxin và Đô đốc Senyavin. Chiếc tàu tuần dương cỡ nhỏ Đô đốc Ushakov từ chối đầu hàng và bị các tàu tuần dương của Nhật đánh đắm.
- Tuần dương hạm
Các ngày tiếp theo, các tuần dương hạm như Vladimir Monomakh, Svyetlana và Dmitri Donskoy bị đánh chìm sau cuộc hải chiến. Tuần dương hạm Dmitri Donskoy chống lại sáu tuần dương hạm của Nhật và sống sót, nhưng do bị hư hại quá nặng nề, nó phải bị đánh đắm. Chiếc tàu Izumrud mắc cạn gần bờ biển Siberia. Ba tuần dương hạm bọc thép Aurora, Zhemchug, và Oleg chạy thoát về căn cứ hải quân của Mỹ ở Manila và bị cầm giữ ở đó. Chiếc chiến hạm cao tốc vũ trang hạng nhẹ, Almaz, cũng thoát được về Vladivostok.
- Tàu khu trục và tàu phụ trợ
Năm tàu khu trục, gồm Buiny, Buistry, Bezupreshchny, Gromky và Bleshyashchy bị đánh đắm trong ngày 28 tháng 5, chiếc Byedovy cũng đầu hàng trong ngày. Chiếc Bodry bị nhà cầm quyền đương cục cầm giữ ở Thượng Hải. Hai tàu khu trục, Grosny và Bravy chạy thoát được về Vladivostok.
Với các tàu phụ trợ, Kamchatka, Ural và Rus bị đánh chìm trong ngày 27, chiếc Irtuish mắc cạn ngày 28, các chiếc Koreya và Svir bị giữ lại ở Thượng Hải và chiếc Anadyr chạy thoát về Madagascar. Các tàu tải thương Orel, Kostromo bị bắt nhưng được thả ra sau đó.
Tổn thất phía Nhật
Phía Nhật chỉ mất 3 phóng lôi hạm số 34, 35 và 69, với 117 người chết và 500 người bị thương.
Hệ quả chính trị
Chiến thắng của Hải quân Nhật Bản là lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại 1 quốc gia Châu Á đánh bại 1 Cường quốc Châu Âu trong 1 cuộc chiến quy ước, do đó khi hay tin Nhật đánh bại Nga, hàng triệu người Châu Á cũng vui sướng phát cuồng vì người Nhật đã rửa sạch cái nhục của dân da vàng bị người da trắng thống trị.[4]
Uy tín của Nga bị tổn thương nặng nề và nó là một đòn đau cho nhà Romanov. Gần như toàn bộ hạm đội Nga bị mất trong trận hải chiến eo biển Tsushima, trừ chiếc tàu cao tốc vũ trang hạng nhẹ Almaz (được xếp loại tuần dương hạm hạng nhì) và 2 tàu khu trục Grosny và Bravy là những tàu duy nhất trở về được tới cảng Vladivostok. Hạm đội Baltic coi như bị xóa sổ ra khỏi danh sách Hải quân Nga.
Thế lực của Nga ở Viễn Đông sau trận hải chiến này cũng kết thúc, nước Nhật trở thành cường quốc bá chủ Đông Á, Mãn Châu, Triều Tiên. Do những thảm bại này mà đế quốc Nga gần đứng trên bờ vực sụp đổ với cuộc Cách mạng năm 1905.
Chiến thuật được sử dụng
Các chiến hạm, tuần dương hạm, và các tàu các loại khác được chia thành từng đoàn, mỗi đoàn được chỉ huy bởi một sỹ quan cao cấp (như đô đốc). Trong trận hải chiến Tsushima, Đô đốc Togo là chỉ huy trưởng chiến hạm Mikasa (các đoàn khác được chỉ huy bởi Phó đô đốc, Chuẩn đô đốc, thiếu tướng hải quân, thuyền trưởng và sỹ quan chỉ huy khu trục hạm). Trong đội hình chiến đấu, kế tiếp theo Mikasa là các chiến hạm Shikishima, Fuji và Asahi, theo sau chúng là hai tuần dương hạm bọc thép.
Khi Đô đốc Togo hạ lệnh tiến hành bước ngoặt “tuần tự” sang cánh trái để giữ nguyên đội hình chiến đấu, tức là kỳ hạm Mikasa tiếp tục dẫn đầu (hiển nhiên là Đô đốc Togo muốn các lực lượng mạnh nhất của mình xung trận trước hết). Quay tàu tuần tự nghĩa là mỗi tàu sẽ tiến hành quay bánh lái tiếp theo tàu trước nó, trên thực tế mỗi tàu sẽ lần lượt đổi hướng tại cùng một điểm trên biển (điều này rất nguy hiểm, vì đối phương sẽ có cơ hội tập trung hỏa lực bắn vào khu vực đó). Đô đốc Togo cũng có thể ra lệnh cho các tàu “đồng loạt” bẻ lái, tức là các tàu sẽ đổi hướng cùng lúc và quay ngược lại, giống như cách hạm đội Pháp-Tây ban nha vận động trong trận Trafalgar. Cách này sẽ nhanh hơn, nhưng sẽ làm rối loạn đội hình chiến đấu, gây ra hỗn loạn khiến cho kế hoạch tác chiến phải thay đổi, đặt các tuần dương hạm lên tuyến đầu, và đó là điều mà Đô đốc Togo không mong muốn.
Chú thích
- Sơ khai nhân vật Nhật Bản
- Chiến tranh Nga-Nhật
- Những trận đánh lớn trong lịch sử
- Nhật Bản 1905
- Xung đột năm 1905
Cao Xuân Huy
Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để có thể kiểm chứng thông tin. |
Giáo sư Cao Xuân Huy (1900 – 1983) là một nhà nghiên cứu chuyên về lịch sử tư tưởng triết học phương Đông, từng được gọi là “nhà đạo học” ngay từ thuở mới khoảng 30 tuổi. Ông được xem là một trong những người có những đóng góp to lớn trong việc đào tạo các nhà nghiên cứu cổ học Việt Nam. Ông để lại một số giáo trình đại học có giá trị về Kinh Dịch, Luận ngữ, Mạnh Tử, Bách gia chư tử. Ông còn là một Giáo sư của Viện Văn học. Con ông là Cao Xuân Hạo là một nhà ngôn ngữ học, dịch giả nổi tiếng tại Việt Nam.
Mục lục
Tiểu sử
Ông sinh ngày 28 tháng 5 năm 1900 năm tại làng Thịnh Mỹ, xã Cao Xá, phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình dòng dõi khoa bảng danh gia. Ông nội ông là Cao Xuân Dục. Cha ông là Cao Xuân Tiếu (1865-1939), đậu phó bảng khoa thi 1895, giữ chức thượng thư, Hiệp biện đại học sĩ kiêm Tổng tài Quốc sử quán triều nhà Nguyễn.
Năm 1906, ông bắt đầu học chữ Hán với thầy của gia đình và được ông nội (là cụ Cao Xuân Dục, khi đấy là Tổng tài Quốc sử quán) rèn cặp. Năm 1915, ông thi Hương tại trường thi Nghệ An. Sau đó, ông đến Huế theo học bậc Thành chung và tốt nghiệp năm 1922. Sau đó, ông theo học trường Cao đẳng sư phạm Đông Dương và tốt nghiệp năm 1925. Sau khi tốt nghiệp, ông bước vào cuộc đời dạy học trong 55 năm chỉ gián đoạn chút ít.
Cũng trong năm 1925, cụ Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt giam. Nhiều phong trào đấu tranh chính trị đòi thả cụ Phan. Vốn sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống yêu nước và chống Pháp, ông cũng bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng. Khi đó, ông đang dạy ở Trường Quốc học Huế. Năm 1926, ông gia nhập Tân Việt Cách mạng đảng.
Năm 1927, thực dân Pháp tấn công đảng Tân Việt. Ông bị giải chức, đày ra Lao Bảo, sau đó giải về Nghệ An mãi đến năm 1929 mới được thả, ông về làm công tạm cho nhà in Đắc Lập, Huế. Từ năm 1935, ông vào Sài Gòn dạy tư thục Trung học Paul Doumer và Trung học Chấn Thanh. Năm 1938, thầy trở ra Huế dạy tư thục Hồ Đắc Hàm, Việt Anh, Thuận Hóa và tham gia viết báo tiếng Pháp: Revue pédagogique.
Năm 1945, ông được Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mời ra Hà Nội dạy môn triết học phương Đông tại trường Đại học Việt Nam. Trường này đóng cửa sau 3 tháng vì tình hình chính trị Việt – Pháp căng thẳng.
Sau khi chiến tranh nổ ra, ông trở về quê nhà và được cử làm hiệu trưởng trung học Nguyễn Xuân Ôn, Diễn Châu, Nghệ An. Trường năng khiếu huyện Diễn Châu mang tên ông, Cùng thời gian này, ông còn kiêm các chức vụ quan trọng như giáo viên dạy văn học và dạy Pháp văn, giáo viên trường trung học chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng, giáo sư triết học của lớp Đại học Văn khoa đầu tiên ở vùng Thanh – Nghệ.
Năm 1949, ông là giáo sư triết học của lớp Đại học Văn khoa đầu tiên do Bộ Giáo dục nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập tại vùng tự do Liên khu IV. Lớp có 7 học sinh tốt nghiệp trung học chuyên khoa.
Năm 1951, ông được mời làm Giáo sư Trường Dự bị Đại học Việt Nam tại Thanh Hóa. Tháng 12 năm 1954, ông được điều về Hà Nội giảng dạy môn triết học phương Đông, môn logic học và môn tâm lý học cho lớp Đại học Văn khoa (tiền thân của khoa văn ngữ, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và trường Đại học sư phạm Hà Nội. Năm 1957, ông được mời sang khoa ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, giảng dạy môn tâm lý học. Năm 1958, ông được phong chức Giáo sư.
Cũng trong năm 1958, vì có liên quan đến hoạt động của nhóm Nhân Văn – Giai Phẩm, ông bị đình chỉ nhiệm vụ. Đến năm 1959, Viện Văn học thành lập, ông được cử làm Trưởng Ban Hán – Nôm, rồi Trưởng Ban văn học cổ đại Việt Nam của Viện. Năm 1965, ông là giáo sư chính, giảng dạy môn triết học cho lớp đại học Hán Nôm tại Hà Nội, chịu trách nhiệm đào tạo lớp chuyên tu Hán Nôm trên đại học (1972-1974). Năm 1972, ông là chủ khảo kỳ thi tốt nghiệp 4 năm của Viện Văn Học.
Trong thời gian ở ban Hán Nôm, ông được mời thỉnh giảng ở khoa ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, trường Đại học Y – Dược Hà Nội, Viện Đông Y Việt Nam.
Năm 1974, ông nghỉ hưu. Ông mất tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 22 tháng 10 năm 1983, thọ 83 tuổi.
Giải thưởng
Ông được Nhà nước Việt Nam tặng tưởng Huân chương Kháng Chiến hạng nhì (1960), giải thưởng Hồ Chí Minh (truy tặng, 1996) cho công trình nghiên cứu Tư tưởng Phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu.
Tên ông được đặt cho một phố tại Phường 25, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1985, một phố tại quận Nam Từ Liêm, Hà Nội và một con đường chính dài gần 1 km chạy từ bến xe khách chợ Vinh, Nghệ An đến quốc lộ 1A tại thành phố Vinh.
Những đóng góp triết học và văn học
- Nghiên cứu triết học Đông phương
- Nghiên cứu tư tưởng và văn hoá Việt Nam cổ, trung, đại
- Chủ Toàn và Chủ Biệt – Hệ Tư Tưởng Nhất Nguyên – Phi Bài Trung
- Nghiên cứu về Nhận Thức Luận
- Động và Tĩnh trong Cấu Trúc Luận
- Tham gia nghiên cứu và hiệu đính bản dịch Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn, Nguồn gốc các loài của Charles Darwin, Đông Chu liệt quốc của Phan Kế Bính, Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh của Ngô Thì Nhậm.
Những nhận định về ông
Giáo sư Đặng Thai Mai: “Ở Việt Nam không ai hiểu học thuyết Lão Trang sâu sắc hơn cụ Huy”.
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, trong bài Cao Xuân Huy trong thế giới người hiền giới thiệu cuốn Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu viết: “Cái tên Cao Xuân Huy trong trí nhớ của hầu hết các thế hệ trí thức trong khoảng 50 năm nay là đại biểu cho một ngành học hình như ai nghe cũng thấy sợ: triết học Đông phương”.
Viện sĩ Eidelyn (Liên Xô): “Những nhà Trung Quốc học như cụ Cao Xuân Huy ở trên thế giới chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay!”.
Tham khảo
- Cao Xuân Huy: người thầy, nhà tư tưởng, NXB Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội (2001), 432 trang
- Cao Xuân Huy: Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu, NXB Văn Học, Hà Nội (1995), 790 trang
Liên kết ngoài
- Sinh 1900
- Mất 1983
- Đại học Quốc gia Hà Nội
- Nhà nghiên cứu triết học Việt Nam
- Nhà Đông phương học
- Giải thưởng Hồ Chí Minh
- Dòng họ Cao Xuân
- Người Diễn Châu
- Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
- Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm
Phan Huy Chú
Phan Huy Chú (Chữ Hán: 潘輝注; 1782 – 1840), tự Lâm Khanh, hiệu Mai Phong; là quan triều nhà Nguyễn, và là nhà thơ, nhà thư tịch lớn[1], nhà bác học Việt Nam[2].
Mục lục
Cuộc đời và sự nghiệp
Xuất thân trong “dòng họ Phan Huy” có tiếng về văn học, thuở nhỏ, Phan Huy Chú có tên là Hạo, sau vì kiêng quốc húy đổi là Chú. Ông là con trai thứ ba của danh thần Phan Huy Ích và bà Ngô Thị Thực (thuộc “dòng họ Ngô Thì”, cũng có tiếng về văn học. Bà là con gái Ngô Thì Sĩ, em gái của Ngô Thì Nhậm, bà mất khi Phan Huy Chú mới 10 tuổi).
Ông sinh ra và lớn lên ở thôn Thụy Khuê, thuộc huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai (trước thuộc tỉnh Sơn Tây, sau thuộc Hà Tây; và nay là thôn Thuỵ Khuê, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội) [3].
Quê gốc của ông là thôn Chi Bông, xã Thu Hoạch (đầu thời Nguyễn thuộc huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quan, trấn Nghệ An; nay thuộc xã Thạch Châu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Năm 1787, một người trong dòng họ Phan Huy (và là ông nội của Phan Huy Chú) là Phan Huy Cận (sau đổi tên là Áng), làm quan lớn dưới triều Lê–Trịnh, sau khi từ giã chốn quan trường đã đến ở làng Thụy Khuê, và trở thành “ông tổ đầu tiên của của chi phái Phan Huy” ở đây[4].
Vốn thông minh, được cha mẹ nuôi dạy chu đáo, lại từng được Ngô Thì Nhậm (cậu ruột) rèn dạy từ lúc 6 tuổi [5]; nhưng cả hai lần thi Hương (Đinh Mão, 1807; và Kỷ Mão, 1819), ông chỉ đỗ Tú tài (nên tục gọi ông là “Kép Thầy”, vì ở làng Thầy và đỗ hai lần). Kể từ đó, ông thôi việc thi cữ, chỉ chuyên tâm vào việc nghiên cứu và trước tác [2].
Tuy không đỗ cao, nhưng ông vẫn nổi tiếng là người có kiến thức uyên bác. Vì vậy, năm Tân Tỵ (1821), vua Minh Mạng cho triệu ông vào kinh đô, cử giữ chức Biên tu trường Quốc tử giám ở Huế. Năm này, ông dâng lên vua bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí do ông biên soạn (khởi soạn khi còn đi học, đến năm 1809 thì cơ bản hoàn thành)[2], và được khen thưởng.
Năm Ất Dậu (1825), ông được sung làm Phó sứ sang Trung Quốc. Khi về, được làm Phủ thừa phủ Thừa Thiên, rồi thăng Hiệp Trấn Quảng Nam (1829). Ít lâu sau, ông bị giáng vì phạm lỗi, được điều động về Huế giữ chức Thị độc ở Viện hàn lâm.
Năm Tân Mão (1831), lại sung Phan Huy Chú làm Phó sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc). Nhưng khi về nước, thì cả đoàn sứ bộ đều bị giáng chức (ông bị cách chức), vì tội “lộng quyền”[6].
Năm sau (Nhâm Thìn, 1832), cho ông làm phục dịch trong phái bộ sang Batavia (Giang Lưu Ba, Indonesia) để lập công chuộc tội.
Trở về (Giáp Ngọ, 1834), ông được bổ làm Tư vụ bộ Công. Sau đó, vì chán chốn quan trường, ông cáo bệnh xin về hưu ở làng Thanh Mai, thuộc huyện Tiên Phong (nay là xã Vũ Thắng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội). Ở đây, ông làm nghề dạy học và soạn sách cho đến khi mất.
Phan Huy Chú mất ngày 27 tháng 4 năm Canh Tý (28 tháng 5 năm 1840) lúc 58 tuổi[7].
Phần mộ của ông hiện ở tại thôn Mai Trai, xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, (trước thuộc Hà Tây, nay thuộc Hà Nội).
Các tác phẩm chính
- Lịch triều hiến chương loại chí[8]
- Hoàng Việt dư địa chí
- Mai Phong du Tây thành dã lục
- Hoa thiều ngâm lục (tập thơ đi sứ sang Trung Quốc)
- Hoa trình tục ngâm
- Hải trình chí lược, hay còn gọi là Dương trình ký kiến (ghi chép những điều trông thấy lúc đi Batavia)
- Lịch đại điển yếu thông luận, v.v…
Nhìn chung, Phan Huy Chú nổi tiếng là nhà nghiên cứu, biên khảo, hơn là nhà thơ, nhà văn. Tác phẩm có giá trị nhất của ông là bộ Lịch triều hiến chương loại chí. Đây có thể xem là “bộ bách khoa toàn thư” đầu tiên của Việt Nam[9]. Kế tiếp, đáng kể nữa là bộ Hoàng Việt dư địa chí, ghi chép về địa lý Việt Nam[9].
Thông tin thêm
Vợ Phan Huy Chú là bà Nguyễn Thị Vũ, con gái Tiến sĩ Nguyễn Thế Lịch (tức Nguyễn Gia Phan), người thôn Yên Lũng, Từ Liêm (nay thuộc Hoài Đức, Hà Nội). Ông giỏi nghề thuốc, và từng làm quan trải đến chức Thượng thư bộ Hộ dưới triều Tây Sơn. Năm 1803, ông bị vua Gia Long sai đánh đòn tại Văn Miếu cùng với Ngô Thì Nhậm[10].
Xem thêm
Sách tham khảo
- Phần “Tiểu sử Phan Huy Chú” in đầu tập 1 của bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí (bản dịch gồm 3 tập). Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992.
- Phan Đăng, Lời nói đầu giới thiệu bộ sách “Hoàng Việt dư địa chí”, in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 1). Nhà xuất bản Thanh Niên, 2012.
- Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm (toàn tập). Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2003.
- Nguyễn Q. Thắng – Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992.
- Nguyễn Lộc, mục từ “Phan Huy Chú, trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
- Nhiều tác giả, Phan Huy Chú và dòng họ Phan Huy. Sở Văn hóa thông tin Hà Sơn Bình xuất bản, 1983. Trong đó, chủ yếu tham khảo 4 bài viết, là:
- –Phan Huy Lê, “Về dòng họ Phan Huy ở Sài Sơn”.
- -Tạ Ngọc Liễn, “Sự nghiệp còn mãi”.
- -Kim Anh, “Vai trò gia đình với sự hình thành tài năng Phan Huy Chú”.
- -Nguyễn Tuấn Thịnh, “Phan Huy Chú-Nhà thư tịch lớn”.
Chú thích
- ^ Nguyễn Tuấn Thịnh, tr. 135.
- ^ a ă â Theo “Tiểu sử Phan Huy Chú” in đầu tập 1 của bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí (bản dịch).
- ^ Các sách ở mục tham khảo chỉ ghi quê gốc của Phan Huy Chú là xã Thu Hoạch, riêng có Tạ Ngọc Liễn (tr. 26) là ghi ông sinh ở Thụy Khuê, và ở đây tạm ghi theo ông. Có bài viết ghi ông sinh ra ở Thăng Long và lớn lên ở tổng Thụy Khê, nhưng không dẫn nguồn.
- ^ Căn cứ theo gia phả và tài liệu còn lưu lại của dòng họ Phan Huy. GS. Phan Huy Lê dẫn lại (tr. 160).
- ^ Kim Anh, tr. 51.
- ^ Theo “Tiểu sử Phan Huy Chú” in đầu tập 1, sách đã dẫn. Ở đây, người viết ông không kể rõ là “lạm quyền” như thế nào.
- ^ Theo Trần Văn Giáp, tr. 551.
- ^ bản sao chữ Hán bộ Lịch triều hiến chương loại chí.
- ^ a ă Nguyễn Lộc, tr. 1385.
- ^ Tạ Ngọc Liễn (tr. 26) và Kim Anh (tr.55).
- Sinh 1782
- Mất 1840
- Quan nhà Nguyễn
- Dòng họ Phan Huy
- Nhà sử học Việt Nam
- Nhà địa lý học Việt Nam
- Nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam
- Người Hà Nội
- Người Hà Tĩnh
Thương ơi điệu ví – Tố Nga
Le An Tuyen. Thương ơi điệu ví Tố Nga. giọng ca ngọt ngào của ca sĩ Tố Nga – Ai đã yêu câu hò điệu ví thì không ai có thể quên được Tố Nga – người hát dân ca quê mình hay, da diết đến cháy lòng.
Nhân vật lịch sử vĩ đại nhất nước Nga
Quà tặng cuộc sống
Chào ngày mới 27 tháng 5
Bài học lịch sử Nga hoàng Nikolai II
Chào ngày mới 26 tháng 5
Đọc “Tony buổi sáng”
Góc thư giản trí tuệ
Chào ngày mới 25 tháng 5
Sholokhov sông Đông êm đềm
Khen cho con mắt tinh đời
Chào ngày mới 24 tháng 5
Vua Hàm Nghi và ông Trương Thạc
Sông Thương
Vườn Quốc gia ở Việt Nam
Chào ngày mới 23 tháng 5