CNM365. Chào ngày mới 25 tháng 7. Wikipedia Ngày này năm xưa. Ngày Cộng hòa tại Tunisia; ngày Hiến pháp Thịnh vượng chung tại Puerto Rico. Năm 2011 – Trương Tấn Sang (hình) được bầu làm Chủ tịch Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Năm 918 – Vương Kiến (877-943), lên ngôi vương, tức Cao Ly Thái Tổ, đặt quốc hiệu là Cao Ly. Ông là vị vua khai quốc Cao Ly tại bán đảo Triều Tiên.
25 tháng 7
Ngày 25 tháng 7 là ngày thứ 206 (207 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 159 ngày trong năm.
« Tháng 7 năm 2015 » | ||||||
CN | T2 | T3 | T4 | T5 | T6 | T7 |
1 | 2 | 3 | 4 | |||
5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 |
12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 |
19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 |
26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | |
Mục lục
Sự kiện
25 tháng 7:
Ngày Cộng hòa tại Tunisia; ngày Hiến pháp Thịnh vượng chung tại Puerto Rico.
- 306 – Constantinus Đại đế được đội quân của mình tôn làm hoàng đế La Mã sau khi Constantius Chlorus từ trần.
- 710 – Dưới áp lực của công chúa Thái Bình, Đường Duệ Tông phục vị hoàng đế triều Đường khi được cháu là Đường Thương Đế thiện vị.
- 918 – Sau khi lật đổ Quốc vương Cung Duệ của Thái Phong, Vương Kiến lên ngôi vương, đặt quốc hiệu là Cao Ly.
- 1261 – Quân Nicaea dưới quyền chỉ huy của Alexios Strategopoulos tái chiếm Constantinopolis từ quân La Tinh, Đế quốc Đông La Mã được trung hưng.
- 1603 – Quốc vương James VI của Scotland (hình) đăng quang ngôi vị quốc vương Anh, trở thành James I của Anh, Vương quốc Anh và Vương quốc Scotland tiến vào một liên minh cá nhân.
- 1894 – Hải quân Nhật Bản và Đại Thanh giao chiến trong trận Phong Đảo ở Nha Sơn thuộc Triều Tiên, mở đầu Chiến tranh Thanh-Nhật.
- 2011 – Trương Tấn Sang được bầu lên làm Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Sinh
- 1905: Nhất Linh – Nguyễn Tường Tam, nhà văn, nhà chính trị Việt Nam nổi tiếng
- 1947: Rodríguez Saá tổng thống Argentina
- 1978: Bé gái Louise Brown là người đầu tiên trên thế giới được sinh ra bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm tại Anh Quốc. Mở ra cơ hội lớn lao cho các cặp vợ chồng hiếm muộn của bác sĩ Patrick Steptoe và tiến sĩ Robert Edwards. Song cũng không tránh khỏi chỉ trích của các tổ chức như tòa thánh Vatincan…
Mất
Những ngày lễ và kỷ niệm
Tháng 1 | Tháng 2 | Tháng 3 | Tháng 4 | Tháng 5 | Tháng 6 | Tháng 7 | Tháng 8 | Tháng 9 | Tháng 10 | Tháng 11 | Tháng 12 |
Tham khảo
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về 25 tháng 7 |
Trương Tấn Sang
Trương Tấn Sang | |
---|---|
![]() Chủ tịch nước Trương Tấn Sang
|
|
Chức vụ
|
|
Nhiệm kỳ | 25 tháng 7, 2011 – nay 3 năm, 354 ngày |
Tiền nhiệm | Nguyễn Minh Triết |
Kế nhiệm | đương nhiệm |
Khu vực | Việt Nam |
Phó Chủ tịch nước | Nguyễn Thị Doan |
Thường trực Ban Bí thư
|
|
Nhiệm kỳ | Tháng 5, 2006 – Tháng 8, 2011 |
Tiền nhiệm | Phan Diễn |
Kế nhiệm | Lê Hồng Anh |
Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh
|
|
Nhiệm kỳ | Tháng 6, 1996 – Tháng 1, 2000 |
Tiền nhiệm | Võ Trần Chí |
Kế nhiệm | Nguyễn Minh Triết |
Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
|
|
Nhiệm kỳ | Tháng 3, 1992 – Tháng 7, 1996 |
Tiền nhiệm | Nguyễn Vĩnh Nghiệp |
Kế nhiệm | Võ Viết Thanh |
Trưởng ban Kinh tế Trung ương
|
|
Nhiệm kỳ | Tháng 1, 2000 – Tháng 1, 2003 |
Tiền nhiệm | Phan Diễn |
Kế nhiệm | Vương Đình Huệ (chức vụ tái lập năm 2013) |
Thông tin chung
|
|
Đảng phái | Đảng Cộng sản Việt Nam |
Sinh | 21 tháng 1, 1949 Đức Hòa, Long An |
Nơi ở | Hà Nội |
Trương Tấn Sang (sinh 21 tháng 1 năm 1949), còn gọi là Tư Sang, là Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng. Vào ngày 25 tháng 7 năm 2011 ông được Quốc Hội khóa XIII bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam,[1] thay cho ông Nguyễn Minh Triết.
Mục lục
Tiểu sử
Trương Tấn Sang sinh tại xã Mỹ Hạnh, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
- Vào Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 20 tháng 12 năm 1969; Chính thức ngày 20 tháng 12 năm 1970.
- Trình độ chuyên môn: Đại học (Cử nhân Luật); Lý luận chính trị Cao cấp.
- Từ năm 1966-1969: Công tác phong trào thanh niên, học sinh sinh viên P.K 2. Từ năm 1969-1971, Đảng ủy viên, Bí thư Đoàn thanh niên, phụ trách đội du kích bí mật thị trấn Đức Hòa, Long An. Năm 1971, bị chính quyền Sài Gòn bắt giam ở nhà tù Phú Quốc. Năm 1973, được trao trả theo Hiệp định Paris.
- Từ năm 1973-1975, công tác tại Ban T73 thuộc Ủy ban Thống nhất Trung ương.
Hoạt động tại Thành phố Hồ chí Minh
- Năm 1975-1979, công tác ở Liên hiệp công đoàn Gia Định, rồi Ban khai hoang xây dựng kinh tế mới Thành phố Hồ Chí Minh, Phó Ban khai hoang.
- Năm 1979-1983, Giám đốc Nông trường Phạm Văn Hai, Thành phố Hồ Chí Minh, Thành Ủy viên dự khuyết.
- Năm 1983-1986, Thành Ủy viên, Giám đốc Sở Lâm nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh.
- Năm 1986-1988, Thường vụ Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Bí thư huyện ủy Bình Chánh.
- Năm 1988-1990, học lớp 2 năm Học viện Nguyễn Ái Quốc.
- Tháng 6-1991, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Thành ủy, Giám đốc Sở Nông nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh.
- Năm 1992, giữ chức Quyền Chủ tịch, rồi Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
- Tháng 6-1996, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Trung ương bầu vào Bộ Chính trị, giữ chức Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.
Tham gia công tác Trung ương
- Từ 1-2000, được Bộ Chính trị phân công làm Trưởng ban Kinh tế Trung ương.
- Tháng 4-2001, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Trung ương bầu vào Bộ Chính tri, phân công Trưởng Ban Kinh tế Trung ương.
- Tháng 1-2003, tại Hội nghị Trung Ương 7 khóa IX, Ban Chấp hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam kỉ luật khiển trách vì có những khuyết điểm liên quan đến vụ án Năm Cam và công tác cán bộ.
- Tháng 4-2006, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Trung ương bầu vào Bộ Chính tri, Ban Bí thư Trung ương.
- Tháng 5-2006: Giữ chức Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng.
- Đại biểu Quốc hội khoá IX[2], X[3], XI[4], XIII[5].
- Tại Đại hội XI, tái đắc cử vào Ban Chấp hành Trung ương và là Ủy viên Bộ Chính trị.
- Ngày 25-7-2011 Ông đắc cử làm Chủ Tịch Nước CHXHCN Việt Nam với 97,4% phiếu bầu tín nhiệm.[6][7]
Ngày 10 tháng 6 năm 2013, trong cuộc bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội Việt Nam, ông đạt 330 phiếu “tín nhiệm cao”, 133 phiếu tín nhiệm, và 28 phiếu tín nhiệm thấp.[8]
Ngày 26 tháng 7 (giờ Việt Nam) năm 2013, khi phát biểu tại Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế Hoa Kỳ (CSIS) ở Washington, D.C., ông bày tỏ việc phản đối “đường chín đoạn” trên biển Đông do chính quyền Trung Quốc đưa ra, và cho rằng “đường chín đoạn” này được xác lập không có cơ sở và căn cứ của bất cứ loại luật pháp quốc tế nào.[9]
Câu nói
“ | Trước đây chỉ một con sâu làm rầu nồi canh, nay thì nhiều con sâu lắm. Nghe mà thấy xấu hổ, không nhẽ cứ để hoài như vậy. Mai kia người ta nói một bầy sâu, tất cả là sâu hết thì đâu có được. Một con sâu đã nguy hiểm rồi, một bầy sâu là ‘chết’ cái đất nước này. | ” |
— (nói về tham nhũng, khi tiếp xúc cử tri Thành phố Hồ Chí Minh tháng 5-2011) [10] |
“ | Chúng ta không thể chấp nhận những người miệng nói yêu nước nhưng vì lợi ích cá nhân, “lợi ích nhóm” mà tham nhũng, lãng phí, làm tổn hại đến đất nước, làm nghèo, suy yếu đất nước….Đây là giặc nội xâm, là những khối u trên cơ thể đất nước cần phải cắt bỏ. | ” |
— Trong một thông điệp đăng trên tờ Tạp chí Cộng sản nhân dịp ngày 19/8 và 2/9[11] |
“ | “Bà con cử tri cho rằng, hiện nay người tố cáo tham nhũng, sai phạm chưa được bảo vệ. Tôi thừa nhận điều này và đó là lỗi của Đảng và Nhà nước”. | ” |
— Trong cuộc tiếp xúc với cử tri TPHCM vào ngày 14.10.2014 [12] |
Chú thích
- ^ a ă “Thông cáo số 4 kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIII” (Thông cáo báo chí). Quốc hội Việt Nam khóa XIII. 25/7/2011 5:44:10 PM GMT+7. Truy cập 16:24 16/1/2012.
- ^ Thông tin đại biểu Quốc hội các khóa: Khóa IX – Trương Tấn Sang
- ^ Thông tin đại biểu Quốc hội các khóa: Khóa X – Trương Tấn Sang
- ^ Thông tin đại biểu Quốc hội các khóa: Khóa XI – Trương Tấn Sang
- ^ Thông tin đại biểu Quốc hội các khóa: Khóa XIII – Trương Tấn Sang
- ^ Ông Trương Tấn Sang đắc cử Chủ tịch nước
- ^ Thông tấn xã Việt Nam (19/01/2011). “Tiểu sử tóm tắt của đồng chí Trương Tấn Sang” (bằng tiếng Việt). Tiền Phong Online. Bản gốc lưu trữ 19/01/2011. Truy cập 21/01/2011. “Theo Thông tấn xã Việt Nam”
- ^ Công bố kết quả bỏ phiếu tín nhiệm 47 chức danh, Cẩm Quyên, VietNamNet, 11/06/2013 09:05 GMT+7
- ^ “Chủ tịch nước khẳng định lập trường về Biển Đông”. Vietnamnet. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2013.
- ^ ‘Một con sâu đã nguy hiểm huống gì một bầy’ Thái Thiện 7/5/2011, 16:24 GMT+7
- ^ Nỗi sợ của Chủ tịch Sang ‘là có căn cứ’, BBC, 22.08.2014
- ^ Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang: Chưa bảo vệ được người tố cáo là lỗi của Đảng, Nhà nước, laodong, 15.10.2014
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Trương Tấn Sang |
|
|
|
|
|
- Sinh 1949
- Nhân vật còn sống
- Chủ tịch nước Việt Nam
- Người Long An
- Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh
- Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
- Ủy viên Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
- Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
- Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 10
- Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13
- Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
- Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 9
- Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 11
- Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X
- Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VII
- Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII
- Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX
- Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI
Cao Ly Thái Tổ
Cao Ly Thái Tổ | |
---|---|
vua Cao Ly | |
Tại vị | 15 tháng 6, 918 – 4 tháng 7, 943 (âm lịch) |
Đăng quang | 15 tháng 6, 918 (âm lịch) |
Tiền nhiệm | Cung Duệ |
Kế nhiệm | Cao Ly Huệ Tông |
Thông tin chung | |
Hậu duệ | Cao Ly Huệ Tông, Cao Ly Định Tông, Cao Ly Quang Tông |
Thân phụ | Vương Long |
Sinh | 31 tháng 1, 877 |
Mất | 4 tháng 7, 943 (66 tuổi) |
Korean name | |
Hangul | 태조 |
---|---|
Hanja | 太祖 |
Romaja quốc ngữ | Taejo |
McCune–Reischauer | T’aejo |
Tên khai sinh | |
Hangul | 왕건 |
Hanja | 王建 |
Romaja quốc ngữ | Wang Geon |
McCune–Reischauer | Wang Kǒn |
Posthumous name | |
Hangul | 신성대왕 |
Hanja | 神聖大王 |
Romaja quốc ngữ | Sinseong-Daewang |
McCune–Reischauer | Sinsŏng Taewang |
Cao Ly Thái Tổ, tên là Vương Kiến (Triều Tiên: 왕건 (Wang Geon), Trung Quốc: 王建 (Wáng Jiàn), 31/1/877 – 4/7/943), trị vì từ năm 918 tới năm 943. Ông là vị vua đầu tiên đã thành lập nên triều đại Cao Ly – một triều đại của Triều Tiên kéo dài từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 14.
Mục lục
Tuổi trẻ
Vương Kiến sinh năm 877, là con một thương nhân ở Songdo (nay thuộc tỉnh Kaesŏng bên dòng sông Yeseong. Cha của Kiến là Vương Long (Wang Ryung 왕륭, 王隆), là 1 thương nhân rất khéo làm ăn, kiếm được nhiều lợi nhuận thương mại với các thương nhân Trung Quốc, lại có thế lực đứng đầu vùng này. Vì vậy nên cuộc sống của gia đình họ Vương rất sung túc, khá giả. Tổ tiên của ông và chính ông là người Cao Cấu Ly cổ. Nhưng gia đình ông lại sống ở nước Tân La.
Sự nghiệp
Vương Kiến sống vào thời điểm cuối đời Hậu Tam Quốc Triều Tiên – là cuộc phân tranh lâu dài giữa 3 tập đoàn: Hậu Cao Cấu Ly (Hukoguryŏ), Hậu Bách Tế (Hupaekche) và Tân La (Silla). Ông kế thừa cơ nghiệp của cha mình, là một người lái buôn. Bấy giờ, nhà nước Tân La do nữ vương Chân Thánh (Chinsŏng) cai trị. Lúc đó, tình thế bên trong của Tân La rất tạp loạn: giặc cướp nổi lên như ong, hào cường chống chính quyền, quan lại tham nhũng, chính sách hà khắc, bộ máy triều đình thối nát, v.v… biết bao việc xảy ra đã cảnh báo hồi chuông suy sụp của Hậu Tân La. Lúc đó, có 1 cuộc khởi nghĩa lớn bùng nổ tại Tân La do Cung Duệ (Kung Ye) và Chân Huyên (Kyŏn Hwŏn) nắm đầu. Cuộc khởi nghĩa này bùng phát khắp nơi với số lượng quân đông và mạnh, đánh phá các nơi, giết bọn quan lại và bọn giặc cướp địa phương khác. Năm 895, Cung Duệ đem quân đánh vùng Tây Bắc của nước Tân La, là nơi tọa lạc của vùng Songdo – nơi Vương Kiến đang sống. Cha con Vương Long và Vương Kiến thấy quân khởi nghĩa kéo đến, ngay lập tức họ quy hàng. Vương Kiến đến gặp và xin nguyện ở dưới trướng của Cung Duệ – người lãnh đạo quốc gia Thái Phong (T’aepong) sau này.
Từ khi gia nhập nghĩa quân, Vương Kiến tỏ ra là 1 tỳ tướng có tài và năng lực, được Cung Duệ tin tưởng và coi như người em trai của mình. Năm 900, khi quân của Hậu Bách Tế sang đánh phá, Vương Kiến đem quân đánh thắng họ này tại Trung Châu (Ch’ungju), thu được nhiều chiến lợi phẩm. Từ đó, ông trở nên nổi tiếng, thanh danh vang dội. Năm 903, ông đem quân đánh tan lực lượng hải quân của Hậu Bách Tế xâm phạm vùng bờ biển. Trong thời gian đó, Chân Huyên phải lo chống lại quân triều đình Tân La. Vương Kiến cũng có sai quân đi giúp đỡ Chân chiến thắng. Trong thời gian chiến tranh đó, Vương Kiến vẫn bảo quân sĩ phải giữ nghiêm quân luật, không được xâm phạm đến của cải của dân, mà còn phải giúp dân nghèo. Vì vậy mà nghĩa quân của Vương Kiến đi đến đâu cũng được dân chúng hoan nghênh.
Tuy nhiên, sau khi lật đổ Chân Huyên, vua Cung Duệ đã thực hiện một chính sách khắc nghiệt với dân chúng khiến sự chống đối nổi lên. Năm 918, bốn tướng lĩnh hàng đầu của nước Thái Phong là Hồng Nho (홍유 Hong Yu; 洪儒), Bùi Huyền Khánh (배현경 Pae Hyŏnkyŏng; 裵玄慶), Thân Sùng Khiêm (신숭겸 Sin Sungkyŏm; 申崇謙) và Bốc Trí Khiêm (복지겸 Pok Chikyŏm; 卜智謙) lên kế hoạch lật đổ Cung Duệ và mời Vương Kiến lên ngôi. Vương Kiến đồng ý. Cung Duệ bị lật đổ. Vương Kiến lên làm vua, đặt tên nước là Cao Ly (고려 Koryŏ; 高麗), lấy niên hiệu là Thiên Thụ (天授), tôn đạo Phật làm quốc giáo, tiến hành bình định các miền còn lại ở bán đảo Triều Tiên. Năm 936, sự nghiệp thống nhất bán đảo của Vương Kiến thành công. Một số đối thủ của Vương Kiến được ông mời tham gia liên minh, được phong tước và trang ấp. Vương Kiến tổ chức Cao Ly thành một nhà nước phong kiến tập quyền, đặt quan chế ở trung ương, chia đất nước thành các đơn vị hành chính. Vị thế cầm quyền của dòng họ Vương được củng cố vững chắc.
Xem thêm
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Cao Ly Thái Tổ |
Tham khảo
|
Cao Ly
Cao Ly (Goryeo hay Koryŏ, 고려, 高麗), tên đầy đủ là Vương quốc Cao Ly, là một vương quốc có chủ quyền ở bán đảo Triều Tiên được thành lập vào năm 918 bởi vua Thái Tổ sau khi thống nhất các vương quốc thời Hậu Tam Quốc và bị thay thế bởi nhà Triều Tiên vào năm 1392. Tên Cao Ly, bắt nguồn từ tên Cao Câu Ly, đã được phiên âm thành Korea và dùng làm tên chính thức để chỉ nước Triều Tiên. Cao Ly đã mở rộng biên giới vương quốc đến tỉnh Wonsan (Nguyên San, 원산, 元山) ngày nay về phía đông bắc (936 – 943) và sông Áp Lục (Amnok hay Yalu, 압록, 鴨綠) (993) và cuối cùng hầu như toàn bộ bán đảo Triều Tiên (1374).
Cai trị vương quốc Cao Ly là nhà Cao Ly của dòng họ Vương (Wang, 왕, 王), kinh đô đóng ở Khai Thành (Kaesong, 개성, 開城). Người sáng lập nhà Cao Ly là Vương Kiến (Wang Geon, 왕건, 王建), tức vua Thái Tổ vào năm 918. Vương triều này kéo dài 474 năm với nhiều biến cố lịch sử thăng trầm nhưng đã để lại nhiều dấu ấn rất đáng kể trong lòng lịch sử Triều Tiên cùng với sự phát triển Phật giáo, khoa học quân sự, nghệ thuật…, cuối cùng đã bị nhà Triều Tiên của dòng họ Lý thôn tính vào năm 1392.
Mục lục
Thành lập
Nhà Tân La thống nhất Triều Tiên vào năm 668, có công phổ biến Phật giáo và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ thứ 9, sự tranh giành vương vị đã gây ra nội chiến và sự nổi dậy của nông dân ở nhiều nơi. Các địa phương ở xa trung ương trở nên coi thường mệnh lệnh của triều đình. Trước tình thế chính trị như vậy, Thiện Đức nữ vương (Seondeok yeowang, 선덕여왕, 善德女王) đã phải tăng cường các biện pháp trấn áp, song điều này lại khiến gia tăng sự chống đối triều đình của các hào tộc có thế lực ở các địa phương. Năm 900, Chân Huyên (Gyeon Hwon, 견훤, 甄萱) tuyên bố thành lập nhà Hậu Bách Tế tại Toàn Châu (Jeonju, 전주, 全州), tây nam bán đảo Triều Tiên. Năm 901, đến lượt Cung Duệ (Gung Ye. 궁예, 弓裔) thành lập nhà Hậu Cao Câu Ly tại Khai Thành. Một lần nữa, bán đảo Triều Tiên lại rơi vào thế ba nước phân tranh mà sử sách gọi là thời Hậu Tam Quốc Triều Tiên.
Vương Kiến vốn là võ tướng của nhà Hậu Cao Câu Ly. Trong cuộc chiến giữa nhà Hậu Cao Câu Ly và nhà Hậu Bách Tế, Vương Kiến đã chỉ huy nhiều trận đánh và giành được nhiều thắng lợi, chứng tỏ tài năng của mình nên được quần thần nhà Hậu Cao Câu Ly kính nể. Tuy nhiên, điều này lại làm cho vua Hậu Cao Câu Ly là Cung Duệ lo ngại nên tìm cách trừ khử. Trong khi tự nhận mình là Di Lặc Bồ Tát, Cung Duệ lại huy động sức dân ở quy mô lớn để xây đền đài cung điện cho mình. Điều này khiến cho dân chúng bất mãn, còn quần thần trong triều cũng hình thành phái chống đối. Vương Kiến đã nhân cơ hội này đã làm binh biến, lật đổ Cung Duệ, lập nên nhà Cao Ly năm 918.
Sau khi thành lập, nhà Cao Ly tiếp tục cuộc chiến chống nhà Hậu Bách Tế và Tân La. Năm 927, Cao Ly bị bại trận dưới tay Hậu Bách Tế tại khu vực Đại Khâu (Daegu, 대구, 大邱) ngày nay, rất nhiều tướng lĩnh thân cận của Vương Kiến đã tử trận trong cuộc chiến này. Trong suốt 3 năm tiếp theo, Hậu Bách Tế đã chiếm ưu thế hơn Tân La và Cao Ly nhưng sau đó đã bị suy yếu sau trận chiến bại với Cao Ly vào năm 930.
Đến tháng 11 năm 935, Kính Thuận Vương (Gyeongsun wang, 경순왕, 敬順王) nhà Tân La quy thuận Vương Kiến và sáp nhập lãnh thổ Tân La vào Cao Ly. Đến năm 936, sau 18 năm chiến tranh dai đẳng, Cao Ly tiêu diệt Hậu Bách Tế, thống nhất bán đảo Triều Tiên.
Hệ thống chính trị
Mặc dù Cao Ly là phiên quốc của nhà Tống nhưng danh xưng trong triều đình Cao Ly chiếu theo hệ thống hoàng triều như nhà Tống chứ không phải là vương triều. Kinh đô Khai Thành được gọi là “hoàng đô” (hwangdo, 황도, 皇都), kinh thành là “hoàng thành” (hwangseong, 황성, 皇城). Các cách xưng hô khác như “bệ hạ” (pyeha, 폐하, 陛下), “thái tử: (taeja, 태자, 太子), “thái hậu” (taehu, 태후, 太后) và sắc lệnh của nhà vua được gọi là chiếu (詔) hoặc sắc (勅) càng khẳng định giả thiết Cao Ly dùng danh xưng theo hệ thống hoàng triều. Tuy nhiên, thường thì nhà Cao Ly không gọi vua của mình là “hoàng đế” như các vua Trung Quốc mà chỉ gọi là “đại vương” (daewang, 대왕, 大王). Chỉ đôi khi, họ mới gọi vua là “hoàng đế” (hwangje, 황제, 皇帝) hoặc “Hải Đông thiên tử” (Haedong cheonja, 해동천자, 海東天子). Sau khi Mông Cổ xâm lăng Cao Ly, các danh xưng này bị người Mông Cổ cấm sử dụng.
Để củng cố quyền lực của triều đình trung ương, Quang Tông (Gwangjong, 광종, 光宗), vị vua thứ tư, ban hành một loạt các bộ luật trong đó có luật giải phóng nô lệ vào năm 958, luật thiết lập chế độ thi tuyển nhân tài làm quan. Quang Tông còn tự xưng mình là hoàng đế, độc lập với các nước khác cùng thời.
Vị vua thứ năm, vua Cảnh Tông (Gyeongjong, 경종, 景宗) đã tiến hành chính sách cải cách quyền sở hữu ruộng đất gọi là Điền sài khoa (Jeonsigwa, 전시과, 田柴科). Còn vị vua thứ sáu, vua Thành Tông (Seongjong, 성종, 成宗) đã tiến hành bổ nhiệm các quan lại tại các địa phương, những nơi trước đây do các hào trưởng kế vị nhau nắm quyền. Từ năm 993 đến năm 1019, cuộc chiến tranh Cao Ly – Khiết Đan đã tàn phá vùng biên giới phía bắc Cao Ly.
Những cải cách này đã làm tăng đáng kể quyền lực của triều đình. Đến đời vua Văn Tông (Munjong, 문종, 文宗), triều đình trung ương đã thâu tóm hoàn toàn quyền lực của các hào trưởng địa phương. Văn Tông và các vua về sau đề cao tầm quan trọng của chính quyền dân sự hơn quân sự, do đó có thái độ trọng dụng các quan văn hơn là các quan võ.
Chiến tranh và bất ổn nội
Cuộc xâm lăng của Khiết Đan và Nữ Chân
Từ năm 993 đến năm 1019, Cao Ly và Khiết Đan xung đột liên tục ở vùng biên giới.
Năm 993, khoảng 6 vạn quân Khiết Đan đã tấn công xâm lược khu vực biên giới Tây Bắc của Cao Ly. Tuy nhiên, sau cuộc thương thuyết của sứ thần Cao Ly là Từ Hy (Sŏ Hŭi, 서희, 徐熙), người Khiết Đan chấp nhận rút quân và nhường vùng lãnh thổ phía đông sông Áp Lục cho Cao Ly, đổi lại Cao Ly phải đồng ý từ bỏ liên minh với nhà Tống. Tuy nhiên, Cao Ly không hoàn toàn tuân thủ hòa ước, họ vẫn tiếp tục bang giao với nhà Tống, củng cố vị thế của mình bằng cách xây dựng thành trì tại các vùng lãnh thổ mới giành được ở biên giới phía bắc.
Trong lúc đó, năm 1009, tướng Khang Triệu (Kang Cho, 강조, 康兆) của Cao Ly đã thực hiện một cuộc binh biến chống lại vua Mục Tông (Mokjong, 목종, 穆宗), giết chết nhà vua và áp đặt quân luật lên triều đình. Nhân lúc nội bộ Cao Ly đang tranh giành quyền lực, 40 vạn quân Khiết Đan lần nữa mở cuộc tấn công xâm lược Cao Ly. Khang Triệu đã thống lĩnh quân đội Cao Ly chặn đứng quân xâm lược Khiết Đan cho đến khi ông bị người Khiết Đan bắt được và xử tử. Vua Hiển Tông (Hyeonjong, 현종, 顯宗) buộc phải bỏ kinh thành tạm thời chạy về La Châu (Naju, 나주 hay 라주, 羅州). Nhận thấy không thể thiết lập được chỗ đứng trên lãnh thổ Cao Ly và lo sợ bị phản công, quân Khiết Đan buộc phải rút lui.
Năm 1018, người Khiết Đan lần thứ ba xâm lược Cao Ly với 10 vạn quân. Tại sông Hưng Hải Tân (Heunghaejin, 흥해진, 興海津), tướng Khương Hàm Tán (Kang Kamch’an, 강감찬, 姜邯贊) hạ lệnh xây đập chặn dòng sông, khi quân Khiết Đan vượt sông đến giữa dòng thì ông ra lệnh phá đập để nước sông nhấn chìm phần lớn quân Khiết Đan. Thiệt hại khi qua sông khá lớn cộng thêm việc tướng Khương Hàm Tán tổng tấn công vào lực lượng còn lại của quân Khiết Đan dẫn đến kết quả chỉ còn trơ trọi vài nghìn quân Khiết Đan sống sót tháo chạy về nước sau thảm bại tại Quy Châu (Kwiju, 귀주, 龜州) một năm sau đó.
Trong khi đó, tộc người Nữ Chân ở phía Bắc – trước đây luôn thần phục và cống nạp cho Cao Ly – nay phát triển thành một thế lực mạnh và thống nhất dưới trướng của dòng họ Hoàn Nhan (Wanyan, 完颜). Họ bắt đầu tổ chức nhiều cuộc tấn công vào biên giới Cao Ly – Nữ Chân và cuối cùng, tấn công xâm lược Cao Ly.
Năm 1107, tướng Doãn Quán (Yun Kwan, 윤관, 尹瓘) thống lĩnh một đạo quân khoảng 17 nghìn người mới thành lập mang tên Biệt Vũ Ban (Pyǒlmuban, 별무반, 別武班) tấn công người Nữ Chân. Cuộc chiến đã kéo dài trong nhiều năm và kết quả cuối cùng người Nữ Chân bị đánh bại và đầu hàng Doãn Quán. Để đánh dấu chiến thắng này, Doãn Quán cho xây dựng chín pháo đài ở phía đông bắc biên giới Cao Ly – Nữ Chân được gọi là Đông Bắc Cửu Thành (Tongpuk Kusŏng, 동북9성, 東北九城). Tuy nhiên, năm 1108, tân vương của Cao Ly, vua Duệ Tông (Yejong, 예종, 睿宗)ra lệnh cho Doãn Quán rút quân. Vì sự ngấm ngầm hãm hại và dèm pha của phe đối lập trong triều, ông bị bãi chức. Song song đó, phe đối lập còn đấu tranh đòi trả lại chín thành mới trên đất mà Doãn Quán vừa đoạt được cho người Nữ Chân.
Tranh giành quyền lực
Từ đời vua Văn Tông đến đời vua thứ 17, vua Nhân Tông, đều tấn cung hậu, phi từ dòng họ Lý ở Nhân Châu (Inju Yi, 인주 이씨, 仁州李氏). Vì vậy, cuối cùng dòng họ Lý đã thâu tóm quyền hành trong tay, lấn át cả nhà vua. Hậu quả của việc này là cuộc binh biến của Lý Tư Khiêm (I Chakyŏm, 이자겸, 李資謙) vào năm 1126. Tuy cuộc binh biến thất bại nhưng quyền hành của nhà vua cũng trở nên suy yếu sau đó. Triều đình Cao Ly ngày càng sa vào các cuộc tranh chấp, bè đảng giữa các quan lại, quý tộc.
Năm 1135, nhà sư Diệu Thanh (Myo Cheong, 묘청, 妙淸) thuyết phục nhà vua dời kinh đô về Tây Kinh (Sŏkyŏng, 서경, 西京 – tức Bình Nhưỡng ngày nay). Đề xuất này đã phân hóa triều đình Cao Ly thành hai phe đối nghịch nhau: phe ủng hộ dời đô về Tây Kinh và bành trướng thế lực sang Mãn Châu do Diệu Thanh cầm đầu; phe phản đối do Kim Phú Thức (Kim Pusik, 김부식, 金富軾) (tác giả của Tam quốc sử ký) cầm đầu, muốn giữ nguyên như hiện tại. Diệu Thanh đã thất bại trong việc thuyết phục nhà vua dời đô nên bỏ lên Tây Kinh và nổi loạn chống lại triều đình trung ương, thành lập nước Đại Phương (Daebang, 대방, 大方). Vương quốc này tồn tại không lâu và người lãnh đạo nó – Diệu Thanh – cũng bị giết sau đó.
Lịch sử thế giới Trung đại do NXB Giáo Dục ấn hành cho rằng một trong những nguyên nhân dẫn đến các rối ren trong nội bộ vương triều chính là sự xung khắc quyền lợi giữa các quan văn với quan võ. Trong cuộc chiến tranh chống quân Khiết Đan xâm lược, vai trò của quan võ được đề cao, họ được triều đình trọng vọng. Tuy nhiên, sau đó quan võ lại bị triều đình hạ thấp, quan văn được đề cao hơn, nhiều đất đai của các quan võ bị cắt bớt để cấp phát cho quan văn. Chính vì vậy những võ quan đã phản ứng quyết liệt và trong triều đình luôn xảy ra sự đối địch căng thẳng giữa các quan văn và quan võ.
Năm 1170, một nhóm võ quan được lãnh đạo bởi Trịnh Trọng Phu (Chŏng Chungbu, 정중부, 鄭仲夫), Lý Nghĩa Phương (I Ŭibang, 이의방, 李義方) và Lý Cao (I Ko, 이고, 李高) thực hiện một cuộc binh biến, phế vua Nghị Tông (Uijong, 의종, 毅宗) và đưa vua Minh Tông (Myeongjong, 명종, 明宗) lên ngôi. Quyền lực thật sự nằm trong tay các võ quan – những kẻ kế tiếp nhau thống lĩnh lực lượng cấm quân Đô Phòng (Tobang, 도방, 都房) nhằm khống chế nhà vua, bắt đầu thời kỳ các võ quan thao túng chính quyền. Năm 1179, viên tướng trẻ Khương Đại Thăng (Kyŏng Daesŭng, 경대승, 慶大升) nắm quyền và ông bắt đầu những nỗ lực khôi phục lại toàn quyền cho nhà vua cũng như thanh lọc nạn tham nhũng trong triều.
Tuy nhiên, không bao lâu sau ông qua đời vào năm 1183 và người thay ông là tướng Lý Nghĩa Mẫn (Yi Ui-min, 이의민, 李義旼). Vào năm 1197, một số võ quan có tư tưởng bảo thủ do tướng Thôi Trung Hiến (Ch’oe Ch’unghŏn,최충헌, 崔忠獻) cầm đầu đã ám sát Lý Nghĩa Mẫn cùng ba người con của ông, giành quyền lực về tay Thôi Trung Hiến. Liên tục trong suốt 61 năm, gia tộc họ Thôi hoàn toàn lũng đoạn chính trường Cao Ly, biến các vua Cao Ly trở thành những ông vua bù nhìn. “Triều đại” của họ Thôi bắt đầu từ Thôi Trung Hiến; sau đó là con trai của ông, Thôi Vũ (Ch’oe U, 최우, 崔瑀); cháu trai Thôi Hàng (Ch’oe Hang, 최항, 崔沆) và chắt Thôi Nghị (Ch’oe Ui, 최의, 崔竩). Để thâu tóm quyền lực, Thôi Trung Hiến phế bỏ vua Minh Tông và lập vua Thần Tông (Sinjong, 신종, 神宗). Tuy nhiên, sau khi vua Thần Tông qua đời, Thôi lại tiếp tục phế lập hai vị vua nữa (vua Hy Tông – Huijong, 희종, 熙宗 và vua Khang Tông – Gangjong, 강종, 康宗) cho đến khi ông lập được Cao Tông (Gojong, 고종, 高宗) là một ông vua dễ bảo.
Kháng chiến chống Mông Cổ
Năm 1231, Đại Hãn Oa Khoát Đài của Mông Cổ xua quân xâm lược Cao Ly, đây là một phần trong kế hoạch bình định khu vực Đông Bắc Trung Quốc. Triều đình Cao Ly buộc phải chạy ra đảo Giang Hoa nằm trong vịnh Kinh Kỳ (Kyŏnggi, 경기, 京畿) vào năm 1232. Thừa tướng Thôi Vũ, thống lĩnh quân đội Cao Ly, đã kiên cường tổ chức kháng chiến chống quân xâm lược. Triều đình Cao Ly đã kháng chiến trong gần 30 năm nhưng cuối cùng phải xin nghị hòa vào năm 1259.
Trong khi đó, từ năm 1231 đến 1259 người Mông Cổ nhiều lần mở chiến dịch tấn công và tàn phá nhiều khu vực thuộc các tỉnh Khánh Thượng (Gyeongsang, 경상, 慶尙) và Toàn La (Jeolla, 전라, 全羅). Có 6 đợt đợt tấn công chính diễn ra vào các năm 1231, 1232, 1235, 1238, 1247, 1253; từ năm 1253 đến 1258 quân Mông Cổ dưới sự chỉ huy của Jalairtai (Xa La Thái – 车罗大 hoặc Trác Khắc Nhi Đái – 札克儿带) đã mở bốn đợt tấn công liên tiếp có tính chất hủy diệt nhằm vào Cao Ly trong chiến dịch quân sự giành chiến thắng chung cuộc cho người Mông Cổ đối với Cao Ly. Chiến dịch này đã gây ra sự tàn phá, đau thương và chết chóc kinh hoàng cho thường dân trên khắp bán đảo Triều Tiên, để rồi cuối cùng triều đình Cao Ly phải chấp nhận đầu hàng vào năm 1259.
Nhân dân Cao Ly đã kháng cự rất dũng cảm và kiên cường, bản thân triều đình Cao Ly đóng ở Giang Hoa cũng nỗ lực củng cố thành lũy. Trên chiến trường, quân Cao Ly cũng đã giành được nhiều chiến thắng nhưng họ không đủ sức chống đỡ nhiều cuộc xâm lăng ồ ạt của kẻ thù quá mạnh. Năm 1236, vua Cao Tông ban lệnh biên soạn lại bộ Bát vạn đại tạng kinh – vốn đã bị phá hủy khi quân Mông Cổ xâm lược vào năm 1232. Bộ kinh Phật này phải mất 15 năm mới hoàn thành bản khắc trên 81 nghìn tấm gỗ và vẫn còn được bảo tồn đến ngày nay. Tháng 3 năm 1258, Tể Tướng Thôi Nghị bị Kim Tuấn (Kim Jun, 김준, 金俊) ám sát. Chế độ độc tài quân sự của dòng họ Thôi chấm dứt và nhóm quan văn chủ hòa với Mông Cổ nắm lấy quyền lực. Kết quả, nhóm quan văn cử sứ giả đến cầu hòa với quân Mông Cổ và một hòa ước được ký kết giữa đế quốc Mông Cổ và Cao Ly thừa nhận sự thống trị của người Mông Cổ đối với Cao Ly. Tuy nhiên, một số quan võ không chịu đầu hàng, họ khởi binh chống lại triều đình và lập căn cứ kháng chiến trên các hòn đảo ven biển phía Nam của bán đảo Triều Tiên, sự kiện này được gọi là Cuộc khởi nghĩa Tam Biệt Sao (1270-1273) (Sambyeolcho, 삼별초, 三別抄).[1]
Hòa ước với Mông Cổ vẫn cho phép Cao Ly giữ chủ quyền và văn hóa truyền thống của mình – ngụ ý Cao Ly không phải chịu một sự đô hộ trực tiếp của người Mông Cổ.[2] Tuy nhiên, sau cuộc xâm lăng, Mông Cổ đã sáp nhập các tỉnh phía Bắc Cao Ly vào lãnh thổ đế quốc và lập thành hai huyện. Ký xong hòa ước với Cao Ly, người Mông Cổ – sau này là nhà Nguyên ở Trung Quốc – dự định liên minh quân sự với Cao Ly để chinh phục Nhật Bản, dùng Cao Ly làm bàn đạp và làm nguồn hỗ trợ tài lực cho cuộc chiến. Năm 1274 và 1281, quân Nguyên vượt biển xâm lăng Nhật Bản nhưng tất cả đều thất bại do những trận bão biển thần phong Kamikaze-神風 dữ dội cũng như sức kháng cự mãnh liệt của quân Nhật, đã gây nhiều thiệt hại nặng nề cho quân Nguyên.
Bắt đầu từ triều vua Nguyên Tông (1260-1274) (Wonjong, 원종, 元宗), Cao Ly trở thành một thuộc quốc của nhà Nguyên. Dưới triều Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt (1260-1294), Cao Ly đã sai sứ cống nạp cho nhà Nguyên tổng cộng 36 lần.[3] Nhà Cao Ly phải chịu sự khống chế của nhà Nguyên trong gần một thế kỷ, mãi đến khi Cung Mẫn Vương (Gongmin wang, 공민왕, 恭愍王) lên nắm quyền vào năm 1350 và bắt đầu bài trừ những ảnh hưởng của nhà Nguyên. Kể từ thập niên 1350, Cao Ly đã giành lại được độc lập cho mình.
Nỗ lực cải cách cuối cùng
Lúc Cung Mẫn Vương lên ngôi, Cao Ly vẫn còn chịu ách thống trị của Nhà Nguyên. Chính vì vậy cũng giống như các vua khác của Cao Ly trong thời kỳ này, trước khi lên ngôi Cung Mẫn Vương phải sống ở Trung Quốc từ năm 1341 đến 1351 như một con tin và sau khi lên ngôi ông không được phép đặt miếu hiệu. Ông cũng buộc phải kết hôn với một công chúa Mông Cổ, tức Vương hậu Lỗ Quốc sau này (Noguk Taechang Kongchu, 노국대장공주, 魯國大長公主, Lỗ Quốc Đại Trường Công chúa). Tuy nhiên vào khoảng giữa thế kỷ 14, nhà Nguyên bắt đầu đi vào con đường suy vong và bị nhà Minh đánh đuổi khỏi Trung Nguyên vào năm 1368. Cung Mẫn Vương đã nhân cơ hội để cải tổ lại triều đình và thanh trừ mọi ảnh hưởng của nhà Nguyên lên Cao Ly.
Hành động đầu tiên ông là cho bãi chức tất cả những quần thần văn võ trong triều có tư tưởng thân nhà Nguyên. Sau đó Cung Mẫn Vương hướng đến các vùng lãnh thổ của Cao Ly ở phía Bắc, nơi mà quân Nguyên đã chiếm đóng và biến thành hai phủ của đế quốc Nguyên: Song Thành (Ssangsŏng Ch’ongkwanpu, 쌍성총관부, 雙城摠管府, Song Thành Tổng quản phủ) và Đông Ninh (Tongnyŏngpu, 동녕부, 東寧府, Đông Ninh phủ) – tương ứng với vị trí của hai tỉnh Bắc Hamgyong và Bắc Pyongan ngày nay. Quân Cao Ly nhanh chóng tái chiếm hai phủ này nhờ vào sự quy hàng của Lý Tử Xuân (I Cha-ch’un,, 이자춘, 李子春) – một viên tiểu tướng người Cao Ly phục vụ trong hàng ngũ quân Nguyên tại Song Thành – và con trai ông ta Lý Thành Quế (I Sŏnggye, 이성계, 李成桂). Tiếp theo đó, tướng Lý Tử Xuân cùng với tướng Trì Long Thụ (Ji Yongsu, 지용수, 篪龍樹) chỉ huy một đợt tấn công vào Liêu Dương. Năm 1365, Vương hậu Lỗ Quốc qua đời trong khi sinh nở khiến Cung Mẫn Vương suy sụp, ông không màng gì đến chính sự và giao phó hoàn toàn việc nước cho nhà sư Tân Đôn (Sin Ton, 신돈, 辛旽). Tuy nhiên chỉ sau sáu năm, Tân Đôn bị mất chức. Cuối cùng vào năm 1374, Cung Mẫn Vương bị một người tình nam của mình giết chết. Cái chết của Cung Mẫn Vương đã làm tiêu tan mọi mơ ước của ông và đẩy Cao Ly vào con đường sụp đổ.
Diệt vong
Đến cuối thế kỷ 14, sau khi nhà Nguyên bị nhà Minh đánh đuổi khỏi Trung Quốc, triều đình Cao Ly, dưới triều U Vương (U-wang, 우왕, 禑王) (con trai của Cung Mẫn Vương với một nữ nô), chia làm hai phe với hai đường lối đối ngoại trái ngược nhau: phe theo nhà Minh do tướng Lý Thành Quế đứng đầu và phe theo nhà Nguyên do Tể tướng Thôi Vinh (Ch’oe Yŏng, 최영, 崔榮) đứng đầu. Khi một sứ thần của nhà Minh đến Cao Ly năm 1388 (năm U Vương thứ 14) để đòi lại một phần quan trọng của lãnh thổ phía bắc Cao Ly, Thôi Vinh liền chớp lấy cơ hội này hạ lệnh tấn công cướp lấy bán đảo Liêu Đông (lâu nay Cao Ly luôn tự nhận mình có quyền thừa kế trực tiếp của vương quốc Cao Câu Ly xưa; vì vậy họ xem phần đất của Cao Câu Ly cũ tại Mãn Châu cũng là đất của Cao Ly).
Lý Thành Quế được chọn là người chỉ huy chiến dịch này; nhưng sau đó Lý nổi loạn, không phục tùng mệnh lệnh. Ông dẫn quân về kinh đô Khai Thành và thực hiện một cuộc đảo chính, lật đổ U Vương và người kế vị của ông ta là Dương Vương (Ch’ang wang, 창왕, 昌王) (1388) và dùng vũ lực đưa một nhân vật thuộc hoàng tộc tên là Vương Dao (Wang Yo, 왕요, 王搖) lên ngôi lấy hiệu là Cung Nhượng Vương (Kongyang wang, 공양왕, 恭讓王). Sau đó cả U Vương và Dương Vương đều bị giết chết sau một nỗ lực không thành nhằm giành lại quyền lực đã mất. Cuối cùng, năm 1392, Lý Thành Quế lật đổ Cung Nhượng Vương, đày ông ta đến Nguyên Châu (Wŏnju,원주, 原州) và tiếm lấy ngôi vua, thành lập nhà Triều Tiên. Nhà Cao Ly chính thức cáo chung sau gần 5 thế kỷ cầm quyền.
Giao thương thời Cao Ly
Tình hình giao thương nhìn chung phát đạt và rộn rịp dưới thời vương triều Cao Ly. Cảng thông thương chính của Cao Ly vào thời kỳ đầu là Bích Lan Độ (Byeokrando, 벽란도, 碧瀾渡) một cảng sông nằm trên một hòn đảo của sông Lễ Thành (Ryesŏng, 례성, 禮成), gần kinh đô Khai Thành của Cao Ly:
TT | Giao thương với | Nhập khẩu | Xuất khẩu | |
1 | Nhà Tống | Lụa, ngọc trai, chè, gia vị, dược phẩm, sách, nhạc cụ | Vàng bạc, nhân sâm, đá hoa, giấy, mực | |
2 | Nhà Liêu | Ngựa, cừu, lụa chất lượng thấp | Khoáng sản, vải sợi bông, đá hoa, mực, giấy, nhân sâm | |
3 | Nhà Kim | Vàng, ngựa, vũ khí | Bạc, lụa, vải sợi bông | |
4 | Nhật Bản | Thủy ngân, khoáng sản | Nhân sâm, sách | |
5 | Nhà Abbas | Thủy ngân, gia vị, ngà voi | Vàng bạc |
Văn hóa
Bát vạn Đại tạng kinh
Bát vạn đại tạng kinh (tripitaka Koreana, 팔만대장경, 八萬大藏經) hay Cao Ly đại tạng kinh (Goryeo tripitaka, 고려 대장경, 高麗大藏經) là bộ kinh Tam tạng với khoảng 80.000 bài kinh Phật. Bộ kinh này được bảo tồn tại chùa Hải Ấn (Haeinsa, 해인사, 海印寺), tỉnh Khánh Thượng Nam (Kyŏngsangnam-do, 경상남도, 慶尙南道) – Hàn Quốc. Được biên soạn năm 1251 bởi vua Cao Tông trong một nỗ lực dùng đạo Phật để đấu tranh thoát khỏi sự xâm lăng của người Mông Cổ. Bộ kinh được giữ sạch sẽ bằng cách phơi khô ngoài trời hằng năm.
Nghệ thuật
Men ngọc bích Cao Ly
Đồ gốm Cao Ly được một số người cho rằng là loại gốm cầu kỳ và tỉ mỉ nhất trong lịch sử Triều Tiên. Hoa văn hình chữ triện, các kiểu trang trí hình lá cây, những dãi bông hoa cuộn tròn, những bảng dài hình ô van, côn trùng và cá được cách điệu và các mẫu khắc chạm bắt đầu xuất hiện tại thời kỳ này. Men thường có màu ngọc bích với nhiều tông khác nhau, với men có màu nâu đến màu gần như đen được sử dụng cho đồ gồm bằng đất sét có pha đá và vật dụng để chứa. Nước men ngọc bích có thể được tráng một lớp gần như trong suốt để lộ ra nền đen và trắng ở bên dưới.
Trong khi các dạng thường thấy là bình vai rộng, chén và tô cạn, hộp đựng đồ trang điểm cao cấp trang trí bằng men ngọc bích và tách trà tráng men nhỏ, đồ gốm dành cho đạo Phật có các loại bình hình quả dưa, chén trà hình hoa cúc với mẫu cấu trúc đẹp mắt đứng trên đài sen và hoa sen. Bát ăn xin có đường viền cong bên trong cũng cho thấy sự tương đồng với đồ dùng kim loại Triều Tiên. Tách uống rượu thường có chân cao gắn trên đế hình đĩa.
Kỹ thuật làm gốm
Gốm có lõi rắn chắc bằng thạch gốm là một trong những thành phần then chốt; tuy vậy không nên nhầm lẫn với đồ sứ. Phần lõi ít sét, giàu thạch anh và kali, gần như đồng nhất với thành phần của gốm việt (Yueh – 越) Trung Quốc, do đó, nhiều học giả cho rằng đây là xuất xứ của loại men ngọc bích Triều Tiên. Men là loại men tro với thuốc màu sắt, được đốt yếm khí trong một lò nung ‘rồng’ kiểu Trung Quốc cải tiến. Màu lam đặc thù của men Triều Tiên được hình thành từ thành phần sắt trong nước men với một lượng rất nhỏ tạp chất Titan, đã điều chỉnh màu sắc ngả sang xanh lá cây, như có thể thấy trong đồ gốm việt của Trung Quốc. Tuy nhiên, những người thợ gốm Cao Ly đã đưa đồ gốm Cao Ly đi theo một hướng khác so với các bậc tiền bối Trung Quốc; thay vì chỉ dựa vào duy nhất các mẫu được khắc vào lớp men trong, cuối cùng họ phát triển kỹ thuật thượng cam (sanggam, 上甘) dát màu đen (ma-nhê-tít) và trắng (thạch anh) để tạo nên sự tương phản đậm nét với nước men. Nhiều học giả cho rằng kỹ thuật này được phát triển như là một bộ phận của kỹ thuật khắc dát truyền thống trong gia công kim loại và tranh sơn mài của Triều Tiên, và cũng từ sự không thỏa mãn với hiệu ứng cận quan khi khắc dát dưới một lớp men ngọc bích dày.[4]
Khoa học kỹ thuật
Vào năm 1234 máy in bằng cơ cấu kim loại chuyển động đầu tiên trên thế giới được phát minh bởi Thôi Duẫn Nghi (Ch’oe Yun-ŭi, 최윤의, 崔允儀) vào thời Cao Ly. Quyển sách “Tường định cổ kim lễ văn” (Sangjeong Gogeum Yemun, 상정고금예문, 詳定古今禮文) – sách hướng dẫn về lễ nghi xưa và nay – được in bằng khuôn kim loại di động vào năm 1234. Nền kỹ thuật Triều Tiên tiến một bước dài ở triều đại Cao Ly và có quan hệ mật thiết với nhà Tống. Ở triều đại này, kỹ thuật làm giấy và gốm sứ, nay đã mai một, bắt đầu được áp dụng để sản xuất quy mô.
Vào thời thoái triều, Cao Ly đã gần hoàn chỉnh loại súng thần công lắp trên thuyền. Vào năm 1356 những thí nghiệm sơ bộ đã được tiến hành với vũ khí dùng thuốc súng bắn ra đạn gỗ hay kim loại. Vào năm 1373 thí nghiệm với tên lửa và ống phóng lửa có thể là dạng sơ khai của hỏa xa đã được phát triển và lắp đặt trên các thuyền chiến của Triều Tiên. Chủ trương lắp đặt súng thần công và những vũ khí dùng thuốc súng khác đã tiếp nối tốt vào thời nhà Triều Tiên và vào khoảng năm 1410, hơn 160 thuyền chiến của Triều Tiên đã được lắp súng thần công. Thôi Mậu Tuyên (Ch’oe Musŏn, 최무선, 崔茂宣), một nhà phát minh Triều Tiên thời trung cổ, nhà khoa học và tướng lĩnh quân đội lần đầu tiên đã giới thiệu nhiều ứng dụng rộng rãi của thuốc súng cho Triều Tiên và chế tạo nhiều loại vũ khí dùng thuốc súng.
Nho giáo
Vua Quang Tông (Kwangjong, 광종, 光宗), người đã cho thành lập khoa cử (gwageo hay kwago, 과거, 科擧) – một trung tâm khảo thí quốc gia – và vua Thành Tông (Seongjong, 성종, 成宗) là những vị vua chủ chốt đã chính thức hóa Nho giáo. Vua Thành Tông cho thành lập Quốc tử giám (Gukjagam, 국자감, 國子監), là một cơ quan giáo dục cao nhất của nhà Cao Ly. Việc truyền bá Nho giáo được tạo điều kiện dễ dàng hơn sau khi Thành quân quán (Seonggyungwan, 성균관, 成均館) hay Thái học (Taehak, 태학, 太學) được thành lập vào năm 1398 – đây là một học viện với chương trình giảng dạy về Nho giáo – và một thái miếu trong lâu đài, nơi nhà vua thờ phụng tổ tiên.
Phật giáo
Thoạt đầu, phái Thiền tông (Seon, 선, 善) mới bị các phái kinh điển hiện hữu xem là tông phái cấp tiến và nguy hiểm mới nổi lên. Do đó, những người khai sáng các tu viện “cửu sơn – 九山” gặp phải sự chống đối quyết liệt, bị trấn áp bởi uy thế từ lâu trong triều đình của phái Giáo (Gyo, 교, 教). Sự tranh chấp xảy ra sau đó tiếp diễn gần suốt thời nhà Cao Ly, nhưng dần dần lý luận của Thiền tông về sự sở hữu của chân truyền giác ngộ đã giành được quyền hành cao hơn. Địa vị có được vào giai đoạn sau của Thiền tông nói chung là nhờ vai trò to lớn từ những nỗ lực của nhà sư Tri Nột (Jinul, 지눌, 知訥), đã không xem các phương pháp thiền định của Thiền tông có vị trí cao hơn mà còn tuyên bố tư tưởng Thiền tông và Giáo có sự tương đồng và sự thống nhất về mặt bản chất. Mặc dù cả hai trường phái đều để lại dấu ấn trong lịch sử, nhưng đến cuối triều đại, phái Thiền tông trở nên lấn át trong những ảnh hưởng của nó đến triều đình và xã hội cũng như trong những tác phẩm Phật học của nhiều học giả uyên thâm. Trong suốt triều đại Cao Ly, Thiền tông trở thành “quốc giáo”, nhận được sự ủng hộ và nhiều đặc quyền rộng rãi thông qua mối quan hệ với gia quyến vương tộc và các thành viên quyền lực trong triều đình.
Mặc dù các tông phái kinh điển đã suy yếu trong hoạt động và tầm ảnh hưởng của mình vào thời điểm này do sự lớn mạnh của phái Thiền tông, tông phái Hoa Nghiêm (Hwaeom, 화엄, 華嚴) vẫn tiếp tục là nguồn kiến thức sinh động của vương quốc Cao Ly, tông phái này đa phần kế tục từ các tông phái Nghĩa Sương (Uisang, 의상, 義湘) và Nguyên Hiểu (Wonhyo, 원효, 元曉). Đặc biệt, tác phẩm của Quân Như (Gyunyeo, 균여, 均如; 923-973) đã mở đường cho sự hòa giải giữa hai phái Hoa Nghiêm và Thiền tông với quan điểm hòa nhã của phái Hoa Nghiêm về sau này. Những tác phẩm của Quân Như là một nguồn tài liệu quan trọng cho nền học thuật hiện đại nhận diện bản chất đặc thù của phái Hoa Nghiêm Triều Tiên.
Một nhân vật quan trọng khác ủng hộ sự thống nhất Thiền/Giáo tông là Nghĩa Thiên (Uicheon, 의천, 義天). Như hầu hết các nhà sư khác thời sơ Cao Ly, ông bắt đầu nghiên cứu Phật học theo tông phái Hoa Nghiêm. Sau đó, ông sang Trung Hoa, và ngay khi trở về, ông đã nhanh chóng truyền giảng Thiên đài tông (Cheontae, 천태종, 天台宗), vốn trở nên dễ nhận ra là một phái Thiền tông khác. Do đó, giai đoạn này được mô tả là thời “ngũ giáo, lưỡng tông” (ogyo yangjong, 5교2육, 五教兩宗). Tuy nhiên, bản thân Nghĩa Thiên bị rất nhiều môn đồ Thiền tông xa lánh và ông đã qua đời khi còn tương đối trẻ mà không chứng kiến được sự hợp nhất Thiền – Giáo.
Nhân vật quan trọng nhất của phái Thiền tông dưới thời Cao Ly là Tri Nột (1158-1210). Vào thời đại của ông, giới tăng già đang khủng hoảng về giáo lý bên trong và ngoài đạo. Phật giáo dần chịu ảnh hưởng của những khuynh hướng thế tục và sự liên quan đến thế tục, như bói toán, cầu kinh và hành lễ cầu thành đạt trong những cố gắng thế tục. Sự xuống dốc này có nguyên nhân từ sự gia tăng ngày càng nhanh của số lượng các tăng ni với động cơ theo đạo đáng nghi ngờ. Do đó, chủ đề trừng giới, phục hồi niềm tin và cải tổ chất lượng Phật giáo là những chủ đề tranh cãi đáng chú ý của giới lãnh đạo Phật giáo thời bấy giờ.
Tri Nột đeo đuổi việc hình thành một trào lưu mới bên trong Thiền tông Triều Tiên mà ông gọi là hội tam muội địa (samādhi – 三昧地) và bát nhã (prajñā – 般若) với mục tiêu tạo dựng một giáo phái mới với các bậc tu hành khổ luyện, tĩnh tâm ở sâu trong núi. Cuối cùng, ông cũng hoàn thành tâm nguyện với sự sáng lập chùa Tùng Quảng (Seonggwangsa, 송광사, 松廣寺) trên đỉnh núi Tào Khê (Jogye, 조계, 曹溪). Các công trình của Tri Nột đã khẳng định đặc điểm riêng biệt của tông phái mình thông qua sự phân tích và công thức hóa một cách hoàn hảo phương pháp luận nghiên cứu và thực hành Thiền. Một cuộc tranh cãi lớn đã gây xáo động một thời gian dài trong phái Thiền tông Trung Hoa nhận được sự quan tâm sâu sắc từ Tri Nột, là mối quan hệ giữa phương pháp “tiệm” (từ từ) và “đốn” (ngay lập tức) trong hành và ngộ. Rút tỉa từ sự luận bàn của người Trung Hoa về chủ đề này, quan trọng nhất là của Tông Mật (Zongmi, 宗密; 780-841) và Đại Tuệ (Dahui, 大慧; 1089-1163), Tri Nột đã sáng tạo ra phương pháp tự chứng “đột ngộ từ tiệm hành” (giác ngộ nhanh từ thực hành chậm), ông đã phác thảo một số bài giảng tương đối súc tích và dễ hiểu về phương pháp này. Tri Nột cũng đã hợp nhất phương pháp quán thoại (gwanhwa, 관훈, 觀話) vào hành pháp của Đại Tuệ. Dạng tham thiền này là phương pháp chính được dạy trong Thiền tông Triều Tiên ngày nay. Quan điểm trung dung của Tri Nột trong mâu thuẫn giữa Thiền – Giáo đã có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài đến Phật giáo Triều Tiên.
Trào lưu chung của Phật giáo vào nửa sau của triều đại Cao Ly đã đi xuống vì tham nhũng và sự gia tăng của tư tưởng chính trị và triết học bài Phật giáo mạnh mẽ. Tuy nhiên, dù đã sa sút nhưng thời kỳ này cũng xuất hiện một vài trong số những cao tăng kiệt xuất nhất của Thiền tông Triều Tiên. Ba vị sư nổi tiếng nhất của thời kỳ này, những người đã ghi lại tên tuổi của mình một cách xuất sắc trong việc vẽ nên đường tương lai của Thiền tông Triều Tiên, vừa là đồng đạo vừa là thân hữu: Cảnh Nhàn Bạch Vân (Gyeonghan Baeg’un, 경한백운, 景閑白雲; 1298-1374), Thái Cổ Phổ Ngu (Taego Bou, 태고보우, 太古普愚; 1301-1382) và Lãn Ông Tuệ Cần (Naong Hyegeun, 나옹혜근, 懶翁慧勤; 1320-1376). Cả ba ông đều đến nhà Nguyên Trung Quốc để học phép giảng Lâm tế (臨濟; Imje trong tiếng Triều Tiên) quán thoại vốn đã được Tri Nột truyền bá. Sau khi trở về, cả ba người đã xây dựng những phương pháp sâu sắc có đối chiếu của phái Lâm tế cho phép giảng của họ. Mỗi người được cho là thu nạp hằng trăm môn đồ, cho thấy phương pháp này đưa vào Thiền tông Triều Tiên đã mang lại một hiệu quả rất đáng kể. Bất chấp sự ảnh hưởng của Lâm tế, một phương pháp cơ bản bị cho là chống giáo về bản chất, Cảnh Nhàn và Lãn Ông, dưới ảnh hưởng của Tri Nột và trào lưu thông Phật giáo (tong bulgyo, 통불교, 通佛敎) truyền thống, cho thấy một sự quan tâm hơn bình thường vào nghiên cứu kinh kệ, cũng như sự hiểu biết sâu sắc về Nho giáo và Lão giáo do sự ảnh hưởng ngày càng tăng của triết học Trung Hoa như là nền tảng của hệ thống giáo dục chính quy. Từ giai đoạn này, xuất hiện một xu hướng đáng ghi nhớ dành cho giới tăng ni Phật giáo Triều Tiên đó là “tam pháp luận”.
Một sự kiện lịch sử trọng đại ở thời Cao Ly là sự xuất bản bản khắc gỗ đầu tiên của bộ kinh Tam tạng được gọi là Bát vạn đại tạng kinh. Hai bản đã được khắc, bản đầu tiên bắt đầu từ năm 1210 đến năm 1231 thì hoàn thành và bản thứ hai từ năm 1214 đến năm 1259 thì hoàn thành. Bản đầu tiên bị hủy hoại do hỏa hoạn trong một cuộc tấn công của quân Mông Cổ vào năm 1232, còn bản thứ hai vẫn còn tồn tại đến ngày nay và được lưu giữ tại chùa Hải ấn, tỉnh Khánh Thượng Nam (Gyeongsangnam). Bản kinh Tam tạng này có chất lượng cao và được xem như là phiên bản chuẩn của kinh Tam tạng tại Đông Á trong gần 700 năm.
Chú thích
|
- ^ 국방부 군사편찬연구소, 고려시대 군사 전략 (2006) (The Ministry of National Defense, Military Strategies in Goryeo)
- ^ 국사편찬위원회, 고등학교국사교과서 p63(National Institute of Korean History, History for High School Students, p64)[1]
- ^ Rossabi, M. Khubilai Khan: His Life and Times, p98
- ^ Wood, Nigel. “Technological Parallels between Chinese Yue wares and Korean celadons.” in Papers of the British Association for Korean Studies (BAKS Papers), vol 5. Gina Barnes and Beth McKillop, eds. London: British Association for Korean Studies, 1994; pp. 39-64.
Tham khảo
Xem thêm
Tunisia
Cộng hòa Tunisia | |||||
---|---|---|---|---|---|
الجمهورية التونسية Al-Jumhūriyyah at-Tūnisiyyah |
|||||
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
حرية، نظام، عدالة (Hurriya, Nidham, ‘Adala) “Tự do, Trật tự, Công bằng” |
|||||
Quốc ca | |||||
Himat Al Hima | |||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Cộng hòa tổng thống | ||||
Tổng thống | Beji Caid Essebsi | ||||
Thủ tướng | Habib Essid | ||||
Ngôn ngữ chính thức | tiếng Ả Rập | ||||
Thủ đô | Tunis |
||||
Thành phố lớn nhất | thủ đô | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 163610 km² 63170 mi² (hạng 92) |
||||
Diện tích nước | 5.0 % | ||||
Múi giờ | CET (UTC+1); mùa hè: CEST (UTC+2) | ||||
Lịch sử | |||||
20 tháng 3 năm 1956 | từ Pháp | ||||
Dân cư | |||||
Tên dân tộc | Tunisian | ||||
Dân số ước lượng (tháng 7 năm 2005) | 10.102.000 người (hạng thứ 78) | ||||
Dân số (1994) | 8.785.711 người | ||||
Mật độ | (hạng thứ 133 (2005))161 người/mi² | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2007) | Tổng số: 97,74 tỷ USD (hạng thứ 60) Bình quân đầu người: 9.630 (hạng thứ 73) |
||||
HDI (2007) | ![]() |
||||
Hệ số Gini (2000) | 39.8 (medium) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Dinar Tunisia (TND ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Mã ISO 3166-1 | +216 | ||||
Tên miền Internet | .tn | ||||
Mã điện thoại | 216 |
Tunisia (tiếng Ả Rập: تونس Tūnis), tên chính thức Cộng hòa Tunisia (الجمهورية التونسية al-Jumhūriyya at-Tūnisiyya) – thường được phiên âm là Tuy-ni-di, là một quốc gia ở Bắc Phi. Nước này giáp với Algérie ở phía tây, Libya ở phía đông nam, và Biển Địa Trung Hải ở phía bắc và phía đông. Tunisia có diện tích 165,000 km² với dân số ước tính chỉ hơn 10.3 triệu người. Tên nước xuất phát từ tên thủ đô Tunis nằm ở phía đông bắc.
Tunisia là nước nằm ở cực bắc lục địa châu Phi, và là quốc gia nhỏ nhất trong số các quốc gia nằm dọc theo dãy núi Atlas. Miền nam nước này gồm một phần của sa mạc Sahara, và hầu hết phần còn lại gồm đất đai đặc biệt màu mỡ và 1,300 km bờ biển. Từng hai lần đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong thời cổ đại, đầu tiên với thành phố Phoenicia nổi tiếng của Carthage, sau đó như Tỉnh châu Phi được gọi là “giỏ bánh mì” của Đế chế La Mã. Sau này, Tunisia bị những kẻ cướp bóc xâm chiếm ở thế kỷ thứ 5, người Byzantine ở thế kỷ thứ 6 và người Ả Rập ở thế kỷ thứ 7.
Dưới thời Đế chế Ottoman, Tunisia được gọi là “Nhiếp chính Tunis”. Nó được chuyển sang thuộc quyền bảo hộ của Pháp năm 1881. Sau khi giành được độc lập năm 1956, nước này lấy tên chính thức là “Vương quốc Tunisia” ở cuối thời kỳ cầm quyền của Lamine Bey và Triều đại Husainid. Với tuyên bố đưa nhà nước trở thành cộng hoà Tunisia ngày 25 tháng 7 năm 1957, nhà lãnh đạo quốc gia Habib Bourguiba trở thành tổng thống đầu tiên và lãnh đạo cuộc hiện đại hoá đất nước. Ngày nay Tunisia là một quốc gia hướng theo xuất khẩu, trong quá trình tự do hoá nền kinh tế của mình [1].
Tunisia có những quan hệ thân cận với cả Liên minh châu Âu — và đã có một thoả thuận kết hợp với tổ chức này — và thế giới Ả Rập. Tunisia cũng là một thành viên của Liên đoàn Ả Rập và Liên minh châu Phi.
Mục lục
Từ nguyên
Từ Tunisia xuất xứ từ Tunis; một thành phố thủ đô của Tunisia hiện đại. Hình thức tên hiện nay, với hậu tố Latinh -ia, xuất phát từ chữ Tunisie của tiếng Pháp.[2] Cái tên này đã được các nhà địa lý, sử học Pháp sử dụng như một phần nỗ lực của họ nhằm tạo ra những cái tên mới cho những lãnh thổ và khu vực bảo hộ mà họ mới chiếm được. Từ Pháp Tunisie đã được chấp nhận trong một số ngôn ngữ châu Âu với một ít sửa đổi để tạo ra một cái tên riêng biệt để chỉ nước này. Các ngôn ngữ khác không liên quan tới việc này như trong tiếng Tây Ban Nha Túnez. Trong trường hợp này, cái tên được dùng cho cả quốc gia và thành phố như trong tiếng Ả Rập: تونس và chỉ theo ngữ cảnh, thì mọi người mới phân biệt được sự khác biệt.[2]
Cái tên Tunis có thể được gán cho nhiều nguồn gốc khác nhau. Nó có thể liên quan tới vị nữ thần Phoenician Tanith (aka Tunit), thành phố cổ Tynes hay với nguồn gốc Berber ens có nghĩa “nằm xuống”.
-
Xem thêm tại [[Từ nguyên của Tunis]]
Lịch sử
Vào thời điểm bắt đầu có việc chép sử, Tunisia là nơi sinh sống của các bộ lạc Berber. Ven biển đã có người Phoenicia định cư từ thế kỷ 10 trước Công nguyên. Thành phố Carthage đã được thành lập vào thế kỷ 9 trước Công nguyên bởi những người định cư từ Týros (ngày nay thuộc Liban). Truyền thuyết cho rằng Nữ hoàng Elissa đã thành lập thành phố vào năm 814 trước Công nguyên và được nhắc lại bởi nhà văn Hy Lạp Timaeus của Tauromenium. Những người định cư Carthage mang văn hóa và tôn giáo của họ từ những người Phoenicia và Canaan.
Sau một loạt các cuộc chiến với các thành bang Hy Lạp Sicilia vào thế kỷ 5 trước Công nguyên, quyền lực của Carthage đã mạnh lên và cuối cùng đã trở thành nền văn minh chủ đạo ở phía tây Địa Trung Hải. Người Carthage thờ cúng các vị thần Trung Đông, bao gồm Baal và Tanit. Biểu tượng của thần Tanit, một hình tượng phụ nữ đơn giản với cánh tay dang ra và mặc váy dài là một hình tượng phổ biến được tìm thấy ở các địa điểm cổ. Những người sáng lập của Carthage cũng lập nên một Tophet và được thay đổi vào thời kỳ La Mã.
Dù người La Mã đề cập đến đế quốc mới phát triển ở thành phố Carthage là Punic hay Phoenician, nhưng đế quốc được xây xung quanh Carthage là một chính thể độc lập khỏi các khu định cư Phoenicia ở phía tây Địa Trung Hải.
Một cuộc xâm lược Italia của Carthage do Hannibal chỉ huy trong cuộc chiến tranh Punic thứ hai, một trong một loạt các cuộc chiến với La Mã, gần như làm tê liệt Đế chế La Mã. Carthage cuối cùng đã bị La Mã chinh phục vào thế kỷ 2 trước Công nguyên, một bước ngoặt dẫn đến việc nền văn minh Địa Trung Hải cổ chủ yếu chịu ảnh hưởng của các nền văn hóa châu Âu thay vì châu Phi. Sau khi La Mã chinh phục, khu vực này đã trở thành một trong những vựa lúa của La Mã và đã bị Latinh hóa và Thiên Chúa giáo hóa hoàn toàn. Lãnh thổ này bị Vandals chinh phục vào thế kỷ 5 sau Công nguyên và lại bị chinh phục bởi Belisarius một lần nữa vào thế kỷ 6 trong thời kỳ trị vì của hoàng đế Byzantine Justinian.
Vào thế kỷ 7, vùng này bị những người Hồi giáo Ả Rập, những người đã lập thành phố Kairouan chinh phục. Các triều đại Hồi đã bị gián đoạn bởi các cuộc nổi loạn của người Berber. Những thời kỳ cai trị của người Aghlabid (thế kỷ thứ 9) và của người Zirid (từ năm 972), những người Fatimid theo Berber, đặc biệt thịnh vượng. Khi những người Zirid làm người Fatimid tức giận ở Cairo (1050), người Fatimid đã gửi bộ tộc Banu Hilal tới trả thù Tunisia.
Những vùng ven biển đã có thời gian ngắn bị người Norman của Sicilia kiểm soát vào thế kỷ 12 và việc tái chinh phục của người Ả Rập đã làm cho những tín đồ Thiên Chúa giáo cuối cùng ở biến mất. Năm 1159, Tunisia bị vua Hồi giáo Almohad chinh phục. Sau đó là Hafsids (khoảng 1230 – 1574) của Berber, dưới thời này Tunisia đã thịnh vượng. Cuối thế kỷ 16, vùng ven biển thành một căn cứ địa của cướp biển. Trong những năm cuối cùng của Hafsids, Tây Ban Nha đã chiếm đóng nhiều thành phố ven biển nhưng lại bị đế chế Ottoman chiếm lại. Dưới thời các toàn quyền người Thổ Nhĩ Kỳ, Beys, Tunisia đã lấy lại độc lập thực sự. Triều đại Hussein của Beys, được thành lập năm 1705, tồn tại đến năm 1957.
Thuộc địa Pháp
Giữa thập kỷ 1800, chính quyền Tunisia dưới sự cai trị của Bey đã thỏa hiệp thông qua các quyết định tài chính gây tranh cãi đã dẫn tới sự suy thoái của Tunisia. Pháp bắt đầu toan tính kiểm soát Tunisia khi Bey lần đầu vay mối khoản tiền lớn để phương Tây hóa đất nước. Những người định cư châu Âu ở nước này được đặc biệt khuyến khích; số lượng người Pháp tăng từ 34,000 năm 1906 lên 144,000 năm 1945. Năm 1910 có 105,000 người Italia ở Tunisia.[3]
Thế chiến II
Năm 1942– 1943, Tunisia là nơi diễn ra những chiến dịch lớn của các lực lượng Đồng Minh (Đế chế Anh và Hoa Kỳ) chống lại các cường quốc Phe Trục (Italia và Đức) trong Thế chiến thứ hai. Lực lượng chính của quân đội Anh, tiến lên sau chiến thắng của họ trong Trận El Alamein thứ hai dưới sự chỉ huy của Tướng Montgomery, tiến vào Tunisia từ hướng nam. Hoa Kỳ và các đồng minh khác, sau những cuộc xâm lược của họ ở Algeria và Maroc trong Chiến dịch Ngọn đuốc, tiến vào từ phía tây.
Tướng Rommel, chỉ huy các lực lượng Phe Trục ở Bắc Phi, đã hy vọng giáng cho đồng minh một thất bại ở Tunisia như các lực lượng Đức từng thực hiện ở Trận nước Pháp năm 1940. Trước trận El Alamein, các lực lượng đồng minh đã buộc phải rút về hướng Ai Cập. Vì thế trận Tunisia là thử thách lớn cho quân đồng minh. Họ biết rằng để đánh bại các lực lượng phe Trục họ phải phối hợp hành động và nhanh chóng hồi phục từ những thất bại không thể tránh được mà các lực lượng Đức-Italia sẽ gây ra.
Ngày 19 tháng 2 năm 1943, Tướng Rommel tung ra một cuộc tấn công vào các lực lượng Mỹ ở vùng Đèo Kasserine ở phía tây Tunisia, hy vọng giáng cho một đòn làm mất tinh thần của quân đồng minh như người Đức từng làm được tại Ba Lan và Pháp. Những kết quả ban đầu mang tính thảm hoạ cho người Mỹ; vùng xung quanh Đèo Kasserine là nơi có nhiều nghĩa trang chiến tranh của người Mỹ từ thời điểm đó.
Tuy nhiên, các lực lượng Mỹ cuối cùng đã có thể đảo ngược tình thế. Biết được một chiến lược chiến tranh xe tăng tối quan trọng, quân Đồng minh đột phá qua giới tuyến Mareth ngày 20 tháng 3 năm 1943. Sau đó quân đồng minh đã có thể liên kết với nhau vào ngày 8 tháng 4 và vào ngày 2 tháng 5 quân đội Đức-Italia ở Tunisia đầu hàng. Nhờ thế, Hoa Kỳ, Anh Quốc, Pháp tự do và Ba Lan (cũng như các lực lượng khác) đã có thể giành được thắng lợi trong một trận đánh lớn như một đội quân đồng minh.
Trận đánh này, dù thường bị Trận Stalingrad làm lu mờ, là một thắng lợi lớn của đồng minh trong Thế chiến II phần lớn bởi nó cho phép Đồng Minh trong một ngày sắp tới sẽ giải phóng Tây Âu.
Chính trị hiện thời
![]() |
Thông tin trong phần này hoặc đoạn này không thể kiểm chứng được do không được chú giải từ bất kỳ nguồn tham khảo nào. Xin bạn hãy cải thiện đoạn này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn uy tín. Nếu bài được dịch từ Wikipedia ngôn ngữ khác thì hãy chuyển nguồn tham khảo từ phiên bản đó cho bài này. |
![]() |
Bài viết (hoặc đoạn) này hiện gây tranh cãi về tính trung lập. Các thảo luận liên quan có thể được tìm thấy tại trang thảo luận. Xin đừng xóa bảng thông báo này cho đến khi kết thúc hoặc đạt được đồng thuận trong vấn đề này. |
Tunisia là một nền dân chủ theo thủ tục. Trên giấy tờ đây là một hệ thống cộng hoà tổng thống có đặc điểm ở hệ thống nghị viện lưỡng viện, gồm Viện Đại biểu và Viện Cố vấn. Tổng thống độc tài Zine El Abidine Ben Ali, trước kia là một nhân vật quân sự, đã nắm quyền từ năm 1987, năm ông lên nhận chức vụ hành pháp của Habib Bourguiba sau khi một đội chuyên gia y tế cho rằng Bourguiba không thích hợp để thực hiện các chức năng của chức vụ này. Trước thời điểm đó Ben Ali là một bộ trưởng của Bourguiba. Ngày nhậm chức, mùng 7 tháng 11, được chào mừng như một ngày lễ quốc gia, với nhiều toà nhà công cộng và thậm chí cả đồng tiền tệ quốc gia và hãng hàng không tư nhân cùng đài truyền hình tư nhân duy nhất (cả hai đều thuộc sở hữu của gia đình đệ nhất phu nhân) đều mang logo ‘7 tháng 11’.
Tại Tunisia, Tổng thống được bầu lại với đại đa số phiếu sau mỗi nhiệm kỳ 5 năm. Ông chỉ định một Thủ tướng và nội các, thủ tướng không đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập chính sách. Các thống đốc vùng và các cơ quan hành chính địa phương cũng do chính phủ trung ương chỉ định. Phần lớn các thị trưởng và các hội đồng thành phố được bầu ra với hầu như tất cả các ghế đều thuộc đảng của Tổng thống. Có một cơ cấu nghị viện lưỡng viện, Viện Đại biểu, có 182 ghế, 20% trong số đó được dành cho các đảng đối lập, và Viện Cố vấn gồm các đại diện của các đảng chính trị, các tổ chức chuyên nghiệp do Tổng thống kiểm soát và các cá nhân do Tổng thống của nền Cộng hoà chỉ định. Cả hai viện đều gồm hơn 20% nữ, khiến đây là nước hiếm hoi trong thế giới Ả Rập nơi phụ nữ có các quyền bình đẳng. Khá bất ngờ, đây cũng là quốc gia duy nhất trong thế giới Ả RẬp nơi chế độ đa thê bị luật pháp ngăn cấm. Đây là một phần của nội dung Luật Vị thế Cá nhân của quốc gia được cựu Tổng thống Bourguiba đưa ra năm 1956.
Tư pháp không độc lập về các vấn đề hiến pháp và thường tham nhũng trong những vụ án dân sự. Quân đội không đóng một vai trò rõ ràng trong chính trị và để vị Tổng thống cựu quân nhân mặc sức điều hành đất nước. Hàng trăm hay hàng ngàn thanh niên đã trốn tránh nghĩa vụ quân sự và sống với mối lo sợ thường xuyên về việc bị bắt giữ mặc dù bề ngoài cảnh sát chỉ truy đuổi họ trong một số thời điểm trong năm và thường để họ đi nếu nhận được một khoản hối lộ.
Chế độ liên tục thông qua các điều luật khiến họ có vẻ là dân chủ với những nhà quan sát từ bên ngoài. Từ năm 1987, Tunisia đã nhiều lần cải cách hệ thống chính trị. Họ đã chính thức xoá bỏ hệ thống tổng thống trọn đời và mở cửa nghị viện cho các đảng đối lập. Tuy nhiên, trên thực tế mọi quyền lực được tập trung chính thức trong tay tổng thống và đảng của ông – với văn phòng tổng thống và đảng của tổng thống đang đóng ở toà nhà cao nhất Tunis – và nằm dưới sự ảnh hưởng không chính thức của các gia đình như nhà Trabelsis phía họ vợ tổng thống, Leila, một người hành nghề cắt tóc trước kia. Gần đây Tunisia đã từ chối một yêu cầu cùa Pháp nhằm dẫn độ hai người cháu của Tổng thống, cháu bên phía Leila, vốn bị các công tố nhà nước Pháp buộc tội ăn cắp hai du thuyền lớn từ một bến cảng của Pháp [4]
Đảng của Tổng thống, được gọi là Tập hợp Dân chủ Hiến pháp (RCD) trong tiếng Pháp, gồm khoảng 2 triệu thành viên và hơn 6000 văn phòng đại diện trên khắp nước và chiếm hầu hết các định chế quan trọng của nhà nước. Dù đảng đã được đổi tên lại (trong thời Bourguiba nó thường được gọi là ĐẢng Xã hội Destourian), các chính sách của nó vẫn bị coi là hầu như thế tục. Hiện có tám ‘đảng chính trị’ nhỏ khác ở Tunisia, sáu trong số đó có đại diện trong nghị viện với vẻ ngoài mang tính hợp pháp. Từ năm 2007, toàn bộ các đảng có đại diện trong nghị viện đều được nhà nước trợ cấp để bù cho các chi phí đang gia tăng về giấy in và mở rộng sự xuất bản của họ. Tháng 7 năm 2008, những đề xuất hiến pháp mới đã được ‘nghị viện’ quốc gia bỏ phiếu.
Trên thực tế không ai từng công khai đưa ra lời chỉ trích chế độ và mọi sự phản kháng đều bị đàn áp mạnh tay và không được truyền thông đưa tin. Việc tự kiểm duyệt được đa số người dân sợ hãi lực lượng cảnh sát thực hiện, và cảnh sát hiện diện ở khắp mọi nơi và thường chặn và lục soát các cá nhân cũng như phương tiện của họ – và thường đòi một khoản tiền hối lộ nhỏ để bù đắp cho khoản lương ít ỏi của họ. Những tờ báo hàng ngày có đăng những bài viết ca tụng vị Tổng thống với chân dung thường được đăng trên trang nhất. Những bức ảnh lớn của tổng thống Ben Ali và những băng rôn ‘tự phát’ được dựng lên để ca tụng ông xuất hiện tại mọi công trình công cộng và các phố lớn.
Internet bị giới hạn chặt chẽ, gồm cả các site như YouTube. Tuy nhiên, internet đã có sự phát triển vượt bậc với hơn 1,1 triệu người sử dụng và hàng trăm quán cafe internet, được gọi là ‘publinet.’ Điều này phần lớn liên quan tới nạn thất nghiệp trên diện rộng và thiếu dân chủ cùng các cơ hội khiến hàng triệu người bị thất nghiệp.[cần dẫn nguồn] Các nhóm nhân quyền độc lập, như Ân xá Quốc tế, đã đưa ra tài liệu rằng các quyền cá nhân không được tôn trọng.[cần dẫn nguồn]
Bầu cử quốc gia năm 2009
Ngày 25 tháng 10 năm 2009, cuộc tuyển cử quốc gia đã được tổ chức tại Tunisia. Cuộc tuyển cử gồm một cuộc bầu cử tổng thống và một cuộc bầu cử nghị viện. Tổng thống đương nhiệm Zinedine Ben Ali giành một thắng lợi lớn, với 89.62% số phiếu. Đối thủ chính của ông, Mohamed Bouchiha, nhận được 5.01% số phiếu. Đảng của Tổng thống, CDR, cũng giành một thắng lợi lớn với đa số 84.59% trong nghị viện. Phong trào của Đảng Dân chủ Xã hội giành được 4.63% số phiếu[cần dẫn nguồn].
Cuộc bầu cử bị cả truyền thông trong nước và quốc tế chỉ trích[cần dẫn nguồn]. Human Rights Watch đã thông báo rằng các đảng và các ứng cử viên đã bị cấm xuất hiện ở mức ngang bằng với tổng thống đương nhiệm, và rằng tờ tuần báo của đảng Ettajdid,Ettarik al-Jadid, đã bị chính quyền nắm giữ [5].
Bốn ứng cử viên tổng thống trong cuộc bầu cử năm 2009 gồm:
Ứng cử viên | Phần trăm phiếu bầu (%) |
---|---|
Zine El Abidine Ben Ali (RCD) | 89.62% |
Mohamed Bouchiha (PPU) | 5.01% |
Ahmed Linoubli (UDU) | 3.80% |
Ahmed Ibrahim (ME) | 1.57% |
Những cuộc biểu tình và sự từ chức của Ben Ali 2010-2011
Để ứng phó với các cuộc biểu tình dâng cao ở Tunisia vào cuối năm 2010, đầu năm 2011, Ben Ali tuyên bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước, giải thể chính phủ vào ngày 14 tháng 1 năm 2011 và hứa tổ chức các cuộc bầu cử lập pháp mới trong vòng sáu tháng. Sau đó cùng ngày trong bài phát biểu đọc trên truyền hình chiều thứ sáu 14 tháng 1 năm 2011, thủ tướng Tunisia Mohamed Ghannouchi loan báo ông sẽ nắm quyền thay tổng thống Ben Ali đã rời đất nước. Tuy nhiên, người đứng đầu Tòa án Hiến pháp của Tunisia, Fethi Abdennadher, xác nhận rằng Gannouchi đã vi phạm Hiến pháp.
Tòa án Hiến pháp Tunisia ngày 15 tháng 1 năm 2011 đã quyết định bãi nhiệm Tổng thống Ben Ali, người bị lật đổ vì các cuộc biểu tình và bạo động chống ông – được giới truyền thông gọi là cuộc “Cách mạng hoa nhài“. Đây cũng là nhà lãnh đạo đầu tiên trong thế giới Arab bị lật đổ bởi biểu tình của nhân dân. [cần dẫn nguồn]
Theo Hiến pháp Tunisia, Chủ tịch Quốc hội Fouad Mebazaa đã đảm trách quyền điều hành đất nước và tổ chức tổng tuyển cử trong vòng 60 ngày. Quyền Tổng thống Mebazaa cũng ngay lập tức yêu cầu Thủ tướng Mohammed Ghannouchi thành lập một chính phủ liên minh đoàn kết dân tộc để lãnh đạo đất nước cho tới khi bầu được chính quyền mới.
Kinh tế
Tunisia có một nền kinh tế đa dạng, từ nông nghiệp, khai thác mỏ, chế tạo, các sản phẩm hoá dầu và du lịch. Năm 2008 nước này có GDP trị giá $41 tỷ (các tỷ giá trao đổi chính thức), hay $82 tỷ (sức mua tương đương) [6]. It also has one of Africa and the Middle East’s highest per-capita GDPs (PPP) [7]. Lĩnh vực nông nghiệp chiếm 11,6% GDP, công nghiệp 25,7%, và dịch vụ 62,8%. Lĩnh vực công nghiệp chủ yếu gồm sản xuất vải vóc và giày da, sản xuất phụ tùng ô tô và máy điện. Dù Tunisia có mức tăng trưởng trung bình 5% trong thập kỷ qua, nước này vẫn tiếp tục gặp khó khăn với một tỷ lệ thất nghiệp cao đặc biệt trong giới trẻ.
Tunisia được xếp hạng là nền kinh tế có tính cạnh tranh cao nhất châu Phi và đứng hàng 40 thế giới theo xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế Thế giới[8]. Tunisia đã tìm cáhc thu hút nhiều công ty quốc tế như Airbus[9] và Hewlett-Packard[10].
Liên minh châu Âu vẫn là đối tác thương mại hàng đầu của Tunisia, hiện tại chiếm 72.5% nhập khẩu của Tunisian và 75% xuất khẩu của nước này. Tunisia là một trong những đối tác thương mại lâu đời nhất của Liên minh châu Âu tại vùng Địa Trung Hải và là đối tác thương mại lớn thứ 30 của tổ chức này. Tunisia là quốc gia Địa Trung Hải đầu tiên ký Hiệp ước Liên kết với Liên minh châu Âu, tháng 7 năm 1995, dù thậm chí trước ngày hiệp ước này có hiệu lực, Tunisia đã bắt đầu bãi bỏ các biểu thuế trên thương mại song phương với EU. Tunisia đã kết thúc quá trình bãi bỏ thuế quan cho các sản phẩm công nghiệp năm 2008 và vì thế là quốc gia Địa Trung Hải đầu tiên tham gia vào một vùng thương mại tự do với EU[11].
Tunisia cũng thu hút những khoản đầu tư lớn từ Vịnh Péc xích (đặc biệt từ Các tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất) những dự án lớn nhất gồm:
- Cổng Địa Trung Hải: một dự án trị giá US$ 25 tỷ, để xây dựng một thành phố mới ở phía nam Tunis [12].
- Thành phố Thể thao Tunis: một thành phố hoàn toàn thể thao hiện đang được xây dựng ở phía nam Tunis, Tunisia. Thành phố này sẽ gồm các toà nhà cũng như nhiều cơ sở thể thao và sẽ do Bukhatir Group xây dựng với chi phí 5 tỷ $5[13].
- Cảng Tài chính Tunis: sẽ thực hiện trung tâm tài chính ngoài khơi đầu tiên của Bắc Phi tại Vịnh Tunis trong một dự án với giá trị tổng thể US$ 3 tỷ[14].
- Thành phố Viễn thông Tunis: Một dự án trị giá US$ 3 để tạo ra một cổng Công nghệ Thông tin ở Tunis[15].
Thị trường bất động sản
Trong những năm gần đây Tunisia đã phát triển một thị trường mới. Từ đầu những năm 2000, thị trường bất động sản đã có bước tăng trưởng. Thị trường tập trung một phần vào nhà ở cho những cá nhân, những cũng gồm cả các dự án lớn có mục tiêu phục vụ du lịch và thị trường buôn bán. Những nhà đầu tư đáng chú ý nằm trong Các quốc gia Ả Rập Vịnh Péc xích.
Khai thác dầu và khí đốt
Sản lượng dầu của Tunisia khoảng 97,600 barrel/ngày. Giếng dầu chính là El bourma.[16]
Năng lượng
Đa phần lượng điện được sử dụng ở Tunisia đều do nước này tự sản xuất, bởi công ty thuộc sở hữu nhà nước STEG (Société Tunisienne de l´Electricité et du Gaz).Năm 2008 tổng cộng 13,747 GHW điện được sản xuất tại nước này,[18].
Dầu mỏ và khí đốt
Sản xuất dầu mỏ bắt đầu năm 1966 tại Tunisia. Hiện tại có 12 giếng dầu[19]. Dưới đây là danh sách các giếng dầu:
Giếng dầu | Giếng dầu |
---|---|
Giếng 7 tháng 11 | Giếng El Menzah |
Giếng Ashtart | Giếng Belli |
Giếng Bouri | Giếng Cercina |
Giếng El Biban | Giếng El Borma |
Giếng Ezzaouia | Giếng Miskar |
Giếng Sidi El Kilani | Giếng Tazarka |
Năng lượng hạt nhân
Tunisia đang trong quá trình phát triển hai nhà máy điện hạt nhân trong một giai đoạn kéo dài 10 năm. Mỗi nhà máy trong số đó dự tính có sản lượng 900-1000 MW. Trong nỗ lực của họ nhằm phát triển năng lượng hạt nhân, Pháp được coi là một đối tác quan trọng. Tunisia và Pháp đã ký kết các thoả thuận, theo đó Pháp sẽ cung cấp huấn luyện, kỹ thuật cũng nhiều hỗ trợ khác [20][21].
Dự án Desertec
Dự án Desertec là một dự án năng lượng trên diện rộng có mục tiêu lắp đặt các panel năng lượng mặt trời, và một hệ thống đường dây nối Bắc Phi với châu Âu. Tunisia sẽ là một bên trong dự án này, nhưng chính xác những lợi ích họ sẽ được hưởng vẫn chưa được biết.
Giao thông
- Xem thêm thông tin: Giao thông đường sắt tại Tunisia
- Nước này có 19,232 km đường bộ,[22] và A1 Tunis-Sfax, P1 Tunis-Libya và P7 Tunis-Algeria là những đường cao tốc chính.
- Có 30 sân bay tại Tunisia, và Sân bay Quốc tế Tunis Carthage và Sân bay Quốc tế Monastir là hai sân bay quan trọng nhất. Một sân bay mới, Sân bay Quốc tế Zine El Abidine Ben Ali, đã được hoàn thành vào cuối tháng 10 năm 2009, và dự định mở cửa tháng 12 năm 2009. Tuy nhiên, có lẽ các chuyến bay sẽ không bắt đầu trước mùa Lễ Phục sinh năm 2010. Sân bay nằm ở phía bắc Sousse tại Enfidha, và có lẽ sẽ phục vụ cho các khu resort Hamammet và Port El Kantoui, cùng với các thành phố nội địa như Kairouan. Có bốn hãng hàng không đóng trụ sở tại Tunisia: Tunisair, Karthago Airlines, Nouvelair và Sevenair.
- Mạng lưới đường sắt do SNCFT điều hành, và tổng chiều dài đường sắt là 2135 km[22]. Vùng Tunis có một mạng lưới tàu điện, được gọi là Metro Leger.
Tôn giáo
Hiến pháp quy định Hồi giáo là tôn giáo chính thức của nhà nước và đòi hỏi tổng thống phải là một tín đồ Hồi giáo. Tunisia có mức tự do tôn giáo khá cao, một quyền được quy định và bảo vệ trong hiến pháp đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của mỗi người.[23] Nước này có một nền văn hoá khuyến khích chấp nhận các tôn giáo khác; tự do tôn giáo được thực hiện rộng rãi. Tuy nhiên, chính phủ đã bị cáo buộc[cần dẫn nguồn] hạn chế tự do của các tín đồ Hồi giáo khi cấm quàng khăn trùm đầu (Hijab). Chính phủ tin rằng Hijab là một “loại trang phục có nguồn gốc từ bên ngoài và có một ý nghĩa đảng phái”.[24]
Các cá nhân người Tunisian được khoan dung về tự do tôn giáo và nói chung không bị yêu cầu về những đức tin cá nhân.[23]
Đa số dân Tunisia (98%) là tín đồ Hồi giáo, khoảng 1% theo Thiên chúa giáo và số còn lại (1%) theo Do Thái giáo hay các tôn giáo khác.[25] Tuy nhiên, không có dữ liệu đáng tin cậy về số người thực hiện các nghi thức Hồi giáo. Một số báo cáo cho rằng người vô thần là nhóm lớn thứ hai trong nước (khiến nước này có thể đứng hạng cao trong số các quốc gia Bắc Phi) về vấn đề này[26].
Tunisia có một cộng đồng Thiên chúa giáo khá lớn khoảng 25,000 người; chủ yếu là Cơ đốc (20,000) và ở một mức độ thấp hơn là Tin Lành. Đạo Do Thái là tôn giáo lớn thứ ba trong nước với 1,500 tín đồ. Một phần ba dân số Do Thái sống tại hay xung quanh thủ đô. Số còn lại sống trên hòn đảo Djerba, nơi cộng đồng Do Thái có mặt từ khoảng 2,500 năm trước[23].
Djerba, một hòn đảo trong Vịnh Gabès, là quê hương của Hội đạo Do Thái El Ghriba, một trong những hội đạo Do Thái cổ nhất thế giới. Nhiều người Do Thái coi đó là một địa điểm hành hương với các nghi lễ được tiến hành mỗi năm một lần.
Các vùng thủ hiến và thành phố
Các vùng thủ hiến
Tunisia được chia thành 24 vùng thủ hiến, chúng gồm:
Các vùng thủ hiến được chia thành 264 “phái đoàn” hay “các quận” (mutamadiyat), và được chia nhỏ tiếp thành các khu vực đô thị (shaykhats)[27] và các khu vực (imadats).[28]
Các thành phố lớn
Thành phố | Dân số |
Tunis | 1 200 000 |
Sfax | 277 278[29] |
Sousse | 164 123[30] |
Kairouan | 119 794[31] |
At Tadaman | 118 487[32] |
Quân đội
Các lực lượng vũ trang Tunisia được chia thành ba nhánh:
- Lục quân
- Không quân Tunisia
- Hải quân
Chi tiêu quân sự của Tunisia chiếm 1.6% GDP (2006). Quân đội chịu trách nhiệm bảo vệ quốc gia và đảm bảo an ninh nội địa. Có vẻ trong những năm gần đây các lực lượng quốc phòng Tunisia đã tập trung hơn vào các nhóm Hồi giáo ở Bắc Phi. Hoa Kỳ đã tiến hành những cuộc tập trận với các lực lượng vũ trang Tunisia vì mối lo ngại này.[cần dẫn nguồn]
Địa lý
Tunisia là một quốc gia nằm ở bờ biển Địa Trung Hải của Bắc Phi, giữa đường giữa Đại Tây Dương và Châu thổ sông Nile. Tunisia giáp biên giới với Algérie ở phía tây và Libya ở phía đông nam. Đường bờ biển ngoặt gấp phía nam của nó khiến Tunisia có hai mặt giáp với Địa Trung Hải.
Dù có kích thước khá nhỏ, Tunisia có sự đa dạng địa lý và khí hậu khá lớn. Dorsal, một dải mở rộng của Dãy núi Atlas, chạy ngang Tunisia theo hướng đông bắc từ biên giới Algeria ở phía tây tới bán đảo Cape Bon. phía bắc Dorsal là Tell, một vùng có đặc điểm ở những quả đồi và đồng bằng thấp, dù góc phía tây bắc của Tunisia, nơi đất đai đạt tới độ cao 1,050 mét.
Sahil là một đồng bằng dọc theo bờ biển Địa Trung Hải phía đông Tunisia nổi tiếng với sự độc canh cây oliu. Bên trong nội địa từ Sahil, giữa Dorsal và một rặng đồi phía nam Gafsa, là các thảo nguyên. Đa phần vùng phía nam là đất đai bán khô cằn và sa mạc.
Tunisia có đường bờ biển dài 1,148 kilômét. Theo các thuật ngữ hàng hải, nước này tuyên bố một vùng tiếp giáp 24 hải lý, và một hải phận 12 hải lý.
Tunisia có khí hậu ôn hoà ở phía bắc, với mùa đông dễ chịu và nhiều mưa và một mùa hè nóng và khô. Miền nam đất nước là sa mạc. Đất đai phía bắc chủ yếu là núi non, đi dần về phía nam, tạo ra một đồng bằng trung tâm nóng và khô. Miền nam là bán khô cằn, và nhập vào Sahara. Một loạt các hồ muối, được gọi là chotts hay shatts, nằm ở đường phía đông tây ở mũi phía bắc Sahara, trải dài từ Vịnh Gabes vào trong Algérie. Điểm thấp nhất là Shatt al Gharsah, ở độ cao -17 m, và điểm cao nhất là Jebel ech Chambi, 1544 mét.
Vùng
Vùng Tunisia có một số sa mạc, gồm một phần của Sa mạc Sahara ở phía nam. Ở phía bắc và trung được bao quanh bởi Biển Địa Trung Hải. Tunisia không quá lạnh vào mùa đông để có tuyết, nhưng nhiệt độ vẫn hạ xuống dưới |0 °C. Vào mùa hè nhiệt độ có thể lên tới 32 °C. Đa phần lãnh thổ Tunisia có bốn mùa.
Nhân khẩu
Đa số (98%[33]) người Tunisia hiện đại là người Ả Rập hay người Berber đã Ả Rập hoá,[34] và là những người nói tiếng Tunisia Ả Rập. Tuy nhiên, cũng có một cộng đồng nhỏ (nhiều nhất là 1%[35]) người Berber sống tại vùng núi Jabal Dahar ở phía đông nam và trên hòn đảo Jerba, dù còn có nhiều người hơn nữa có tổ tiên là người Berber. Người Berber chủ yếu nói các ngôn ngữ Berber, thường được gọi là Shelha.
Cộng đồng châu Âu nhỏ (1%) gồm chủ yếu người Pháp và người Italia. Cũng có một cộng đồng Do Thái đã sống từ lâu ở nước này, lịch sử người Do Thái tại Tunisia có từ khoảng 2,000 năm trước. Năm 1948 số người Do Thái ước tính là 105,000, nhưng tới năm 2003 chỉ còn khoảng 1,500 người ở lại.[36]
Người đầu tiên trong lịch sử được biết tới sống ở Tunisia hiện nay là người Berber. Nhiều nền văn minh và sắc tộc đã từng xâm lược, di cư tới, và đã bị đồng hoá trong nhiều thiên niên kỷ, với nhiều làn sóng dân cư qua chinh phục và định cư từ người Phoenicia/Carthaginia, La Mã, Vandal, Ả Rập, người Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman, và người Pháp.
Ngoài ra, sau thời kỳ Reconquista và sự trục xuất những người phi Thiên chúa và người Morisco khỏi Tây Ban Nha, nhiều người Moor Tây Ban Nha và người Do Thái đã tới đây ở cuối thế kỷ 15. Ngoài ra, từ cuối những năm 1800 tới sau Thế chiến II, Tunisia là nơi sinh sống của nhiều người Pháp và người Italia (255,000 người châu Âu năm 1956[37]), hầu như toàn bộ trong số họ, cùng với cộng đồng dân cư Do Thái, đã rời đi sau khi Tunisia độc lập.
Tôn giáo tại Tunisia chủ yếu là Hồi giáo, với đa số dân Tunisia (98%) là tín đồ.[38] Một trong những cộng đồng Do Thái cổ nhất thế giới sống tại Jerba, nơi sự đa dạng tôn giáo phát triển. Hòn đảo phía nam Tunisia là nơi cư trú của 39 cộng đồng tôn giáo.
Ngôn ngữ
Tiếng Ả Rập là ngôn ngữ chính thức của Tunisia. Như tại toàn bộ các quốc gia khác thuộc thế giới Ả Rập, một biến thể địa phương của tiếng Ả Rập được công chúng sử dụng. Tiếng Ả Rập Tunisia rất gần gũi với ngôn ngữ Maltese.[39] Cũng có một cộng đồng thiểu số nhỏ những người nói tiếng Shelha, một ngôn ngữ Berber.[40]
Vì từng là thuộc địa của Pháp, tiếng Pháp cũng đóng một vai trò quan trọng ở nước này, dù không có vị thế chính thức. Nó được sử dụng rộng rãi trong giáo dục (ví dụ như ngôn ngữ giảng dạy khoa học tại các trường cấp hai), báo chí và trong kinh doanh. Đa phần người Tunisia có thể nói tiếng Pháp. Nhiều người Tunisia, đặc biệt là những người sống tại các vùng đô thị, dễ dàng sử dụng một ngôn ngữ pha trộn giữa tiếng Ả Rập Tunisia và tiếng Pháp, một loại ngôn ngữ lai thường được gọi không chính thức là ‘Frarabic’.
Giáo dục
Giáo dục được ưu tiên lớn và chiếm 6% GNP. Một nền giáo dục căn bản cho trẻ em trong độ tuổi từ 6 đến 16 đã được quy định bắt buộc từ năm 1991. Tunisia xếp hạng 17 về “chất lượng hệ thống giáo dục [cao học]” và 21 về “chất lượng giáo dục tiểu học” trong Báo cáo Cạnh tranh Toàn cầu 2008-9, do Diễn đàn Kinh tế Thế giới đưa ra.[41]
Tuy trẻ em nói chung được học tiếng Tunisia Ả Rập tại gia đình, khi bắt đầu theo học lúc 6 tuổi, chúng được dạy đọc và viết theo tiếng Ả Rập tiêu chuẩn. Từ 8 tuổi, trẻ em được dạy tiếng Pháp trong khi tiếng Anh được dạy khi trẻ lên 12.
Các trường cao đẳng và đại học tại Tunisia gồm:
- Ecole Polytechnique de Tunisie
- International University of Tunis
- Université Libre de Tunis
- Université de l’Aviation et Technologie de Tunisie
- Institut National d’Agronomie de Tunis
- Université des Sciences de Tunis
Văn hoá
Tunisia có một nền văn hoá pha trộn vì một lịch sử lâu dài với những cuộc chinh phục như của người Phoenicia, La Mã, Vandal, Byzantine, Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha và người Pháp, tất cả đều để lại dấu ấn tại quốc gia này.
Thể thao
Môn thể thao phổ biến nhất ở Tunisia là bóng đá. Đội tuyển bóng đá quốc gia, cũng được gọi là “Những chú đại bàng Carthage” đã tham gia vào bốn vòng chung kết World Cup. Thành tích của đội tuyển được liệt kê dưới đây:
Năm trong World Cup | Kết quả |
---|---|
1978 | Vòng 1 |
1998 | Vòng 1 |
2002 | Vòng 1 |
2006 | Vòng 1 |
Giải đấu hàng đầu của Tunisia là “Tunisian Ligue Professionnelle 1”. Các câu lạc bộ lớn gồm Espérance Sportive de Tunis, Club Africain, và Étoile Sportive du Sahel.
Bóng ném
Đội tuyển quốc gia đã tham gia nhiều vòng chung kết bóng ném thế giới. Năm 2005 Tunisia giành hạng 4. Giải bóng ném quốc gia gồm 12 đội, với ES. Sahel và Esperance S.Tunis là các đội thống trị.
Vận động viên bóng ném Tunisia nổi tiếng nhất là Wissem Hmam. Tại giải vô địch bóng ném thế giới nam năm 2005 ở Tunis, Wisam Hmam là vận động viên có thành tích ghi điểm cao nhất giải.
Bơi lội
Tại Olympic năm 2008, vận động viên người Tunisia Oussama Mellouli đã giành một huy chương vàng nội dung bơi tự do 1500 mét.
Lễ hội
- Lễ Matmata – Matmata (tháng 3)
- Lễ Oriljazz (tháng 4)
- Lễ “Tozeur, the Oriental, the African” (tháng 4)
- Lễ hội Mùa xuân Quốc tế – Sbeitla (tháng 4)
- Lễ hội thi ca Ả Rập – Tozeur – (tháng 4)
- Lễ hội Jazz Carthage – Gammarth (tháng 4)
- Tozeur’s International Oasis Festival – Tozeur (tháng 12)
- Techno House festival – Gammarth (tháng 12)
- Dar Sebastian celebrates opera festival – lyrical festival -(tháng 12)
- Lễ hội Caravana Latina” – Tozeur (tháng 12)
- Lễ hội Truyền thống Sahara – Douz (tháng 12)
Thành viên
Tunisia là một thành viên của các tổ chức sau:
Tổ chức | Ngày |
Liên hiệp quốc | từ 12 tháng 11 năm 1956 |
Liên đoàn Ả Rập | từ năm 1958 |
Tổ chức Hội nghị Hồi giáo | từ năm 1969 |
Tổ chức Thương mại Thế giới | từ 29 tháng 3 năm 1995 |
Nhóm Đối thoại Địa Trung Hải | từ tháng 2 năm 1995 |
Xem thêm
Tham khảo
- ^ “Financial Times report on Tunisia”. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2009.
- ^ a ă Room, Adrian (2006). Placenames of the World: Origins and Meanings of the Names for 6,600 Countries, Cities, Territories, Natural Features, and Historic Sites. McFarland. tr. 385. ISBN 0786422483.
- ^ Smeaton Munro, Ion. Through Fascism to World Power: A History of the Revolution in Italy. pag 221
- ^ “Ajaccio – Un trafic de yachts entre la France et la Tunisie en procès” (bằng tiếng Pháp). Ngày 30 tháng 9 năm 2009.
- ^ “HRW, Tunisia: Elections in an Atmosphere of Repression”. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2009.
- ^ “cia world factbook, Tunisia”. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2009.
- ^ “Wikipedia-list GDP per capita”. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2009.
- ^ “The Global Competitiveness Index 2009–2010 rankings”. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2009.
- ^ “Airbus build plant in tunisia”. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2009.
- ^ “HP to open customer service center in Tunisia”. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2009.
- ^ “Bilateral relations Tunisia EU”. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2009.
- ^ “Mediterranean Gate”. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2009.
- ^ “Tunis Sport City”. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2009.
- ^ “Tunis Financial Harbour”. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2009.
- ^ “Vision 3 announces Tunis Telecom City”. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2009.
- ^ “Oil and Gas in Tunisia”. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2009.
- ^ “STEG, CEO speech”. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2009.
- ^ “STEG, company website”. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2009.
- ^ “MBendi oilfields in Tunisia”. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2009.
- ^ “Reuters, Tunisias nuclear plans”. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2009.
- ^ “Tunisia: A civil nuclear station of 1000 Megawatt and two sites are selected”. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2009.
- ^ a ă “cia world factbook, Tunisia”. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2009.
- ^ a ă â Bureau of Democracy, Human Rights, and Labor (2008), “Report on Tunisia”, International Religious Freedom Report 2008, US State Department
- ^ “Tunisia”. Truy cập 24 tháng 5 năm 2015.
- ^ CIA – The World Factbook — Tunisia
- ^ “Religions in Tunisia”. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2009.
- ^ Tunisia Governorates
- ^ Portail de l’industrie Tunisienne, in French
- ^ “Mongabay.com, population of Sfax”. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2009.
- ^ “Mongabay.com, population of Sousse”. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2009.
- ^ “Mongabay.com, population of Kairouan”. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2009.
- ^ “FITA, population of At Tadaman”. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2009.
- ^ Tunisia.. CIA – The World Factbook.
- ^ Columbia Gazetteer
- ^ Q&A: The Berbers. BBC News. ngày 12 tháng 3 năm 2004.
- ^ The Jews of Tunisia. Jewish Virtual Library.
- ^ Tunisia. Worldmark Encyclopedia of the Nations. Thomson Gale. 2007. Encyclopedia.com.
- ^ “CIA — The World Factbook — Tunisia”. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2007.
- ^ Borg and Azzopardi-Alexander Maltese (1997:xiii) “The immediate source for the Arabic vernacular spoken in Malta was Muslim Sicily, but its ultimate origin appears to have been Tunisia. In fact, Maltese displays some areal traits typical of Maghrebine Arabic, although during the past eight hundred years of independent evolution it has drifted apart from Tunisian Arabic.”
- ^ Gabsi, Zouhir (2003) ‘An outline of the Shilha (Berber) vernacular of Douiret (Southern Tunisia)’ [1]
- ^ http://www.weforum.org/en/initiatives/gcp/Global%20Competitiveness%20Report/index.htm
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Tunisia |
Tìm thêm về Tunisia tại những đồng dự án của Wikipedia: | |
![]() |
Từ điển ở Wiktionary |
![]() |
Sách ở Wikibooks |
![]() |
Cẩm nang du lịch ở Wikivoyage |
![]() |
Hồ sơ ở Wikiquote |
![]() |
Văn kiện ở Wikisource |
![]() |
Hình ảnh và phương tiện ở Commons |
![]() |
Tin tức ở Wikinews |
![]() |
Tài liệu giáo dục ở Wikiversity |
- The Official website of The Tunisian National Tourist Office UK & Ireland
- Government of Tunisia
- Tunisia Chamber of Deputies (tiếng Ả Rập)
- Country Profile from BBC News
- Tunisia from Encyclopedia Britannica
- International Religious Freedom Report 2003 từ Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
- Tunisia from UCB Libraries GovPubs
- Tunisia tại DMOZ (trang đề nghị)
- Mục “Tunisia” trên trang của CIA World Factbook.
Wikimedia Atlas của Tunisia, có một số bản đồ liên quan đến Tunisia.
![]() |
Wikivoyage có chỉ dẫn du lịch về Tunisia |
- [2]
- Who is Zine El Abidine Ben Ali? Radio France Internationale in English
Photography gallery
![]() |
![]() |
![]() Biển Địa Trung Hải |
![]() ![]() Biển Địa Trung Hải |
![]() |
![]() |
B | Biển Địa Trung Hải | ||
T ![]() |
||||
N | ||||
![]() |
![]() ![]() |
![]() |
|
|
Puerto Rico
Estado Libre Asociado de Puerto Rico Commonwealth of Puerto Rico |
|||||
---|---|---|---|---|---|
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
Latinh: Joannes Est Nomen Eius Tiếng Tây Ban Nha: Juan es su nombre (“Tên cháu là Gioan“[1]) |
|||||
Quốc ca | |||||
La Borinqueña | |||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Thịnh vượng chung | ||||
• Thống đốc | Aníbal Acevedo Vilá (PPD) | ||||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Tây Ban Nha, Anh | ||||
Thủ đô | San Juan |
||||
Thành phố lớn nhất | San Juan | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 9.104 km² (hạng 169) | ||||
Diện tích nước | 1,6% % | ||||
Múi giờ | AST (UTC−4) | ||||
Lịch sử | |||||
Thành lập
|
|||||
Ngày thành lập | 25 tháng 7, 1952 | ||||
Dân cư | |||||
Dân số ước lượng (2005) | 3.912.054 người (hạng 126) | ||||
Dân số (2005) | 3.913.054 người | ||||
Mật độ | 434 người/km² (hạng 21) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2005) | Tổng số: 72,37 tỷ Mỹ kim[2] | ||||
Đơn vị tiền tệ | Đô la Mỹ (USD ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .pr |
Puerto Rico (phiên âm tiếng Việt: Pu-éc-tô Ri-cô), tên gọi chính thức là Thịnh vượng chung Puerto Rico (tiếng Tây Ban Nha: Estado Libre Asociado de Puerto Rico) là một vùng quốc hải thuộc chủ quyền của Hoa Kỳ nhưng chưa được hợp nhất vào Hoa Kỳ. Puerto Rico nằm ở phía đông bắc vùng biển Caribbean, phía đông nước Cộng hòa Dominicana và phía tây Quần đảo Virgin. Lãnh thổ Puerto Rico bao gồm một quần đảo trong đó bao gồm đảo chính Puerto Rico và nhiều đảo nhỏ hơn xung quanh, lớn nhất là các đảo Vieques, Culebra và Mona. Trong nhóm 4 đảo Đại Antilles (bao gồm các đảo Cuba, Hispaniola, Jamaica và Puerto Rico), Puerto Rico là hòn đảo có diện tích nhỏ nhất nhưng lại đứng thứ ba về dân số. Tính đến năm 2008, dân số của Puerto Rico ước tính khoảng gần 4 triệu người[3].
Lịch sử của đất nước Puerto Rico bắt đầu với những cộng đồng da đỏ bản địa, trong đó người Taino có một nền văn hóa khá phát triển và chiếm ưu thế tại hòn đảo trong thời gian dài. Năm 1493, Christopher Columbus đặt chân đến Puerto Rico trong chuyến hành trình thứ hai đến Tân thế giới. Hòn đảo này nhanh chóng được sáp nhập thành một thuộc địa của Đế chế Tây Ban Nha và những người dân da đỏ Taino dần dần bị tiêu diệt và thay thế bởi người châu Âu da trắng và các nô lệ da đen đến từ châu Phi. Trong cuộc chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha 1898, Mỹ chiếm đảo Puerto Rico làm thuộc địa. Ngày nay Puerto Rico là một nhà nước cộng hòa tồn tại dưới hình thức lãnh thổ thịnh vượng chung và chưa được hợp nhất chính thức vào nước Mỹ. Người dân Puerto Rico có chính phủ riêng và có một ủy viên cư dân không có quyền biểu quyết (non-voting resident commissioner) tại Quốc hội Hoa Kỳ. Tất cả người Puerto Rico đều là công dân Hoa Kỳ. Tuy nhiên người Puerto Rico không được tham gia bầu cử tổng thống Hoa Kỳ tại chính Puerto Rico nhưng họ có quyền bầu cử hay tranh cử tại bất cứ tiểu bang nào của Hoa Kỳ mà họ đến cư ngụ.
Tình trạng chính trị hiện nay của hòn đảo, bao gồm khả năng trở thành một tiểu bang của Hoa Kỳ hay được độc lập, đang được bàn cãi rất nhiều tại Puerto Rico. Từ năm 1967, cử tri Puerto Rico đã bốn lần tham gia trưng cầu dân ý để xác định tình trạng của nó, nhưng đều với kết quả là giữ tình trạng như cũ cho đến cuộc trưng cầu dân ý năm 2012. Cuộc trưng cầu dân ý không có tính ràng buộc về mật pháp lý về tình trạng chính trị của hòn đảo mới nhất đã được tổ chức vào ngày 6 tháng 11 năm 2012. Kết quả là cử tri Puerto Rico đã bác bỏ xít xao tình trạng chính trị hiện tại (câu hỏi thứ nhất) và chấp thuận áp đảo việc trở thành tiểu bang của Hoa Kỳ như là một chọn lựa ưng ý (câu hỏi thứ hai).[4]
Ngoài tên gọi chính thức là Puerto Rico, người dân còn gọi hòn đảo này với tên gọi Borinquen, theo từ Borikén là cái tên người Taino bản địa gọi hòn đảo. Bên cạnh đó, Puerto Rico còn được biết đến với biệt hiệu La Isla del Encanto, có nghĩa là “Hòn đảo diệu kỳ”.
Mục lục
Lịch sử
Thời kỳ Tiền Columbus
Lịch sử của quần đảo Puerto Rico (tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là “Bến cảng giàu có”) trước khi Christopher Columbus khám phá ra hòn đảo được rất it người biết đến. Những hiểu biết ngày nay về những cư dân đầu tiên của hòn đảo chủ yếu được khám phá sau này bởi người Tây Ban Nha. Cuốn sách lịch sử đầy đủ đầu tiên về đất nước này được viết bởi Fray Iñigo Abbad y Lasierra vào năm 1786, 293 năm sau khi người Tây Ban Nha đầu tiên đặt chân lên hòn đảo[5].
Những cư dân đầu tiên của đảo Puerto Rico là những thổ dân da đỏ thuộc bộ lạc Ortoiroid làm nghề sắn bắt và đánh cá. Những di chỉ tìm được về người Ortoiroid, hay người Arcaico được phát hiện năm 1990 được xác định có niên đại 2000 năm trước công nguyên. Trong khoảng giữa năm 120 và 400 sau công nguyên, người Igneri, một bộ lạc xuất xứ từ vùng châu thổ sông Orinoco, nơi ngày nay là Venezuela đã đến hòn đảo này. Giữa thế kỉ 4 và thế kỉ 10, người Arcaico và người Igneri đã cũng tồn tại trên hòn đảo, nhưng cũng có lẽ đã xung đột với nhau. Trong khoảng giữa thế kỉ 7 và thế kỉ 10, nền văn hóa Taino bắt đầu phát triển mạnh mẽ trên hòn đảo và đến khoảng năm 1000 thì lấn át hoàn toàn các nền văn hóa trước đó. Giai đoạn phát triển thịnh vượng của người Taino kéo dài cho đến khi người châu Âu phát kiến ra châu Mỹ năm 1492[6].
Thuộc địa của Tây Ban Nha
Ngày 19 tháng 11 năm 1493, Christopher Columbus trong chuyến thám hiểm lần thứ hai của mình đã phát hiện ra đảo Puerto Rico. Lúc này, cư dân của hòn đảo là những người da đỏ châu Mỹ thuộc nền văn hóa Taino và họ gọi hòn đảo của mình là “Borikén”, hay trong tiếng Tây Ban Nha là “Boriquen”[7]. Columbus đã đặt cái tên mới cho hòn đảo là San Juan Bautista để tưởng niệm thánh John Baptist. Sau đó, hòn đảo được đổi tiên thành Puerto Rico còn San Juan thì trở thành tên thủ phủ của hòn đảo. Năm 1508, Juan Ponce de Leon trở thành thống đốc đầu tiên của đảo Puerto Rico[8].
Người Tây Ban Nha nhanh chóng chiếm toàn bộ đảo Puerto Rico làm thuộc địa. Những người thổ dân Taino hoặc bị giết trong những trận chiếm đẫm máu mà ưu thế thuộc về người Tây Ban Nha hay những bệnh dịch chết người từ châu Âu mà họ chưa tiếp xúc bao giờ, hoặc bị người Tây Ban Nha bắt làm nô lệ. Dân số Taino sụt giảm nhanh chóng đã buộc người Tây Ban Nha phải buôn nô lệ da đen từ châu Phi sang làm việc. Puerto Rico do vị trí địa lý chiến lược của mình trở thành một pháo đài phòng thủ quan trọng cho hệ thống thuộc địa to lớn của Tây Ban Nha tại Mỹ Latinh. Nhiều đồn lũy và các bức tường thành lớn được xây dựng như La Fortaleza, El Castillo, San Felipe del Morro hay El Castillo de San Cristobal để bảo vệ Puerto Rico khỏi sự dòm ngó của các cường quốc thù địch như Pháp, Hà Lan và Anh. Những nước này cũng từng cố chiếm Puerto Rico những đều không thành công. Tuy nhiên, sự giàu có tài nguyên của Puerto Rico chủ yếu mang lại sự thịnh vượng cho chính quốc chứ cư dân hòn đảo thì sống trong tình trạng nghèo khó.
Cuộc chiến tranh Iberia nổ ra giữa Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Anh với quân Pháp đã tạo điều kiện cho nhiều thuộc địa của Tây Ban Nha ly khai đòi độc lập. Năm 1809, Ủy ban Trung ương Tối cao tại Cadiz ra quyết định công nhận Puerto Rico là một tỉnh hải ngoại của Tây Ban Nha và đảo này có quyền gửi đại diện đến quốc hội Tây Ban Nha. Tuy nhiên chính sách tiến bộ này chỉ được thực thi trong khoảng các năm 1810-1814 và 1820-1823 rồi bãi bỏ do sự trở lại nắm quyền của triều đình quân chủ của vua Ferdinand VII. Tuy nhiên nó cũng đã góp phần nâng cao tính dân tộc của người dân hòn đảo.
Cuối thế kỉ 19, Puerto Rico và Cuba là hai thuộc địa cuối cùng còn ở lại với Tây Ban Nha tại châu Mỹ. Tuy nhiên, mâu thuẫn chính trị và sự nghèo đói của hòn đảo đã càng làm căng thẳng thêm mối quan hệ với chính quốc Tây Ban Nha. Năm 1868, cuộc nổi dậy “Grito de Lares” nổ ra tại thị trấn Lares, được lãnh đạo bởi người anh hùng Ramon Emeterio Betances, “người cha” của phong trào độc lập cho Puerto Rico. Nhưng khi tiến sang thị trấn San Sebatian, cuộc khởi nghĩa nhanh chóng bị dập tắt. Năm 1897, Luis Munoz Rivera cùng một số người khác đã thuyết phục thành công chính phủ Tây Ban Nha trao quy chế tự trị cho người dân Cuba và Puerto Rico. Ngày 17 tháng 7 năm 1898, chính phủ tự trị đầu tiên của Puerto Rico nhậm chức nhưng chỉ tồn tại được một thời gian ngắn ngủi[9].
Thuộc địa của Hoa Kỳ
Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha bùng nổ năm 1898 đã dẫn đến sự việc ngày 25 tháng 7 năm 1898, Puerto Rico bị quân đội Mỹ xâm chiếm. Tây Ban Nha đã buộc phải nhường lại các thuộc địa của mình cho Mỹ là Cuba, Puerto Rico ở Caribbean và Guam, Philippines ở châu Á theo Hiệp ước Paris 1898[10].
Đầu thế kỉ 20, Puerto Rico nằm dưới sự cai trị của quân đội Mỹ và thống đốc Puerto Rico đều là người được Tổng thống Mỹ chỉ định. Năm 1900, Đạo luật Foraker cho phép Puerto Rico có một số quyền lập chính phủ dân sự gồm có hạ viện do dân bầu. Đến năm 1917, Đạo luật Jones-Shafroth trao quyền công dân Mỹ cho người Puerto Rico cũng như cho phép lập ra thượng viện do dâu bầu để Puerto Rico có đầy đủ một quốc hội lưỡng viện của riêng mình. Với quyền công dân Mỹ, nhiều thanh niên Puerto Rico đã tham gia quân đội Mỹ trong Thế chiến thứ nhất và những cuộc chiến của Mỹ sau đó nữa.
Những thập niên đầu tiên dưới sự cai trị của Mỹ, nhiều thảm họa tự nhiên liên tiếp xảy ra như động đất, sóng thần, các cơn bão nhiệt đới cũng như cuộc Đại khủng hoảng 1929 đã tàn phá nền kinh tế của đảo Puerto Rico. Trong nhân dân bắt đầu xuất hiện tư tưởng chống lại sự cai trị của Mỹ. Ngày 30 tháng 10 năm 1950, Pedro Albizu Campos, lãnh đạo Đảng Dân tộc Puerto Rico đã phát động cuộc khởi nghĩa Jayuya chống Mỹ. Hoa Kỳ tuyên bố tình trạng thiết quân luật và chấm dứt cuộc khởi nghĩa sau 3 ngày với việc sử dụng nhiều bộ binh, pháo binh và máy bay ném bom vào thị trấn Jayuya. Pedro Albizu Campos sau đó bị bắt giam vì tội âm mưu phản loạn nhằm lật độ chính phủ Mỹ tại Puerto Rico. Bên cạnh đó, những âm mưu ám sát tổng thống Harry Truman trong cùng năm 1950 cũng được những người dân tộc chủ nghĩa Puerto Rico thực hiện nhưng thất bại.
Sự nhượng bộ giữa Mỹ và Puerto Rico trong giai đoạn giao thời giữa Roosevelt và Truman đã dẫn đến việc năm 1946, tổng thống Truman đã chỉ định Jesus Pinero, một người sinh ra ở Puerto Rico làm thống đốc hòn đảo này.
Trở thành thịnh vượng chung
Năm 1947 đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử Puerto Rico khi chính phủ Mỹ trao quyền bầu cử thống đốc cho người dân hòn đảo. Luis Munoz Marin, người có công trong việc đàm phán với Mỹ trước đó đắc cử và trở thành thống đốc dân cử đầu tiên của Puerto Rico vào năm 1948. Năm 1950, tổng thống Truman cho phép Puerto Rico tổ chức cuộc trưng cầu ý dân về quyền thành lập hiến pháp riêng của nước này. Hiến pháp địa phương của Puerto Rico chính thức được chính phủ Mỹ phê chuẩn vào ngày 6 tháng 2 năm 1952. Tổng thống Truman cũng thông qua hiến pháp này vào ngày 3 tháng 7 rồi được tuyên bố chính thức bởi thống đốc Munoz Marin vào ngày 25 tháng 7 cùng năm đó. Như vậy, Puerto Rico chính thức có bản hiến pháp của riêng mình và nước này phê chuẩn tên gọi Estado Libre Asociado, tạm dịch là “Thịnh vượng chung“[11][12].
Cùng với sự tự do chính trị, thập niên 1950 đã đánh dấu giai đoạn phát triển kinh tế vượt bậc của Puerto Rico. Kế hoạch Operación Manos a la Obra đầy tham vọng được thực hiện đã biến Puerto Rico từ một hòn đảo nghèo nàn chủ yếu dựa vào nông nghiệp sang một hòn đảo thịnh vượng với nền công nghiệp chế biến phát triển. Ngày nay, Puerto Rico là một địa điểm du lịch hấp dẫn thế giới và đồng thời là một trung tâm về dược phẩm và sản xuất hàng hóa.
Về mặt chính trị, những tranh cãi xung quanh quy chế chính trị của Puerto Rico vấn tiếp diễn. Ba xu hướng chính của chính trị Puerto Rico hiện nay là giữ nguyên hiện trạng thịnh vượng chung, trở thành một tiểu bang Hoa Kỳ và trở thành một quốc gia độc lập. Đã có tới 3 cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức và người dân Puerto Rico vẫn quyết định giữ nguyên hiện trạng chính trị như hiện nay. Hiến pháp Puerto Rico công nhận khái niệm “công dân Puerto Rico”.
Chính trị
Puerto Rico là một lãnh thổ chưa hợp nhất của Hoa Kỳ theo thể chế cộng hòa. Tất cả các quyền lực hiện tại của Puerto Rico là do Quốc hội Hoa Kỳ ủy quyền. Puerto Rico thiếu sự bảo vệ toàn phần từ Hiến pháp Hoa Kỳ vì không phải là một tiểu bang của Hoa Kỳ. Người đứng đầu nhà nước của Puerto Rico là tổng thống Mỹ[13]. Chính quyền Puerto Rico theo chế độ cộng hòa, được tổ chức theo hệ thống tam quyền phân lập gồm ba nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhánh hành pháp được đứng đầu bởi thống đốc Puerto Rico, hiện nay là ngài Anibal Acevedo Vila. Nhánh lập pháp bao gồm Quốc hội Puerto Rico được chia làm hai viện: Thượng viện và Hạ viện. Người đứng đầu Thượng viện Puerto Rico là Chủ tịch Thượng viện, còn người đứng đầu Hạ viện là Chủ tịch Hạ viện (Speaker of the House) Puerto Rico. Nhánh tư pháp đứng đầu bởi Thấm phán trưởng Tòa án Tối cao Puerto Rico. Chức thống đốc và các đại biểu quốc hội được nhân dân bầu ra bốn năm một lần. Những thành viên của tòa án tối cao được thống đốc chỉ định với sự thông qua của Thượng viện.
Puerto Rico chỉ được phép có một đại biểu không có quyền biểu quyết (non-voting delegate) duy nhất tại Hạ viện Hoa Kỳ, gần đây nhất là ông Luis Fortuno. Người dân Puerto Rico không được quyền tham gia bỏ phiếu bầu tổng thống Mỹ, nhưng được phép bầu trong các cuộc bầu cử tổng thống sơ bộ (là bầu cử của các đảng phái chính trị để tìm ứng cử viên trong từng đảng). Người Puerto Rico có quyền tham gia bầu cử và tranh cử ở tại bất cứ tiểu bang nào mà họ đến sinh sống.
Từ năm 1952 đến này, chính trường Puerto Rico có sự phân chia giữa 3 đảng phái chính đại diện cho ba xu hướng chính trị khác nhau của đất nước này. Đảng Dân chủ Nhân dân Puerto Rico (PPD) muốn duy trì hiện trạng Puerto Rico với vai trò hiện nay là một lãnh thổ thịnh vượng chung thuộc Hoa Kỳ. Đảng thứ hai, Đảng Cấp tiến Mới Puerto Rico (PNP) muốn đưa Puerto Rico trở thành một tiểu bang của Hoa Kỳ còn trong khi đó, Đảng Độc lập Puerto Rico (PIP) lại muốn vùng đất này tách ra và trở thành một quốc gia độc lập. Năm 2007, một đảng thứ tư nữa là Đảng Puerto Rico cho người Puerto Rico (PPR) xuất hiện trên chính trường. Trải qua nhiều cuộc trưng cầu dân ý trong suốt 6 thập kỉ qua, người dân Puerto Rico chọn lựa giữ nguyên hiện trạng chính trị như hiện nay như một vùng lãnh thổ quốc hải của Hoa Kỳ.
Địa lý
Puerto Rico bao gồm đảo Puerto Rico và một số hòn đảo nhỏ hơn xung quanh như đảo Vieques, Culebra, Mona, Desecheo và Caja de Muertos. Trong 5 đảo trên, chỉ có đảo Culebra và đảo Vieques là có cư dân sinh sống quanh năm.
Puerto Rico có tổng diện tích 9.104 km². Chiều dài nhất của đảo từ tây sang đông là 180 km, chiều rộng nhất của đảo từ bắc xuống nam là 64 km. Trong quần đảo Đại Antilles, Puerto Rico là hòn đảo nhỏ nhất, chỉ bằng 8/10 diện tích của Jamaica[14] và 8/100 diện tích của Cuba[15]. Nếu so sánh với một số bang khác của Mỹ thì Puerto Rico rộng hơn so với cả hai bang Delaware và Rhode Island cộng lại, nhưng nhỏ hơn một chút so với bang Connecticut.
Đảo Puerto Rico có hình chữ nhật với khoảng 60% diện tích là đồi núi. Phần trung tâm hòn đảo là một vùng núi cao với nhiều dãy núi lớn tiêu biểu như dãy La Cordillera Central (“Dãy núi Trung tâm”). Điểm cao nhất của Puerto Rico, núi Cerro de Punta cao 1338 m tọa lạc trên dãy núi này[16]. Ở phía bắc Puerto Rico có một vùng núi đá vôi khá lớn. Phía bắc và phía nam hòn đảo mỗi bên có một vùng bờ biển hẹp.
Về mặt địa chất, hòn đảo Puerto Rico nằm trên đường giáp ranh giữa hai địa mảng lớn là địa mảng Bắc Mỹ và địa mảng Caribbean. Chính vị trí giao giữa hai địa mảng này là nguyên nhân gây ra những trận động đất và sóng thần kèm theo nạn lở đất gây thiệt hại lớn về người và của. Trận động đất lớn xảy ra gần đây nhất tại Puerto Rico diễn ra vào ngày 11 tháng 10 năm 1918 mạnh đến 7,5 độ Richter và gây ra sóng thần đã gây ra thiệt hại lớn cho hòn đảo: 116 người thiệt mạng và thiệt hại 4 triệu USD[17].
Nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới, Puerto Rico có khí hậu ấm áp quanh năm với nhiệt độ trung bình năm khoảng 26 °C (80 °F). Sự khác biệt về nhiệt độ giữa các tháng trong năm thường không lớn. Miền nam Puerto Rico có nhiệt độ cao hơn vài độ so với miền bắc, trong khi đó vùng cao nguyên và đồi núi trung tâm Puerto Rico thường có khí hậu mát mẻ hơn so với những vùng còn lại. Mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 5 còn mùa mưa diễn ra trong khoảng tháng 6 đến tháng 10, trùng với thời điểm hoạt động mạnh của những cơn bão từ Đại Tây Dương đổ vào, mang theo một lượng mưa lớn cho Puerto Rico.
Kinh tế
Cho đến tận đầu thế kỉ 20, nguồn lợi kinh tế chủ yếu của Puerto Rico vẫn chủ yếu xoay quanh ngành trồng và xuất khẩu mía đường. Thế nhưng đến thập niên 1940, một chính sách kinh tế mới đã được ban hành nhằm thay đổi hoàn toàn cục diện nền kinh tế hòn đảo với sự chuyển mình mạnh mẽ từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp đa dạng và được chính phủ Mỹ miễn thuế. Kinh tế Puerto Rico thời gian đầu tuy chịu nhiều biến động lớn, đặc biệt là cuộc Đại Khủng hoảng 1929 từ nước Mỹ nhưng sau đó đã phục hồi rất nhanh và hiện là một trong các nước có thu nhập bình quân đầu người cao nhất châu Mỹ.
Tuy nhiên càng về sau, những điểm yếu của nền kinh tế Puerto Rico cũng dần bộc lộ và gây ra nhiều biến động khá lớn. Puerto Rico phải đối mặt với việc các doanh nghiệp chuyển địa điểm sang các nước Mỹ Latinh khác có giá nhân công rẻ hơn. Tình trạng kinh tế khó khăn giữa các cuộc khủng hoảng kinh tế khiến người dân Puerto Rico có chiều hướng di dân ra nước ngoài, đặc biệt là tới Mỹ để tìm kiếm công việc tốt hơn. Đặc biệt vào năm 2006, Puerto Rico diễn ra cuộc khủng hoảng ngân quỹ trầm trọng khiến nhiều cơ quan chính phủ và 1536 trường công phải đóng cửa, gần 96 000 người bị cho nghỉ việc. Những chính sách thuế mới sau đó đã giẩi quyết cuộc khủng hoảng này nhưng vẫn còn nhiều thách thức khó khắc phục. Vài năm trở lại đây, Puerto Rico rơi vào tình trạng suy giảm kinh tế. Nếu như năm 2006, mức tăng GDP còn ở mức 0,5% thì đến năm 2007 xuống còn -1,8%, năm 2008 xuống đến -2%.[18]
Ngày nay Puerto Rico là một quốc gia có nền kinh tế cơ cấu hiện đại với nông nghiệp chỉ chiếm 1%, công nghiệp chiếm 45% và dịch vụ chiếm 54%. Ngành trồng mía đường nay đã nhường lại cho ngành chăn nuôi lấy sản phẩm từ thịt và sữa. Công nghiệp của Puerto Rico phát triển đa dạng và nhấn mạnh các ngành hóa dầu, dược phẩm và khoa học công nghệ. Du lịch là một trong những ngành dịch vụ chủ đạo của Puerto Rico với việc nước này đón tiếp 5,9 triệu lượt du khách vào năm 2007, đem lại một nguồn doanh thu lớn cho hòn đảo. Nhiều khách sạn, cá khu nghỉ dưỡng, trung tâm hội thảo lớn như Trung tâm Hội nghị Puerto Rico được xây dựng đã tận dụng triệt để ưu thế du lịch của đất nước tươi đẹp này.
Tuy gặp nhiều khó khăn trong những năm gần đây, song Puerto Rico vẫn là một trong những nền kinh tế phát triển nhất khu vực Mỹ Latinh. Puerto Rico là một trong những đầu tàu kinh tế vùng Caribbean cùng với Cuba và Cộng hòa Dominicana, và Ngân hàng Thế giới xếp Puerto Rico vào nhóm các nước có thu nhập bình quân cao[19]. Năm 2007, thu nhập bình quân của nước này là 19.600 USD[20], tuy nhiên vẫn còn thua nếu so với bang nghèo nhất của nước Mỹ là Mississippi với thu nhập 24.062 USD. Tỉ lệ thất nghiệp của Puerto Rico cũng ở mức khá cao 11,7%, trong khi bang thất nghiệp nhiều nhất nước Mỹ là Michigan có tỉ lệ 7,7% và mức trung bình của nước Mỹ là 4,4%[21]. Năm 1998, Chỉ số Phát triển Con người của Puerto Rico đạt 0,942 điểm, con số cao nhất vùng Mỹ Latinh.
Nhân khẩu
Dân số và chủng tộc
Những cư dân đầu tiên sinh sống tại Puerto Rico là người da đỏ châu Mỹ, sau đó được tiếp nối bởi người da trắng gốc châu Âu và người da đen gốc châu Phi. Thế kỉ 19 đánh dấu một giai đoạn bùng nổ dân nhập cư vào Puerto Rico khi hàng trăm gia đình đổ vào đất nước này để được cấp đất theo Sắc lệnh năm 1815, theo đó cung cấp một lượng đất đai cho những người dân gốc châu Âu theo Công giáo Rôma. Chủ yếu người da trắng tại Puerto Rico có tổ tiên là người Tây Ban Nha, bên cạnh đó cũng có một số dân tộc khác như Bồ Đào Nha, Italy, Scotland, Ireland, Đức… Người da đen đến Puerto Rico trên những con tàu buôn nô lệ đã góp phần làm nên sự đa dạng chủng tộc tại hòn đảo này. Bên cạnh đó, Puerto Rico còn có một cộng đồng người gốc châu Á với các sắc dân Trung Quốc, Liban. Người dân các nước Mỹ Latinh cũng góp thêm vào các dòng người nhập cư từ Colombia, Venezuela, Argentina, Cuba và Cộng hòa Dominicana. Tình trạng nhập cư vào thế kỉ 19 này đã khiến dân số Puerto Rico tăng nhanh, từ 155.000 người vào năm 1800 đến gần 1 triệu người vào cuối thể kỉ 19. Cuộc thống kê điều tra dân số năm 1858 đã cho thấy tỉ lệ chủng tộc tại Puerto Rico như sau: 300.430 người da trắng, 341.015 người da màu tự do và 41.736 nô lệ[22].
Sang thế kỉ 20, Puerto Rico lại xuất hiện tình trạng di dân ra nước ngoài khi người dân Puerto Rico nhập cư vào Hoa Kỳ để tìm cuộc sống tốt hơn, đặc biệt là từ sau Thế chiến Thứ hai. Họ chủ yếu nhập cư vào các bang New York, New Jersey, Illinois, Massachusetts, Florida, Pennsylvania, Connecticut, Washington, D.C., California… và tạo nên một cộng đồng người Mỹ gốc Puerto Rico rất lớn. Hiện số người Puerto Rico sống tại Mỹ đã nhiều hơn cả trong nước.
Nghiên cứu di truyền học năm 2002 trên DNA ty thể với 800 người Puerto Rico cho thấy 61,1% người Puerto Rico thừa hưởng DNA ty thể mẹ từ người thổ dân bản địa, 26,4% châu Phi và 12,5% da trắng. Ngược lại, 70% đàn ông Puerto Rico có nhiễm sắc thể Y của người châu Âu, 20% của tổ tiên châu Phi và ít hơn 10% của người bản địa châu Mỹ. Phát hiện này cho thấy việc lai chủng tại Puerto Rico ở mức độ khá cao và tạo nên sự hòa trộn sắc tộc độc đáo.[23]
Theo cuộc điều tra nhân khẩu năm 2000, dân số của Puerto Rico ước tính khoảng 4 triệu dân. Phân bố chủng tộc của Puerto Rico như sau[24]:
- Người da trắng: 80,5%
- Người da đen: 8,0%
- Người da đỏ: 0,4%
- Người châu Á: 0,2%
- Một số chủng tộc khác: 6,8%
- Người nhiều hơn 2 chủng tộc: 4,2%
Ngôn ngữ
Ở Puerto Rico, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Anh là hai ngôn ngữ được công nhận là ngôn ngữ chính thức. Tiếng Tây Ban Nha là ngôn ngữ mẹ đẻ của người dân và được sử dụng phổ biến tại gia đình cũng như các trường học, cơ quan hành chính. Tiếng Anh được dạy như ngôn ngữ thứ hai tại hầu hết các trường tiểu học, trung học và đại học ở Puerto Rico[25].
Nhìn chung, tiếng Tây Ban Nha ở Puerto Rico vẫn có một số sự khác biệt so với ở các nước nói tiếng Tây Ban Nha khác do ảnh hưởng từ các ngôn ngữ da đỏ bản địa, những ngôn ngữ Phi châu và cả sự ảnh hưởng từ tiếng Anh do quan hệ chặt chẽ giữa hòn đảo với nước Mỹ.
Tôn giáo
Công giáo Rôma là tôn giáo lớn lâu đời nhất tại Puerto Rico (nếu không kể những tôn giáo bản địa) và cho đến ngày nay vẫn là tôn giáo chủ yếu tại nước này. Mỗi thành phố tự trị của Puerto Rico đều có ít nhất một nhà thờ tại khu trung tâm, hay được gọi là plaza. Dưới sự cai trị của người Tây Ban Nha, Đạo Tin lành bị đàn áp nhưng lại được khuyến khích khi gia nhập nước Mỹ. Người Taino bản địa gần đây đang khôi phục lại một số truyền thống tôn giáo của họ, trong khi một số người châu Phi cũng gìn giữ những tôn giáo xa xưa của tổ tiên.
Văn hóa
Văn hóa Puerto Rico là sự hòa trộn giữa bốn dòng văn hóa: văn hóa Taino bản địa, văn hóa Tây Ban Nha, văn hóa Châu Phi và văn hóa Mỹ. Người Taino ngày nay tuy chỉ chiếm một tỉ lệ dân số nhỏ bé song họ vẫn giữ một số tên gọi truyền thống về địa danh, các món ăn, nhạc cụ và một số lượng từ vựng trong tiếng Tây Ban Nha ngày nay của Puerto Rico. Người da đen gốc châu Phi lại có ảnh hưởng trong lĩnh vực âm nhạc với “bomba và plena”, một thể loại loại âm nhạc và nhảy múa với các nhạc cụ bộ gõ và maraca. Người Tây Ban Nha mang đến tiếng Tây Ban Nha, đạo Thiên chúa và những giá trị tinh thần và văn hóa của châu Âu cổ kính. Dòng văn hóa thứ tư đến từ nước Mỹ với tiếng Anh, hệ thống giáo dục đại học và các giá trị văn hóa hiện đại thể hiện trong điện ảnh, âm nhạc. Năm 1903, Trường Đại học Puerto Rico được chính quyền Mỹ thành lập, 5 năm sau khi Puerto Rico trở thành một bộ phần của nước này.
Thể thao
Bóng chày là môn thể thao phổ biến nhất tại Puerto Rico và nước này có hẳn một mùa giải bóng chày chuyên nghiệp riêng được tổ chức vào màu đông. Quyền anh, bóng rổ và bóng chuyền cũng là những môn thể thao rất phổ biến tại đất nước này. Puerto Rico tham dự hầu hết các giải thi đấu thể thao quốc tế như Thế vận hội Mùa hè, Thế vận hội Mùa đông, Đại hội Thể thao Châu Mỹ (Pan American Games), Đại hội Thể thao Trung Mỹ và Caribbean. Puerto Rico đã từng giành được 6 huy chương (1 bạc, 5 đồng) trong lịch sử tham dự các kỳ Thế vận hội, lần đầu tiên vào năm 1948 với chiếc huy chương đồng môn quyền anh của Juan Evangelista Venegas.
Bóng chày là môn thể thao thế mạnh của Puerto Rico và nước này đã từng 1 lần giành huy chương vàng tại Giải vô địch bóng chày thế giới vào năm 1951. Những vận động viên bóng chày nổi tiếng nhất của Puerto Rico là Roberto Clemente và Orlando Cepeda.
Quyền anh cũng là môn thể thao rất được ưa chuộng tại Puerto Rico. Nếu tình bình quân đầu người, Puerto Rico là nước có số lượng nhà vô địch quyền anh nhiều nhất thế giới và đứng thứ ba về tổng số. Các vận động viên tiêu biểu trong môn thể thao này là Miguel Cotto, Félix Trinidad, Wilfred Benítez và Wilfredo Gómez.
Puerto Rico còn là thành viên của FIFA và CONCACAF. Năm 2008, Liên đoàn Bóng đá Puerto Rico chính thức được thành lập.
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Puerto Rico |
Các đảng chính trị chính thức:
Tham khảo
- ^ Phúc âm Luca 1:63. Bản dịch của Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ.
- ^ Cục Tình báo Trung ương
- ^ CIA – The World Factbook – Nhân khẩu Puerto Rico
- ^ “Puerto Rico votes on US ties and chooses governor”. AP. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2012.
- ^ Theo Historia Geográfica, Civil y Natural de la Isla de San Juan Bautista de Puerto Rico
- ^ Biên niên sử ngắn về Puerto Rico
- ^ Ngày nay, người Puerto Rico còn được gọi là người Boricuas, tức người đến từ Boriquen
- ^ Thực ra, Vicente Yáñez Pinzón là người đầu tiên được chỉ định làm thống đốc Puerto Rico nhưng ông chưa hề đặt chân đến hòn đảo
- ^ Mỹ xâm chiếm Puerto Rico – Theo lịch sử Puerto Rico
- ^ Hiệp ước hòa bình giữa Mỹ và Tây Ban Nha (ký ngày 10 tháng 12 năm 1898)
- ^ Hiến pháp Puerto Rico (tiếng Anh)
- ^ Hiến pháp Puerto Rico (tiếng Tây Ban Nha)
- ^ [1] – Theo Hiến pháp Puerto Rico
- ^ [2] Theo CIA – The World Factbook – Jamaica
- ^ [3] Nguồn: CIA – The World Factbook – Cuba
- ^ [4] Độ cao và khoảng cách tại các vùng nước Mỹ
- ^ Lịch sử động đất Puerto Rico
- ^ https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/rq.html Thông tin trên CIA – The World Factbook (cập nhật tháng 8 năm 2009)
- ^ Báo cáo của Ngân hàng Thế giới về Puerto Rico
- ^ [5] Số liệu kinh tế Puerto Rico
- ^ Danh sách các bang theo tỉ lệ thất nghiệp (Theo CNN Money)
- ^ [6] – Theo Lịch sử Puerto Rico
- ^ http://www.kacike.org/MartinezEnglish.pdf
- ^ Thống kê nhân khẩu Puerto Rico năm 2000
- ^ [7] Theo Topuertorico.org
|
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Puerto Rico |
- Puerto Rico
- Vùng quốc hải Hoa Kỳ
- Đại Antilles
- Vùng lãnh thổ phụ thuộc Bắc Mỹ
- Mỹ Latinh
- Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Anh
- Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Tây Ban Nha
- Quốc gia vùng Caribe
Bài viết mới trên TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
- Chào ngày mới 25 tháng 7
- Mảnh đạn trong người
- Chào ngày mới 24 tháng 7
- Năm tháng đó là em
- Chào ngày mới 23 tháng 7
- Chào ngày mới 22 tháng 7
- Thăm Borlaug và Hemingway ở CIANO
- Chào ngày mới 20 tháng 7
- Biển Đông vạn dặm
- Chào ngày mới 19 tháng 7
- Chào ngày mới 18 tháng 7
- Chào ngày mới 17 tháng 7
- Lớp học trên đồng ĐăkGlong Oxfam
- Chào ngày mới 16 tháng 7
- Từ Mekong nhớ Neva
- Chào ngày mới 15 tháng 7
- Ngày mới yêu thương
- Chào ngày mới 14 tháng 7
- Chào ngày mới 13 tháng 7
- Mạc triều trong sử Việt
- Chào ngày mới 12 tháng 7
- Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời
- Giấc mơ tình yêu cuộc sống
- Chào ngày mới 11 tháng 7
- Khoảnh khắc tuyệt đẹp
- Tiếng Anh cho em
- Tháng Bảy mưa Ngâu
- Chào ngày mới 10 tháng 7
- Biển Đông vạn dặm
- Chào ngày mới 9 tháng 7
- Đợi mưa
- Ngày mới yêu thương
- Chào ngày mới 8 tháng 7
- Chào ngày mới 7 tháng 7
- Chào ngày mới 6 tháng 7
- Dưới đáy đại dương là Ngọc
- Lộc xuân cuộc đời
- Chào ngày mới 5 tháng 7
- Ngày mới yêu thương
- Biển Đông vạn dặm
- Chào ngày mới 4 tháng 7
- Trần Thánh Tông
- Bà Đen
- Lộc xuân cuộc đời
- Đọc lại và suy ngẫm 2
- Chào ngày mới 2 tháng 7
- Tiếng Anh cho em
- Biển Đông vạn dặm
- Chào ngày mới 1 tháng 7
- Lời vàng của Anbe Anhstanh
- Quà tặng cuộc sống
- Chào ngày mới 30 tháng 6
- Đêm nhớ Phan Huỳnh Điểu, Phan Nhân
- Ngày mới yêu thương
- Chào ngày mới 29 tháng 6
- Quà tặng cuộc sống
- Chào ngày mới 28 tháng 6
- Thạch Lam hạt ngọc đời nay
- Helen Keller người mù điếc huyền thoại
- Chào ngày mới 27 tháng 6
- Chào ngày mới 26 tháng 6
- Chào ngày mới 25 tháng 6
- GS Trần Văn Khê người Thầy nhạc Việt
- Nguyễn Hiến Lê học và viết
- Lộc xuân cuộc đời
- Quà tặng cuộc sống
- Chào ngày mới 24 tháng 6
- Ngày mới yêu thương
- Chào ngày mới 23 tháng 6
- Lộc xuân cuộc đời
- Chào ngày mới 22 tháng 6
- Chào ngày mới 21 tháng 6
- Biển Đông vạn dặm
- Con là nguồn hạnh phúc đầu tiên
- Chào ngày mới 20 tháng 6
- Từ Mao Trạch Đông đến Tập Cận Bình
- Ngày mới Mạnh Hạo Nhiên
Video nhạc tuyển
Ban Mai
MAR AKRAM – Dancing with the wind♥
KimYouTube
Trở về trang chính
Hoàng Kim Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và học Cây Lương thực Dạy và Học Tình yêu cuộc sống Kim on LinkedIn KimYouTube Kim on Facebook