CNM365. Chào ngày mới 26 tháng 7. Wikipedia Ngày này năm xưa. Năm 1953 – Fidel Castro bắt đầu nổi dậy, thành “Phong trào 26 tháng 7“, chống lại chế độ Fulgencio Batista. Năm 1294 – ngày mất Trần Quang Khải, danh tướng, đại thần và nhà quý tộc thời Trần (sinh năm 1241).Năm 1956 – Nhà lãnh đạo Ai Cập Gamal Abdel Nasser quyết định quốc hữu hóa kênh đào Suez, dẫn đến một cuộc khủng hoảng sau đó.
26 tháng 7
Ngày 26 tháng 7 là ngày thứ 207 (208 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 158 ngày trong năm.
« Tháng 7 năm 2015 » | ||||||
CN | T2 | T3 | T4 | T5 | T6 | T7 |
1 | 2 | 3 | 4 | |||
5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 |
12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 |
19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 |
26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | |
Mục lục
Sự kiện
- 1887 – Ludwik Lejzer Zamenhof xuất bản Unua Libro, xuất bản phẩm đầu tiên mô tả về Quốc tế ngữ.
- 1908 – Cục Điều tra (BOI) được thành lập, là tiền thân của Cục Điều tra Liên bang Hoa Kỳ (FBI).
- 1944 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Hồng quân Liên Xô tiến vào Lvov, giành lấy thành phố từ tay Đức Quốc Xã.
- 1953 – Fidel Castro bắt đầu nổi dậy, thành “Phong trào 26 tháng 7“, chống lại chế độ Fulgencio Batista.
- 1956 – Nhà lãnh đạo Ai Cập Gamal Abdel Nasser quyết định quốc hữu hóa kênh đào Suez, dẫn đến một cuộc khủng hoảng sau đó.
Sinh
- 1739 – George Clinton, Phó Tổng Thống thứ tư của Hoa Kỳ (m. 1812)
Mất
- 1294 – Trần Quang Khải, nhà quý tộc, đại thần và danh tướng thời Trần (s. 1241)
- 1986 – Trần Văn Chương, luật sư Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Đế quốc Việt Nam, đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Mỹ, cha của Trần Lệ Xuân, bị sát hại tại tư gia (s. 1898)
Những ngày lễ và kỷ niệm
Tháng 1 | Tháng 2 | Tháng 3 | Tháng 4 | Tháng 5 | Tháng 6 | Tháng 7 | Tháng 8 | Tháng 9 | Tháng 10 | Tháng 11 | Tháng 12 |
Tham khảo
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về 26 tháng 7 |
Fidel Castro
{{subst:PAGENAME}} | |
---|---|
![]() Castro in front of a Havana statue of Cuban national hero José Martí in 2003
|
|
Chức vụ
|
|
Nhiệm kỳ | 24 tháng 6, 1961 – 19 tháng 4, 2011 |
Tiền nhiệm | Blas Roca Calderio |
Kế nhiệm | Raúl Castro |
Nhiệm kỳ | 2 tháng 12, 1976 – 24 tháng 2, 2008 |
Tiền nhiệm | Osvaldo Dorticós Torrado |
Kế nhiệm | Raúl Castro |
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Cuba
|
|
Nhiệm kỳ | ngày 2 tháng 12 năm 1976 – ngày 24 tháng 2 năm 2008 |
Tiền nhiệm | Self (as Prime Minister) |
Kế nhiệm | Raúl Castro |
Nhiệm kỳ | ngày 16 tháng 2 năm 1959 – ngày 2 tháng 12 năm 1976 |
Tiền nhiệm | José Miró Cardona |
Kế nhiệm | Self (as President of Council of Ministers) |
7th and 23rd Secretary-General of the Non-Aligned Movement
|
|
Nhiệm kỳ | ngày 16 tháng 9 năm 2006 – ngày 24 tháng 2 năm 2008 |
Tiền nhiệm | Abdullah Ahmad Badawi |
Kế nhiệm | Raúl Castro |
Tiền nhiệm | Abdullah Ahmad Badawi |
Kế nhiệm | Neelam Sanjiva Reddy |
Thông tin chung
|
|
Đảng phái | Đảng Cộng sản Cuba |
Sinh | 13 tháng 8, 1926 Birán, Holguin Province, Cuba |
Alma mater | University of Havana |
Tôn giáo | Atheism |
Họ hàng | (siblings) Raúl Castro Ruz Emma Castro Ruz Agustina Castro Ruz Ramon Castro Ruz Angela Castro Ruz Juana Castro Ruz Pedro Emilio Castro Argota Manuel Castro Argota Lidia Castro Argota Antonia Maria Castro Argota Georgina Castro Argota Martin Castro |
Con cái | Fidel Ángel Castro Diaz-Balart Alina Fernández-Revuelta Alexis Castro-Soto Alejandro Castro-Soto Antonio Castro-Soto Angel Castro-Soto Alex Castro-Soto Jorge Angel Castro Laborde Francisca Pupo |
Chữ ký | ![]() |
|
Fidel Alejandro Castro Ruz ( audio) (sinh ngày 13 tháng 8 năm 1926) là một trong những nhà lãnh đạo chủ chốt của cuộc Cách mạng Cuba, Thủ tướng của Cuba từ tháng 2 năm 1959 tới tháng 12 năm 1976, và sau đó là Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Cuba cho tới khi ông từ chức tháng 2 năm 2008. Ông là Bí thư thứ nhất của Đảng Cộng sản Cuba từ tháng 10 năm 1965 tới tháng 4 năm 2011, em trai ông, Raúl Castro, được kế nhiệm chức vụ này vào ngày 19 tháng 4 năm 2011. Ông là người đương thời với những nhà lãnh đạo nổi tiếng như Che Guevara, Hồ Chí Minh, Nelson Mandela,…[1]
Ông sinh ra trong một gia đình giàu có và đã có bằng luật. Khi học tập ở Đại học La Habana, ông bắt đầu sự nghiệp chính trị và trở thành một nhân vật được biết đến trong chính giới Cuba.[2] Sự nghiệp chính trị của ông tiếp tục với những lời chỉ trích mang tính chủ nghĩa dân tộc đối với Tổng thống Fulgencio Batista, và sự ảnh hưởng chính trị của Hoa Kỳ với Cuba. Ông trở thành một nhân vật chống Batista kịch liệt và thu hút sự chú ý của chính quyền.[3] Cuối cùng ông cầm đầu cuộc tấn công thất bại năm 1953 vào Pháo đài Moncada, sau đó bị bắt, xét xử, tống giam và thả tự do. Sau đó ông tới Mexico[4][5] để tổ chức và huấn luyện một cuộc tấn công vào chế độ Batista ở Cuba. Ông và các đồng chí cách mạng rời Mexico tới miền Đông Cuba tháng 12 năm 1956.
Castro lên nắm quyền lực sau thắng lợi của cuộc cách mạng Cuba lật đổ chế độ độc tài được Hoa Kỳ tài trợ[6] của Fulgencio Batista,[7] và một thời gian ngắn sau đó trở thành Thủ tướng Cuba.[8] Năm 1965 ông trở thành Bí thư thứ nhất của Đảng Cộng sản Cuba và lãnh đạo cuộc chuyển tiếp Cuba trở thành một nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa độc đảng. Năm 1976 ông trở thành Chủ tịch Hội đồng Nhà nước cũng như Hội đồng Bộ trưởng. Ông cũng giữ cấp bậc tối cao quân đội Comandante en Jefe (“Tổng chỉ huy”) các lực lượng vũ trang Cuba.
Sau một cuộc phẫu thuật ruột bởi một bệnh hệ tiêu hoá không được tiết lộ được cho là diverticulitis,[9] Castro đã chuyển giao các chức vụ của mình cho Phó chủ tịch thứ nhất, đồng thời là em trai ông, Raúl Castro, ngày 31 tháng 7 năm 2006. Ngày 19 tháng 2 năm 2008, năm ngày trước khi thời hạn nhiệm kỳ của ông kết thúc, ông thông báo không tiếp tục tham gia tranh cử một nhiệm kỳ nữa với cả chức danh chủ tịch và tổng tư lệnh.[10][11] Ngày 24 tháng 2 năm 2008, Quốc hội Cuba bầu Raúl Castro kế nhiệm ông làm Chủ tịch Cuba.[12]
Trên bình diện quốc tế, Castro đã trở thành một “anh hùng thế giới theo khuôn mẫu của Garibaldi“ đối với mọi người trên khắp thế giới đang nỗ lực chống lại chủ nghĩa đế quốc[13] Ông đã được trao tặng rất nhiều giải thưởng và huân chương danh dự của các nước, và đã được xem là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà lãnh đạo nổi tiếng khác như Ahmed Ben Bella và Nelson Mandela, người sau đó trao tặng ông giải thưởng dân sự cao nhất của Nam Phi cho người nước ngoài, Huân chương Hảo Vọng[14]
Ngoài ra, Castro cũng được xem là một trong những nhà cách mạng kiệt xuất nhất nửa sau thế kỷ XX,[15] là biểu tượng của sự ủng hộ về mặt tinh thần đối với nhân dân những xứ có đời sống kinh tế thấp hoặc là bị chính quyền trấn áp trên thế giới. Chính phủ Castro đóng vai trò không nhỏ trong cuộc giải phóng người da đen Nam Phi khỏi chế độ Apartheid nói riêng cũng như những cuộc đấu tranh đòi độc lập diễn ra tại các quốc gia châu Phi thời bấy giờ nói chung.[1]. Bản thân ông cũng là nhà lãnh tụ đã vượt qua nhiều sóng gió và nguy hiểm nhất: tháng 12/2011, Sách Kỷ lục Guinness đã công nhận ông là người bị ám sát nhiều nhất (638 lần), chủ yếu bởi tổ chức Tình báo Trung ương Mỹ CIA tiến hành[16].
Mục lục
Tiểu sử
Fidel Castro sinh ngày 13 tháng 8 năm 1927[17] (một năm trễ hơn trong giấy tờ chính thức) tại một thị trấn nhỏ tên Birán, con không hôn thú của một chủ đồn điền trồng mía giàu có, Ángel Castro Argiz, di dân từ Tây Ban Nha, và người nấu bếp cho ông, bà Lina Ruz González[18].Giấy tờ chính thức đầu tiên là một giấy rửa tội ký vào năm 1935, với tên là „Fidel Hipólito Ruz González”. Lúc đó ông lấy họ của mẹ, bởi vì ông là con không chính thức. Sau khi cha ông ly dị vào năm 1941, ông ta đã hối lộ để được một giấy rửa tội mới cho Fidel. Trong giấy tờ đó ông tên là „Fidel Ángel Castro Ruz”. Ngày sinh được đổi lại là 13 tháng 8 1926, để mà Fidel có thể theo học trường Jesuiten ở Havanna, bởi vì ông hãy còn nhỏ tuổi. Giấy rửa tội cuối cùng được ký vào tháng 12 1943, sau khi cha ông lấy mẹ ông, có tên là “Fidel Alejandro Castro Ruz” mà bây giờ vẫn còn được dùng.[18][19]
Lúc nhỏ Castro theo học trường Dòng Tên. Ông vào Đại học La Habana năm 1945 và tốt nghiệp ngành luật năm 1950.
Trong thời gian học đại học, Castro tham gia vào nhiều tổ chức chống đối chính quyền. Ông hành nghề luật sư từ năm 1950 đến 1952; trở thành đảng viên Đảng Chính thống (tiếng Tây Ban Nha: Partido Ortodoxo) và vận động để tranh cử vào Quốc hội Cuba. Thế nhưng ý định của Castro chưa thành thì nổ ra cuộc đảo chính của tướng Fulgencio Batista. Batista muốn lên nắm chính quyền để ngăn cản sự lớn mạnh của Đảng Chính Thống. Dưới sự cai trị của Batista, hàng ngàn chính khách bị ám sát và dân chúng sống dưới sự đàn áp.
Castro bắt đầu vận động chống lại Batista bằng biện pháp quân sự. Ông liên kết được hơn 200 người ủng hộ cách mạng trên toàn quốc và trở thành thủ lĩnh của họ. Ngày 26 tháng 7 năm 1953, Castro và các chiến hữu tấn công vào trại lính Moncada. Hơn 80 chiến hữu bị tử trận, Castro bị bắt. Ông bị đưa ra tòa và bị kết án 15 năm tù. Cuối phiên tòa, Castro đã hùng hồn đọc bài diễn văn “Lịch sử sẽ giải oan cho tôi” (La historia me absolverá), phản ánh quan điểm chính trị của ông.
Một năm sau, Batista đại xá cho nhiều tù chính trị, trong đó có Castro. Castro sang Mexico và lập nhóm vũ trang kháng chiến. Nhóm này lấy tên là nhóm Hai Mươi Sáu Tháng Bảy, để tưởng niệm cuộc nổi dậy Moncada ngày 26 tháng 7 trước kia. Trong số những người tham gia vào nhóm này có Che Guevara, một sinh viên y khoa đang tập sự tại Mexico City và cả Raúl Castro, em trai của Fidel.
Ngày 2 tháng 12 năm 1956, nhóm Hai Mươi Sáu Tháng Bảy, gồm 80 người, trở lại Cuba trên con tàu Granma dài 18 mét. Sau khi đổ bộ, họ nhanh chóng bị bao vây bởi quân chính phủ Batista. Một trận đánh ác liệt diễn ra, nhóm cách mạng chỉ còn 12 người sống sót và rút vào vùng rừng núi Sierra Maestra để tổ chức kháng chiến. Trong số những người sống sót, ngoài Fidel Castro còn có Raul Castro (em trai ông), Che Guevara và Camilo Cienfuegos. Nhóm kháng chiến được quần chúng ủng hộ và phát triển lên đến 800 người. Trong suốt 2 năm, họ áp dụng chiến thuật đánh du kích gây nhiều thiệt hại cho quân chính phủ. Tháng 5 năm 1958, Batista huy động nhiều tiểu đoàn tiến đánh quân kháng chiến. Dù bị thua kém về quân số, phe kháng chiến vẫn thắng nhiều trận quan trọng. Quân của Batista có tinh thần chiến đấu kém nên đào ngũ và đầu hàng rất nhiều.
Ngày 1 tháng 1 năm 1959, quân đội của Fidel Castro tiến vào La Havana, quân đội của Batista đào ngũ hàng loạt và hầu như không kháng cự. Sự kiện này đánh dấu sự thành công cuộc cách mạng Cuba. Khi thua cuộc, Batista chạy trốn khỏi Cuba và sang tỵ nạn chính trị ở Mỹ.
Một giai đoạn quá độ đã được hình thành. Manuel Urrutia Lleó, một chính trị gia không đảng phái đã được tôn lên làm Tổng thống Cuba vào ngày 3 tháng 1 năm 1959. Manuel đã chỉ định một luật sư và là giáo sư Đại học La Habana là José Miró Cardona làm Thủ tướng. Tuy nhiên, chỉ sau 6 tuần, Miró bất ngờ từ chức. Fidel Castro được chỉ định là Thủ tướng. Ông hứa sẽ xây dựng một chính quyền trong sạch và tôn trọng hiến pháp. Tuy nhiên, chính phủ Castro đã tuyên án tử hình hàng trăm cựu quan chức thuộc Đảng Batista vì tội danh tham nhũng.
Hoa Kỳ ban đầu công nhận chính quyền Fidel Castro, nhưng sau khi Castro quốc hữu hóa các công ty Hoa Kỳ tại Cuba thì quan hệ Hoa Kỳ – Cuba trở nên lạnh nhạt. Chính sách kinh tế của Castro làm cho Hoa Kỳ nghi ngờ rằng ông ủng hộ chủ nghĩa cộng sản và có quan hệ với Liên bang Xô viết – đối địch với Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh. Tháng 4 năm 1959, Castro viếng thăm Nhà Trắng nhưng Tổng thống Dwight D. Eisenhower từ chối gặp, thay vào đó là Phó tổng thống Richard Nixon. Sau cuộc gặp gỡ này, Nixon cho rằng Castro là một người “ngây thơ” nhưng không nhất thiết là cộng sản.
Tháng 2 năm 1960, chính quyền Castro ký một hiệp định thương mại với Liên Xô, trong đó Liên Xô đồng ý bán dầu hỏa cho Cuba. Không thể chấp nhận một nước ngay sát mình có quan hệ thương mại với Liên Xô, Hoa Kỳ đơn phương cắt đứt mọi quan hệ ngoại giao và áp dụng chính sách cấm vận lên Cuba vào ngày 31 tháng 1 năm 1961. Điều này lại đẩy Cuba tiếp tục thắt chặt quan hệ với Liên Xô và ngày càng nhận nhiều viện trợ quân sự và kinh tế.
Ngày 17 tháng 4 năm 1961, Hoa Kỳ yểm trợ một đạo binh gồm 1.300 lính Cuba lưu vong đổ bộ lên vùng Vịnh Con Heo (tiếng Anh: Bay of Pigs) nhằm mục đích lật đổ Fidel Castro. Đó chính là sự kiện Vịnh Con Lợn. Tuy vậy, cụm quân này đã bị đánh tan hoàn toàn bởi Quân đội Cách mạng Cuba trong thời gian ngắn ngủi. Fidel Castro đã đích thân chỉ huy trận đánh trên một chiếc xe tăng T-34 dẫn đầu đội hình chiến đấu của quân đội Cuba trong cuộc chiến trên vịnh Con lợn. Đặc biệt chiếc T-34 do ông chỉ huy đã bắn hạ 2 chiếc xe tăng M4 Sherman trong khi tham chiến[20].
Cuộc đổ bộ thất bại và nhiều người bị bắt, chín người bị xử tử vì tội phản bội Tổ quốc. Ngày 1 tháng 5 năm 1961, ông tuyên bố Cuba là một quốc gia theo Xã hội chủ nghĩa và chính thức bãi bỏ sự bầu cử đa đảng.[2] Những người phê phán Castro cho rằng ông sợ những cuộc bầu cử sẽ khiến ông mất uy quyền.[2] Cũng trong ngày hôm đó, hàng trăm ngàn người dân Cuba nghe lãnh tụ Castro tuyên bố:[21]
“ | Cách mạng không kết thúc sau một thời hạn nhất định, vì thế chúng ta không cần phải bầu cử. Tại châu Mỹ La Tinh này, không có một chính phủ nào dân chủ hơn chính phủ cách mạng của chúng ta… Nếu ngài Kennedy không ưa Xã hội chủ nghĩa, thì chúng ta cũng ghét chủ nghĩa đế quốc vậy. Chúng ta căm ghét chủ nghĩa tư bản. | ” |
—Fidel Castro |
Cũng trong năm đó, ngày 2 tháng 12, Castro tuyên bố rằng ông theo chủ nghĩa Marx-Lenin, và Cuba sẽ đi theo chủ nghĩa cộng sản. Cuối năm 1961, ông được Liên bang Xô viết trao tặng Giải thưởng Hoà bình Lenin.
Tỷ lệ tử vong của trẻ em là một vấn đề lớn ở Cuba. Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh là 60 phần nghìn vào năm 1959. Để đối phó với thực trạng này, Fidel đã đưa vào hệ thống chăm sóc y tế miễn phí và bắt đầu một chương trình tiêm chủng toàn quốc. Tới năm 1980, tỷ lệ tử vong trẻ em giảm xuống còn 15 phần nghìn. Con số này hiện ở mức tốt nhất trong số các nước đang phát triển.
Năm 1967, người bạn chiến đấu của Fidel, Che Guevara, bị Cục tình báo trung ương Mỹ sát hại ở Bolivia. Trong buổi lễ tưởng niệm Che, ngày 18 tháng 10 năm 1967, Fidel phát biểu:
-
- “Nếu phải diễn tả hình ảnh tương lai của thế hệ con cháu mà chúng ta muốn chúng trở thành, chúng ta sẽ nói rằng: Hãy giống như Che. Nếu phải bày tỏ lòng mong ước con cháu mình sẽ được giáo dục như thế nào, chúng ta sẽ nói không chút ngần ngại rằng: Chúng ta muốn chúng được giáo dục theo tinh thần của Che”.
Ngày 15 tháng 9 năm 1973, giữa lúc cuộc Chiến tranh Việt Nam đang diễn ra, ông đến thăm Quảng Trị, Việt Nam khi đó đang nằm dưới quyền quản lý của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Đây là chuyến thăm đặc biệt đáng nhớ nhất của không chỉ riêng ông mà còn với những người Việt Nam mà ông đã gặp như Đại tá Hồ Văn A, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp.[22]
Cuối năm 1976, một Hiến pháp Cuba mới được xây dựng với những thay đổi về cơ cấu chính quyền. Ngày 2 tháng 12 năm 1976, Fidel Castro được bầu vào chức vụ Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Cộng hòa Cuba, một chức vụ vừa là nguyên thủ quốc gia của Cuba, vừa là người đứng đầu Chính phủ Cuba. Chức vụ này được Quốc hội Cuba bầu ra với nhiệm kỳ 5 năm, Fidel đã đắc cử suốt 7 nhiệm kỳ và giữ chức vụ này liên tục trong 32 năm cho tới khi nghỉ hưu.
Chính quyền Castro áp dụng chính sách kinh tế xã hội chủ nghĩa, quốc hữu hóa các ngành công nghiệp và hợp tác hóa nông nghiệp. Chính sách này làm cho giới thượng lưu bất mãn, kể cả những người trước kia ủng hộ kháng chiến. Nhiều người trong số này trốn sang Hoa Kỳ và lập ra những tổ chức chống Fidel Castro tại Florida.
Ngày 28 tháng 3 năm 1980, một chiếc xe buýt tông sập cổng tòa đại sứ Peru ở thủ đô La Habana. Trong vòng 48 tiếng, hơn 10.000 người Cuba đã nhân cơ hội tràn vào tòa đại sứ xin tị nạn chính trị. Ngày 10 tháng 4 năm 1980, Castro tuyên bố cho mọi người dân được tự do rời Cuba qua cảng Mariel ở La Habana nếu họ muốn. Khoảng hơn 125 nghìn người dân Cuba xuống tàu ra đi, trên một cuộc hành trình được Hoa Kỳ mệnh danh là “Đoàn Tàu Tự Do” hay là cuộc di tản Mariel, đa số đến Florida, Hoa Kỳ.
Tháng 1 năm 2004, Luis Eduardo Garzón, thị trưởng của Bogotá – thủ đô của Columbia – sau cuộc gặp gỡ với Castro nói rằng ông ta “trông có vẻ rất ốm yếu”. Tháng 5 năm 2004, bác sĩ của Castro bác bỏ các tin đồn cho rằng sức khỏe Castro đang xuống dốc. Ông tuyên bố rằng Castro sẽ sống đến 140 tuổi.
Ngày 20 tháng 10 năm 2004, Castro bị vấp ngã sau khi đọc diễn văn trước một cuộc mít tinh. Cú ngã này làm ông bị vỡ xương tay và đầu gối. Ông ta phải trải qua ba giờ giải phẫu. Sau đó Castro viết một lá thư để đăng lên báo, đài. Trong thư ông cam đoan với công chúng rằng mình vẫn khỏe và sẽ “không mất liên lạc với quý vị”.
Sau cuộc phẫu thuật dạ dày năm 2006, Fidel Castro đã tạm trao quyền lãnh đạo đất nước cho người em trai của mình là ông Raul Castro. Kể từ đó, Fidel Castro ít xuất hiện trước công chúng.[23][24]
Ngày 18 tháng 2 năm 2008, ông tuyên bố ý định thôi giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và Tổng tư lệnh quân đội Cuba, kết thúc sự nghiệp chính trị sau gần 50 năm[17].
Cống hiến
Trong suốt giai đoạn lãnh đạo của mình, Fidel rất quan tâm tới phúc lợi xã hội cho người dân (giáo dục, y tế, nhà ở…). Giáo dục ở Cuba miễn phí ở tất cả các cấp học dưới sự kiểm soát của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa. Chính quyền Cuba điều hành hệ thống y tế toàn dân và tự gánh trách nhiêm tài chính và quản lý cho toàn bộ hệ thống. Chính phủ cấm bất kỳ hoạt động y tế nào mang tính chất tư nhân vì lợi nhuận. Năm 1976, chương trình chăm sóc sức khỏe Cuba được đưa thành điều 50 của Hiến pháp, theo đó quy định rằng “tất cả mọi người được quyền bảo vệ và chăm sóc sửa khỏe miễn phí”.
Một số thống kê về Cuba được tờ Independent của Anh nêu ra về y tế Cuba vào năm 2006[25]:
- Tuổi thọ bình quân: nam 75,11; nữ: 79,85 (Mỹ tương ứng là 75; 80,8).
- Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh: 6,22 ca tử vong trên 1.000 trẻ em (Mỹ là 6,43).
- Tỷ lệ nhiễm HIV: dưới 0,1 phần trăm (Mỹ: 0,6 phần trăm).
- Số bác sĩ trên 1000 dân: 5,91 (Mỹ: 2,56).
- Số giường bệnh trên 10.000 dân: 49 (Mỹ: 33).
- 25.000 bác sĩ Cuba đang làm nhiệm vụ nhân đạo tại 68 quốc gia. Năm 2006, 1.800 bác sĩ từ 47 nước đang phát triển đã tốt nghiệp từ 21 trường y tế của Cuba. Mỗi năm có hơn 5.000 “khách du lịch sức khỏe” đi du lịch tới Cuba, tạo ra hơn 40 triệu USD cho nền kinh tế Cuba.
- Số bác sỹ Fidel Castro được cung cấp để gửi sang Mỹ để giúp đỡ các nạn nhân của cơn bão Katrina: 1.586
Chính phủ Cuba thường xuyên cử các đoàn y tế tới các khu vực có thiên tai, dịch bệnh trên thế giới (đặc biệt tại các nước nghèo) để hỗ trợ[26][27] Kể từ khi Cuba cử một nhóm bác sĩ đến giúp Chile khắc phục hậu quả của một trận động đất năm 1960, đến nay Cuba này đã gửi hơn 135.000 nhân viên y tế đến nhiều nơi trên thế giới trong các sứ mệnh nhân đạo. “Ngoại giao y tế” tạo ra lợi ích sức khỏe và cải thiện quan hệ giữa các quốc gia là nền tảng của chính sách đối ngoại Cuba trong suốt hàng chục năm qua. Bên cạnh những giá trị về nhân đạo và tạo lập hình ảnh quốc gia, Cuba cũng được hưởng lợi kinh tế từ chính sách “ngoại giao y tế”. Cùng với các dịch vụ giáo dục, thể thao, việc cử các chuyên gia y tế ra nước ngoài làm việc đưa về cho Cuba khoảng 10 tỷ USD hàng năm, trở thành nguồn thu nhập quan trọng nhất đối với hòn đảo này[28].
Ngày 1/7/2015, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) chính thức xác nhận Cuba trở thành quốc gia đầu tiên đã thành công trong việc ngăn chặn virus HIV truyền từ mẹ sang con. Theo Giám đốc WHO Margaret Chan, thành công của Cuba là một trong những thành tựu quan trọng nhất của hệ thống y tế toàn cầu, là chiến thắng y học rất vĩ đại của nhân loại trong cuộc chiến lâu dài với HIV/AIDS. Một trong những yếu tố quan trọng là nhờ vào hệ thống chăm sóc y tế quốc gia toàn diện tập trung vào sức khỏe sản phụ. Tại Cuba có đến 99% bà mẹ mang thai và 100% các bé sơ sinh từ mẹ bị HIV đều được điều trị thuốc ngăn chặn phơi nhiễm HIV và các loại thuốc này miễn phí hoàn toàn cho bệnh nhân, theo hướng dẫn của bác sĩ.[29]
Năm 2014, Cuba thống kê việc Hoa Kỳ cấm vận chống Cuba đã khiến kinh tế nước này thiệt hại 1,11 nghìn tỷ USD trong 55 năm qua (trung bình mỗi năm thiệt hại 20 tỷ USD). Trong 22 năm qua, Liên hiệp quốc năm nào cũng thông qua một nghị quyết yêu cầu Hoa Kỳ dỡ bỏ cấm vận chống Cuba với sự ủng hộ áp đảo của các thành viên thể hiện sự đoàn kết ủng hộ cho Cuba. Năm 2013, bản nghị quyết đã nhận được 188 phiếu thuận và chỉ có 2 phiếu chống của Mỹ và Israel[30] (tuy nhiên, do Mỹ là nước có quyền phủ quyết ở Liên Hiệp quốc nên dù Nghị quyết có số phiếu thuận áp đảo thì vẫn không được thông qua).
Bất chấp thiệt hại do cấm vận kinh tế, theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, Cuba vẫn là nước có thu nhập bình quân đầu người đạt mức trung bình cao, đạt mức 18.796 USD/người/năm (theo sức mua tương đương – PPP) vào năm 2011, bằng một nửa Nhật Bản và xếp hạng 60/185 quốc gia[31]. Chỉ số phát triển con người (HDI) ở mức cao (0,815 điểm vào năm 2013, hạng 44 thế giới)[32]
Hình ảnh đại chúng
“Mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của Fidel luôn luôn là một cam kết thực hiện Bình đẳng xã hội. Ông khinh thường bất kỳ hệ thống xã hội nào trong đó một nhóm người sống xa xỉ hơn nhiều so với đa số còn lại. Ông muốn có một hệ thống xã hội cung cấp các nhu cầu cơ bản cho tất cả mọi người dân – đủ thực phẩm, chăm sóc sức khỏe, nhà ở và giáo dục miễn phí. Bản chất độc đoán của cuộc cách mạng Cuba bắt nguồn phần lớn từ mục tiêu này của Fidel. Castro làm những điều mà đã thuyết phục ông ấy là đúng, là vì lợi ích của nhân dân. Bất cứ ai chống lại cuộc cách mạng và chống lại nhân dân Cuba, trong đôi mắt của Castro, chỉ đơn giản là không thể chấp nhận. Do đó, rất ít thể hiện quá trớn của tự do cá nhân – trong ngôn luận và hội họp, được chấp nhận. Đã có tù nhân chính trị – những người có những hành vi quá mức chống lại cuộc cách mạng – mặc dù ngày nay con số này chỉ khoảng 300, giảm rõ rệt so với ngày đầu của cuộc cách mạng
Trong lịch sử hiện đại, Fidel Castro là một nhà lãnh đạo nhận được những nhận định mâu thuẫn.[1] Truyền thông phương Tây miêu tả ông là một nhà độc tài[34][35][36][37][38] và thời gian cầm quyền của ông là dài nhất trong lịch sử Mỹ Latinh hiện đại.[35][36][37][38], tổ chức theo dõi nhân quyền Hoa Kỳ buộc tội ông tạo ra một “bộ máy đàn áp”.[39] Tuy nhiên, nhân dân Cuba xem ông là một vị anh hùng, người đã thực hiện cuộc cách mạng và đấu tranh vì nền độc lập của đất nước Cuba. Họ gọi ông là “Fidel vô cùng yêu mến” và tôn vinh “sự nhạy cảm đặc biệt của ông đối với những người khác” cùng với “tinh thần chiến đấu không mệt mỏi vì lý tưởng”.[40].
Nhà viết tiểu sử Leycester Coltman mô tả ông là “người nhiệt huyết, làm việc chăm chỉ, tận tâm, trung thành… rộng lượng và hào hùng” nhưng cần chú ý rằng ông sẽ không tha thứ cho kẻ thù. Ông khẳng định, Castro “luôn luôn có một cảm giác quan tâm và hài hước” nhưng có thể sẽ có “cơn thịnh nộ dữ dội nếu ông nghĩ rằng mình đã bị lăng nhục”[41] Nhà viết tiểu sử Peter Bourne ghi nhận Fidel có thái độ quan tâm đặc biệt với nhân dân, ông coi họ “như những thành viên trong đại gia đình khổng lồ của mình”[42] Nhà sử học Alex Von Tunzelmann nhận xét “mặc dù độc đoán, Castro là một người yêu nước, một người đàn ông với một ý thức sâu sắc về nhiệm vụ cứu vớt nhân dân Cuba”.[43]
Sử gia và nhà báo Richard Gott coi Castro là “một trong những nhân vật chính trị khác thường nhất của thế kỷ 20”, ghi nhận Castro đã trở thành một “anh hùng thế giới theo khuôn mẫu của Garibaldi“ với mọi người trên khắp thế giới đang nỗ lực chống lại chủ nghĩa đế quốc[13] Ông đã được trao tặng nhiều giải thưởng danh dự của Chính phủ các nước, và đã được xem là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà lãnh đạo nước ngoài như Ahmed Ben Bella và Nelson Mandela, người sau đó trao tặng ông giải thưởng dân sự cao nhất của Nam Phi cho người nước ngoài, Huân chương Hảo Vọng[14]
Đối với những cáo buộc từ phương Tây rằng ông là nhà độc tài, Fidel Castro tuyên bố rằng nhà nước đôi khi phải hạn chế quyền tự do của một số cá nhân để bảo vệ các quyền lợi của tập thể người dân như quyền được lao động, giáo dục, chăm sóc sức khỏe và y tế miễn phí[44]. Bourne Castro ghi nhận rằng tầm ảnh hưởng mạnh mẽ của Castro ở Cuba hoàn toàn là từ những giá trị của bản thân con người ông. Bourne lưu ý rằng rất hiếm có một quốc gia và một dân tộc hoàn toàn ủng hộ bởi “nhân cách từ một con người” như đối với Fidel[45].
Đời sống riêng
Những chi tiết về cuộc sống riêng tư của Castro, đặc biệt mà có dính líu tới những thành viên trong gia đình, ít được biết, bởi vì báo chí nhà nước bị cấm đề cập tới.[46] Người viết tiểu sử về Castro, ông Robert E. Quirk ghi nhận là trong suốt cuộc đời của ông, nhà lãnh tụ Cuba “không có khả năng để duy trì một quan hệ yêu đương lâu dài với bất cứ người phụ nữ nào.”[47] Với người vợ đầu tiên, bà Mirta Díaz-Balart, mà ông cưới vào ngày 11, tháng 10 1948, Castro có một người con trai tên Fidel Ángel “Fidelito” Castro Díaz-Balart, sanh ngày 1, tháng 9 1949. Díaz-Balart và Castro ly dị trong năm 1955, sau đó bà cưới Emilio Núñez Blanco. Sau một thời gian cư trú ở Madrid, Díaz-Balart đã trở về Havana để sống với Fidelito và gia đình ông.[48] Fidelito lớn lên ở Cuba; có một thời, ông làm chủ tịch ủy ban năng lực nguyên tử Cuba nhưng sau đó bị tước chức này bởi chính cha mình.[49]
Ngoài ra, Fidel có 5 người con trai khác với người vợ thứ hai, Dalia Soto del Valle: Antonio, Alejandro, Alexis, Alexander “Alex” and Ángel Castro Soto del Valle.[49] Trong khi Fidel ở với Mirta, ông đã ngoại tình với Natalia “Naty” Revuelta Clews, sinh ở Havana vào năm 1925 và đã làm đám cưới với Orlando Fernández, đẻ ra một người con gái tên Alina Fernández|Alina Fernández Revuelta.[49] Alina rời khỏi Cuba vào năm 1993, hóa trang làm một du khách người Tây Ban Nha,[50] và xin tị nạn ở Hoa kỳ. Bà đã chỉ trích chính sách của cha mình.[51] Với một phụ nữ khác không được biết tên, ông có một người con trai khác, tên Jorge Ángel Castro. Fidel còn có một người con gái khác, Francisca Pupo (sanh năm 1953) kết quả của một cuộc tình một đêm. Pupo và chồng bà bây giờ sống ở Miami.[52][53] Castro thường có quan hệ tình dục một đêm với các người đàn bà khác.[54]
Chị em gái của ông, bà Juanita Castro sống ở Hoa Kỳ ngay từ đầu thập niên 1960. Khi bà đi tỵ nạn, đã nói là “Tôi không thể hờ hững với những gì đang xảy ra trên đất nước tôi. Hai anh em của tôi, Fidel và Raúl đã biến nước tôi thành một nhà tù khổng lồ được bao quanh bởi biển cả. Người dân đang bị trói buộc và hành hạ bởi chủ nghĩa Cộng sản quốc tế.”[55]
Báo RFI dẫn lời sĩ quan cận vệ Juan Reinaldo Sanchez, người đã chạy sang Mỹ lưu vong năm 2008, trong quyển sách “La Vie cachée de Fidel Castro” tuyên bố: “Cả cuộc đời, Fidel Castro khẳng định ông không có tài sản, chỉ có một chiếc lều câu cá. Thực tế, căn lều của lãnh đạo Cuba là một hệ thống biệt thự sang trong, huy động những phương tiện hậu cần khổng lồ, chiếm trọn hải đảo Cayo Piedra mà giới lãnh đạo xã hội chủ nghĩa thường sang thăm Cuba ít ai biết.”[56] Tuy nhiên, các nhà báo quốc tế từng tới phỏng vấn Fidel tại nhà ông đã cho biết: mặc dù được cung cấp thực phẩm và chăm sóc y tế tốt, Fidel không hề sống một cuộc sống xa hoa[57].
Năm 2006, tạp chí Forbes từng ghi nhận Fidel có tài sản 900 triệu USD, tuy nhiên tạp chí này cũng thừa nhận ước tính này mang tính cảm quan hơn là khoa học. Sau đó, Fidel Castro đã giận dữ xuất hiện trên truyền hình để bác bỏ tuyên bố của tạp chí Forbes, gọi đó là “sự vu khống phản cảm”. Tháng 5/2006, George Galloway đã xuất hiện trên truyền hình Cuba để bảo vệ Castro. Ông nói: “Những người dân Cuba là những người duy nhất trên thế giới có một nhà lãnh đạo có thể nói rằng ông ta không có một đồng đôla riêng của mình.”[25]
Đại tá Hồ Văn A nhớ lại chuyến thăm Việt Nam năm 1973, Chủ tịch Fidel Castro khi tới Quảng Bình, thấy một dân công nữ bị ngất đã cho dừng xe, lệnh cho Đại sứ quán Cuba tại Việt Nam lấy xe chở đi cấp cứu. Ngay sau đó, Fidel đã gọi điện về nước và yêu cầu sớm xúc tiến việc xây dựng một bệnh viện ngay tại khu vực này. Chỉ một thời gian ngắn, Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam – Cuba đã ra đời ngay tại Đồng Hới, Quảng Bình. Khi về nước, Fidel vẫn nhớ tới người nữ dân công và đã gửi thuốc cùng danh thiếp kỷ niệm sang cho chị. Nhiều nhân chứng ngày ấy vẫn nhớ hình ảnh Fidel vóc dáng to lớn, mặc bộ quân phục màu xanh nhưng cử chỉ lại gần gũi đến bất ngờ[58].
Fidel Castro nổi tiếng với giờ làm việc bận rộn, ông thường chỉ ngủ 3 hay 4 giờ mỗi ngày[59] Ông có một trí nhớ “phi thường”, các bài phát biểu Castro thường trích dẫn các báo cáo và những cuốn sách ông đã đọc, ông có thể diễn thuyết về một chủ đề trong suốt nhiều giờ trước đám đông mà không cần tài liệu kèm theo[60] Ngay từ nhỏ, ông đã đam mê các loại vũ khí, nhất là súng[61] và ưa thích cuộc sống ở vùng nông thôn ngoại ô thành phố.[62]
Nói về động lực của đời mình, Fidel phát biểu:
“ | Tôi đã bắt đầu cuộc cách mạng khi chỉ có 82 người theo mình. Nếu tôi phải bắt đầu lại, tôi chỉ cần 15 người hoặc thậm chí chỉ 10 người. 10 người và một niềm tin tuyệt đối. Không quan trọng là ta có bao nhiêu người, quan trọng là phải có niềm tin và phải có một kế hoạch mạch lạc. Đất nước của chúng tôi – đó phải là một thiên đường theo đúng ý nghĩa tinh thần của từ này. Tôi đã nhiều lần nói, thà chết trong thiên đường chứ không cần sống sót trong địa ngục. Cách mạng – đó không phải là cái giường rải đầy cánh hoa hồng. Đó là cuộc đấu tranh một mất một còn giữa quá khứ và tương lai.”[63] | ” |
—Fidel Castro |
Các vụ ám sát nhằm vào Fidel Castro
Ủy ban Giáo Hội tuyên bố đã tìm ra ít nhất tám nỗ lực của CIA nhằm ám sát Fidel Castro trong giai đoạn 1960-1965. Fabian Escalante, nguyên giám đốc đã nghỉ hưu của cơ quan phản gián Cuba, người được giao nhiệm vụ bảo vệ Fidel Castro, ước tính số lượng các chương trình ám sát hoặc nỗ lực ám sát của Cơ quan tình báo Trung ương Mỹ nhắm vào Fidel là 638 (tính tới 2006)[64]. Các nỗ lực ám sát rất đa dạng, bao gồm xì gà tẩm độc tố hoặc tẩm thuốc nổ, bút bi chứa một ống tiêm tẩm chất độc chết người, và thuê mafia ám sát… Một số âm mưu đã được miêu tả trong một bộ phim tài liệu với tựa đề 638 cách để giết Castro phát sóng vào năm 2006 bởi Channel 4 – kênh truyền hình dịch vụ công cộng của Anh.
Castro từng nói: “Nếu sống sót sau các vụ ám sát cũng được trao huy chương Olympic, tôi nhất định sẽ giành được huy chương vàng.”[65]
Huân chương và danh hiệu
Tính tới 2010, Fidel đã được trao tặng 50 huân chương và danh hiệu các loại từ hơn 40 quốc gia trên thế giới:
- Anh hùng Liên Xô[66]
- Huân chương Lenin, 3 lần[67] 1972;[68] 1986 “vì những đóng góp cho tình hữu nghị giữa Liên Xô và Cuba”.[69]
- Giải thưởng hòa bình Lenin (Liên Xô, 1961)
- Huân chương kỷ niệm 30 năm chiến thắng Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại 1941-1945 (Liên Xô, 1975)[70]
- Huân chương Cách mạng Tháng Mười (Liên Xô, 1976)[71]
- Ngôi sao Cộng hòa Indonesia, Cấp 4
- Ngôi sao du kích (Indonesia, 1960)
- Huân chương ngôi sao Romania, Cấp 1 (1972)[72]
- Huân chương Sư tử trắng, Cấp 1 (Czechoslovakia, 1972)[73]
- Huân chương Georgi Dimitrov (Bulgaria, 1972)[74]
- Chữ Thập lớn của Huân chương Polonia Restituta (1973)[75]
- Huân chương Dũng cảm (Libya) (1977)
- Huân chương Somali, Cấp 1 (1977)[76]
- Huân chương Jamaica (1977)[77]
- Huân chương công đức Jamaica[78]
- Cấp cao nhất Huân chương danh dự Ethiopia (1978)[79]
- Giải thưởng hòa bình Jorge Dimitrov (Bulgaria, 1980)[80]
- Huân chương Sao vàng (Việt Nam, 1982)
- Anh hùng Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên[81]
- Huân chương Quốc kỳ, cấp 1 (Triều Tiên, 1986)[81]
- Huân chương Karl Marx (Đông Đức)[82]
- Huân chương Đại bàng Aztec (Mexico, 1987)
- Huân chương vàng của Thượng viện Tây Ban Nha (1988)
- Huân chương Klement Gottwald (Czechoslovakia, 1989).[83]
- Huân chương Agostinho Neto (Angola, 1992)[84]
- Huân chương công đức Duarte, Sanchez và Mella, chữ thập vàng (Cộng hòa Dominican, 1998)[85]
- Huân chương Hảo Vọng, hạng nhất (Nam Phi, 1998)[86]
- Chữ thập Huân chương quốc gia Mali (1998)[87]
- Huân chương Hoàng tử Yaroslav xứ Wise (Ukraine, 2000), for medical assistance to victims of the Chernobyl disaster[88]
- Huân chương Độc lập của Qatar (15/9/2000)[89]
- Huân chương Cộng hòa Yemen (2000)[90]
- Huân chương giải phóng hạng nhất (Venezuela, October 2000)[91]
- Huân chương Agostura Congress (Venezuela, 2001)[92]
- Huân chương danh dự Quân Giải phóng Algeri (6/5/2001)[93]
- Huân chương Vương miện (Malaysia, 11/05/2001)[94]
- Huân chương Thành phố Buenos Aires (2003)[95]
- Huân chương lao động (Triều Tiên, 2006)[96]
- Huân chương Quốc kỳ cấp 1 (Triều Tiên, 2006) to “promote the reunification of the Korean peninsula and build socialism”[96]
- Huân chương Amilcar Cabral (Guinea xích đạo, 2007)[97]
- Kỷ niệm chương thể thao (Bộ thể thao Ecuador, 2007)[98]
- Huân chương Welwitschia Mirabilis cổ đại (Namibia, 2008) “vì những đóng góp cho sự nghiệp giải phóng nhân dân Châu Phi”[99]
- Giải thưởng Ubuntu (Hội đồng di sản quốc gia Nam Phi, 2008) vì đã “dành trọn cuộc đời cho đoàn kết và đạo đức, nêu bật tầm quan trọng của các giá trị nhân bản và sự cống hiến cho nhân loại”[100]
- Huân chương danh dự Dominica (2008) vì những “đóng góp cho nền độc lập của Dominica”[101]
- Huân chương Omar Torrijos Herrera hạng nhất (Panama, 2009)[102]
- Huân chương Quetzal hạng nhất (2009) “nhằm tôn vinh hơn 17 triệu lượt khám và hơn 40.000 ca phẫu thuật được thực hiện bởi các bác sĩ Cuba vì lợi ích của người dân Guatemala”[103]
- Huân chương O. R. Tambo hạng Vàng của Nam Phi “vì những đóng góp vào công cuộc xóa bỏ chủ nghĩa thực dân, phân biệt chủng tộc và bất bình đẳng trong xã hội loài người”[104]
- Huân chương Danh dự và Vinh quang (Giáo hội Chính thống giáo Nga, ngày 19 tháng 10 năm 2008) – vì những đóng góp cho việc tăng cường hợp tác giữa các tôn giáo.
- Huân chương Đại bàng Zambia, Cấp 1 (Zambia, 2009) “vì đã truyền cảm hứng cho những người đấu tranh vì phẩm giá và bình đẳng”[105]
- Huân chương Merit (Ukraine) hạng nhất (Ukraine, 2010) “vì những đóng góp quan trọng để khôi phục sức khỏe cho trẻ em vùng Chernobyl, sau tai nạn vào năm 1986”[106]
- Giải thưởng tướng Eloy Alfaro (Ecuador, May 2010) “cho những giá trị và phẩm chất đặc biệt”[107]
- Huân chương Đông Timor hạng nhất (2010) “vì những đóng góp của Cuba về y tế và giáo dục”[108]
Những câu nói nổi tiếng
- Vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình ! [109][110][111]
- Nhân dân Cuba sẵn sàng đổ đến giọt máu cuối cùng để kề vai chiến đấu cạnh người anh em Việt Nam (nói về cuộc Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979)
Chú thích
- ^ a ă â Fidel Castro – Cuộc đời tôi. Một trăm giờ với Fidel Castro
- ^ a ă â Thomas M. Leonard. Fidel Castro: A Biography. ISBN 0-313-32301-1.
- ^ DePalma, Anthony (2006). The Man Who Invented Fidel. Public Affairs.
- ^ Bockman, Larry James (April 1 năm 1984). “The Spirit Of Moncada: Fidel Castro’s Rise To Power, 1953 – 1959”. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2006.
- ^ Sweig, Julia E. (2002). Inside the Cuban Revolution. Harvard University Press. ISBN 0-674-00848-0.
- ^ Audio: Cuba Marks 50 Years Since ‘Triumphant Revolution’ by Jason Beaubien, NPR All Things Considered, ngày 1 tháng 1 năm 2009
- ^ Encyclopedia Britannica entry for Fulgencio Batista
- ^ “1959: Castro sworn in as Cuban PM”. BBC News. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2006.
- ^ “Spanish newspaper gives more details on Castro condition”. CNN. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2007.
- ^ Castro, Fidel (19 tháng 2 năm 2008). “Mensaje del Comandante en Jefe” (PDF). Granma (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2008.
- ^ Castro, Fidel (19 tháng 2 năm 2008). “Message from the Commander in Chief”. Granma. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2008.
- ^ “Raul Castro named Cuban president”. BBC. 24 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2008. “Raul, 76, has in effect been president since and the National Assembly vote was seen as formalising his position.”
- ^ a ă Quirk 1993. p. 424.
- ^ a ă http://news.bbc.co.uk/2/hi/africa/165566.stm.
- ^ Lãnh tụ Cuba, Fidel Castro: Tư tưởng sẽ làm chuyển hoá thế giới
- ^ http://bee.net.vn/channel/1987/201201/Twitter-don-chet-Fidel-Castro-pha-len-cuoi-1821539/
- ^ a ă Chủ tịch Fidel Castro từ chức
- ^ a ă Claudia Furiati: Fidel Castro: La historia me absolverá. S. 48f, Plaza Janés, Barcelona 2003 (spanisch)
- ^ Michael Zeuske: Kuba im 21. Jahrhundert. Rotbuch Verlag, 2012, S. 86
- ^ “Äiá»u chưa biết vá» xe tÄng huyá»n thoại T”. Báo điện tử Người đưa tin. Truy cập 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Victorious Castro bans elections”. BBC News. May 1 năm 1961. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2006. Nguyên văn: The revolution has no time for elections. There is no more democratic government in Latin America than the revolutionary government…. If Mr. Kennedy does not like Socialism, we do not like imperialism. We do not like capitalism.
- ^ http://antg.cand.com.vn/vi-vn/tulieu/2009/4/69168.cand truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010.
- ^ Cuộc đời Chủ tịch Fidel Castro qua ảnh
- ^ Chủ tịch Cuba Fidel Castro nghỉ hưu
- ^ a ă http://www.independent.co.uk/news/world/americas/the-castropedia-fidels-cuba-in-facts-and-figures-432478.html
- ^ “Liên hợp quốc hoan nghênh Cuba hỗ trợ y tế chống dịch Ebola”. Báo điện tử Nhân Dân. Truy cập 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Cuba tiếp tục cử hàng trăm y bác sĩ tới giúp Tây Phi chống Ebola”. Báo Điện tử Đài Tiếng nói Việt Nam. Truy cập 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Ngoại giao y tế Cuba “được mùa””. Truy cập 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ http://baoquangnam.com.vn/the-gioi/201507/cuba-ngan-chan-duoc-hiv-tu-me-sang-con-620171/
- ^ “Cuba tuyên bố tổng thiệt hại 116,8 tỷ USD vì cấm vận”. VnEconomy, báo điện tử thuộc nhóm Thời báo Kinh tế Việt Nam. Truy cập 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ World Economic Outlook Database, October 2014, International Monetary Fund. Database updated on ngày 7 tháng 10 năm 2014. Truy cập on ngày 8 tháng 10 năm 2014.
- ^ “Human Development Report 2014”. Truy cập 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ Smith, Wayne S. (ngày 2 tháng 2 năm 2007). “Castro’s Legacy”. TomPaine.com. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2012.
- ^ Jay Mallin. Covering Castro: rise and decline of Cuba’s communist dictator. Transaction Publishers. ISBN 9781560001560.
- ^ a ă D. H. Figueredo. The complete idiot’s guide to Latino history and culture.
- ^ a ă “Farewell Fidel: The man who nearly started World War III”. Daily Mail.
- ^ a ă Catan, Thomas. “Fidel Castro bows to illness and age as he quits centre stage after 50 years – Times Online”. http://www.timesonline.co.uk. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2009.
- ^ a ă “Fidel’s fade-out”.
- ^ “Cuba: Fidel Castro’s Abusive Machinery Remains Intact”. Human Rights Watch.
- ^ www.cpv.org.vn Fidel Castro
- ^ Coltman 2003. p. 14.
- ^ Bourne 1986. p. 273.
- ^ Von Tunzelmann 2011. p. 94.
- ^ Coltman 2003. p. 247.
- ^ Bourne 1986. p. 295.
- ^ Admservice (ngày 8 tháng 10 năm 2000). “Fidel Castro’s Family”. Latinamericanstudies.org. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2010.
- ^ Quirk 1993. p. 15.
- ^ Ann Louise Bardach: Cuba Confidential. p. 67. “One knowledgeable source claims that Mirta returned to Cuba in early 2002 and is now living with Fidelito and his family.”
- ^ a ă â Jon Lee Anderson, “Castro’s Last Battle: Can the revolution outlive its leader?” The New Yorker, ngày 31 tháng 7 năm 2006. 51.
- ^ Boadle, Anthony (ngày 8 tháng 8 năm 2006). “Cuba’s first family not immune to political rift”. Reuters. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2006.
- ^ Fernandez, Alina (1997). Castro’s Daughter, An Exile’s Memoir of Cuba. St. Martin’s Press. ISBN 031224293X.
- ^ Roberto Duarte VIDA SECRETA DEL TIRANO CASTRO tại Wayback Machine (lưu trữ ngày 10 tháng tháng 12 năm 2006). CANF.org. ngày 29 tháng 10 năm 2003
- ^ Cuba confidential: Love and Vengeance in Miami and Havana By Ann Louise Bardach; Random House, Inc., 2002; ISBN 978-0-375-50489-1
- ^ Quirk 1993. p. 231.
- ^ “The Bitter Family (page 1 of 2)”. TIME. Ngày 10 tháng 7 năm 1964. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2008.
- ^ “Fidel Castro: Hoàng đế Cuba đội lốt cách mạng ?”. RFI. 24 tháng 5 năm 2014. Đã bỏ qua văn bản “ http://www.viet.rfi.fr/quoc-te/20140524-bo-mat-that-cua-fidel-castro-nha-cach-mang-hay-hoang-de-cuba” (trợ giúp)
- ^ “Book claims that Fidel Castro lived the life of luxury in Cuba”. Mail Online. Truy cập 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ http://petrotimes.vn/news/vn/chinh-tri/ky-uc-ve-fidel-castro.html
- ^ Coltman 2003. p. 219
- ^ Quirk 1993, tr. 352.
- ^ Quirk 1993. pp. 10, 255.
- ^ Quirk 1993. p. 5.
- ^ “Những câu chuyá»n Äá»i thưá»ng cá»§a lãnh tụ Fidel Castro”. Báo điện tử Người đưa tin. Truy cập 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ Escalante Font, Fabián. Executive Action: 634 Ways to Kill Fidel Castro. Melbourne: Ocean Press, 2006.
- ^ “The Castropedia: Fidel’s Cuba in facts and figures”. The Independent. Ngày 17 tháng 1 năm 2007. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2013.
- ^ Кастро Рус Фидель Алехандро, Герой Советского Союза
- ^ Concediendo a Fidel Castro Ruz el título de Héroe de la Unión Soviética, La Prensa.
- ^ Fidel Castro
- ^ Un día como hoy: 11 de noviembre
- ^ CASTRO, PCC OFFICIALS RECEIVE SOVIET DECORATION
- ^ Биография Фиделя Кастро
- ^ Castro Speech Data Base
- ^ Castro to keep his state and university distinctions
- ^ Dimitrov Order Presentation to Fidel Castro
- ^ Visita de la delegación del gobierno polaco a Cuba el 25 de abril de 1973.
- ^ The International Who’s Who, 2004, Europa Publications
- ^ Discurso pronunciado por Fidel Castro Ruz en el acto en que le fue impuesta la “Orden de Jamaica”, la más alta distinción nacional que se confiere a gobernantes de otros países, en Kingston, Jamaica, ngày 16 tháng 10 năm 1977.
- ^ Order of Merit (OM)
- ^ «Fidel’s visit to Ethiopia», September 24 edition, 1978, p. 2, Granma.
- ^ Breve biografía de Fidel Castro
- ^ a ă Confiere la República Popular Democrática de Corea a Fidel, Orden Héroe del Trabajo
- ^ Kuba: Das Ende der Ära Castro. Fidels Finale: Jetzt gibt Castro, schwer krank, die Macht ab
- ^ 1989 Speech Czechoslovak – Jakes Presents Award To Castro
- ^ Discurso pronunciado por el Comandante en Jefe Fidel Castro Ruz en el acto de imposición de la Orden “Agostinho Neto”, efectuado en el Palacio de la Revolución, el 9 de julio de 1992.
- ^ Discurso pronunciado por Fidel Castro Ruz al recibir la Orden del Mérito de Duarte, Sánchez y Mella en el grado Gran Cruz Placa de Oro e imponer al Presidente de la República Dominicana, Dr. Leonel Fernández, la Orden José Martí. Santo Domingo, ngày 22 tháng 8 năm 1998.
- ^ Discurso pronunciado por el Comandante en Jefe Fidel Castro Ruz, Primer Secretario del Comité Central del Partido Comunista de Cuba y Presidente de los Consejos de Estado y de Ministros, en el acto de imposición de la Orden de Buena Esperanza, efectuado en Ciudad del Cabo, Sudáfrica, el día 4 de septiembre de 1998.
- ^ Breves de Cuba
- ^ Asistencia a los niños en Cuba
- ^ The Amir visit Cuba
- ^ CUBA IN THE MIDDLE EAST: 2000-2002
- ^ La Guerra Sucia Sobra
- ^ Discurso pronunciado al recibir la Orden Congreso de Angostura, en la Plaza Bolívar, Ciudad Bolívar, Venezuela, el 11 de agosto del 2001.
- ^ Reciben condecoraciones Presidentes de Cuba y Argelia
- ^ Rey malasio condecoró a Fidel
- ^ Fidel Castro percibe clima de “optimismo” en Argentina
- ^ a ă Fidel Castro recibe condecoraciones de Corea del Norte
- ^ Otorgan medalla “Amílcar Cabral” a Fidel Castro
- ^ Ecuador otorga a Fidel Castro la Medalla al Mérito Deportivo
- ^ Conceden en Namibia condecoración a Fidel Castro
- ^ Otorgado a líder cubano Fidel Castro Premio Ubuntu, de Sudáfrica
- ^ Fidel Castro to receive Dominica’s highest award
- ^ Torrijos condecora a Fidel Castro y recibe medalla cubana
- ^ Conceden a Fidel Castro la Orden del Quetzal de Guatemala
- ^ Sudáfrica impondrá a Fidel Castro su condecoración de mayor grado
- ^ Distinguen a Fidel Castro con Orden Águila de Zambia
- ^ Yanukóvich condecora a Fidel y Raúl Castro por ayuda consecuencias Chernóbil
- ^ Legislativo ecuatoriano reconoce méritos e impronta de Fidel
- ^ Fidel Castro recibe la mayor distinción de Timor Oriental
- ^ Tình nghĩa sắt son Việt Nam – Cuba mãi mãi tỏa sáng
- ^ Cuba coi thắng lợi của VN là thắng lợi của mình
- ^ Tiếp tục phát triển quan hệ hữu nghị Việt Nam-Cuba
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Fidel Castro |
- Sinh 1926
- Nhân vật còn sống
- Chủ tịch Cuba
- Fidel Castro
- Người thuận tay trái
- Đảng viên Đảng Cộng sản
- Người Cộng sản
- Người bị ám sát
- Người bị Giáo hội Công giáo Rôma phạt vạ tuyệt thông
Cách mạng Cuba
|
Cách mạng Cuba (1953–1959) là một cuộc nổi dậy vũ trang do Phong trào 26 tháng 7 của Fidel Castro và các đồng minh của họ tiến hành nhằm chống lại chính phủ của Tổng thống Cuba Fulgencio Batista. Cách mạng bắt đầu vào tháng 7 năm 1953,[4] và cuối cùng lật đổ Batista vào ngày 1 tháng 1 năm 1959, lập nên chính phủ xã hội chủ nghĩa cách mạng. Tổ chức phong trào sau đó cải tổ theo đường lối cộng sản, và trở thành Đảng Cộng sản vào tháng 10 năm 1965.[5]
Cách mạng Cuba[6] có tác động lớn trong phạm vi quốc nội và quốc tế; đặc biệt, nó tái định hình quan hệ của Cuba với Hoa Kỳ, Hoa Kỳ duy trì cấm vận chống Cuba.[7] Hậu quả trực tiếp của cách mạng là chính phủ của Fidel Castro bắt đầu một chương trình quốc hữu hóa và củng cố chính trị làm biến đổi kinh tế và xã hội dân sự của Cuba.[8][9] Cách mạng cũng khởi đầu một thời kỳ mà Cauba can thiệp vào các xung đột quân sự tại ngoại quốc, trong đó có Nội chiến Angola và Cách mạng Nicaragua.[8]
Mục lục
Bối cảnh và nguyên nhân
Fulgencio Batista là tổng thống tuyển cử của Cuba từ 1940 đến 1944, ông đoạt quyền trong một cuộc chính biến quân sự và đình chỉ tuyển cử năm 1952, và bắt đầu nhiệm kỳ tổng thống thứ nhì của mình vào tháng 3 năm 1952.[10] Mặc dù Batista là một người tương đối cấp tiến trong nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên của mình,[11] song trong thập niên 1950 ông tỏ ra độc tài hơn nhiều và bàng quan trước những lo lắng của dân chúng.[12] Trong khi Cuba vẫn còn khó khăn do tỷ lệ thất nghiệp cao và hạn chế về cơ sở hạ tầng nước,[13] Batista khiến dân chúng phản đối việc thiết lập các mối quan hệ có lợi với tội phạm có tổ chức và cho phép các công ty Hoa Kỳ chi phối kinh tế Cuba.[13][14][15]
Trong nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên của mình, Batista được Đảng Cộng sản Cuba ủng hộ,[11] song trong nhiệm kỳ tổng thống thứ nhì ông trở nên chống cộng mãnh liệt, thu được sự ủng hộ chính trị và viện trợ quân sự từ Hoa Kỳ.[13][16] Batista phát triển một cơ sở an ninh có quyền lực lớn để trấn áp các đối thủ chính trị, Tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy mô tả chính phủ Cuba là một “quốc gia cảnh sát toàn trị” vào năm 1960.[13] Trong những tháng sau cuộc đảo chính tháng 3 năm 1952, một luật sư và nhà hoạt động chính trị trẻ tuổi là Fidel Castro kiến nghị lật đổ Batista với cáo buộc tham nhũng và chuyên chế. Tuy nhiên, những tranh luận theo hiến pháp của Fidel Castro bị tòa án Cuba bác bỏ.[17] Sau khi quyết định rằng không thể lật đổ chính phủ Cuba thông qua những phương thức pháp lý, Fidel Castro quyết định phát động một cách mạng vũ trang. Nhằm mục đích này, Fidel Castro cùng em trai là Raúl thành lập một tổ chức bán quân sự gọi là “Phong trào”, tàng trữ vũ khí và tuyển mộ khoảng 1.200 người theo từ tầng lớp lao động bất mãn tại La Habana cho đến cuối năm 1952.[18]
Giai đoạn đầu
Fidel Castro và Raúl Castro tập hợp 123 chiến binh Phong trào và lập kế hoạch về một cuộc tấn công vào các căn cứ quân sự.[19] Ngày 26 tháng 7 năm 1953, phiến quân thất bại khi tấn công Doanh trại Moncada tại Santiago và các doanh trại tại Bayamo.[4] Có tranh luận về số liệu chính xác về số phiến quân thiệt mạng trong giao tranh; tuy nhiên, trong tự truyện của mình, Fidel Castro tuyên bố rằng có 9 người thiệt mạng trong giao tranh, và thêm 56 người bị giết sau khi bị chính phủ Batista bắt giữ.[20] Trong số những người thiệt mạng có Abel Santamaría, phó tư lệnh của Fidel Castro, nhân vật này bị hành hình cũng trong ngày 26 tháng 7.[21]
Nhiều người, trong đó có Fidel và Raúl Castro, bị bắt ngay sau đó. Trong một phiên tòa mang tính chính trị cao độ, Fidel Castro nói gần bốn tiếng nhằm bào chữa cho mình, kết thúc bằng câu “Kết án tôi không phải là vấn đề. Lịch sử sẽ giải oan cho tôi.” Fidel Castro bị kết án 15 năm trong trại giam Presidio Modelo, nằm trên đảo Thông, trong khi Raúl Castro bị kết án 13 năm.[22] Tuy nhiên, đến năm 1955, trước các áp lực chính trị, chính phủ Batista phóng thích toàn bộ tù nhân chính trị tại Cuba, trong đó có những người tấn công doanh trại Moncada. Giáo viên dòng Tên thời thiếu niên của Fidel Castro thành công trong việc thuyết phục Batista phóng thích cả Fidel và Raúl.[23]
Ngay sau đó, anh em nhà Castro kết giao với những người lưu vong khác tại Mexico nhằm chuẩn bị cho việc lật đổ Batista, tiếp nhận huấn luyện từ Alberto Bayo– một lãnh đạo của phe Cộng hòa trong Nội chiến Tây Ban Nha. Trong tháng 6 năm 1955, Fidel Castro gặp nhà cách mạng người Argentina Ernesto “Che” Guevara, Guevara tham gia đại nghiệp của Fidel Castro.[24] Những nhà cách mạng tự định danh là “Phong trào 26 tháng 7”, nhằm ám chỉ ngày họ tấn công doanh trại Moncada vào năm 1953.
Chiến tranh du kích
“Tôi tin tưởng rằng không quốc gia nào trên thế giới, kể cả các quốc gia còn đang nằm trong vòng thuộc địa, phải chịu sự thuộc địa hóa nền kinh tế, sự hổ nhục và bóc lột tệ hại hơn Cuba, phần nào do chính sách của chúng ta trong thời chế độ Batista. Tôi ủng hộ tuyên cáo của Fidel Castro tại Sierra Maestra, khi ông kêu gọi một cách chính đáng, và đặc biệt thống thiết, giải thoát Cuba khỏi sự thối nát. Tôi còn muốn đi xa hơn nữa: trong một chừng mực nào đó, Batista là hiện thân của một số tội lỗi về phía Hoa Kỳ. Giờ đây chúng ta phải trả giá cho những tội lỗi đó. Về phía chính quyền Batista, tôi tán đồng cách mạng Cuba đầu tiên. Một cách rõ ràng.”
– Tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy, trả lời phỏng vấn Jean Daniel, 24 -10 -1963[25]
Thuyền buồm Granma đến Cuba vào ngày 2 tháng 12 năm 1956, chở theo anh em nhà Castro và 80 người khác thuộc Phong trào 26 tháng 7. Họ đổ bộ tại Playa Las Coloradas, thuộc đô thị Niquero, đến chậm hai ngày so với kế hoạch do thuyền chở nặng, không giống như khi chạy thử.[26] Điều này khiến cho hy vọng phối hợp tấn công với cánh llano của phong trào bị thất bại. Sau khi đến và rời khỏi tàu, nhóm phiến quân bắt đầu lập kế hoạch tiến vào dãy núi Sierra Maestra tại miền đông nam Cuba. Ba ngày sau khi cuộc hành quân bắt đầu, quân của Batista tấn công và sát hại hầu hết những người từng đi trên Granma – dù con số tử vong chính xác còn có tranh nghị, song có không hơn 20 trong số 82 người ban đầu còn sống sau cuộc chạm trán ban đầu với quân đội Cuba và thoát được đến dãy Sierra Maestra.[27]
Nhóm những người sống sót gồm có Fidel Castro và Raúl Castro, Che Guevara và Camilo Cienfuegos. Họ phân tán, một mình hoặc trong các nhóm nhỏ, lang thang qua các núi, tìm kiếm lẫn nhau. Cuối cùng, họ lại liên kết lại được với sự trợ giúp của những cảm tình viên nông dân, và sau đó thành lập tập thể lãnh đạo đầu não của quân du kích. Celia Sanchez và Haydée Santamaría (chị của Abel Santamaria) nằm trong số những nhà cách mạng là nữ giới đã hỗ trợ cho Fidel Castro trong núi.[28]
Ngày 13 tháng 3 năm 1957, một nhóm cách mạng riêng biệt là Hội Đổng sự Cách mạng sinh viên (Directorio Revolucionario Estudantil) có tư tưởng chống cộng và hầu hết thành viên là sinh viên tiến hành tấn công Dinh Tổng thống tại La Habana, nỗ lực nhằm ám sát Batista và diệt trừ chính phủ. Cuộc tấn công kết thúc với thất bại hoàn toàn, lãnh đạo của tổ chức là José Antonio Echeverría thiệt mạng trong lúc đấu súng với lực lượng của Batista tại đài phát thanh của La Habana. Một nhóm những người sống sót gồm Humberto Castello, Rolando Cubela và Faure Chomon.[29]
Sau đó, Hoa Kỳ áp đặt cấm vận đối với chính phủ Cuba và triệu hồi đại sứ của mình, làm suy yếu chính phủ hơn nữa.[30] Sự ủng hộ của dân chúng Cuba đối với Batista bắt đầu mất dần, khi những người ủng hộ cũ hoặc gia nhập cách mạng hoặc là tách biệt với Batista. Tuy thế, Mafia và giới doanh nhân Hoa Kỳ duy trì sự ủng hộ của họ.[31]
Chính phủ phải thường xuyên dựa vào những phương pháp tàn bạo để duy trì quyền kiểm soát của chính phủ tại các thành thị của Cuba. Tuy nhiên, trong dãy Sierra Maestra, Fidel Castro với trợ giúp của Frank País, Ramos Latour, Huber Matos, và nhiều người khác, đã tổ chức thành công các cuộc tấn công vào những đồn nhỏ của quân Batista. Che Guevara và Raúl Castro trợ giúp Fidel Castro nhằm thống nhất quyền kiểm soát chính trị của ông trong dãy núi, thường là thông qua hành hình những nhân vật bị nghi ngờ là trung thành với Batista và những đối thủ khác của Castro.[32] Thêm vào đó, lực lượng dân quân gọi là escopeteros cũng quấy phá quân Batista tại những vùng chân núi và đồng bằng thuộc tỉnh Oriente. Lực lượng escopeteros cũng trực tiếp hỗ trợ quân sự cho quân chủ lực của Castro bằng cách bảo vệ đường tiếp tế và chia sẻ thông tin.[33] Kết quả là dãy núi này cuối cùng rơi vào tay lực lượng của Castro.
Ngoài việc đấu tranh vũ trang, phiến quân còn sử dụng biện pháp tuyên truyền để nâng cao uy thế của họ. Một đài phát thanh bí mật, gọi là Radio Rebelde (Đài Phát thanh phiến quân) được thiết lập tháng 2 năm 1958, cho phép Fidel Castro và lực lượng của ông phát các thông điệp của họ ra toàn quốc.[34] Các buổi phát thanh này có lẽ do một người quen cũ của Castro là Carlos Franqui tiến hành, người này cuối cùng lưu vong tại Puerto Rico.[35]
Trong suốt thời gian này, lực lượng của Fidel Castro còn rất nhỏ, có lúc không đầy 200 người, trong khi lực lượng quân đội và cảnh sát Cuba có từ 30.000 tới 40.000 người.[36] Tuy vậy, gần như mỗi khi quân Cuba giao tranh với phiến quân, họ đều phải tháo lui. Lệnh cấm vận vũ khí do Hoa Kỳ áp chế với chính phủ Cuba vào ngày 14 tháng 3 1958 góp phần làm suy yếu nghiêm trọng lực lượng Batista. Không quân Cuba nhanh chóng trở nên rệu rã, họ không có khả năng sửa chữa máy bay một khi không thể nhập phụ tùng từ Hoa Kỳ nữa.[37]
Batista cuối cùng phải mở một chiến dịch tấn công lớn vào dãy núi mang tên Chiến dịch Verano, còn phe phiến quân gọi là la Ofensiva. Quân chính phủ được đưa đến gồm 12.000 binh sĩ, trong số đó phân nửa gồm tân binh chưa được huấn luyện. Trong một loạt các cuộc chạm trán, lực lượng du kích đầy quyết tâm của Fidel Castro đánh bại quân chính phủ.[37] Trong trận La Plata, kéo dài từ 11 tháng 7 tới 21 tháng 7 năm 1958, quân của Fidel Castro đánh bại cả một tiểu đoàn quân chính phủ gồm 500 người, bắt được 240 tù binh, trong khi chỉ mất 3 người.[38] Tuy nhiên, thế trận đảo ngược vào ngày 29 tháng 7 năm 1958, khi quân Batista tiêu diệt gần hết lực lượng nhỏ chỉ gồm 300 người của Castro trong trận Las Mercedes. Với việc lực lượng cách mạng bị khống chế bởi lực lượng đối phương đông áp đảo, Fidel Castro phải đề nghị ngưng bắn tạm thời và được chấp thuận, đình chiến tạm thời bắt đầu vào ngày 1 tháng 8. Trong suốt bảy ngày tiếp đó, khi các cuộc thương thuyết vẫn tiếp diễn mà không mang lại kết quả gì, quân của Castro dần tẩu thoát khỏi vòng vây. Tới ngày 8 tháng 8, toàn bộ lực lượng của Castro đã trốn được vào dãy núi, và như vậy trên thực tế chiến dịch Verano là thất bại đối với chính phủ Batista.[37]
Tấn công cuối cùng và phiến quân thắng lợi
Ngày 21 tháng 8 năm 1958, sau khi đánh bại chiến dịch Ofensiva của Batista, lực lượng của Castro bắt đầu thế tấn công. Trong tỉnh Oriente, Fidel Castro, Raúl Castro và Juan Almeida Bosque chỉ huy tấn công trên bốn mặt trận. Xuống núi với những vũ khí mới lấy được trong chiến dịch Ofensiva và nhờ nhập lậu bằng máy bay, lực lượng của Fidel Castro giành một loại thắng lợi ban đầu. Đại thắng của Fidel Castro tại Guisa, và chiếm được một số thị trấn bao gồm Maffo, Contramaestre, và Central Oriente, nắm quyền kiểm soát đồng bằng Cauto. Cùng lúc đó, ba cánh quân nổi dậy dưới quyền Che Guevara, Camilo Cienfuegos và Jaime Vega, tây tiến về Santa Clara, thủ phủ tỉnh Villa Clara. Lực lượng Batista phục kích và tiêu diệt cánh quân của Jaime Vega, nhưng hai cánh quân còn lại đến được các các tỉnh trung tâm, và hợp lực với các lực lượng kháng chiến khác vốn không nằm dưới sự chỉ huy của Fidel Castro. Khi cánh quân của Che Guevara tiến qua tỉnh Las Villas, và đặc biệt là qua dãy núi Escambray – nơi lực lượng chống cộng Hội đổng sự Cách mạng (được biết đến với tên gọi Phong trào 13 tháng 3) tiến hành chiến tranh chống lại quân Batista trong suốt nhiều tháng – va chạm tăng lên giữa hai phe. Dù vậy, lực lượng nổi dậy hợp nhất vẫn tiếp tục chiến dịch, và Cienfuegos giành được một chiến thắng quan trọng trong trận Yaguajay ngày 30 tháng 12 năm 1958, khiến ông được mệnh danh “Người hùng Yaguajay”.
Ngày 31 tháng 12 năm 1958, trận Santa Clara diễn tra trong cảnh đại loạn, thành phố Santa Clara thất thủ trước phiến quân hợp nhất của Che Guevara, Cienfuegos, phiến quân Hội đổng sự Cách mạng (RD) dưới quyền Comandantes Rolando Cubela, Juan (“El Mejicano”) Abrahantes, và William Alexander Morgan. Tin tức về những thất bại này khiến cho Batista hoảng sợ, ông tẩu thoát đến Cộng hòa Diminica chỉ vài giờ sau đó trong ngày 1 tháng 1 năm 1959. Chỉ huy phiến quân Hội đổng sự Cách mạng là Comandante William Alexander Morgan tiếp tục chiến đấu khi Batista đã rời đi, và chiếm được thành phố Cienfuegos vào ngày 2 tháng 1.[39]
Castro biết tin về chuyến bay của Batista vào buổi sáng và ngay lập tức bắt đầu đàm phán để tiếp quản Santiago de Cuba. Ngày 2 tháng 1, sĩ quan tại thành phố là Đại tá Rubido lệnh cho các binh sĩ của ông ngừng chiến đấu, và quân của Fidel Castro tiếp quản thành phố. Quân của Guevara và Cienfuegos tiến vào La Habana khoảng đồng thời. Họ không gặp kháng cự trên hành trình từ Santa Clara đến thủ đô của Cuba. Fidel Castro đến La Habana vào ngày 8 tháng 1 sau một cuộc diễn hành thắng lợi kéo dài. Ông ban đầu lựa chọn Manuel Urrutia Lleó làm chủ tịch, người này nhậm thức vào ngày 3 tháng 1.[40]
Hậu quả
Hàng trăm tay sai, cảnh sát và binh sĩ thời Batista bị đưa ra các phiên tòa công khai với các cáo buộc vi phạm nhân quyền, tội ác chiến tranh, sát nhân và tra tấn. Hầu hết những bị cáo bị những tòa án cách mạng kết án, và bị hành quyết bằng cách xử bắn; những người khác nhận án tù dài hạn. Một ví dụ đáng chú ý là sau khi chiếm Santiago, Raul Castro chỉ đạo hành quyết hơn 70 tù binh chiến tranh Batista.[41] Do đóng góp trong việc chiếm La Habana, Che Guevara được bổ nhiệm làm công tố viên tối cao tại pháo đài La Cabaña. Điều này nằm trong một nỗ lực lớn hơn của Fidel Castro nhằm thanh lọc lực lượng an ninh những người trung thành với Batista và các đối thủ tiềm tàng của chính phủ cách mạng mới. Mặc dù nhiều người bị hành hình hoặc giam cầm, song những người khác chỉ bị sa thải khỏi quân đội và cảnh sát mà không bị truy tố, và một số quan chức cấp cao trong chính phủ Batista bị đày ải với thân phận là tùy viên quân sự.[41]
Trong tháng 7 năm 1961, Tổ chức Cách mạng Tích hợp được thành lập bằng việc hợp nhất Phong trào 26 tháng 7 của Fidel Castro, Đảng Xã hội chủ nghĩa Nhân dân của Blas Roca, và Hội đổng sự Cách mạng ngày 13 tháng 3 của Faure Chomón.[42]
Trong thập niên đầu tiên nắm quyền, chính phủ Fidel Castro tiến hành các cải cách xã hội cấp tiến trên quy mô rộng. Pháp luật được ban hành nhằm cung cấp quyền bình đẳng cho người da đen và quyền lớn hơn cho nữ giới, trong khi có những nỗ lực nhằm cải thiện thông tin, y tế, nhà ở, và giáo dục.[43]
Năm 1959, Fidel Castro công du Hoa Kỳ và giải thích về cách mạng, ông nói, “Tôi biết rằng thế giới nghĩ gì về chúng tôi, rằng chúng tôi là Cộng sản, và tất nhiên chúng tôi đã giải thích rất rõ ràng rằng chúng tôi không phải là cộng sản; rất rõ ràng.”[44] Chính phủ Hoa Kỳ mặc dù ban đầu sẵn sàng công nhận chính phủ mới của Fidel Castro,[45] song sau đó trở nên lo ngại rằng các cuộc nổi dậy cộng sản lan khắp Mỹ Latinh giống như đang diễn ra tại Đông Nam Á.[46] Sau khi chính phủ cách mạng quốc hữu hóa toàn bộ tài sản của Hoa Kỳ tại Cuba trong tháng 8 năm 1960, chính phủ của Eisenhower đóng băng toàn bộ tài sản của Cuba trên lãnh thổ Hoa Kỳ, đoạn tuyệt quan hệ ngoại giao,[9] và siết chặt cấm vận chống Cuba.[7][47]
Chú thích
- ^ Jacob Bercovitch and Richard Jackson (1997). International Conflict: A Chronological Encyclopedia of Conflicts and Their Management, 1945-1995. Congressional Quarterly.
- ^ Singer, Joel David and Small, Melvin (1974). The Wages of War, 1816-1965. Inter-University Consortium for Political Research.
- ^ Eckhardt, William, in Sivard, Ruth Leger (1987). World Military and Social Expenditures, 1987-88 (12th edition). World Priorities.
- ^ a ă Faria, Miguel A. “Fidel Castro and the 26th of July Movement”. NewsMax.com. ngày 27 tháng 7 năm 2004. Truy cập 10 tháng 7 năm 2013.
- ^ “Cuba Marks 50 Years Since ‘Triumphant Revolution'”. Jason Beaubien. NPR. 1 tháng 1 năm 2009. Truy cập 9 tháng 7 năm 2013.
- ^ Lazo, Mario (1970). American Policy Failures in Cuba – Dagger in the Heart. Twin Circle Publishing Co.: New York. pp. 198–200, 204. Library of Congress Card Catalog Number: 68-31632.
- ^ a ă “Cuba receives first US shipment in 50 years”. Al Jazeera. Ngày 14 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2012.
- ^ a ă “Makers of the Twentieth Century: Castro”. History Today. 1981. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2013.
- ^ a ă Gary B. Nash, Julie Roy Jeffrey, John R. Howe, Peter J. Frederick, Allen F. Davis, Allan M. Winkler, Charlene Mires and Carla Gardina Pestana. The American People, Concise Edition: Creating a Nation and a Society, Combined Volume (6th edition, 2007). New York: Longman.
- ^ “From the archive, ngày 11 tháng 3 năm 1952: Batista’s revolution”. The Guardian. Ngày 11 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2013.
- ^ a ă Julia E. Sweig (2004). Inside the Cuban Revolution. Cambridge, Massachusetts: Harvard University Press. ISBN 978-0-674-01612-5.
- ^ Arthur Meier Schlesinger (1973). The Dynamics of World Power: A Documentary History of the United States Foreign Policy 1945-1973. McGraw-Hill. ISBN 0070797293. p. 512.
- ^ a ă â b “Remarks of Senator John F. Kennedy at Democratic Dinner, Cincinnati, Ohio, ngày 6 tháng 10 năm 1960”. John F. Kennedy Presidential Library. Truy cập 29 tháng 6 năm 2013.
- ^ “Fulgencio Batista”. HistoryOfCuba.com. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2013.
- ^ Díaz-Briquets, Sergio & Pérez-López, Jorge F. (2006). Corruption in Cuba: Castro and beyond. University of Texas Press. tr. 77. ISBN 978-0-292-71482-3.
- ^ James Stuart Olson (2000). Historical Dictionary of the 1950s. Greenwood Publishing Group. ISBN 0-313-30619-2. pp. 67–68.
- ^ “Biography of Fidel Castro”. About.com. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2013.
- ^ Bourne, Peter G. (1986). Fidel: A Biography of Fidel Castro. New York City: Dodd, Mead & Company. tr. 68–69. ISBN 978-0396085188.
- ^ “Historical sites: Moncada Army Barracks”. CubaTravelInfo. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2013.
- ^ Ramonet, Ignacio, ibid, p. 133
- ^ Ramonet, Ignacio, ibid, p. 672
- ^ “CHRONICLE OF AN UNFORGETTABLE AGONY: CUBA’S POLITICAL PRISONS”. Contacto Magazine. Tháng 9 năm 1996. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2013.
- ^ Ramonet, Ignacio, ibid, p. 174
- ^ Ramonet, Ignacio, ibid, p. 174
- ^ Spartacus Educational entry for Jean Daniel
- ^ Ramonet, Ignacio, ibid, p. 182
- ^ Thomas, Hugh (1998). Cuba or The Pursuit of Freedom (Updated Edition). New York: Da Capo Press. ISBN 0-306-80827-7.
- ^ “Opiniones: Haydee Santamaría, una mujer revolucionaria” (bằng tiếng Tây Ban Nha). La Ventana. Ngày 2 tháng 7 năm 2004. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2013.
- ^ Faria, Cuba in Revolution, 2002, Notes pp.40–41
- ^ Louis A. Pérez. Cuba and the United States.
- ^ English, T.J. (2008). Havana nocturne: how the mob owned Cuba – and then lost It to the revolution.
- ^ “The Killing Machine: Che Guevara, from Communist Firebrand to Capitalist Brand”. Independent.org. Ngày 11 tháng 7 năm 2005. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2012. “Guevara murdered or oversaw the executions in summary trials of scores of people—proven enemies, suspected enemies, and those who happened to be in the wrong place at the wrong time.”
- ^ Dewitt, Don A. (2011). U.S. Marines at Guantanamo Bay, Cuba. iUniverse via Google Books. tr. 31.
- ^ “About Us”. Radio Rebelde. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2013.
- ^ “Carlos Franqui”. Daily Telegraph. Ngày 24 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2013.
- ^ “Batista Says Manpower Edge Lacking”. Park City Daily News. Google News Archive. Ngày 1 tháng 1 năm 1959. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2013.
- ^ a ă â “Air war over Cuba 1956-1959”. ACIG.org. Ngày 30 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2013.
- ^ “1958: Battle of La Plata (El Jigüe)”. Cuba 1952–1959. Ngày 15 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2013.
- ^ Faria, Cuba in Revolution, 2002, pp.69
- ^ Thomas, Hugh, Cuba: The pursuit of freedom, pp. 691–3
- ^ a ă Juan Clark Cuba (1992). Mito y Realidad: Testimonio de un Pueblo. Saeta Ediciones (Miami). pp. 53–70.
- ^ Faria, Miguel (ngày 14 tháng 6 năm 2002). “Interview With Dr. Miguel Faria (Part I) by Myles Kantor”. Hacienda Publishing. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2012.
- ^ Mastering Modern World History by Norman Lowe, second edition.
- ^ “Year in Review – 1959”. UPI archive. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2011.
- ^ Gleijeses, Piero (2002). Conflicting Missions: Havana, Washington and Africa, 1959–1976. University of North Carolina Press. p. 14.
- ^ “Ahead Of Bay Of Pigs, Fears Of Communism”. NPR. Ngày 17 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2013.
- ^ Faria (2002), op.cit. p. 105.
Xem thêm
- Castro and the Cuban Revolution, by Thomas M. Leonard, Greenwood Press, 1999, ISBN 0-313-29979-X
- Cuban Revolution Reader: A Documentary History of Key Moments in Fidel Castro’s Revolution, by Julio García Luis, Ocean Press, 2008, ISBN 1-920888-89-6
- Dynamics of the Cuban Revolution: A Marxist Appreciation, by Joseph Hansen, Pathfinder Press, 1994, ISBN 0-87348-559-9
- Havana Nocturne: How the Mob Owned Cuba and Then Lost It to the Revolution, by T. J. English, William Morrow, 2008, ISBN 0-06-114771-0
- Inside the Cuban Revolution: Fidel Castro and the Urban Underground, by Julia E. Sweig, Harvard University Press, 2004, ISBN 0-674-01612-2
- Cuba in Revolution – Escape from a Lost Paradise, by Miguel A. Faria, Hacienda Publishing, 2002, ISBN 0-9641077-3-2 http://www.haciendapublishing.com
- Latin America in the Era of the Cuban Revolution, by Thomas C. Wright, Praeger Paperback, 2000, ISBN 0-275-96706-9
- The Cuban Revolution: Origins, Course, and Legacy, by Marifeli Perez-Stable, Oxford University Press, 1998, ISBN 0-19-512749-8
- The Cuban Revolution: Past, Present and Future Perspectives, by Geraldine Lievesley, Palgrave Macmillan, 2004, ISBN 0-333-96853-0
- The Cuban Revolution: Years of Promise, by Teo A. Babun, University Press of Florida, 2005, ISBN 0-8130-2860-4
- The Moncada Attack: Birth of the Cuban Revolution, by Antonio Rafael De LA Cova, University of South Carolina Press, 2007, ISBN 1-57003-672-1
- The Origins of the Cuban Revolution Reconsidered, by Samuel Farber, The University of North Carolina Press, 2006, ISBN 0-8078-5673-8
- The United States and the Origins of the Cuban Revolution, by Jules R. Benjamin, Princeton University Press, 1992, ISBN 0-691-02536-3
Liên kết ngoài
- What Cuba’s Rebels Want by Fidel Castro, The Nation, ngày 30 tháng 11 năm 1957
- The Cuban Revolution (1952–1958) by the Latin American Studies Organization
- Reliving Cuba’s Revolution by Michael Voss, BBC, ngày 29 tháng 12 năm 2008
- The History of Socialist Revolution in Cuba (1953–1959) from the World History Archives
- Cuba Celebrates 50 years of Revolution by Christian Gutierrez, The Sun, ngày 5 tháng 3 năm 2009 Issue
- Memories of Boyhood in the Heat of the Cuban Revolution by Arthur Brice, CNN
- 1959 – 2009 Celebrating 50 years of the Cuban Revolution by the Cuba Solidarity Campaign
Trần Quang Khải
Trần Quang Khải (chữ Hán: 陳光啓; tháng 10, 1241 – 26 tháng 7, 1294), hay Chiêu Minh Đại vương (昭明大王), là một thân vương quý tộc nhà Trần, làm đến chức Tể tướng đời Trần Thánh Tông, coi cả mọi việc trong nước.
Sang đời Trần Nhân Tông, năm Thiệu Bảo thứ 4, khi quân Nguyên vào cướp, ông được phong chức Thượng tướng Thái sư, lãnh binh trấn giữ mặt Nam đất Nghệ An, lập công lớn tại Chương Dương Độ. Khi dẹp tan quân Nguyên, triều đình xét công, ông đứng vào bậc nhất.[1].
Mục lục
Thân thế
Chiêu Minh đại vương sinh vào tháng 10 âm lịch, năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 10 (1241)[2]. Về danh nghĩa, ông là con thứ 3 của Thái Tông Nguyên Hiếu hoàng đế, mẹ là Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu Lý thị. Trên thực tế, ông là em ruột với Thánh Tông Tuyên Hiếu hoàng đế. Người anh đầu Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang của ông, dù cùng mẹ sinh, nhưng lại là con của Khâm Minh đại Vương Trần Liễu.
“ | “Quang Khải lúc mới sinh, phát chứng kinh suýt chết, Thái Tông lấy áo của Thượng hoàng và thanh gươm báu truyền quốc để bên cạnh rồi bảo ông: “Nếu sống lại, sẽ ban cho những thứ này”. Đến khi sống lại, Thái Tông nói: “Gươm báu truyền quốc, không thể trao bừa, chỉ ban cho áo của Thượng hoàng thôi”. | ” |
—Đại Việt Sử ký Toàn thư[3] |
Đại thần trụ cột
Từ nhỏ, ông đã được Thái Tông phong tước Chiêu Minh vương (昭明王) và cho thụ giáo với Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử Viện giám tu, Bảng nhãn Lê Văn Hưu[4]. Sử chép ông là người có học thức, hiểu tiếng nói của các bộ tộc ít người.[3]
Năm Nguyên Phong thứ 8 (1258), ông được gả Phụng Dương công chúa, con gái của Kiến Vũ đại vương Trần Thủ Độ, ban cho thái ấp Độc Lập, phủ Thiên Trường (nay thuộc xã Mỹ Thành, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Ðịnh)[4]. Sau khi Trần Thánh Tông lên ngôi, ông được phong tước Chiêu Minh Đại vương (昭明大王)[5].
Năm Thiệu Long năm thứ 4 (1261), ông được phong làm Thái úy, chính thức tham gia công việc triều chính khi vừa 20 tuổi. Sử chép: “Bấy giờ, anh vua là Quốc Khang lớn tuổi hơn, nhưng tài năng tầm thường, nên phong Quang Khải làm tướng”[6]. Năm Thiệu Long năm thứ 8 (1265), ông được phong làm Thượng tướng, vào trấn thủ Nghệ An. Trại trạng nguyên Bạch Liêu là môn khách của ông[6].
Đầu năm Thiệu Long năm thứ 14 (1271), ông làm Tướng quốc thái úy, trở thành đại thần đầu triều nắm giữ việc nước[6], đứng trên cả Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn.
Quan hệ với Hưng Đạo Vương
Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn là con của Khâm Minh đại vương Trần Liễu, Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải là con của Thái Tông hoàng đế, theo quan hệ huyết thống thì Thái Tông là em ruột của Khâm Minh đại vương. Hưng Đạo vương và Chiêu Minh vương cùng với Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang đều là anh em nửa dòng máu[7]. Ngoài mâu thuẫn giữa dòng chính và dòng thứ, giữa hai ông còn có cả mối bất hòa cá nhân.
Cuối năm 1257, Hưng Đạo vương được cử làm chỉ huy các đạo quân thủy bộ ở biên giới[2], lập nhiều công lao cho triều đình. Tuy nhiên, sau khi đánh đuổi được quân Nguyên Mông, ông vẫn giữ nguyên tước cũ và trở về thái ấp ở Vạn Kiếp. Trong khi đó, không lâu sau Trần Quang Khải được phong tước Đại vương, và thăng làm Thái úy.
Đầu năm Bảo Phù thứ 5 (1277), Trần Thánh Tông thân chinh đánh các bộ tộc thiểu số ở động Nẫm Bà La (nay thuộc Quảng Bình). Sử chép[3]:
-
- Trước kia, Thánh Tông thân đi đánh giặc, Quang Khải theo hầu, ghế Tể tướng bỏ không, vừa lúc có sứ phương Bắc đến. Thượng hoàng Thái Tông gọi Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn tới bảo: “Thượng tướng đi theo hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư đồ để tiếp sứ phương Bắc“.
- Quốc Tuấn trả lời: “Việc tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong thần làm Tư đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi Quan gia đi đánh giặc xa, Quang Khải theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng Quan gia và Quang Khải. Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn“.
- Đến khi Thánh Tông trở về, việc ấy lại bỏ đấy, vì hai người vốn không ưa nhau.
Đầu năm 1281, sứ nhà Nguyên là Sài Thung đến Thăng Long với thái độ rất ngạo mạn:
“ | Đế sai Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp. Thung nằm khểnh không ra, Quang Khải vào hẳn trong phòng, hắn cũng không dậy tiếp. Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn nghe thấy thế, tâu xin đến sứ quán xem Thung làm gì. Lúc ấy Quốc Tuấn đã gọt tóc, mặc áo vải. Đến sứ quán, ông đi thẳng vào trong phòng. Thung đứng dậy vái chào mời ngồi. Mọi người đều kinh ngạc, có biết đâu gọt tóc, mặc áo vải là hình dạng nhà sư phương Bắc. Ông ngồi xuống pha trà, cùng uống với hắn. Người hầu của Thung cầm cái tên đứng sau Quốc Tuấn, chọc vào đầu đến chảy máu, nhưng sắc mặt Quốc Tuấn vẫn không hề thay đổi. Khi trở về, Thung ra cửa tiễn ông. | ” |
—Đại Việt Sử ký Toàn thư[8] |
Nhờ cách ứng xử khéo léo của Hưng Đạo Vương, Sài Thung thay đổi thái độ. Khi Sài Thung về lại Bắc Kinh, Trần Quang Khải đã làm tặng một bài thơ, trong đó có câu:
- Vị thẩm hà thời trùng đỗ diện
- Ân cần ác thủ tự huyên lương.
Tạm dịch:
- Chưa biết ngày nào cùng tái ngộ
- Để ân cần tay nắm chuyện hàn huyên
Cuối năm Thiệu Bảo thứ 4 (1282), Trần Quang Khải được thăng làm Thượng tướng Thái sư, nắm cả quyền quân sự lẫn hành chính[8]. Tuy vậy, trước tình hình áp lực nhà Nguyên gia tăng, cuối năm Thiệu Bảo thứ 5 (1283), triều đình tiến phong Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh quân đội toàn quốc[8]. Như vậy, về thực quyền quân sự, Hưng Đạo Vương trở thành cấp trên của Chiêu Minh Đại vương.
Mối bất hòa giữa 2 chi họ cũng như bất hòa cá nhân giữa 2 người trở thành một hiểm họa sâu sắc. Nhận ra điều này, Hưng Đạo vương chủ động tìm cách giải hòa:
“ | Một hôm, Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp tới, Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Lại Quang Khải vốn sợ tắm gội, Quốc Tuấn thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Quang Khải:
Từ đó, tình nghĩa qua lại giữa hai người càng thêm mặn mà. Bản thân làm tướng văn, tướng võ, giúp rập nhà vua, hai ông đứng hàng đầu. |
” |
—Đại Việt Sử ký Toàn thư[3] |
Trận Nghệ An
Đầu năm 1285, quân Nguyên tràn sang tấn công Đại Việt với sức công kích rất mạnh. Thái sư Trần Quang Khải suýt tử thương khi thuyền của ông đang ngủ bị bốc cháy, may nhờ có vợ là Phụng Dương công chúa đánh thức, thoát được.[9]
Tuy nhiên, dưới sự điều động tài tình của Hưng Đạo Vương, quân Đại Việt đã thực hiện các cuộc nghi binh, đưa quân Nguyên vào thế bị động. Năm Ất Dậu (1285), Toa Đô từ Chiêm Thành theo đường bộ kéo ra Nghệ An tấn công quân Nam, có Ô Mã Nhi dẫn quân đi đường biển tiếp ứng. Được tin, Trần Hưng Đạo tâu Thánh Tông xin cho Thượng tướng Trần Quang Khải đưa binh vào đóng mặt Nghệ An, và cho Trần Bình Trọng giữ Thiên Trường, rồi rước xa giá ra Hải Dương.
Trần Quang Khải vào đến Nghệ An, chia quân phòng giữ. Thấy thế giặc quá mạnh, ông cho lui quân ra mặt biển và giữ các nơi hiểm yếu [10]. Quân của Toa Đô đánh mãi không được, cạn lương, bèn cùng với Ô Mã Nhi dẫn quân xuống thuyền trở ra Bắc. Trần Quang Khải hay tin cho người về Thanh Hóa cấp báo. Thánh Tông cho Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật cùng Trần Quốc Toản và Nguyễn Khoái đem 5 vạn quân ra đón đánh tại Hàm Tử Quan thuộc huyện Đông An, tỉnh Hưng Yên. Quân Nguyên thua to chết hại rất nhiều.[11]
Trận Chương Dương Độ
Lúc bấy giờ đại binh của Thoát Hoan đóng tại Thăng Long, còn chiến thuyền thì đóng ở bến Chương Dương, thuộc địa phận huyện Thượng Phúc. Trần Quang Khải được lệnh vua, cùng Trần Quốc Toản và Phạm Ngũ Lão đem quân từ Thanh Hóa đi thuyền vòng đường biển ra đến bến Chương Dương tấn công chiến thuyền của quân Nguyên. Quân Nguyên địch không nổi phải bỏ thuyền lên bờ chạy. Trần Quang Khải đem quân lên bờ đuổi đánh về đến chân thành Thăng Long, nhưng ông lập mưu cho phục binh đóng sẵn ngoài thành.
Thoát Hoan đem quân ra đánh, bị phục binh đánh úp, quân Nguyên đại bại phải bỏ thành Thăng Long vượt sông Hồng giữ mặt Kinh Bắc (Bắc Ninh ngày nay)[12]. Trần Quang Khải cho quân vào thành chiếm lại Thăng Long, và cho quân về Thanh Hóa báo tin. Trong vòng hai tháng, đại phá quân Nguyên hai lần tại Hàm Tử và Chương Dương, nên khí thế quân nhà Trần trở nên rất mạnh, sau đó thắng nhiều trận liên tiếp và đuổi được Thoát Hoan về Trung Quốc.[13]
Vinh danh
Chính sử không chép rõ Trần Quang Khải tham gia trong Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 3 như thế nào. Sau chiến thắng này, triều đình luận công ban thưởng, Trần Quốc Tuấn có công lớn nhất, được phong tước Đại vương. Trần Quang Khải cũng được xếp công thần hạng nhất.
“ | “Quang Khải lúc làm tướng võ, lúc làm tướng văn, giúp vương nghiệp nhà Trần, uy danh ngang với Quốc Tuấn.” | ” |
—Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục[14] |
Ông tiếp tục phụng sự triều đình cho đến khi mất ngày 3 tháng 7 âm lịch năm Hưng Long thứ hai (tức 26 tháng 7 năm 1294) đời Trần Anh Tông[3]. Vợ ông là Phụng Dương công chúa đã mất trước đó 3 năm. Ông bà được chôn cất tại thái ấp của mình, được thờ làm Thành hoàng làng Cao Đài.[4]
Con ông là Văn Túc Vương Trần Đạo Tái cũng rất có tài văn học, được Thượng hoàng ưu ái hơn các em thúc bá khác, nhưng đáng tiếc mất sớm.[3]
Trần Quang Khải được người dân Việt Nam lập đền thờ ở một số nơi; như tại đình làng Phương Bông, ngoại thành thành phố Nam Định. Tại Phường Bông cũng lưu lại điệu múa “bài bông” được người dân ở đây cho là khởi xướng bởi Trần Quang Khải trong tiệc “Thái bình diên yến” do Trần Nhân Tông tổ chức sau khi chiến thắng quân Nguyên.[15][16] Tại đền Thái Vi ở Hoa Lư, Ninh Bình ông cùng với Trần Hưng Đạo được đúc tượng phối thờ trong hậu cung cùng với các vị vua nhà Trần.
Tên ông được đặt cho nhiều đường phố như tại: thị xã Quảng Yên, thành phố Đồng Hới,…
Tác phẩm
Trần Quang Khải, cũng như một số quý tộc đời Trần, là người học rộng và có viết văn, làm thơ. Ông viết Lạc đạo tập, và tác phẩm của ông nay còn lại một số bài thơ, liệt kê dưới đây:
Xem thêm
Liên kết ngoài
![]() |
Wikisource có các tác phẩm gốc nói đến hoặc của: |
- Công chúa Phụng Dương và Thái ấp Ðộc Lập
- Về Độc Lập chiêm ngưỡng Chiêu Minh đại vương và Phụng Dương công chúa
Chú thích
- ^ Ngô Tất Tố, “Việt Nam Văn Học: Văn Học Đời Trần”, NXB Đại Nam, Khai Trí, Sàigòn, 1960, trang 83
- ^ a ă Đại Việt Sử ký Bản kỷ Toàn thư, Quyển V, Kỷ Nhà Trần, Thái Tông Hoàng đế
- ^ a ă â b c d Đại Việt Sử ký Bản kỷ Toàn thư, Quyển VI, Kỷ Nhà Trần, Anh Tông Hoàng đế
- ^ a ă â Về Độc Lập chiêm ngưỡng Chiêu Minh đại vương và Phụng Dương công chúa
- ^ Ngô Tất Tố, “Việt Nam Văn Học: Văn Học Đời Trần”, NXB Đại Nam, Khai Trí, Sàigòn, 1960, trang 82
- ^ a ă â Đại Việt Sử ký Bản kỷ Toàn thư, Quyển V, Kỷ Nhà Trần, Thánh Tông Hoàng đế
- ^ Trần Quốc Tuấn và Trần Quốc Khang là anh em cùng cha. Trần Quốc Khang và Trần Quang Khải là anh em cùng mẹ.
- ^ a ă â Đại Việt Sử ký Bản kỷ Toàn thư, Quyển V, Kỷ Nhà Trần, Nhân Tông Hoàng Đế
- ^ Công chúa Phụng Dương và Thái ấp Ðộc Lập
- ^ Trần Trọng Kim, “Việt Nam Sử Lược”, Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo-dục, Sàigòn, 1971 trang 144
- ^ Trần Trọng Kim, “Việt Nam Sử Lược”, Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo-dục, Sàigòn, 1971 trang 145-146
- ^ Trần Trọng Kim, “Việt Nam Sử Lược”, Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo-dục, Sàigòn, 1971 trang 147
- ^ Trần Trọng Kim, “Việt Nam Sử Lược”, Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo-dục, Sàigòn, 1971 trang 148-150
- ^ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục Chính Biên, Quyển VIII.
- ^ Điệu múa cổ thời Trần hồi sinh
- ^ Múa Bài Bông: Đỉnh cao của nghệ thuật Ca trù
- Sinh 1241
- Mất 1294
- Trần Quang Khải
- Tướng nhà Trần
- Quan nhà Trần
- Hoàng tử Việt Nam
- Thượng tướng Việt Nam
- Nhà thơ Việt Nam
Gamal Abdel Nasser
Gamal Abdel Nasser | |
---|---|
![]() |
|
Chức vụ
|
|
Nhiệm kỳ | 14 tháng 11 năm 1954 – 28 tháng 9 1970 |
Tiền nhiệm | Muhammad Naguib |
Kế nhiệm | Anwar Al-Sadad |
Thông tin chung
|
|
Đảng phái | Arab Socialist Union |
Sinh | 15 tháng 1, 1918![]() |
Mất | 28 tháng 9, 1970 (52 tuổi)![]() |
Tôn giáo | Hệ phái Sunni của đạo Hồi |
Vợ | Tahia Kazem |
Gamal Abdel Nasser được bầu làm tổng thống Ai Cập năm 1956 đến 1970. Gamal Abdel Nasser sinh năm 1918, mất năm 1970; đã lãnh đạo phong trào dân tộc Ai Cập vào năm 1952, lật đổ nền quân chủ của nhà Muhammad Ali và xây dựng chế độ cộng hòa tại Ai Cập. Sau đó, ông thương lượng để chấm dứt chiếm đóng kéo dài trong suốt 72 năm của Anh ở Ai Cập.
Thành tựu lớn nhất của ông là công trình đập Aswan Hight nổi tiếng; những định chế về cải cách ruộng đất, chương trình công nghiệp hóa và phục hồi quyền tự trị của Ai Cập. Nasser theo đuổi chính sách thống nhất Ả Rập và chủ nghĩa xã hội.
Tham khảo
Liên kết ngoài
![]() |
Wikisource có các tác phẩm gốc nói đến hoặc của: |
- Video Clip analysing why Nasser ordered UN out of Sinai in 1967
- Video Clip analysing unintended consequences of Nasser’s action
- Nasser’s Challenge by Professor Martin Gilbert
- (tiếng Ả Rập) http://www.nasser.org
- Video of scenes in Nasser’s life
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Gamal Abdel Nasser |
|
Kênh đào Suez
Kênh đào Suez | |
---|---|
Kênh Suez nhìn từ vệ tinh
|
|
Thông tin chung | |
Quốc gia | Ai Cập |
Xây dựng | |
Khởi công | 4/1859 |
Hoàn thành | 11/1869 |
Nhà thầu chính | Suez Canal Company (Compagnie Universelle du Canal Maritime de Suez) |
Kênh đào Suez (tiếng Việt: Xuy-ê) là kênh giao thông nhân tạo nằm trên lãnh thổ Ai Cập, chạy theo hướng Bắc-Nam đi ngang qua eo Suez tại phía Đông Bắc Ai Cập, nó nối Địa Trung Hải với Vịnh Suez, một nhánh của Biển Đỏ.
Kênh đào cung cấp một lối đi tắt cho những con tàu đi qua cảng Châu Âu–Châu Mỹ đến những cảng phía Nam Châu Á, cảng phía Đông Châu Phi và Châu Đại Dương. Kênh được bắt đầu khởi công ngày 25 tháng 4 năm 1859 và hoàn thành vào ngày 17 tháng 11 năm 1869[1]. Khi hoàn thành, kênh đào Suez dài 195 km (121dặm), khúc hẹp nhất là 60 m, và độ sâu tại đó là 16 m đủ khả năng cho tàu lớn 250.000 tấn qua được.
Mục lục
Lịch sử
Có lẽ vào khoảng những năm 1878 tới 1839 trước Công Nguyên vào triều đại vua Senusret III đã có một kênh đào đông tây nối sông Nin với Biển Đỏ phục vụ giao thông bằng những con thuyền đáy bằng đẩy sào và cho phép việc giao thương giữa Biển Đỏ và Địa Trung Hải. Có nhiều dấu vết cho thấy con kênh này đã tồn tại vào thế kỷ 13 trước Công Nguyên vào thời kỳ vua Ramesses II.
Con kênh này đã không đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Ai Cập lúc bấy giờ và nhanh chóng bị lãng quên. Theo sử sách Hy Lạp, vào khoảng những năm 600 trước Công Nguyên, vua Necho II đã nhận thấy tầm quan trọng của kênh này và cho tu sửa lại nó. Tuy nhiên con kênh chính thức được hoàn thành bởi vua Darius I của Ba Tư. Ông đã hoàn thành con kênh sau khi chiếm Ai Cập và đã mở rộng nó đủ để cho phép hai tàu chiến trieme tránh nhau trong kênh và hành trình trong kênh mất 4 ngày.
Vào cuối thế kỉ 18 Napoléon Bonaparte, trong khi ở Ai Cập, đã có ý định xây dựng một kênh đào nối giữa Biển Đỏ và Địa Trung Hải. Nhưng kế hoạch này của ông đã bị bỏ ngay sau những cuộc khảo sát đầu tiên bởi theo những tính toán sai lầm của các kỹ sư thời bấy giờ thì mực nước Biển Đỏ cao hơn Địa Trung Hải tới 10 m.
Vào khoảng năm 1854 và 1856 Ferdinand de Lesseps, phó vương Ai Cập đã mở một công ty kênh đào nhằm xây dựng kênh đào phục vụ cho đội thương thuyền dựa theo thiết kế của một kiến trúc sư người Úc Alois Negrelli. Sau đó với sự hậu thuẫn của người Pháp công ty này được phát triển trở thành công ty kênh đào Suez vào năm 1858.
Công việc sửa chữa và xây mới kênh được tiến hành trong gần 11 năm. Hầu hết công việc được tiến hành bởi những lao động khổ sai người Ai Cập. Người ta ước tính luôn có một lực lượng 30.000 người lao động trên công trường và cho đến khi hoàn thành, gần 120.000 người đã bỏ mạng tại đây.
Người Anh đã ngay lập tức nhận ra kênh đào này là một tuyến buôn bán quan trọng và việc người Pháp nắm quyền chi phối con kênh này sẽ là mối đe doạ cho những lợi ích kinh tế, chính trị của Anh trong khi đó lực lượng hải quân của Anh lúc bấy giờ là lực lượng mạnh nhất trên thế giới. Vì vậy chính phủ Anh đã chính thức chỉ trích việc sử dụng lao động khổ sai trên công trường và gửi một lực lượng người Ai Cập có vũ trang kích động nổi loạn trong công nhân khiến công việc bị đình trệ.
Tức giận trước thái độ tham lam của Anh, phó vương de Lesseps đã gửi một bức thư tới chính phủ Anh chỉ trích sự bất nhân của nước Anh khi một vài năm trước đó trong công trình xây dựng đường sắt xuyên Ai Cập đã làm tuyệt mạng 80.000 lao động khổ sai Ai Cập.
Lần đầu tiên dư luận thế giới lên tiếng hoài nghi về việc cổ phiếu của công ty kênh đào Suez đã không được bán công khai. Anh, Mỹ, Úc, Nga đều không có cổ phần trong công ty này. Tất cả đều được bán cho người Pháp.
Kênh đào cuối cùng cũng được hoàn thành vào ngày 17 tháng 11 năm 1869 mặc dù đã rất nhiều xung đột chính trị và sự cố kỹ thuật xung quanh công trình. Tổng chi phí đã đội hơn 2 lần so với dự tính ban đầu của các kỹ sư.
Kênh đào ngay lập tức làm ảnh hưởng trực tiếp, sâu sắc đến ngành vận tải thế giới. Kết hợp với đường sắt xuyên Mỹ hoàn thành 6 tháng trước đó, nó cho phép hàng hoá đi vòng quanh thế giới trong một thời gian kỷ lục. Nó cũng góp phần quan trọng trong việc mở rộng thuộc địa của Châu Âu tại Châu Phi. Những khoản nợ khổng lồ đã buộc người kế nhiệm Phó vương Ai Cập bán lại cổ phần trị giá 4 triệu bảng của mình cho người Anh. Tuy nhiên người Pháp vẫn nắm giữ phần lớn cổ phần chi phối.
Vào năm 1888 một hội nghị ở Constantinopolis đã tuyên bố kênh đào là một khu vực trung lập và yêu cầu quân đội Anh bảo vệ kênh đào trong suốt cuộc nội chiến ở Ai Cập. Sau đó căn cứ vào hiệp ước với Ai Cập năm 1936 Anh đã đòi quyền kiểm soát kênh đào. Cuối cùng vào năm 1954 Chính quyền Ai Cập đã phủ nhận hiệp ước 1936 và nước Anh buộc phải từ bỏ quyền kiểm soát kênh.
Năm 1956 tổng thống Ai Cập Nasser tuyên bố quốc hữu hoá kênh và ý định xây dựng một căn cứ quân sự ở dọc kênh. Hành động này của Ai Cập được hậu thuẫn bởi Liên Xô và đã gây lo ngại sâu sắc cho Mỹ, Anh, Pháp và Israel gây nên cuộc Khủng hoảng kênh đào Suez. Ngày 29 tháng 10 năm 1956, Israel tấn công bán đảo Sinai và dải Gaza để trả đũa. Năm 1957, Liên Hợp Quốc cử lực lượng gìn giữ hòa bình tới đây để bảo đảm tính trung lập của kênh.
Kênh bị đóng cửa một lần duy nhất từ 1967 tới 1975 trong cuộc Chiến tranh Ả Rập – Israel.
Cho tới năm 1967, năm xảy ra chiến tranh giữa Israel và Ai Cập, gần 15% các luồng hàng viễn dương và trên 20% các luồng hàng vận chuyển dầu mỏ và sản phẩm dầu mỏ thế giới đã được vận chuyển qua kênh đào.
Dự án kênh đào Suez mới
Ngày 18 tháng 10 năm 2014, Chính phủ Ai Cập đã ký hợp đồng với 6 công ty xây dựng quốc tế (gồm một công ty của Các tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE), hai công ty của Hà Lan (là Royal Boskalis Westminster, Van Oord), hai công ty của Bỉ (là tập đoàn Jan de Nul, tập đoàn Deme), một công ty của Hoa kỳ (là Great Lakes Dredge & Dock)) để đào một tuyến kênh đào Suez mới, vốn đã được khởi công từ tháng 8 năm 2014, chạy song song với tuyến kênh đào Suez hiện hành. Kênh Suez mới có tổng chiều dài 72km, dự kiến tổng kinh phí 4 tỷ USD và hoàn thành khoảng tháng 8 năm 2015.
Xem thêm
- Kênh đào Panama kênh dài 64 km(40 dặm)
Đọc thêm
- Britannica (2007) “Suez Canal”, in: The new Encyclopædia Britannica, 15th ed., 28, Chicago, Ill.; London: Encyclopædia Britannica, ISBN 1-59339-292-3
- Galil, B.S. and Zenetos, A. (2002). “A sea change: exotics in the eastern Mediterranean Sea”, in: Leppäkoski, E., Gollasch, S. and Olenin, S. (eds), Invasive aquatic species of Europe: distribution, impacts, and management, Dordrecht; Boston: Kluwer Academic, ISBN 1-4020-0837-6, p. 325–336
- Garrison, Ervan G. (1999) A history of engineering and technology: artful methods, 2nd ed., Boca Raton, Fla.; London: CRC Press, ISBN 0-8493-9810-X
- Karabell, Zachary (2003) Parting the Desert: The Creation of the Suez Canal, Knopf, ISBN 978-0-375-40883-0
- Oster, Uwe (2006) Le fabuleux destin des inventions: le canal de Suez, TV documentary produced by ZDF and directed by Axel Engstfeld (Germany)
- Sanford, Eva Matthews (1938) The Mediterranean world in ancient times, Ronald series in history, New York: The Ronald Press Company, 618 p.
- Pudney, John. Suez; De Lesseps’ Canal. New York: Praeger, 1969. Print.
- Thomas, Hugh. Suez. [1st U.S. ed.]. New York: Harper & Row, 1967. Print.
|
Chú thích
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Kênh đào Suez |
- Sơ khai địa lý
- Công trình biển
- Kênh đào Suez
- Công trình xây dựng lịch sử
- Kinh tế Ai Cập
- Địa lý Ai Cập
Bài viết mới trên TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
- Gọi đôi
- Chào ngày mới 25 tháng 7
- Mảnh đạn trong người
- Chào ngày mới 24 tháng 7
- Năm tháng đó là em
- Chào ngày mới 23 tháng 7
- Chào ngày mới 22 tháng 7
- Thăm Borlaug và Hemingway ở CIANO
- Chào ngày mới 20 tháng 7
- Biển Đông vạn dặm
- Chào ngày mới 19 tháng 7
- Chào ngày mới 18 tháng 7
- Chào ngày mới 17 tháng 7
- Lớp học trên đồng ĐăkGlong Oxfam
- Chào ngày mới 16 tháng 7
- Từ Mekong nhớ Neva
- Chào ngày mới 15 tháng 7
- Ngày mới yêu thương
- Chào ngày mới 14 tháng 7
- Chào ngày mới 13 tháng 7
- Mạc triều trong sử Việt
- Chào ngày mới 12 tháng 7
- Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời
- Giấc mơ tình yêu cuộc sống
- Chào ngày mới 11 tháng 7
- Khoảnh khắc tuyệt đẹp
- Tiếng Anh cho em
- Tháng Bảy mưa Ngâu
- Chào ngày mới 10 tháng 7
- Biển Đông vạn dặm
- Chào ngày mới 9 tháng 7
- Đợi mưa
- Ngày mới yêu thương
- Chào ngày mới 8 tháng 7
- Chào ngày mới 7 tháng 7
- Chào ngày mới 6 tháng 7
- Dưới đáy đại dương là Ngọc
- Lộc xuân cuộc đời
- Chào ngày mới 5 tháng 7
- Ngày mới yêu thương
- Biển Đông vạn dặm
- Chào ngày mới 4 tháng 7
- Trần Thánh Tông
- Bà Đen
- Lộc xuân cuộc đời
- Đọc lại và suy ngẫm 2
- Chào ngày mới 2 tháng 7
- Tiếng Anh cho em
- Biển Đông vạn dặm
- Chào ngày mới 1 tháng 7
- Lời vàng của Anbe Anhstanh
- Quà tặng cuộc sống
- Chào ngày mới 30 tháng 6
- Đêm nhớ Phan Huỳnh Điểu, Phan Nhân
- Ngày mới yêu thương
- Chào ngày mới 29 tháng 6
- Quà tặng cuộc sống
- Chào ngày mới 28 tháng 6
- Thạch Lam hạt ngọc đời nay
- Helen Keller người mù điếc huyền thoại
- Chào ngày mới 27 tháng 6
- Chào ngày mới 26 tháng 6
- Chào ngày mới 25 tháng 6
- GS Trần Văn Khê người Thầy nhạc Việt
- Nguyễn Hiến Lê học và viết
- Lộc xuân cuộc đời
- Quà tặng cuộc sống
- Chào ngày mới 24 tháng 6
- Ngày mới yêu thương
- Chào ngày mới 23 tháng 6
- Lộc xuân cuộc đời
- Chào ngày mới 22 tháng 6
- Chào ngày mới 21 tháng 6
- Biển Đông vạn dặm
- Con là nguồn hạnh phúc đầu tiên
- Chào ngày mới 20 tháng 6
- Từ Mao Trạch Đông đến Tập Cận Bình
- Ngày mới Mạnh Hạo Nhiên
Video nhạc tuyển
Ban Mai
MAR AKRAM – Dancing with the wind♥
KimYouTube
Trở về trang chính
Hoàng Kim Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và học Cây Lương thực Dạy và Học Tình yêu cuộc sống Kim on LinkedIn KimYouTube Kim on Facebook