CNM365. Chào ngày mới 21 tháng 6. Wikipedia Ngày này năm xưa. Father’s Day (Ngày của cha); Việt Nam – Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam; Năm 2012 – Quốc hội Việt Nam thông qua luật Biển, trong đó khẳng định tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa; trong khi đó Quốc vụ viện Trung Quốc phê chuẩn thành lập thành phố Tam Sa với phạm vi bao trùm hai quần đảo này. Năm 2009 Greenland – được trao quyền tự quyết, tự trị (Quốc khánh) tiếp quản quyền quản lý đối với hệ thống tư pháp, cảnh sát, và tài nguyên thiên nhiên từ Vương quốc Đan Mạch.
21 tháng 6
Ngày 21 tháng 6 là ngày thứ 172 (173 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 193 ngày trong năm.
« Tháng 6 năm 2015 » | ||||||
CN | T2 | T3 | T4 | T5 | T6 | T7 |
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | |
7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 |
14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 |
21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 |
28 | 29 | 30 | ||||
Mục lục
Sự kiện
- 1307 – Hải Sơn lên ngôi tại Thượng Đô, trở thành hoàng đế thứ ba của triều Nguyên và đại hãn thứ bảy của đế quốc Mông Cổ.
- 1582 – Thời kỳ Chiến Quốc: Daimyō Oda Nobunaga bị tướng Akechi Mitsuhide ép phải tự sát tại Kyoto, Nhật Bản.
- 1900 – Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn: Triều Thanh tuyên chiến với các cường quốc Hoa Kỳ, Anh Quốc, Đức, Pháp và Nhật Bản.
- 1945 – Thế chiến thứ hai: Các đơn vị kháng cự có tổ chức cuối cùng của Quân đội Nhật Bản trên đảo Okinawa sụp đổ trước Quân đội Hoa Kỳ.
- 2009 – Greenland được trao quyền tự quyết, lãnh thổ tiếp quản quyền quản lý đối với hệ thống tư pháp, cảnh sát, và tài nguyên thiên nhiên.
- 2012 – Quốc hội Việt Nam thông qua luật Biển, trong đó khẳng định tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa; trong khi đó Quốc vụ viện Trung Quốc phê chuẩn thành lập thành phố Tam Sa với phạm vi bao trùm hai quần đảo này.
Sinh
- 1710 – James Short, nhà toán học người Anh (m. 1768)
- 1876 – Willem Hendrik Keesom, nhà vật lý học Hà Lan (m. 1956)
- 1890 – Hộ pháp Phạm Công Tắc, lãnh đạo Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh (m. 1959)
- 1910 – Aleksandr Tvardovsky, nhà thơ Xô Viết (m. 1971)
- 1944 – Ray Davies, nhạc sĩ Anh
- 1946 – Brenda Holloway, nhạc sĩ Mỹ
- 1947 – Shirin Ebadi, luật sư người Iran, được nhận giải Nobel Hòa Bình
- 1986 – Lana Del Rey, ca sĩ người Mỹ
- 1987 – Kim Ryeo Wook, thành viên Super Junior
Mất
- 223 – Lưu Bị, Hoàng đế nhà Thục Hán (s. 161)
- 1475 – Sin Sukju, korean politicians (s. 1417)
- 1529 – John Skelton, nhà thơ Anh
- 1988 – Phạm Huy Thông, nhà thơ, nhà giáo, và nhà khoa học xã hội Việt Nam (s. 1916)
Ngày lễ và kỷ niệm
Tháng 1 | Tháng 2 | Tháng 3 | Tháng 4 | Tháng 5 | Tháng 6 | Tháng 7 | Tháng 8 | Tháng 9 | Tháng 10 | Tháng 11 | Tháng 12 |
Tham khảo
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về 21 tháng 6 |
Ngày của cha
Ngày Của Cha là một lễ được dùng để tôn vinh những người làm cha, tôn vinh cương vị làm cha, mối quan hệ với người cha và ảnh hưởng của người cha trong xã hội. Ngày này được ăn mừng vào ngày Chủ nhật thứ ba của tháng 6 tại nhiều quốc gia và có thể rơi vào những ngày khác ở một số nơi. Ngày này bổ sung cho Ngày của Mẹ – lễ tôn vinh các bà mẹ.
Mục lục
Lịch sử
Ngày Của Cha được ăn mừng phổ biến từ những năm đầu thế kỷ 20 để bổ sung cho Ngày của Mẹ trong những ngày lễ tôn vinh những bậc làm cha mẹ. Ngày của Cha được cử hành vào nhiều ngày khác nhau trên toàn thế giới và thường liên quan đến việc tặng quà, bữa ăn tối đặc biệt cho cha, mẹ, và các hoạt động mang tính gia đình.
Nhưng việc ăn mừng Ngày của Cha sớm nhất được biết đến đã diễn ra ở Fairmont, Tây Virginia vào ngày 5 tháng 7 năm 1908. Sự kiện được bà Grace Golden Clayton tổ chức, với mong muốn vinh danh cuộc đời của 210 người cha bị mất vài tháng trước trong Thảm họa Monongah Mining ở Monongah, Tây Virginia, vào ngày 06 tháng 12 năm 1907. Có thể Clayton chịu ảnh hưởng bởi việc ăn mừng Ngày của Mẹ lần đầu tiên trong năm đó, và chỉ cách đó một vài dặm. Clayton đã chọn ngày Chủ nhật gần nhất so với ngày sinh của người cha vừa mới qua đời của bà.
Tuy nhiên, sự kiện đó bị lu mờ bởi các sự kiện khác trong thành phố. Tiểu bang Tây Virginia không chính thức công nhận ngày lễ này, và nó không được tổ chức trở lại. Tất cả công lao trong việc giúp Ngày của Cha ra đời về sau lại được ghi nhận cho Sonora Dodd người Spokane, đã tổ chức Ngày của Cha một cách độc lập vào 2 năm sau đó. Sự kiện của bà cũng chịu ảnh hưởng từ Ngày của Mẹ.
Lễ kỷ niệm của bà Clayton đã bị lãng quên cho đến năm 1972, khi một trong những người tham dự để buổi lễ do bà tổ chức nhìn thấy Tổng thống Mỹ Richard Nixon công bố Ngày của Cha, và làm việc để phục hồi di sản của nó. Ngày lễ này hiện được tổ chức hàng năm nhà thờ Tin Lành Giám Lý Williams Memorial Methodist Episcopal Church. Fairmont nay được đề cử là “Quê hương Ngày của Cha đầu tiên”.
Một dự luật công nhận Ngày của Cha là ngày lễ quốc gia được đưa lên Quốc hội Mỹ vào năm 1913. Năm 1916, Tổng thống Woodrow Wilson đến Spokane để nói chuyện trong lễ kỷ niệm Ngày của Cha và muốn công nhận nó chính thức, nhưng Quốc hội phản đối, vì sợ rằng nó sẽ bị thương mại hóa. Tổng thống Mỹ Calvin Coolidge đề nghị vào năm 1924 rằng nên đưa Ngày của Cha vào diện ngày được quan sát bởi quốc gia, nhưng chưa phát hành một công bố quốc gia.
Năm 1957, Thượng nghị sĩ Margaret Chase Smith viết một kiến nghị buộc tội Quốc hội đã bỏ phớt lờ Ngày của Cha suốt 40 năm, trong khi tôn vinh các bà mẹ, do đó “chỉ tôn vinh 1 trong 2 phụ huynh của chúng ta”. Năm 1966, Tổng thống Lyndon B. Johnson đã đưa ra lời loan báo tổng thống đầu tiên tôn vinh những người cha, và chỉ định dành ngày Chủ nhật thứ ba trong tháng 6 làm Ngày của Cha.
Sáu năm sau, ngày này đã được chính thức trở thành ngày nghỉ lễ trên toàn quốc ở Mỹ sau khi Tổng thống Richard Nixon ký nó thành luật vào năm 1972. Ngoài Ngày của Cha, còn có Ngày Quốc tế Đàn ông được tổ chức tại nhiều quốc gia vào ngày 19 tháng 11 để dành cho những người đàn ông con trai không phải là cha.
Ngày của Cha ở các quốc gia
![]() |
Xin hãy cùng đóng góp cho bài hoặc đoạn này bằng cách phát triển nó. Nếu bài viết đã được phát triển, hãy gỡ bản mẫu này. |
Những nơi có ăn mừng Ngày của Cha là: thế giới Arab, Argentina, Úc, Brazil, Canada, Costa Rica, Đan Mạch, Đức, Hồng Kông, Ireland, Pakistan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Seychelles, Nepal, New Zealand, Philippines, Romania, Singapore, Tây Ban Nha, Đài Loan, Vương quốc Anh, Mỹ… Ngoài ra, Ngày của Cha còn được nhắc đến trong văn hóa Thiên Chúa giáo, với việc ăn mừng chung với ngày lễ Thánh Giuse.
Ở Việt Nam, ngày này chưa được phổ biến rộng, cũng có một vài gia đình tổ chức ngày này để tôn vinh các người cha.
- Thái Lan:
Tại Thái Lan, Ngày của Cha được thiết lập như ngày sinh nhật của nhà vua. ngày 05 tháng 12 là ngày sinh của vua hiện tại, Bhumibol Adulyadej (Rama IX). Theo truyền thống, người Thái ăn mừng bằng cách cho cha hay ông nội của họ một hoa Canna (ดอก พุทธรักษา), được coi là một bông hoa nam tính, tuy nhiên, đây không phải là điều thường được thực hiện ngày hôm nay. Người Thái sẽ mặc màu vàng vào ngày này để tôn trọng nhà vua, bởi vì màu vàng là màu của ngày Thứ Hai, ngày vua Bhumibol Adulyadej ra đời. Năm 2007, vua Bhumibol Adulyadej được nhìn thấy rời khỏi bệnh viện trong trang phục một áo em bé màu hồng (?). Vì vậy, ngày nay người Thái mặc màu hồng thay vì màu vàng.[cần dẫn nguồn]
Xem thêm
Tham khảo
- Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Sáu
- Gia đình
- Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Ba
- Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Chín
- Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Mười Một
Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam
![]() |
Thông tin trong bài này hoặc đoạn này không thể kiểm chứng được do không được chú giải từ bất kỳ nguồn tham khảo nào. Xin bạn hãy cải thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn uy tín. Nếu bài được dịch từ Wikipedia ngôn ngữ khác thì hãy chuyển nguồn tham khảo từ phiên bản đó cho bài này. |
Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam 21.6 là ngày kỉ niệm ra đời của báo “Thanh niên” do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập 21.6.1925. Trong lịch sử báo chí Việt Nam, từ những năm 60 thế kỉ 19 đã có “Gia Định báo” và một số báo khác lần lượt ra đời tại Sài Gòn, Hà Nội và một vài địa phương khác. Nhưng báo “Thanh niên” đã mở ra một dòng báo chí mới: báo chí cách mạng Việt Nam. Từ khi có báo “Thanh niên”, báo chí Việt Nam mới giương cao ngọn cờ cách mạng, nói lên ý chí, khát vọng của dân tộc Việt Nam và chỉ rõ phương hướng đấu tranh của nhân dân Việt Nam vì độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Do ý nghĩa đó, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra Quyết định số 52 ngày 5.2.1985 lấy ngày 21.6 hằng năm làm Ngày báo chí Việt Nam nhằm nâng cao vai trò và trách nhiệm xã hội của báo chí, thắt chặt mối quan hệ giữa báo chí với công chúng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí.[1]
Ngày 21.6.2000, nhân kỉ niệm 75 năm Ngày báo chí Việt Nam, theo đề nghị của Hội Nhà báo Việt Nam, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đồng ý gọi Ngày báo chí Việt Nam là Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam. [2]
Luật Biển Việt Nam
Luật Biển Việt Nam được Quốc hội của Việt Nam thông qua vào ngày 21/6/2012.[1] Luật này gồm 7 chương, 55 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2013. Chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được khẳng định từ điều 1 của bộ luật. Bộ luật cũng được soạn để phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển. Luật biển của Việt Nam được thông qua cùng ngày với việc nhà nước Trung Quốc tuyên bố thành lập thành phố Tam Sa bao trùm toàn bộ các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.[2][3]
Mục lục
Nội dung cơ bản
- Chương 1: gồm các quy định chung về phạm vi điều chỉnh, định nghĩa.
- Chương 2: quy định về vùng biển Việt Nam với các quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, đảo, quần đảo…
- Chương 3:
Quy định về hoạt động trong vùng biển Việt Nam, trong đó có các quy định: đi qua không gây hại trong lãnh hải, tuyến hàng hải và phân luồng giao thông trong lãnh hải phục vụ cho việc đi qua không gây hại, vùng cấm và khu vực hạn chế hoạt động trong lãnh hải, tàu quân sự và tàu thuyền công vụ của nước ngoài đến Việt Nam, trách nhiệm của tàu quân sự và tàu thuyền công vụ của nước ngoài trong vùng biển Việt Nam, hoạt động của tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác của nước ngoài trong nội thủy, lãnh hải Việt Nam, quyền tài phán hình sự và dân sự đối với tàu thuyền nước ngoài, quyền truy đuổi tàu thuyền nước ngoài…
- Chương 4: dành cho phát triển kinh tế biển, với các điều khoản về nguyên tắc phát triển kinh tế biển, các ngành kinh tế biển, quy hoạch phát triển kinh tế biển, xây dựng và phát triển kinh tế biển, khuyến khích, ưu đãi đầu tư phát triển kinh tế trên các đảo và hoạt động trên biển.
- Chương 5: quy định về tuần tra, kiểm soát trên biển với các điều khoản về lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển, nhiệm vụ và phạm vi trách nhiệm tuần tra, kiểm soát trên biển, cờ, sắc phục và phù hiệu.
- Chương 6: Quy định về xử lý vi phạm. Chương này bao gồm các điều khoản về dẫn giải và địa điểm xử lý vi phạm, biện pháp ngăn chặn, thông báo cho Bộ Ngoại giao và xử lý vi phạm.
Phản ứng các bên
Bộ ngoại giao Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã triệu tập Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam để phản đối luật này. Bộ ngoại giao Trung Quốc yêu cầu Việt Nam phải chỉnh sửa ngay lập tức vì luật mới của Việt Nam “vi phạm nghiêm trọng chủ quyền Trung Quốc” tại Biển Đông và bất kỳ nước nào tuyên bố chủ quyền tại Trường Sa-Hoàng Sa đều là hành động “bất hợp pháp và vô căn cứ” và Luật Biển của Việt Nam “vô giá trị, không có hiệu lực” và Trung Quốc mạnh mẽ phản đối, kiên quyết bảo vệ chủ quyền của mình, và “hành động của Việt Nam là phi pháp, vô giá trị và gây phương hại cho hoà bình và ổn định ở Biển Đông và Trung Quốc sẽ bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia của mình.[4][5]
Việt Nam cho rằng việc thông qua Luật Biển là hoạt động lập pháp bình thường nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý của Việt Nam, phục vụ cho việc sử dụng, quản lý, bảo vệ các vùng biển, đảo và phát triển kinh tế biển của Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế và tăng cường hợp tác với các nước, vì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Việc Luật Biển Việt Nam đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là sự tiếp nối một số quy định trong các luật đã có trước đây của Việt Nam. Đây không phải là vấn đề gì mới và không ảnh hưởng đến quá trình tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài cho các tranh chấp ở Biển Đông.[6]
Chú thích
- ^ Quốc hội thông qua Luật biển Việt Nam
- ^ “国务院批准设立地级三沙市 民政部新闻发言人答问”. Tân Hoa Xã. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2012.
- ^ “’Việt Nam đã chuyển thông điệp quan trọng qua Luật Biển’”. VietNamNet. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2012.
- ^ “China opposes Vietnamese maritime law over sovereignty claim”. Tân Hoa xã. 21 tháng 6 năm 2012.
- ^ “Trung Quốc phản đối =Luật Biển Việt Nam vừa thông qua”. VOA tiếng Việt.
- ^ “Thông qua Luật Biển là một hoạt động lập pháp bình thường”. báo Dân trí.
Liên kết ngoài
![]() |
Wikisource tiếng Việt có toàn văn tác phẩm về: |
- Toàn văn Luật Biển Việt Nam, Cơ sở dữ liệu Luật Việt Nam
- Tập tin văn bản Luật Biển Việt Nam trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ
- Quốc hội Việt Nam thông qua Luật biển Việt Nam., Vietnamnet
- Nhận xét ban đầu về Luật Biển Việt Nam của Dương Danh Huy nhà nghiên cứu thuộc Quỹ Nghiên cứu Biển Đông., BBC tiếng Việt
- Việt Nam đã chuyển thông điệp quan trọng qua Luật Biển: “Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tiếp tục được thể hiện rõ trong Luật Biển. Việt Nam chủ trương giải quyết các bất đồng, tranh chấp liên quan đến biển đảo bằng các biện pháp hòa bình.“, Phỏng vấn Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh. VnExpress
- Vietnam’s maritime claim ‘will harm ties’, Trung Quốc Nhật báo
- Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với quần đảo Tây Sa và Nam Sa, Đài phát thanh Quốc tế Trung Quốc
- 郁志荣:必须遏制住越南的嚣张气焰, mạng Hoàn Cầu
Greenland
![]() |
Thông tin ở đây có thể đã lỗi thời hay không còn chính xác nữa. Nếu biết thông tin mới cho trang này, xin bạn giúp cập nhật. Xem trang thảo luận để có thêm thông tin. |
Greenland | |||||
---|---|---|---|---|---|
Kalaallit Nunaat (tiếng Greenland) | |||||
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
không có | |||||
Quốc ca | |||||
Nunarput utoqqarsuanngoravit Nuna asiilasooq |
|||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Quân chủ lập hiến | ||||
Nữ hoàng Cao uỷ cao cấp Thủ tướng |
Margrethe II Søren Hald Møller Kim Kielsen |
||||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Greenland (còn gọi là Kalaallisut) | ||||
Thủ đô | Nuuk (Godthåb) |
||||
Thành phố lớn nhất | Nuuk (Godthåb) | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 2.166.086 km² (hạng 13) | ||||
Diện tích nước | 81,1% † % | ||||
Múi giờ | UTC0 đến -4 | ||||
Lịch sử | |||||
Dân cư | |||||
Dân số ước lượng (2005) | 56.375 người (hạng 211) | ||||
Mật độ | 0,025 người/km² (hạng 230) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2001) | Tổng số: $1,1 tỷ đô la Mỹ | ||||
Đơn vị tiền tệ | Krone Đan Mạch (DKK ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .gl | ||||
† Năm 2000: 158.433 dặm vuông (410.449 sq km) không tính băng, 677.676 dặm vuông (1.755.637 sq km) gộp cả vùng băng phủ |
Greenland (tiếng Greenland: Kalaallit Nunaat, nghĩa “vùng đất của con người”; tiếng Đan Mạch: Grønland, nghĩa “Vùng đất xanh”) là một quốc gia tự trị thuộc Vương quốc Đan Mạch. Dù về địa lý và dân tộc đây là một đảo quốc Bắc cực liên kết với lục địa Bắc Mỹ, nhưng về lịch sử Greenland có quan hệ mật thiết với châu Âu. Đại Tây Dương bao quanh Greenland ở phía đông nam; Biển Greenland ở phía đông; Bắc Băng Dương ở phía bắc; và Vịnh Baffin ở phía tây. Nước nằm gần vùng này nhất là Iceland, ở phía đông Greenland trong Đại Tây Dương và Canada ở phía tây bên kia Vịnh Baffin. Greenland là hòn đảo lớn nhất thế giới. Đây cũng là nơi có vườn quốc gia lớn nhất thế giới.
Khoảng 81% diện tích bề mặt Greenland bị băng bao phủ, được gọi là mũi băng Greenland, trọng lượng của băng đã nén vùng đất trung tâm lục địa hình thành nên một lòng chảo nằm thấp hơn 300 m [1.000 ft] dưới mực nước biển. Hầu như tất cả người dân Greenland đều sống dọc theo các vịnh hẹp (fjords) ở phía tây nam đảo chính, nơi có khí hậu ôn hoà hơn. Đa phần người dân Greenland là hậu duệ của cả người Kalaallit (Inuit) và Scandinavia và sử dụng tiếng Greenland (hay Kalaallisut) làm ngôn ngữ chính. Tiếng Greenland được hơn 50.000 người sử dụng, lớn hơn toàn bộ nhóm ngôn ngữ Eskimo-Aleut cộng lại. Một cộng đồng thiểu số Đan Mạch di cư tới đây nói tiếng Đan Mạch. Cả hai đều là ngôn ngữ chính thức, trong khi đó phương ngữ Greenland phía tây là hình thức chính thức của tiếng Greenland.
Hiện đang có cuộc tranh cãi ngoại giao về chủ quyền giữa Canada và Greenland (được đại diện trên trường quốc tế bởi Đan Mạch) về hòn đảo nhỏ Hans.
Greenland trở thành thuộc địa của Vương quốc Na Uy (Norgesveldet) từ năm 1261. Tuy nhiên, từ sau năm 1397, khi có Liên minh Kalmar, thì quyền kiểm soát Greenland trên thực tế dần dần rơi vào tay Vương quốc Đan Mạch và tới năm 1814 khi có Hòa ước Kiel thì Greenland hoàn toàn trở thành thuộc địa của Đan Mạch.
Tới ngày 5 tháng 6 năm 1953, khi Đan Mạch tu chính Luật căn bản (cũng gọi là Luật hiến pháp) thì Greenland được sát nhập thành một amt (tương đương tỉnh hạt) của Đan Mạch. Sau cuộc trưng cầu ý dân năm 1978, Greenland được Quốc hội Đan Mạch (Folketing) biểu quyết Luật số 577 vào ngày 29 tháng 11 năm 1978 trao cho quyền tự trị. Luật bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1 tháng 5 năm 1979. Nữ hoàng Đan Mạch, Margrethe II, vẫn là quốc trưởng của Greenland. Các cử tri Greenland đã lựa chọn tách khỏi Cộng đồng kinh tế Châu Âu ngay sau khi được trao quyền tự trị.
Sau gần 300 năm dưới sự cai trị của Đan Mạch,Greenland đã tiến 1 bước dài trong việc độc lập với Đan Mạch. Cuộc trưng cầu dân ý năm 2008 nhằm đề nghị nhiều quyền hạn hơn từ phía Copenhagen đã được công nhận và có hiệu lực từ ngày 21 tháng 6 năm 2009. Đan Mạch vẫn giữ lại quyền kiểm soát tài chính, đối ngoại, quốc phòng nhưng sẽ giảm dần trợ cấp hàng năm và từ bỏ quyền kiểm soát tài nguyên thiên nhiên trên đảo. Người Greenland – hầu hết là người bản địa Inuit – sẽ được đối xử như người riêng biệt theo luật quốc tế.[1]
Mục lục
Từ nguyên
Cái tên “Greenland” do những người Scandinavia định cư đặt. Truyện dân gian Bắc Âu có kể rằng Erik Đỏ bị trục xuất khỏi Iceland vì tội giết người. Ông cùng với đại gia đình và những người nô lệ, lên tàu đi tìm vùng đất được đồn đại là ở hướng tây bắc. Sau khi đã tới nơi, ông đặt tên cho vùng đất này là Grønland (“Greenland”), có lẽ để thu hút thêm những người khác tới định cư ở đây. Greenland cũng được gọi là Gruntland (“Ground-land”) trên những bản đồ thời trước. Việc “Green” có phải là sự phiên âm sai của “Grunt” (“Ground”), chỉ những vịnh cạn, hay ngược lại vẫn là điều chưa sáng tỏ. Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng phần phía nam của Greenland (nơi không bị băng bao phủ) thật sự rất xanh, ít nhất trong mùa hè.
Lịch sử
Dân cư nguyên thủy của Greenland xuất xứ từ vùng Trung Á, nơi các bộ tộc Eskimo tức người Inuit di chuyển bằng đường bộ qua eo biển Bering, qua Alaska rồi đi tiếp tới các đảo ở phía bắc Canada. Từ đó họ đã đi bộ qua eo biển hẹp tới vùng Thule khoảng năm 2.500 trước Công nguyên (vùng mà nhà thám hiểm Hy lạp Pytheas đặt tên cho một hòn đảo mà ông ta đã đặt chân lên khoảng năm 330-320 TCN, không biết đích xác nơi nào, dường như là Iceland hay quần đảo Faroe hay Greenland hay Hålogaland (miền bắc Na Uy). Những người nhập cư đầu tiên này được xem là thuộc nền văn hóa Independence I, theo tên địa điểm mà các di tích khảo cổ đã được tìm thấy.
Tới khoảng năm 1.600 TCN, có một đợt dân nhập cư tới cư ngụ ở dọc theo bờ biển phía tây, thuộc nền văn hóa Saqqaq. Họ sống tại đây trong khoảng 1.000 năm, sau đó dường như họ không chịu nổi sự biến đổi khí hậu nữa.
Sau đó tới nhóm người thuộc nền văn hoá Dorset (văn hoá Paleo-Eskimo) ở thời tiền sử nhập cư vào khu bờ biển phía đông và phía tây, và nền văn hoá này đã biến mất vào khoảng năm 200. Ngày nay còn nhiều di tích khảo cổ tại các nhà bảo tàng địa phương ở Greenland. Từ đó về sau, dường như không hề có người sinh sống trên hòn đảo này trong 8 thế kỷ.
Những nông dân Iceland dưới sự lãnh đạo của Erik Đỏ (Eirik Raude) tới Greenland vào khoảng năm 982. Họ đã lập ra ba khu định cư ở Brattahlid gần mũi cực tây nam hòn đảo, và chính họ đã đặt tên cho đảo là Grønland (Greenland). những nơi này đã phát triển nhanh chóng trong vài thế kỷ sau đó, và đã biến mất sau hơn 450 năm có người sinh sống.
Đợt dân nhập cư cuối cùng xảy ra khoảng năm 1.200 và những di dân này là tổ tiên của dân cư Greenland hiện nay.
Thời ấy, các vịnh hẹp (fjords) ở phần phía nam hòn đảo có hệ động thực vật phát triển và khí hậu ấm hơn, có lẽ vì thế nó được gọi là Giai đoạn ấm Trung Cổ. Các cộng đồng xa xôi đó đã phát triển, và sinh sống bằng việc đồng áng, săn bắn cũng như buôn bán với mẫu quốc. Dường như những người tới định cư sống khá hoà thuận với người Inuit, họ đã di cư về phía nam từ các đảo Bắc Cực của Bắc Mỹ từ khoảng năm 1200. Năm 1261, Greenland trở thành thuộc địa của Vương quốc Na Uy. Tới lượt mình Na Uy lại tham gia vào Liên minh Kalmar năm 1397 và sau này là Liên minh Đan Mạch-Na Uy.
Sau gần năm trăm năm, những người định cư Scandinavia đã biến mất, có lẽ vì nạn đói trong thế kỷ 15 ở thời Băng hà nhỏ, khi các điều kiện khí hậu trở nên khắc nghiệt hơn, và tiếp xúc với Châu Âu bị gián đoạn. Xương cốt thời kỳ này được tìm thấy ngày nay cho thấy những bằng chứng ủng hộ điều đó. Mộ số người tin rằng những người định cư đã biến mất vì bệnh dịch hạch hay bị người Inuit tiêu diệt. Các nhà sử học đã chỉ ra rằng những tên cướp biển người Basque hay người Anh hay những kẻ buôn bán nô lệ từ Bờ biển Barbary đã góp phần vào sự biến mất của những cộng đồng tại Greenland.
Năm 1721, mục sư người Na Uy gốc Đan Mạch Hans Egede, được vua Frederik IV của Đan Mạch phái tới Greenland để tìm các cư dân Bắc Âu, nhưng không thấy, mà chỉ gặp dân Inuit, ông ta bắt đầu truyền giáo, khiến họ cải sang Kitô giáo. Hans Egede đặt nền móng cho thành phố Nuuk (nay là thủ phủ của Greenland), vừa truyền giáo vừa buôn bán nhân danh vua Đan Mạch.
Đan Mạch–Na Uy tái xác nhận tuyên bố chủ quyền của họ với thuộc địa này năm 1721. Các mối quan hệ của hòn đảo với Na Uy trở nên xấu đi sau Hòa ước Kiel năm 1814, theo đó Thuỵ Điển giành được quyền kiểm soát toàn bộ nước Na Uy trong khi Đan Mạch giữ lại toàn bộ quyền sở hữu những vùng bên ngoài (thời ấy gồm các lãnh thổ nhỏ tại Ấn Độ, Tây Phi và Tây Ấn, cũng như Quần đảo Faroe, Iceland và Greenland.
Na Uy chiếm và tuyên bố chủ quyền nhiều phần (khi ấy không có người ở) ở phía Đông Greenland còn gọi là Erik the Red’s Land vào tháng 7, 1931, cho rằng đó là Vùng đất không thuộc chủ quyền của một bên nào (Terra nullius). Na Uy và Đan Mạch đã đồng ý giải quyết vấn đề tại Toà án luật pháp quốc tế năm 1933, toà xử Na Uy thua cuộc.
Trong Thế chiến thứ hai, Greenland là một trạm trung chuyển hàng không quan trọng của phe Đồng Minh, để chở hàng tiếp liệu từ Hoa Kỳ sang Anh. Các nguồn tiếp liệu từ Đan Mạch bị cắt đứt từ ngày 9 tháng 4, 1940 khi Đan Mạch bị Đức chiếm đóng, và Greenland tự quản lý các công việc của mình. Nhờ có cryolite khai thác ở mỏ Ivigtut, Greenland có khả năng chi trả cho những mặt hàng mua từ Hoa Kỳ và Canada. Trong chiến tranh hệ thống chính phủ đã thay đổi. Eske Brun là thủ hiến và người cai trị hòn đảo thông qua một điều luật năm 1925 liên quan tới việc quản lý hòn đảo khi, dưới những trường hợp đặc biệt, các vị thủ hiến không thể nắm quyền kiểm soát. Vị thủ hiến khác, Aksel Svane, được phái tới Hoa Kỳ với tư cách lãnh đạo uỷ ban cung cấp Greenland. Đơn vị tuần tra Sirius Patrol, canh gác các bờ biển phía đông bắc Greenland sử dụng các xe chó kéo, đã phát hiện và phá huỷ nhiều trạm dự báo thời tiết của Đức, khiến Đan Mạch có được một vị trí tốt hơn trong giai đoạn hỗn loạn thời hậu chiến.
Tới tận năm 1940, Greenland vẫn là một xã hội được bảo vệ và vì vậy cũng là một xã hội biệt lập. Chính phủ Đan Mạch, cai quản thuộc địa Greenland, tin rằng xã hội này sẽ phải đối mặt với sự khai thác từ thế giới bên ngoài, thậm chí là bị diệt chủng nếu được mở cửa. Dù trong Chiến tranh thế giới thứ hai, ở Greenland đã phát triển một tinh thần tự cường trong giai đoạn tự quản lý và thông tin độc lập với thế giới bên ngoài.
Tuy nhiên, năm 1946 một uỷ ban (với sự tham gia của hội đồng cấp cao nhất của Greenland) đề xuất sự kiên nhẫn và không đưa ra những sửa đổi quá triệt để với hệ thống này. Hai năm sau, bước đầu tiên nhằm tiến tới một chính phủ ở Greenland được khởi động khi một uỷ ban quan trọng được thành lập. Năm 1950 bản báo cáo (G-50) được đệ trình. Greenland muốn trở thành một xã hội hiện đại và thịnh vượng với Đan Mạch vừa là hình mẫu, vừa là nước đỡ đầu. Năm 1953 Greenland trở thành một lãnh thổ bình đẳng bên trong Cộng đồng Vương quốc Đan Mạch (Rigsfælleskab).
Năm 1979, Greenland được trao thể chế tự trị.
Sau ba thế kỷ là một phần lãnh thổ của Đan Mạch, ngày 21 tháng 6 năm 2009, Greenland chính thức tiếp quản quyền điều hành lực lượng cảnh sát và tòa án của hòn đảo cùng với việc tiếp quản này, chính quyền đảo Greenland sẽ được thu phần lớn hơn trong việc khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên tại đảo và được luật pháp quốc tế đối xử như một thực thể độc lập với ngôn ngữ chính thức là tiếng Kalaallisut chứ không còn là tiếng Đan Mạch.[2]
Khí hậu
Greenland thuộc khu vực khí hậu Bắc cực. Nhiệt độ trung bình của tháng nóng nhất trong năm không vượt quá +10 °C. Có sự cách biệt về khí hậu giữa miền Bắc và miền Nam, và giữa các vùng bờ biển với vùng sâu trong nội địa. Biển khơi cũng tác động tới khí hậu, làm cho không khí mùa hè mát hơn, trong khi mùa đông lại ấm hơn. Bởi vậy, ở dọc bờ biển phía Nam thì mùa đông ấm hơn và mùa hè mát hơn, trong khi ở dọc bờ biển phía Bắc thì mùa hè mát và mùa đông lạnh.
Nếu so sánh nhiệt độ ở Sisimiut nằm ở bờ biển, với nhiệt độ ở Kangerlussuaq nằm trong đất liền cách bờ biển 150 km, ở cùng một vĩ độ, thì có sự chênh lệch khá lớn. Vào tháng 1 năm 2003, nhiệt độ trung bình ở Sisimiut là -7,2 °C, ở Kangerlussuaq là -12,4 °C. Vào tháng 7 năm 2003, nhiệt độ trung bình ở Sisimiut là +7,1 °C, ở Kangerlussuaq là +11,4 °C.
Lượng nước mưa và tuyết rơi cũng rất khác biệt. Ở miền Nam, lượng nước rơi hàng năm từ khoảng 800 mm tới 1.400 mm. Xa hơn về phía Bắc và sâu vào nội địa thì lượng nước rơi giảm đáng kể. Ở các vùng này, lượng nước rơi hàng năm dưới 200 mm, trong khi ở một vài nơi cá biệt như Peary Land thì lượng nước rơi không đáng kể, và khu vực đó có thể được gọi là sa mạc Bắc cực.
Độ dài của ngày cũng khác nhau trên nhiều địa phương, tùy theo mùa. Nanortalik ở miền Nam và Nuuk ở miền Trung, nằm ở phía nam của Vòng cực (polar circle), không có Ban ngày vùng cực (midnight sun) và Ban đêm vùng cực (polar night). Càng lên xa hơn về phía Bắc thì có 2 thời kỳ. Ở Ilulissat, phía bắc của Vòng Bắc Cực, có thời gian khoảng 2 tháng có Mặt trời nửa đêm, ở Upernavik có 3 tháng và ở Qaanaaq có Mặt Trời nửa đêm gần 4 tháng
Chính trị
Lãnh đạo Nhà nước Greenland là Vua Đan Mạch, hiện là Nữ hoàng Margrethe II. Chính phủ của Nữ hoàng tại Đan Mạch chỉ định một Rigsombudsmand (Cao uỷ cao cấp) đại diện cho nhà vua Đan Mạch.
Greenland có nghị viện gồm 31 thành viên, được bầu với nhiệm kỳ 4 năm. Nghị viện họp mỗi năm từ 2 tới 4 kỳ. Các lãnh vực đối ngoại, quốc phòng, an ninh, tòa án, tiền tệ và nguyên liệu trong lòng đất do chính quyền Greenland giải quyết.
Ngoài ra Greenland 2 đại biểu trong Đoàn đại biểu Đan Mạch tại Hội đồng Bắc Âu.
Greenland không thuộc Liên minh Châu Âu (đã rời khỏi tổ chức tiền thân của Liên minh Châu Âu là Cộng đồng Châu Âu năm 1985), dù Đan Mạch là một thành viên của tổ chức này.
Địa lý
Greenland nằm trải dài trên 24 vĩ độ, từ mũi Uummannarssuaq (tiếng Đan Mạch: Kap Farvel, tiếng Anh: Cap Farewell) cực nam ở 59°46′ độ vĩ bắc (ngang Oslo) tới đảo Inuit Qeqertaat (tiếng Đan Mạch: Kaffeklubben) ở 83°40′ độ vĩ bắc. Đảo có chiều dài 2.650 km và rộng khoảng 1.000 km, nằm cách Bắc cực 710 km, là lãnh thổ cực bắc của Trái Đất.
Greenland có biên giới phía nam là Đại Tây Dương, phía bắc là biển Lincoln và biển Wandels (cả 2 biển này đều nằm trong Bắc Băng Dương), phía tây là eo biển Davis và vịnh Baffin, phía tây bắc là eo biển Smith và eo biển Nares, phía đông là biển Greenland và eo biển Đan mạch, cách Iceland 240 km.
Tổng diện tích Greenland là 2.166.086 km² (836.109 dặm vuông), trong đó Phiến băng Greenland bao phủ 1.755.637 km² (677.676 dặm vuông) (81%), chỉ có 410.449 km² diện tích là không có băng bao phủ (19%). Điểm cao nhất là núi Gunnbjørn ở phía đông, cao 3.693 mét. Đường bờ biển Greenland dài 44.087 km, khoảng bằng chiều dài chu vi xích đạo Trái Đất.
Trọng lượng to lớn của phiến băng Greenland với chiều cao 3.000 mét đã nén vùng đất trung tâm, hình thành nên một lòng chảo nằm thấp hơn 300 m [1.000 feet] dưới mực nước biển,[3] đồng thời cũng ép các khối băng dư thừa ra biển thành những núi băng trôi lớn hay nhỏ. Năm 1912, tàu Titanic đã đụng phải một trong các núi băng này.
Toàn bộ thị trấn và khu định cư ở Greenland nằm dọc theo bờ biển không bị băng bao phủ, dân số tập trung ở bờ biển phía tây. Vùng phía đông bắc Greenland, gồm các khu vực Bắc Greenland và Đông Greenland, không phải là một phần của bất cứ khu vực tự trị nào, đây là nơi có vườn quốc gia lớn nhất thế giới, Vườn quốc gia đông bắc Greenland. Xem Các vùng của Greenland.
Ít nhất có bốn trạm và trại thám hiểm khoa học ở phần trung tâm bị băng bao phủ của Greenland (được thể hiện bằng màu xanh nhạt trên bản đồ bên phải) là: Eismitte, Băng Bắc, Trại Bắc GRIP, Raven Skiway. Hiện nay, có một trạm thường trú cả năm là Summit Camp, được thành lập năm 1989. Đài phát thanh Jørgen Brøndlund Fjord cho tới tận năm 1950, là trạm xa nhất về phía cực bắc trên thế giới.
Vùng xa nhất phía bắc Greenland là Peary Land, nơi đây không bị băng bao phủ bởi vì không khí quá khô để tuyết, yếu tố chủ chốt để hình thành và duy trì các phiến băng, xuất hiện. Nếu phiến băng Greenland tan chảy hoàn toàn, mực nước biển sẽ tăng thêm hơn 7 m (23 feet)[4] và Greenland có lẽ sẽ trở thành một quần đảo.
Trong khoảng 1989 và 1993, các nhà nghiên cứu khí hậu Hoa Kỳ và Châu Âu đã khoan vào đỉnh phiến băng Greenland, thu được hai lõi băng dài hai dặm (3.2 km). Phân tích các lớp và thành phần lõi băng cho thấy đã có một sự thay đổi khí hậu lớn ở Bắc Bán Cầu từ khoảng 100.000 năm trước chứng minh rằng thời tiết và khí hậu Trái Đất đã thay đổi nhanh chóng từ trạng thái có vẻ rất ổn định tới một trạng thái khác hẳn, gây ra những hậu quả trên khắp thế giới[cần dẫn nguồn]. Các băng hà Greenland cũng góp phần làm tăng mực nước biển nhanh chóng hơn so với điều chúng ta từng tin tưởng trước đây[5].
Tháng 2 năm 2006 các nhà nghiên cứu đã báo cáo rằng các băng hà ở Greenland đang tan ra với tốc độ nhanh gấp hai lần so với năm năm trước đây. Năm 2005, lượng băng tan hàng năm được ước tính khoảng 216 km³/năm (52 dặm khối mỗi năm), theo các tính toán hấp dẫn vệ tinh. Trong khoảng 1991 và 2006, việc kiểm tra thời tiết tại một địa điểm (Trại Thuỵ Sĩ) đã thấy rằng nhiệt độ trung bình mùa đông đã tăng gần 10 độ fahrenheit[cần dẫn nguồn].
Kinh tế
Đầu thập niên 1990 kinh tế Greenland rơi vào cảnh nợ nần nhưng từ năm 1993 nền kinh tế đã có bước cải thiện. Chính phủ tự trị Greenland (GHRG) đã theo đuổi chính sách thuế chặt chẽ từ cuối thập niên 1980 giúp tạo ra thặng dư trong ngân sách công cộng và tỷ lệ lạm phát thấp. Từ năm 1990, Greenland đã bị thâm hụt thương mại nước ngoài sau khi đóng cửa những mỏ chì và kẽm còn hoạt động năm 1990. Greenland hiện nay phụ thuộc nhiều vào công nghiệp đánh bắt hải sản, chế biến và xuất khẩu cá, tôm các loại, chiếm tới 90% tổng giá trị xuất cảng, là ngành mang lại nguồn thu lớn nhất.
Dù đã tái khởi động các hoạt động khai thác hydrocarbon và khoáng chất nhưng cần có nhiều năm nữa hiệu quả của nó mới thật sự đạt được. Du lịch là lĩnh vực duy nhất đã phát triển gần mức tới hạn của tiềm năng và thậm chí còn bị hạn chế vì mùa ngắn và chi phí cao. Việc sản xuất và buôn bán phần lớn do các xí nghiệp quốc doanh nắm giữ như hãng Royal Greenland (chế biến hải sản), KNI (hãng mậu dịch bán sỉ và bán lẻ), hãng điện thoại Tele Greenland, Royal Artic Line, Artic Umiaq Line và 37,5% của Air Greenland. Các hãng này đóng vai trò chủ chốt trong nền kinh tế Greenland.
Khoảng một nửa số chi phí công cộng do Chính phủ Đan Mạch tài trợ mỗi năm, bằng một khoản trợ cấp cả mớ (block grant), trong đó có khoản trợ cấp của Liên minh châu Âu và khoản thu từ bán môn bài đánh bắt cá là 280 triệu krone Đan Mạch/năm. Khoản trợ cấp này của năm 2007 là 3 tỷ 202,1 triệu krone Đan Mạch. Các chi phí hàng năm của chính phủ tự trị khoảng 6 tỷ krone Đan Mạch. Đây là khoản đóng góp quan trọng vào tổng sản phẩm quốc nội. GDP trên đầu người tương đương với các nền kinh tế yếu kém ở Châu Âu.
Hành chính
Greenland được chia thành 3 miền: miền Bắc, miền Đông và miền Tây. Về hành chính, Greenland chia thành 18 kommune (tương đương thị xã hay xã nông thôn). Các kommune này được tự trị ngay từ năm 1975, trước khi Greenland được tự trị, và hợp thành Hiệp hội kommune (tiếng Grenland: Kalaallit Nunaanni Kommuneqarfiit Katuffiat, viết tắt là KANUKOKA)
Các khu vực không chia thành kommune gồm có:
- Vườn quốc gia Greenland, rộng khoảng 972.000 km², bao gồm toàn bộ miền Đông Bắc
- Đảo Franklin, đảo ở giữa của 3 đảo nằm trong Kênh Kennedy, giữa Greenland và Đảo Ellesmere
- Đảo Crosier, đảo cực nam trong 3 đảo nằm trong Kênh Kennedy
- Đảo Inuit Qeqertaat (tiếng Đan Mạch: Kaffeklubben)
- Đất của Eirik Raude, nay là Đất của vua Christian X
- Căn cứ không quân Thule của Hoa kỳ ở Pituffik
- Peary Land
- Ikerasassuaq, phía đông Cap Farewell
Có khoảng 47.000 dân cư ngụ tại 18 thành phố và 9.648 người cư ngụ tại 60 thôn làng, phần lớn nằm ở bờ biển phía tây. Chỉ có khoảng 3.500 dân cư ngụ tại miền đông, trong 2 thành phố và 9 thôn làng. Việc tập trung dân số hiện nay đã khiến cho nhiều thôn nhỏ không còn người cư ngụ quanh năm (chỉ cư ngụ trong mùa hè và mùa thu v.v.)
Tiếng Anh, tiếng Đan Mạch và tiếng Greenland đều là các ngôn ngữ được người dân ở đây sử dụng.
Dân cư
Phần lớn dân ở Greenland là người Inuit. Có một nhóm thiểu số là người châu Âu, khoảng 12%, phần lớn là người Đan Mạch, 90% các người này cư ngụ ở thủ phủ Nuuk và 10% ở các thành phố lớn phía tây khác. Cách đây 140 năm, có một đợt dân nhập cư từ Canada.
Trong năm 2004, tổng số dân Greenland là 56.854 người, mật độ 0,14/km² ở các vùng không bị băng bao phủ. 91% dân cư ngụ ở bờ biển phía Tây, 1,6% ở phía Bắc và 6,3% ở phía Đông. Khoảng 20% dân không sinh ra tại Greenland và 88% người có quốc tịch Greenland,họ thường ở trong các tòa nhà truyền thống đầy màu sắc sặc sỡ làm từ gỗ tiền chế chuyển từ Đan Mạch tới Nuuk và các thị trấn ở Greenland:Síimiut, Ilulisat, Nanortalk,…Qua các tuyến hàng không Air Greenland và các tàu thủy ở các bến tàu của Greenland là những phương tiện vận chuyển duy nhất giữa Greenland và Đan Mạch.
Nhiều tên họ Đức như Fleischer, Kleist, Kreutzmann v.v… xuất xứ từ các nhà truyền giáo thuộc giáo phái Moravia. Các người này thường kết hôn với các phụ nữ Inuit hoặc nhận các con nuôi là các trẻ em người Inuit mồ côi.
Giáo dục
Hiện nay Greenland có 86 trường folkeskole (từ lớp 1 tới hết lớp 9) với khoảng 9.000 học sinh theo học. Có 3 trường gymnasium (từ lớp 10 tới hết lớp 12), 1 trường sư phạm và 1 đại học. Cũng có một số sinh viên theo học tại các đại học và cao đẳng ở Đan Mạch.
Ngôn ngữ chính dùng để giảng dạy là tiếng Greenland. Nội các tự trị lãnh trách nhiệm về giáo dục từ năm 1980.
Tôn giáo
96,6% người Greenland theo đạo Tin Lành giáo hội Luther.[6] Từ năm 1993, Greenland có một giáo phận độc lập, do một Giám mục cai quản. Cũng có các cộng đoàn nhỏ các tôn giáo khác, như Công giáo, giáo phái Baptist, giáo phái Moravia, chứng nhân Jehova và đạo Bahai, chiếm khoảng 5% dân số.
Giao thông
Hầu như không thành phố và thôn làng nào có hệ thống đường xá nối với nhau, nên phương tiện chuyên chở duy nhất là máy bay, nhất là máy bay trực thăng, và tàu thủy. Ở một số khu vực là xe do chó kéo và xe scooter đi trên tuyết (tiếng Anh: snowmobile). Các tàu thủy hiện đại nối các thành phố phía Bắc với các thành phố phía Nam. Việc giao thông ở miền Đông chỉ thực hiện bằng máy bay và trực thăng.
Greenland có hải cảng ở 16 thành phố, cầu cập bến cho tàu và tàu đánh cá ở 60 thôn làng. Có 12 phi trường, 5 sân bay trực thăng và 42 trạm trực thăng.
Văn hoá
Thể thao
Bóng đá là môn thể thao quốc gia ở Greenland, nhưng Greenland không phải là một thành viên của FIFA. Các quy định của FIFA bắt buộc rằng các nước thành viên tối thiểu phải có các sân bãi tiêu chuẩn cho các trận đấu quốc tế, sử dụng cỏ tự nhiên. Khí hậu của Greenland không thích hợp để có được mặt cỏ tự nhiên đạt yêu cầu của FIFA. Gần đây FIFA đã thông báo rằng họ sẽ cho phép các đội bóng chơi trên sân FieldTurf, đây có thể là một giải pháp giải quyết vấn đề sân đấu cho Greenland.
Tham khảo
- CIA World Factbook 2000
- ^ http://news.bbc.co.uk/2/hi/europe/8111292.stm
- ^ Thanh Tuấn (22 tháng 6 năm 2009). “Dân Greenland tiếp quản quyền điều hành”. Tuổi Trẻ. Đã bỏ qua tham số không rõ
|acessdate=
(gợi ý|accessdate=
) (trợ giúp) - ^ DK Atlas, 2001.
- ^ Lovgren, Stefan (8 tháng 4 năm 2004). “Greenland Melt May Swamp LA, Other Cities, Study Says”. National Geographic News. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
- ^ Roach, John (16 tháng 2, 2006). “Greenland Glaciers Losing Ice Much Faster, Study Says”. National Geographic. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2006.
- ^ Joshua Project. “Joshua Project”. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2010.
Xem thêm
- Ngôn ngữ Kalaallisut
- Thông tin ở Greenland
- Quá trình thuộc địa hoá của Đan Mạch ở Châu Mỹ
- Quan hệ ngoại giao của Greenland
- Lịch sử Đan Mạch
- Danh sách các thị trấn và khu định cư ở Greenland
- Danh sách các ngọn núi ở Greenland
- Quân đội Greenland
- Vận tải ở Greenland
- Đại học Greenland
- Đan Mạch
- Bắc Băng Dương
Liên kết ngoài
Tìm thêm về Greenland tại những đồng dự án của Wikipedia: | |
![]() |
Từ điển ở Wiktionary |
![]() |
Sách ở Wikibooks |
![]() |
Cẩm nang du lịch ở Wikivoyage |
![]() |
Hồ sơ ở Wikiquote |
![]() |
Văn kiện ở Wikisource |
![]() |
Hình ảnh và phương tiện ở Commons |
![]() |
Tin tức ở Wikinews |
![]() |
Tài liệu giáo dục ở Wikiversity |
- Official government site – Greenland Home Rule
- Greenland – CIA World Factbook
- Statistics Greenland
- Greenland Map – Hi-Res Map at the Nordic Ministerial Council
- Official Greenland tourism information
- Thông tin quốc gia và các mốc sự kiện trên BBC
- Tin tức liên quan đến Greenland tại Google và Yahoo!
|
|
Bài viết mới
- Biển Đông vạn dặm
- Con là nguồn hạnh phúc đầu tiên
- Chào ngày mới 20 tháng 6
- Từ Mao Trạch Đông đến Tập Cận Bình
- Ngày mới Mạnh Hạo Nhiên
- Chào ngày mới 19 tháng 6
- Hoa của Đất
- Tiếng Anh cho em
- Yêu sách 8 điểm của Nguyễn Ái Quốc
- Chào ngày mới 18 tháng 6
- Chào ngày mới 17 tháng 6
- Biển Đông vạn dặm
- Chào ngày mới 16 tháng 6
Video yêu thích
Ban Mai
Love Story (Piano & Violin Duet)
KimYouTube
Trở về trang chính
Hoàng Kim Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và học Cây Lương thực Dạy và Học Tình yêu cuộc sống Kim on LinkedIn Kim on Facebook