CNM365. Chào ngày mới 28 tháng 3. Wikipedia Ngày này năm xưa. Ngày nhà giáo của Slovakia, (nhằm ngày sinh của nhà giáo, nhà ngôn ngữ học, khoa học tự nhiên, nhà chính trị, triết học Jan Amos Komenský sinh năm 1592 mất năm 1670). Năm 1868 – ngày sinh Maxim Gorky, tác gia người Nga (mất năm 1936). Năm 1930 – Hai thành phố lớn của Thổ Nhĩ Kỳ là Constantinopolis và Angora đổi tên thành Istanbul và Ankara trong quá trình cải cách của Mustafa Kemal Atatürk.
28 tháng 3
Ngày 28 tháng 3 là ngày thứ 87 trong mỗi năm thường (ngày thứ 88 trong mỗi năm nhuận). Còn 278 ngày nữa trong năm.
« Tháng 3 năm 2015 » | ||||||
CN | T2 | T3 | T4 | T5 | T6 | T7 |
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 |
8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 |
15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 |
22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 |
29 | 30 | 31 | ||||
Mục lục
Sự kiện
- 193 – Hoàng đế La Mã Pertinax bị đội cận vệ ám sát, đội cận vệ sau đó bán hoàng vị cho Didius Julianus trong một cuộc đấu giá.
- 845 – Paris bị cướp phá bởi cướp biển Bắc Âu, có lẽ dưới sự cầm đầu của Ragnar Lodbrok, người đã thu rất nhiều tiền chuộc để thả người
- 1863 – Cố đạo Lefebvre tổ chức “Lễ đặt viên đá đầu tiên” xây dựng nhà thờ Saigon ở Việt Nam bằng gỗ bên bờ “Kinh Lớn”.
- 1911 – Tàu tuần dương SMS Goeben của Hải quân Đế quốc Đức được hạ thủy, chính phủ Tây Đức tháo dỡ tàu vào năm 1973.
- 1930 – Hai thành phố lớn của Thổ Nhĩ Kỳ là Constantinopolis và Angora đổi tên thành Istanbul và Ankara trong quá trình cải cách của Mustafa Kemal Atatürk.
- 1979 – Ở tiểu bang Pennsylvania, một bơm trong hệ thống làm mát lò phản ứng không hoạt động tại Lò phản ứng hạt nhân ở Đảo Ba Dặm, sau khi một ít nước bẩn bốc hơi, tạo ra sự nung chảy hạt nhân.
Sinh
- 1472 – Fra Bartolommeo, nghệ sĩ người Ý (m. 1517)
- 1592 – Nhà giáo, ngôn ngữ học, khoa học tự nhiên, nhà chính trị, nhà triết học Jan Amos Komenský (m. 1670)
- 1592 – Comenius, giám mục người Séc (m. 1670)
- 1599 – Witte Corneliszoon de With, sĩ quan hải quân người Đức (m. 1658)
- 1609 – Vua Frederik III của Đan Mạch (m. vào 1670)
- 1652 – Samuel Sewall, Magistrate người Mỹ (m. 1730)
- 1725 – Andrew Kippis, tu sĩ, Biographer người Anh (m. 1795)
- 1750 – Francisco de Miranda, nhà cánh mạng người Venezuela (m. 1816)
- 1793 – Henry Schoolcraft, Geographer, nhà địa chất người Mỹ (m. 1864)
- 1795 – Georg Heinrich Pertz, sử gia người Đức (m. 1876)
- 1806 – Thomas Hare, Barrister người Anh (m. 1891)
- 1815 – Arsène Houssaye, tiểu thuyết gia người Pháp (m. 1896)
- 1818 – Wade Hampton III, người lính, chính khách người Mỹ (m. 1902)
- 1819 – Sir Joseph Bazalgette, kĩ sư dân sự người Anh (m. 1891)
- 1836 – Frederick Pabst, người ủ rượu người Mỹ (m. 1904)
- 1840 – Emin Pasha, chính khách người Guinea Xích Đạo (m. 1892)
- 1851 – Bernardino Machado, chính khách người Bồ Đào Nha (m. 1944)
- 1862 – Aristide Briand, chính khách, giải thưởng Nobel hòa bình người Pháp (m. 1932)
- 1866 – Jimmy Ross, cầu thủ bóng đá người Scotland (m. 1902)
- 1868 – Maxim Gorky, tác gia người Nga (m. 1936)
- 1871 – Willem Mengelberg, người chỉ huy dàn nhạc người Đức (m. 1951)
- 1890 – Paul Whiteman, người chỉ huy dàn nhạc nhỏ người Mỹ (m. 1967)
- 1892 – Corneille Heymans, Physiologist, giải thưởng Nobel người Bỉ (m. 1968)
- 1895 – Spencer W. Kimball, lãnh đạo tôn giáo người Mỹ (m. 1985)
- 1897 – Sepp Herberger, huấn luyện viên bóng đá người Đức (m. 1977)
- 1899 – Harold B. Lee, lãnh đạo tôn giáo người Mỹ (m. 1973)
- 1899 – Ernst Lindemann, sĩ quan hải quân người Đức (m. 1941)
- 1899 – Buck Shaw, huấn luyện viên bóng đá người Mỹ (m. 1977)
- 1900 – Edward Wagenknecht, nhà phê bình văn học người Mỹ (m. 2004)
- 1902 – Dame Flora Robson, nữ diễn viên người Anh (m. 1984)
- 1902 – Jaromír Vejvoda, nhà soạn nhạc người Séc (m. 1988)
- 1903 – Rudolf Serkin, nghệ sĩ dương cầm người Áo (m. 1991)
- 1903 – Charles Starrett, diễn viên người Mỹ (m. 1986)
- 1905 – Marlin Perkins, nhà tự nhiên học, người dẫn chương trình truyền hình người Mỹ (m. 1986)
- 1905 – Pandro S. Berman, nhà sản xuất phim người Mỹ (m. 1996)
- 1909 – Nelson Algren, nhà văn người Mỹ (m. 1981)
- 1910 – Jimmie Dodd, diễn viên người Mỹ (m. 1964)
- 1912 – Marina Raskova, nhà hàng hải người Nga (m. 1943)
- 1914 – Edward Anhalt, người viết kịch bản phim người Mỹ (m. 2000)
- 1914 – Bohumil Hrabal, nhà văn người Séc (m. 1997)
- 1914 – Edmund Muskie, chính khách người Mỹ (m. 1996)
- 1914 – Kenneth Richard Norris, nhà nghiên cứu sâu bọ người Úc (m. 2003)
- 1915 – Jay Livingston, nhà soạn nhạc, người sáng tác bài hát người Mỹ (m. 2001)
- 1919 – Vic Raschi, cầu thủ bóng chày người Mỹ (m. 1988)
- 1921 – Dirk Bogarde, diễn viên người Anh (m. 1999)
- 1922 – Neville Bonner, chính khách người Úc (m. 1999)
- 1922 – Felice Chiusano, ca sĩ người Ý (m. 1990)
- 1922 – Joey Maxim, võ sĩ quyền Anh người Mỹ (m. 2001)
- 1924 – Freddie Bartholomew, diễn viên người Ireland (m. 1992)
- 1925 – Dorothy DeBorba, diễn viên trẻ em người Mỹ
- 1927 – Marianne Fredriksson, tác gia người Thụy Điển (m. 2007)
- 1928 – Alexander Grothendieck, nhà toán học người Đức
- 1929 – Paul England, người đua xe người Úc
- 1930 – Robert Ashley, nhà soạn nhạc người Mỹ
- 1930 – Elizabeth Bainbridge, ca sĩ nhạc kịch người Anh
- 1930 – Jerome Isaac Friedman, nhà vật lí, giải thưởng Nobel người Mỹ
- 1933 – Frank Murkowski, chính khách người Mỹ
- 1935 – Michael Parkinson, phát ngôn viên truyền thanh người Anh
- 1941 – Jim Turner, cầu thủ bóng đá người Mỹ
- 1942 – Daniel Dennett, nhà triết học người Mỹ
- 1942 – Neil Kinnock, chính khách người Anh
- 1942 – Mike Newell, đạo diễn phim người Anh
- 1942 – Samuel Ramey, ca sĩ nhạc kịch người Mỹ
- 1943 – Conchata Ferrell, nữ diễn viên người Mỹ
- 1944 – Rick Barry, cầu thủ bóng rổ người Mỹ
- 1944 – Ken Howard, diễn viên người Mỹ
- 1945 – Count Björn Hamilton, chính khách người Thụy Điển
- 1946 – Alejandro Toledo, tổng thống Peru
- 1946 – Wubbo Ockels, nhà vật lí, nhà du hành vũ trụ người Đức
- 1947 – John Landecker, disk-jockey người Mỹ
- 1948 – Dianne Wiest, nữ diễn viên người Mỹ
- 1948 – Gerry House, nhân vật truyền thanh nổi tiếng người Mỹ
- 1951 – Karen Kain, nữ diễn viên ba lê người Canada
- 1951 – Matti Pellonpää, diễn viên, nhạc sĩ người Phần Lan (m. 1995)
- 1952 – Tony Brise, người đua xe (m. 1975)
- 1953 – Melchior Ndadaye, chính khách người Burundi (m. 1993)
- 1955 – John Alderdice, chính khách người Bắc Ireland
- 1955 – Reba McEntire, ca sĩ, nữ diễn viên người Mỹ
- 1958 – Curt Hennig, đô vật chuyên nghiệp người Mỹ (m. 2003)
- 1960 – Chris Barrie, diễn viên người Anh
- 1960 – Éric-Emmanuel Schmitt, tác gia, nhà viết kịch người Pháp
- 1961 – Orla Brady, nữ diễn viên người Ireland
- 1961 – Byron Scott, cầu thủ bóng rổ người Mỹ
- 1962 – Jure Franko, vân động viên trượt tuyết người Slovenia
- 1965 – Steve Bull, cầu thủ bóng đá người Anh
- 1968 – Iris Chang, tác gia người Mỹ (m. 2004)
- 1968 – Nasser Hussain, cầu thủ cricket người Anh
- 1968 – Jon Lee, nhạc công đánh trống người Anh (m. 2002)
- 1968 – Tim Lovejoy, người dẫn chương trình truyền hình người Anh
- 1968 – Max Perlich, diễn viên người Mỹ
- 1969 – Brett Ratner, đạo diễn phim người Mỹ
- 1970 – Vince Vaughn, diễn viên người Mỹ
- 1971 – Mr. Cheeks, ca sĩ nhạc rap người Mỹ
- 1972 – Nick Frost, diễn viên hài, diễn viên người Anh
- 1972 – Keith Tkachuk, cầu thủ khúc côn cầu trên băng người Mỹ
- 1973 – Eddie Fatu, đô vật chuyên nghiệp Samoa
- 1974 – Mark King, người chơi bi da người Anh
- 1975 – Iván Helguera, cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha
- 1975 – Richard Kelly, đạo diễn phim người Mỹ
- 1975 – Derek Hill, người đua xe người Mỹ
- 1977 – Erik Rasmussen, cầu thủ khúc côn cầu trên băng người Mỹ
- 1977 – Lauren Weisberger, tiểu thuyết gia người Mỹ
- 1979 – Park Chae-rim, nữ diễn viên người Hàn Quốc
- 1980 – Luke Walton, cầu thủ bóng rổ người Mỹ
- 1981 – Julia Stiles, nữ diễn viên người Mỹ
- 1981 – Gareth David-Lloyd, diễn viên Wales
- 1981 – Edwar Ramirez, cầu thủ bóng chày người Mỹ
- 1981 – Lindsay Frimodt, người mẫu, người Mỹ
- 1982 – Sonia Agarwal, nữ diễn viên Ấn Độ
- 1983 – Ryan Ashington, cầu thủ bóng đá người Anh
- 1984 – Christopher Samba, cầu thủ bóng đá người Pháp
- 1984 – Nikki Sanderson, nữ diễn viên, người mẫu, người Anh
- 1984 – Yordanos Abay, cầu thủ bóng đá người Ethiopia
- 1986 – J-Kwon, ca sĩ nhạc rap người Mỹ
- 1986 – Lady Gaga, ca sĩ người Mỹ gốc Ý
- 1986 – Barbora Strýcová, vận động viên quần vợt người Séc
- 1989 – Marek Suchý, cầu thủ bóng đá người Séc
- 1989 – Lukas Jutkiewicz, cầu thủ bóng đá người Anh
- 1989 – Mira Leung, vận động viên trượt băng nghệ thuật người Canada
- 1991 – Amy Bruckner, nữ diễn viên người Mỹ
Mất
- 193 – Pertinax, Hoàng đế La mã (vì bị ám sát) (s. 126)
- 1285 – Giáo hoàng Martin IV, (s. khoảng 1210)
- 1566 – Sigismund von Herberstein, nhà ngoại giao, sử gia người Áo (s. 1486)
- 1677 – Václav Hollar, diễn viên người Séc (s. 1607)
- 1687 – Constantijn Huygens, nhà thơ, nhà soạn nhạc người Đức (s. 1596)
- 1794 – Marquis de Condorcet, nhà toán học, nhà triết học người Pháp (s. 1743)
- 1814 – Joseph-Ignace Guillotin, người chế máy chém, (s. 1738)
- 1850 – Gerard C. Brandon, chính khách người Mỹ (s. 1788)
- 1866 – Solomon Foot, chính khách người Mỹ (s. 1802)
- 1870 – George Henry Thomas, tướng người Mỹ (s. 1816)
- 1874 – Peter Andreas Hansen, nhà thiên văn người Đan Mạch (s. 1795)
- 1881 – Modest Mussorgsky, nhà soạn nhạc người Nga (s. 1839)
- 1910 – Edouard Judas Colonne, nghệ sĩ vĩ cầm người Pháp (s. 1838)
- 1929 – Lomer Gouin, chính khách Québec (s. 1861)
- 1939 – Francis Matthew John Baker, chính khách người Úc (s. 1903)
- 1941 – Virginia Woolf, người theo thuyết nam nữ bình quyền, nhà văn người Anh (s. 1882)
- 1943 – Sergei Rachmaninoff, nhà soạn nhạc, nghệ sĩ dương cầm người Nga (s. 1873)
- 1944 – Stephen Leacock, nghệ sĩ hài người Canada (s. 1869)
- 1946 – Chick Fullis, cầu thủ bóng chày (s. 1904)
- 1947 – Karol Świerczewski, tướng người Ba Lan (s. 1897)
- 1949 – Grigoraş Dinicu, nhà soạn nhạc, nghệ sĩ vĩ cầm người România (s. 1889)
- 1953 – Jim Thorpe, vận động viên người Mỹ (s. 1887)
- 1958 – W.C. Handy, nhà soạn nhạc người Mỹ (s. 1873)
- 1962 – Hugo Wast, nhà văn người Argentina (s. 1883)
- 1965 – Clemence Dane, tiểu thuyết gia, nhà soạn kịch người Anh (s. 1888)
- 1969 – Dwight D. Eisenhower, Tướng của Quân đội Mỹ, Tổng thống Hoa Kỳ thứ 34, (s. 1890)
- 1974 – Dorothy Fields, Librettist, nhà thơ trữ tình người Mỹ (s. 1905)
- 1976 – Arthur Crudup, ca sĩ nhạc blues, nghệ sĩ đàn ghita người Mỹ (s. 1905)
- 1976 – Richard Arlen, diễn viên người Mỹ (s. 1898)
- 1978 – Dino Ciani, nghệ sĩ dương cầm người Ý (m. 1941)
- 1979 – Emmett Kelly, anh hề người Mỹ (s. 1898)
- 1980 – Dick Haymes, ca sĩ, diễn viên người Argentina (s. 1918)
- 1982 – William Giauque, nhà hóa học, giải thưởng Nobel người Canada (s. 1895)
- 1985 – Marc Chagall, họa sĩ người Nga (s. 1887)
- 1987 – Maria von Trapp, ca sĩ người Áo (s. 1905)
- 1987 – Patrick Troughton, diễn viên người Anh (s. 1920)
- 1994 – Eugène Ionesco, Pháp nhà soạn kịch người România (s. 1909)
- 1995 – Hugh O’Connor, diễn viên người Mỹ (s. 1962)
- 2000 – Anthony Powell, tiểu thuyết gia người Anh (s. 1905)
- 2001 – Moe Koffman, nhạc sĩ người Canada (s. 1928)
- 2003 – Rusty Draper, ca sĩ nhạc country, nhạc pop người Mỹ (s. 1923)
- 2004 – art James, người dẫn chương trình trò chơi người Mỹ (s. 1929)
- 2004 – Peter Ustinov, diễn viên người Anh (s. 1921)
- 2005 – Dame Moura Lympany, nghệ sĩ dương cầm người Anh (s. 1916)
- 2006 – Charles Schepens, bác sĩ nhãn khoa người Mỹ (s. 1912)
- 2006 – Kevin Pro Hart, nghệ sĩ người Úc (s. 1928)
- 2006 – Proinsias Ó Maonaigh, nhạc sĩ người Ireland (s. 1922)
Ngày lễ và ngày kỷ niệm
- Ngày nhà giáo của Slovakia, (nhằm ngày sinh của nhà giáo Jan Amos Komenský)
Tháng 1 | Tháng 2 | Tháng 3 | Tháng 4 | Tháng 5 | Tháng 6 | Tháng 7 | Tháng 8 | Tháng 9 | Tháng 10 | Tháng 11 | Tháng 12 |
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về 28 tháng 3 |
Tham khảo
Maksim Gorky
Maksim Gorky Максим Горький |
|
---|---|
![]() Gorky
|
|
Sinh | 28 tháng 3 năm 1868 Nizhny Novgorod, Đế quốc Nga |
Mất | 18 tháng 6 năm 1936 Moskva, Liên bang Nga |
Bút danh | Maksim Gorky |
Công việc | Nhà văn |
Trào lưu | Hiện thực |
Aleksey Maksimovich Peshkov (tiếng Nga: Алексей Максимович Пешков) (28 tháng 3 năm 1868 – 18 tháng 6 năm 1936), được biết đến nhiều hơn với cái tên Maksim Gorky (Максим Горький, Maksim Gor’kij), là một nhà văn, người đặt nền móng cho trường phái hiện thực xã hội trong văn chương và là một nhà hoạt động chính trị người Nga.[1] Ông được xem là nhà văn kiệt xuất của nền văn học nước Nga vào thế kỷ 20.[2] Từ năm 1906 đến 1913 và từ năm 1921 đến năm 1929, ông sống ở nước ngoài, hầu hết ở Capri của Ý; sau đó ông trở về Liên bang Xô viết. Ông là bạn của văn hào Nga Lev Nikolayevich Tolstoy và lãnh tụ Liên Xô Vladimir Ilyich Lenin.[2]
Mục lục
Đời sống
Gorky sinh ra tại Nizhny Novgorod và trở thành một trẻ mồ côi khi mười tuổi. Ông được người bà của ông nuôi dưỡng, bà ông là một người rất giỏi kể truyện. Cái chết của bà ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của ông, sau một lần tự vẫn không thành vào năm 1887, ông đã đi bộ xuyên qua Đế chế Nga trong 5 năm trời, thay đổi nghề nghiệp và tích lũy vốn kiến thức để sử dụng vào việc viết các tác phẩm của ông sau đó.
Trong vai trò là một nhà báo làm việc cho một tờ báo của tỉnh, ông đã viết các bài dưới bút danh Iegudiil Khlamida (Иегудиил Хламида). Ông bắt đầu sử dụng bút danh Gorky (“sự đắng cay”) vào năm 1892, trong thời gian ông làm việc ở Tiflis. Cái tên phản ánh sự tức giận của ông về đời sống ở Nga khi đó và sự quyết tâm nói nên sự thực đắng cay. Năm 1898, cuốn sách đầu tiên của Gorky có tên Ocherki i rasskaèy (Очерки и рассказы, Các bài tiểu luận và các câu truyện) đã thu đựoc thành công lớn là bước đầu làm cho ông trở thành người có tên tuổi trong nền văn chương Nga. Gorky đã viết không ngừng, phản ánh hiện thực của xã hội để đánh thức lương tâm của mọi người. Ông đã mô tả cuộc sống của những con người ở tầng lớp đáy trong xã hội và bị gạt ra ngoài lề của xã hội, bộc lộ sự gian khổ của họ, sự cực nhọc và bị đối xử hung bạo, nhưng cũng thể hiện ánh sáng lương tâm của họ.
Danh tiếng của Gorky như giọng văn học duy nhất từ những tầng lớp đáy xã hội và như một người ủng hộ nhiệt thành cho cuộc cải cách xã hội, chính trị và văn hoá Nga (tới năm 1899, ông công khai liên kết với phong trào Dân chủ xã hội Mác xít) khiến ông trở nên nổi tiếng trong cả giới trí thức và số lượng ngày càng gia tăng các công nhân “có ý thức”. Ở trung tâm của mọi tác phẩm của ông là một niềm tin ở giá trị vốn có và khả năng của con người (личность, lichnost’). Ông đưa ra các cá nhân đầy sức sống, nhận thức về phẩm giá tự nhiên của họ, và có cảm hứng từ nhiệt tình và ý chí của họ, những người chống lại các điều kiện sống đang ngày càng tồi tệ đi quanh mình. Tuy nhiên, cả các tác phẩm cũng như những bức thư của ông cho thấy một “con người không ngừng nghỉ” (một người thường xem xét lại mình) đấu tranh để giải quyết những tình cảm về đức tin và thái độ hoài nghi trái ngược bên trong, tình yêu cuộc sống và sự phẫn nỗ với sự tầm thường và nhỏ mọn của thế giới con người.
Ông công khai phản đối chế độ Sa hoàng và bị bắt giữ nhiều lần. Gorky kết bạn với nhiều nhà cách mạng và trở thành người bạn của Lenin sau khi họ gặp gỡ năm 1902. Ông phản ánh việc chính phủ kiểm soát báo chí (xem vụ việc Matvei Golovinski). Năm 1902, Gorky được bầu làm một thành viên danh dự của Viện hàn lâm Văn học, nhưng vua Nicholas II ra lệnh huỷ bỏ việc này. Để phản đối, Anton Chekhov và Vladimir Korolenko rời Viện hàn lâm.
Những năm 1900 tới 1905 là giai đoạn gia tăng tính lạc quan trong các tác phẩm của Gorky. Ông tham gia vào phong trào đối lập, và vì thế ông lại bị bỏ tù trong một thời gian ngắn năm 1901. Năm 1904, sau khi đã làm xấu đi mối quan hệ của mình với Nhà hát Nghệ thuật Moscow sau cuộc xung đột với Vladimir Nemirovich-Danchenko, Gorky quay trở lại Nizhny Novgorod để thành lập một nhà hát của riêng mình.[3] Cả Constantin Stanislavski và Savva Morozov đều hỗ trợ tài chính cho nhà hát.[4] Stanislavski coi nhà hát của Gorky như một cơ hội để phát triển mạng lưới các nhà hát tại các tỉnh mà ông hy vọng sẽ cải cách được nền nghệ thuật sân khấu tại Nga, việc ông đã hy vọng từ những năm 1890.[4] Ông gửi một số học sinh từ Trường Nghệ thuật Nhà hát – và cả Ioasaf Tikhomirov, người điều hành trường — tới làm việc tại dó.[4] Tuy nhiên, tới mùa thu khi cơ quan kiểm duyệt đã cấp mọi vở kịch mà nhà hát xin đưa lên sân khấu, Gorky rời bỏ dự án.[4] Khi ấy đã là một tác gia, biên tập viên, người viết kịch thành công về tài chính, Gorky hỗ trợ tài chính cho Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga (RSDLP), ngoài ra ông cũng ủng hộ những lời kêu gọi của phái tự do tới chính phủ đòi cải cách xã hội và nhân quyền. Vụ bắn giết dã man những người công nhân tuần hành yêu cầu cải cách của Sa hoàng vào ngày 9 tháng 1 năm 1905 (được gọi là “Chủ Nhật đẫm máu”), dẫn tới cuộc Cách mạng năm 1905, dường như đã khiến Gorky trở nên chống đối chế độ Sa hoàng kịch liệt hơn. Khi ấy ông đã là một người bạn thân cận của phái Bolshevik trong đảng của Vladimir Lenin – dù vẫn không rõ liệu ông đã từng chính thức gia nhập nó và nhữn quan hệ của ông với Lenin và những người Bolshevik luôn lung lay. Tuy nhiên, tại Luân Đôn, vào năm 1907 Lenin có nhìn nhận về ông: “Tôi là người hâm mộ tài năng của anh”.[2] Các tác phẩm có ảnh hưởng nhất của ông trong những năm này là loạt kịch chính trị, nổi tiếng nhất là The Lower Depths (1902). Năm 1906, những người Bolshevik cử ông đi một chuyến gây quỹ tới Hoa Kỳ, nơi tại Núi Adirondack Gorky đã viết tác phẩm nổi tiếng của mình về đấu tranh và chuyển biến cách mạng, Мать (Mat’, Người Mẹ). Những trải nghiệm của ông tại đó – gồm cả một scandal về việc ông đi cùng người tình chứ không phải vợ – đã làm sâu sắc hơn sự khinh miệt của ông với “tâm hồn tư sản” và cả với sự ngưỡng mộ của ông với tính dũng cảm của tinh thần Mỹ. Khi bị bỏ tù một thời gian ngắn tại Pháo đài Peter và Paul khi cuộc Cách mạng Nga năm 1905 thất bại, Gorky đã viết vở kịch Những đứa trẻ của Mặt trời, được đặt trong bối cảnh vụ dịch tả năm 1862, nhưng nói chung được hiểu có liên quan tới những sự kiện đương thời khi ấy.
Maxim Gorky và một nhà văn nổi tiếng người Nga khác là Lev Nikolayevich Tolstoy trở thành một đôi bạn thân. Tuy nhiên, họ có những điểm khác nhau về thân thế và quan điểm: trong khi Tolstoy sinh ra trong một gia đình giàu có, Gorky lại là một người thuộc giai cấp vô sản. Ông là người chủ trương thay đổi nước Nga trong khi Tolstoy lại không muốn sự bất công bị tiêu diệt bằng vũ lực. Ông là một người không có niềm tin tôn giáo, trong khi Lev Tolstoy lại là một người đặt niềm tin vào Thiên Chúa. Ngoài ra, về tuổi tác thì ông thua Tolstoy đến 40 tuổi. Bên cạnh đó, lòng yêu văn học là điểm tương đồng của họ. Gorky trở thành một đại văn hào nước Nga ở thế kỷ 20, tuy nhiên ông cũng ảnh hưởng văn học thế kỷ 19 của các nhà văn Tolstoy, Chekhov và cả một người thường bị ông chỉ trích – Fyodor Mikhailovich Dostoevsky. Cuối mùa thu năm 1910, Lev Nikolayevich Tolstoy qua đời. Tại Italia, Maxim Gorky hay tin:[2]
Bỗng nhiên một bức điện đến từ Roma báo tin Lev Nikolayevich [Tolstoy] qua đời. Tôi cảm thấy sững người trong vòng năm phút. Rồi tôi bật khóc. Tôi giam mình trong phòng và khóc suốt cả ngày. Chưa bao giờ tôi cảm thấy mình mồ côi như ngày hôm đó.
Từ năm 1906 tới năm 1913, Gorky sống trên đảo Capri, một phần vì các lý do sức khoẻ và một phần để tránh không khí đàn áp ngày càng gia tăng tại Nga.[1] Ông tiếp tục ủng hộ công việc của đảng dân chủ xã hội Nga, đặc biệt là những người Bolshevik, và viết các tiểu luận hưu cấu và văn hoá. Điều gây tranh cãi nhất, ông đã xây dựng, cùng với một số người Bolshevik không tuân theo kỷ luật, một triết học mà ông gọi là “Tạo ra Chúa”,[1] tìm cách chiếm quyền lực của giới thần thánh cho cách mạng và tạo ra một tôn giáo vô thần đặt collective humanity where God had been and was imbued with passion, wonderment, moral certainty, and the promise of deliverance from evil, suffering, and even death. Dù việc ‘Tạo ra Chúa’ bị Lenin ngăn chặn, Gorky vẫn giữ lại niềm tin của mình rằng “văn hoá” —sự nhận thức đạo đức và tinh thần về giá trị và tiềm năng của bản chất con người- sẽ có tầm quan trọng lớn hơn với thành công của cách mạng so với những sự sắp xếp chính trị hay kinh tế.
Một lệnh ân xá được đưa ra nhân kỷ niệm lần thứ 300 của triều đại Romanov cho phép Gorky quay trở lại Nga năm 1913, nơi ông tiếp tục việc chỉ trích xã hội, cố vấn cho các nhà văn khác từ giới bình dân, và viết một loạt các hồi ký văn hoá quan trọng, gồm cả phần đầu cuốn tự truyện của ông.[1] Khi quay về Nga, ông đã viết rằng ấn tượng chính của ông là “mọi người quá thô bạo và không có hình ảnh của Chúa.” Giải pháp duy nhất, ông nhiều lần tuyên bố, là “văn hoá”.
Trong Thế chiến I, căn hộ của ông tại Petrograd được biến thành một phòng làm việc của người Bolshevik, nhưng những quan hệ của ông với những người Cộng sản trở nên gay gắt. Sau khi tờ Novaya Zhizn (Новая Жизнь, “Đời sống Mới”) của ông trở thành đối tượng kiểm duyệt của người Bolshevik, Gorky đã xuất bản một tuyển tập tiểu luận chỉ trích những người Bolshevik với tên gọi Những tư tưởng không đúng lúc năm 1918. (Mãi tới khi Liên bang Xô viết sụp đổ nó mới được tái bản lần thứ hai.) Tiểu luận gọi Lenin là một bạo chúa vì những vụ bắt bớ vô cảm và sự đàn áp tự do ngôn luận của ông, và là một người vô chính phủ vì những toan tính bí ẩn của ông; Gorky đã so sánh Lenin với cả Sa hoàng và Nechayev. Tiểu luận này thể hiện Gorky là người bỡ ngỡ trước làn sóng cách mạng Nga đương thời.[2]
Tháng 8 năm 1921, Nikolai Gumilyov, bạn ông, một người bạn văn và là chồng của Anna Akhmatova, bị Cheka Petrograd bắt giữ vì các quan điểm quân chủ của ông. Gorky vội vã tới Moscow, xin được lệnh thả Gumilyov từ chính Lenin, nhưng khi quay trở về Petrograd ông mới biết rằng Gumilyov đã bị bắn. Tháng 10, Gorky quay trở lại Italia vì các lý do sức khoẻ: ông bị bệnh lao. Năm 1924, ông trở nên buồn bã khi hay tin lãnh tụ Vladimir Ilyich Lenin qua đời.[2]
Theo Aleksandr Solzhenitsyn, việc Gorky quay trở lại Liên bang Xô viết có động cơ từ các nhu cầu vật chất. Tại Sorrento, Gorky thấy mình không có tiền cũng chẳng có danh tiếng. Ông đã đến thăm Liên xô nhiều lần sau năm 1929, và vào năm 1932 Joseph Stalin đích thân mời ông quay trở lại vĩnh viễn, một đề xuất đã được ông chấp nhận. Tháng 6 năm 1929, Gorky tới thăm Solovki (đã được dọn dẹp cho dịp này) và viết một bài báo tích cực về trại Gulag này, nơi đã có tai tiếng ở phương Tây. Sau này ông bình luận rằng mọi thứ mà mình đã viết nằm dưới sự kiểm soát của những người kiểm duyệt. Điều thực tế ông thấy và nghĩ khi tới thăm trại là một chủ đề được bàn luận rất nhiều.
Việc Gorky quay trở lại từ nước Italia Phát xít là một chiến thắng tuyên truyền lớn cho những người Xô viết. Ông được trao Huân chương Lenin và được cấp một biệt thự (trước kia thuộc nhà triệu phú Ryabushinsky, hiện là Bảo tàng Gorky) ở Moscow và một nhà nghỉ nông thôn tại vùng ngoại ô. Một trong những con phố trung tâm của Moscow, Tverskaya, và thành phố nơi ông ra đời đã được đổi lại theo tên ông để vinh danh ông. Chiếc máy bay cánh cứng lớn nhất thế giới hồi giữa thập niên 1930, chiếc Tupolev ANT-20 (ảnh), cũng được đặt tên là Maxim Gorky. Nó được dùng cho các mục đích tuyên truyền và thường bay biểu diễn trên thủ đô Liên xô.
Ngày 11 tháng 10 năm 1931 Gorky đọc truyện cổ tích của mình “Một cô bé và thần chết” cho những người tới thăm Joseph Stalin, Kliment Voroshilov và Vyacheslav Molotov, một sự kiện sau này đã được Viktor Govorov thể hiện lại trên bức tranh của mình. Cùng ngày hôm ấy Stalin để lại bút tích của mình ở trang cuối cuốn sách đó của Gorky:
Эта штука сильнее чем “Фауст” Гёте (любовь побеждает смерть)[5] Tiếng Việt: “Tác phẩm này mạnh hơn Faust của Goethe (tình yêu đánh bại cái chết)”.
Năm 1933 Gorky xuất bản một cuốn sách đáng hổ thẹn về Kênh Biển Trắng-Baltic, được trình bày như một ví dụ của “sự hồi sinh thành công của những kẻ thù của giai cấp vô sản“.
Với sự gia tăng đàn áp của Chủ nghĩa Stalin và đặc biệt là sau cuộc ám sát Sergei Kirov tháng 12 năm 1934, Gorky bị đặt dưới tình trạng quản thúc tại gia không thông báo trong ngôi nhà của ông ở Moscow.
Cái chết bất ngờ của con trai ông là Maxim Peshkov tháng 5 năm 1934 được nối tiếp bởi cái chết của chính Maxim Gorky tháng 6 năm 1936. Suy đoán từ lâu đã rộ lên về hoàn cảnh cái chết của ông. Stalin và Molotov nằm trong số những người khênh quan tài của Gorky trong buổi lễ.
Trong những phiên xét xử mẫu với Bukharin năm 1938, một trong những cáo buộc là rằng Gorky đã bị giết hại bởi các nhân viên NKVD của Yagoda.[6]
Ở thời Liên bang Xô viết, trước và sau khi ông mất, những sự phức tạp trong đời sống và quan điểm của Gorky đã bị giảm xuống còn một hình ảnh biểu tượng (được ca ngợi trong những bức tranh hùng ca và những bức tượng ở những vùng nông thôn): Gorky như một tác gia Nga vĩ đại xuất thân từ người dân thường, một người bạn trung thành của những người Bolshevik, và người sáng lập và ngày càng thích hợp với “chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa“. Trái lại, các trí thức bất đồng coi Gorky là một tác gia có khuynh hướng ý thức hệ[cần dẫn nguồn], dù một số tác gia phương Tây[ai nói?] lưu ý những nghi ngờ và chỉ trích của Gorky[cần dẫn nguồn]. Ngày nay, một sự cân bằng lớn hơn đã được tìm thấy trong những tác phẩm về Gorky, theo đó chúng ta thấy một sự tán thưởng ngày cảng lớn về khía cạnh tinh thần phức tạp về đời sống Nga hiện đại được thể hiện trong những tác phẩm của ông [cần dẫn nguồn]. Một số nhà sử học[ai nói?] đã bắt đầu coi Gorky như một trong những nhà quan sát sâu sắc nhất về cả những hứa hẹn và những nguy hiểm của cách mạng tại Nga.
Các tác phẩm chọn lọc
- Makar Chudra (Макар Чудра), truyện ngắn, 1892
- Chelkash (Челкаш), Bà lão Izergil (Старуха Изергиль), 1895
- Malva, 1897
- Những tạo vật từng là con người, những câu chuyện được dịch sang tiếng Anh (1905)
- Ở đây có chứa một đoạn giới thiệu của G. K. Chesterton[7]
- Hai sáu người đàn ông và một cô gái
- Foma Gordeyev (Фома Гордеев), tiểu thuyết, 1899
- Ba người trong số họ (Трое), 1900
- Bài ca Chim báo bão (Песня о Буревестнике), 1901
- Bài ca Chim ưng (Песня о Соколе),truyện ngắn, 1902
- Cuộc đời Matvei Kozhemyakin (Жизнь Матвея Кожемякина)
- Người Mẹ (Мать), tiểu thuyết, 1907
- Một lời xưng tội (Исповедь), 1908
- Thành phố Okurov (Городок Окуров), tiểu thuyết, 1908
- Thời thơ ấu (Детство), 1913–1914
- Trong thế giới (В людях), 1916
- Chaliapin, các bài viết trong Letopis, 1917[8]
- Các tư tưởng không thích hợp, các bài viết, 1918
- Những trường đại học của tôi (Мои университеты), 1923
- The Artamonov Business (Дело Артамоновых), 1927
- Cuộc đời Klim Samgin (Жизнь Клима Самгина), epopeia, 1927–36
- Hồi ức Tolstoy (1919), Chekhov (1905–21), và Andreyev
- V.I.Lenin (В.И.Ленин), hồi ức, 1924–31
- The I.V. Stalin White Sea – Baltic Sea Canal, 1934 (tổng biên tập)
Kịch
- The Philistines (Мещане), 1901
- The Lower Depths (На дне), 1902
- Summerfolk (Дачники), 1904
- Những đứa con của Mặt trời (Дети солнца), 1905
- Barbarians, 1905
- Enemies, 1906
- Queer People, 1910
- Vassa Zheleznova, 1910
- The Zykovs, 1913
- Tiền giả, 1913
- Yegor Bulychov và những người khác, 1932
- Dostigayev và những người khác, 1933
Chuyển thể
Nhà thơ, nhà soạn kịch, và đạo diễn sân khấu theo chủ nghĩa hiện thực người Đức Bertolt Brecht đã sáng tác vở kịch sử thi “Người mẹ” vào năm 1932, dựa trên tiểu thuyết có cùng tên của Gorky. Tiểu thuyết của Gorky cũng được Valery Viktorovich Zhelobinsky chuyển thể thành một vở nhạc kịch vào năm 1938. Năm 1912, nhà soạn nhạc người Italia Giacomo Orefice sáng tác vở nhạc kịch Radda, dựa theo nhân vật “Radda” trong tác phẩm Makar Chudra.
Các tác phẩm về Gorky
- The Gorky Trilogy là một chuỗi gồm ba bộ phim—Tuổi thơ của Maxim Gorky, My Apprenticeship, và My Universities—đạo diễn bởi Mark Donskoi, quay phim tại Liên Xô,phát hành vào năm 1938-1940.
- The Murder of Maxim Gorky. A Secret Execution by Arkady Vaksberg. (Enigma Books: New York, 2007. ISBN 978-1-929631-62-9.)
Trích dẫn
- “Một người phải biết đếm dù chỉ để khi ở tuổi năm mươi người đó không cưới một cô gái hai mươi”
- “Если враг не сдается, его уничтожают” (Nếu kẻ thù không đầu hàng, chúng phải bị tiêu diệt!)
- “Khi lao động là một điều thú vị, cuộc đời là một niềm vui! Khi lao động là một trách nhiệm, cuộc đời là nô lệ.”
- “Một người cùng khổ tìm kiếm một người cùng khổ khác; sau đó anh ta hạnh phúc.”
- “Chính trị là cái máy tạo ra tình trạng thù địch xã hội, những nghi ngờ ma quỷ, những lời nói dối không hổ thẹn, những tham vọng bẩn thỉu, và sự không tôn trọng cá nhân. Kể tên bất kỳ thứ gì tồi tệ ở con người, và nó sẽ chính xác trong mảnh đất của tranh giành chính trị lớn lên cùng tham vọng.”
Xem thêm
- Ekaterina Peshkova, người vợ đầu của Gorky
- Zinovy Peshkov, con trai đỡ đầu của Gorky
- Công viên Gorky ở Moscow
- Moura Budberg, tình nhân của Gorky
- Maria Andreeva, người vợ theo luật thế tục thứ hai của ông
- Banham, Martin, ed. 1998. The Cambridge Guide to Theatre. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 0-521-43437-8.
- Benedetti, Jean. 1999. Stanislavski: His Life and Art. Revised edition. Original edition published in 1988. London: Methuen. ISBN 0-413-52520-1.
- Worrall, Nick. 1996. The Moscow Art Theatre. Theatre Production Studies ser. London and NY: Routledge. ISBN 0-415-05598-9.
- Figes, Orlando. 1998. “A People’s Tragedy: The Russian Revolution: 1891-1924” Penguin, NY and London. ISBN 978-0-14-024364-2
- Tác phẩm của Maxim Gorky tại Dự án Gutenberg
- Maxim Gorky trên Internet Movie Database
- “Anton Chekhov: Fragments of Recollections” by Maxim Gorky
- Some works of Maxim Gorky in the original Russian
- Works by Maxim Gorky (public domain in Canada)
- Prince of Russian Literature
- ^ a ă â b “Maksim Gorki”. Kuusankoski City Library, Finland. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2009.
- ^ a ă â b c d Maxim Gorky – huyền thoại về một con người
- ^ Vladimir Nemirovich-Danchenko đã lăng mạ Gorky với bài tiểu luận phê bình của mình về vở kịch mới của Gorky Summerfolk, mà Nemirovich miêu tả như một đống vật liệu vô hình và vô dạng thiếu đi một cốt truyện. Dù có những nỗ lực của Stanislavski để thuyết phục ông, tháng 12 năm 1904 Gorky từ chối sự cho phép của Nhà hát Nghệ thuật Moscow để dàn dựng vở kịch Kẻ thù của ông và từ chối “bất kỳ kiểu liên hệ nào với Nhà hát Nghệ thuật.” See Benedetti (1999, 149-150).
- ^ a ă â b Benedetti (1999, 150).
- ^ “Scan of the page from “A Girl And Death” with autograph by Stalin”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2009.
- ^ http://neworleans.media.indypgh.org/uploads/2007/02/the.treason.case.18feb07.pdff4mrvk.pdf
- ^ Những tạo vật từng là con người, và các câu chuyện khác, của Maksim Gorky (giới thiệu) tại ebooks.adelaide.edu.au
- ^ Bản viết tay của tác phẩm này, mà Gorky viết từ thông tin được cung cấp bởi người bạn là Chaliapin, đã được dịch, cùng với những thư từ trao đổi của Gorky với Chaliapin và những người khác, trong N. Froud và J. Hanley (Eds và các dịch giả), Chaliapin: An Autobiography as told to Maxim Gorky (Stein and Day, New York 1967) Library of Congress card no. 67-25616.
Tìm thêm về Maksim Gorky tại những đồng dự án của Wikipedia: | |
![]() |
Từ điển ở Wiktionary |
![]() |
Sách ở Wikibooks |
![]() |
Cẩm nang du lịch ở Wikivoyage |
![]() |
Hồ sơ ở Wikiquote |
![]() |
Văn kiện ở Wikisource |
![]() |
Hình ảnh và phương tiện ở Commons |
![]() |
Tin tức ở Wikinews |
![]() |
Tài liệu giáo dục ở Wikiversity |
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Maksim Gorky |
Istanbul
Istanbul (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: İstanbul) là thành phố lớn nhất, đồng thời là trái tim kinh tế, văn hóa và lịch sử của Thổ Nhĩ Kỳ. Với dân số 13,5 triệu người, nó hình thành một trong số các vùng đô thị lớn nhất châu Âu[d] và xếp vào một trong những thành phố đông dân nhất thế giới xét về dân cư trong địa phận thành phố[2][3]. Diện tích của thành phố là 5343 km², đây cũng là khuôn khổ của tỉnh Istanbul mà nó là thủ phủ[c]. Istanbul là một thành phố liên lục địa, bắc ngang qua eo biển Bosphorus – một trong những tuyến đường biển nhộn nhịp nhất thế giới – ở tây bắc Thổ Nhĩ Kỳ, nối biển Marmara và biển Đen. Trung tâm lịch sử và thương mại của Istanbul nằm ở phần thuộc châu Âu, và chỉ có một phần ba dân số cư trú ở phần thuộc châu Á[4].
Kiến tạo trên mũi đất Sarayburnu khoảng năm 660 trước Công nguyên với tên gọi Byzantium, thành phố mà nay được gọi là Istanbul đã phát triển trở thành một trong những đô thành huy hoàng nhất trong lịch sử. Trong gần mười sáu thế kỉ sau sự tái thiết thành Constantinopolis năm 330 Công nguyên, nó từng là kinh đô của bốn đế quốc: Đế quốc La Mã (330-395); Đế quốc Byzantine (395-1204 và 1261-1453), Đế quốc Latin (1204-1261) và Đế quốc Ottoman (1453-1922)[5]. Thành phố đã đóng vai trò quan trọng trong sự lớn mạnh của Cơ đốc giáo dưới các thời đại La Mã và Byzantine, trước khi người Ottoman chinh phục vào năm 1453 và biến nó thành một pháo đài Hồi giáo, nơi trị vì của triều đại khalip cuối cùng[6]. Mặc dù Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ đã chọn Ankara làm thủ đô của mình, ngày nay những cung điện và thánh đường vẫn ngự trên các ngọn đồi của Istanbul như để nhắc nhở về vai trò trung tâm trước đây của thành phố.
Vị trí chiến lược của Istanbul nằm trên Con đường tơ lụa, các mạng lưới đường sắt tới châu Âu và Trung Đông, và tuyến hải lộ duy nhất giữa biển Đen và Địa Trung Hải đã giúp phát triển lượng dân số hỗn tạp , mặc dầu ít nhiều suy giảm kể từ khi nền Cộng hòa thiết lập năm 1923. Mặc dù bị coi nhẹ do không còn là thủ đô trong thời kì giữa hai cuộc Thế chiến, song về sau thành phố đã dần lấy lại phần lớn vị thế của nó. Dân số thành phố đã tăng mười lần kể từ những năm 1950, phần lớn do dòng người nhập cư vượt qua miền Anatolia tập trung lại siêu đô thị này và quy mô thành phố mở rộng ra để dành cho họ[7][8]. Các lễ hội nghệ thuật được hình thành vào cuối thế kỷ 20, trong khi sự cải thiện cơ sở hạ tầng tạo nên một mạng lưới giao thông dày đặc.
Bảy triệu du khách nước ngoài đến Istanbul năm 2010, khi thành phố nhận danh hiệu Thủ đô Văn hóa châu Âu, đưa thành phố này trở thành điểm đến du lịch thu hút khách nhiều thứ mười trên thế giới[9]. Sức hút lớn nhất của thành phố nằm ở khu phố lịch sử, đượcUNESCO xếp hạng là Di sản thế giới, tuy nhiên trung tâm văn hóa và giải trí của nó nằm vắt qua cảng tự nhiên của thành phố, cảng Sừng Vàng ở quận Beyoğlu. Được xem là một thành phố toàn cầu[10], Istanbul là nơi đóng trụ sở của rất nhiều công ty cũng như cơ quan truyền thông Thổ Nhĩ Kỳ, và chiếm hơn một phần tư tổng sản phẩm nội địa của đất nước này[11]. Hy vọng tận dụng sự hồi sinh và phát triển nhanh chóng của mình, Istanbul hiện đang tích cực chạy đua giành quyền đăng cai Thế vận hội Mùa hè 2020[12].
Mục lục
Nguồn gốc tên gọi
Tên đầu tiên được biết tới của thành phố là Byzantium (tiếng Hy Lạp: Βυζάντιον, Byzántion), bắt nguồn từ tên một vị vua là Byzas, người trị vì thuộc địa mà được thành lập nơi đây từ khoảng 660 năm trước Công nguyên[a][1]. Sau khi Constantinus Đại đế đặt đế đô phương đông của Đế quốc La Mã ở đây năm 330 Công nguyên, thành phố được biết đến rộng rãi dưới tên Constantinopolis hay Constantinopolis, dạng latin hóa của “Κωνσταντινούπολις” (Kōnstantinoúpolis), nghĩa là “thành phố của Constantinus”[1]. Bản thân vị hoàng đế này đề xướng tên gọi Nea Roma (“Rome Mới”), nhưng không được sử dụng rộng rãi[17]. Tên Constantinopolis tiếp tục là tên gọi phổ biến nhất của thành phố ở phương Tây cho đến khi Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ ra đời, và từ tương ứng trong tiếng Thổ Ottoman, Kostantiniyye (قسطنطينيه) là tên chính mà người Ottoman sử dụng trong thời cai trị của mình. Tuy nhiên, hiện nay người Thổ Nhĩ Kỳ coi việc dùng từ Constantinopolis để nhắc tới thành phố trong thời kỳ Ottoman (từ giữa thế kỉ 15) là sai về mặt chính trị, nếu không nói là sai về mặt lịch sử[18].
Tới thế kỉ 19, người ngoại quốc và người Thổ Nhĩ Kỳ gọi thành phố này bằng nhiều tên khác nhau. Người châu Âu dùng từ Constantinopolis để nói tới toàn thành phố, nhưng dùng tên Stamboul – và người Thổ Nhĩ Kỳ cũng làm vậy – để mô tả vùng bán đảo có tường thành bao bọc giữa Sừng Vàng và biển Marmara[18]. Pera (từ tiếng Hy Lạp, nghĩa là “bắc ngang qua”) dùng để miêu tả khu vực giữa Sừng Vàng và biển Bosphorus, nhưng người Thổ Nhĩ Kỳ lại gọi khu vực này bằng tên Beyoğlu cho tới tận ngày nay[19]. Islambol (nghĩa là “thành phố Hồi giáo” hay “toàn Hồi giáo”) đôi khi được dùng một cách thông tục để chỉ thành phố, và thậm chí được khắc trên một số đồng xu Ottoman[20] nhưng niềm tin rằng nó là tiền thân của tên hiện tại, Istanbul bị chứng tỏ là sai bởi trên thực tế, tên Istanbul đã tồn tại trước tên kia và thậm chí trước cả khi người Ottoman và Hồi giáo xâm lược thành phố[1].
Về mặt từ nguyên, tên İstanbul (isˈtanbuɫ, hay trong cách nói thông dụng là ɯsˈtambuɫ) bắt nguồn từ cụm từ tiếng Hy Lạp Trung Cổ “εἰς τὴν Πόλιν” (is tin ˈpolin), có nghĩa là “trong thành phố” hoặc “tới thành phố”. Điều này phản ánh vị thế của nó như là thành phố lớn duy nhất trong vùng xung quanh, giống như cách mà người ta ngày nay vẫn thường gọi trung tâm đô thị ở gần họ là “Thành phố” (mà không cần nhắc tới tên). Một quan điểm khác là tên này nảy sinh trực tiếp từ tên Constantinopolis với các âm tiết đầu và âm tiết thứ ba bị lược bớt đi[1]. Trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại, tên này được viết là İstanbul, có một chữ İ chấm trên, do bảng chữ cái Thổ Nhĩ Kỳ phân biệt chữ I có chấm và không chấm. Ngoài ra, nếu trong một số ngôn ngữ châu Âu khác như tiếng Anh trọng âm rơi vào âm tiết đầu (Is), thì trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ nó nằm ở âm tiết thứ nhì (tan)[21]. Năm 1930, nhà nước Thổ Nhĩ Kỳ đã quy định İstanbul là tên gọi duy nhất của thành phố[22][23]. Một người từ thành phố này trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ gọi là İstanbullu (số nhiều: İstanbullular), còn trong tiếng Anh là Istanbulite[24].
Lịch sử
Các vật tạo tác thời Đá mới, có niên đại thiên niên kỉ thứ 7 trước Công nguyên và được các nhà khảo cổ khai quật vào đầu thế kỉ 21 đã chỉ ra rằng bán đảo lịch sử Istanbul đã từng được khai phá sớm hơn so với trước đây người ta tưởng và thậm chí trước cả khi eo Bosphorus hình thành[25]. Trước khám phá này, hiểu biết thông thường cho rằng các bộ lạc người Thrace, bao gồm người Phrygia, bắt đầu định cư ở Sarayburnu vào cuối thiên niên kỉ thứ 6 trước CN[16]. Ở bờ châu Á, các vật tạo tác bắt nguồn từ khoảng thiên niên kỉ thứ 4 trước CN đã tìm thấy ở Fikirtepe (thuộc quận Kadıköy)[26]. Nơi này cũng từng là địa điểm của một trạm buôn bán của người Phoenicia ở đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước CN cũng như thị trấnChalcedon thành lập vào khoảng năm 680 tr.CN[a].
Tuy nhiên, lịch sử của Istanbul thông thường được ghi nhận từ khoảng 660 tr.CN[a], khi những người dân di thực từ Megara, dưới sự chỉ huy của Vua Byzas, lập nên thành bang thuộc địa Byzantium ở bờ châu Âu của eo Bosphorus. Họ đã xây mộtvệ thành gần kề Sừng Vàng ở vị trí nơi người Thrace khai phá trước kia, nhen nhóm cho nền kinh tế mới nảy nở của thành phố[27]. Thành bang này đã trải qua một thời kì ngắn dưới nền cai trị của Ba Tư cuối thế kỉ 5 trước CN, nhưng người Hy Lạp đã sớm chiếm lại nó trong Chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư[28]. Byzantium tiếp tục tham gia vào Liên minh Athena và sau đó là Liên bang Athena lần thứ hai, trước khi giành được độc lập hoàn toàn vào năm 355 tr.CN[29]. Sau một thời gian dài kết đồng minh với người La Mã, Byzantium chính thức trở thành một phần của Đế quốc La Mã vào năm 73 Công nguyên[30].
Quyết định của Byzantium về phe với người thoán ngôi Pescennius Niger chống lại Hoàng đế La Mã Septimius Severus đã khiến Byzantium phải trả một giá rất đắt; khi Byzantium đầu hàng vào năm 195, hai năm vây hãm đã làm cho thành phố trở nên đổ nát[31]. Tuy vậy, năm năm sau, Severus bắt đầu tái dựng Byzantium, và thành phố đã giành lại – và theo một số ghi chép còn vượt qua – sự thịnh vượng trước kia của nó[32].
Sự hưng thịnh và suy vong của Constantinopolis
Constantinus Đại đế thành công trong việc giành ngôi hoàng đế của toàn Đế quốc La Mã vào tháng 9 năm 324[33]. Hai tháng sau, Constantinus triển khai những quy hoạch một thành phố mới, theo Cơ đốc giáo để thay cho Byzantium. Là đế đô phương đông của đế quốc, thành phố được đặt tên là Nea Roma (“Roma mới”); tuy nhiên, thường được gọi đơn giản là Constantinopolis, một cái tên tồn tại tới thế kỉ 20[34]. Sáu năm sau, vào ngày 11 tháng 5 năm 330, Constantinopolis trở thành kinh đô của một đế quốc mà về sau được biết đến với tên Đế quốc Byzantine hay Đế quốc Đông La Mã[35].
Việc xây dựng thành Constantinopolis được cho là một trong những thành tựu tồn tại vững bền nhất của Constantinus, làm dịch chuyển trọng tâm quyền lực của La Mã về phía đông khi thành phố này trở thành trung tâm của văn hóa Hy Lạp và của đạo Cơ đốc[35][36]. Nhiều nhà thờ đã được xây dựng ở thành phố, bao gồm Hagia Sophia – từng là nhà thờ Cơ đốc giáo lớn nhất thế giới trong hơn một ngàn năm[37]. Một đổi thay chủ chốt khác dưới thời Constantinus là sự cách tân và mở rộng Trường đua xe ngựa Constantinopolis; cho phép hàng vạn khán giả tham dự, trường đua này đã trở thành trung tâm trong đời sống công cộng cũng như, trong các thế kỷ 5 và 6, tâm chấn của các cuộc bạo động, bao gồm Vụ bạo loạn Nika[38][39]. Nơi xây dựng Constantinopolis cũng đảm bảo sự tồn tại của nó đứng vững trước những thử thách của thời gian; trong nhiều thế kỉ, những bức tường thành và đê biển của thành phố đã bảo vệ châu Âu khỏi những đạo quân xâm lược từ phương Đông và sự trỗi dậy của Hồi giáo[36]. Trong hầu hết thời Trung Cổ tức nửa sau của kỷ nguyên Byzantine, Constantinopolis từng là thành phố lớn nhất và giàu có nhất trên lục địa châu Âu và có những thời kỳ là đô thành lớn nhất thế giới[40][41].
Constantinopolis bắt đầu suy yếu sau cuộc Thập tự chinh thứ tư, trong đó nó đã bị cướp bóc và đốt phá[42]. Sau đó thành phố trở thành trung tâm của Đế quốc Latin do quân đội thập tự chinh theo Công giáo lập nên để thay thế cho Đế quốc Byzantine Chính thống giáo[43]. Tuy nhiên, Đế quốc Latin chỉ tồn tại trong khoảng thời gian ngắn ngủi, và Đế quốc Byzantine được phục hồi vào năm 1261, nhưng đã suy yếu nhiều[44]. Các giáo đường, công sự, và các dịch vụ cơ bản trong tình trạng không được tu sửa[45] còn dân cư thành phố tụt xuống còn một trăm ngàn từ con số nửa triệu ở thế kỉ 8[e].
Hoàng đế Andronikos II Palaiologos lên ngôi năm 1282 đã ban hành nhiều chính sách kinh tế và quân sự sai lầm, như giảm bớt lực lượng quân đội, càng làm đế chế suy yếu đi, mất khả năng kháng cự xâm lược[46]. Vào giữa thế kỉ 14, người Thổ Ottoman bắt đầu một chiến lược chiếm đóng dần dần những thành phố, thị trấn nhỏ hơn xung quanh, cắt đứt các tuyến đường cung yếu cho Constantinopolis và bóp nghẹt nó một cách chậm rãi[47]. Cuối cùng, vào ngày 29 tháng 5 năm 1453, sau một cuộc bao vây kéo dài chín tuần (trong đó Hoàng đế La Mã cuối cùng, Constantine XI Palaiologos bị giết), Sultan Mehmed II “Nhà chinh phục” đã chiếm được Constantinopolis và tuyên bố thành phố này là kinh đô mới của Đế quốc Ottoman. Ít giờ sau đó, vị sultan cưỡi ngựa tới Hagia Sophia và triệu tập một thầy tế (imam) để tuyên cáo tín ngưỡng Hồi giáo, chuyển đổi nhà thờ Kitô giáo vĩ đại này thành một thánh đường Hồi giáo của đế quốc do trước đó kinh thành này đã từ chối đầu hàng.[48].
Kỷ nguyên Ottoman và Thổ Nhĩ Kỳ
Sau khi Constantinopolis thất thủ, Mehmed II ngay lập tức tiến hành phục sinh thành phố, mà từ đó thường được gọi với tên Istanbul. Ông khuyến khích những người dân chạy nạn trong cuộc vây hãm trở về, và cưỡng bức tái định cư những người Hồi giáo, Do Thái và Kitô giáo từ những miền khác của Anatolia. Vị sultan này mời gọi cư dân từ khắp châu Âu tới kinh đô của ông, tạo nên một xã hội toàn cầu tồn tại trong phần lớn thời kỳ Ottoman[49]. Bên cạnh đó, Mehmed II đã cho sửa chữa cơ sở hạ tầng bị hư hại của thành phố, bắt đầu xây Kapali Carsi (Chợ Lớn) và Cung điện Topkapı, dinh cơ chính thức của hoàng gia[50].
Người Ottoman đã nhanh chóng biến đổi thành phố từ một thành lũy Cơ đốc giáo trở thành một biểu tượng của văn hóa Hồi giáo. Các quỹ tôn giáo được thành lập để quyên tiền cho việc xây cất các thánh đường Hồi giáo vĩ đại, thường nằm tiếp giáp với các trường học, bệnh viện và nhà tắm công cộng[50]. Triều đại Ottoman tự tuyên bố là một triều đại khalip vào năm 1517, với Istanbul là kinh đô của triều đại khalip cuối cùng trong lịch sử này hơn bốn thế kỉ sau đó[6]. Thời kỳ chấp chính củaSuleiman Đại đế từ 1520 tới 1566 là đỉnh cao của nhà nước Ottoman, đồng thời là kỷ nguyên hoàng kim của các thành tựu nghệ thuật và kiến trúc vĩ đại; kiến trúc sư trưởng Mimar Sinan đã thiết kế một loạt những công trình có tính biểu tượng của thành phố, trong khi nghệ thuật làm gốm, thư pháp và tranh tiểu họa nở rộ[51]. Dân số của Istanbul tiếp tục tăng, lên tới 570 nghìn người vào cuối thế kỉ 18[52].
Một thời kì hỗn loạn đầu thế kỉ 19 đã dẫn tới sự xuất hiện của vị Sultan tiến bộ Mahmud II và sau đó là thời kỳ Tanzimat với một loạt các cải cách chính trị và đưa những công nghệ mới vào thành phố. Các cây cầu bắc qua Sừng Vàng được xây dựng chính trong thời kỳ này[53], và Istanbul được kết nối với mạng lưới đường sắt châu Âu vào những năm 1880[54]. Các dịch vụ hiện đại, như hệ thống nước ổn định, điện lưới, điện thoại rồi xe điện lần lượt xuất hiện ở Istanbul trong những thập kỉ sau đó, mặc dù muộn hơn so với một số thành phố châu Âu khác[55]. Dù vậy, những nỗ lực hiện đại hóa đã không đủ để đẩy lùi sự suy tàn của Đế chế Ottoman.
Đầu thế kỷ 20, cuộc Cách mạng Thổ Nhĩ Kỳ Trẻ (1908) đã loại bỏ Sultan Abdul Hamid II và một loạt các cuộc chiến tranh sau đó đã gieo tai họa cho thủ đô của một đế quốc kiệt quệ[56]. Cuộc chiến cuối cùng trong số đó, Thế chiến thứ nhất, đã dẫn đến việc quân đội Anh, Pháp, Ý chiếm đóng Istanbul (1918-1923). Vị Sultan cuối cùng, Mehmed VI, bị lưu đày vào tháng 11 năm 1922; năm kế đó, Hiệp ước Lausanne đã chấm dứt sự chiếm đóng và thừa nhận nhà nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, do Mustafa Kemal Atatürk sáng lập[57].
Trong những năm đầu của nền cộng hòa, mối quan tâm của chính quyền cho Istanbul được chuyển sang Ankara, thành phố được chọn làm thủ đô mới để tách đất nước thế tục mới khỏi quá khứ Ottoman của nó[58]. Tuy nhiên, bắt đầu từ cuối thập niên 1940 và đầu 1950, Istanbul đã trải qua những biến đổi to lớn về cấu trúc đô thị, như những quảng trường công cộng, đại lộ mới được xây dựng khắp thành phố, đôi khi làm tổn hại tới các công trình lịch sử[59]. Dân số Istanbul bắt đầu tăng nhanh trong những năm 1970, khi người dân từ Anatolia di cư tới thành phố để kiếm việc làm trong nhiều nhà máy mới xuất hiện ở vùng ngoại ô của một thành phố đang vươn lên. Sự nhảy vọt đột ngột về dân số tạo nên nhu cầu lớn về phát triển nhà ở, và nhiều ngôi làng và khu rừng hẻo lánh trước kia đã được sáp nhập vào vùng đô thị Istanbul[60].
Địa lý
Vị trí
Istanbul bao nằm ở tây bắc Thổ Nhĩ Kỳ với trong vùng Marmara với tổng diện tích 5343 km2[c]. Eo biển Bosphorus kết nối Biển Marmaravới Biển Đen chia thành phố làm hai nửa, một thuộc miền Thrace thuộc châu Âu và là trung tâm văn hóa và lịch sử, và một nửa thuộc miền Anatolia thuộc châu Á[65]. Thành phố cũng chia cắt theo Sừng Vàng, một cảng tự nhiên bao bọc bán đảo nơi các đô thị Byzantium và Constantinopolis xưa kia được thành lập. Nơi gặp nhau của Biển Marmara, Bosphorus và Sừng Vàng ở trung tâm của Istanbul ngày nay đã đẩy lui các đạo quân xâm lược trong hàng ngàn năm và ngày nay vẫn là một nét nổi bật của cảnh quan thành phố[36].
Phỏng theo mô hình của Rome, bán đảo lịch sử được cho là dựng trên bảy ngọn đồi, mỗi ngọn có một thánh đường ngự trên đỉnh. Ngọn đồi vươn xa về phía đông nhất là vị trí của Cung điện Topkapı trên ngọn Sarayburnu[66]. Nhô lên ở phía đối diện Sừng Vàng là một ngọn đồi khác có hình nón, nơi có quận Beyoğlu hiện đại. Do địa thế, các ngôi nhà ở đây từng được xây dựng với sự gia cố của các bức tường kè xếp bậc thang, và các con đường xếp bậc[67]. Üsküdar ở phía châu Á cũng có các đặc điểm đồi gò tương tự, với địa hình mở rộng dần về phía bờ biển Bosphorus, nhưng địa thế ở Şemsipaşa và Ayazma dốc hơn nhiều, giống như một mũi đất. Điểm cao nhất ở Istanbul là đồi Çamlıca, với độ cao tuyệt đối 288m[67].
Istanbul nằm gần đứt gãy Bắc Anatolia, cạnh ranh giới giữa các mảng châu Phi và Á-Âu. Đới đứt gãy này chạy từ miền bắc Anatolia đến biển Marmara, đã gây nên các trận động đất lớn gây thiệt hại nhiều nhân mạng trong suốt lịch sử của thành phố. Trong số đó, các trận địa chấn tàn phá nặng nề nhất phải kể đến như động đất Istanbul 1509 đã gây ra sóng thần làm phá vỡ các bức tường thành của thành phố và làm hơn 1 vạn người thiệt mạng. Gần đây trận động đất năm 1999 xảy ra với tâm chấn gần İzmit khiến 18 nghìn người chết, trong đó có 1 nghìn người sống ở ngoại ô Istanbul[68]. Dân cư Istanbul vẫn quan ngại về những trận động đất thậm chí còn khủng khiếp hơn xảy ra trong tương lai gần, vì hàng nghìn tòa nhà được xây dựng gần đây để đáp ứng dân số gia tăng nhanh không được xây dựng đúng chuẩn mực[68]. Các nhà địa chấn học dự đoán có nguy cơ một trận động đất độ lớn 7,6-thang độ lớn mômen hoặc lớn hơn có thể sẽ tấn công Istanbul năm 2030 với xác suất lớn hơn 60%[69][70].
Khí hậu
Istanbul là một thành phố sở hữu cùng lúc nhiều kiểu khí hậu: khí hậu cận nhiệt đới ẩm (Phân loại khí hậu Köppen: Cfa) và khí hậu Địa Trung Hải (Phân loại khí hậu Köppen: Csa)[71][72]. Tuy nhiên, do có diện tích rộng lớn, địa hình đa dạng, và nằm gần biển nên ở Istanbul tồn tại các miền vi khí hậu. Phần phía bắc của thành phố có khí hậu đại dương do ảnh hưởng của hơi ẩm từ Biển Đen và mật độ lớp phủ thực vật tương đối cao. Khí hậu trong khu vực đông dân cư ở phía nam thì ấm hơn và ít bị ảnh hưởng của hơi ẩm[73].
Thực vậy, một trong những đặc điểm nổi bật nhất của khí hậu trong nhiều vùng của Istanbul là độ ẩm liên tục cao, đạt tới 80 phần trăm vào hầu như mọi buổi sáng[74]. Do những điều kiện này mà sương mù rất phổ biến, mặc dù dày hơn ở phía bắc chứ không ở trung tâm[73]. Hiện tượng sương mù dày đáng chú ý làm ngăn trở giao thông trong khu vực, bao gồm trên eo Bosphorus, xảy ra quanh năm trong các tháng mùa thu và mùa đông, khi độ ẩm vẫn duy trì cao tới buổi chiều[75][76][77]. Điều kiện ẩm ướt và sương mù có xu hướng tiêu tan vào giữa ngày trong các tháng mùa hè, nhưng hơi ẩm còn sót lại có tác động khiến cho thời tiết tương đối nóng nực vào mùa hè thêm phần khó chịu[74][78]. Trong mùa hè, nhiệt độ cao nhất dao động quanh 29 °C và không thường xuyên có mưa rào; chỉ có khoảng 15 ngày mưa đo được giữa tháng 6 và tháng 8[79].
Mùa đông ở Istanbul lạnh hơn hầu hết các thành phố khác trong miền Địa Trung Hải, với nhiệt độ xuống thấp nhất trung bình 4-5 °C[79]. Tuyết do hiệu ứng hồ (gió lạnh cuốn hơi ấm trên mặt nước tạo tuyết ở bờ dưới gió) từ Biển Đen xuất hiện thường xuyên, nhưng khó dự đoán, với nguy cơ dày và – cùng với sương mù – gây thiệt hại cho cơ sở hạ tầng của thành phố[80]. Mùa xuân và thu có thời tiết khá êm dịu, nhưng thường ẩm ướt và khó lường; gió lạnh từ phía tây bắc và những cơn gió ấm từ phía nam đôi khi xuất hiện trong cùng một ngày – có xu hướng khiến nhiệt độ dao động[78][81]. Nhìn chung, hàng năm Istanbul có trung bình khoảng 115 ngày có mưa đáng kể, với lượng mưa 852 mm mỗi năm[79][82]. Nhiệt độ cao nhất và thấp nhất từng ghi nhận được trong thành phố là 40,5 °C và -16,1 °C. Lượng mưa cao nhất trong ngày được ghi nhận là 227mm, trong khi lớp tuyết phủ dày nhất là 80 cm[83][84].
[ẩn]Dữ liệu khí hậu của Istanbul (1954–2013) | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tháng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
Cao kỉ lục °C (°F) | 22.0 | 23.2 | 29.3 | 33.6 | 34.2 | 40.0 | 41.5 | 39.6 | 35.4 | 34.0 | 26.5 | 25.8 | 41,5 |
Trung bình cao °C (°F) | 8.3 | 8.8 | 10.7 | 15.3 | 20.0 | 24.6 | 26.5 | 26.7 | 23.5 | 19.1 | 14.7 | 10.7 | 17,4 |
Trung bình ngày, °C (°F) | 5.6 | 5.6 | 7.0 | 11.0 | 15.6 | 20.4 | 22.8 | 23.0 | 19.7 | 15.6 | 11.4 | 7.9 | 13,8 |
Trung bình thấp, °C (°F) | 3.2 | 3.0 | 4.2 | 7.7 | 12.1 | 16.5 | 19.4 | 20.0 | 16.7 | 13.0 | 8.9 | 5.4 | 10,8 |
Thấp kỉ lục, °C (°F) | −11 | −8.4 | −5.8 | −1.4 | 3.0 | 8.5 | 12.0 | 12.3 | 7.1 | 0.6 | −1.4 | −7 | −11 |
Giáng thủy mm (inches) | 104.2 (4.102) |
77.3 (3.043) |
69.5 (2.736) |
46.4 (1.827) |
33.5 (1.319) |
32.8 (1.291) |
32.7 (1.287) |
40.8 (1.606) |
58.9 (2.319) |
86.8 (3.417) |
102.2 (4.024) |
125.0 (4.921) |
810,1 (31,894) |
Số ngày giáng thủy TB (≥ 0.1 mm) | 17.8 | 15.5 | 13.7 | 10.6 | 8.1 | 6.2 | 4.4 | 5.1 | 7.5 | 11.1 | 13.3 | 17.5 | 130,8 |
Số giờ nắng trung bình hàng tháng | 71.3 | 87.6 | 133.3 | 180.0 | 251.1 | 300.0 | 322.4 | 294.5 | 243.0 | 164.3 | 102.0 | 68.2 | 2.217,7 |
Số giờ nắng trung bình ngày | 2.3 | 3.1 | 4.3 | 6.0 | 8.1 | 10.0 | 10.4 | 9.5 | 8.1 | 5.3 | 3.4 | 2.2 | 6,07 |
Nguồn: Cục Khí tượng Quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ (nắng,1960–2012)[79][82][85] |
Cảnh quan
Khu vực lịch sử của Istanbul | |
---|---|
![]() |
|
Quốc gia | Thổ Nhĩ Kỳ |
Kiểu | Văn hóa |
Hạng mục | I, II, III, IV |
Tham khảo | 356 |
Vùng UNESCO | Châu Âu và Bắc Mỹ |
Lịch sử công nhận | |
Công nhận | 1985 (kì thứ lần thứ 9) |
Quận Fatih ứng với vùng từng là, cho tới trước cuộc chinh phục Ottoman, toàn bộ thành phố, vắt ngang qua nơi thành lũy Galata củaGenova từng hiện hữu. Những thành lũy Genoa đã bị hủy hoại phần lớn vào thế kỉ 19, chỉ còn lại Tháp Galata, nhường chỗ cho sự mở rộng về phía bắc của thành phố[86]. Galata nay là một phần của quận Beyoğlu, trung tâm thương mại và giải trí của Istanbul xung quanh Quảng trường Taksim[87].
Cung điện Dolmabahçe, nơi đặt trụ sở chính quyền ở cuối thời Ottoman, nằm ở Beşiktaş, hướng chính bắc của Beyoğlu, qua Sân vận động BJK İnönü, sân nhà của câu lạc bộ thể thao lâu đời nhất của Thỗ Nhĩ Kỳ là Beşiktaş J.K.[88]. Ngôi làng Ortaköy cũ nằm trong Beşiktaş là nguồn gốc của Thánh đường Hồi giáo Ortaköy, dọc theo Bosphorus ở đoạn gần Cầu Bosphorus thứ nhất. Nằm bên bờ Bosphorus về phía bắc nơi đó là các yallı, hay những tòa biệt thự bằng gỗ sang trọng xây bởi các quý tộc và giới thượng lưu thế kỉ 19 làm nơi ở mùa hè[89]. Xa hơn vào đất liền, bên ngoài đường vành đai trong của thành phố là các quận Levent vàMaslak, các trung tâm kinh tế chính của Istanbul[90].
Dưới thời Ottoman, Üsküdar và Kadıköy nằm ngoài phạm vi đô thị Istanbul, đóng vai trò các tiền đồn yên tĩnh với những yalı và vườn bên bờ biển. Tuy nhiên, trong nửa sau thế kỉ 20, bờ châu Á chứng kiến sự đô thị hóa lớn lao; sự phát triển muộn của phần thành phố này đưa đến hạ tầng tốt hơn và quy hoạch đô thị sạch sẽ hơn so với hầu hết khu vực dân cư ở thành phố[4]. Phần nhiều bờ châu Á của Bosphorus có chức năng như vùng ngoại ô của các trung tâm kinh tế và thương mại phần châu Âu, chiếm một phần ba dân cư thành phố nhưng chỉ một phần tư lao động[4]. Như một hậu quả của sự phát triển chóng mặt trong thế kỉ 20, một phần đáng kể thành phố là gecekondu (nghĩa đen là “xây qua đêm”), chỉ những khu nhà lấn chiếm đất xây dựng bất hợp pháp[91]. Hiện tại, một số khu như thế này đã bị phá dỡ dần dần và thay thế bằng những tổ hợp nhà ở quy mô lớn hiện đại[92].
Istanbul không có một công viên trung tâm giống như những thành phố lớn khác, thay vào đó có khá nhiều không gian xanh. Công viên Gülhane và Công viên Yıldız ban đầu nằm gọn trong khuôn viên của hai trong số các cung điện ở Istanbul – Cung điện Topkapı và Cung điện Yıldız – nhưng chúng được chuyển đổi mục đích thành các công viên công cộng trong những thập niên đầu của nền Cộng hòa[93]. Một công viên khác, Fethi Paşa Korusu, nằm ở một vùng đồi gần cầu Bosphorus ở Anatolia, đối diện Cung điện Yıldız. Dọc theo bờ châu Âu, và gần với Cầu Fatih Sultan Mehmet là Công viên Emirgan; từng là một điền trang tư gia thuộc về các lãnh tụ Ottoman, công viên 47 hecta này nổi tiếng về sự đa dạng thực vật và lễ hội hoa tulip hàng năm kể từ 2005[94]. Phổ biến với người Istanbul trong mùa hè là Rừng Belgrad, trải trên một diện tích 5500 hecta ở cạnh bắc của thành phố. Khu rừng vốn cung cấp nước cho thành phố và dấu vết của các bể chứa sử dụng dưới các thời Byzantine và Ottoman hiện vẫn còn[95][96].
Kiến trúc
Istanbul nổi tiếng chủ yếu với kiến trúc Byzantine và Ottoman, nhưng các công trình nơi đây còn phản ánh dấu ấn nhiều dân tộc và đế chế khác nhau từng cai trị thành phố này. Ví dụ của các kiến trúc Genoa và La Mã vẫn còn hiện hữu ở Istanbul bên cạnh các di tích Ottoman. Trong khi không còn lại gì trong kiến trúc thời Hy Lạp cổ điển còn tồn tại, kiến trúc La Mã cổ đại tỏ ra vững bền hơn. Các đài kỷ niệm từ Trường đua xe ngựa Constantinopolis vẫn còn thấy được trên Quảng trường Sultan Ahmet, trong khi một phần của đường dẫn nước trên cao Valens từ thế kỉ 4 vẫn duy trì tương đối nguyên vẹn ở góc phía tây của quận Fatih[97]. Cột Constantinus dựng năm 330 để đánh dấu thành lập thủ đô La Mã mới vẫn còn đứng vững cách trường đua không xa[97].
Kiến trúc Byzantine sơ kỳ tuân theo hình mẫu La Mã về vòm cuốn, nhưng cải tiến yếu tố này như ở Nhà thờ Thánh Sergius và Bacchus. Nhà thờ Byzantine cổ nhất còn tồn tại-mặc dù đã hoang phế-là Tu viện Stoudios xây vào năm 454[98]. Sau khi chiếm lại được Constantinopolis vào năm 1261, người Byzantine mở rộng hai trong số những nhà thờ quan trọng nhất còn tồn tại, Nhà thờ Chora và Nhà thờ Pammakaristos. Tuy nhiên, đỉnh cao của nghệ thuật kiến trúc Byzantine, và một trong những công trình có tính biểu tượng cho Istanbul, là Hagia Sophia. Với một mái vòm đường kính 31m, nó là nhà thờ Kitô giáo lớn nhất thế giới trong hơn 1000 năm, trước khi trở thành một thánh đường Hồi giáo, và hiện nay là một bảo tàng[37].
Trong số các ví dụ về kiến trúc Ottoman lâu đời nhất ở Istanbul còn tồn tại là các pháo đài Anadoluhisarı và Rumelihisarı, đã hỗ trợ quân Ottoman trong cuộc công chiếm thành phố[99]. Trong hơn bốn thế kỉ sau đó, người Ottoman đã đóng một dấu ấn còn mãi lên đường chân trời ở Istanbul, xây dựng các thánh đường cao ngất và các cung điện lộng lẫy. Cung điện lớn nhất, Tokapı, kết hợp nhiều phong cách kiến trúc đa dạng, từ Baroque trong hậu cung hoàng gia tới Thư viện Enderûn theo phong cách Tân cổ điển[100]. Các vương cung thánh đường bao gồmThánh đường Hồi giáo Sultan Ahmed (Thánh đường Xanh), Thánh đường Süleymaniye và Thánh đường Yeni, tất cả chúng đều được xây trong thời hoàng kim của Đế chế Ottoman, vào các thế kỉ 16 và 17. Trong các thế kỉ tiếp theo, và đặc biệt sau các cuộc cải cách Tanzimat, kiến trúc Ottoman nhường chỗ cho phong cách châu Âu[101]. Khu vực xung quanh Đại lộ İstiklal lấp đầy với các công trình theo phong cách Tân cổ điển, Phục hưng và Art Nouveau, những thứ còn tiếp tục ảnh hưởng tới các công trình ở Beyoğlu-bao gồm các nhà thờ, cửa hiệu, rạp hát-và các tòa nhà chính quyền như Cung điện Dolmabahçe[102].
Hành chính
Từ năm 2004, Istanbul là một trong 2 thành phố ở Thổ Nhĩ Kỳ (cùng với İzmit) có ranh giới có địa phận trùng với tỉnh trực thuộc[103]. Theo đó, thành phố là thủ phủ của tỉnh Istanbul, do Khu tự trị Đô thị Istanbul (tiếng Pháp:Municipalité Métropolitain d’Istanbul-MMI) quản lý với tổng số 39 quận[c]. Nguồn gốc cấu trúc hành chính hiện tại của thành phố có thể lần ngược lên thời kỳ cải cách Tanzimat trong thế kỷ 19, còn trước đó các quan tòa Hồi giáo (gadi) và các thầy tu (imam) điều hành thành phố dưới sự bảo trợ của Tể tướng (Sadrazam hay Grand Vizier). Theo mô hình của các thành phố Pháp, hệ thống tôn giáo này đã được thay thế bởi thị trưởng và một hội đồng thành phố gồm đại diện các nhóm xưng tội (millet) trên khắp Istanbul. Beyoğlu là khu vực đầu tiên của thành phố có người lãnh đạo và hội đồng riêng của mình với các thành viên là các cư dân định cư lâu ở đó. Các luật được ban hành sau Hiến pháp Ottoman 1876 nhằm mở rộng cách tổ chức này trên toàn thành phố, bắt chước cơ cấu chính quyền các quận của Paris, nhưng chúng không được thực hiện hoàn chỉnh cho đến năm 1908, khi Istanbul được tuyên bố là một tỉnh có 9 quận trực thuộc[104][105]. Hệ thống này tiếp tục phát triển sau khi nền Cộng hòa được thành lập, khi tỉnh này đổi thành một belediye (Khu tự trị), nhưng cơ cấu này bị giải thể năm 1957[62][106].
Các khu định cư nhỏ lân cận các trung tâm đông dân cư chính ở Thổ Nhĩ Kỳ, bao gồm Istanbul, đã sáp nhập vào các thành phố lớn vào đầu thập niên 1980, hình thành lên các khu tự trị đô thị[107][108]. Thể chế ra quyết định chính của Khu tự trị đô thị Istanbul là Hội đồng Thành phố với các thành viên chọn từ các hội đồng cấp quận. Hội đồng Thành phố chịu trách nhiệm cho các vấn đề toàn thành phố, bao gồm cả việc quản lý ngân sách, duy trì cơ sở hạ tầng dân sự và coi sóc các viện bảo tàng và các trung tâm văn hóa lớn[109]. Kể từ khi chính quyền hoạt động theo cơ chế “thị trưởng quyền lực, hội đồng yếu”, lãnh đạo của hội đồng-tức thị trưởng thành phố-có quyền đưa ra các quyết định nhanh chóng, thường dẫn đến thiếu sự minh bạch[110]. Ủy ban Chấp hành Thành phố là cơ quan tư vấn cho Hội đồng Thành phố, nhưng cũng có ít nhiều quyền hạn ra quyết định của riêng mình[111]. Tất cả các đại diện trong Uỷ ban đều do thị trưởng thành phố và Hội đồng chỉ định, và chính thị trưởng hoặc một ai do người này chọn lựa là người đứng đầu ủy ban[111][112].
Trong khi đó, các hội đồng quận chịu trách nhiệm chủ yếu về xử lý rác thải và các dự án xây dựng bên trong địa phận của quận. Các quận có ngân sách riêng, mặc dù thị trưởng thành phố có quyền xét duyệt lại các quyết định cấp quận. Một phần năm thành viên của các hội đồng quận, bao gồm quận trưởng, cũng đại diện cho quận của họ trong Hội đồng Thành phố[109]. Tất cả các thành viên của hội đồng quận và Hội đồng Thành phố, bao gồm thị trưởng thành phố được bầu theo nhiệm kì 5 năm[113]. Đại diện cho Đảng Công lý và Phát triển, ông Kadir Topbaş hiện là Thị trưởng Istanbul kể từ tháng 3 năm 2004[114].
Với Khu tự trị đô thị Istanbul và Tỉnh Istanbul có phạm vi tài phán tương đương, chính quyền cấp tỉnh đảm đương ít trách nhiệm. Tương tự như MMI, Chính quyền Tỉnh đặc biệt Istanbul có một thống đốc, một thể chế ra quyết định được bầu cử dân chủ-Nghị viện Tỉnh-và một Ủy ban Chấp hành theo chỉ định. Phỏng theo cơ cấu ủy ban chấp hành cấp thành phố, Ủy ban Chấp hành Tỉnh có một tổng thư ký và các lãnh đạo của sở làm cố vấn Nghị viện Tỉnh[112][115]. Chức trách của chính quyền tỉnh bị hạn chế nhiều, chỉ tập trung vào việc xây dựng và duy tu các trường học, khu dân cư, tòa nhà chính quyền, đường sá, khuyến khích nghệ thuật, văn hóa và bảo vệ thiên nhiên[116]. Hüseyin Avni Mutlu hiện là thống đốc của tỉnh Istanbul kể từ tháng 5 năm 2010[117].
Nhân khẩu học
Trước nền Cộng hòa | Sau nền Cộng hòa | |||
---|---|---|---|---|
Năm | Dân số | Năm | Dân số | ±% |
100 | 36.000 | 1924 | 500.000 | — |
361 | 300.000 | 1927 | 680.000 | +36,0% |
500 | 400.000 | 1935 | 741.000 | +9,0% |
Thế kỷ 7 | 150–350.000 | 1940 | 793.000 | +8,4% |
Thế kỷ 8 | 125–500.000 | 1945 | 860.000 | +8,4% |
Thế kỷ 9 | 50–250.000 | 1950 | 983.000 | +14,3% |
1000 | 150–300.000 | 1955 | 1.258.000 | +28,0% |
1100 | 200.000 | 1960 | 1.466.000 | +16,5% |
1200 | 150.000 | 1965 | 1.742.000 | +18.8% |
1261 | 100.000 | 1970 | 2.132.000 | +22,4% |
1350 | 80.000 | 1975 | 2.547.000 | +19,5% |
1453 | 45.000 | 1980 | 2.772.000 | +8,8% |
1500 | 200.000 | 1985 | 5.475.000 | +97,5% |
1550 | 660.000 | 1990 | 7.620.000 | +39,2% |
1700 | 700.000 | 1995 | 9.260.000 | +21,5% |
1800 | 570,000 | 2000 | 10.923.000 | +18,0% |
1850 | 785.000 | 2005 | 12.061.000 | +10,4% |
1914 | 1.125.000 | 2010 | 13.256.000 | +9,9% |
Nguồn: Chandler 1987, Morris 2010, vàTuran 2010 Số liệu trước nền Cộng hòa là ước tính[e] |
Trong phần lớn chiều dài lịch sử của mình, Istanbul luôn xếp trong nhóm các thành phố lớn nhất trên thế giới. Đến năm 500, Constantinopolis có khoảng 400.000 đến 500.000 dân, nhích lên vượt qua Roma để trở thành thành phố lớn nhất thế giới[119]. Constantinopolis cùng các thành phố lịch sử lớn khác như Baghdad và Trường An thay nhau giành vị trí thành phố đông dân nhất thế giới cho đến thế kỷ 13. Dù không bao giờ lấy lại vị trí số một thế giới nhưng Istanbul vẫn là thành phố lớn nhất châu Âu ít lâu sau sự sụp đổ của Constantinopolis cho đến đầu thế kỷ 19 khi thành phố bị Luân Đôn qua mặt[120]. Ngày nay thành phố này vẫn là một trong các vùng quần cư đô thị đông đúc nhất châu Âu cùng với Moskva[d].
Viện Thống kê Thổ Nhĩ ước tính rằng đân số Istanbul là 13.483.052 người vào 31 tháng 12 năm 2011, khiến cho Istanbul là thành phố lớn nhất Thổ Nhĩ Kỳ, chiếm 18 phần trăm dân số quốc gia[2]. Istanbul nằm trong số năm thành phố đông dân nhất thế giới – tuy nhiên với tư cách một vùng đô thị thì Istanbul chỉ xếp thứ 18 thế giới[3][122]. Tốc độ gia tăng dân số hàng năm của thành phố là 3,45 phần trăm, cao nhất trong số các 78 đô thị lớn nhất trong khối OECD. Tỷ lệ tăng trưởng dân số cao phản ảnh xu hướng đô thị hóa trên toàn quốc gia, với hai đô thị xếp thứ hạng kế sau Istanbul là İzmir và Ankara đều thuộc Thổ nhĩ Kỳ[11].
Istanbul đã trải qua sự tăng trưởng đặc biệt nhanh chóng trong nửa sau thế kỷ 20, với dân số tăng gấp mười lần trong giai đoạn 1950-2000[7]. Sự gia tăng dân số này một phần đến từ sự mở rộng địa phận thành phố – đặc biệt giữa các năm 1980 và 1985, khi dân số Istanbul tăng gần gấp đôi[62]. Sự tăng trưởng đáng chú ý chủ yếu là do dân di cư từ miền châu Á của đất nước tới để tìm việc làm và cải thiện điều kiện sống. Số cư dân có nguồn gốc từ bảy tỉnh phía bắc và phía đông lớn hơn dân số hiện có của chính các tỉnh đó; đáng chú ý, Sivas và Kastamonu mỗi tỉnh là xuất xứ của hơn một nửa triệu dân của Istanbul[8]. So với đó số cư dân có nguồn gốc nước ngoài ở Istanbul khá ít, chỉ khoảng 42 228 người vào năm 2007[123]. Chỉ khoảng 28 phần trăm cư dân thành phố là người gốc Istanbul[124]. Mật độ dân số của thành phố là 2523 người/km2, vượt xa con số trung bình của Thổ Nhĩ Kỳ là 2523 người/km2[125]. Các khu vực đông đúc nhất có xu hướng nằm ở phía tây bắc, tây và tây nam của thành phố ở phía châu Âu; quận đông nhất ở bờ châu Á là Üsküdar[8].
Các nhóm tôn giáo và dân tộc
Trong hầu hết lịch sử của thành phố này và cả ngày nay, Istanbul là một thành phố thế giới, nhưng thành phố này đã trở nên đồng nhất hơn kể từ cuối thời Đế quốc Ottoman. Tuy nhiên, phần lớn các nhóm thiểu số tôn giáo và dân tộc của Thổ Nhĩ Kỳ vẫn tập trung ở Istanbul. Tuyệt đại đa số dân cư khắp Thổ Nhĩ Kỳ, và Istanbul nói riêng, tự xem mình là người Hồi giáo, cụ thể hơn là nhánh Hồi giáo Sunni. Hầu hết người Sunni tuân theo trường phái tư tưởng Hanafi, mặc dù khoảng 10% người Sunni theo trường phái Shafi’i. Giáo phái Hồi giáo lớn nhất ngoài Sunni ở Thổ Nhĩ Kỳ là Alevi, chiếm 4,5 triệu dân, một phần ba trong số đó sống ở Istanbul[124]. Các phong trào thần bí, như Sufi giáo, chính thức bị cấm sau khi nền Cộng hòa thành lập, nhưng vẫn thu hút một lượng lớn tín đồ[126].
Địa vị Thượng phụ Constantinopolis được chỉ định là Đại Thượng phụ giáo hội toàn thế giới từ thế kỉ 6, và cho tới nay vẫn được thừa nhận rộng rãi là lãnh tụ tinh thần của 300 triệu người Chính thống giáo Đông phương trên toàn thế giới[128]. Kể từ năm 1601, Tòa Thượng phụ đặt tại Nhà thờ St. George ở Istanbul[129]. Vào thế kỉ 19, những người Cơ đốc giáo ở Istanbul hầu như hoặc thuộc Chính thống giáo Hy Lạp hoặc thuộc Giáo hội Tông truyền Armenia[130]. Do một số sự kiện trong thế kỉ 20 – bao gồm cuộc hoán đổi dân cư giữa Hy Lạp năm 1923 theo thỏa thuận của hai chính phủ, một sắc thuế đánh vào người giàu năm 1942 và cuộc bạo loạn Istanbul năm 1955 – dân cư người Hy Lạp, vốn tập trung ở Fener và Samatya, đã giảm rõ rệt. Vào đầu thế kỉ 21, số người Hy Lạp ở Istanbul chỉ khoảng 3 nghìn (giảm từ 130 nghìn năm 1923)[131][132]. Dân Armenia cũng chứng kiến một sự suy giảm, một phần do cuộc diệt chủng người Armenia trong Thế chiến I, nhưng đã dần dần phục hồi do sự di cư gần đây từ Armenia sang; ngày nay, có khoảng từ 5 tới 7 vạn người Armenia ở Istanbul, giảm từ 164 nghìn người năm 1913[133].
Nhóm dân tộc thiểu số lớn nhất ở Istanbul là cộng đồng người Kurd, có nguồn gốc từ miền đông và đông nam Thổ Nhĩ Kỳ. Mặc dù sự hiện diện của người Kurd ở thành phố có thể lần ngược về thời kỳ đầu của Đế quốc Ottoman[134], dòng người Kurd đổ vào thành phố tăng lên kể từ cuối những năm 1970, khi tranh chấp Thổ-Kurd bùng phát và Đảng Công nhân Kurdistan xuất hiện[135]. Istanbul là nơi cư trú của từ hai tới bốn triệu cư dân người Kurd, nhiều hơn bất kì thành phố nào trên thế giới[136][137]. Vùng lân cận khu phố Balat từng là nơi một cộng đồng người Do Thái Sephardi khá lớn, bắt đầu hình thành trong thời kì Tòa án dị giáo Tây Ban Nha (cuối thế kỉ 15 tới đầu thế kỉ 19)[138]. Người Do Thái các nhánh Romaniote và Ashkenazi cư ngụ ở Istanbul còn trước cả người Sephardi, nhưng tỉ lệ của họ đã suy giảm; ngày nay, chỉ 1 phần người Do Thái ở Istanbul thuộc dòng Ashkenazi[139][140]. Chủ yếu do việc di cư về Israel khi quốc gia này thành lập, số dân Do Thái trên toàn quốc giảm từ 100 nghìn năm 1950 xuống còn 18 nghìn năm 2005, đa số họ sống ở Istanbul và Izmir[141]. Người Levantines, tức những người Công giáo La Mã theo nghi thức Latinh sinh sống ở Galata trong thời đại Ottoman, đóng một vai trò độc đáo trong việc định hình văn hóa và kiến trúc Istanbul trong các thế kỉ 19 và 20; dân số của họ có suy giảm, nhưng vẫn còn một số ít ở thành phố[142].
Kinh tế
Với tổng sản phẩm nội địa 182 tỉ đô la Mỹ năm 2008, Istanbul xếp thứ 34 trong các đô thị có GDP lớn nhất trên thế giới[143]. Thành phố chiếm khoảng 27% GDP của Thổ Nhĩ Kỳ, sử dụng khoảng 20% lực lượng lao động công nghiệp của đất nước[11][144]. GDP bình quân đầu người và năng suất lao động của nó cao hơn mức trung bình của quốc gia lần lượt là 70 và 50%, một phần nhờ sự tập trung vào các hoạt động có giá trị gia tăng cao. Với dân số đông và sự đóng góp đáng kể vào kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ, Istanbul chiếm tới hai phần năm thu nhập thuế của nước này[11]. Trong số đó có tiền thuế của 30 tỷ phú đóng ở Istanbul, xếp thứ 5 trong số các thành phố nhiều tỷ phú nhất thế giới[145].
Tương xứng với quy mô thành phố, Istanbul có một nền kinh tế công nghiệp đa dạng, sản xuất các loại hàng hóa như dầu ô liu, thuốc lá, phương tiện giao thông và đồ điện tử[144]. Dù tập trung vào các ngày giá trị gia tăng cao, lĩnh vực sản xuất giá trị gia tăng thấp cũng đóng vai trò quan trọng, chỉ chiếm 26% GDP nhưng tới bốn phần năm tổng giá trị xuất khẩu của thành phố[11]. Năm 2005, các công ty đóng ở Istanbul tạo ra giá trị xuất khẩu 41,4 tỉ đô la và nhập khẩu là 69,9 tỉ; những con số này tương đương với 57 và 60 phần trăm tổng giá trị xuất/nhập khẩu tương tương ứng của quốc gia[146].
Istanbul là nơi có thị trường chứng khoán duy nhất của Thổ Nhĩ Kỳ, Sàn giao dịch Chứng khoán Istanbul. Mặc dù nó vốn được thành lập từ khá sớm, vào năm 1866 với tên Sàn Giao dịch Chứng khoán Ottoman, tầm quan trọng của nó bị suy giảm từ cuộc Đại Khủng hoảng những năm 1930. Nó chỉ bắt đầu khôi phục từ đầu năm 1986, sau một chuỗi các chương trình tự do hóa tài chính của chính phủ[147]. Trong thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, Bankalar Caddesi (Phố Ngân hàng) ở Galata từng là trung tâm tài chính của Đế quốc Ottoman là nơi Sàn Giao dịch Chứng khoán Ottoman từng đặt[148]. Khu phố này vẫn là khu vực tài chính chính của Istanbul cho tới những năm 1990, khi hầu hết các ngân hàng Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu chuyển trụ sở tới các quận buôn bán hiện đại ở trung tâm là Levent và Maslak. Năm 1995, Sàn Giao dịch Chứng khoán Istanbul chuyển cơ sở tới địa chỉ ngày nay ở phố İstinye thuộc quận Sarıyer[149].
Là tuyến đường biển duy nhất giữa Biển Đen giàu dầu mỏ và Địa Trung Hải, Bosphorus là một trong những hải lộ đông đúc nhất trên thế giới; hơn 200 triệu tấn dấu đi qua eo biển này mỗi năm, và giao thông trên Bosphorus gấp ba lần so với Kênh đào Suez[150]. Do đó, người ta đã đưa ra những đề xuất xây thêm một kênh đào, gọi là Kênh đào Istanbul, song song với eo biển, trên bờ châu Âu của thành phố[151]. Istanbul có ba cảng tàu chính-Cảng Haydarpaşa, Cảng Ambarlı, và Cảng Zeytinburnu-cùng một số cảng nhỏ hơn và các bến tàu chở dầu dọc eo Bosphorus và Biển Marmara[152][153]. Haydarpaşa, nằm ở đầu đông nam của Bosphorus, là cảng lớn nhất của Istanbul cho tới đầu những năm 2000. Luồng giao thông dịch chuyển sang cảng Ambarlı đã làm cho Haydarpaşa hoạt động dưới sức chứa và hiện có những kế hoạch chấm dứt hoạt động[154]. Cho đến năm 2007, Ambarlı, ở góc phía tây của trung tâm nội thị, đã có sức chứa hàng năm lên tới 1,5 triệu TEU (đơn vị thể tích hàng hải, bằng kích thước container tiêu chuẩn) so với 354 nghìn TEU của Haydarpaşa, khiến cho nó trở thành cảng lớn thứ tư ở miền Địa Trung Hải[155][156]. Cảng Zeytinburnu có lợi thế gần đường ô tô và Sân bay quốc tế Atatürk[157] cũng như nằm trong những kế hoạch dài hạn của thành phố nhằm kết nối tốt hơn giữa tất cả các bến cảng và mạng lưới đường sắt[158].
Istanbul là một điểm đến du lịch ngày càng phổ biến hơn; năm 2000 chỉ có khoảng 2,4 triệu người nước ngoài đến thành phố thì năm 2010 con số này là 7 triệu người, đưa nó lên vị trí thứ 10 trong số những thành phố được viếng thăm nhiều nhất thế giới[9][159]. Istanbul là cổng giao lưu quốc tế lớn thứ hai của Thổ Nhĩ Kỳ, sau Antalya, chiếm một phần tư du khách nước ngoài tới đất nước này. Ngành công nghiệp du lịch tập trung chủ yếu ở bờ châu Âu, nơi có 90% khách sạn của Istanbul. Các khách sạn hạng trung và bình dân có xu hướng tập trung ở khu Sarayburnu, trong khi các khách sạn cao cấp chủ yếu đóng ở các trung tâm giải trí và tài chính ở phía bắc Sừng Vàng. Bảy mươi bảo tàng của Istanbul, được thăm nhiều nhất là Bảo tàng Cung điện Topkapı và Hagia Sophia, đem lại khoảng 30 triệu đô la thu nhập mỗi năm. Dự án quản lí môi trường của thành phố cũng ghi nhận rằng có 17 cung điện, 64 thánh đường Hồi giáo, và 49 nhà thờ có giá trị lịch sử ở Istanbul[160].
Văn hóa
Istanbul nổi tiếng là một trung tâm văn hóa lâu đời, nhưng khung cảnh văn hóa đã trì trệ sau khi Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ dịch chuyển trọng tâm về Ankara[161]. Chính phủ dân tộc mới đây đã lập các chương trình phục vụ cho việc định hướng người Thổ tới âm nhạc truyền thống, đặc biệt là những thể loại âm nhạc bắt nguồn ở châu Âu, nhưng các viện âm nhạc và các chuyến thăm của các nghệ sĩ cổ điển nước ngoài vẫn chủ yếu tập trung ở thủ đô mới[162]. Trong khi phần nhiều đặc sắc văn hóa Thổ Nhĩ Kỳ có nguồn gốc ở Istanbul, cho đến tận những năm 1980 và 1990 Istanbul mới tái nổi lên ở tầm quốc tế như một thành phố mà giá trị văn hóa không chỉ dựa trên quá khứ vinh quang[163].
Cho tới cuối thế kỉ 19, Istanbul đã là một trung tâm nghệ thuật khu vực, với các nghệ sĩ Thổ, châu Âu và Trung Đông tụ họp tới đây. Bất chấp những nỗ lực đưa Ankara thành trung tâm văn hóa của Thổ Nhĩ Kỳ, ngoài việc có học viện nghệ thuật chính của quốc gia cho tới những năm 1970[165], khi các đại học và tạp chí nghệ thuật mới được lập ở Istanbul những năm 1980, nhiều nghệ sĩ vốn ở Ankara cũng chuyển tới đây[166]. Beyoğlu đã trở thành trung tâm nghệ thuật của thành phố, với các nghệ sĩ trẻ lẫn các nghệ sĩ già từng sống ở nước ngoài tìm một chỗ đứng chân ở đây. Các bảo tàng nghệ thuật hiện đại, bao gồm Bảo tàng Istanbul Hiện đại, Bảo tàng Pera, Bảo tàng Sakıp Sabancı và SantralIstanbul, mở cửa những năm 2000 để bổ sung cho các không gian trưng bày và nhà đấu giá từng đóng góp cho tính cách toàn cầu của thành phố này[167]. Tuy nhiên, những bảo tàng này chưa thể thu hút được số lượng khách lớn như những bảo tàng lâu đời hơn ở miền bán đảo lịch sử, trong đó có Bảo tàng Khảo cổ học Istanbul-bảo tàng đã mở ra kỉ nguyên bảo tàng hiện đại Thổ Nhĩ Kỳ, và Bảo tàng Nghệ thuật Thổ Nhĩ Kỳ và Hồi giáo[160][164].
Bộ phim đầu tiên được chiếu ở Thổ Nhĩ Kỳ là ở Cung điện Yıldız vào năm 1896, chỉ một năm sau khi kỹ thuật điện ảnh trình diễn được trình diễn lần đầu tiên ở Paris[168]. Các rạp chiếu phim sau đó nở rộ ở Beyoğlu, với mật độ tập trung nhất ở tuyến phố mà nay là Đại lộ İstiklal[169]. Istanbul cũng là trái tim của ngành công nghiệp điện ảnh non trẻ của Thổ Nhĩ Kỳ, mặc dù phim Thổ Nhĩ Kỳ không phát triển ổn định cho tới những năm 1950[170]. Từ đó tới nay, Istanbul là nơi có nhiều phim trường cho các phim chính kịch và phim hài Thổ Nhĩ Kỳ nhất[171]. Trong khi công nghiệp phim ảnh của Thổ Nhĩ Kỳ đã trỗi dậy trong nửa sau thế kỉ 20, phải đến các phim Uzak (2002) và Cha tôi và Con trai tôi (2005), đều quay ở Istanbul, phim của quốc gia này mới bắt đầu có những thành công quan trọng ở tầm quốc tế[172]. Istanbul và bầu trời tuyệt đẹp của nó cũng là bối cảnh cho một số bộ phim nước ngoài, trong đó có Topkapi (1964), Thế giới là không đủ (1999) và Điệp vụ Istaanbul (2008)[173].
Gắn với sự trỗi dậy văn hóa trên là việc thành lập Festival Istanbul, bắt đầu trình diễn nền nghệ thuật phong phú của Thổ Nhĩ Kỳ và thế giới kể từ 1973. Từ lễ hội lớn này đã xuất hiện Liên hoan phim Quốc tế Istanbul và Đại nhạc hội Jazz Quốc tế Istanbul vào đầu những năm 1980. Ngày nay chỉ tập trung vào âm nhạc và khiêu vũ, Festival Istanbul nay được biết dưới tên Festival Âm nhạc Quốc tế Istanbul từ 1994[174]. Trong số các lễ hội xuất hiện sau Festival Istanbul, đáng chú ý nhất là Lễ hội hai năm Istanbul (Istanbul Biennial) tổ chức hai năm một lần từ 1987. Trong khi những lần tổ chức đầu tiên nhắm vào việc trình diễn nghệ thuật trực quan Thổ Nhĩ Kỳ, về sau nó đón chào nhiều nghệ sĩ quốc tế và trở thành một lễ hội hai năm một lần nổi tiếng nhất trên thế giới, cùng với Lễ hội hai năm Venice và Lễ hội nghệ thuật hai năm São Paulo[175].
Hoạt động giải trí
Istanbul có rất nhiều trung tâm mua sắm, từ lâu đời tới hiện đại. Chợ Lớn (Kapali Carsi), hoạt động từ năm 1461, là một trong những chợ có mái che cổ xưa và lớn nhất thế giới[176][177]. Chợ Mahmutpasha là một chợ ngoài trời nằm giữa Chợ Lớn và Chợ Gia vị, là một trong những chợ gia vị chính của Istanbul từ những năm 1660. Khu phố buôn bán Ataköy mở đầu cho một loạt các khu phố buôn bán hiện đại ở Thổ Nhĩ Kỳ khi nó mở cửa vào năm 1987[178]. Kể từ đó, các khu phố buôn bán trở thành các trung tâm mua sắm chính bên ngoài vùng bán đảo lịch sử. Akmerkez đã nhận danh hiệu khu phố buôn bán “tốt nhất châu Âu” và “tốt nhất thế giới” bởi Hội đồng Trung tâm Mua sắm quốc tế các năm 1995 và 1996; Istanbul Cevahir mở năm 2005 xếp vào hàng lớn nhất châu lục; còn Kanyon giành Giải thưởng Phê bình Kiến trúc Đô thị trong hạng mục Xây dựng thương mại năm 2006[177]. Các phố Abdi İpekçi khu Nişantaşı và Đại lộ Bağdat ở phía Anatolia đã và đang trở thành những khu vực mua sắm cao cấp[179][180].
Bên cạnh các món ăn Thổ Nhĩ Kỳ truyền thống như kebab, Istanbul cũng nổi tiếng với các nhà hàng hải sản lâu đời. Nhiều trong số các nhà hàng hải sản thượng hạng và nổi tiếng nhất của thành phố nằm hai bên bờ Bosphorus, trong khi lân cận Kumkapı dọc theo Biển Marmara có một khu phố đi bộ với khoảng năm chục cửa hàng chuyên về cá[181]. Đảo Hoàng tử, cách trung tâm thành phố 15 km, cũng nổi tiếng với các cửa hàng hải sản; chúng cùng với lâu đài mùa hè cổ xưa, các con phố yên tĩnh không có xe cộ khiến cho hòn đảo này trở thành điểm nghỉ mát lừng danh của người Istanbul lẫn du khách nước ngoài[182].
Các nhà hàng chuyên về món ăn nước ngoài tập trung chủ yếu ở quận Beyoğlu, đặc biệt là ngõ Çiçek Pasajı ở Đại lộ İstiklal với môt loạt các nhà rượu (meyhane), tiệm rượu, nhà hàng[183]. Trong khi nhiều quán rượu ở Đại lộ này đã chuyển thành các cửa hàng buôn bán, Phố Nevizade ở gần đó vẫn còn rất nhiều nhà rượu và tiệm rượu nhỏ[184][185]. Các khu phố lân cận İstiklal gần đây đã sửa sang để phục vụ cho đời sống ban đêm ở Beyoğlu, với những tuyến phố buôn bán nay với nhiều tiệm rượu, quán cà phê và nhà hàng chơi nhạc sống[186]. Những tâm điểm khác của đời sống ban đêm của Istanbul bao gồm Nişantaşı,Ortaköy, Bebek, và Kadıköy[187].
Thể thao
Istanbul có một số câu lạc bộ thể thao thuộc vào hàng lâu đời nhất của Thổ Nhĩ Kỳ. Một trong số đó là Beşiktaş J.K., câu lạc bộ đầu tiên của Thổ Nhĩ Kỳ, thành lập năm 1903 và từng có thời là câu lạc bộ duy nhất nên nó đôi khi từng thi đấu với tư cách đội tuyển quốc gia[88]. Trong khi đội bóng của nó đã có những thời kì thống trị giải quốc gia, các đội Galatasaray S.K. vàFenerbahçe S.K. thể hiện tốt hơn khi thi đấu quốc tế và ngang ngửa nhau trong việc giành nhiều chức vô địch giải chuyên nghiệp Süper Lig nhất[188][189]. Galatasaray và Fenerbahçe là hai đội kình địch với nhau từ lâu, Galatasary nằm ở bờ châu Âu trong khi Fenerbahçe ở bờ châu Á của thành phố[188]. Istanbul có bốn đội bóng rổ-Anadolu Efes S.K., Beşiktaş, Fenerbahçe Ülker và Galatasaray Medical Park chơi ở giải ngoại hạng Vô địch Bóng rổ Thổ Nhĩ Kỳ[190].
Nhiều cơ sở thể thao của Istanbul được xây dựng hoặc nâng cấp từ năm 2000 trong nỗ lực của thành phố tranh chức đăng cai các kỳ Thế vận hội Mùa hè. Sân vận động Olympic Atatürk, sân vận động đa năng lớn nhất Thổ Nhĩ Kỳ hoàn thành vào năm 2002 như một nơi tổ chức hàng đầu của Hiệp hội Các Liên đoàn Điền kinh Quốc tế (IAAF) cho các sự kiện điền kinh[191]. Sân vận động này cũng là nơi diễn ra trận Chung kết UEFA Champion League 2005 và hiện là sân nhà của đội bóngİstanbul Büyükşehir Belediyespor. Sân vận động Şükrü Saracoğlu, sân nhà của đội Fenerbahçe, tổ chức trận chung kết Cúp UEFA2009 ba năm sau khi khánh thành, và Cung thể thao Türk Telekom mở năm 2011 thay cho Sân vận động Ali Sami Yen làm sân nhà cho đội Galatasary[192][193]. Cả ba sân này đều là các sân 4 sao cao cấp (từng là 5 sao) theo tiêu chuẩn UEFA[f].
Sân vận động mái vòm Sinan Erdem, là một trong số các cung thể thao trong nhà lớn nhất châu Âu, từng đăng cai giải Cúp Bóng rổ FIBA Thế giới 2010, và Giải Vô địch Điền kinh Thế giới IAAF 2012 và vòng tứ kết Giải Vô địch Bóng rổ châu Âu 2011-2012. Trước khi sân này hoàn thành, Cung thể thao Abdi İpekçi là cung thể thao trong nhà chính của Istanbul, nơi tổ chức vòng chung kết Vô địch Bóng rổ châu Âu 2001[197]. Bên cạnh đó, nhiều cung thể thao, nhà thi đấu khác đã được xây dựng kể từ năm 2000, mới nhất là Cung thể thao Ülker với sức chứa 13,800 người, mở cửa năm 2012[198]. Bất chấp việc xây dựng nở rộ, bốn lần tranh quyền đăng cai Thế vận hội Mùa hè liên tiếp-2000, 2004, 2008, 2012 cũng như Giải vô địch bóng đá châu Âu 2012 và 2016 đều bất thành[199]. Istanbul hiện đang tranh quyền đăng cai cho Thế vận hội Mùa hè 2020; kết quả sẽ được công bố vào ngày 7 tháng 9 năm 2013.[12][200].
Đường đua Istanbul là một chặng trong lộ trình giải Vô địch Đua xe du lịch Thế giới và giải European Le Mans Series vào năm 2005 và 2006, nhưng từ đó tới nay chưa có thêm cuộc đua quốc tế nào qua đường đua này[201][202]. Vào thời kỳ mở cửa, Đường đua Istanbul cũng từng đăng cai giải Grand Prix Thổ Nhĩ Kỳ thường niên những năm 2005-2011; tương lai của đường đua này không rõ ràng do những vấn đề tài chính[203]. Câu lạc bộ Đua thuyền Istanbul, thành lập năm 1952, tổ chức một số cuộc đua, triển lãm và các sự kiện ở trong và xung quanh Istanbul mỗi năm[204][205]. Câu lạc bộ Đua thuyền ngoài khơi Thổ Nhĩ Kỳ cũng tổ chức một số cuộc đua lớn, trong đó uy tín nhất là cuộc đua tranh Cúp Hải quân[206]. Istanbul đôi khi cũng là điểm dừng của Giải Vô địch Thuyền máy F1 Thế giới, tuy rằng lần cuối cùng giải này xuất hiện ở Bosphorus là vào năm 2000[207].
Truyền thông
Dù hầu hết những đài phát thanh và truyền hình thuộc nhà nước đóng ở Ankara, Istanbul mới là trung tâm truyền thông chính của Thổ Nhĩ Kỳ. Nền công nghiệp này đã bắt nguồn từ cố đô của Đế chế Ottoman, nơi tờ báo Thổ dầu tiên Takvim-i Vekayi (Niên giám Công vụ) được xuất bản vào năm 1831. Khu phố Cağaloğlu lân cận đường Bâb-ı Âli-nơi tờ báo này được in-đã nhanh chóng trở thành trung tâm báo chí Thổ Nhĩ Kỳ, cùng với Beyoğlu ở phía bên kia Sừng Vàng[208].
Ngày nay, Istanbul có rất nhiều báo, tạp chí định kỳ khác nhau. Hầu hết các báo toàn quốc đóng ở Istanbul, cùng với các ấn bản song song ở Ankara và İzmir[209]. Tờ Zaman, mặc dù mới chỉ thành lập năm 1986, là tờ báo bán chạy nhất quốc gia, với lượng bán được hàng tuần lên tới hơn một triệu. Các tờ báo còn lại trong tốp năm báo bán chạy ở Thổ Nhĩ Kỳ-Posta, Hürriyet, Sabah và Habertürk-cũng đều ở Istanbul với doanh số 200 nghìn bản mỗi báo. Bản tiếng Anh của tờ Hürriyet (Hürriyet Daily News) xuất hiện vào năm 1961 từng là tờ báo tiếng Anh bán chạy nhất, nhưng đã bị ấn bản của Zaman khai trương năm 2007 là Today’s Zaman vượt mặt. Ngoài ra ở cũng có một số tạp chí đại chúng khác nhỏ hơn nhưMilliyet và Cumhuriyet[209][210].
Đài vô tuyến ở Istanbul bắt đầu từ năm 1927, khi chương trình vô tuyến đầu tiên ở Thổ Nhĩ Kỳ phát ra từ Bưu điện Trung tâm ở Eminönü. Quyền kiểm soát trạm phát này, cũng như các đài phát thanh thành lập vào những thập niên sau đó, về sau rơi vào tay Tập đoàn Phát thanh Truyền hình Thổ Nhĩ Kỳ (Turkish Radio and Television Corporation-TRT), tổ chức nắm giữ độc quyền phát sóng các kênh truyền hình và truyền thanh những năm 1964 và 1990[211]. Hiện nay, TRT vận hành bốn đài phát thanh quốc gia; những đài này có những máy phát vô tuyến khắp cả nước bao phủ nơi cư trú của 90% dân số, nhưng chỉ đài Radio 2 là đóng ở Istanbul. Đài này cung cấp nội dung phong phú, từ các chương trình giáo dục tới những sự kiện thể thao, và là đài phát thanh phổ biến nhất ở Thổ Nhĩ Kỳ[211]. Các kênh phát thanh ở Thổ Nhĩ Kỳ thường phát tiếng Thổ Nhĩ Kỳ hoặc tiếng Anh, một ngoại lệ hiếm hoi là kênh Açık Radyo phát cả hai thứ tiếng. Một trong số các kênh phát thanh tư nhân đầu tiên Thổ Nhĩ Kỳ, và cũng là kênh chuyên về nhạc nhẹ nước ngoài đầu tiên, là kênh Metro FMcủa Istanbul. Đài Radio 3 thuộc nhà nước, mặc dù đóng ở Ankara, cũng phát nhạc nhẹ tiếng Anh, trong khi chương trình thời sự tiếng Anh được cung cấp trên NTV Radyo[212].
TRT-Children là đài truyền hình duy nhất thuộc TRT nằm ở Istanbul[213]. Tuy vậy, thành phố này lại là nơi đặt trụ sở của một số đài tiếng Thổ cũng như cơ sở của các hãng truyền thông nước ngoài. Star TV ở Istanbul là mạng truyền hình tư nhân đầu tiên ra đời sau khi cơ chế độc quyền của TRT kết thúc; Star TV và Show TV (cũng ở Istanbul) hiện nay vẫn rất nổi tiếng trên toàn quốc, phát sóng các chương trình Thổ Nhĩ Kỳ và Hoa Kỳ[214]. Samanyolu TV, Kanal D, ATV là các đài truyền hình khác ở Istanbul cung cấp tin tức và chương trình truyền hình, trong khi NTV (hợp tác với MSNBC của Hoa Kỳ) và Sky Turk-cả hai đóng ở thành phố-chủ yếu được biết đến với những bản tin tiếng Thổ. BBC cũng có một văn phòng khu vực ở Istanbul, tham gia vào việc phát các bản tin tiếng Thổ của đài, trong khi CNN có kênh tiếng Thổ riêng, CNN Turk ở đây từ năm 1999[215]. Kênh kinh doanh và giải trí CNBC-e ở Istanbul cũng bắt đầu phát sóng vào năm 2000.
Giáo dục
Đại học Istanbul, thành lập năm 1453, là cơ sở giáo dục Thổ lâu đời nhất ở thành phố. Ban đầu vốn là một trường học Hồi giáo, trường đã lập các khoa luật, y, khoa học và thế kỉ 19 và thế tục hóa sau khi nền Cộng hòa thành lập[216]. Đại học Kỹ thuật Istanbul, vốn là trường Kỹ thuật Hải quân Hoàng gia ra đời năm 1773, là đại học lâu đời thứ ba thế giới trong số các đại học chuyên về các ngành kỹ thuật[217][218]. Tính cả hai trường trên thì Istanbul có 8 đại học công lập[219], trong số các trường còn lại đáng kể là Đại học Mỹ thuật Mimar Sinan-học viện nghệ thuật chính của Thổ Nhĩ Kỳ cho tới những năm 1970[165], Đại học Marmara, cơ sở đào tạo sau đại học lớn thứ ba đất nước. Đại học công lập trẻ tuổi nhất ở Istanbul là Đại học Istanbul Medeniyet (2010), cấp bằng đại học hai năm với mười một khoa khác nhau[220].
Trong khi hầu hết các trường đại học có uy tín ở Istanbul đều dựa vào chính phủ, thành phố cũng có một số các trường tư nổi tiếng. Đại học dân lập hiện đại đầu tiên ở Istanbul là Cao đẳng Robert, do một nhóm người từ Hoa Kỳ thành lập năm 1863; tuy nhiên từ năm 1971, các thành phần giáo dục đại học của nó trở thành trường công, tức Đại học Boğaziçi trong khi phần còn lại vẫn giữ tên gọi “Cao đẳng Robert” nhưng chỉ đào tạo ở bậc trung học[221][222]. Về danh nghĩa các đại học dân lập đã chính thức bị cấm ở Thổ Nhĩ Kỳ trước khi Hiến pháp năm 1982 ban hành, nhưng vào thời điểm đó đã có mười lăm “trường bậc cao” mà thực chất là các trường đại học ở Istanbul năm 1970. Sau khi có HIến pháp, trường đại học dân lập đầu tiên được lập là Đại học Koç năm 1992, và một thập kỷ sau đó có thêm 12 trường tư được lập[221]. Hiện nay, có ít nhất năm mươi trường dân lập ở thành phố, trong đó đáng chú ý là Đại học Thương mại Istanbul và Đại học Kadir Has[223].
Năm 2007, có khoảng 4350 trường phổ thông, khoảng một nửa trong số đó là các trường tiểu học; trung bình mỗi trường có 668 học sinh. Những năm gần đây, hệ thống giáo dục Istanbul đã mở rộng đáng kể; từ năm 2000 tới 2007, số lớp học và giáo viên tăng gần gấp đôi và số học sinh tăng hơn 60 phần trăm[224]. Trung học Galatasaray, thành lập năm 1481 với tên gốc là Trường Hoàng gia Cung điện Galata, là trung học lâu đời nhất ở Istanbul và là cơ sở giáo dục lâu đời thứ hai ở thành phố. Nó được xây dựng theo chiếu chỉ của Sultan Bayezid II, người tìm cách đem học sinh từ những nền tảng gia đình khác nhau tới cùng một môi trường nhằm tăng cường sức mạnh đế chế của ông[225]. Nó thuộc hệ thống Trung học Anatolia, những trường trung học công lập cao cấp đặt trọng tâm vào giảng dạy bằng ngoại ngữ. Chẳng hạn trường Galatasaray dạy bằng tiếng Pháp, trong khi các trường khác thường dạy tiếng Anh hoặc tiếng Đức bên cạnh tiếng Thổ[226][227]. Thành phố cũng có những trường trung học dành riêng cho người nước ngoài như Liceo Italiano thành lập từ thế kỉ 19[228].
Một vài trường trung học Istanbul khác nổi tiếng do phong cách giảng dạy hoặc điều kiện tuyển sinh của nó. Trung học quân sự Kuleli, nằm ở Çengelköy dọc Bosphorus và Trung học Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ, ở Đảo Hoàng tử, là các trường quân sự, bên cạnh ba học viện quân sự-Học viện Không quân Thổ Nhĩ Kỳ, Học viện Quân sự Thổ Nhĩ Kỳ và Học viện Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ. Một trường quan trọng khác ở Istanbul là Trung học Darüşşafaka dạy miễn phí cho trẻ em mồ côi trên khắp đất nước. Darüşşafaka bắt đầu dạy từ lớp 4, giảng bằng tiếng Anh và từ lớp 6 thì thêm một ngoại ngữ thứ hai-tiếng Pháp hoặc Đức[229]. Các trường trung học nổi bật khác ở Istanbul có thể kể đến Kabataş Erkek Lisesi (thành lập năm 1908)[230] và Kadıköy Anadolu Lisesi (thành lập năm 1955)[231].
Dịch vụ công
Hệ thống cấp nước của Istanbul có một lịch sử rất lâu đời, với những đường dẫn nước trên cao từ thời La Mã (như Đường dẫn nước Valens) chứa nước trong rất nhiều bể chứa lớn của thành[232]. Dưới thời Suleiman Đại đế, hoàng đế ra lệnh xây dựng mạng lưới cấp nước Kırkçeşme; tới năm 1563, mạng lưới đã cung cấp 4200 m3 nước tới 158 địa điểm mỗi ngày[232]. Những năm sau đó, với mục đích đáp ứng nhu cầu công cộng tăng chưa có, nước từ những con suối khác nhau được dẫn về các đài phun nước, như Đài phun nước Ahmed III, thông qua các đường ống dẫn[233]. Hiện nay, Istanbul có một hệ thống cấp nước lọc và khử trùng và một hệ thống xử lý nước thải do Cơ quan Quản lý Nước và Nước thải Istanbul (İSKİ) đảm trách[234].
Nhà máy điện Silahtarağa, một nhà máy nhiệt điện chạy bằng than nằm ở Sừng Vàng, từng là nguồn cung cấp điện năng duy nhất của Istanbul từ 1914-năm tổ máy đầu tiên đi vào hoạt động-tới 1952[235]. Sau khi nền Cộng hòa thành lập, nhà máy trải qua một loạt cải tiến để đáp ứng nhu cầu gia tăng của thành phố; công suất của nó đã tăng từ 23 MW năm 1923 tới đỉnh là 120 MW vào năm 1956[235][236]. Sau đó công suất này giảm dần cho đến khi nhà máy mất hiệu quả kinh tế và ngừng hoạt động năm 1983[235]. Cơ quan điện lực Thổ Nhĩ Kỳ thuộc nhà nước đã nắm giữ độc quyền phát và phân phối điện trong giai đoạn 1970-1984, nhưng hiện nay cơ quan này đã tách thành Công ty Truyền phát Điện Thổ Nhĩ Kỳ (TEAŞ) và Công ty Phân phối Điện Thổ Nhĩ Kỳ (TEDAŞ) và phải cạnh tranh với các công ty tư nhân [236].
Bộ Bưu điện và Điện báo Ottoman thành lập năm 1840 và bưu điện đầu tiên, Bưu điện Hoàng gia, mở cửa gần sân hậu của Thánh đường Yeni. Tới năm 1876, mạng lưới thư tín quốc tế đầu tiên giữa Istanbul và miền đất bên ngoài Đế chế Ottoman rộng lớn đã được thiết lập[238]. Sultan Abdülmecid I là người đầu tiên cấp bằng sáng chế và ban huân chương cho Samuel Morse với phát minh ra điện báo năm 1847, và việc xây dựng tuyến điện báo đầu tiên-nối Istanbul và Edirne-hoàn thành kịp thời để thông báo Chiến tranh Krym chấm dứt năm 1856[239]. Một mạng điện thoại non trẻ xuất hiện ở Istanbul năm 1881 và sau khi tổng đài điện thoại vận hành thủ công đầu tiên hoạt động vào năm 1909, Bộ Bưu điện và Điện Báo trở thành Bộ Bưu điện, Điện báo và Điện thoại[238][240]. Hiển nhiên, hạ tầng viễn thông của Istanbul đã phát triển mạnh mẽ kể từ đó. Mạng điện thoại GSM xuất hiện ở Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 1994, trong đó Istanbul là một trong những thành phố đầu tiên ứng dụng dịch vụ này[241]. Ngày nay, các dịch vụ điện thoại di động và cố định do một số công ty tư nhân cung cấp, sau khi Türk Telekom, tách ra khỏi Bộ Bưu điện, Điện báo và Điện thoại năm 1995, tư nhân hóa vào năm 2005[238][241]. Dịch vụ bưu chính vẫn nằm dưới quyền kiểm soát của Tổ chức Bưu điện và Điện báo (tiền thân là Bộ Bưu điện, Điện báo và Điện thoại, và vẫn giữ tên viết tắt cũ của cơ quan này là PTT)[238].
Năm 2000, Istanbul có 137 bệnh viện, 100 trong số đó là thuộc tư nhân[242]. Công dân Thổ Nhĩ Kỳ được quyền hưởng chăm sóc sức khỏe có trợ cấp trong các bệnh viện nhà nước[209]. Vì các bệnh viện công thường quá tải hoặc chậm chạp, các bệnh viện tư được những người có điều kiện tài chính ưa thích hơn. Sự phổ biến những bệnh viện loại này đã tăng lên đáng kể trong thập kỉ vừa rồi, với tỉ lệ bệnh nhân ngoại trú ở bệnh viện tư tăng từ 6% năm 2005 lên 23% năm 2009[209][243]. Nhiều bệnh viện tư, cũng như một vài bệnh viện công, được trang bị các thiết bị công nghệ cao, bao gồm các máy MRI, hoặc liên kết với các trung tâm nghiên cứu y học[244]. Thổ Nhĩ Kỳ có nhiều bệnh viện do tổ chức Joint Commission đóng ở Mỹ ủy nhiệm hơn bất kì nước nào trên thế giới, tập trung ở các thành phố lớn. Chất lượng chăm sóc sức khỏe cao, đặc biệt là trong các bệnh viện tư, đã góp phần vào sự tăng vọt gần đây của ngành du lịch y tế ở Thổ Nhĩ Kỳ (tăng 40% chỉ từ 2007 tới 2008)[245]. Phẫu thuật mắt bằng laser là trường hợp phổ biến nhất trong số các du khách loại này, vì y tế Thổ Nhĩ Kỳ nổi tiếng trong lĩnh vực này[246].
Giao thông
Các xa lộ chính của Istanbul là Otoyol 1 (O-1), O-2, O-3 và O-4. O-1 tạo nên đường vành đai trong của thành phố, vắt ngang Cầu Bosphorus và O-2 là đường vành đai ngoài của thành phố, đi qua Cầu Fatih Sultan Mehmet (cũng gọi là Cầu Bosphorus thứ hai). O-2 kết nối với Edirne về phía tây và O-4 kết nối với Ankara về phía đông; O-2, O-3 và O-4 nhập vào tuyến Xa lộ xuyên châu Âu E80 giữa Bồ Đào Nha và biên giới Thổ Nhĩ Kỳ-Iran[247]. Hai cầu Bosphorus hiện nay tạo nên những mối liên kết duy nhất giữa các phần châu Âu và châu Á của Thổ Nhĩ Kỳ, tổng cộng cho 400 nghìn phương tiện lưu thông mỗi ngày[248]. Đường hầm Á-Âu dài 14,6 km với hai tầng hiện đang thi công gần Bosphorus, nối giữa các quận Kumkapı, Fatih với Selimiye, Üsküdar[249]. Dự án Cầu Bosphorus thứ ba, được thảo luận từ những năm 1990 cuối cùng cũng được thông qua và chính thức thông báo năm 2012[250]. Cả hai dự án này có lẽ sẽ sớm hoàn thành vào năm 2015[249][250].
Hệ thống giao thông công cộng địa phương của Istanbul là một mạng lưới phức tạp gồm những tàu điện, các tuyến dây kéo (funicular, trong đó hai xe trên đường ray chạy 2 hướng ngược nhau lên/xuống dốc kéo nhau bằng cáp), các tuyến tàu điện ngầm, bus, bus nhanh, và bến phà. Tiền vé của mọi phương tiện trên sử dụng chung một cách thức thanh toán, là các thẻ thông minh không cần tiếp xúc Istanbulkart giới thiệu vào năm 2010, hoặc các thẻ điện tử Akbil cũ hơn[251]. Từ năm 1872 các toa xe chở khách ngựa kéo đã xuất hiện, từ năm 1914 chúng bắt đầu chuyển sang chạy bằng điện nhưng bị buộc ngừng hoạt động năm 1961[252]. Các xe điện bắt đầu xuất hiện trở lại ở thành phố vào những năm 1990, do cơ quan Điện, Tàu điện và Đường hầm Istanbul (İETT) vận hành với một tuyến đường hoài cổ bên cạnh một tuyến ray hiện đại nhanh hơn, chuyên chở khoảng 26 vạn người mỗi ngày[252][253]. Đường hầm Tünel hoạt động từ năm 1875 là tuyến đường sắt dưới lòng đất lâu đời thứ hai thế giới (sau tuyến Đường sắt Đô thị London[252]. Nó vẫn đưa hành khách đi lại giữa Karaköy và Đại lộ İstiklal trên một tuyến đường ray dốc dài 573m, bên cạnh một tuyến dây kéo hiện đại hơn giữa Quảng trường Taskim và Kabataş bắt đầu đưa vào vận hành năm 2006[254][255]. Hệ thống Tàu điện ngầm Istanbul bao gồm ba tuyến đường không liên kết với nhau có mã số M1, M2 và M4 cùng với một vài tuyến và các đoạn mở rộng khác (trong đó có M4) đang được xây dựng hoặc mới chỉ đề xuất[256][257].
Hai phía của hệ thống tàu điện ngầm Istanbul về sau sẽ kết nối với nhau dưới eo Bosphorus khi đường hầm Marmaray, tuyến đường ray đầu tiên nối miền Thrace với Anatolia, hoàn thành vào năm 2015[258]. Khi đó, tỷ lệ người sử dụng đường ray ở thành phố được cho là sẽ tăng lên 28% (từ khoảng 4% hiện nay), chỉ sau hai thành phố Tokyo và New York[259]. Trong khi chờ đến lúc đó, bus vẫn là phương tiện giao thông chính bên trong mỗi nửa cũng như giữa hai nửa thành phố, chuyên chở 2,2 triệu lượt hành khách mỗi ngày[260]. Metrobus, một dạng bus nhanh, đi qua Cầu Bosphorus, có các đường nhánh dành riêng dẫn tới các bến đỗ[261]. Cơ quan bus trên biển Istanbul (İDO) vận hành một tổ hợp những bến phà chỉ cho hành khách và các bến phà dành cho cả xe con và hành khách tới các cảng ở hai bờ Bosphorus, cho tới tận Biển Đen về phía bắc[262][263]. Với các điểm dừng xung quanh Biển Marmara, İDO chính là tổ chức hệ thống bến phà đô thị lớn nhất thế giới[264]. Điểm đỗ chính của tàu bè loại này của thành phố là Cảng Istanbul ở Karaköy, với công suất 1 vạn người mỗi giờ[265] Trong khi hầu hết du khách đến Istanbul bằng đường hàng không, vẫn có khoảng nửa triệu lượt du khách nước ngoài tới thành phố bằng đường biển mỗi năm[160].
Dịch vụ đường sắt quốc tế từ Istanbul xuất hiện năm 1889, với một tuyến nối giữa Bucharest với Ga Sirkeci của Istanbul, về sau trở nên nổi tiếng vì là ga cuối của tuyến Tốc hành Phương Đông bắt đầu từ Paris[54]. Dịch vụ thông thường tới Bucharest và Thessaloniki tiếp tục hoạt động cho đền đầu những năm 2010, khi tuyến đi Bucharest bị ngừng để xây Marmaray còn tuyến sau chấm dứt do khủng hoảng nợ công Hy Lạp[266][267]. Sau khi Ga Haydarpaşa mở cửa năm 1908, nó hoạt động như ga cuối phía tây tuyến Đường sắt Baghdad và phần mở rộng của Đường sắt Hejaz; ngày nay, không dịch vụ nào kể trên phục vụ trực tiếp ở Istanbul[268][269][270]. Các dịch vụ đi tới Ankara và các nơi khác trên khắp Thổ Nhĩ Kỳ thông thừong do hệ thống Đường sắt Nhà nước Thổ Nhĩ Kỳ cung cấp, tuy nhiên việc xây dựng Marmaray và tuyến đường sắt cao tốc Istanbul-Ankara buộc ga đóng cửa năm 2012[271]. Người ta mong chờ các ga mới để thay thế hai ga kể trên và kết nối mạng lưới đường sắt rời rạc của thành phố mở cửa khi hoàn thành dự án Marmaray; cho đến khi đó, Istanbul hiện không có dịch vụ đường sắt nội thị nào[271]. Thay vào đó các công ty buýt tư nhân vận hành các tuyến đường dọc theo-và cả bên ngoài-những tuyến đường sắt. Bến xe buýt chính của Istanbul lớn nhất châu Âu, với công suất hàng ngày 15.000 chuyến xe buýt với 600 nghìn hành khách, phục vụ các điểm đến xa tới tận Frankfurt[272][273].
Istanbul có hai sân bay quốc tế, trong đó Sân bay quốc tế Atatürk lớn hơn. Sân bay này nằm cách trung tâm thành phố 24 km về phía tây, vận chuyển 37,4 triệu lượt hành khách vào năm 2011, xếp thứ 8 châu Âu và thứ 30 thế giới[274]. Sân bay quốc tế Sabiha Gökçen, cách trung tâm thành phố 45 km về phía đông nam, mở vào năm 2011 để giảm tải cho sân bay Atatürk. Thống trị bởi các hãng hàng không giá rẻ, sân bay thứ hai này nhanh chóng được du khách biết đến rộng rãi, đặc biệt từ khi nó khai thác thêm một nhà ga hàng không mới năm 2009[275]; Sabiha Gökçen tiếp nhận 12,7 triệu lượt hành khách năm 2011, là năm mà Hội đồng Sân bay Quốc tế (ACI) gọi sân bay này là sân bay tăng trưởng nhanh nhất thế giới[276][277]. Một sân bay thứ ba nữa, ở bờ Biển Đen, đang chờ duyệt dự án[278].
Chú thích
- ^ a ă â b Sự thành lập Byzantion (Byzantium) đôi khi, nhất là trong các tư liệu bách khoa hoặc các nguồn khác, được xác định cố định vào mốc năm 667 tr.CN. Tuy nhiên, các nhà sử học đã tranh cãi về năm chính xác mà thành phố được lập nên. Công trình của nhà sử học ở thế kỉ thứ 5 TCN Herodotus thường được trích dẫn, cho biết thành phố được lập nên 17 năm sau thành phố Chalcedon[13] vốn xuất hiện vào năm 685 TCN. Tuy nhiên, Eusebius, trong khi thống nhất rằng 685 TCN là năm Chalcedon được lập, lại cho rằng Byzantion ra đời vào năm 659 TCN[14]. Trong số các sử gia hiện đại, Carl Roebuck đề xuất năm 640 TCN[15] trong khi những người khác cho rằng có thể còn muộn hơn. Hơn nữa, bản thân ngày thành lập của Chalcedon cũng là một vấn đề còn bàn cãi, khi có nguồn khác cho rằng nó xảy ra năm 675 TCN[16] hay thậm chí 639 TCN[14]. Vì lí do như vậy, một số nguồn chọn cách đơn giản khi chỉ nói rằng nó xảy ra vào thế kỉ 7 TCN
- ^ Tên của thành phố được chính thức đổi thành Istanbul năm 1930, nhưng nó đã được dùng ngay từ trước cuộc xâm lược của Ottoman năm 1453[1].
- ^ a ă â b Các nguồn khác nhau mâu thuẫn về diện tích của Istanbul. Nguồn có thẩm quyền nhất về con số này đáng ra phải là của Khu tự trị đô thị Istanbul, nhưng bản tiếng Anh website của họ đưa ra thông tin ít ỏi về diện tích này, trong đó chỉ có thông tin rằng các khu vực đô thị của Istanbul có 27 quận và có tổng diện tích 1538,9 km2[61]. Tuy nhiên trang web chính thức về lịch sử thành phố dường như là rõ ràng và cập nhật nhất, nói rằng vào năm 2004, “Quyền pháp lý của Khu tự trị đô thị Istanbul được mở rộng phủ khắp toàn bộ diện tích trong khuôn khổ tỉnh”. Nó cũng khẳng định một đạo luật năm 2008 sáp nhập quận Eminönü vào quận Fatih (một điểm mà nguồn ở trên không phản ánh) và tăng số lượng quận Istanbul thành 39[62]. Diện tích tổng cộng, như bản tiếng Thổ của trang web chính quyền[63] và một trang tiếng Anh về quyền tư pháp được cập nhật gần đây[64] xác thực, là 5343 km2.
- ^ a ă Liên Hợp Quốc định nghĩa một vùng quân cư đô thị (urban agglomeration) là “dân cư trong đường bao quanh một lãnh thổ giáp ranh với mật độ ở mức đô thị không xét đến những ranh giới hành chính”. Vùng quần cư “thường bao gồm dân cư trong một thành phố hay thị trấn công với số trong vùng ngoại ô nằm ngoài, nhưng liền kề với ranh giới thành phố”[121]. Tính đến 1 tháng 7 năm 2011 dân số của Moscow và Istanbul lần lượt là 11,62 triệu và 11,25 triệu[122]. Liên Hiệp Quốc ước tính rằng Istanbul sẽ vượt qua Moscow về dân số vào năm 2015 (lần lượt là 12,46 triệu và 12,14 triệu người), mặc dù việc ngoại suy cho thấy Istanbul sẽ không thể qua mặt được cho đến nửa sau năm 2013[121].
- ^ a ă Các nhà sử học bất đồng – đôi khi một cách căn bản – về số liệu dân cư của Istanbul (Constantinopolis), và các thành phố thế giới khác, trước thế kỉ 20. Tuy nhiên,Chandler 1987, tr. 463–505, một sự tiếp nối của Chandler & Fox 1974,[52] đã tiến hành một cái nhìn toàn diện vào ước tính của các nguồn khác nhau và chọn ra những số liệu đáng tin cậy nhất dựa trên điều kiện lịch sử; do đó nó là nguồn co hầu hết các số liệu dân cư từ giữa năm 100 và 1914. Khoảng giá trị giữa 500 và 1000 là dựa theo Morris 2010, cũng tiến hành phân tích toàn diện các nguồn, bao gồm Chandler (1987); Morris nhận xét rằng nhiều ước tính của Chandler trong thời đó dường như quá lớn với quy mô thành phố, và đưa ra những đánh giá thay thế nhỏ hơn. Chandler bất đồng với Turan 2010 về dân số những năm giữa thập niên 1920 (người đầu đề xuất con số 817.000 người vào năm 1925), nhưng Turan, tr. 224,được dùng làm nguồn số liệu giữa 1924 và 2005. Các con số của Turan, cũng như số liệu năm 2010[118], đươc Viện Thống kê Thổ Nhĩ Kỳ công bố. Việc tăng dân số chóng mặt giữa năm 1980 và 1985 chủ yếu là do việc mở rộng ranh giới thành phố (xem phần #Hành chính). Những lý giải cho thay đổi dân số trước thời Cộng hòa có thể luận ra từ phần #Lịch sử.
- ^ Trong khi UEFA không đưa ra danh sách các sân vận động 4 sao rõ ràng, các quy định chỉ những sân cao cấp này có thể tổ chức các trận chung kết UEFA Champions League[194] mà Sân vận động Olympic Atatürk thực hiện vào năm 2005, và các trận chung kết Cúp UEFA Europa (trước đây là Cúp UEFA)[195], mà Şükrü Saracoğlu Stadium thực hiện 2009. Türk Telekom Arena được ghi nhận là một sân vận động UEFA cao cấp bởi các kiến trúc sư[196].
Tham khảo
- ^ a ă â b c Room 2006, tr. 177
- ^ a ă â “Province by Province / Town Center and Town / Village Population – 2011”. Address Population-Based Registration System (ABPRS) Database. The Turkish Statistical Institute. 2011. Truy cập 9 tháng Năm 2012.
- ^ a ă Mossberger, Clarke & John 2012, tr. 145
- ^ a ă â WCTR Society; Unʼyu Seisaku Kenkyū Kikō 2004, tr. 281
- ^ Çelik 1993, tr. xv
- ^ a ă Masters & Ágoston 2009, tr. 114–5
- ^ a ă Turan 2010, tr. 224
- ^ a ă â “Population and Demographic Structure”. Istanbul 2010: European Capital of Culture. Istanbul Metropolitan Municipality. 2008. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2012.
- ^ a ă Weiner, Miriam B. “World’s Most Visited Cities”. U.S. News & World Report. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2012.
- ^ “The World According to GaWC 2010”. Globalization and World Cities (GaWC) Study Group and Network. Loughborough University. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2012.
- ^ a ă â b c “OECD Territorial Reviews: Istanbul, Turkey”. Policy Briefs. The Organisation for Economic Co-operation and Development. Tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2012.
- ^ a ă “IOC selects three cities as Candidates for the 2020 Olympic Games”. The International Olympic Committee. Ngày 24 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2012.
- ^ Herodotus Histories4.144, được dịch trong De Sélincourt 2003, tr. 288
- ^ a ă Isaac 1986, tr. 199
- ^ Roebuck 1959, tr. 119
- ^ a ă Freely 1996, tr. 10
- ^ Gregory 2010, tr. 62–3
- ^ a ă Masters & Ágoston 2009, tr. 286
- ^ Masters & Ágoston 2009, tr. 226–7
- ^ Finkel 2005, tr. 57, 383
- ^ Göksel & Kerslake 2005, tr. 27
- ^ Room 2006, tr. 177–8
- ^ Göktürk, Soysal & Türeli 2010, tr. 7
- ^ Keyder 1999, tr. 95
- ^ Rainsford, Sarah (ngày 10 tháng 1 năm 2009). “Istanbul’s ancient past unearthed”. BBC. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2010.
- ^ Düring 2010, tr. 181–2
- ^ Çelik 1993, tr. 11
- ^ De Souza 2003, tr. 88
- ^ Freely 1996, tr. 20
- ^ Freely 1996, tr. 22
- ^ Grant 1996, tr. 8–10
- ^ Limberis 1994, tr. 11–2
- ^ Barnes 1981, tr. 77
- ^ Barnes 1981, tr. 212
- ^ a ă Barnes 1981, tr. 222
- ^ a ă â Gregory 2010, tr. 63
- ^ a ă Klimczuk & Warner 2009, tr. 171
- ^ Dash, Mike (ngày 2 tháng 3 năm 2012). “Blue Versus Green: Rocking the Byzantine Empire”. Smithsonian Magazine. The Smithsonian Institution. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2012.
- ^ Dahmus 1995, tr. 117
- ^ Cantor 1994, tr. 226
- ^ Morris 2010, tr. 109–18
- ^ Gregory 2010, tr. 324–9
- ^ Gregory 2010, tr. 330–3
- ^ Gregory 2010, tr. 340
- ^ Gregory 2010, tr. 341–2
- ^ Reinert 2002, tr. 258–60
- ^ Baynes 1949, tr. 47
- ^ Gregory 2010, tr. 394–9
- ^ Holt, Lambton & Lewis 1977, tr. 306–7
- ^ a ă Holt, Lambton & Lewis 1977, tr. 307
- ^ Holt, Lambton & Lewis 1977, tr. 735–6
- ^ a ă Chandler, Tertius; Fox, Gerald (1974). 3000 Years of Urban Growth. London: Academic Press. ISBN 978-0-12-785109-9.
- ^ Çelik 1993, tr. 87–9
- ^ a ă Harter 2005, tr. 251
- ^ Shaw & Shaw 1977, tr. 230, 287, 306
- ^ Çelik 1993, tr. 31
- ^ Landau 1984, tr. 50
- ^ Dumper & Stanley 2007, tr. 39
- ^ Keyder 1999, tr. 11–2, 34–6
- ^ Efe & Cürebal 2011, tr. 718–9
- ^ “Districts”. Istanbul Metropolitan Municipality. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2011.
- ^ a ă â “History of Local Governance in Istanbul”. Istanbul Metropolitan Municipality. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2011.
- ^ “İstanbul İl ve İlçe Alan Bilgileri” [Istanbul Province and District Area Information] (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Istanbul Metropolitan Municipality. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Jurisdiction”. Istanbul Metropolitan Municipality. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2011.
- ^ “Geographic and Strategic Importance”. Chính quyền Thành phố Istanbul. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2013.
- ^ “Istanbul from a Bird’s Eye View”. Governorship of Istanbul. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2010.
- ^ a ă “The Topography of İstanbul”. Republic of Turkey Ministry of Culture and Tourism. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2012.
- ^ a ă Revkin, Andrew C. (ngày 24 tháng 2 năm 2010). “Disaster Awaits Cities in Earthquake Zones”. The New York Times. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2010.
- ^ Parsons, Tom; Toda, Shinji; Stein, Ross S.; Barka, Aykut; Dieterich, James H. (2000). “Heightened Odds of Large Earthquakes Near Istanbul: An Interaction-Based Probability Calculation”. Science (Washington, D.C.: The American Association for the Advancement of Science) 288 (5466): 661–5. doi:10.1126/science.288.5466.661. PMID 10784447.
- ^ Traynor, Ian (ngày 9 tháng 12 năm 2006). “A Disaster Waiting to Happen – Why a Huge Earthquake Near Istanbul Seems Inevitable”. The Guardian (UK). Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2010.
- ^ Kottek, Markus; Grieser, Jürgen; Beck, Christoph; Rudolf, Bruno; Rube, Franz (June năm 2006). “World Map of the Köppen-Geiger climate classification updated”. Meteorologische Zeitschrift 15 (3): 259–263. doi:10.1127/0941-2948/2006/0130. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2011.
- ^ Kottek et al. 2006, tr. 261
- ^ a ă Efe & Cürebal 2011, tr. 716–7
- ^ a ă “Weather – Istanbul”. World Weather. BBC Weather Centre. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2012.
- ^ “Istanbul Enshrouded in Dense Fog”. Turkish Daily News. Ngày 14 tháng 1 năm 2005. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2012.
- ^ “Thick Fog Causes Disruption, Flight Delays in İstanbul”. Today’s Zaman. Ngày 23 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2012.
- ^ “Dense Fog Disrupts Life in Istanbul”. Today’s Zaman. Ngày 6 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2012.
- ^ a ă Pelit, Attila. “When to Go to Istanbul”. TimeOut Istanbul. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2011.
- ^ a ă â b “Resmi İstatistikler (İl ve İlçelerimize Ait İstatistiki Veriler)” [Official Statistics (Statistical Data of Provinces and Districts) – Istanbul] (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Turkish State Meteorological Service. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2014.
- ^ Kindap, Tayfin (ngày 19 tháng 1 năm 2010). “A Severe Sea-Effect Snow Episode Over the City of Istanbul”. Natural Hazards 54 (3): 703–23. ISSN 1573-0840. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2012.
- ^ “Istanbul Winds Battle Over the City”. Turkish Daily News. Ngày 17 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2012.
- ^ a ă “Yıllık Toplam Yağış Verileri” [Annual Total Participation Data: Istanbul, Turkey] (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Turkish State Meteorological Service. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2012.
- ^ “İstanbul Bölge Müdürlüğü’ne Bağlı İstasyonlarda Ölçülen Ekstrem Değerler” [Extreme Values Measured in Istanbul Regional Directorate] (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Turkish State Meteorological Service. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2010.
- ^ “March 1987 Cyclone (Blizzard) over the Eastern Mediterranean and Balkan Region Associated with Blocking”. American Meteorological Society. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2010.
- ^ “Resmi İstatistikler (İl ve İlçelerimize Ait İstatistiki Veriler)” [Official Statistics (Statistical Data of Provinces and Districts) – Istanbul] (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Cục Khí tượng Quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2014.
- ^ Çelik 1993, tr. 70, 169
- ^ Çelik 1993, tr. 127
- ^ a ă “Besiktas: The Black Eagles of the Bosporus”. FIFA. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2012.
- ^ Moonan, Wendy (ngày 29 tháng 10 năm 1999). “For Turks, Art to Mark 700th Year”. The New York Times. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2012.
- ^ Oxford Business Group 2009, tr. 105
- ^ Karpat 1976, tr. 78–96
- ^ Yavuz, Ercan (ngày 8 tháng 6 năm 2009). “Gov’t launches plan to fight illegal construction”. Today’s Zaman. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2011.
- ^ Boyar & Fleet 2010, tr. 247
- ^ Taylor 2007, tr. 241
- ^ “Water Supply Systems, Reservoirs, Charity and Free Fountains, Turkish Baths”. Republic of Turkey Ministry of Culture and Tourism. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2012.
- ^ Time Out Guides 2010, tr. 212
- ^ a ă Chamber of Architects of Turkey 2006, tr. 80, 118
- ^ Chamber of Architects of Turkey 2006, tr. 176
- ^ Freely 2000, tr. 283
- ^ Necipoğlu 1991, tr. 180, 136–137
- ^ Çelik 1993, tr. 159
- ^ Çelik 1993, tr. 133–34, 141
- ^ “Büyükşehir Belediyesi Kanunu” [Metropolitan Municipal Law]. Türkiye Büyük Millet Meclisi (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Ngày 10 tháng 7 năm 2004. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2010. “Bu Kanunun yürürlüğe girdiği tarihte; büyükşehir belediye sınırları, İstanbul ve Kocaeli ilinde, il mülkî sınırıdır. (Dịch: Vào ngày đạo luật này ban hành, địa phận thành phố, trong các tỉnh İstanbul và Kocaeli, là địa phận của chính các tỉnh đó.)”
- ^ Çelik 1993, tr. 42–8
- ^ Kapucu & Palabiyik 2008, tr. 145
- ^ Taşan-Kok 2004, tr. 87
- ^ Wynn 1984, tr. 188
- ^ Taşan-Kok 2004, tr. 87–8
- ^ a ă Kapucu & Palabiyik 2008, tr. 153–5
- ^ Erder, Sema (tháng 11 năm 2009). “Local Governance in Istanbul” (pdf). Istanbul: City of Intersections. Urban Age (London: London School of Economics): 46. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2012.
- ^ a ă Kapucu & Palabiyik 2008, tr. 156
- ^ a ă “Metropolitan Executive Committee”. Istanbul Metropolitan Municipality. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2011.
- ^ Kapucu & Palabiyik 2008, tr. 155–6
- ^ “The Mayor’s Biography”. Istanbul Metropolitan Municipality. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2011.
- ^ “Organizasyon” [Organization] (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Istanbul Special Provincial Administration. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2011.
- ^ Organisation for Economic Co-operation and Development 2008, tr. 206
- ^ “Encümen Başkanı” [Head of the Council] (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Istanbul Special Provincial Administration. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2011.
- ^ “Address Based Population Registration System Results of 2010” (doc). Turkish Statistical Institute. Ngày 28 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2011.
- ^ Morris 2010, tr. 113
- ^ Chandler 1987, tr. 463–505
- ^ a ă “Frequently Asked Questions”. World Urbanization Prospects, the 2011 Revision. The United Nations. Ngày 5 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2012.
- ^ a ă “File 11a: The 30 Largest Urban Agglomerations Ranked by Population Size at Each Point in Time, 1950–2025” (xls). World Urbanization Prospects, the 2011 Revision. The United Nations. Ngày 5 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2012.
- ^ Kamp, Kristina (ngày 17 tháng 2 năm 2010). “Starting Up in Turkey: Expats Getting Organized”. Today’s Zaman. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2012.
- ^ a ă “Social Structure Survey 2006”. KONDA Research. 2006. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2012.
- ^ “Turkey”. The World Factbook. The Central Intelligence Agency. Ngày 28 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2012.
- ^ U.S. Bureau of Democracy, Human Rights, and Labor. “Turkey: International Religious Freedom Report 2007”. U.S. Department of State. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2012.
- ^ Davidson & Gitlitz 2002, tr. 180
- ^ “History of the Ecumenical Patriarch”. The Ecumenical Patriarch of Constantinople. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2012.
- ^ “The Patriarchal Church of Saint George”. The Ecumenical Patriarch of Constantinople. Truy cập 20 tháng Sáu 2012.
- ^ Çelik 1993, tr. 38
- ^ Athanasopulos 2001, tr. 82
- ^ “The Greek Minority and its foundations in Istanbul, Gokceada (Imvros) and Bozcaada (Tenedos)”. Hellenic Republic Ministry of Foreign Affairs. Ngày 21 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2012.
- ^ Khojoyan, Sara (ngày 16 tháng 10 năm 2009). “Armenian in Istanbul: Diaspora in Turkey welcomes the setting of relations and waits more steps from both countries”. Armenia Now. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2012.
- ^ Masters & Ágoston 2009, tr. 520–1
- ^ Wedel 2000, tr. 182
- ^ “Can’t They Get Along Anymore?”. The Economist. Ngày 8 tháng 9 năm 2005. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2012.
- ^ Zalewski, Piotr (ngày 9 tháng 1 năm 2012). “Istanbul: Big Trouble in Little Kurdistan”. TIME. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2012.
- ^ Rôzen 2002, tr. 55–8, 49
- ^ Rôzen 2002, tr. 49–50
- ^ Brink-Danan 2011, tr. 176
- ^ ʻAner 2005, tr. 367
- ^ Schmitt 2005, passim
- ^ “III – Which are the largest city economies in the world and how might this change by 2025?”. PricewaterhouseCoopers. Tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2012.
- ^ a ă “Presentation of Reference City: Istanbul”. Urban Green Environment. 2001. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2011.
- ^ Melby, Caleb (ngày 16 tháng 3 năm 2012). “Moscow Beats New York, London In List Of Billionaire Cities”. Forbes. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2012.
- ^ “Dış Ticaretin Lokomotifi İstanbul” [Istanbul is the Locomotive of Foreign Trade] (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). NTV-MSNBC. Ngày 13 tháng 2 năm 2006. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2012.
- ^ Odabaşı, Attila; Aksu, Celal; Akgiray, Vedat (December năm 2004). “The Statistical Evolution of Prices on the Istanbul Stock Exchange”. The European Journal of Finance (London: Routledge) 10 (6): 510–25. doi:10.1080/1351847032000166931.
- ^ “History of the Bank”. The Ottoman Bank Archives and Research Centre. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2012.
- ^ “Milestones in ISE History”. Istanbul Stock Exchange. 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2012.
- ^ Oxford Business Group 2009, tr. 112
- ^ Jones, Sam, và cộng sự (ngày 27 tháng 4 năm 2011). “Istanbul’s new Bosphorus canal ‘to surpass Suez or Panama’”. The Guardian. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2012.
- ^ Organisation for Economic Co-operation and Development 2008, tr. 80
- ^ “Ports of Turkey”. Cerrahogullari T.A.S. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2012.
- ^ Cavusoglu, Omer (March năm 2010). “Summary on the Haydarpasa Case Study Site”. Cities Programme. London School of Economics. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2012.
- ^ Zeybek, Hülya; Kaynak, Muhtesem (27–ngày 30 tháng 5 năm 2008). “What Role for Turkish Ports in the Regional Logistics Supply Chains?”. International Conference on Information Systems and Supply Chain. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2012.
- ^ Organisation for Economic Co-operation and Development 2008, tr. 82
- ^ Organisation for Economic Co-operation and Development 2008, tr. 143
- ^ Organisation for Economic Co-operation and Development 2008, tr. 81
- ^ Kerimoğlu, Ebra; Ciraci, Hale. “Urban Tourism: An Analysis of Visitors to Istanbul”. Vienna University of Economics and Business.
- ^ a ă â “Istanbul ’10”. Turkey Tourism Market Research Reports. Istanbul Valuation and Consulting. 2010. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2012. (Ghi chú: nguồn cung cấp số liệu về doanh thu bằng tiền lira của Thổ Nhĩ Kỳ, trong bài đã đổi ra theo tỉ giá 2010)
- ^ Göktürk, Soysal & Türeli 2010, tr. 8
- ^ Reisman 2006, tr. 88
- ^ Göktürk, Soysal & Türeli 2010, tr. 2–4
- ^ a ă “İstanbul – Archaeology Museum”. Republic of Turkey Ministry of Culture and Tourism. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2012.
- ^ a ă Göktürk, Soysal & Türeli 2010, tr. 221–3
- ^ Göktürk, Soysal & Türeli 2010, tr. 223–4
- ^ Hansen, Suzy (ngày 10 tháng 2 năm 2012). “The Istanbul Art-Boom Bubble”. The New York Times. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2012.
- ^ Göktürk, Soysal & Türeli 2010, tr. 130–1
- ^ Göktürk, Soysal & Türeli 2010, tr. 133–4
- ^ Göktürk, Soysal & Türeli 2010, tr. 146
- ^ Göktürk, Soysal & Türeli 2010, tr. 165
- ^ Nikitin, Nikolaj (ngày 6 tháng 3 năm 2012). “Golden Age for Turkish Cinema”. Credit-Suisse. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2012.
- ^ Köksal 2012, tr. 24–5
- ^ “History”. The Istanbul Foundation for Culture and Arts. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2012.
- ^ Gibbons, Fiachra (ngày 21 tháng 9 năm 2011). “10 of the Best Exhibitions at the Istanbul Biennial”. The Guardian. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2012.
- ^ Hensel, Michael; Sungurogl, Defne; Ertaş, Hülya biên tập (January/February năm 2010). “Turkey at the Threshold”. Architectural Design (London: John Wiley & Sons) 80 (1). ISBN 978-0-470-74319-5.
- ^ a ă Köse 2009, tr. 91–2
- ^ Taşan-Kok 2004, tr. 166
- ^ Emeksiz, İpek (ngày 3 tháng 9 năm 2010). “Abdi İpekçi Avenue to be new Champs Elysee”. Hürriyet Daily News. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2012.
- ^ “Shopping in Singapore is Better than Paris”. CNN. Ngày 6 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2012.
- ^ Schäfers, Marlene (ngày 26 tháng 7 năm 2008). “Managing the Difficult Balance Between Tourism and Authenticity”. Hürriyet Daily News. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2012.
- ^ Schillinger, Liesl (ngày 8 tháng 7 năm 2011). “A Turkish Idyll Lost in Time”. The New York Times. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2012.
- ^ Freely 2011, tr. 429
- ^ Keyder 1999, tr. 34
- ^ Kugel, Seth (ngày 17 tháng 7 năm 2011). “The $100 Istanbul Weekend”. The New York Times. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2012.
- ^ Knieling & Othengrafen 2009, tr. 228–34
- ^ Tomasetti, Kathryn; Rutherford, Tristan (ngày 23 tháng 3 năm 2012). “A Big Night Out in Istanbul – And a Big Breakfast the Morning After”. The Guardian. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2012.
- ^ a ă “Galatasaray: The Lions of the Bosporus”. FIFA. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2012.
- ^ “UEFA Champions League 2007/08 – History – Fenerbahçe”. The Union of European Football Associations. Ngày 8 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2012.
- ^ “Türkiye Basketbol Ligleri” [Turkish Basketball League] (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). The Turkish Basketball League. Ngày 27 tháng 6 năm 2012.
- ^ “List of Certified Athletics Facilities”. The International Association of Athletics Federations. Ngày 1 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2013.
- ^ “2008/09: Pitmen strike gold in Istanbul”. The Union of European Football Associations. Ngày 20 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2012.
- ^ Aktaş, İsmail (ngày 14 tháng 3 năm 2012). “Aşçıoğlu Sues Partners in Joint Project Over Ali Sami Yen Land”. Hürriyet Daily News. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2012.
- ^ “Regulations of the UEFA European Football Championship 2010–12” (pdf). The Union of European Football Associations. tr. 14. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2012.
- ^ “Regulations of the UEFA Europa League 2010/11” (pdf). The Union of European Football Associations. tr. 17. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2012.
- ^ “Türk Telekom Arena Istanbul”. ‘asp’ Architekten. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2012.
- ^ “Istanbul –Arenas”. FIBA. 2010. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
- ^ “Fenerbahce Ulker’s new home, Ulker Sports Arena, opens”. Euroleague Basketball. Ngày 24 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
- ^ Wilson, Stephen (ngày 2 tháng 9 năm 2011). “2020 Olympics: Six cities lodge bids for the games”. The Christian Science Monitor. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
- ^ “UEFA Announce New Euro 2020 Bid Process”. The Independent. Ngày 16 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
- ^ “Events”. FIA World Touring Car Championship. 2012. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
- ^ “The Circuits”. European Le Mans Series. 2012. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2012.
- ^ Richards, Giles (ngày 22 tháng 4 năm 2011). “Turkey Grand Prix Heads for the Scrapyard Over $26m Price Tag”. The Guardian. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2012.
- ^ “2012 Yarış Programı ve Genel Yarış Talimatı” [2012 Race Schedule and General Sailing Instructions] (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). The Istanbul Sailing Club. 2012. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2012.
- ^ Turkish Daily News (ngày 23 tháng 8 năm 2008). “Sailing Week Starts in Istanbul”. Hürriyet Daily News. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2012.
- ^ “About Us”. The Turkish Offshore Racing Club. Ngày 31 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2012.
- ^ “Races”. F1 Powerboat World Championship. 2012. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2012.
- ^ Brummett 2000, tr. 11, 35, 385–6
- ^ a ă â b “Country Profile: Turkey”. The Library of Congress Federal Research Division. Tháng 8 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 2 năm 2005. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2012.
- ^ “Gazete Net Satışları”. Medyatava (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Ngày 30 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ
|trans_ti tle=
(trợ giúp) - ^ a ă “TRT –Radio”. The Turkish Radio and Television Corporation. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2012.
- ^ Time Out Guides 2010, tr. 224
- ^ “TRT – Television”. The Turkish Radio and Television Corporation. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2012.
- ^ Norris 2010, tr. 184
- ^ “Chris Morris”. BBC. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2012.
- ^ “History”. Istanbul University. Ngày 11 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2012.
- ^ “History”. Istanbul Technical University. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2012.
- ^ “University Profile: Istanbul Technical University, Turkey”. Board of European Students of Technology. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2012.
- ^ “State Universities”. The Turkish Council of Higher Education. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2012.
- ^ “General Information”. Ankara: Istanbul Medeniyet University. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2012.
- ^ a ă Doğramacı, İhsan (August năm 2005). “Private Versus Public Universities: The Turkish Experience” (DOC). 18th International Conference on Higher Education. Ankara. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2012.
- ^ “History of RC”. Robert College. 2012. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2012.
- ^ “Private Universities”. The Turkish Council of Higher Education. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2012.
- ^ “2007 Yılına Ait Veriler” [Data for 2007] (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Governorship of Istanbul. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2012.
- ^ “Historique” [History] (bằng tiếng Pháp). Galatasaray University. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2012.
- ^ “Millî Eğitim Bakanlığı Anadolu Liseleri Yönetmeliği” [Ministry of Education Regulation on Anatolian High Schools] (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Ministry of Education. Ngày 5 tháng 11 năm 1999. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2012.
- ^ “Galatasaray Lisesi”. Galatasaray High School. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2012.
- ^ “The History of the Italian School”. Liceo Italiano. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2012.
- ^ “Principles of Education”. Darüşşafaka High School. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2012.
- ^ “Kabataş Erkek Lisesi” (bằng Turkey). Kabataş Erkek Lisesi. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2012.
- ^ “KAL Uygulamalı Yabancı Dil Laboratuvarı” [KAL Applied Foreign Language Lab] (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Kadıköy Anadolu Lisesi. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2012.
- ^ a ă “Istanbul and the History of Water in Istanbul”. Istanbul Water and Sewerage Administration. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2006.
- ^ Tigrek & Kibaroğlu 2011, tr. 33–4
- ^ “İSKİ Administration”. Istanbul Water and Sewerage Administration. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2012.
- ^ a ă â “Silahtarağa Power Plant”. SantralIstanbul. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2012.
- ^ a ă “Short History of Electrical Energy in Turkey”. Turkish Electricity Transmission Company. 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2012.
- ^ “Central Post Office”. Emporis. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2012.
- ^ a ă â b “About Us | Brief History”. The Post and Telegraph Organization. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2012.
- ^ Masters & Ágoston 2009, tr. 557
- ^ Shaw & Shaw 1977, tr. 230
- ^ a ă “About Türk Telekom: History”. Türk Telekom. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2012.
- ^ Sanal 2011, tr. 85
- ^ Oxford Business Group 2009, tr. 197
- ^ Oxford Business Group 2009, tr. 198
- ^ Connell 2010, tr. 52–3
- ^ Papathanassis 2011, tr. 63
- ^ Google, Inc. Google Maps – Istanbul Overview [bản đồ]. Cartography by Google, Inc. Truy nhập ngày 1 tháng 4 năm 2012.
- ^ Efe & Cürebal 2011, tr. 720
- ^ a ă ERM Group (Germany and UK) and ELC-Group (Istanbul) (tháng 1 năm 2011). “Volume I: Non Technical Summary (NTS)”. Eurasia Tunnel Environmental and Social Impact Assessment. The European Investment Bank. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2012.
- ^ a ă Letsch, Constanze (ngày 8 tháng 6 năm 2012). “Plan for New Bosphorus Bridge Sparks Row Over Future of Istanbul”. The Guardian. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2012.
- ^ Songün, Sevim (ngày 16 tháng 7 năm 2010). “Istanbul Commuters Skeptical of Transit Change”. Hürriyet Daily News. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2012.
- ^ a ă â “Chronological History of IETT”. Istanbul Electricity, Tramway and Tunnel General Management. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2012.
- ^ “T1 Bağcılar–Kabataş Tramvay Hattı” [T1 Bağcılar–Kabataş Tram Line] (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). İstanbul Ulaşım A.Ş. (Istanbul Transport Corporation). Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Tunnel”. Istanbul Electricity, Tramway and Tunnel. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2012. (Chú ý: bản tiếng Anh này có vẻ như là bản dịch thô bằng máy của bản gốc trên trang tiếng Thổ.)
- ^ “F1 Taksim–Kabataş Füniküler Hattı” [F1 Bağcılar–Kabataş Funicular Line] (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). İstanbul Ulaşım A.Ş. (Istanbul Transport Corporation). Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Raylı Sistemler” [Rail Systems] (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). İstanbul Ulaşım A.Ş. (Istanbul Transport Corporation). Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Ağ Haritaları” [Network Maps] (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). İstanbul Ulaşım A.Ş. (Istanbul Transport Corporation). Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Turkey: Connecting Continents”. Economic Updates. Oxford Business Group. Ngày 7 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2012.
- ^ Efe & Cürebal 2011, tr. 723
- ^ “Public Transportation in Istanbul”. Istanbul Electricity, Tramway and Tunnel General Management. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2012.
- ^ “Metrobus”. Istanbul Electricity, Tramway and Tunnel General Management. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2012.
- ^ “Interaktif Haritalar | İç Hatlar” [Interactive Map of Timetables | Inner-City Lines] (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). İDO. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2012.
- ^ “Dış Hatlar” [Interactive Map of Timetables | Inter-City Lines] (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). İDO. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2012.
- ^ Grytsenko, Sergiy (ngày 26 tháng 9 năm 2011). “EBRD Supports Privatisation of Ferry Operations in Istanbul”. The European Bank for Reconstruction and Development. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2012.
- ^ “Liman Hizmetleri” [Port Services] (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Turkey Maritime Organization. Ngày 10 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Bölgesel Yolcu Trenleri” [Regional Passenger Trains] (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Turkish State Railways. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2012.
- ^ Keenan, Steve (ngày 22 tháng 6 năm 2012). “How Your Greek Summer Holiday Can Help Save Greece”. The Guardian. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2012.
- ^ “Haydarpasa Train Station”. Emporis. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2012.
- ^ Head, Jonathan (ngày 16 tháng 2 năm 2010). “Iraq – Turkey railway link re-opens”. BBC. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2012.
- ^ “Transports to Middle-Eastern Countries”. Turkish National Railways. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2012.
- ^ a ă Akay, Latifa (ngày 5 tháng 2 năm 2012). “2012 Sees End of Line for Haydarpaşa Station”. Today’s Zaman. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2012.
- ^ “İstanbul Otogarı” [Istanbul Bus Station] (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Avrasya Terminal İşletmeleri A.Ş. (Eurasian Terminal Management, Inc.). Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2012.
- ^ “Eurolines Germany–Deutsche Touring GmbH–Europabus”. Touring. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2012.
- ^ Rogers, Simon (ngày 4 tháng 5 năm 2012). “The World’s Top 100 Airports: Listed, Ranked, and Mapped”. The Guardian. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2012.
- ^ Strauss, Delphine (ngày 25 tháng 11 năm 2009). “Sabiha Gökçen: New Terminal Lands On Time and Budget”. The Financial Times. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2012.
- ^ “Yolcu Trafiği (Gelen-Giden)” [Passenger Traffic (Incoming-Outgoing)] (pdf) (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). General Directorate of State Airports Authority. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2012.
- ^ “Sabiha Gökçen Named World’s Fastest Growing Airport”. Today’s Zaman. Ngày 18 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2012.
- ^ “Minister Names Location for 3rd Airport”. Hürriyet Daily News. Ngày 3 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2012.
Thư mục
- ʻAner, Nadav (2005). Trong Pergola, Sergio Della; Gilboa, Amos; Ṭal, Rami. The Jewish People Policy Planning Institute Planning Assessment, 2004–2005: The Jewish People Between Thriving and Decline. Jerusalem: Gefen Publishing House Ltd. ISBN 978-965-229-346-6.
- Athanasopulos, Haralambos (2001). Greece, Turkey, and the Aegean Sea: A Case Study in International Law. Jefferson, N.C.: McFarland & Company, Inc. ISBN 978-0-7864-0943-3.
- Barnes, Timothy David (1981). Constantine and Eusebius. Cambridge, Mass.: Harvard University Press. ISBN 978-0-674-16531-1.
- Baynes, Norman H. (1949). Trong Baynes, Norman H.; Moss, Henry S. L. B. Byzantium: An Introduction to East Roman Civilization. Oxford, Eng.: Clarendon Press. ISBN 978-0-674-16531-1.
- Boyar, Ebru; Fleet, Kate (2010). A Social History of Ottoman Istanbul. Cambridge, Eng.: Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-13623-5.
- Brink-Danan, Marcy (2011). Jewish Life in Twenty-First-Century Turkey: The Other Side of Tolerance. New Anthropologies of Europe. Bloomington, Ind.: Đại học Indiana Press. ISBN 978-0-253-35690-1.
- Brummett, Palmira Johnson (2000). Image and Imperialism in the Ottoman Revolutionary Press, 1908–1911. Albany, N.Y.: SUNY Press. ISBN 978-0-7914-4463-4.
- Cantor, Norman F. (1994). Civilization of the Middle Ages. New York: HarperCollins. ISBN 978-0-06-092553-6.
- Çelik, Zeynep (1993). The Remaking of Istanbul: Portrait of an Ottoman City in the Nineteenth Century. Berkeley, Calif., & Los Angeles: University of California Press. ISBN 978-0-520-08239-7.
- Chamber of Architects of Turkey (2006). Architectural Guide to Istanbul: Historic Peninsula 1. Istanbul: Chamber of Architects of Turkey, Istanbul Metropolitan Branch. ISBN 978-975-395-899-8.
- Chandler, Tertius (1987). Four Thousand Years of Urban Growth: An Historical Census. Lewiston, N.Y.: St. David’s University Press. ISBN 978-0-88946-207-6.
- Connell, John (2010). Medical Tourism. CAB Books. Wallingford, Eng.: CABI. ISBN 978-1-84593-660-0.
- Dahmus, Joseph (1995). A History of the Middle Ages. New York: Barnes & Noble Publishing. ISBN 978-0-7607-0036-5.
- Davidson, Linda Kay; Gitlitz, David Martin (2002). Pilgrimage: From the Ganges to Graceland: An Encyclopedia 1. Santa Barbara, Calif.: ABC-CLIO. ISBN 978-1-57607-004-8.
- De Sélincourt, Aubery (2003). Trong Marincola, John M. The Histories. Penguin Classics. London: Penguin Books. ISBN 978-0-14-044908-2.
- De Souza, Philip (2003). The Greek and Persian Wars, 499-386 B.C. London: Routledge. ISBN 978-0-415-96854-6.
- Dumper, Michael; Stanley, Bruce E. biên tập (2007). Cities of the Middle East and North Africa: A Historical Encyclopedia. Santa Barbara, Calif.: ABC-CLIO. ISBN 978-1-57607-919-5.
- Düring, Bleda S. (2010). The Prehistory of Asia Minor: From Complex Hunter-Gatherers to Early Urban Societies. Cambridge, Eng.: Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-14981-5.
- Efe, Recep; Cürebal, Isa (2011). “Impacts of the “Marmaray” Project (Bosphorus Tube Crossing, Tunnels, and Stations) on Transportation and Urban Environment in Istanbul”. Trong Brunn, Stanley D. Engineering Earth: The Impacts of Megaengineering Projects. London & New York: Springer. tr. 715–34. ISBN 978-90-481-9919-8.
- Finkel, Caroline (2005). Osman’s Dream: The Story of the Ottoman Empire, 1300–1923. New York: Basic Books. ISBN 978-0-465-02396-7.
- Freely, John (1996). Istanbul: The Imperial City. New York: Viking. ISBN 978-0-670-85972-6.
- Freely, John (2000). The Companion Guide to Istanbul and Around the Marmara. Woodbridge, Eng.: Companion Guides. ISBN 978-1-900639-31-6.
- Freely, John (2011). A History of Ottoman Architecture. Southampton, Eng.: WIT Press. ISBN 978-1-84564-506-9.
- Göksel, Aslı; Kerslake, Celia (2005). Turkish: A Comprehensive Grammar. Comprehensive Grammars. Abingdon, Eng.: Routledge. ISBN 978-0-415-21761-3.
- Göktürk, Deniz; Soysal, Levent; Türeli, İpek biên tập (2010). Orienting Istanbul: Cultural Capital of Europe?. New York: Routledge. ISBN 978-0-415-58011-3.
- Grant, Michael (1996). The Severans: The Changed Roman Empire. London: Routledge. ISBN 978-0-415-12772-1.
- Gregory, Timothy E. (2010). A History of Byzantium. Oxford, Eng.: John Wiley and Sons. ISBN 978-1-4051-8471-7.
- Harter, Jim (2005). World Railways of the Nineteenth Century: A Pictorial History in Victorian Engravings . Baltimore: Johns Hopkins University Press. ISBN 978-0-8018-8089-6.
- Holt, Peter M.; Lambton, Ann K. S.; Lewis, Bernard biên tập (1977). The Cambridge History of Islam 1A . Cambridge, Eng.: Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-29135-4.
- Isaac, Benjamin H. (1986). The Greek Settlements in Thrace Until the Macedonian Conquest . Leiden, the Neth.: BRILL. ISBN 978-90-04-06921-3.
- Kapucu, Naim; Palabiyik, Hamit (2008). Turkish Public Administration: From Tradition to the Modern Age. USAK Publications 17. Ankara: USAK. ISBN 978-605-4030-01-9.
- Karpat, Kemal H. (1976). The Gecekondu: Rural Migration and Urbanization . Cambridge, Eng.: Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-20954-0.
- Keyder, Çağlar biên tập (1999). Istanbul: Between the Global and the Local. Lanham, Md.: Rowman & Littlefield. ISBN 978-0-8476-9495-2.
- Klimczuk, Stephen; Warner, Gerald (2009). Secret Places, Hidden Sanctuaries: Uncovering Mysterious Sights, Symbols, and Societies. New York: Sterling Publishing Company, Inc. ISBN 978-1-4027-6207-9.
- Knieling, Jörg; Othengrafen, Frank (2009). Planning Cultures in Europe: Decoding Cultural Phenomena in Urban and Regional Planning. Urban and Regional Planning and Development. Surrey, Eng.: Ashgate Publishing, Ltd. ISBN 978-0-7546-7565-5.
- Köksal, Özlem biên tập (2012). World Film Locations: Istanbul. Bristol, Eng.: Intellect Books. ISBN 978-1-84150-567-1.
- Köse, Yavuz (2009). “Vertical Bazaars of Modernity: Western Department Stores and Their Staff in Istanbul (1889–1921)”. Trong Atabaki, Touraj; Brockett, Gavin. Ottoman and Republican Turkish Labour History. Cambridge, Eng.: Cambridge University Press. tr. 91–114. ISBN 978-0-521-12805-6.
- Landau, Jacob M. (1984). Atatürk and the Modernization of Turkey. Leiden, the Neth.: E.J. Brill. ISBN 978-90-04-07070-7.
- Limberis, Vasiliki (1994). Divine Heiress: The Virgin Mary and the Creation of Christian Constantinople. London: Routledge. ISBN 978-0-415-09677-5.
- Lister, Richard P. (1979). The Travels of Herodotus. London: Gordon & Cremonesi. ISBN 978-0-86033-081-3.
- Masters, Bruce Alan; Ágoston, Gábor (2009). Encyclopedia of the Ottoman Empire. New York: Infobase Publishing. ISBN 978-1-4381-1025-7.
- Morris, Ian (tháng 10 năm 2010). Social Development (pdf). Stanford, Calif.: Stanford University. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2012.
- Mossberger, Karen; Clarke, Susan E.; John, Peter (2012). The Oxford Handbook of Urban Politics. Oxford Handbooks in Politics and International Relations. Oxford, Eng.: Oxford University Press. ISBN 978-0-19-536786-7.
- Necipoğlu, Gülru (1991). Architecture, Ceremonial, and Power: The Topkapi Palace in the Fifteenth and Sixteenth Centuries. Cambridge, Mass.: The MIT Press. ISBN 978-0-262-14050-8.
- Norris, Pippa (2010). Public Sentinel: News Media & Governance Reform. Washington, D.C.: World Bank Publications. ISBN 978-0-8213-8200-4.
- Organisation for Economic Co-operation and Development (2008). Istanbul, Turkey. OECD Territorial Reviews. Paris: OECD Publishing. ISBN 978-92-64-04371-8.
- Oxford Business Group (2009). The Report: Turkey 2009. Oxford, Eng.: Oxford Business Group. ISBN 978-1-902339-13-9.
- Papathanassis, Alexis (2011). The Long Tail of Tourism: Holiday Niches and Their Impact on Mainstream Tourism. Berlin: Springer. ISBN 978-3-8349-3062-0.
- Quantic, Roy (2008). Climatology for Airline Pilots. Oxford, Eng.: John Wiley & Sons. ISBN 978-0-470-69847-1.
- Reinert, Stephen W. (2002). “Fragmentation (1204–1453)”. Trong Mango, Cyril. The Oxford History of Byzantium. Oxford, Eng.: Oxford University Press. ISBN 978-0-19-814098-6.
- Reisman, Arnold (2006). Turkey’s Modernization: Refugees from Nazism and Atatürk’s Vision. Washington, D.C.: New Academia Publishing, LLC. ISBN 978-0-9777908-8-3.
- Roebuck, Carl (1959). Ionian Trade and Colonization. Monographs on Archaeology and Fine Arts. New York: Archaeological Institute of America. ISBN 978-0-89005-528-1.
- Room, Adrian (2006). Placenames of the World: Origins and Meanings of the Names for 6,600 Countries, Cities, Territories, Natural Features, and Historic Sites (ấn bản 2). Jefferson, N.C.: McFarland & Company. ISBN 978-0-7864-2248-7.
- Rôzen, Mînnā (2002). A History of the Jewish Community in Istanbul: The Formative Years, 1453–1566 . Leiden, the Neth.: BRILL. ISBN 978-90-04-12530-8.
- Sanal, Aslihan (2011). Trong Fischer, Michael M. J.; Dumit, Joseph. New Organs Within Us: Transplants and the Moral Economy. Experimental Futures . Chapel Hill, N.C.: Duke University Press. ISBN 978-0-8223-4912-9.
- Schmitt, Oliver Jens (2005). Levantiner: Lebenswelten und Identitäten einer ethnokonfessionellen Gruppe im osmanischen Reich im “langen 19. Jahrhundert” (bằng tiếng Đức). München: Oldenbourg. ISBN 978-3-486-57713-6.
- Shaw, Stanford J.; Shaw, Ezel K. (1977). History of the Ottoman Empire and Modern Turkey 2. Cambridge, Eng.: Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-29166-8.
- Taşan-Kok, Tuna (2004). Budapest, Istanbul, and Warsaw: Institutional and Spatial Change. Delft, the Neth.: Eburon Uitgeverij B.V. ISBN 978-90-5972-041-1.
- Taylor, Jane (2007). Imperial Istanbul: A Traveller’s Guide: Includes Iznik, Bursa and Edirne. New York: Tauris Parke Paperbacks. ISBN 978-1-84511-334-6.
- Tigrek, Sahnaz; Kibaroğlu, Ayșegül (2011). “Strategic Role of Water Resources for Turkey”. Trong Kibaroğlu, Ayșegül; Scheumann, Waltina; Kramer, Annika. Turkey’s Water Policy: National Frameworks and International Cooperation. London & New York: Springer. ISBN 978-3-642-19635-5.
- Time Out Guides biên tập (2010). Time Out Istanbul. London: Time Out Guides. ISBN 978-1-84670-115-3.
- Turan, Neyran (2010). “Towards an Ecological Urbanism for Istanbul”. Trong Sorensen, André; Okata, Junichiro. Megacities: Urban Form, Governance, and Sustainability. Library for Sustainable Urban Regeneration. London & New York: Springer. tr. 223–42. ISBN 978-4-431-99266-0.
- WCTR Society; Unʼyu Seisaku Kenkyū Kikō (2004). Urban Transport and the Environment: An International Perspective. Amsterdam: Elsevier. ISBN 978-0-08-044512-0.
- Wedel, Heidi (2000). Trong Ibrahim, Ferhad; Gürbey, Gülistan. The Kurdish Conflict in Turkey. Berlin: LIT Verlag Münster. tr. 181–93. ISBN 978-3-8258-4744-9.
- Wynn, Martin (1984). Planning and Urban Growth in Southern Europe. Studies in History, Planning, and the Environment. Los Altos, Calif.: Mansell. ISBN 978-0-7201-1608-3.
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Istanbul |
![]() |
Wikivoyage có chỉ dẫn du lịch về Istanbul |
- Trang web chính thức của Khu tự trị đô thị Istanbul
- Trang web chính thức của Thống đốc Istanbul
- Lonely Planet Istanbul
- MMI: ảnh hàng không (bản đồ) Istanbul các năm 1946, 1966, 1982 và 2005
- MMI: Hình ảnh về các dấu mốc chính của Istanbul
Tọa độ: 41,01224°B 28,976018°Đ
|
|
|
Ankara
Ankara | |
Trên: Anıtkabir; |
|
vị trí của Ankara |
|
Tọa độ: 39°52′B 32°52′Đ | |
---|---|
Quốc gia | Thổ Nhĩ Kỳ |
Vùng | Trung Anatolia |
Tỉnh | Ankara |
Chính quyền | |
– Mayor | Melih Gökçek (AKP) |
– Governor | Alaaddin Yüksel |
Diện tích | |
– Thành phố | 2.516,00 km² (971,4 mi²) |
Độ cao | 938 m (3.077 ft) |
Dân số (2010)[1] | |
– Mật độ | 1.551,00/km² (4.017,1/mi²) |
– Vùng đô thị | 4.431.719 |
Múi giờ | EET (UTC+2) |
– Mùa hè (DST) | EEST (UTC+3) |
Mã bưu chính | 06xxx |
Mã điện thoại | 0312 |
Thành phố kết nghĩa | Minsk, Miami, Pavlodar, Ashgabat, Astana, Bắc Kinh, Bishkek, Bucharest, Chişinău, Hà Nội, Kiev, Kuala Lumpur, Thành phố Kuwait, Nicosia, Manama, Moskva, Tirana, Kinshasa, Bissau, Ufa, Mogadishu, Sana’a, Washington, D.C., Sofia, Tbilisi, Islamabad, Bangkok, Khartoum, Santiago de Chile, Damas, Amman, Seoul, Dushanbe, Sarajevo, Priština |
Biển số xe | 06 |
Website: http://www.ankara.bel.tr/ http://www.ankara.gov.tr/ |
Ankara (phát âm tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: [ˈan.ka.ɾa]) tên trước đây là Angora, thủ đô Thổ Nhĩ Kỳ, thành phố lớn thứ hai của quốc gia này sau Istanbul. Đây cũng là thủ phủ của tỉnh Ankara, một vùng thảo nguyên khô cằn tại trung tâm của Cao nguyên Anatolia ở miền Trung Tây Thổ Nhĩ Kỳ. Là thủ đô hành chính từ thập niên 1920, Ankara đã có vai trò là trung tâm hành chính, nơi ở của các nhà chính trị, hành chính và công chức Thổ Nhĩ Kỳ. Các chi nhánh của Quân đội Thổ Nhĩ Kỳ cũng đặt cơ sở ở thành phố Ankara. Thành phố nằm ở độ cao trung bình 938 mét trên mực nước biển,[2] dân số vùng đô thị năm 2010 bao gồm toàn bộ tỉnh Ankara là 4,4 triệu người.[1]
Mục lục
Dân số
Năm 2000 Ankara có dân số 3.023.000 người. Hầu như toàn bộ dân ở đây nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, ngôn ngữ chính thức của quốc gia này. Đa số dân thành phố là tín độ Hồi giáo Sunni.
Lịch sử
Ankara đã là một trung tâm thương mại từ thời cổ đại. Những người Hittite đã chiếm khu vực này từ năm 2000 trước Công Nguyên. Những người Phrygians đã kế tục người Hittite khoảng năm 1000 trước Công Nguyên. Alexander Đại Đế đã chinh phục thành phố năm 333 trước Công Nguyên. Sau khi ông mất, những bộ lạc Gallic (Galatian) đã chọn đây làm kinh đô của họ (xem thêm Galatia). Với tên gọi Ancyra, thành phố này bị Đế quốc La Mã cai trị năm 189 trước Công Nguyên và trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Galatia Prima. Sau này nó trở thành một thành phố lớn của Đế quốc Byzantine và tiếp theo đó nó bị xâm chiếm bởi người Ba Tư, Ả Rập, Seljuk Turks, và quân Thập Tự Chinh Latin. Thành phố được đổi tên Angora bởi ngưừoi Seljuk, rơi vào tay người Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman năm 1360. Thành phố bị chiếm đóng trong một thời gian ngắn bởi Tamerlane người Thổ năm 1402, nhưng lại trở lại Đế quốc Ottoman năm sau đó.
Năm 1923, sau khi thiết lập Cộng hoà Thổ Nhĩ Kỳ, Atatürk đã dời đô từ Istanbul đến Angora, một sự di chuyển phá bỏ truyền thống và thiết lập một vị trí trung tâm cho thủ đô. Một nỗ lực lớn hiện đại hoá thành phố bắt đầu và tên thành phố đã được đổi thành Ankara năm 1930. Thành phố phát triển nhanh chóng trong nhiều thập kỷ và sớm trở thành một trong những trung tâm đô thị lớn của Thổ Nhĩ Kỳ. Trong những năm gần đây, thành phố đã sáp nhập thâm những vùng ngoại ô xung quanh để giải quyết vấn đề của những khu nhà lụp xụp của hàng ngàn người nhập cư từ những vùng kém phát triển khác của đất nước. Ankara đang thực hiện nhiều dự án giao thông lớn để giải quyết nạn tắc nghẽn giao thông.
Khí hậu
[ẩn]Dữ liệu khí hậu của Ankara (1954–2013) | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tháng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
Cao kỉ lục °C (°F) | 16.6 | 20.4 | 26.4 | 30.6 | 33.0 | 37.0 | 41.0 | 40.4 | 36.0 | 32.2 | 24.4 | 20.4 | 41,0 |
Trung bình cao °C (°F) | 4.4 | 6.5 | 11.7 | 17.2 | 22.3 | 26.7 | 30.2 | 30.2 | 25.9 | 19.9 | 12.9 | 6.6 | 17,9 |
Trung bình ngày, °C (°F) | 0.4 | 1.9 | 6.1 | 11.3 | 16.2 | 20.2 | 23.6 | 23.3 | 18.7 | 13.1 | 7.0 | 2.6 | 12,0 |
Trung bình thấp, °C (°F) | −3 | −2.2 | 1.0 | 5.6 | 9.7 | 13.1 | 16.0 | 16.0 | 11.7 | 7.3 | 2.5 | −0.6 | 6,4 |
Thấp kỉ lục, °C (°F) | −21.4 | −21.5 | −19.2 | −6.7 | −1.6 | 3.8 | 4.5 | 6.3 | 2.5 | −4.1 | −10.5 | −17.2 | −21,5 |
Giáng thủy mm (inches) | 42.2 (1.661) |
37.0 (1.457) |
38.8 (1.528) |
47.7 (1.878) |
49.7 (1.957) |
35.0 (1.378) |
14.5 (0.571) |
10.5 (0.413) |
19.2 (0.756) |
29.4 (1.157) |
32.6 (1.283) |
45.4 (1.787) |
402,0 (15,827) |
Số ngày giáng thủy TB | 12.2 | 11.0 | 10.9 | 11.9 | 12.5 | 8.6 | 3.7 | 2.8 | 3.9 | 6.8 | 8.5 | 11.8 | 104,6 |
Số giờ nắng trung bình hàng tháng | 77.5 | 98.9 | 161.2 | 189.0 | 260.4 | 306.0 | 353.4 | 341.0 | 276.0 | 201.5 | 132.0 | 71.3 | 2.468,2 |
Số giờ nắng trung bình ngày | 2.5 | 3.5 | 5.2 | 6.3 | 8.4 | 10.2 | 11.4 | 11.0 | 9.2 | 6.5 | 4.4 | 2.3 | 6,7 |
Nguồn: Cục Khí tượng Quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ[3] |
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Ankara |
Tham khảo
- ^ a ă [1] Address-based population report 2010.
- ^ Ankara, Turkey: Latitude, Longitude and Altitude
- ^ “Resmi İstatistikler (İl ve İlçelerimize Ait İstatistiki Veriler)” (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Cục Khí tượng Quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2015.
Video yêu thích
Đại Chiến Xích Bích 2 Phim dã sử hay nhất Trung Quốc
KimYouTube