CNM365. Chào ngày mới 22 tháng 4. Wikipedia Ngày này năm xưa . Ngày Trái Đất. Năm 1970 – Tổ chức Ngày Trái Đất đầu tiên. Năm 967 – Đền Banteay Srei được thánh hóa, đây là đền thờ thần Shiva tại khu vực Angkor thuộc Campuchia ngày nay. Năm 1870 (theo lịch Gregory) – ngày sinh Vladimir Ilyich Lenin, nhà cách mạng Nga, người sáng lập nhà nước Nga Xô viết (mất năm 1924)
22 tháng 4
Ngày 22 tháng 4 là ngày thứ 112 trong mỗi năm thường (ngày thứ 113 trong mỗi năm nhuận). Còn 253 ngày nữa trong năm.
« Tháng 4 năm 2015 » | ||||||
CN | T2 | T3 | T4 | T5 | T6 | T7 |
1 | 2 | 3 | 4 | |||
5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 |
12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 |
19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 |
26 | 27 | 28 | 29 | 30 | ||
Mục lục
Sự kiện
- 926 – Các binh sĩ của Lý Tự Nguyên tiến hành binh biến và buộc chủ tướng phải tham gia nổi dậy chống Hậu Đường Trang Tông, tức ngày Giáp Tý tháng 3.
- 967 – Đền Banteay Srei được thánh hóa, đây là đền thờ thần Shiva tại khu vực Angkor thuộc Campuchia ngày nay.
- 1370 – Thị trưởng Paris Hugues Aubriot đặt viên đá đầu tiên để bắt đầu xây dựng pháo đài Bastille tại Paris, Pháp.
- 1500 – Nhà đi biển người Bồ Đào Nha Pedro Álvares Cabral trở thành người châu Âu đầu tiên tìm thấy Brasil.
- 1915 – Thế chiến thứ nhất: Trận đánh thứ hai ở Ypres: Quân đội Đức lần đầu tiên sử dụng hơi độc ở Ypres, Bỉ.
- 1930 – Anh, Nhật Bản và Hoa Kỳ ký Hiệp ước Hải quân London, điều chỉnh về chiến tranh dùng tàu ngầm và giới hạn xây dựng tàu.
- 1931 – Ai Cập ký hiệp ước hữu nghị với Iraq.
- 1945 – Sau khi nhận thông tin về việc quân đội Liên Xô chiếm Eberswalde, Adolf Hitler thừa nhận là đã thua cuộc chiến này tại hầm boongke (?) dưới đất và phát biểu là chỉ có thể tự tử.
- 1954 – Sợ cộng sản: Thượng nghị sĩ Mỹ Joseph McCarthy bắt đầu nghe điều tra nghiên cứu về Quân đội Hoa Kỳ “lỏng lẻo” về chủ nghĩa cộng sản.
- 1970 – Tổ chức Ngày Trái Đất đầu tiên.
- 1972 – Chiến tranh Việt Nam: Hoa Kỳ tăng cường ném bom ở Việt Nam. Biểu tình phản đối chiến tranh diễn ra ở các thành phố New York, San Francisco, và Los Angeles.
- 1993 – Ở Thành phố Washington, Bảo tàng kỷ niệm Holocaust mở cửa.
- 2004 – Hai xe lửa đâm nhau ở Ryongchon, Triều Tiên, 150 người thiệt mạng.
- 2001 – Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sinh
- 1610 – Giáo hoàng Alexander VIII (m. 1691)
- 1724 – Immanuel Kant, triết gia người Đức (m. 1804)
- 1815 – Otto Knappe von Knappstädt, tướng lĩnh quân đội Phổ (m. 1906)
- 1870 (theo lịch Gregory) – Vladimir Ilyich Lenin, nhà cách mạng Nga, người sáng lập nhà nước Nga Xô viết (m. 1924)
Mất
- 536 – Giáo hoàng Agapetus I
- 1984 – Ansel Adams, nhà nhiếp ảnh người Mỹ (s. 1902)
- 1994 – Richard Nixon, nguyên Tổng thống Mỹ (s. 1913)
Ngày lễ và ngày kỷ niệm
Tham khảo
Tháng 1 | Tháng 2 | Tháng 3 | Tháng 4 | Tháng 5 | Tháng 6 | Tháng 7 | Tháng 8 | Tháng 9 | Tháng 10 | Tháng 11 | Tháng 12 |
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về 22 tháng 4 |
Ngày Trái Đất
Ngày Trái Đất là ngày để nâng cao nhận thức và giá trị của môi trường tự nhiên của Trái Đất. Ngày Trái Đất được tài trợ bỏi thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Gaylord Nelson như một cuộc hội thảo về môi trường được tổ chức lần đầu tiên vào 22 tháng 4 năm 1970. Trong khi Ngày Trái Đất đầu tiên chỉ được chú ý tại Hoa Kỳ, một tổ chức đã được thành lập bởi Denis Hayes, nguyên là điều phối viên toàn quốc năm 1970, đưa nó lên tầm quốc tế vào năm 1990 và tổ chức các sự kiện ở 141 quốc gia.[1][2] Ngày Trái Đất giờ đây được điều phối toàn cầu bởi Mạng Ngày Trái Đất (Earth Day Network)[3] và được tổ chức hàng năm tại hơn 175 nước.[4] Nhiều cộng đồng còn tổ chức Tuần Trái Đất, một tuần của các hoạt động xoay quanh các vấn đề môi trường. Năm 2009, Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc tuyên bố ngày 22 tháng 4 là Ngày Quốc tế Mẹ Trái Đất (International Mother Earth Day).[5]
Mục lục
Giờ Trái Đất đầu tiên
Tên và các khái niệm lúc đầu được đề xuất bởi John McConnell năm 1969 tại một hội nghị của UNESCO tại San Francisco. Ngày Trái Đất đầu tiên được tổ chức vào ngày 21 tháng 3 năm 1970, ngày đầu tiên của mùa xuân ở Bắc bán cầu. Ngày này sau đó đã được thể hiện trong một lời tuyên bố của Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc U Thant là một ngày hành động toàn cầu.[6][7] Ngày nay, Ngày Trái Đất vào ngày Xuân phân (20 hay là 21 tháng 3) vẫn được tổ chức ở nhiều thành phố, như ở San Francisco và các thành phố khác ở California.
Để thu hút sự chú ý đến các vấn đề ô nhiễm môi trường, bắt đầu vào khoảng thời gian tương tự, Gaylord Nelson, một thượng nghị sĩ Hoa Kỳ đến từ Wisconsin đã kêu gọi tổ chức một cuộc hội thảo về môi trường, hay Ngày Trái Đất vào ngày 22 tháng 4 năm 1970. Trên 20 triệu người đã tham gia năm đó và Ngày Trái Đất hiện nay được thấy vào ngày 22 tháng 4 hàng năm với trên 500 triệu người và một số chính phủ ở 175 quốc gia.[cần dẫn nguồn]
Thượng nghị sĩ Nelson, một nhà hoạt động môi trường, giữ vai trò lãnh đạo việc tổ chức sự kiện, muốn thể hiện sự hỗ trợ chính trị cho một chương trình nghị sự về môi trường. Ông đã lấy những buổi hội thảo rất hiệu quả về Chiến tranh Việt Nam thời đó làm mẫu.[8] Ngày Trái Đất được đề xuất đầu tiên trong một báo cáo gửi JFK bởi Fred Dutton.[9] Tuy nghiên, Nelson quyết định đi ngược lại các tiếp cận trên-xuống của Dutton, ủng hộ một nỗ lực phi tập trung, quần chúng trong đó mỗi cộng đồng hình thành hành động của họ quang những vấn đề địa phương.
Nelson đã truyền bá ý tưởng về Ngày Trái Đất trong chuyến đi của ông đến Santa Barbara ngay sau sự cố tràn dầu khủng khiếp ngoài khơi năm 1969.[cần dẫn nguồn] Tức giận trước sự tàn phá và sự chậm chạp của chính quyền Washington, Nelson đề xuất một buổi hội thảo quốc gia về môi trường được quan sát bởi mọi trường đại học trên toàn nước Mỹ.[10]
“I am convinced that all we need to do to bring an overwhelming insistence of the new generation that we stem the tide of environmental disaster is to present the facts clearly and dramatically. To marshal such an effort, I am proposing a national teach-in on the crisis of the environment to be held next spring on every university campus across the Nation. The crisis is so imminent, in my opinion, that every university should set aside 1 day in the school year-the same day across the Nation-for the teach-in”.[10]
Có nghĩa là: “Tôi tin rằng tất cả chúng ta cần phải hành động ngay để mang lại một sự sức mạnh thay đổi của thế hệ mới mà chúng tôi ngăn chặn xu hướng của thảm họa môi trường để trình bày sự thật rõ ràng và đáng kể. Để sắp xếp một nỗ lực như vậy, tôi đề xuất một quốc gia giảng dạy về cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về môi trường được tổ chức vào mùa xuân tới trên tất cả các khuôn viên trường đại học trên khắp các quốc gia. Cuộc khủng hoảng sắp xảy ra như vậy, theo ý kiến của tôi, rằng tất cả các trường đại học nên dành 1 ngày trong các trường năm trong cùng một ngày trên toàn quốc để giảng dạy về điều này.”
Một trong những người tổ chức còn nói:
“We’re going to be focusing an enormous amount of public interest on a whole, wide range of environmental events, hopefully in such a manner that it’s going to be drawing the interrelationships between them and, getting people to look at the whole thing as one consistent kind of picture, a picture of a society that’s rapidly going in the wrong direction that has to be stopped and turned around.”
Có nghĩa là: “Chúng ta sẽ tập trung một số lượng lớn của lợi ích công cộng trên một phạm vi rộng, các sự kiện môi trường, hy vọng trong một rằng cách thức nó sẽ được liệt kê và vẽ các mối tương quan giữa họ để mọi người nhìn nhận được vào toàn bộ điều trên bằng những hình ảnh phù hợp, một hình ảnh của một xã hội đang nhanh chóng đi theo hướng sai lầm và cần phải được dừng lại và quay lại ngay.”
“It’s going to be an enormous affair, I think. We have groups operating now in about 12,000 high schools, 2,000 colleges and universities and a couple of thousand other community groups. It’s safe to say I think that the number of people who will be participating in one way or another is going to be ranging in the millions.”[11]
Có nghĩa là: “Tôi nghĩ nó sẽ là một chuyện rất lớn. Chúng tôi có các nhóm hoạt động tại trong khoảng 12.000 trường trung học, 2.000 trường cao đẳng và các trường đại học và một vài nghìn các nhóm cộng đồng khác. Đó là điều để nói rằng số lượng những người sẽ được tham gia một cách này hay cách khác sẽ khác nhau, trong hàng triệu người rồi dần tăng lên.”
Ngày 29 tháng 9 năm 1969, trong một bài viết dài ở trang đầu báo New York Times, Gladwin Hill viết:
“Mối lo ngại ngày càng tăng về “khủng hoảng môi trường” tràn qua các trường đại học trong cả nước với sức mạnh có thể làm lu mờ sự bất mãn của sinh viên với Chiến tranh Việt Nam… ngày vì các vấn đề môi trường, tương tự như những cuộc biểu tình rộng lớn về vấn đề Việt Nam đang được lên kế hoạch vào mùa xuân năm sau, khi một buổi hội thảo môi trường toàn quốc… điều phối từ văn phòng của thương nghị sĩ Gaylord Nelson đang được chuẩn bị…”[12]
Denis Hayes, một cựu sinh viên Havard, sau khi đọc bài báo của New York Times đã đến Washington để tham gia.[13] An trở thành chủ tịch của khối sinh viên và nhà hoạt động ở Đại học Standford thuộc quận McCloskey’s nơi Paul Ehrlich, thành viên ban điều hành hội thảo, là giảng viên. Nelson mời Hayes rời Havard, thiết lập một tổ chức và hướng đến toàn nước Mỹ.[14][15] Hayes sau đó trở thành một nhà hoạt động môi trường được nhiều người biết đến.[16]
Hayes tuyển một số cử nhân trẻ để đến Washington, D.C. và bắt đầu chuẩn bị cho Ngày Trái Đất đầu tiên.
Đề nghị của Nelson khó thực hiện, vì cuộc vật động Ngày Trái Đất tỏ ra tự phát mà không có trung tâm điều hành.[17] Thượng nghị sĩ chứng thực, cuộc vận động đơn giản tự nó phát triển:
Ngày Trái Đất thành công nhờ phản ứng tự nguyện của tầng lớp thường dân. Chúng tôi không có thời gian hay nguồn lực để tổ chức 20 triệu người biểu tình và hàng nghìn trường học và các cộng đồng địa phương tham gia. Đó là điều đáng chú ý về Ngày Trái Đất. Nó tự tổ chức.[17]
Ngày 22 tháng 4 năm 1970, Ngày Trái Đất đánh dấu sự khởi đầu của cuộc vận động vì môi trường hiện đại. Xấp xỉ 20 triệu người Mỹ tham gia. Hàng ngàn trường đại học và cao đẳng tổ chức biểu tình chống lại sự xuống cấp của môi trường. Các nhóm người chống tràn dầu, các công xưởng và nhà máy điện ô nhiễm, nước thải không qua xử lý, chất độc hoá học, thuốc trừ sâu, sự suy giảm vùng hoang dã và ô nhiễm không khí bỗng chốc nhận ra họ có chung mục đích.
Ngày Trái Đất xuất hiện trên các phương tiện truyền thông đại chúng qua bài báo cáo đặc biệt dài một tiếng vào giờ vàng của CBS mang tên “Ngày Trái Đất: Vấn đề của sự tồn tại” với các bài trả lời của nhiều thành phố lớn dọc đất nước và bài tường thuật của Walter Cronkite (trên nền logo của Uỷ ban Tuần Trái Đất Philadelphia).[18]
Pete Seeger là người dẫn chương trình và diễn thuyết chính trong sự kiện tổ chức ở Washington DC. Paul Newman và Ali McGraw đã tham dự sự kiện tổ chức ở New York City.[19]
Kết quả của Ngày Trái Đất 1970
Ngày Trái Đất đã chứng tỏ sự rộng rãi ở Hoa Kỳ và trên toàn thế giới. Ngày Trái Đất đầu tiên có sự tham dự và ủng hộ của hai nghìn trường đại học và cao đăng, gần 10 nghìn trường tiểu học và cấp hai và hàng trăm cộng động dọc nước Mỹ. Quan trọng hơn, nó “đưa 20 nghìn người Mỹ ra khỏi nhà trong ánh nắng của mùa xuân cho một cuộc tuần hành hoà bình ủng hộ môi trường.” [20]
Thượng nghị sĩ Nelson tuyên bố rằng Ngày Trái Đất thành công nhờ phản ứng của tầng lớp bình dân.[21] Ông gắn Ngày Trái Đất với việc thuyết phục các chính trị gia Hoa Kỳ rằng luật môi trường nhận được sử ủng hộ quan trọng và lâu dài của cử tri.
Tên gọi Ngày Trái Đất
Theo thượng nghị sĩ Nelson, tên gọi “Ngày Trái Đất”chính là “một tên gọi hiển nhiên và hợp lý” được đề xuất bởi “một số người” vào mùa thu 1969, bao gồm, ông viết, cả “một người bạn của tôi làm việc trong lĩnh vực quan hệ công chúng” và “một advertising executive ở New York”, Julian Koenig.[22] Koenig, một thành viên trong uỷ ban tổ chức của Nelson năm 1969, nói rằng ý tưởng này đến với ông do ngày sinh nhật ông trùng với ngày được chọn, 22 tháng 4; “Earth Day” vần với “birthday” (ngày sinh), một mối liên hệ tự nhiên.[23][24] Một số tên gọi khác được sử dụng trong quá trình chuẩn bị – chính Nelson vẫn tiếp tục gọi nó là Hội thảo Quốc gia về Môi trường tuy nhiên báo chí đã thống nhất cách gọi “Ngày Trái Đất”.[22]
Các chỉ trích
Nhà văn Alex Steffen, người đề xuất Bright green environmentalism, buộc tội Ngày Trái Đất biểu tượng hoá sự cách ly của việc bảo vệ môi trường, và bản thân nó đã vượt quá ích lợi nó tạo ra.[25]
Một bài xã luộn trên The Washington Times ngày 5 tháng 5 năm 2009 so sánh Ngày Cây xanh với Ngày Trái Đất, tuyên bố rằng Ngày Cây xanh là một lễ kỷ niệm vui vẻ, phi chính trị của cây xanh trong khi Ngày Trái Đất bi quan, nặng về chính trị và mô tả con người một cách tiêu cực.[26]
Bản chất đáng ngờ của các công ty và sản phẩm tham gia vào các buổi biểu tình liên quan đến Ngày Trái Đất dẫn đến sự buộc tội greenwashing.[27]
Ngày Trái Đất 2010
Ngày Trái Đất 2010 diễn ra đồng thời với Hội nghị Nhân dân Thế giới về Biến đổi Khí hậu, tổ chức ở Cochabamba, Bolivia, và Năm Đa dạng Sinh học.
Xem thêm
Tham khảo
- ^ Staff — The Bullitt Foundation
- ^ The Rumpus Interview With Earth Day Organizer Denis Hayes – The Rumpus.net
- ^ Earth Day 2012 | Earth Day Network
- ^ Earth Day International
- ^ GENERAL ASSEMBLY PROCLAIMS 22 APRIL ‘INTERNATIONAL MOTHER EARTH DAY’ ADOPTING BY CONSENSUS BOLIVIA-LED RESOLUTION
- ^ “Who invented Earth Day?”. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2014.
- ^ “EarthSite”. “EarthSite”. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2010.
- ^ Brown, Tim (ngày 11 tháng 4 năm 2005). “What is Earth Day?”. United States Department of State. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2006.
- ^ “Fred Dutton 1923-2005”.
- ^ a ă Congressional Record, Vol 115, No 164, ngày 8 tháng 10 năm 1969. [1]
- ^ “Ecology: 1970 Year in Review”. Upi.com. 25 tháng 10 năm 2005. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2010.
- ^ ‘Environmental Crisis’ May Eclipse Vietnam as College Issue, New York Times, 11/30/1969
- ^ “U.S. Mayor Article | Earth Day 1970 –Defining Moments (ngày 27 tháng 4 năm 2009)”. Usmayors.org. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Denis Hayes, Earth Day Network”. Grist. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Portraits of the green generation’”. Dailyme.com. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2010.[liên kết hỏng]
- ^ Denis Hayes
- ^ a ă How the First Earth Day Came About by Senator Gaylord Nelson
- ^ a ă 1970 CBS News Special Report with Walter Cronkite: Earth Day – A Question of Survival
- ^ “Environment”. United States Embassy, Wellington, New Zealand. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2006.
- ^ Lewis, Jack (November 1985). “The Birth of EPA”. United States Environmental Protection Agency.’.’ Retrieved ngày 25 tháng 4 năm 2006.
- ^ Nelson, Gaylord. “How the First Earth Day Came About”. Envirolink.org. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2007.
- ^ a ă Gaylord Nelson Papers, State Historical Society of Wisconsin, Box 231, Folder 43.
- ^ “Origin Story” (bằng). This American Life. Tập 383. ngày 19 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2010.
- ^ Statement by Paul Leventhal on the 25th Anniversary of the Nuclear Control Institute, 6/21/2006
- ^ “Tools, Models and Ideas for Building a Bright Green Future: Make This Earth Day Your Last!”. WorldChanging. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2010.
- ^ Arbor vs. Earth Day, The Washington Times, ngày 5 tháng 5 năm 2009
- ^ Has Earth Day Become Corporate Greenwash Day?, Huffington Post, ngày 22 tháng 4 năm 2010
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Ngày Trái Đất |
![]() |
Tra Earth Day trong từ điển mở tiếng Việt Wiktionary |
![]() |
Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: |
Ngày Trái Đất
- How the First Earth Day Came About by Senator Gaylord Nelson – Explaining the origins of the first Earth Day.
- EarthWeek.us | The First Earth Day and the Earth Week Committee of Philadelphia – The history of the First Earth Day in 1970, the founding of Earth Week, and the historic events of the first Earth Week in Philadelphia
- Gaylord Nelson and Earth Day: The Making of the Modern Environmental Movement – a narrative account of the origins of Earth Day, Gaylord Nelson’s political career, as well as online access to dozens of documents from the Wisconsin Historical Society’s Nelson Papers collection
- Gaylord Nelson letter outlines the origins Earth Day – Nelson letter ngày 7 tháng 4 năm 1971 to CBS President Fred Stanton to correct TV news reporting about Earth Day’s origins.
- Earth Day Network – Coordinating worldwide events for Earth Day.
- Earth Day Event Calendar at the EnviroLink Network
- Celebrate Earth Day How to Celebrate Earth Day from WikiHow
- Earth Day 2009 Special Coverage on China Development Gateway.
- United States Earth Day – The U.S. government’s Earth Day site.
- Earth Day Canada – The Canadian Official Site for Earth Day
- Keep America Beautiful – Keep America Beautiful holds Earth Day cleanup activities in communities nationwide. The organization launched the famous Crying Indian campaign on Earth Day, 1971.
- Earth Day at The Nature Conservancy
- “Beyond Earth Day: Fulfilling the Promise,” by Gaylord Nelson, with Susan Campbell and Paul Wozniak, The University of Wisconsin Press, 2002
- – EPA Journal: Earth Day – an entire journal dedicated to Earth Day, written in early 1990.
- Earth Day at The History Channel
Equinoctial Earth Day
- Earth Society Foundation – Official organization arranging annual equinox Earth Day celebration at the United Nations
- Who Started Earth Day – The Origins of the equinox Earth Day.
Ngày Trái Đất 2010
- Billion Acts of Green (Beta) – Official Earth Day Network’s “Billion Acts of Green” website for students and young adults
Ngày Trái Đất 2011
|
- Diễu hành
- Ngày nhận thức môi trường
- Ngày kỷ niệm của Hoa Kỳ
- Lịch sử hoạt động môi trường
- Sự kiện định kỳ bắt đầu năm 1970
- Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Tư
- Ngày Hành động
- Bảo vệ môi trường
- Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Ba
Banteay Srei | |
![]() |
|
Tên gọi: | Banteay Srei |
---|---|
Ngày xây: | 967 |
Vị thần ban đầu: | Siva |
Kiến trúc: | Kiến trúc Khmer |
Vị trí: | Angkor, Campuchia |
Banteay Srei (hay Banteay Srey) là một ngôi đền Campuchia được xây để thờ thần Hindu là Shiva. Ngôi đền “Banteay Srei” (đền của phụ nữ) vào thế kỷ thứ 10 hay còn gọi là “Tribhuvanamahesvara” này tọa lạc tại khu vực Angkor ở Campuchia, tại tọa độ 13,59 độ vĩ bắc, 103,96667 độ kinh đông, ngôi đền này nằm gần đồi Phnom Dei, cách 25 km (15 dặm) về phía đông bắc của nhóm các đền đã từng thuộc về các kinh đô cổ đại của Yasodharapura và Angkor Thom[1]. Banteay Srei được xây chủ yếu bằng đá sa thạch đỏ, một chất pha màu được thêm vào những bức điêu khắc trang trí tỉ mỉ trên tường mà ngày nay vẫn còn được nhìn thấy. Những công trình này là một vật thu nhỏ khi lấy các công trình Angkor làm tiêu chuẩn. Những yếu tố này giúp cho ngôi đền nổi tiếng với du khác, và được nhắc đến với các tên “viên ngọc quý”, hoặc “trang sức của nghệ thuật Khmer”[2].
Mục lục
Mô tả đền
Tổng quan
Ngôi đền là bức tranh tuyệt tác về nghệ thuật điêu khắc trên đá ong và sa thạch đỏ.Bản thân ngôi đền được xem là tuyệt đỉnh của nghệ thuật trên đá với những bức phù điêu hoa văn một cách tinh tế và khéo léo từng chi tiết nhỏ. Ngôi đền ban đầu thờ thần Shiva, trong khi đó ngôi đền phía Bắc lại thờ thần Vishnu.
Đầu tiên ngôi đền này có tên là Tribhuvanamahesvara – nơi đây được xem là trung tâm hình ảnh của tôn giáo. Bao bọc xung quanh ngôi đền có rất nhiều tháp mà người ta gọi là Isvarapura.
Về sau, tên gọi của ngôi đền mới được sửa lại là Banteay Srei. Tuy nhiên, so với việc xây dựng từ ban đầu, nó được chính thức xây dựng và mở rộng lại vào thế kỷ thứ 8, mãi đến những năm sau đó, các họa tiết trong đền mới được điêu khắc vào thế kỷ thứ 12 và ngôi đền chính thức hoàn thành trọn vẹn vào thế kỷ 14.
Chi tiết
Đường đi đến Banteay Srei rất tốt, được cải tiến rất nhiều so với mấy năm trước đây. Hai bên đường là các hàng cây được trồng và tân trang lại.Những ngôi nhà dân sinh sống trong khu vực ngôi đền trước đây được chính quyền Siêmriep mua lại và mở rộng khu di tích.
Đền Banteay Srei là tuyệt tác của nghệ thuật tôn giáo Balamon Ấn Độ. Đền gồm ba lớp, qua cầu đá đi vào cổng đền là vòng ngoài, đến cầu đá thứ hai qua hào nước (nay không còn) là cổng vào vòng giữa và cuối cùng là vòng trong gồm các đền thờ và hai toà kiến trúc gọi là “thư viện”. Trước ảnh (mandapa) nối với trung tâm đền là các tượng người bảo vệ đền. Các tượng này thật ra chỉ là tượng sao bản, tượng cổ nguyên thủy hiện nay được giữ bảo quản ở Viện bảo tàng Quốc gia Phnom Penh. Trên mi cửa (lintel) ở cửa hành lang điện sảnh là những điêu khắc tỉ mỉ. Có nhiều hoa văn trên đá như hoa lá, các con Phật sư hay những con sư tử và các vị thần linh được điêu khắc một cách tinh xảo đến từng chi tiết nhỏ nhất. Trên sân nhỏ giữa đền ở vòng trong có ba đền thờ: kiến trúc đền thờ phía Bắc thờ thần Vishnu, đền trung tâm và đền phía Nam thờ thần Shiva.
Tình trạng
Ngôi đền chính thức bị quên lãng sau nhiều thập kỷ liên tiếp cùng chung số phận với hơn 45 cụm di tích khác trong quần thể Angkor. Sau đó ngôi đền chính thức được phát hiện vào năm 1914 bởi các nhà khảo cổ người Pháp.
Năm 1923, một nhà văn Pháp trẻ 22 tuổi André Malraux cùng vợ và một người bạn đã đục lấy đi các tượng tổng cộng hơn 600 ký, chở đi trên ba xe bò, và sau đó dùng tàu thủy đến Phnom Penh để bán cho người mà họ đã thương lượng trước đó. Nhưng may thay, tại đấy, cả ba bị bắt và bị kết án ba năm tù. Bản án tuy vậy không được thực thi nhưng vụ án này đã được phổ biến rộng rãi trên báo chí và từ đó thúc dục nhà cầm quyền thực thi vai trò quan trọng của sự bảo tồn và bảo vệ những kiến trúc quí giá ở Angkor. Phương pháp phục hồi (analystolosis) bắt đầu được dùng đầu tiên bởi nhà khảo cổ Marchal ở đền Banteay Srei để phục hồi những chỗ bị hư hại. Nhà văn Vương Hồng Sển khi viếng Banteay Srei vào năm 1940, thấy đền hầu như nguyên vẹn sau khi được phục hồi, lúc đó còn ở giữa rừng hoang.
Tham khảo
- Phan Minh Châu, Cùng bạn khám phá thế giới – Sapaco Tourist
- Freeman, Michael và Claude Jacques (1999). Ancient Angkor. River Books. ISBN 0-8348-0426-3
- Glaize, Maurice (2003 edition of an English translation of the 1993 French fourth edition). The Monuments of the Angkor Group. Truy cập 14 tháng 7 2005
- Higham, Charles (2001). The Civilization of Angkor. Phoenix. ISBN 1-84212-584-2
- Jessup, Helen Ibbetson (2004). Art & Architecture of Cambodia. Thames & Hudson. pp. 99–104
- Rovedo, Vittorio (1997). Khmer Mythology: Secrets of Angkor. New York: Weatherhill. (This work should be used with caution. While it is thorough in its treatment of Angkorian representational art, and contains many useful photographs, it is sometimes inaccurate in its characterization of the underlying Indian myths, and does not reflect a thorough investigation of sources for those myths.)
- Banteay Srei
Thư viện ảnh
Chú thích
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Banteay Srei |
- Angkor.com: Banteay Srei Hình ảnh về những phần của đền thờ mà du khách không còn được vào thăm
- Bộ ảnh Banteay Srei
- Ảnh Banteay Srei cùng giải thích về 3 trong số các câu chuyện được tạc trên tường: chuyện về các hoàng tử khỉ Bali và Sugreeva, về người-sư-tử Narasimha, và về vụ giết người trong rừng Khandava
|
|
Shiva
Shiva | |
---|---|
![]() Tượng thần Shiva thiền định, tại Bengaluru
|
|
Devanagari | शिव |
Phiên âm Tiếng Phạn | Śiva |
Liên kết | Parameshwara (Supreme God), Trimurti |
Thần chú | Om Namah Shivaya, Mahamrityunjaya Mantra |
Vũ khí | Trishula |
Vợ/chồng | Sati, Parvati (also known as Durga, Kali, and Shakti) |
Con cái | Kartikeya, Ganesha |
Vahana | Nandi (bull) |
Shiva (si-va), (tiếng Phạn: शिव, Śiva, nghĩa là “điềm lành”), phiên âm Hán Việt là Thấp Bà, là một vị thần quan trọng của Ấn Độ giáo, và một khía cạnh của Trimurti. Phái Shaiva của Ấn Độ giáo coi Shiva là vị Thượng đế tối cao. Trong phái Smarta, Shiva là một trong năm hình thức nguyên sơ của Thượng đế.[1][2]
Thần Shiva thường được thờ cúng dưới hình thức Shiva linga. Trong các ảnh tượng, thần thường được thể hiện trong trạng thái thiền định sâu hoặc đang múa điệu Tandava trên Maya.
Trong một số trường phái Ấn Độ giáo khác, Brahma, Vishnu, và Shiva đại diện cho ba khía cạnh thần thánh của Ấn Độ giáo và hợp chung thành bộ tam thần Trimurti. Trong trường phái tư tưởng tôn giáo này, Brahma là đấng tạo hóa, Vishnu là đấng bảo hộ, còn Shiva là đấng hủy diệt hoặc biến đổi.[3]
Chú thích
Phương tiện liên quan tới Shiva tại Wikimedia Commons
- ^ http://www.himalayanacademy.com/resources/books/dws/dws_mandala-02.html
- ^ Flood (1996), p. 17.
- ^ Zimmer (1972) p. 124.
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Shiva |
|
Angkor
Angkor | |
---|---|
![]() |
|
![]() |
|
Quốc gia | ![]() |
Kiểu | Văn hóa |
Hạng mục | i, ii, iii, iv |
Tham khảo | 668 |
Vùng UNESCO | Châu Á-Châu Đại Dương |
Lịch sử công nhận | |
Công nhận | 1992 (kì thứ 16) |
Bị đe dọa | 1992-2004 |
Angkor là một tên thường gọi của một khu vực tại Campuchia đã từng là kinh đô của Đế quốc Khmer và đã phát triển rực rỡ vào khoảng thế kỷ 9 đến thế kỷ 15. Từ “Angkor” xuất phát từ tiếng Phạn nagara và có nghĩa là “thành phố”[1]. Chính xác hơn, thời kỳ Angkor có thể được định nghĩa là thời kỳ từ năm 802, khi vị vua Hindu Jayavarman II của người Khmer tự xưng “vua thiên hạ” và “thiên tử” của Campuchia, cho đến năm 1431, khi người Thái chiếm được kinh đô của Khmer khiến cho dân cư ở đây di cư về phía nam đến khu vực Phnom Penh.
Phế tích của Angkor nằm giữa rừng và vùng đất canh tác nông nghiệp về phía bắc của Biển Hồ (Tonle Sap) và phía nam của đồi Kulen, gần thành phố Xiêm Riệp ngày nay (13°24’N, 103°51’E), và là một di sản thể giới của UNESCO. Các ngôi đền của khu vực Angkor có số lượng trên 1000 với kích cỡ và hình dáng khác nhau mang đậm phong cách kiến trúc Khmer.
Năm 2007, các nhà nghiên cứu quốc tế đã sử dụng ảnh vệ tinh và các kỹ thuật hiện đại khác để kết luận rằng Angkor là thành phố thuộc thời kỳ tiền công nghiệp lớn nhất thế giới với diện tích 1150 dặm vuông. Thành phố cạnh tranh tiêu chí này gần nhất với Angkor là thành phố Tikal của văn hóa Maya ở Guatemala, có tổng diện tích khoảng 50 dặm vuông[2].
Mục lục
Lịch sử
Vương quốc Khmer
Thời kì của vương quốc Khmer bắt đầu từ khoảng những năm đầu thế kỉ thứ 9, khi Vua Jayavarman II tuyên bố nền độc lập cho vùng đất Kambujadesa (Campuchia ngày nay), tách khỏi Java và đặt thủ đô tại Hariharalaya ở phái Nam Biển Hồ. Bằng những biện pháp chính trị, kinh tế, quân sự; Vua Jayavarman II đã thống nhất được một vùng đất đai khá rộng lớn, phía bắc giáp Trung Quốc, phía Đông giáp vương quốc Champa(nay thuộc miền trung Việt Nam) và phía nam giáp biển. Khu vực phía tây chưa được xác định cụ thể, chỉ mới tìm thấy một phiến đá có khắc dòng chữ ” miền đất của cây bạch đậu khấu và xoài”. Vào năm 802, vua Jayavarman chính thức lên ngôi, tự xưng là chakravartin, có nghĩa là “vua thiên hạ”. Trước cuộc khởi nghĩa của Jayavarman, Campuchia là một trong số những nước chư hầu của Trung Quốc, theo cách gọi của người Hoa là Phù Nam và Chân Lạp. Năm 889, vua Yasovarman lên ngôi, ông là người có công lớn trong việc xây dựng Angkor. Ở khu vực gần cố đô Hariharalaya, Yasovarman đã cho xây dựng một thành phố mới được gọi là Yasodharapura. Theo truyền thống của tổ tiên, ông cũng xây ở đây những hồ nước lớn mà cho đến ngày nay ý nghĩa của nó vẫn là đề tài tranh cãi của nhiều học giả trên thế giới. Một bộ phận nghiêng về giả thiết cho rằng đó là những công trình thủy lợi của người Angkor. Số còn lại nhìn nhận chúng như là những biểu tượng tôn giáo, tượng trưng cho những đại dương bao quanh ngọn núi Meru, nơi ngự trị của những vị thần trong truyền thuyết. Yasovarman cho xây dựng ngôi đền trung tâm trên một ngọn đồi thấp có tên là Phnom Bakheng, xung quanh là những hào nước lón. Ông còn cho xây dựng rất nhiều ngôi đền của đạo Hindu và vô số nơi ẩn cư cho những nhà tu khổ hạnh. Trên 300 năm sau, khoảng từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XIII, vương quốc Khmer đã tạo nên rất nhiều kiệt tác kiến trúc để lại cho đời sau, tất cả chúng đều nằm trong quần thể Angkor. Hầu hết chúng đều nằm tập trung trong một khu vực rộng lớn có chiều dài xấp xỉ 24 km (gần 15dặm) và chiều rộng khoảng 8 km (gần 5dặm). Khoảng 72 đền thờ chính và những công trình khác được xây dựng trên khu vực này. Những ngôi làng nhỏ nằm xung quanh quần thể đền đài có diện tích xấp xỉ 3000 km² (tương đương 1150 dặm vuông), gần bằng Los Angeles ngày nay.
Kiến trúc của đền Angkor Vat
Xem thêm
Chú thích
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Angkor |
Tham khảo
http://vietbao.vn/The-gioi/Nhung-kham-pha-moi-ve-nen-van-minh-Angkor/30192631/165/
|
|
Vladimir Ilyich Lenin
Vladimir Ilyich Lenin Владимир Ильич Ленин |
|
![]() Lê-nin năm 1920 |
|
Chủ tịch Hội đồng Dân ủy Liên Xô | |
---|---|
Nhiệm kỳ | 30 tháng 12 năm 1922 – 21 tháng 1 năm 1924 |
Kế nhiệm | Alexey Rykov |
Chủ tịch Hội đồng Dân ủy Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga | |
Nhiệm kỳ | 8 tháng 11 năm 1917 – 21 tháng 1 năm 1924 |
Kế nhiệm | Alexey Rykov |
Lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô | |
Nhiệm kỳ | 17 tháng 11 năm 1903 – 21 tháng 1 năm 1924 |
Kế nhiệm | Joseph Stalin |
Tiểu sử | |
Đảng | Đảng Cộng sản Liên Xô |
Sinh | 22 tháng 4 năm 1870 Simbirsk, Đế quốc Nga |
Mất | 21 tháng 1 năm 1924 (53 tuổi) Gorki, Liên Xô |
Quốc tịch | Liên Xô |
Tôn giáo | Không |
Hôn nhân | Nadezhda Krupskaya (Наде́жда Константи́новна Кру́пская) |
Chữ kí | ![]() |
Vladimir Ilyich Lenin (tiếng Nga: Влади́мир Ильи́ч Ле́нин, phiên âm tiếng Viêt: Vla-đi-mia I-lích Lê-nin), tên khai sinh là Vladimir Ilyich Ulyanov (tiếng Nga: Влади́мир Ильи́ч Улья́нов), còn thường được gọi với tên V. I. Lenin hay N. Lenin, có các bí danh: V.Ilin, K.Tulin, Karpov…; sinh ngày 22 tháng 4 năm 1870, mất ngày 21 tháng 1 năm 1924; là một lãnh tụ của phong trào cách mạng vô sản Nga, là người phát triển học thuyết của Karl Marx (1818 – 1883) và Friedrich Engels.
Ông sinh tại làng Gorki, Simbirsk, nay là Ulyanovsk. Tên họ thật là Vladimir Ilyich Ulyanov. Lenin là người tổ chức Đảng Cộng sản Liên Xô và thành lập nước Nga Xô Viết.
Ông được coi là một trong 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất đến lịch sử thế giới.[1][2]
Ông mất tháng 1 năm 1924, thi hài được lưu giữ trong lăng Lênin trên Quảng trường Đỏ, Moskva.
Mục lục
Tuổi trẻ
Lenin sinh tại Simbirsk, Nga (hiện là Ulyanovsk), là con trai thứ ba trong gia đình tương đối đầm ấm[3] của vợ chồng Ilya Nikolaevich Ulyanov (1831–1886), một viên chức dân sự Nga làm việc để mở rộng dân chủ và giáo dục đại chúng miễn phí ở Nga, và Maria Alexandrovna Ulyanova (1835–1916), một người theo chủ nghĩa tự do. Lênin là người có dòng máu lai từ thời tổ tiên. Là người Nga nhưng ông có dòng máu của người Kalmyk qua ông nội, của người Đức Volga qua bà ngoại (là một người theo thuyết Luther), và của người Do Thái qua ông ngoại (người đã cải theo Ki-tô giáo). Lênin được rửa tội trong Nhà thờ Chính Thống giáo Nga.
Lenin nổi tiếng học giỏi tiếng La Tinh và tiếng Hy Lạp. Hai bi kịch đã xảy ra trong thời niên thiếu của ông. Lần đầu khi cha ông qua đời vì xuất huyết não năm 1886. Tháng 5 năm 1887 anh cả của ông là Aleksandr Ilyich Ulyanov – một người theo phái “Dân ý”[4] – bị treo cổ vì tham gia vào một âm mưu ám sát Nga hoàng Aleksandr III. Sự kiện này đã làm Lenin trở thành người cấp tiến. Tiểu sử chính thức của ông thời Xô Viết coi sự kiện này có ảnh hưởng lớn tới các quá trình cách mạng của ông. Một bức tranh nổi tiếng của Belousov, Chúng ta sẽ đi theo một con đường khác, được in lại hàng triệu bản trong những cuốn sách thời Xô Viết, mô tả cậu bé Lenin và mẹ đang buồn bã khi mất người anh trai. Câu nói “Chúng ta sẽ theo một con đường khác” có nghĩa là Lenin đã lựa chọn chủ nghĩa Marx để tiếp cận tới cách mạng nhân dân, thay vì những phương pháp vô chính phủ cá nhân. Khi Lênin bắt đầu quan tâm tới chủ nghĩa Marx, ông tham gia vào các cuộc phản kháng của sinh viên và cuối năm đó bị bắt. Sau đó ông bị đuổi khỏi Đại học Kazan. Ông tiếp tục học tập một mình và tới năm 1891 đã có giấy phép hành nghề luật.
Tháng 7 năm 1898, ông cưới Nadezhda Krupskaya, một người hoạt động xã hội[5].
Cách mạng
Sau khi tốt nghiệp
Ngay khi tốt nghiệp, Lênin vào làm trợ lý cho một luật sư. Ông làm việc nhiều năm tại Samara, Nga, sau đó vào năm 1893 chuyển tới kinh đô Sankt-Peterburg. Thay vì tìm kiếm một công việc hợp pháp ổn định, ông ngày càng tham gia sâu vào các hoạt động tuyên truyền cách mạng và nghiên cứu chủ nghĩa Marx. Ngày 7 tháng 12 năm 1895, ông bị nhà chức trách bắt giam 14 tháng sau đó trục xuất tới một làng tại Shushenskoye ở Xibia.
Tháng 4 năm 1899, ông xuất bản cuốn sách Sự phát triển của Chủ nghĩa Tư bản tại Nga[6], một cuốn sách khá đồ sộ.[7] Năm 1900, thời kỳ đi đày chấm dứt. Ông đi du lịch nước Nga và những nơi khác ở châu Âu. Lenin đã sống tại Zürich, Genève, München, Praha, Viên và Luân Đôn và trong khi bị đi đày ông đã sáng lập tờ báo Iskra. Ông cũng viết một số bài báo và cuốn sách về phong trào cách mạng. Trong giai đoạn này, ông đã bắt đầu sử dụng nhiều bí danh, cuối cùng lấy tên Lenin.
Ông hoạt động trong Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga (RSDLP; РСДРП trong tiếng Nga), và vào năm 1903 ông lãnh đạo phái Bolshevik sau một sự chia rẽ với những người Menshevik, điều này xảy ra một phần từ cuốn sách nhỏ của ông Điều cần làm?[8] Năm 1906 ông được bầu làm Chủ tịch RSDLP. Năm 1907 ông tới Phần Lan vì những lý do an ninh. Ông tiếp tục đi du lịch châu Âu và tham gia vào nhiều cuộc gặp gỡ cũng như các hoạt động xã hội, gồm cả Hội thảo Đảng Praha năm 1912 và Hội thảo Zimmerwald năm 1915. Khi Inessa Armand rời Nga sang sống tại Paris, bà đã gặp Lênin và những người Bolshevik khác đang bị trục xuất, và được cho là đã trở thành một người cộng tác của Lenin trong thời gian đó. Sau đó Lenin đi sang Thụy Sĩ.
Richard Pipes cho rằng Lenin đã phân tích Công xã Paris và kết luận phong trào này thất bại vì “sự khoan hồng quá mức – đúng ra Công xã phải tiêu diệt những kẻ thù của mình”.[9] Tuy nhiên, cả câu trích dẫn, như Lenin đã nói trong một bài phát biểu đã được chuyển tới một cuộc gặp gỡ quốc tế tại Genève ngày 18 tháng 3 năm 1908, nhân ngày lễ kỷ niệm Công xã như sau: “Dù giai cấp vô sản xã hội đã bị chia rẽ thành nhiều phe, Công xã là một ví dụ cụ thể về sự đoàn kết để khi có nó giai cấp vô sản có thể hoàn thành các nhiệm vụ dân chủ mà giai cấp tư sản chỉ có thể tuyên bố ra. Không cần có một điều luật phức tạp đặc thù nào cả, một cách đơn giản, rõ ràng, giai cấp vô sản, khi đã nắm quyền lực, sẽ tiến hành dân chủ hóa hệ thống xã hội, xóa bỏ quan liêu và khiến cho mọi chức vụ nhà nước đều thông qua bầu cử. Hai sai lầm đã tiêu diệt thành quả của một chiến thắng vẻ vang. Giai cấp vô sản đã dừng lại nửa chừng; thay vì tiếp tục ‘chiếm đoạt của những kẻ chiếm đoạt,’ họ đã cho phép mình đi chệch hướng bởi những mơ ước về một sự công bằng tuyệt đối trong một đất nước thống nhất bởi một mục tiêu quốc gia; những định chế, như ngân hàng, đã không bị nắm giữ…. Sai lầm thứ hai là sự khoan dung quá đáng của giai cấp vô sản: đúng ra họ phải tiêu diệt các kẻ thù, nhưng thay vào đó họ lại gắng sức dùng đạo đức để gây ảnh hưởng tới chúng; họ đã bỏ qua tầm quan trọng của hoạt động quân sự thuần túy trong một cuộc nội chiến và thay vì tiếp tục tiến bước mạnh mẽ tới Versailles và giành lấy chiến thắng ở Paris, họ đã trì hoãn và do vậy cho phép chính phủ Versailles tập hợp các lực lượng của mình, chuẩn bị trước cho những sự kiện đẫm máu trong tuần lễ tháng 5.”[10]
Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ năm 1914, và các đảng Dân chủ Xã hội lớn tại châu Âu (khi đó họ tự coi họ là theo chủ nghĩa Mác), gồm cả những người có uy tín như Karl Kautsky, ủng hộ những nỗ lực chiến tranh của chính quyền nước mình, Lenin đã rất sửng sốt, đầu tiên từ chối tin rằng những người của Đảng Dân chủ Xã hội Đức đã bỏ phiếu ủng hộ chiến tranh. Điều này khiến ông bị chia rẽ lần cuối cùng với Đệ Nhị Quốc Tế, gồm các đảng đó.
Khác với quan điểm chung của người Mác-xít coi cách mạng ở Đức là quan trọng hơn ở Nga, ngày 17 tháng 10 năm 1914, Lenin viếtt: “Chủ nghĩa Nga Hoàng còn trăm lần xấu hơn chủ nghĩa Đức Hoàng.”. Ông lên án chủ nghĩa tư bản cả hai bên đã gây ra cuộc chiến, nhất là chủ nghĩa đế quốc Anh – Pháp.[11][12]
Sau Cách mạng Tháng Hai (1917)
Sau khi Cách mạng Tháng Hai năm 1917 giành thắng lợi tại Nga và Nga hoàng Nikolai II thoái vị, Lênin biết rằng ông cần sớm trở lại nước Nga. Nhưng ông đã bị cô lập tại Thụy Sĩ trung lập khi Chiến tranh thế giới thứ nhất đang ở giai đoạn cao trào và không thể dễ dàng đi qua châu Âu. Tuy nhiên, Fritz Platten, một người cộng sản Thụy Sĩ đã tìm cách đàm phán với Chính phủ Đế quốc Đức để Lenin và những người của ông có thể đi bằng tàu hỏa kín qua nước Đức. Mọi người tin rằng chính Hoàng đế (Kaiser) Wilhelm II của Đức đã hy vọng Lenin sẽ gây ra tình trạng bất ổn chính trị ở Nga giúp ông chấm dứt chiến tranh tại Mặt trận phía Đông. Khi còn ở trên lãnh thổ Đức, Lênin không được phép ra khỏi đoàn tàu. Khi đã qua Đức, Lenin tiếp tục đi phà tới Thụy Điển và chặng đường xuyên Scandinavia còn lại đã được những người cộng sản Thụy Sĩ là Otto Grimlund và Ture Nerman thu xếp.
Theo báo Công an Nhân dân, có người cho rằng sự nghiệp cách mạng của ông đã nhận được sự giúp đỡ về tài chính từ đế quốc Đức. Họ cho rằng Lenin đã nhận được tiền bạc từ tay một nhà tư sản Đức tên là Parvus[13]. Thậm chí, sách The Return of the Kings của tác gỉa Thomas Purcell còn khẳng định Đức hoàng mong muốn tiêu diệt các Nga hoàng hùng mạnh và ủng hộ Lenin vì nhiều lý do, chẳng hạn Đức hoàng hy vọng Lenin sẽ hỗ trợ cho Đức trong cuộc chiến trên Mặt trận phía Tây sau khi Cách mạng thắng lợi và Mặt trận phía Đông chấm dứt. Cũng theo đó, nếu Đức hoàng không hỗ trợ Lenin thì có lẽ cuộc cách mạng vô sản sẽ thất bại[14]. Tuy nhiên, nghiên cứu của nhà sử học nổi tiếng người Nga Vladlen Loginov không có những tình tiết này. Theo ghi nhận trên giấy tờ, trong các năm 1915 – 1917, có đến ba lần Parvus tìm cách bắt liên lạc với Lenin, với mong muốn đưa tiền cho nhà cách mạng này. Thế nhưng, Parvus đã không thành công trong cả ba lần tìm cách bắt liên lạc nêu trên. Lenin đã phản hồi:[13]
“ | Cách mạng cần được thực hiện bằng những bàn tay trong sạch. | ” |
—V. I. Lenin |
Còn theo cuốn Lenin: A Revolutionary Life của tác giả Christopher Read, một cựu đảng viên Bolshevik là Grigorii Alexinsky đã tung tin các lãnh đạo Bolshevik, nhất là Lenin, là gián điệp của Đức. Nhiều người tin đây là thật, cũng như những câu chuyện phóng đại về “chuyến tàu đã định” cho Lenin qua Đức trong hành trình từ Thụy Sĩ về nước. Thực sự, dù người Đức có thể đã đút lót cho một số người Bolshevik, chắc hẳn Lenin không phải là gián điệp của Đức và không nhận lệnh từ Berlin. Người Đức và người Bolshevik đều mong muốn nỗ lực chiến tranh của Nga hoàng suy sụp, nhưng vì những lý do khác nhau. Lênin muốn nước Nga là bàn đạp của cách mạng, vậy không thể nào chung ý với Đức hoàng.[15]
Ngày 16 tháng 4 năm 1917, Lênin quay trở về thủ đô Petrograd và nhận vai trò lãnh đạo bên trong phong trào Bolshevik, xuất bản Luận cương tháng 4[16]. Luận cương tháng 4 kêu gọi kiên quyết phản đối chính phủ lâm thời. Ban đầu vì có sự không rõ ràng trong cánh tả Lenin giữ khoảng cách với đảng của ông. Tuy nhiên, lập trường kiên quyết này có nghĩa rằng những người Bolshevik đã trở thành lãnh đạo của quần chúng bởi vì họ không còn ảo tưởng ở chính phủ lâm thời, và nhờ sự xa hoa của phe đối lập những người Bolshevik đã không còn phải chịu trách nhiệm về bất cứ hậu của nào của việc áp dụng những chính sách của họ[17].
Trong khi ấy, Kerenskii và những người đối lập khác trong Bolshevik buộc tội Lenin là một điệp viên ăn lương của Đức. Trước lời buộc tội đó, một lãnh đạo khác là Lev Davidovich Trotsky đã có một bài phát biểu mang tính quyết định ngày 17 tháng 7, cho rằng:
“ | Một không khí không thể chịu đựng nổi đang diễn ra, trong đó cả các bạn và tôi đều bị sốc. Người ta đang tung ra những lời buộc tội bẩn thỉu nhằm vào Lênin và Zinoviev… Lenin đã đấu tranh vì cách mạng trong ba mươi năm. Tôi đã chiến đấu hai mươi năm chống lại sự áp bức con người. Và chúng ta không thể là gì khác ngoài việc nuôi dưỡng lòng căm thù với chủ nghĩa quân phiệt Đức… Tôi từng bị một tòa án tại Đức kết án tám tháng tù vì tội đấu tranh chống chủ nghĩa quân phiệt Đức. Điều này tất cả mọi người đều biết. Đừng ai trong phòng này nói rằng chúng ta là những kẻ làm thuê của Đức. | ” |
—Lev Davidovich Trotsky[18] |
Sau cuộc nổi dậy của công nhân
Sau cuộc nổi dậy bất thành của công nhân vào tháng 7, Lenin bỏ trốn tới Phần Lan. Ngày 24 tháng 10 theo lịch cũ Nga, tức ngày 6 tháng 11 năm 1917, ông viết: “Chính phủ sắp sụp đổ. Chúng ta phải giáng cho nó đòn chí mạng bằng mọi giá. Trì hoãn hành động là chết“. Cùng tháng, ông rời Phần Lan và trở lại nước Nga[19][20], phát động một cuộc cách mạng vũ trang với khẩu hiệu “Tất cả quyền lực về tay Xô Viết!” chống lại Chính phủ Lâm thời của Kerensky. Các ý tưởng về chính phủ của ông đã được thể hiện trong bài tiểu luận “Quốc gia và Cách mạng” [21], kêu gọi thành lập một hình thức chính phủ mới dựa trên các hội đồng công nhân hay các Xô viết. Trong tác phẩm này, ông cũng cho rằng, trên nguyên tắc, những người công nhân bình thường có thể điều hành một nhà máy hay một chính phủ. Dù ông nhấn mạnh rằng, để điều hành một quốc gia, người công nhân phải “học chủ nghĩa cộng sản.” Ông còn nhấn mạnh thêm rằng một thành viên chính phủ phải nhận đồng lương không được cao hơn lương một người công nhân tầm trung bình.
Chủ tịch chính phủ
Được bầu cử
Ngày 8 tháng 11, Lênin được Đại hội Xô viết Nga bầu làm Chủ tịch Hội đồng Dân ủy. Lênin nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đưa điện tới mọi vùng nước Nga và hiện đại hóa công, nông nghiệp. Ông rất quan tâm tới việc tạo ra một hệ thống chăm sóc sức khỏe miễn phí và toàn diện cho mọi người dân, giải phóng phụ nữ và dạy cho những người dân mù chữ Nga biết đọc, viết. Nhưng trước hết, chính phủ Bolshevik mới cần đưa nước Nga ra khỏi Thế chiến thứ nhất.
Đối mặt với mối đe dọa xâm lăng từ nước Đức, Lenin cho rằng Nga cần ngay lập tức ký kết một hiệp ước hòa bình. Những lãnh tụ Bolshevik khác, như Bukharin, ủng hộ tiếp tục tham chiến, coi đó là một biện pháp mang cách mạng tới nước Đức. Lev Davidovich Trotsky, người chỉ đạo các cuộc đàm phán, ủng hộ một lập trường trung gian, “Không Chiến tranh, Không Hòa bình”, kêu gọi chỉ ký hiệp ước hòa bình với điều kiện không một phần đất chiếm thêm được của bất kỳ bên nào được hợp nhất với lãnh thổ nước đó. Sau khi những cuộc đàm phán thất bại, Đức tấn công chiếm giữ nhiều vùng rộng lớn phía tây nước Nga. Sau các sự kiện mang tính bước ngoặt này, lập trường của Lenin được đa số ban lãnh đạo Bolshevik ủng hộ. Ngày 3 tháng 3 năm 1918, Lenin rút Nga ra khỏi Thế chiến thứ nhất khi đồng ý ký kết Hiệp ước Brest-Litovsk, theo đó nước Nga mất một phần lớn lãnh thổ tại Châu Âu. Đây được xem là thời điểm tệ nhất của lịch sử Nga trong vòng 200 năm, song với một đất nước bị tàn phá thì Lênin không còn cách nào khác ngoài việc chấp nhận những điều khoản ô nhục[22].
Sau khi những người Bolshevik thất bại trong cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến Nga, cùng với sự hậu thuẫn mạnh mẽ của đại đa số công nhân ở hai thành phố lớn là Petrograd và Moskva, họ đã sử dụng lực lượng Hồng vệ binh buộc cuộc họp lần thứ nhất của Quốc hội phải ngừng lại ngày 19 tháng 1[23]. Sau đó, những người Bolshevik đã tổ chức ra một tổ chức Phản-Quốc hội, Đại hội Xô viết thứ ba, cho phép họ và các đồng minh có được hơn 90% số ghế[24], cho rằng “chuyên chính vô sản” trước tiên là một đạo luật của chính giai cấp vô sản: “Tất nhiên, những người cho rằng có thể lấp đầy hố sâu ngăn cách giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, hay những người tưởng tượng rằng điều đó có thể thuyết phục đa số nhân dân rằng nó có thể xảy ra thông qua trung gian của Quốc hội Lập hiến – những người tin vào câu chuyện ngụ ngôn của tầng lớp tư sản dân chủ, có thể vô tình tin tưởng điều đó, nhưng hãy đừng để họ phàn nàn nếu cuộc sống lật tẩy câu chuyện ngụ ngôn này,” [25] và nói thêm rằng “lý do lớn nhất tại sao ‘những người xã hội chủ nghĩa’ (như, những người dân chủ tiểu tư sản) của Quốc tế Thứ hai không hiểu được sự chuyên chính vô sản là bởi họ không hiểu được rằng quyền lực nhà nước nằm trong tay một tầng lớp, tầng lớp vô sản, có thể và phải trở thành một phương tiện cho phe chiến thắng của tầng lớp vô sản của đông đảo nhân dân vô sản, một phương tiện để giành chiến thắng của tầng lớp đó trước giai cấp tư sản và những đảng tiểu tư sản.”[23]
Những người Bolshevik đã thành lập một chính phủ liên minh với Đảng Xã hội Cách mạng Nga cánh tả. Tuy nhiên, liên minh của họ đã tan vỡ sau khi Cách mạng Xã hội chủ nghĩa phản đối hiệp ước Brest-Litovsk, và họ gia nhập cùng với các đảng khác tìm cách lật đổ chính phủ Xô viết. Tình hình diễn biến theo chiều hướng xấu, các đảng không Bolshevik (gồm một số phái xã hội chủ nghĩa) tích cực tìm cách lật đổ chính phủ Bolshevik. Lênin phản ứng lại cách hành động đó bằng cách ngăn chặn các hoạt động của họ và bỏ tù một số thành viên các đảng đối lập.
Ủng hộ
Dù Lenin đã ủng hộ và giúp đỡ thành lập một chế độ “Dân chủ Xô viết,” những người phản đối Lenin thuộc cánh hữu, như Kautsky, và thuộc cánh tả như Kollontai, vẫn cho rằng ông thủ tiêu sự giải phóng giai cấp vô sản và nền dân chủ (quyền kiểm soát của công nhân thông qua các Xô Viết hay các hội đồng công nhân). Có người cho rằng đây là hành động mở đường cho chủ nghĩa Stalin sau này. Dù nhiều cơ quan và chính sách do Stalin lập ra và sử dụng như cảnh sát mật, trại lao động, và việc hành quyết các đối thủ chính trị vốn bị chỉ trích nặng nề cũng đã được sử dụng dưới tới cầm quyền của Lenin, các kỹ thuật đó cũng thường được chế độ Nga hoàng sử dụng từ lâu trước thời Lenin, và cũng từ lâu đã là các phương tiện tiêu chuẩn để đối phó với bất đồng chính trị ở nước Nga. Tuy nhiên, theo Stephane Courtois mức độ sử dụng có khác nhau; số tù nhân chính trị bị hành quyết trong vài tháng đầu cầm quyền của phái Bolshevik lớn gấp ba lần con số đó trong 90 năm cầm quyền của chế độ Nga hoàng.[26] Tuy nhiên, “thực tế” này, hiện vẫn đang bị tranh cãi. Cũng cần nhớ rằng tỷ lệ các hoàn cảnh dẫn tới những phản ứng của người Bolshevik cũng khác rất xa: một đất nước bị tàn phá nặng nề bởi một cuộc chiến tranh thế giới, một quần chúng thất học sau giai đoạn quân chủ chuyên chế, một lực lượng đối lập sẵn sàng hy sinh để lật đổ chính quyền Bolshevik,… Hơn nữa, Trotsky tuyên bố rằng một “con sông máu” chia tách Lenin khỏi những hành động của Stalin bởi vì Stalin đã hành quyết nhiều đồng chí cũ của Lênin cũng như những người ủng hộ họ, trong nhóm Đối lập cánh Tả. Trong số này có cả chính Trotsky.
Quan điểm của những người theo chủ nghĩa Lenin về cách mạng đòi hỏi một bộ máy cán bộ cách mạng chuyên nghiệp vừa có nhiệm vụ chỉ huy đại chúng trong cuộc đấu tranh giành quyền lực và tập trung hóa kinh tế cũng như quyền lực hành chính vào tay một đất nước của công nhân. Từ mùa xuân năm 1918, Lenin đã vận động đặt những cá nhân có trách nhiệm vào cương vị đứng đầu mỗi nhà máy, trái ngược lại hầu hết các quan điểm về sự tự quản của công nhân, nhưng hoàn toàn cần thiết cho hiệu quả sản xuất và về mặt chuyên môn. Như S.A. Smith đã viết: “Tới cuối cuộc nội chiến, không có nhiều nhà máy hoạt động theo những hình thức dân chủ trong quản lý công nghiệp như kiểu các hội đồng nhà máy từng được cổ động trong năm 1917, nhưng chính phủ cho rằng điều này không phải là vấn đề bởi vì nền công nghiệp đã dựa trên sự sở hữu của một quốc gia công nhân.” Trong cuộc nội chiến, dân chủ không phải được tập trung bên trong đảng Bolshevik và sau này là Bộ Chính trị của Đảng cộng sản Liên xô.
Để bảo vệ chính phủ Bolshevik mới thành lập trước những kẻ phản cách mạng, chính quyền của Lenin đã tạo ra lực lượng cảnh sát mật, Cheka, ngay sau cuộc cách mạng. Những người Bolshevik đã lập kế hoạch tổ chức một phiên tòa xét xử Hoàng đế Nikolai II vì những tội ác chống lại nhân dân Nga, nhưng vào tháng 8 năm 1918 khi Bạch vệ tiến về Yekaterinburg (nơi gia đình Nikolai II đang bị cầm giữ), Sverdlov đã nhanh chóng ra quyết định hành quyết Nikolai II và cả gia đình để quân Bạch vệ không thể giải thoát cho họ. Sau này Sverdlov đã thông báo với Lenin về vụ hành quyết, Lenin đồng ý rằng đó là một quyết định đúng đắn, bởi vì những người Bolshevik không muốn để Hoàng gia trở thành một biểu tượng của Bạch vệ. Tuy nhiên, có những nhà sử học người Nga đã cho biết, ông không tán thành với việc những người Bolshevik hành hình Nikolai II, vì ông cho rằng sau khi chế độ quân chủ không còn nữa, Nga hoàng nên được đưa ra tòa án để xét xử. Cháu gái Lenin – Olga Ulianova cũng nói: “Bác Volodya làm cách mạng Bolshevic không phải để giết vua Nga. Lenin chỉ muốn thay thế hệ thống tư bản chủ nghĩa ở nước Nga bằng chế độ xã hội chủ nghĩa”.[27]
Vụ ám sát và phản ứng của chính phủ
Ngày 30 tháng 8 năm 1918, Fanya Kaplan, một thành viên của Đảng Xã hội Cách mạng Nga, tiếp cận Vladimir Ilyich Lenin sau khi ông tham dự một buổi mít-tinh và đang quay ra xe hơi. Kaplan gọi tên Lenin, ông quay lại trả lời. Bà ngay lập tức bắn ba phát, hai phát trúng Lenin ở khuỷu tay và lưng. Lenin được đưa về căn hộ tại Kremli, từ chối tới bệnh viện bởi ông tin rằng những kẻ ám sát khác đang rình rập ở đó. Các bác sĩ được triệu tới, nhưng cho rằng sẽ là quá nguy hiểm nếu lấy viên đạn ra. Sau này Lenin đã hồi phục dù sức khỏe của ông bắt đầu giảm sút từ thời điểm đó. Mọi người cho rằng vụ ám sát có liên quan tới những cơn đột quỵ sau này của ông.
Chính phủ Bolshevik phản ứng lại vụ ám sát, và những sự tập hợp nỗ lực chống cộng từ các đối thủ của họ bằng cái họ gọi là Khủng bố Đỏ. Hàng chục nghìn người bị coi là kẻ thù của cách mạng, nhiều người bị hành quyết hay tống vào các trại lao động vì có âm mưu chống lại chính phủ Bolshevik.[28]
Theo Orlando Figes, Lenin luôn ủng hộ “sự khủng bố số đông chống lại những kẻ thù cách mạng” và luôn bày tỏ quan điểm rằng nhà nước vô sản là một hệ thống bạo lực được tổ chức chống lại những tổ chức của chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên theo Figes, trong khi được những người Bolsheviks khuyến khích, sự khủng bố có gốc rễ trong sự giận dữ của nhân dân chống lại tầng lớp ưu thế. (A Peoples Tragedy, trang 524-525) Vào cuối năm 1918 khi Kamenev và Bukharin tìm cách kìm chế những “sự thái quá” của Cheka, chính Lenin là người đã đứng ra bảo vệ tổ chức này. (Figes trang 649) Tuy nhiên, mức độ của cái gọi là “những sự thái quá,” cũng như những lý do của Lenin ẩn giấu sau sự bảo vệ đó không hề được nêu tên.
Tháng 3 năm 1919, Lenin và các lãnh đạo Bolshevik khác gặp gỡ với các nhà cách mạng xã hội chủ nghĩa từ khắp nơi trên thế giới và lập ra Quốc tế Cộng sản. Các thành viên của Quốc tế Cộng sản, gồm Lenin và cả những người Bolshevik ngừng quan hệ với phong trào xã hội chủ nghĩa ở tầm vóc rộng lớn hơn. Từ đó trở về sau, họ sẽ được gọi là những người cộng sản. Tại Nga, Đảng Bolshevik được đổi tên thành “Đảng Cộng sản Nga (bolshevik)”, (sau này thành Đảng Cộng sản Liên Xô).
Trong lúc ấy cuộc nội chiến lan tràn khắp nước Nga. Nhiều phong trào chính trị và những người ủng hộ họ đứng lên cầm vũ khí nhằm lật đổ chính phủ Xô viết. Dù có nhiều phe cánh tham gia cuộc nội chiến, hai lực lượng chính là Hồng quân (bolshevik) và Bạch vệ (phe ủng hộ chế độ quân chủ). Các cường quốc bên ngoài như Pháp, Anh, Hoa Kỳ và Nhật Bản cũng can thiệp vào cuộc chiến tranh này (đứng bên phía Bạch vệ). Cuối cùng, đội quân được tổ chức tốt và có hiệu quả hơn là Hồng quân, do Trotsky chỉ huy, đã giành chiến thắng, đánh bại các lực lượng Bạch vệ và đồng minh của họ năm 1920. Tuy nhiên, những cuộc chiến ở tầm nhỏ hơn vẫn tiếp tục trong nhiều năm nữa.
Những tháng cuối năm 1919, các chiến thắng giành được trước Bạch vệ khiến Lenin tin rằng đã tới thời điểm mở rộng cách mạng sang phía tây, bằng vũ lực nếu cần thiết. Khi nền Cộng hòa Ba Lan thứ hai mới được thành lập bắt đầu đòi lại những vùng lãnh thổ đã bị nước Nga sáp nhập trong vụ phân chia Ba Lan vào cuối thế kỷ 18, họ đã xung đột với các lực lượng Bolshevik để giành quyền kiểm soát các vùng này, dẫn tới sự bùng nổ Chiến tranh Ba Lan-Xô viết năm 1919. Với sự phát triển của cách mạng tại Đức và Liên đoàn Spartacus, Lenin coi đó là thời điểm và địa điểm chín muồi nhất để “thăm dò Châu Âu bằng những lưỡi lê Hồng quân.” Lenin coi Ba Lan là cây cầu nối mà Hồng quân có thể dùng để kết nối cách mạng Nga với những người ủng hộ Cách mạng Đức, và hỗ trợ các phong trào cộng sản ở Tây Âu. Tuy nhiên sự thất bại của nước Nga Xô viết trong cuộc chiến tranh Ba Lan-Xô viết khiến các kế hoạch đó bị hủy bỏ.
Lenin là người chỉ trích mạnh mẽ chủ nghĩa đế quốc. Năm 1917 ông tuyên bố quyền tự quyết và phân chia các dân tộc quốc gia và đàn áp các quốc gia vô điều kiện, thường được coi là các quốc gia trước kia thuộc quyền kiểm soát của chủ nghĩa tư bản đế quốc. Tuy nhiên, khi cuộc Nội chiến Nga chấm dứt, ông đã dùng các lực lượng quân sự để đồng hóa các quốc gia mới giành độc lập là Armenia, Gruzia và Azerbaijan, cho rằng sự sáp nhập các quốc gia đó vào đất nước Xô viết sẽ che chở họ khỏi những tham vọng của chủ nghĩa đế quốc.[29] Điều này cho phép các quốc gia đó được chấp nhận thành một phần của Liên bang Xô viết hơn là đơn giản buộc họ trở thành một phần lãnh thổ Nga, hành động này sẽ bị coi là hành động đế quốc.
Sau nhiều năm chiến tranh kéo dài, chính sách cộng sản thời chiến của Bolshevik, cộng với Nạn đói năm 1921 tại Nga và sự bao vây từ các chính phủ tư bản thù địch làm đa phần đất nước bị tàn phá. Đã có nhiều cuộc nổi dậy của nông dân, vụ lớn nhất là cuộc Nổi dậy Tambov. Sau một cuộc khởi nghĩa của những thủy thủ tại Kronstadt vào tháng 3 năm 1921, Lenin đã thay thế chính sách Cộng sản thời chiến bằng Chính sách kinh tế mới (NEP) hay còn gợi là cộng sản thời bình, trong một nỗ lực thắng lợi nhằm tái xây dựng công nghiệp và đặc biệt là nông nghiệp.
Đấu tranh chống chủ nghĩa bài Do Thái
Sau cuộc cách mạng, V. I. Lenin rất chú tâm đấu tranh chống Chủ nghĩa bài Do Thái, khi ấy vẫn đang tồn tại ở nước Nga như một di sản từ thời Nga hoàng. Trong một bài phát biểu trên radio năm 1919, ông nói:
“ | Cảnh sát của chế độ Nga hoàng, cùng với những tên địa chủ và bọn tư bản, đã tổ chức các cuộc tàn sát người Do Thái. Cái lũ địa chủ và tư bản đã tìm cách hướng sự căm thù của công nhân và người nông dân, những tầng lớp nghèo khổ, về phía người Do Thái…. Chỉ những người dốt nát nhất và những người bị áp bức mới có thể tin vào những lời nói dối và những câu báng bổ do chúng tuyên truyền về người Do Thái…. Người Do Thái không phải là kẻ thù của nhân dân lao động. Những kẻ thù của công nhân là bọn tư bản trên thế giới. Trong số những người Do Thái có những người dân lao động, và họ là đa số. Họ là những người anh em của chúng ta, giống như chúng ta, họ cũng bị bọn tư bản bóc lột; họ là những đồng chí của chúng ta trong cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội…. Thật đáng hổ thẹn cho hành động hành hạ người Do Thái của chế độ Nga hoàng. Thật đáng hổ thẹn cho những kẻ gây lòng hận thù với người Do Thái, những kẻ gây sự chia rẽ giữa các quốc gia. | ” |
—Vladimir Ilyich Lenin[30] |
Qua đời
Sức khỏe Lênin đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng sau những căng thẳng trong cuộc cách mạng và nội chiến. Vụ ám sát ông càng làm tình trạng thêm tồi tệ. Viên đạn vẫn nằm trong cổ ông, quá gần xương sống để có thể lấy ra trong tình trạng kỹ thuật y tế thời ấy. Tháng 5 năm 1922, Lenin bị đột quỵ lần đầu tiên. Ông bị tê liệt nửa người bên phải và dần giảm bớt ảnh hưởng trong chính phủ. Sau vụ đột quỵ thứ hai vào tháng 12 năm ấy, ông hầu như từ bỏ các hoạt động chính trị. Tháng 3 năm 1923, ông bị đột quỵ lần thứ ba và phải nằm liệt giường trong cả phần đời còn lại, thậm chí không thể nói được.
Sau lần đột quỵ đầu tiên, Lenin đã đọc cho thư ký ghi lại một số tài liệu về Chính phủ và vợ ông. Nổi tiếng nhất trong số đó là bản Di chúc của Lenin, trong đó cùng với nhiều sự kiện khác ông đã chỉ trích những nhà lãnh đạo cộng sản hàng đầu, đặc biệt là Joseph Stalin. Về Stalin, người từng là tổng thư ký Đảng cộng sản từ tháng 4 năm 1922, Lenin nói rằng Stlain có “quyền lực vô hạn tập trung trong tay” và đề xuất rằng “các đồng chí nghĩ cách lật đổ Stalin ra khỏi vị trí ấy.” Ngay khi Lênin qua đời, vợ ông đã gửi bản Di chúc tới ủy ban trung ương, nó được đọc trước Đại hội lần thứ 13 của Đảng cộng sản vào tháng 5 năm 1924. Tuy nhiên, vì di chúc chỉ trích tất cả những nhân vật có ảnh hưởng nhiều nhất trong ủy bản trung ương: Zinoviev, Kamenev, Bukharin và Stalin, ủy ban đã quyết định không công bố nó ra đại chúng. Ủy ban trung ương cho rằng di chúc là hậu quả của tình trạng tâm thần bất ổn của Lenin trong những năm cuối đời, và vì thế, những lời phán xét cuối cùng của ông không đáng tin cậy. Việc không đếm xỉa tới những ý kiến của Lenin sau này thường được cho là một sai lầm nghiêm trọng.
Di chúc của Lenin (Lenin’s Testament) được Max Eastman xuất bản chính thức lần đầu tiên năm 1926 tại Hoa Kỳ.
Lãnh tụ Vladimir Ilich Lenin qua đời ngày 21 tháng 1, 1924 ở tuổi 53. Lý do chính thức dẫn tới cái chết của Lenin được công bố bởi Liên Xô là xơ cứng động mạch não, hay cơn đột quỵ lần thứ tư. Tuy nhiên, vào năm 2004 một nhóm bác sĩ Do Thái đã công bố một bài báo, dựa theo các triệu chứng ghi trong hồ sơ bệnh án của Liên Xô, họ đưa ra giả thuyết rằng Lenin đã mắc bệnh hơn 10 năm trước khi qua đời, nguyên nhân bởi bệnh giang mai[31][32]. Nhà sử học Helen Rappaport sau khi khảo sát các tài liệu và hồ sơ bệnh án của Lênin cũng đặt ra giả thuyết rằng ông đã chết vì bệnh giang mai, lây truyền từ một cô gái giang hồ ở Paris[33]. Giả thiết này vẫn tiếp tục tồn tại cho tới nay, nhưng không ai từ các nước phương Tây có thể chứng minh nó vì chỉ có các bác sĩ chuyên trách của Nga được phép khám nghiệm thi hài Lenin. Giả thuyết này rất có thể là không đúng, vì nếu Lenin bị giang mai thì vợ của Người là Nadezhda Krupskaya cũng sẽ bị lây giang mai, mà thực tế Nadezhda Krupskaya không bị giang mai. 12/2014[cần dẫn nguồn]
Thành phố Petrograd đã được đổi tên thành Leningrad ba ngày sau khi Lenin qua đời để vinh danh ông; cái tên này giữ nguyên cho tới khi Liên bang Xô viết sụp đổ năm 1991, khi nó lấy lại tên cũ là Sankt-Peterburg.
Thời gian đầu thập kỷ 1920 phong trào vũ trụ luận ở Nga khá sôi động và đã có ý tưởng bảo quản lạnh xác Lenin nhằm tái sinh trong tương lai. Những phương tiện cần thiết đã được mua về từ nước ngoài, nhưng vì một số lý do kế hoạch này không được thực hiện. Thay vào đó xác ông được ướp và đặt trong Lăng Lenin tại Moskva ngày 27 tháng 1, 1924.
Sau khi mất
Thi hài Vladimir Lenin được bảo quản trong Lăng Lenin ở Moskva. Vì vai trò duy nhất của Lenin trong việc tạo lập nhà nước cộng sản đầu tiên, và dù ông đã bày tỏ ý muốn chỉ một thời gian ngắn trước khi qua đời rằng không nên xây dựng một đài tưởng niệm nào dành cho mình, chế độ Xô viết đã tôn vinh ông như một vị thánh tôn giáo. Đôi khi các ngôi nhà Xô Viết treo hình hoặc đặt tượng Lenin[34]. Tới thập kỷ 1980 hầu như mọi thành phố lớn ở Liên bang Xô viết đều có tượng Lenin ở quảng trường trung tâm, hoặc một phố Lenin hay một quảng trường Lenin gần trung tâm, và thường là 20 hay nhiều hơn nữa các bức tượng nhỏ hay tượng bán thân ông trên toàn lãnh thổ. Trẻ em được kể các câu chuyện về “ông Lenin” từ khi chúng còn ở nhà trẻ. Ngoài ra, không ít đường phố, công trình xây dựng, xí nghiệp, nông trại ở Liên Xô được đặt tên là Lenin, chưa kể một tàu phá băng Liên Xô còn được đặt cho cái tên này[34].
Cứ mỗi năm có hàng trăm bài viết và sách viết về ông được xuất bản và thu hút cả người trẻ lẫn già. Rất nhiều vở kịch và phim ảnh nói về cuộc đời Lenin[34]. Từ khi Liên bang Xô viết tan rã, mức độ tôn sùng Lenin tại các nước cộng hòa hậu Xô viết đã giảm sút đáng kể, nhưng ông vẫn được nhiều thế hệ lớn lên trong giai đoạn Xô viết coi là một nhân vật có tầm ảnh hưởng quan trọng.[35] Đa số các bức tượng Lenin đã bị hạ bệ ở Đông Âu, nhưng nhiều bức khác vẫn tại vị ở Nga. Thành phố lớn nhất của nước Nga[34], Leningrad đã trở về với cái tên nguyên thủy của mình, Sankt-Peterburg, nhưng vùng xung quanh vẫn mang tên ông. Các công dân Ulyanovsk, nơi sinh Lenin, vẫn bác bỏ mọi ý định quay trở về cái tên cũ là Simbirsk. Tại Moskva, tượng Lenin vẫn đứng ở các cổng của hệ thống tàu điện ngầm, cũng như quảng trường Lenin vẫn giữ nguyên tên gọi. Trong cuộc bình chọn Những nhân vật vĩ đại nhất trong Lịch sử Nga với hơn 40 triệu người Nga tham gia năm 2008, Lênin đứng ở vị trí thứ 6.[36]
Việc mai táng thi hài Lenin vẫn là chủ đề gây tranh cãi trong 16 năm qua ở nước Nga. Ở thủ đô Hà Nội, Việt Nam, tượng ông được đặt tại một công viên cùng tên.[37]
Cái tên “Lenin”
“Lenin” là một trong những bí danh cách mạng của ông, và sau khi ông nắm quyền thì trở thành tên chính thức: Vladimir Ilyich Ulyanov trở thành Vladimir Ilyich Lenin. Thỉnh thoảng ông được báo chí phương Tây gọi là “Nikolai Lenin”[38], nhưng người dân Liên Xô không bao giờ nghe tới cái tên này.
Đã có rất nhiều giả thuyết về nguồn gốc biệt hiệu đó, và Lenin cũng chưa từng kể rõ tại sao ông lại lựa chọn nó. Bản thân Lênin cũng đã từng viết một cuốn sách về các biệt danh hoạt động cách mạng của ông nhưng trong cuốn sách không hề có đề cập đến bí danh Lenin-cái tên được kí nhiều nhất trong các văn kiện của ông. Đã có nhiều giả thuyết về cái tên Lênin này. Có giả thuyết cho rằng cái tên Lenin là của một cụ già đã chết, sau khi cụ qua đời Ulyanov đã lấy cái tên này làm bí danh cho mình.
Có lẽ biệt hiệu này liên quan tới con sông Lena, tương tự như một nhân vật theo chủ nghĩa Marx nổi tiếng khác ở Nga, Georgi Plekhanov, người lấy biệt hiệu là Volgin theo tên con sông Volga. Có ý kiến cho rằng Lenin lựa chọn sông Lena vì đây là một con sông dài hơn và chảy theo hướng đối diện, nhưng trong cuộc đời mình Lênin không phản đối Plekhanov. Tuy nhiên, chắc chắn rằng nó không liên quan tới vụ hành quyết Lena, vì biệt hiệu đó đã ra đời trước sự kiện này.
Tượng và tên thành phố
Trong suốt thời đại Xô Viết, nhiều bức tượng của Lenin được dựng lên khắp Đông Âu. Mặc dù rất nhiều bức tượng đã bị hạ xuống, một số vẫn còn tồn tại, và một vài cái lại được dựng mới[39] Năm 2012, các nhà luật gia của đảng đối lập Dân chủ Cấp tiến Nga đã đưa ra một dự luật, mỗi vùng nên trưng cầu dân ý quyết định là có muốn giữ các tượng Lenin ở vùng mình không, một trong những lý do là tiền bảo trì. Dự luật này cũng được một số đại biểu của đảng cầm quyền Thống nhất Nga hoan nghênh, nhưng nó bị đảng Cộng sản Nga phản đối dữ dội.[40]
Nhiều nơi cũng được đặt tên Lenin để tưởng nhớ. Thành phố Saint Petersburg, nơi mà cách mạng tháng hai cũng như tháng mười bắt đầu, được đổi tên là Leningrad vào năm 1924, 4 ngày sau khi Lenin chết. Vào năm 1991, sau một cuọc bầu cử sôi nổi giữa đảng Cộng sản và đảng Cấp tiến, chính phủ Leningrad đổi tên thành phố trở lại là Saint Petersburg trong khi vùng xung quanh (Leningrad Oblast) vẫn giữ tên;[41]. Tương tự như vậy, Gyumri ở Armenia đã được đổi thành Leninakan từ năm 1924 cho tới 1990, Khujand ở Tajikistan Leninabad từ 1936 cho tới 1991.
Sự kiểm duyệt tác phẩm của Lenin tại Liên bang Xô viết
Những ghi chép của Lenin đã được kiểm duyệt kỹ lưỡng thời Xô viết sau khi ông qua đời. Đầu thập kỷ 1930, dưới thời Stalin, có một giáo điều rằng Lênin và Ủy ban trung ương không bao giờ sai lầm. Vì thế, cần phải bỏ mọi bằng chứng về những sự bất đồng giữa hai bên, bởi vì trong trường hợp đó không thể cả hai bên cùng đúng. Trotsky từng là một người chỉ trích mạnh mẽ việc này, hành động mà ông coi là một hình thức sùng bái cá nhân bởi một người bình thường luôn có thể và chắc chắn đã từng phạm những sai lầm.[42] Sau này, thậm chí lần xuất bản thứ năm tại Liên Xô của tác phẩm Lênin toàn tập (xuất bản với 55 cuốn dày trong giai đoạn 1958 và 1965) cũng bỏ đi những phần trái với giáo điều hay thể hiện những điều được cho là không tốt ở tác giả[43].
Nhận định
Sau khi mất, ông vẫn được coi là vị anh hùng lớn nhất của nhân dân Xô Viết[34]. Lenin được xem là một nhà dân tộc chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa quốc tế Nga; ông khao khát xây dựng một nước Nga hiện đại và hùng mạnh, đó sẽ là hình mẫu trong quan hệ quốc tế. Chủ nghĩa cộng sản Nga cũng chính là hình mẫu của chủ nghĩa cộng sản quốc tế[22]. Ở nước ngoài, ông trở thành một biểu tượng của “tính chất Nga” thế kỷ 20.[3]
Tại một số quốc gia, có sự mâu thuẫn trong việc đánh giá vai trò của Lenin. Khi di dời một bức tượng Lenin vào ngày 14/10/2012, Thị trưởng thủ đô Ulaanbaatar của Mông Cổ, ông Bat-Uul Erdene đã lên án Lenin và các đồng chí của ông là “những kẻ sát nhân”.[44] Ngược lại, nhiều người Mông Cổ vẫn tôn kính Lenin bởi ông đã ủng hộ Mông Cổ trong cuộc chiến giành độc lập khỏi Trung Quốc vào năm 1921, và sau đó Liên Xô còn giúp Mông Cổ một lần nữa trong Thế chiến thứ 2 khi Nhật Bản xâm lược Mông Cổ[45]
Trong hồi ký Ngôi nhà Bến Ngự và con đò sông Hương, nhà báo Tạ Quang Đạm (em giáo sư Tạ Quang Bửu) đã kể lại rằng trên tường căn nhà tranh 3 gian – nơi ở và cũng là nơi nhà Cách mạng Việt Nam Phan Bội Châu dạy học – có treo nhiều tranh ảnh, trong đó ấn tượng nhất là bức chân dung Lenin được treo trang trọng trên bức tường mặt trước gần sát trần nhà. Có lẽ là một bức họa vẽ theo một bức tượng kiểu huy hiệu. Dưới chân dung có hai chữ Hán: Liệt Ninh (Lenin).[46] Phan Bội Châu còn viết “Lược truyện Liệt Ninh, vĩ nhân của nước Nga đỏ” viết in trên Binh sự tạp chí, Hàng Châu, Trung Quốc năm 1921.[47]
Alexandra Kolontai (1872-1952) – nhà ngoại giao nổi tiếng của Liên Xô (cũ) – đánh giá về ông:[48]
“ | Có những cá nhân – hiếm thấy trong lịch sử loài người – là sản phẩm của một chuyển biến lớn lao đã chín muồi, đã tô đẹp cho cả một thời đại. Trong số những người vĩ đại về tinh thần và ý chí đó là Vladimir Ilich Lenin… Như ở một tiêu điểm, Người đã tập hợp vào trong mình tất cả những cái gì của Cách mạng là nghị lực, là hùng mạnh, không ủy mị trong phá bỏ cái cũ và rất kiên quyết trong xây dựng cái mới. | ” |
—Alexandra Kolontai |
Theo nhận định của văn hào Nga Maksim Gorky, tràn ngập trong đời sống và công việc của Lenin là “tinh thần hy sinh khắc khổ, thường thấy ở người cách mạng trí thức Nga trung thực, tin tưởng sắt đá vào khả năng thiết lập sự công bằng trên trái đất, tinh thần anh hùng của con người đã từ bỏ mọi niềm sung sướng trên đời để hiến mình cho hoạt động gian khổ vì hạnh phúc của mọi người”.[48]
Văn hào Nga Maksim Gorky cũng cho rằng tư tưởng của Lenin “giống như cái kim địa bàn, bao giờ cũng chỉ về lợi ích giai cấp của nhân dân lao động… Điều đặc biệt vĩ đại ở Lenin chính là lòng căm thù quyết liệt, không bao giờ tắt trước sự bất hạnh của mọi người, niềm tin chói lọi của đồng chí rằng sự bất hạnh không phải là nền tảng không thể tiêu diệt được của cuộc đời, trái lại nó là điều xấu xa, nhơ nhuốc mà mọi người có thể và cần phải quét sạch đi”.[48]
Tác giả “Người Xôviết chúng tôi” là nhà văn Boris Polevoi đã ghi nhận:[48]
“ | Là người gan dạ và chính trực, đồng chí bao giờ cũng nhìn thẳng vào sự thật. Dù sự thật đôi khi cay đắng và thậm chí khủng khiếp đến thế nào đi nữa, đồng chí cũng không bao giờ giấu giếm mọi người xung quanh, không bao giờ giấu giếm đông đảo đám đông. | ” |
—Boris Polevoi |
Trong bốn ngày khi mà thi hài Lenin được quàn trong Điện Kremlin, hơn 900.000 người đã tới đưa tang ông. Một trong những chính khách bày tỏ lời chia buồn đến Liên Xô là Thủ tướng Trung Quốc, nhà cách mạng Tôn Trung Sơn, ông đã nói[49]:
- “Qua các thời đại của lịch sử thế giới, hàng ngàn nhà lãnh đạo và học giả đã xuất hiện và nói những lời hùng hồn, nhưng đó vẫn chỉ là những lời nói. Người, Lenin, là một ngoại lệ. Người không chỉ nói và dạy cho chúng ta, mà Người đã thực sự biến lời nói thành hành động. Người đã khai sinh ra một quốc gia mới. Người cho chúng ta thấy con đường của cuộc đấu tranh chung… Người, một vĩ nhân, sẽ sống mãi trong ký ức của những người bị áp bức qua hàng thế kỷ.”
Tạp chí Time nêu tên Lenin là một trong 100 nhân vật quan trọng nhất của thế kỷ 20, và là một trong 25 biểu tượng chính trị hàng đầu qua mọi thời đại; với đề tựa rằng “trong nhiều thập kỷ, những cuộc nổi dậy của chủ nghĩa Mác-Lênin đã làm rung chuyển thế giới trong khi thi hài của Lenin nằm yên nghỉ tại Quảng trường Đỏ”.
Tại bài viết trong Encyclopedia Britannica (Bách khoa toàn thư Anh quốc) được viết bởi giáo sư của Đại học Bắc Illinois, Albert Resis viết[50]:
- “Nếu cuộc cách mạng Bolshevik là – như một số người đã gọi nó – là sự kiện chính trị quan trọng nhất của thế kỷ 20, thì sau đó Lenin, dù được coi là có vai trò tốt hay xấu, luôn được coi là nhà lãnh đạo chính trị quan trọng nhất của thế kỷ. Không chỉ trong giới học thuật của Liên Xô cũ, mà ngay cả trong số nhiều học giả không đi theo chủ nghĩa cộng sản, ông đã được coi là nhân vật vĩ đại trên cả 2 phương diện: nhà lãnh đạo cách mạng và chính khách cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử, cũng như là nhà tư tưởng cách mạng lớn nhất kể từ Karl Marx“
Xem thêm
Những câu nói nổi tiếng
- Người Cộng sản phải có một cái đầu lạnh và một trái tim hồng! [51]
- Các thầy, cô giáo và Hồng quân đều là những thành trì của Cách mạng!
- Chúng ta không ngốc, nhưng hãy giả bộ như những thằng ngốc!
- Một nhà văn nếu như không tưởng tượng mình là thằng ngốc thì sẽ không thể miêu tả về thằng ngốc được!
- Học, học nữa, học mãi!
Tài liệu tham khảo
- ^ Tạp chí Time số 14|Vol. 151 ngày 13 tháng 4 năm 1998. 100 người nổi bật của thế kỷ
- ^ Lê Thùy Chi. 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất đến lịch sử thế giới. NXB Văn hóa – Thông tin. Hà Nội. 2007. Mục từ thú 86: Lê Nin
- ^ a ă Christopher Read. Lenin: A Revolutionary Life. tr. 4.
- ^ “Lịch sử nước Nga thời kỳ TBCN sau CM tháng 10”.
- ^ Lenin: A Biography. Robert Service. ISBN 0-330-49139-3.
- ^ “Vladimir Ilyich Lenin: The Development of Capitalism in Russia”.
- ^ Tiểu sử V.I Lênin (1870-1924) – Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
- ^ Joe Fineberg and George Hanna (1999). “Vladimir Ilyich Lenin: What Is To Be Done?” 1. Lenin’s Selected Works. tr. 119-271.
- ^ Cách mạng Nga 1899-1919. tr. 789-795.
- ^ “V. I. Lenin: Lessons of the Commune”. Zagranichnaya Gazeta. 23 thàng 3, 1908.
- ^ Robert G. Wesson. Lenin’s Legacy: The Story of the Cpsu. tr. 44.
- ^ “7”. Phần 2. Người cách mạng chuyên nghiệp.
- ^ a ă Kỷ niệm 90 năm cách mạng Tháng 10 Nga vĩ đại từ (7/11/1917-7/11/2007): Những điều mới biết về Lênin
- ^ Thomas Purcell. The Return of the Kings.
- ^ Christopher Read. Lenin: A Revolutionary Life. tr. 161.
- ^ “Vladimir Ilyich Lenin: The Tasks of the Proletariat in the Present Revolution”.
- ^ Christopher Read. Từ chế độ Nga hoàng tới Xô viết. tr. 151–153.
- ^ “The Month of the Great Slander”. Leon Trotsky: The History of the Russian Revolution.
- ^ Karl G. Heinze. Baltic Sagas: Events and Personalities that Changed the World!. tr. 242.
- ^ Marvin Perry, Matthew Berg, James Krukones. Sources of European History Since 1900. tr. 103.
- ^ “Lenin: The State and Revolution”. Lenin Internet Archive.
- ^ a ă Marvin Perry, Myrna Chase, Margaret Jacob, James R. Jacob, Theodore H. Von Laue. Western Civilization: Ideas, Politics, and Society: From the 1600s 2. tr. 738-739.
- ^ a ă “V. I. Lenin: The Constituent Assembly Elections and The Dictatorship of the Proletariat”. 19 tháng 12, 1919.
- ^ “Lenin and the First Communist Revolutions, IV”.
- ^ “V. I. Lenin: Third All-Russia Congress Of Soviets Of Workers’, Soldiers’ And Peasants’ Deputies”.
- ^ Stephane Courtois, et. al (1999). The Black Book of Communism. Harvard University Press. ISBN 0-674-07608-7.
- ^ “Có một Lenin khác…”. 2008.
- ^ Source List and Detailed Death Tolls for the Twentieth Century Hemoclysm
- ^ “V.I. Lenin: The Revolutionary Proletariat and the Right of Nations to Self-Determination”.
- ^ V. I. Lenin: Anti-Jewish Pogroms
- ^ V. Lerner, Y. Finkelstein, E. Witztum (2004). The Enigma of Lenin’s (1870–1924) malady 11 ((6)). European Journal of Neurology. tr. 371-6. doi:10.1111/j.1468-1331.2004.00839.x.
- ^ “A Retrospective Diagnosis Says Lenin Had Syphilis”. C. J. Chivers. The New York Times. 22 tháng 6 2004. Truy cập 9 tháng 5 2013.
- ^ “Vladimir Lenin died from syphilis, new research claims”. Telegraph. 22 tháng 10, 2009.
- ^ a ă â b c Abraham Resnick. Lenin: Founder of the Soviet Union. tr. 9.
- ^ “Flight From Freedom: What Russians Think and Want”.
- ^ Имя Россия
- ^ Lenin để lại nhiều chỉ dẫn quý báu về xây dựng CNXH hiện thực – Thứ Bảy, 17/04/2010 08:55
- ^ “Soviets in Action”.
- ^ Two Lenin monuments opened in Luhansk Oblast, UNIAN (ngày 22 tháng 4 năm 2008)
- ^ “All monuments of Lenin to be removed from Russian cities”, RT (ngày 20 tháng 11 năm 2012)
- ^ Maryland Government, St Petersburg/Leningrad Oblast
- ^ “Leon Trotsky: The History of the Russian Revolution”.
- ^ Orlando Figes (27 thàng 10, 1996). Censored by His Own Regime Censored by His Own Regime. New York Times. tr. 204.
- ^ “Thủ đô Mông Cổ kéo đổ tượng Lenin”. BBC. 14 tháng 10, 2012.
- ^ “Last stand for Ulaanbaatar’s Lenin statue”. Australia Network News. Truy cập 11 tháng 2 năm 2015.
- ^ Phan Bội Châu, người đầu tiên treo ảnh Lê-nin ở Việt Nam, Nguyễn Khắc Phê, Ông già Bến Ngự” – NXB Thuận Hóa, 1987
- ^ PHAN BỘI CHÂU – NHÀ VĂN HÓA, Nguyễn Đình Chú, Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV – ĐHQG Tp. HCM
- ^ a ă â b “Lãnh tụ Xôviết Vladimir Ilich Lênin: Một người Nga chân chính”. CAND.com. 12 thàng 6, 2008.
- ^ Gorin, Vadim, Lenin: A Biography (1983) Progress Publishers, pp. 469–70
- ^ “Vladimir Ilich Lenin biography – prime minister of Union of Soviet Socialist Republics”. Encyclopedia Britannica. Truy cập 11 tháng 2 năm 2015.
- ^ V.I. Lênin nói về tư cách, đạo đức của người cán bộ, Đảng viên Cộng sản
Đọc thêm
- Leon Trotsky, Lenin
- Robert Service, Lenin: A Biography
- Revolution at the Gates: A Selection of Writings from February to October 1917 by V. I. Lenin, Slavoj Zizek (Editor), Verso Books, ISBN 1-85984-661-0
- Louis Fischer, The Life of Lenin, ISBN B00005W8VC (This is an Amazon.com number; many other options are available through ABE)
- Leszek Kolakowski, Main Currents of Marxism
- John Gooding, Socialism In Russia: Lenin and His Legacy, 1890–1991
- Anton Pannekoek, Lenin as Philosopher
- Dmitri Volkogonov, Lenin: A New Biography
- Robert Tucker, “The Lenin Anthology”
- Lenin Internet Archive Biography includes interviews with Lenin and essays on the leader
Liên kết ngoài
Tiếng Việt
Tìm hiểu thêm về Vladimir Ilyich Lenin ở các dự án khác của Wikipedia: | |
![]() |
Nội dung đa phương tiện ở Commons |
![]() |
Câu nói nổi tiếng ở Wikiquote |
![]() |
Văn bản ở Wikisource |
Tiếng Anh
- Marxists.org Lenin Internet Archive — Extensive compendium of writings, a biography, and many photographs
- Article on Lenin written by Trotsky for the Encyclopedia Britannica
- Reminiscences of Lenin by N. K. Krupskaya
- Impressions of Soviet Russia, by John Dewey
- Information on Lenin’s Grave
- The Lenin Museum in Tampere, Finland
- The Unknown Lenin: From the Secret Archives
- Lenin and the First Communist Revolutions
- V.I.Lenin.info: voting about carrying out of a body of Lenin from the Mausoleum. (Russian) (Red – against, Dark blue – for, Grey – I abstain)
- Lenin’s Testament‘s article on Wikipedia
- Lenin’s Testament (text)
Những tác phẩm lựa chọn
- The Development of Capitalism in Russia
- What Is To Be Done?
- One Step Forward, Two Steps Back
- Two Tactics of Social-Democracy in the Democratic Revolution
- Materialism and Empirio-Criticism
- The Right of Nations to Self-Determination
- Imperialism, the Highest Stage of Capitalism
- The State and Revolution
- The Proletarian Revolution and the Renegade Kautsky
- Left-Wing Communism: An Infantile Disorder
- Lenin’s Testament
- Lenin’s last letter to Stalin
|
|
Tiền nhiệm: Aleksandr Kerensky (là lãnh đạo Chính phủ Lâm thời 1917) |
Chủ tịch Hội đồng Dân ủy 1917—1924 |
Kế nhiệm: Alexey Ivanovich Rykov |
- Sinh 1870
- Mất 1924
- Nhà cách mạng Nga
- Lãnh tụ Liên Xô
- Người vô thần
- Đảng viên Đảng Cộng sản
- Người Cộng sản
- Nhà báo Liên Xô
- Nhà báo Nga
- Lãnh tụ Cộng sản
- Vladimir Lenin
- Người cộng sản Nga
- Luật sư Nga
- Nhà triết học Nga
- Nhà triết học vô thần
- Triết gia chính trị
- Nhà lý luận Mác-xít
- Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô
- Chính khách Liên Xô
Video yêu thích
KimYouTube