Lúa cao cây Trung Quốc

LÚA CAO CÂY TRUNG QUỐC
Hoàng Kim Long (điểm tin)


Theo Thời báo Hoàn Cầu, được trích dẫn bởi báo Tuổi trẻ ngày 30 8 2021 và FBNC, Trung Quốc trồng thành công ‘lúa khổng lồ’ cao tới 2m. Giống lúa này thân cây cao và cứng cáp, có khả năng chống ngập úng và đất mặn, năng suất đạt 11,25-13,50 tấn/ha (750- 900 kg/ mẫu TQ, 15 mẫu TQ là 1 ha). Ông Chen Yangpiao, phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và phát triển lúa lai Trung Quốc chi nhánh Trùng Khánh hi vọng giống lúa này có thể trồng ở những vùng trũng ruộng ngập sâu 60-80cm, và có thể nuôi cá tôm trong ruộng lúa. Ông Viên Long Bình Lúa siêu xanh Hòa Bình từng ao ước và chia sẻ khi còn sống: “Tôi đã luôn mơ một ngày nào đó cây lúa sẽ cao như cao lương, hạt to như đậu phộng. Lúc đó chắc tôi và cộng sự sẽ ngồi dưới tán lúa, tận hưởng những ngày mát mẻ”

LÚA CAO CÂY TRUNG QUỐC.

Ngày 25 tháng 10 năm 2017, China’s People’s Daily cho biết Trung Quốc tạo giống lúa cao hơn đầu người cho năng suất lớn. Giống lúa có tên gọi “lúa khổng lồ” được các chuyên gia ở Viện Nông nghiệp Cận Nhiệt đới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc lai tạo với hy vọng có thể cung cấp lương thực cho nhiều người hơn. Giống lúa mới được chính thức giới thiệu hôm 16/10 sau 10 nghiên cứu, có năng suất cao hơn 50% so với các giống lúa thông thường. Nhóm nghiên cứu đã trồng thử cây lúa khổng lồ và thu hoạch trên một cánh đồng nằm ở thị trấn Jinjing thuộc huyện Trường Sa, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Cây lúa thân cao trung bình 1,8 mét, những cây lớn nhất cao tới 2,2 mét. Xia Xinjie, một nhà nghiên cứu trong dự án cho biết năng suất dự kiến có thể đạt trên 11,5 tấn/hecta. Số hạt có thể thu hoạch từ một gốc lúa là hơn 500 hạt. Các nhà khoa học Trung Quốc đã sử dụng một loạt công nghệ mới để tạo ra giống lúa mới, bao gồm đột biến, lai hữu tính và lai xa giữa nhiều loại lúa dại. Lúa khổng lồ có thể đem lại lợi ích lớn cho Trung Quốc, quốc gia đang phải đối mặt với tình trạng thiếu nông dân và dân số ngày càng tăng. “Lượng thóc lúa cần sản xuất thêm vào năm 2030 cao hơn 60% so với năm 1995. Hiện nay, một hecta đất trồng lúa cung cấp đủ thức ăn cho 27 người. Vào năm 2050, mỗi hecta phải đáp ứng nhu cầu lương thực cho 43 người”, Yuan Longping, nhà nông nghiệp học nổi tiếng ở Trung Quốc, nhấn mạnh trong một cuộc phỏng vấn vào tháng trước.

Có thể bạn chưa biết?
“Tư duy mới về giống lúa năng suất cao: Giống siêu lúa năng suất cao sẽ là giống có chiều cao khủng. Nếu trước kia các giống lúa năng suất cao được cho là thân thấp, lá thẳng thì nay lại được cho là những giống thân rất cao với cấu trúc bộ lá tối ưu thu nhận ánh sáng tốt để phục vụ cho quang hợp ngay cả giai đoạn sau trổ bông. Dù chỉ trong giai đoạn phát triển, những giống này được cho là sẽ cho năng suất có thể trên 20 tấn/ha vượt xa các giống thân thấp lá thắng chỉ cho năng suất trên dưới 10 tấn/ha. Sẽ không lạ nếu một ngày nào đó bạn sẽ thấy những cây lúa chiều cao khoảng 2m. Dù sẽ phải trồng với mật độ thấp hơn, nhưng với sinh khối lớn, hệ số thu hoạch vẫn trên 0.5, năng suất thu được vẫn sẽ vô cùng cao.” (Sinh lý thực vật https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=1869614076700587&id=1525462721115726)

Tin liên quan Lúa CLT:

LÚA C4 TRƯỜNG ĐẠI HỌC OXFORD ANH

Ngày 25 tháng 10 năm 2017 thông tin Lúa C4 của trường đại học Oxford năng suất tăng 50%. Các nhà khoa học làm việc trong Dự án Lúa C4 của trường đại học Oxford đã cải thiện quá trình quang hợp trong lúa gạo và tăng năng suất cây trồng, bằng cách đưa một gen ngô đơn lẻ vào lúa, tiến tới trồng lúa ‘supercharging’ tới mức hiệu quả hơn. Cây lúa sử dụng con đường quang hợp C3, trong môi trường nóng và khô ít hiệu quả hơn con đường C4 được sử dụng trong các thực vật khác như ngô và lúa miến. Gạo ‘chuyển đổi’ sử dụng quang hợp C4, năng suất sẽ tăng khoảng 50%.Các nhà nghiên cứu đã thực hiện phương pháp giải phẫu ‘proto-Kranz’ chuyển gen ngô GOLDEN2-LIKE tới cây lúa làm tăng lượng lạp lục và ty lạp thể có chức năng trong các tế bào vỏ bọc xung quanh lá. Giáo sư Jane Langdale thuộc Đại học Oxford, và nhà nghiên cứu chính về giai đoạn này của dự án lúa gạo C4 cho biết: “Nghiên cứu này giới thiệu một gen duy nhất cho cây lúa để tái tạo bước đầu tiên dọc theo con đường tiến hoá từ C3 đến C4. Đó là một sự phát triển thực sự đáng khích lệ, và thách thức bây giờ là xây dựng trên đó và tìm ra những gen thích hợp để tiếp tục hoàn các bước còn lại trong quá trình “. Thông tin chi tiết tại Đại học Oxford Tin tức & Sự kiện. xem tiếp Lúa C4 và lúa cao cây (Hoàng Kim Long điểm tin chọn lọc Cây Lương Thực Việt Nam)

Philippines cho trồng đại trà gạo vàng biến đổi gene - Ảnh 1.

Hạt gạo vàng biến đổi gene so với gạo trắng bình thường – Ảnh: IRRI

GOLDEN RICE BIẾN ĐỔI GEN

Theo Hãng tin Reuters, được trích dẫn bởi báo Tuổi trẻ Philippines cho trồng đại trà ‘gạo vàng’ biến đổi gene ngày 26 tháng 8 năm 2021: “Philippines là quốc gia đầu tiên trên thế giới cho phép trồng đại trà gạo biến đổi gene Golden Rice. Theo Reuters, Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI) có trụ sở tại Philippines đã hỗ trợ phát triển giống gạo vàng đặc biệt này.Trong thông báo ngày 25-8, Bộ Nông nghiệp Philippines (DA) và Viện Nghiên cứu lúa Philippines (PhilRice) xác nhận đã cấp phép an toàn sinh học cho giống Golden Rice.”Sau giấy chứng nhận an toàn sinh học, DA và PhilRice sẽ bắt đầu trồng lấy hạt giống. Thường thì quá trình này sẽ mất 3-4 vụ canh tác”, ông Ronan Zagado – một quan chức phụ trách dự án Golden Rice – cho biết thêm. Được biết giống gạo vàng đã được thử nghiệm thực địa gần một thập kỷ. Golden Rice sẽ được trồng đại trà ở các khu vực có tỉ lệ thiếu vitamin A cao vào quý 3-2022 trước khi bán rộng rãi. Philippines lên kế hoạch trồng đại trà gạo vàng từ năm 2011, nhưng phải trì hoãn vì vấp phải các phản đối và lo ngại từ người dân cũng như các tổ chức nông nghiệp. Tổ chức Hòa bình xanh (Greenpeace) nổi tiếng vì các chiến dịch chống săn bắt cá voi cũng lên tiếng phản đối quyết định của Chính phủ Philippines.Tuy nhiên, người đứng đầu PhilRice đã trấn an các lo ngại và khẳng định Golden Rice đáp ứng được các tiêu chuẩn an toàn quốc gia và quốc tế. Theo IRRI, Golden Rice đã nhận được giấy chứng nhận an toàn thực phẩm từ các cơ quan quản lý ở Úc, New Zealand, Canada và Mỹ. Hiện giống gạo này đang trải qua quá trình xem xét cuối cùng ở Bangladesh. Thực phẩm biến đổi gene từ lâu đã là một đề tài gây tranh cãi. Mục đích biến đổi gene nhằm tạo ra các loại nông sản bổ dưỡng hơn, kháng bệnh tốt hơn. Các cơ quan quản lý bác bỏ các thuyết âm mưu như thực phẩm biến đổi gene gây ung thư, ức chế hệ miễn dịch.Tuy nhiên, người tiêu dùng vẫn e dè trước loại thực phẩm này và kêu gọi các cơ quan quản lý yêu cầu nhà sản xuất dán nhãn cảnh báo thực phẩm biến đổi gene”.

Bài viết mới trên DẠY VÀ HỌC
https://hoangkimvn.wordpress.com bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
Chỉ tình yêu ở lại
Bài ca thời gian
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter


Advertisement

Biết câu có câu không

Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ năm 1363, bức họa Phật Hoàng Trần Nhân Tông do Trần Giám Như vẽ

BIẾT ‘CÂU CÓ CÂU KHÔNG’
Hoàng Kim

Đêm Yên Tử  rừng trúc thăm thẳm huyền thoại, vững chãi cây tre Việt Nam ngoan cường, như Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ năm 1363, bức họa Phật Hoàng Trần Nhân Tông do Trần Giám Như vẽ, trôi nổi trong nhân gian, như Nghê Việt ẩn tàng sức mạnh văn hóa Việt.

Vị Thiền sư Trúc Lâm Yên Tử hỏi và tôi trả lời: “- Người đi đâu tối qua? – Con trở về tự thân. – Người thấy gì đêm thiêng? – Con ngộ khi ngày mới. Đêm Yên Tử là bài học lớn. Tình yêu cuộc sống thật kỳ diệu. Nghê Việt là rồng thiêng ẩn ngữ. Sách Nhàn đọc dấu lúc có lúc không”. Yên Tử là hình ảnh không lời. Trúc Lâm Yên Tử là tìm lại chính mình.


Hữu cú vô cú -有句無句- của Trần Nhân Tông
Nguyên văn chữ Hán phiên âm Hán Việt

有句無句,Hữu cú vô cú,
藤枯樹倒。Đằng khô thụ đảo.
幾個衲僧,Kỷ cá nạp tăng,
撞頭嗑腦。Chàng đầu hạp não,
有句無句,Hữu cú vô cú,
體露金風。Thể lộ kim phong.
兢伽沙數,Căng già sa số.
犯刃傷鋒。Phạm nhẫn thương phong.
有句無句,Hữu cú vô cú
立宗立旨。Lập tông lập chỉ.
打瓦鑽龜,Đả ngõa toàn quy,
登山涉水。Đăng sơn thiệp thủy.
有句無句,Hữu cú vô cú,
非有非無。Phi hữu phi vô.
刻舟求劍,Khắc chu cầu kiếm,
索驥按圖。Sách ký án đồ.
有句無句,Hữu cú vô cú,
互不回互。Hỗ bất hồi hỗ.
笠雪鞋花,Lạp tuyết hài hoa,
守株待兔。Thủ chu đãi thố.
有句無句,Hữu cú vô cú,
自古自今。Tự cổ tự kim.
執指忘月,Chấp chỉ vong nguyệt,
平地陸沉。Bình địa lục trầm.
有句無句,Hữu cú vô cú,
如是如是。Như thị như thị.
八字打開,Bát tự đả khai,
全無巴鼻。Toàn vô ba tị.
有句無句,Hữu cú vô cú,
顧左顧右。Cố tả cố hữu.
阿刺刺地,A thích thích địa,
鬧聒聒地。Náo quát quát địa.
有句無句,Hữu cú vô cú,
忉忉怛怛。Điêu điêu đát đát.
截斷葛藤,Tiệt đoạn cát đằng,
彼此快活。Bỉ thử khoái hoạt.

—- DỊCH NGHĨA
Câu hữu câu vô,
Như cây đổ,
dây leo héo khô.
Mấy gã thầy tăng,
Đập đầu mẻ trán.
Câu hữu câu vô,
Như thân thể lộ ra trước gió thu.
Vô số cát sông Hằng,
Phạm vào kiếm,
bị thương vì mũi nhọn.
Câu hữu câu vô,
Lập công phái, ý chỉ.
Cũng là dùi rùa, đập ngói,
Trèo núi lội sông.
Câu hữu câu vô,
Chẳng phải hữu, chẳng phải vô,
Khác nào anh chàng khắc mạn thuyền mò gươm,
Theo tranh vẽ đi tìm ngựa ký.
Câu hữu câu vô,
Tác động qua lại với nhau.
Nón tuyết giày hoa,
Ôm gốc cây đợi thỏ.
Câu hữu câu vô,
Từ xưa đến nay,
Chỉ chấp ngón tay mà quên vầng trăng,
Thế là chết đuối trên đất bằng.
Câu hữu câu vô,
Như thế như thế!
Tám chữ mở ra rồi,
Hoàn toàn không còn điều gì lớn nữa.
Câu hữu câu vô,
Quay bên phải, ngoái bên trái.
Thuyết lý ầm ĩ,
Ồn ào tranh cãi.
Câu hữu câu vô,
Khiến người rầu rĩ.
Cắt đứt mọi duyên quấn quýt như dây leo,
Thì hữu và vô đều hoàn toàn thông suốt.

Nguồn: Wikisource 
xem tiếp hình ảnh và thông tin tại đây

HIỂU ‘SÁCH NHÀN ĐỌC GIẤU
Hoàng Kim

Kinh Dịch xem chơi,
365 ngày
mê mãi.
Sách Nhàn đọc giấu,
câu có câu không.

Nhà Trần trong sử Việt
Trúc Lâm Trần Nhân Tông
Trước đèn bảy trăm năm,
thăm thẳm một tầm nhìn.

*

1
“Câu hữu câu vô,
Quay bên phải, ngoái bên trái.
Thuyết lý ầm ĩ,
Ồn ào tranh cãi.
Câu hữu câu vô,
Khiến người rầu rĩ.
Cắt đứt mọi duyên quấn quýt như dây leo,
Thì hữu và vô đều hoàn toàn thông suốt”.
2.
Kinh Dịch xem chơi
Yêu TÍNH SÁNG yêu hơn châu báu>
Sách Nhàn đọc giấu
Trọng LÒNG NGƯỜI trọng nữa hoàng kim”
3.
“Ở đời vui đạo thả tùy duyên
Đói cứ ăn đi , mệt ngủ liền
Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm
Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền”

(Trúc Lâm Trần Nhân Tông)

“Sách nhàn đọc dấu câu CÓ câu KHÔNG”. Thời nhà Tùy, sách vở chưa có dấu chấm câu. Bình thường vì không có dấu chấm nên một câu văn thường xuất hiện nhiều loại nghĩa khác nhau. Trịnh Ngôn Khánh đọc Luận Ngữ đành sắp xếp lại đặt dấu câu vào trong đó. “Soán Đường là sách mới của tác giả Canh Tân trên trang đọc truyện online. Sống trong thời loạn thế, thân thế khó bề phân biệt. Trong lòng ta không hướng tới phú quý nhưng không biết vì sao phú quý lại liên tục xuất hiện. Đây là một câu chuyện một người hiện đại xuyên Việt về Tùy Đường“. Hoàng Kim đọc chơi trang sách, chợt dưng lại nhớ về đời Trần và đức Nhân Tông “Đường Trần ta lại rong chơi. Vui thêm chút nữa, buồn thôi lại về“. “Sách nhàn đọc dấu câu CÓ câu KHÔNG”, “giấu” hay là “dấu” đây?

Hiểu ‘sách nhàn đọc giấu là bài 6, trong 14 ghi chú (Notes) YÊN TỬ TRẦN NHÂN TÔNG của Hoàng Kim gồm bài 1 Ngọc Phương Nam , bài 2 Lên non thiêng Yên Tử, bài 3 Trúc Lâm Trần Nhân Tông, bài 4 Lời dặn của Thánh Trần, bài 5 Thầy Tuệ Trung Thượng Sĩ, bài 6 Hiểu ‘sách nhàn đọc giấu, bài 7 Biết ‘câu có câu không, bài 8 Nghê Việt am Ngọa Vân, bai 9 Tảo Mai nhớ Nhân Tông, bài 10 Nhà Trần trong sử Việt, bài 11 Ân tình Đất Phương Nam, bài 12 Nhân Tông Đêm Yên Tử, bài 13 Hoa Đất thương lời hiền, bài 14 Yên Tử Trần Nhân Tông

BÀI CA YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim

Thương nước biết ơn bao người ngọc (1)
Vì dân qua bến nhẹ tênh lòng
Nhớ bao tài đức đời thanh thản
Ân tình lưu dấu những dòng sông.

“Mây núi nào không bay cạnh núi,
Sóng nào chẳng ở chốn xa khơi.” (2)
Ban mai nắng hửng Tiên Sơn đẹp
Vàng sáng trời quang Biển Hồ ơi.

Linh Giang Kỳ Lộ tới Đồng Nai
Mỗi chốn đều ghi chuyện cảm hoài
Đá Bia núi Nhạn vùng huyền thoại
Nam Tiến ân tình thương nhớ ai.

Vì nước đâu nề cảnh biệt ly
Nghìn trùng thăm thẳm buổi ra đi
Thanh Lương an tĩnh hiền thoát tục
Lương Chánh thanh nhàn đức từ bi

Chí thiện cha nêu gương trung hiếu
Yêu thương người chấp mọi thị phi
Chuông chùa vang vọng niềm an lạc
Sông núi trời Nam mãi mãi ghi.

Trúc Lâm thăm thẳm đức Hoàng Thành
A Na bà chúa Ngọc Phương Nam
Đất phú trời yên người hạnh phúc
Hồn Việt đường vui tới cõi hiền.

(1) An Tư, Huyền Trân, Ngọc Hoa, Ngọc Vạn, …
(2) Bạch Ngọc tiếp dẫn thơ Tuệ Trung Thượng Sĩ

Huyền Trân công chúa Đại Việt kết duyên với vua Chế Mân Chiêm Thành nhiều người cho rằng đó là mưu lược chính trị nhờ vậy mà Đại Việt thêm được hai châu Ô Lý. Sự thật đó là một liên minh của dân tộc Việt mà nếu không thành thì hai nước khó có thể tồn tại. Chế Mân là vị vua Chiêm Thành trong hoàn cảnh đất nước bị đế quốc Angkor sát nách luôn muốn thôn tính và vó ngựa quân Nguyên Mông đang thần tốc tràn xuống phương Nam. Ông đã bỏ qua vinh nhục bản thân nhiều lần tỏ lòng thành liên kết với Đại Việt bằng cách dâng lễ vật là hai châu Ô Lý để xin cầu hôn với Huyền Trân công chúa con vua Trần Nhân Tông. Hai châu Ô Lý thực chất là chiến phí cho công cuộc liên kết kháng chiến chống kẻ địch mạnh đến cướp đất cướp dân, trả ơn cho Đại Việt đã hai lần gánh chịu tổn thất nặng nề làm tiền phương chống trả quân Nguyên Mông, cản đường của kẻ đã lấy cớ mượn đường Đại Việt để đánh Chiêm Thành.

Chế Mân là vị vua anh minh ưu tú xứng đáng và thực lòng yêu thương Huyền Trân. Các vị vương mưu lược tài năng và các danh thần triều Trần hiểu rõ vận nước và sự chân thành đó của ông nên mới tán đồng cuộc hôn nhân, khi công chúa Huyền Trân đã bén duyên Trần Khắc Chung và mang ơn cứu mạng của chàng đối với cả cha và con trong trận chiến đẫm máu mà hai vua Trần và Huyền Trân xuýt bị giết. Thiết tưởng việc dành sự trong trắng của một cô gái đang độ xuân thì phải lìa bỏ người yêu để dấn thân cứu nạn nước và thực tâm yêu người khác làm chồng đó là một sự hi sinh lớn lao. Hậu thế cần một đánh giá công bằng đối với Chế Mân và Huyền Trân để thấu hiểu trọn vẹn những uẩn khúc sau này lúc Huyền Trân đi tu, thực thấu hiểu cuộc tình duyên nổi tiếng này trong lịch sử.

Tác giả Sao Khuê trong bài “Cảm nhận Huyền Trân” đã cho rằng: “Công chúa Huyền Trân là người đoan chính, chuyện bà tư thông với danh tướng Trần Khắc Chung là vô lý. Có năm lý do để Sao Khuê tin như thế, vì:

1) Trần Nhân Tông là một vị vua lỗi lạc từng lập kỳ tích chiến thắng quân Nguyên 2 lần. Sau đó khi còn rất trẻ đã từ bỏ danh lợi, thoái vị trao ngai vàng lại cho con mà xuất gia quy y Phật pháp, trở thành tôn sư sáng lập một Thiền phái Phật giáo. “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh” – Có người cha anh hùng xuất chúng như thế thì Công chúa Huyền Trân khó thể là đứa con hư hỏng làm ô danh hoàng tộc.

2) Trần Khắc Chung là công thần qua mấy đời vua. Làm quan đến chức Nhập Nội Hành Khiển, Thượng Thư Tả Bộc Xạ (tương đương Tể Tướng). Công lao to tát đến độ được vua cho đổi sang quốc tính (họ Trần) – Xét về tuổi tác, luận về danh tiếng, đức độ…thì không lý gì ông lại làm ra chuyện xấu xa cùng Công chúa Huyền Trân để thân bại danh liệt.

3) Trên chuyến vượt thoát về Đại Việt ngoài Trần Khắc Chung còn có nhiều người khác (như An phủ sứ Đặng Vân và quân lính tùy tùng…) chứ không chỉ có Trần Khắc Chung và Công chúa Huyền Trân hai người…

4) Nếu là chuyện xấu xa thì tại sao những vị Vương Tướng cương trực cùng thời với Trần Khắc Chung (như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, …) không ai có thái độ gì?

5) Ngoài ra, còn bởi một lẽ riêng tư (mà Sao Khuê cho là rất quan trọng): Khi trốn khỏi Chiêm Thành thì hoàng tử Chế Đa Đa do Công chúa Huyền Trân hạ sinh mới vừa được mấy tháng tuổi không thể mang theo cùng! Lúc đó bà chẳng những là một người vợ vừa mất chồng mà còn là một người mẹ phải đoạn lìa núm ruột của mình. Sao Khuê cùng phận nữ, vô cùng cảm thương cho Công chúa Huyền Trân nên có thơ

CẢM PHẬN HUYỀN TRÂN

Ô, Rí năm nào đổi biệt ly
Huyền Trân Công Chúa bước vu qui
Ba sinh chưa vẹn đà tan tác
Hương lửa đang nồng vội thảm bi!
Đại Việt cướp người thuyền vượt lướt
Chiêm Thành ôm hận ngựa cuồng phi
Kiên trinh há thẹn dòng Long Phụng
Trung Đẳng (*) lòng son sử sách ghi!

(*) Sau này Công chúa Huyền Trân chẳng những được dân chúng lập miếu thờ phượng vì linh ứng, mà còn được nhiều đời vua xưng tụng là Thần hộ quốc. Vào năm Khải Định thứ chín đã chính thức sắc phong bà là “Trai Tĩnh Trung Đẳng thần”.

Hoàng Kim có “bài thơ yêu thương” họa vần”Cảm phận Huyền Trân”. Huyền Trân mang ơn cứu mạng của Lê Phụ Trần xả thân cứu cha và con trong cuộc chiến đẫm máu nhưng vẫn chấp nhận gác tình riêng vì NƯỚC NON NGÀN DẶM RA ĐI. Có Cha ấy và có Con ấy, dân tộc Việt thật là hồng phúc ! Tôi tâm đắc với câu trả lời của GS Trần Văn Giàu trước câu hỏi “Chúng ta có nên đề cập đến vấn đề châu Ô châu Rí không? GS. Trần Văn Giàu đã trả lời: “Có lúc nói, có lúc không. Chúng ta dựa vào lịch sử để nói, nhưng chúng ta không nên đi quá nhiều về lịch sử, bây giờ thì không cần nói vấn đề đó. Qua lịch sử, chúng ta nói về những vấn đề vượt lên trên lịch sử. Qua lịch sử ta nói đến con người, nhân cách của Người. Từ nhân cách ấy, cho ta thấy nhân cách của một dân tộc. Một đất nước sản sinh ra được một con người có một không hai trên thế giới, thử hỏi đất nước ấy và dân tộc ấy có đặc biệt hay không?”

Giáo sư Tôn Thất Trình đã nhận xét thật sâu sắc và chí lý, đại ý: Văn học Việt Nam hội nhập toàn cầu thiếu những tác phẩm lớn đích thực như “Chiến tranh và Hòa bình” của Lev Tonstoy để xây dựng nên hình tượng Natasa bản tính Nga, chứ huyền sử Việt không thiếu những biểu tượng cảm động như Huyền Trân công chúa và đất phương Nam. Chúng ta chưa đủ tầm để thấu hiểu lịch sử văn hóa Việt đó thôi”.

Thu Bồn có bài thơ “Tạm biệt Huế” dữ dội và cảm động in trong “Một trăm bài thơ tình chưa kịp đặt tên” phảng phất huyền sử mối tình say đắm và quyết liệt của Chế Mân – Huyền Trân với sự hi sinh thầm lặng cao cả của bốn nhân vật huyền thoại Trần Nhân Tông – Chế Mân- Huyền Trân- Lê Phụ Trần, bừng sáng bình minh Yên Tử.

TẠM BIỆT HUẾ
Thu Bồn

bởi vì em dắt anh lên những ngôi đền cổ
nên chén ngọc giờ chìm dưới đáy sông sâu
những lăng tẩm như hoàng hôn chống lại ngày quên lãng
mặt trời vàng và mắt em nâu

xin chào Huế một lần anh đến
để ngàn lần anh nhớ hư vô
em rất thực nắng thì mờ ảo
xin đừng lầm em với cố đô

áo trắng hỡi thuở tìm em không thấy
nắng minh mang mấy nhịp Tràng Tiền
nón rất Huế mà đời không phải thế
mặt trời lên từ phía nón em nghiêng

nhịp cầu cong và con đường thẳng
một đời anh đi mãi chẳng về đâu
con sông dùng dằng con sông không chảy
sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu

tạm biệt Huế với em là vĩnh biệt
Hải Vân ơi xin người đừng tắt ngọn sao khuya
tạm biệt nhé với chiếc hôn thầm lặng
anh trở về hoá đá phía bên kia.

Huế 1980

Huế xưa và nay là nơi lưu dấu đức hi sinh cao cả vì nước của cha con vua Phật Trần Nhân Tông và công chúa Huyền Trân. Đền thờ công chúa Huyền Trân trong không gian Trung tâm Văn hóa Huyền Trân có không gian rộng 28 ha tọa lạc tại 151 đường Thiên Thai, phường An Tây, chân núi Ngũ Phong, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 7 km. “núi không cần cao, có tiên ắt thiêng. Sông không cần sâu, rồng chầu thành nổi tiếng”… Đến cố đô Huế, tôi dạo chơi cùng Trần Văn Minh người bạn thân thuở nhỏ nay là giáo sư tiến sĩ nhà giáo nhân dân nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm Huế. Chúng tôi cùng thành kính ngưỡng mộ đức Nhân Tông và Huyền Trân Công Chúa, cùng lắng nghe thông xanh đàn Nam Giao trò chuyện và lắng nghe tiếng chuông hòa bình mờ tỏ trong mây trên đỉnh tháp núi Ngũ Phong của vùng Trung tâm Văn hóa Huyền Trân. Đây là nơi giao hòa Trời Đất và hương linh các bậc Thầy, những người con trung hiếu tận tụy hi sinh hết lòng vì Nước vì Dân. Tôi đã cảm khái viết bài thơ nhớ Thầy Nguyễn Khoa Tịnh:

THẦY ƠI
Hoàng Kim

Thầy ơi, em nặng lòng với Huế
Mừng duyên lành con em xe về miền Trung
Nơi LỘC Khê Hầu NGUYÊN vẹn công nghìn năm mở cõi
Với dòng sông Hương soi bóng núi Ngự Bình.

Huế là cố đô Nhà Nguyễn trãi mười đời chúa mười ba đời vua, từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ vùng Thuận Hóa năm 1558, cai quản xứ Đàng Trong sáng lập và tạo dựng mười đời chúa Nguyễn trong hơn 2 thế kỷ và chỉ chấm dứt sau khi nhà Tây Sơn nổi dậy và đánh đổ cả hai tập đoàn Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn vào cuối thế kỷ 18. Nhà Nguyễn được tiếp nối khi nhà Tây Sơn sụp đổ, vua Gia Long lên ngôi năm 1802 và chấm dứt triều Nguyễn khi hoàng đế Bảo Đại thoái vị vào năm 1945, với 143 năm.

Thầy Nguyễn Khoa Tịnh thông xanh núi Huế là người thầy dạy nhân cách và lịch sử, khai sáng thế hệ chúng tôi. Tôi đã viết bài ‘Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời‘ để tỏ lòng tri ân sâu nặng đối với người Thầy lớn và những thầy bạn mà tôi không thể có được ngày hôm nay nếu thiếu sự động viên, giúp đỡ này: “Em đã học nhiều gương sáng danh nhân. Hãy biết nhục, biết hèn mà lập chí. Thắp đèn lên đi em, ngọn đèn dầu bền bỉ. Sáng giữa đời lấp lánh một niềm tin”.

Dân Việt đi như dòng sông về biển. Gia đình tôi cũng đi theo con đường Nam Tiến của dân tộc, từ Linh Giang dòng sông quê hương đến bao dòng sông thao thiết chảy. Chúng tôi đã đi từ Sông Thương, Sông Hồng, Sông Lam, Sông Nhật Lệ, Sông Thu Bồn, đến Sông Tiền, Sông Hậu, … từ Mekong nhớ Neva, Từ Sông Hương, Kỳ Lộ tới Đồng Nai… Những con sông tắm mát đời người.

Huyền Trân, Ngọc Khoa, Ngọc Vạn là ba người Mẹ Việt đã chịu điều tiếng thị phi để tạo dựng cơ nghiệp muôn đời cho dân tộc Việt. Huyền Trân công chúa là con gái của vua Trần Nhân Tông đã vì “nước non ngàn dặm ra đi” kết duyên vợ chồng với vua Chế Mân đất phương Nam. Hai công nữ Ngọc Vạn và Ngọc Khoa là con gái của chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã được chúa Nguyễn gả cho vua Chiêm Thành và vua Cao Miên “dùng chính sách hoà bình, thân thiện để kết hòa hiếu”. Năm 1620, Chúa Sãi gả Công Nữ Ngọc Vạn cho vua Cao Miên là Chư Chetta II (1618-1686) nên dân Việt đã vào làm ăn sinh sống thuận lợi tại vùng sông Đồng Nai Cù Lao Phố Biên Hòa ngày nay, thuộc đất Thủy Chân Lạp của Cao Miên. Năm 1631, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên cũng lại gả Công Nữ Ngọc Khoa cho Vua Chiêm Thành Pô Romê. Dân Việt đã vào sinh cơ lập nghiệp ở kinh đô Chiêm Thành thời ấy tại ven sông Kỳ Lộ thuộc huyện Đồng Xuân, Tuy An ngày nay. Sông Kỳ Lộ dài 120 km, bắt nguồn từ vùng núi La Hiên cao trên 1000 m, vùng giáp ranh giữa Bình Định và Gia Lai, chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam đổ ra cửa biển Tiên Châu ở Tuy An (Phú Yên), với một phân lưu đổ vào Đầm Ô Loan, nhờ vậy mà hai dân tộc Chiêm-Việt có được sự hoà hiếu” (Theo Nguyễn Phúc tộc Thế phả xuất bản ở Huế 1995).

Tôi lưu một ghi chép nhỏ “Bài ca yêu thương” để thỉnh thoảng quay lại.

BILL GATES HỌC ĐỂ LÀM
Hoàng Kim

Bill Gates ngày 25 tháng 8 năm 2021 đã nhắn ba tin quan trọng:  cách các quốc gia châu Phi ngăn chặn thảm họa sốt rét; nhấn mạnh nghiên cứu mà quân đội Hoa Kỳ đang thực hiện; thông tin cập nhật về một bước đột phá đáng kinh ngạc về chống bệnh sốt rét trong đại dịch COVID-19

“Bởi Bill Gates | Ngày 25 tháng 8 năm 2021 Chào mừng đến với Tuần lễ Muỗi năm 2021 trên Ghi chú của Gates. Năm ngoái, nhiều người lo sợ về một thảm họa sốt rét. Một phân tích của Tổ chức Y tế Thế giới cho thấy sự gián đoạn trong việc kiểm soát và điều trị bệnh sốt rét do COVID-19 có thể dẫn đến sự gia tăng đáng kể số ca tử vong do sốt rét ở vùng cận Sahara, châu Phi. Một năm sau, tôi vui mừng thông báo rằng trường hợp xấu nhất này, ít nhất là hiện tại, đã tránh được. Tuần lễ Muỗi này, tôi chia sẻ câu chuyện về cách các quốc gia châu Phi ngăn chặn thảm họa sốt rét bằng cách nhanh chóng điều chỉnh các chương trình sốt rét của họ để đối phó với những thách thức của đại dịch.

Tôi cũng nhấn mạnh nghiên cứu mà quân đội Hoa Kỳ đang thực hiện để chống lại loài muỗi gây ra nhiều thương vong cho quân đội hơn là bom và đạn.

Cuối cùng, tôi cung cấp thông tin cập nhật về một bước đột phá đáng kinh ngạc có thể kiểm soát sự lây lan của bệnh sốt xuất huyết, một căn bệnh khủng khiếp do muỗi truyền lây nhiễm cho 400 triệu người mỗi năm. Cảm ơn bạn đã quan tâm đến việc tìm hiểu về tất cả những cải tiến đang được thực hiện để chống lại dịch bệnh lây lan từ loài động vật nguy hiểm nhất trên thế giới.

Cảm ơn bạn đã là Người trong cuộc!

Cách chống lại bệnh sốt rét trong đại dịch

Bất chấp sự gián đoạn của COVID-19, các chương trình sốt rét của Châu Phi vẫn tiếp tục duy trì các nỗ lực điều trị và kiểm soát bệnh sốt rét. Khi bắt đầu đại dịch, nhiều người lo sợ rằng không chỉ bản thân COVID-19 sẽ là một thảm họa, mà việc khóa cửa và các phương pháp phòng ngừa khác sẽ có tác động khủng khiếp: làm gián đoạn cuộc chiến chống sốt rét một cách thảm khốc. Một phân tích mô hình từ Tổ chức Y tế Thế giới, mà tôi đã chia sẻ ở đây vào năm ngoái, cho thấy rằng số ca tử vong do sốt rét hàng năm ở châu Phi cận Sahara có thể tăng gấp đôi, trở lại tỷ lệ tử vong chưa từng thấy trong hơn 20 năm.

Một năm sau, tôi rất vui khi có thể thông báo rằng trường hợp xấu nhất này, ít nhất là hiện tại, đã tránh được. Đó là nhờ sự lãnh đạo của các quốc gia châu Phi đã nhanh chóng điều chỉnh các chương trình sốt rét của họ để đáp ứng những thách thức của đại dịch. Thực hành các biện pháp tránh xa xã hội và các biện pháp an toàn khác, nhân viên sốt rét đã có thể thực hiện nhiệm vụ của mình, cung cấp màn ngủ được xử lý thuốc trừ sâu lâu dài, kiểm soát quần thể muỗi bằng cách phun trong nhà và điều trị dự phòng cho phụ nữ mang thai và trẻ em. Ở Nigeria, quốc gia vẫn phải chịu 60 triệu ca sốt rét mỗi năm, các nhân viên y tế thậm chí còn tăng cường cung cấp dịch vụ kiểm soát sốt rét, bảo vệ hàng triệu trẻ em trong một trong những chiến dịch lớn nhất của họ cho đến nay.

Đồng thời, các nguồn tài nguyên về sốt rét đã phục vụ hai nhiệm vụ, giải quyết căn bệnh do muỗi truyền và giúp kiểm soát sự lây lan của COVID-19.

Tại Zambia, các nhà khoa học và thiết bị trong phòng thí nghiệm giám sát bộ gen của Chương trình Loại trừ Sốt rét Quốc gia được sử dụng để theo dõi tình trạng kháng thuốc sốt rét đã nhanh chóng xoay trục để tìm ra các biến thể COVID-19 ở quốc gia này. Tại Mozambique, một ứng dụng được tạo cho nhân viên y tế để cung cấp báo cáo theo thời gian thực về các ca sốt rét và sốt đã cung cấp dữ liệu quan trọng cho phản ứng COVID quốc gia.

 Bất chấp sự tiến bộ này, công việc của chúng tôi vẫn chưa kết thúc. Bệnh sốt rét vẫn giết chết hơn 400.000 người mỗi năm. Và việc ngăn chặn đại dịch và hạn chế di chuyển đã cản trở một số hoạt động sốt rét quan trọng, bao gồm cả việc tiếp cận các nỗ lực chẩn đoán và điều trị ở châu Phi.

Tuy nhiên, tôi vẫn lạc quan rằng một thế giới không có bệnh sốt rét đang trong tầm tay. Và đại dịch COVID-19 nhắc nhở chúng ta lý do tại sao diệt trừ bệnh sốt rét là điều cần thiết. Nhiều nền tảng chúng ta cần để chống lại bệnh sốt rét và ngăn chặn đại dịch tiếp theo giống nhau: dữ liệu chính xác, thời gian thực; chuỗi cung ứng đáng tin cậy để đưa thuốc và nguồn lực đến những nơi cần thiết nhất; và cộng tác xuyên quốc gia.

Đầu tư vào các chương trình chống sốt rét giúp xây dựng hệ thống y tế mạnh mẽ hơn, không chỉ giúp cứu sống và chấm dứt bệnh sốt rét mà còn bảo vệ chúng ta khỏi đại dịch tiếp theo. Và điều đó tạo ra một thế giới lành mạnh, an toàn hơn cho tất cả mọi người”.

xem tiếp: nhấn mạnh nghiên cứu mà quân đội Hoa Kỳ đang thực hiện; thông tin cập nhật về một bước đột phá đáng kinh ngạc https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bill-gate-hoc-de-lam/

*

Bill Gates là một thế giới trí tuệ. “Bill Gates sẽ xây cả 7 nhà máy sản xuất vắc xin COVID19, chịu mất hàng tỷ đô la để có vắc xin sớm hơn vài tháng. Ông cho biết ông đã chọn được 7 ứng cử viên vắc xin hàng đầu có thể giải quyết được đại dịch COVID 19, đồng thời xây dựng nhà máy vắc xin cho họ. Mặc dù, như Gates nói ” Chúng tôi đến cuối cùng chỉ chọn ra 2 vắc xin, nhưng chúng tôi sẽ tài trợ nhà máy cho 7 ứng cử viên. Điều này sẽ không khiến chúng tôi phải lãng phí thời gian để nói “Ok, loại vắc xin nào hoạt động” rồi sau đó mới xây dựng nhà máy cho họ”. Bài dưới đây tôi muốn trao đổi rõ thêm những tìm tòi và cảm nhận của tôi về Bill Gate

Bill Gates có nhiều giá trị lớn cần được khám phá không riêng cho lớp trẻ mà mang tính phổ quát cho tất cả mọi người. Bill Gate học để làm , giàu có mà phúc hậu, sống hữu hạn mà vĩnh cữu. Ông Gates Notes và @BillGates là một trong những trang yêu thích nhất của tôi. Văn hóa mạng ngày càng tương tác hoàn hảo và hợp lý hơn với văn hóa đọc. Văn hóa mạng nhanh mạnh hiệu quả hơn, chia sẽ hơn, cần cho sự đọc mau lẹ và tiết kiệm thời gian hơn, trong khi văn hóa đọc sâu sắc, tinh tế hơn, chắt lọc hơn, cần cho bảo tồn và suy ngẫm nhiều hơn, lắng đọng tinh hoa hơn. Trang Gates Notes và @BillGates tổng hòa khá hoàn hảo điều đó.

Bill Gates ngày· 6 tháng 11, 2019 viết: Tôi lạc quan về tương lai bởi vì tôi tin vào sức mạnh của sự đổi mới và tài năng của người dân tận tụy ý tưởng của họ, nguồn lực của họ, và thậm chí cả cuộc sống của họ để giải quyết những thách thức lớn nhất thế giới. (I’m optimistic about the future because I believe in the power of innovation and the talent of the people devoting their ideas, their resources, and even their lives to solving the world’s greatest challenges. Become a Gates Notes Insider to join the conversation: https://gatesnot.es/2rjGk1w).

Bill Gates trước đó cũng đã nói lời giản dị mà thức tỉnh: “Đừng so sánh mình với bất cứ ai trong thế giới này … nếu bạn làm như vậy, bạn đang sỉ nhục chính mình” (Don’t compare yourself with anyone in this world … if you do so, you are insulting yourself. Bill Gates).

Bill Gates học để làm đọc tiếp và suy ngẫm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bill-gates-hoc-de-lam/

Những câu nói Bill Gates thật đáng suy ngẫm. Cuộc đời của nhiều người không thành công và kém may mắn có thể vịn lời ông mà đứng dậy. Minh triết nhân sinh của Bill Gates thật chí thiện, trí tuệ với tư duy mạch lạc và có hệ thống khoa học. Bill Gates là chuyên gia hàng đầu của máy tính nhưng trong Gates Notes công việc đầu tư tiền bạc, công sức và thời gian của ngân quỹ Bill & Melinda Gates Foundation lại xếp hàng đầu cho nông nghiệp, thiên nhiên, đồ ăn thức uống của con người.

Sự lựa chọn này của Bill Gates làm chúng ta nhớ đến lời thầy Norman Borlaug: “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời”.

Bill Gates có một gia đình hạnh phúc thật sự. Bill Gates được coi là người giàu nhất thế giới, với tài sản trên 100 tỷ đô la US , tuyên bố sẽ cho đi 99% tài sản của mình và sẽ chỉ để lại cho ba đứa con một phần rất nhỏ, chưa tới 1% tổng số tài sản/ Bill Gates đã nghĩ thật thoáng và thật chuẩn mực khi được hỏi tại làm sao ông không để cho các con ông nhiều hơn thế để bảo đảm cuộc sống sung túc hơn, Bill Gates nói:

Tôi và vợ tôi đều muốn cho con cháu có được cuộc sống thực sự của riêng chúng. Tôi không muốn chúng thành cái bóng của tôi hay suốt đời sống dựa vào (tiền của) tôi. Tôi muốn chúng có nghề nghiệp riêng, có con đường đi cho riêng mình, giàu hay nghèo do chúng tự chọn lựa. Tôi mong chúng được trải nghiệm tất cả hương vị của cuộc sống, từ những nỗ lực để vượt qua khó khăn đến những suy nghĩ cân nhắc để phát triển. Cuộc sống thực sự phải có dễ có khó, có thăng có trầm, có vui có buồn, có lúc lo lắng có lúc bình tâm … Như vậy mới thực sự là sống! Chứ nếu tôi để lại cho các con tôi nhiều tiền của quá, chúng sẽ đâm ra lười biếng và sống cuộc sống nhàm chán, vì không còn thử thách và hồi hộp hay hy vọng gì nữa! Nếu tôi làm như vậy khác nào biến các con tôi thành robot chỉ biết ăn rồi ngủ rồi đi chơi rồi chờ chết? Làm vậy là làm hại các con chứ đâu phải là thương yêu?”

Tôi thích sự học để làm, học vừa làm rất trí tuệ của ông. Câu châm ngôn hay về “sự đọc” vận vào đây thật đúng: “Trong một thế giới có đủ bình tâm, người viết nhỏ hơn người đọc, người đọc nhỏ hơn quyển truyện họ đang đọc, và quyển truyện nhỏ hơn sự đọc. Người viết và người đọc rồi chết, truyện rồi quên. Sự đọc ở lại và làm nên một phần mênh mông trong định nghĩa của việc làm người“.

Bill Gates học để làm thật thấm thía.

MƯỜI CÂU NÓI NỔI TIẾNG CỦA BILL GATES

Bill Gates – ông chủ của tập đoàn máy tính lớn nhất thế giới Microsoft – trước khi về hưu vào đầu tháng 7 năm 2008, đã đưa ra 10 lời khuyên dành cho các bạn thanh niên trên con đường lập nghiệp. Hải Hiền VNN đã đưa tin. PGS.TS. Phan Thanh Kiếm đã kịp thời chuyển tin này cho DẠY VÀ HỌC

1. Thế giới vốn không công bằng. Bạn biết điều này chứ? Dù bạn có nhận thấy sự bất công trong xã hội hay không thì cũng đừng hy vọng làm thay đổi được nó. Việc cần làm là hãy thích nghi với nó.

2. Mọi người sẽ không bao giờ ngó ngàng đến lòng tự trọng của bạn, điều mà họ quan tâm chính là thành tựu mà bạn đạt được. Do đó, trước khi có được những thành tựu thì bạn đừng nên quá chú trọng hay cường điệu lòng tự trọng của bản thân mình lên.

3. Thường thì bạn sẽ không thể trở thành CEO nếu chỉ mới tốt nghiệp trung học. Nhưng khi bạn đã trở thành một CEO thì không còn ai để ý là bạn mới chỉ có tốt nghiệp trung học nữa.

4. Khi bạn gặp khó khăn hay bế tắc trong công việc thì đừng có oán trách số phận. Điều bạn học được khi gặp trắc trở chính là kinh nghiệm và bài học để lần sau không bao giờ mắc phải nữa.

5. Nên hiểu một điều rằng: Trước khi có bạn, bố mẹ bạn không phải là những người “chán ngắt, vô vị” như bạn của ngày hôm nay đã nghĩ. Đây chính là cái giá rất lớn mà bố mẹ đã phải trả cho sự trưởng thành của bạn.

6. Khi đi học, bạn đứng thứ mấy trong lớp cũng không phải là vấn đề quan trọng. Nhưng khi đã bước chân ra xã hội thì mọi việc lại không đơn giản như vậy. Dù đi đâu hay làm công việc gì bạn cũng nên tạo đẳng cấp cho mình.

7. Khi đi học, bạn luôn mong chờ đến ngày nghỉ lễ, Tết. Khi đi làm thì hoàn toàn không giống vậy, dường như là bạn sẽ không được nghỉ ngơi. Công việc sẽ cuốn bạn đi bất cứ lúc nào kể cả ngày nghỉ.

8. Khi ngồi trên ghế nhà trường, lúc gặp khó khăn trong học tập thì có giáo viên giúp đỡ bạn. Tuy nhiên, nếu lúc đó bạn lại cảm thấy mọi khó khăn đều do những yêu cầu quá nghiêm khắc từ phía giáo viên thì bạn đừng nên đi làm sau khi tốt nghiệp. Đơn giản nếu như không có những yêu cầu nghiêm khắc từ phía công ty thì chắc chắn bạn sẽ không làm được gì và sẽ nhanh chóng thất nghiệp, hơn nữa lúc này sẽ không có ai giúp đỡ bạn cả.

9. Mọi người đều thích xem phim truyền hình, nhưng bạn không nên xem nhiều vì đó không phải là cuộc sống của bạn. Vì công việc ở công ty mới phản ánh cuộc sống thực của bạn.

10. Không bao giờ phê bình người khác sau lưng của họ, đặc biệt đừng bao giờ phê phán sếp là người không có năng lực, điều này là không đúng.

BILL GATES NÓI VÀ VIẾT VỀ LEONADO DA VINCI
Leonardo da Vinci xem ảnh và nghe Gates nói

Bill Gates kể rằng Leonardo là một trong những người hấp dẫn nhất từ ​​trước tới nay.  Một thời gian ngắn sau khi Melinda và Bill Gates kết hôn, Gates nói với Melinda rằng Gates đang đấu giá một chiếc máy tính xách tay có thể làm tốn rất nhiều tiền. “Chẳng phải anh đang có một chiếc máy tính xách tay tuyệt vời sao?” Melinda hỏi. Gates đã giải thích rằng ông đang say mê một “sổ tay” loại cũ, rất “lỗi thời”, thực sự cũ, khoảng  500 năm tuổi. “Sổ tay’ là một trong 32 tạp chí còn sót lại của Leonardo da Vinci. Sau khi Gates thắng thầu, ông đã đổi tên từ Codex Hammer (chủ sở hữu trước là Armand Hammer) thành Codex Leicester, cái tên nó được giữ từ năm 1719 đến năm 1980. Codex Leicester không nổi tiếng như các tác phẩm nghệ thuật kiệt tác như Mona Lisa, Bữa ăn tối cuối cùng nhưng đó là một kho tàng khoa học. Trong thực tế, có những hiểu biết, như cách máu chảy qua trái tim đã vượt xa thời điểm của Leonardo da Vinci sống. Gates rất  đam mê Leonardo da Vinci nên rất say mê đọc tiểu sử mới của Walter Isaacson. Và Gates đã nói rằng ông đọc rất nhiều sách về Leonardo qua nhiều năm, nhưng chưa bao giờ thấy một cuốn sách nào thỏa đáng bao quát tất cả các khía cạnh khác nhau trong cuộc đời và công việc của Leonardo da Vinci như cuốn sách ấy. Walter Isaacson là một nhà báo tài năng tuyệt vời mà Gates đã quen biết nhiều năm từng viết về Steve Jobs và Albert Einstein. Gates khuyên chúng ta nên lùng tìm sách này để đọc.
“Hơn bất kỳ cuốn sách nào khác của Leonardo da Vinci  mà Gates đã đọc, “cuốn sách này giúp bạn thấy Leonardo da Vinci là một con người hoàn chỉnh và hiểu anh ấy đặc biệt đến mức nào.“ Gates nói.

Leonardo da Vinci là thiên tài toàn năng người Ý sinh ngày 15 tháng 4 năm 1452 tại Anchiano, Ý, mất ngày 2 tháng 5 năm 1519 tại Amboise, Pháp. Ông là một họa sĩ nổi tiếng mọi thời đại, nhà sáng tạo và triết học tự nhiên, nhà điêu khắc, kiến trúc sư, nhạc sĩ, bác sĩ, kỹ sư, nhà giải phẫu. Ông là tác giả của những bức họa kiệt tác đặc biệt nổi tiếng như Mona Lisa, Bữa ăn tối cuối cùng, Người Vitruvius; Người đàn bà và con chồn;  Salvator Mundi ; Thánh mẫu Benois;… Ông là người có những ý tưởng vượt trước thời đại của mình, đặc biệt là khái niệm về máy bay trực thăng, xe tăng, năng lượng mặt trời, máy tính, sơ thảo lý thuyết kiến tạo địa hình, tàu đáy kép, những đóng góp to lớn về giải phẫu học, thiên văn học, xây dựng dân dụng, quang học và thủy lực. Những sản phẩm lưu lại trong cuộc đời ông là những bức danh hoạ còn mãi với thời gian với một số quyển sổ tay chứa đựng các ký hoạ, minh hoạ về khoa học và bút ký. Hoàng Kim đọc lại, hiệu đính, bổ sung Bill Gates học để làm. Một trong những chia sẻ mới của anh mà tôi yêu thích là bài viết “Leonardo là một trong những người hấp dẫn nhất từ ​​trước tới nay” bởi Bill Gates ngày 21 tháng 5 năm 2018. Bill Gates chia sẻ suy nghĩ của mình về Leonardo da Vinci và tiểu sử mới về nhà họa sĩ và nhà triết học tự nhiên thiên tài này bởi tác giả Walter Isaacson. Tìm hiểu thêm tại https://b-gat.es/2IrUKUc.

Sách mới. net đưa tin Sách hay nên đọc: Vợ chồng Bill Gates mở website tải sách miễn phí. “Một tin vui cho toàn thể các bạn học sinh, sinh viên mà Thư viện Sách Mới muốn gửi đến các độc giả hôm nay đó chính là việc Vợ chồng Bill Gates mở Website tải sách chuyên ngành miễn phí cho sinh viên. Đây là một việc làm hết sức ý nghĩa cho sinh viên bởi việc bỏ một khoản tiền lớn ra để mua giáo trình, tài liệu chuyên ngành không hề dễ dàng. Khi tham gia website này bạn sẽ được tải về các Bản textbook dạng pdf, là sách chuyên ngành toán học, khoa học, khoa học xã hội… tất cả đều được viết bằng tiếng Anh Địa chỉ Website: https://openstax.org

Tình bạn kỳ lạ của đồng sáng lập Microsoft Paul Allen và Bill Gates
Theo Xuân Tiến 16:06 16/10/2018

Ngày 16/10, Paul Allen, đồng sáng lập Microsoft, bạn thân của Bill Gates, đã qua đời vì căn bệnh ung thư. Hai vị tỷ phú đã có một tình bạn đẹp kéo dài 50 năm dù có nhiều sóng gió.

Bill GatesPaul Allen thành lập Microsoft, một trong những công ty có lợi nhuận lớn nhất thế giới vào năm 1975. Tình bạn của hai tỷ phú trải qua rất nhiều sóng gió nhưng sau tất cả, họ nhận ra sẽ không có Microsoft như ngày hôm nay nếu thiếu đi một trong hai người. Theo danh sách mới nhất của Bloomberg, Allen đứng thứ 27 trong danh sách những người giàu nhất thế giới với 26.1 tỷ USD, chủ yếu nhờ cổ phần tại Microsoft. Còn Bill Gates hiện đứng thứ 2, với tài sản 95,2 tỷ USD.

Gates và Allen gặp nhau lần đầu ở trường Lakeside School. Lúc bấy giờ, Allen 14 tuổi và Gates 12 tuổi. Những chiếc máy tính đầu tiên xuất hiện và chính nó đã dẫn dắt cậu bé Paul Allen, học trò lớp 9 trường Lakeside kết thân với cậu học trò lớp 7 Bill Gates. Họ đã cùng nhau sử dụng máy điện báo của trường để phát triển kỹ năng lập trình. Những thử nghiệm đầu tiên là các chương trình điều hành giao thông và xả nước tự động trên các đập của bang Washington. 

Sau một thời gian dài gắn bó, cùng chung niềm đam mê, Allen tốt nghiệp và nhập học tại Trường đại học tiểu bang Washington. Ít lâu sau, Gates cũng được nhận vào học ở Đại học Harvard. Học được 2 năm, Allen bỏ dở đại học để làm lập trình viên cho hãng Honeywell ở Boston. Chính tại đây, Allen gặp lại người bạn cũ. Đến tháng 4/1975, Allen đã thuyết phục Gates bỏ học ở Harvard để thành lập một công ty riêng. Lần đầu cái tên “Microsoft” được nhắc đến là trong một bức thư hai người gửi cho nhau vào năm 1975. Khi ấy, nó được viết “Micro-soft” với nghĩa “vi tính” và “phần mềm”. Tuy nhiên sau đó với ý tưởng của Paul, dấu gạch ngang được bỏ đi, cái tên “Microsoft” chính thức được đăng ký vào tháng 11/1976 ở bang New Mexico.

Năm 1981, Bill Gates và Paul Allen đã thành công rực rỡ khi IBM sở dụng hệ điều hành 16 bit MS-DOS 1.0 của Microsoft cho loại máy tính cá nhân mới của hãng. Loại máy tính này bán rất chạy. Chẳng mấy chốc các nhà sản xuất khác cũng vào cuộc. Năm 1985, Windows 1.0 ra đời, cho phép người dùng sử dụng chuột để điều khiển máy tính thông qua màn hình thay vì phải gõ các lệnh MS-DOS. 

Theo Guardian, cả Gates và Allen đều được biết đến như hai người “kỳ quặc”. Thậm chí họ còn có ngôn ngữ riêng để giao tiếp khi làm việc tại Microsoft. Ví dụ, họ mô tả các cuộc hội thoại của họ là “popping up stack”. Cụm từ này được nói khi họ muốn nhanh chóng nhảy từ một chủ đề nói chuyện này sang một chủ đề khác. Chính lối nói chuyện này khiến người khác không thể theo kịp dù nhưng họ lại rất hiểu nhau.

“Trong suốt tám năm sáng lập công ty, ý tưởng của tôi là chìa khóa cho những sản phẩm của công ty. Bill sẽ kiểm tra tính thực tiễn của ý tưởng. Khi nói đến việc bán hàng, tiếp thị và nhân sự, anh ta tỏ ra rất hào hứng. Chúng tôi giúp nhau qua lại như vậy”, Allen nói với The Guardian.

Khi hãng phần mềm liên tục tăng trưởng, hai người bạn đồng hành bắt đầu gặp những rạn nứt. Đầu tiên là việc thuê hay không thuê Steve Ballmer, một người bạn của Bill Gates từ Harvard về làm mảng bán hàng và marketing. Allen đã phải miễn cưỡng đồng ý để Bill Gates thuê Ballmer với điều kiện Ballmer sẽ nắm giữ không quá 5% cổ phần. Tuy nhiên, sau lưng Paul Allen, Bill Gates vẫn để Ballmer sở hữu 8,75%. Trong cuốn hồi ký “Idea man” của mình, Allen cáo buộc khi ông bị bệnh ung thư năm 1982, ông nghe lỏm Gates và Steve Ballmer nói về sự “thiếu đóng góp” của ông cho công ty và lập kế hoạch để pha loãng vốn cổ phần bằng cách cung cấp nhiều lựa chọn cổ phiếu cho các nhân viên khác.

Thật ra, chuyện rạn nứt trong quan hệ giữa Paul Allen và Bill Gates đã từ rất lâu. Trong cuốn hồi ký của Allen, anh kể chi tiết về việc ngay từ đầu Gates đề nghị chia doanh thu 6-4 với Allen vì ông cho rằng mình làm nhiều việc hơn Allen. Paul Allen rất ấm ức vì cho rằng Bill “áp bức” ông. Thế nhưng, trong hơn 20 năm, Paul chỉ lặng im. Mãi đến khi cuốn hồi ký “Idea man” ra đời, mọi chuyện mới vỡ lẽ. 

Trong cuốn sách, Allen đã mô tả về đồng sáng lập Microsoft là một người công khai coi thường đồng nghiệp. “Bất kỳ ai không đồng tình với anh ấy, anh ấy đều muốn phun ra những lời xúc phạm”. Chẳng hạn “Đó đúng là một việc ngu ngốc mà tôi chưa từng nghe thấy”, Allen thuật lại lời Gates trong hồi ký. Theo ông, Bill Gates thường khó chịu và cười nhạo các đồng nghiệp chỉ vì những lý do vụn vặt. Năm 1983, Allen quyết định rời khỏi Microsoft. 

Allen tiết lộ Bill Gates đã cố mua cổ phiếu của ông với giá 5 USD/cổ phiếu. Tuy vậy Allen yêu cầu mức giá 10 USD và Gates đã từ chối. Allen sau đó quyết định giữ cổ phiếu của mình, cuối cùng đã trở thành một trong những người giàu nhất thế giới. “Hóa ra, chủ nghĩa bảo thủ của Bill đã có lợi cho tôi. Nếu anh ta sẵn sàng mua với giá 10 USD tôi đã bán quá sớm.

Tuy vậy, lúc về già, hai người đã bắt đầu nghĩ về người bạn cũ. Khi được hỏi suy nghĩ của mình về cuốn sách “Idea man”, Bill Gates chỉ nói ngắn gọn rằng các sự kiện trong quá khứ có thể đã khác với suy nghĩ của ông hiện tại. Ông vẫn tôn trọng tình bạn vốn có với Allen và trân trọng những gì Allen đã đóng góp cho Microsoft. 

“Sau một vài năm, tất cả chuyện cũ đều trôi qua. Bill và tôi luôn là bạn, thậm chí qua những thăng trầm. Những sự kiện đó là vào năm 1982, đã có rất nhiều thay đổi từ đó đến nay”, Allen nói. Ngoài lời buộc tội, Allen cũng khắc họa chân dung Gates như một nhà lãnh đạo hết sức tận tụy với nhân viên trong cuốn hồi ký của mình. 

“Tôi rất đau lòng vì sự ra đi đột ngột của người bạn lâu và thân yêu nhất của tôi”, tỷ phú Bill Gates nói với ABC News.Theo Bill Gates, từ những ngày đầu gặp Allen tại Lakeside School và tạo ra Microsoft cho đến các hoạt động từ thiện lúc xế chiều, Paul Allen luôn là người bạn thân yêu, đối tác tuyệt vời nhất của ông. “Máy tính cá nhân sẽ không thể ra đời nếu thiếu Paul Allen”, Gates nói thêm.

Paul Allen được biết đến là người đã đặt tên cho Microsoft và tạo ra hai nút bấm trên con chuột mà rất nhiều người vẫn đang dùng hàng ngày, vừa qua đời ở tuổi 65 vì bệnh ung thư.

Bill Gates learns by doing
Hoang Kim’s poetry
Friendship Paul and Gates
Touched in my heart
The time of the year passes
Only love to stay

see more https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bill-gates-hoc-de-lam/

Bill Gates học để làm
Hoàng Kim


Tình bạn Paul và Gates
Xúc động trong lòng tôi
Thời gian năm tháng qua
chỉ tình yêu ở lại

(*) Note: Bill Gates 1 tháng 7  I first met Paul Allen when I was in 8th grade and he was a sophomore (although he looks like he’s my teacher in this photo). This teletype is the thing that brought us together. I’m so glad that it did: https://b-gat.es/2Xq7Dqh

BILL GATES VIẾT GÌ HÔM NAY?
Bill Gates 31 tháng 7 lúc 17g11

Bill Gate vừa chia sẻ một thông tin mới quan trọng với lời bình luận: “Chúng ta có thể nuôi cả thế giới và chiến đấu thay đổi khí hậu cùng một lúc. Đây là một danh sách của một số công nghệ đột phá có thể giúp chúng ta có được điều đó” (We can feed the world and fight climate change at the same time. Here is a shortlist of some of the breakthrough technologies that can help us get there).

10 công nghệ có thể chống biến đổi khí hậu khi nhu cầu lương thực tăng cao

Một nghiên cứu mới từ Ngân hàng Thế giới và Liên Hợp Quốc cho thấy chúng ta sẽ cần các cách để tăng năng suất nhanh hơn bao giờ hết để ngăn chặn khí thải nông nghiệp tăng vọt. Báo cáo do Ngân hàng Thế giới và Liên Hợp Quốc ban hành, cho thấy nhu cầu thực phẩm toàn cầu sẽ mở rộng 50% vào năm 2050, trong khi nhu cầu đối với các sản phẩm từ động vật như thịt, sữa và trứng sẽ tăng gần 70%, đòi hỏi việc tăng năng suất và mở rộng diện tịch đất nông nghiệp. 22 mục tiêu và 10 công nghệ cụ thể có thể giúp thúc đẩy sản xuất lương thực thực phẩm trong khi vẫn bảo tồn được môi trường chống biến đổi khí hậu.

Một số mục tiêu chính yếu bao gồm giảm tổn thất và chống lãng phí thực phẩm; thâm canh trên đất trồng trọt hiện có; bảo tồn đất than bùn, nơi giải phóng một lượng lớn carbon dioxide khi chuyển đổi sang đất nông nghiệp; giảm khí thải mê-tan từ chăn nuôi, giảm ô nhiễm môi trường từ phân bón, hóa chất, thuốc BVTV chiếm gần 20% lượng khí thải nông nghiệp.

Mười đổi mới công nghệ có thể giúp đạt được các mục tiêu này bao gồm:

1) Sử dụng các công cụ chỉnh sửa bộ gen như CRISPR để mở khóa các đặc điểm giúp tăng năng suất.
2) Chuyển sang thay thế thịt từ thực vật như các sản phẩm từ Impossible Food và Beyond Meat.
3) Áp dụng các sản phẩm tái chế không độc hại và các công nghệ khác có thể kéo dài thời hạn sử dụng của thực phẩm, chẳng hạn như các sản phẩm do Apeel Science tạo ra. (Xem lúa gạo tái tạo thế giới thay đổi bởi biến đổi khí hậu).
4) Chuyển sang dùng các loại thực phẩm làm giảm mức độ sản xuất mêtan trên các cánh đồng.
5) Sử dụng các hợp chất ngăn phân bón chuyển đổi vi khuẩn đất thành oxit nitơ, một loại khí nhà kính rất mạnh.
6) Cho vật nuôi ăn bổ sung các sản phẩm mới có thể cắt giảm khí thải khí mê-tan (như sản phẩm Rong biển được phát triển bởi tập đoàn DSM của Hà Lan có thể làm giảm lượng khí thải carbon).
7) Phát triển các giống cây trồng hấp thụ nhiều nitơ.
8) Sử dụng thức ăn cho cá dựa trên tảo có thể giảm bớt áp lực sử dụng cá hoang dã làm thức ăn cho cá nuôi.
9) Sử dụng năng lượng mặt trời để sản xuất hydro trong phân bón dựa trên nitơ.
10) Ngăn chặn nạn phá rừng bằng điều chỉnh thay đổi thảm thực vật, trồng nhiều hơn các cây đa mục tiêu như cây cọ dầu năng suất cao, để sản xuất dầu …;

xem tiếp Bill Gates học để làm https://hoangkimlong.wordpress.com/c…/bill-gates-hoc-de-lam/https://www.technologyreview.com/…/gene-editing-will-help…/….

Cám ơn Bill Gate đã chia sẻ. Hoàng Kim lược dịch.

Bill Gates 1 tháng 6 lúc 00:00
Xin chúc mừng vòng đầu tiên của những người nhận giải thưởng từ Máy gia tốc chẩn đoán thuốc của Alzheimer. Ý tưởng của bạn đang đưa chúng ta đến gần hơn với một chẩn đoán đáng tin cậy, giá cả phải chăng và dễ sử dụng cho bệnh Alzheimer.
(Congratulations to the first round of award recipients from the Alzheimer’s Drug Discovery Foundation’s Diagnostics Accelerator. Your ideas are getting us closer to a reliable, affordable, and easy-to-use diagnostic for Alzheimer’s disease).

Bill Gates 30 tháng 5 lúc 00:30
Gần đây tôi đã ngồi xuống với một trong những tác giả yêu thích của tôi, Jared Diamond. Chúng tôi đã nói về cuốn sách mới đầy hấp dẫn của anh ấy, Upheaval, và lý do tại sao xã hội của chúng tôi trở nên cực đoan về mặt chính trị: https://b-gat.es/2Xg2JIa (I recently sat down with one of my favorite authors, Jared Diamond. We talked about his fascinating new book, “Upheaval,” and why our society has become so politically polarized: https://b-gat.es/2Xg2JIa)

Bill Gates 29 tháng 5 lúc 02:14 ·
Nếu bạn giống như tôi, bạn có thể bắt đầu suy nghĩ về những gì LỚN trong danh sách đọc mùa hè của bạn trong năm nay. Đây là một nơi tuyệt vời để bắt đầu: https://b-gat.es/2YTyUxf (If you’re like me, you’re probably starting to think about what’s on your summer reading list this year. This is a great place to start: https://b-gat.es/2YTyUxf)

xem tiếp:
Bill Gates học để làm
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bill-gates-hoc-de-lam/

Bài viết mới trên DẠY VÀ HỌC
https://hoangkimvn.wordpress.com bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích

Chỉ tình yêu ở lại
Bài ca thời gian
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter

Hiểu sách Nhàn đọc giấu

HIỂU ‘SÁCH NHÀN ĐỌC GIẤU
Hoàng Kim

Kinh Dịch xem chơi,
365 ngày
mê mãi.
Sách Nhàn đọc giấu,
câu có câu không.

Nhà Trần trong sử Việt
Trúc Lâm Trần Nhân Tông
Trước đèn bảy trăm năm,
thăm thẳm một tầm nhìn.

*

1
“Câu hữu câu vô,
Quay bên phải, ngoái bên trái.
Thuyết lý ầm ĩ,
Ồn ào tranh cãi.
Câu hữu câu vô,
Khiến người rầu rĩ.
Cắt đứt mọi duyên quấn quýt như dây leo,
Thì hữu và vô đều hoàn toàn thông suốt”.
2.
Kinh Dịch xem chơi
Yêu TÍNH SÁNG yêu hơn châu báu>
Sách Nhàn đọc giấu
Trọng LÒNG NGƯỜI trọng nữa hoàng kim”
3.
“Ở đời vui đạo thả tùy duyên
Đói cứ ăn đi , mệt ngủ liền
Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm
Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền”

(Trúc Lâm Trần Nhân Tông)

“Sách nhàn đọc dấu câu CÓ câu KHÔNG”. Thời nhà Tùy, sách vở chưa có dấu chấm câu. Bình thường vì không có dấu chấm nên một câu văn thường xuất hiện nhiều loại nghĩa khác nhau. Trịnh Ngôn Khánh đọc Luận Ngữ đành sắp xếp lại đặt dấu câu vào trong đó. “Soán Đường là sách mới của tác giả Canh Tân trên trang đọc truyện online. Sống trong thời loạn thế, thân thế khó bề phân biệt. Trong lòng ta không hướng tới phú quý nhưng không biết vì sao phú quý lại liên tục xuất hiện. Đây là một câu chuyện một người hiện đại xuyên Việt về Tùy Đường“. Hoàng Kim đọc chơi trang sách, chợt dưng lại nhớ về đời Trần và đức Nhân Tông “Đường Trần ta lại rong chơi. Vui thêm chút nữa, buồn thôi lại về“. “Sách nhàn đọc dấu câu CÓ câu KHÔNG”, “giấu” hay là “dấu” đây?

Hiểu ‘sách nhàn đọc giấu là bài 6, trong 14 ghi chú (Notes) YÊN TỬ TRẦN NHÂN TÔNG của Hoàng Kim gồm bài 1 Ngọc Phương Nam , bài 2 Lên non thiêng Yên Tử, bài 3 Trúc Lâm Trần Nhân Tông, bài 4 Lời dặn của Thánh Trần, bài 5 Thầy Tuệ Trung Thượng Sĩ, bài 6 Hiểu ‘sách nhàn đọc giấu, bài 7 Biết ‘câu có câu không, bài 8 Nghê Việt am Ngọa Vân, bai 9 Tảo Mai nhớ Nhân Tông, bài 10 Nhà Trần trong sử Việt, bài 11 Ân tình Đất Phương Nam, bài 12 Nhân Tông Đêm Yên Tử, bài 13 Hoa Đất thương lời hiền, bài 14 Yên Tử Trần Nhân Tông

BÀI CA YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim

Thương nước biết ơn bao người ngọc (1)
Vì dân qua bến nhẹ tênh lòng
Nhớ bao tài đức đời thanh thản
Ân tình lưu dấu những dòng sông.

“Mây núi nào không bay cạnh núi,
Sóng nào chẳng ở chốn xa khơi.” (2)
Ban mai nắng hửng Tiên Sơn đẹp
Vàng sáng trời quang Biển Hồ ơi.

Linh Giang Kỳ Lộ tới Đồng Nai
Mỗi chốn đều ghi chuyện cảm hoài
Đá Bia núi Nhạn vùng huyền thoại
Nam Tiến ân tình thương nhớ ai.

Vì nước đâu nề cảnh biệt ly
Nghìn trùng thăm thẳm buổi ra đi
Thanh Lương an tĩnh hiền thoát tục
Lương Chánh thanh nhàn đức từ bi

Chí thiện cha nêu gương trung hiếu
Yêu thương người chấp mọi thị phi
Chuông chùa vang vọng niềm an lạc
Sông núi trời Nam mãi mãi ghi.

Trúc Lâm thăm thẳm đức Hoàng Thành
A Na bà chúa Ngọc Phương Nam
Đất phú trời yên người hạnh phúc
Hồn Việt đường vui tới cõi hiền.

(1) An Tư, Huyền Trân, Ngọc Hoa, Ngọc Vạn, …
(2) Bạch Ngọc tiếp dẫn thơ Tuệ Trung Thượng Sĩ

Huyền Trân công chúa Đại Việt kết duyên với vua Chế Mân Chiêm Thành nhiều người cho rằng đó là mưu lược chính trị nhờ vậy mà Đại Việt thêm được hai châu Ô Lý. Sự thật đó là một liên minh của dân tộc Việt mà nếu không thành thì hai nước khó có thể tồn tại. Chế Mân là vị vua Chiêm Thành trong hoàn cảnh đất nước bị đế quốc Angkor sát nách luôn muốn thôn tính và vó ngựa quân Nguyên Mông đang thần tốc tràn xuống phương Nam. Ông đã bỏ qua vinh nhục bản thân nhiều lần tỏ lòng thành liên kết với Đại Việt bằng cách dâng lễ vật là hai châu Ô Lý để xin cầu hôn với Huyền Trân công chúa con vua Trần Nhân Tông. Hai châu Ô Lý thực chất là chiến phí cho công cuộc liên kết kháng chiến chống kẻ địch mạnh đến cướp đất cướp dân, trả ơn cho Đại Việt đã hai lần gánh chịu tổn thất nặng nề làm tiền phương chống trả quân Nguyên Mông, cản đường của kẻ đã lấy cớ mượn đường Đại Việt để đánh Chiêm Thành.

Chế Mân là vị vua anh minh ưu tú xứng đáng và thực lòng yêu thương Huyền Trân. Các vị vương mưu lược tài năng và các danh thần triều Trần hiểu rõ vận nước và sự chân thành đó của ông nên mới tán đồng cuộc hôn nhân, khi công chúa Huyền Trân đã bén duyên Trần Khắc Chung và mang ơn cứu mạng của chàng đối với cả cha và con trong trận chiến đẫm máu mà hai vua Trần và Huyền Trân xuýt bị giết. Thiết tưởng việc dành sự trong trắng của một cô gái đang độ xuân thì phải lìa bỏ người yêu để dấn thân cứu nạn nước và thực tâm yêu người khác làm chồng đó là một sự hi sinh lớn lao. Hậu thế cần một đánh giá công bằng đối với Chế Mân và Huyền Trân để thấu hiểu trọn vẹn những uẩn khúc sau này lúc Huyền Trân đi tu, thực thấu hiểu cuộc tình duyên nổi tiếng này trong lịch sử.

Tác giả Sao Khuê trong bài “Cảm nhận Huyền Trân” đã cho rằng: “Công chúa Huyền Trân là người đoan chính, chuyện bà tư thông với danh tướng Trần Khắc Chung là vô lý. Có năm lý do để Sao Khuê tin như thế, vì:

1) Trần Nhân Tông là một vị vua lỗi lạc từng lập kỳ tích chiến thắng quân Nguyên 2 lần. Sau đó khi còn rất trẻ đã từ bỏ danh lợi, thoái vị trao ngai vàng lại cho con mà xuất gia quy y Phật pháp, trở thành tôn sư sáng lập một Thiền phái Phật giáo. “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh” – Có người cha anh hùng xuất chúng như thế thì Công chúa Huyền Trân khó thể là đứa con hư hỏng làm ô danh hoàng tộc.

2) Trần Khắc Chung là công thần qua mấy đời vua. Làm quan đến chức Nhập Nội Hành Khiển, Thượng Thư Tả Bộc Xạ (tương đương Tể Tướng). Công lao to tát đến độ được vua cho đổi sang quốc tính (họ Trần) – Xét về tuổi tác, luận về danh tiếng, đức độ…thì không lý gì ông lại làm ra chuyện xấu xa cùng Công chúa Huyền Trân để thân bại danh liệt.

3) Trên chuyến vượt thoát về Đại Việt ngoài Trần Khắc Chung còn có nhiều người khác (như An phủ sứ Đặng Vân và quân lính tùy tùng…) chứ không chỉ có Trần Khắc Chung và Công chúa Huyền Trân hai người…

4) Nếu là chuyện xấu xa thì tại sao những vị Vương Tướng cương trực cùng thời với Trần Khắc Chung (như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, …) không ai có thái độ gì?

5) Ngoài ra, còn bởi một lẽ riêng tư (mà Sao Khuê cho là rất quan trọng): Khi trốn khỏi Chiêm Thành thì hoàng tử Chế Đa Đa do Công chúa Huyền Trân hạ sinh mới vừa được mấy tháng tuổi không thể mang theo cùng! Lúc đó bà chẳng những là một người vợ vừa mất chồng mà còn là một người mẹ phải đoạn lìa núm ruột của mình. Sao Khuê cùng phận nữ, vô cùng cảm thương cho Công chúa Huyền Trân nên có thơ

CẢM PHẬN HUYỀN TRÂN

Ô, Rí năm nào đổi biệt ly
Huyền Trân Công Chúa bước vu qui
Ba sinh chưa vẹn đà tan tác
Hương lửa đang nồng vội thảm bi!
Đại Việt cướp người thuyền vượt lướt
Chiêm Thành ôm hận ngựa cuồng phi
Kiên trinh há thẹn dòng Long Phụng
Trung Đẳng (*) lòng son sử sách ghi!

(*) Sau này Công chúa Huyền Trân chẳng những được dân chúng lập miếu thờ phượng vì linh ứng, mà còn được nhiều đời vua xưng tụng là Thần hộ quốc. Vào năm Khải Định thứ chín đã chính thức sắc phong bà là “Trai Tĩnh Trung Đẳng thần”.

Hoàng Kim có “bài thơ yêu thương” họa vần”Cảm phận Huyền Trân”. Huyền Trân mang ơn cứu mạng của Lê Phụ Trần xả thân cứu cha và con trong cuộc chiến đẫm máu nhưng vẫn chấp nhận gác tình riêng vì NƯỚC NON NGÀN DẶM RA ĐI. Có Cha ấy và có Con ấy, dân tộc Việt thật là hồng phúc ! Tôi tâm đắc với câu trả lời của GS Trần Văn Giàu trước câu hỏi “Chúng ta có nên đề cập đến vấn đề châu Ô châu Rí không? GS. Trần Văn Giàu đã trả lời: “Có lúc nói, có lúc không. Chúng ta dựa vào lịch sử để nói, nhưng chúng ta không nên đi quá nhiều về lịch sử, bây giờ thì không cần nói vấn đề đó. Qua lịch sử, chúng ta nói về những vấn đề vượt lên trên lịch sử. Qua lịch sử ta nói đến con người, nhân cách của Người. Từ nhân cách ấy, cho ta thấy nhân cách của một dân tộc. Một đất nước sản sinh ra được một con người có một không hai trên thế giới, thử hỏi đất nước ấy và dân tộc ấy có đặc biệt hay không?”

Giáo sư Tôn Thất Trình đã nhận xét thật sâu sắc và chí lý, đại ý: Văn học Việt Nam hội nhập toàn cầu thiếu những tác phẩm lớn đích thực như “Chiến tranh và Hòa bình” của Lev Tonstoy để xây dựng nên hình tượng Natasa bản tính Nga, chứ huyền sử Việt không thiếu những biểu tượng cảm động như Huyền Trân công chúa và đất phương Nam. Chúng ta chưa đủ tầm để thấu hiểu lịch sử văn hóa Việt đó thôi”.

Thu Bồn có bài thơ “Tạm biệt Huế” dữ dội và cảm động in trong “Một trăm bài thơ tình chưa kịp đặt tên” phảng phất huyền sử mối tình say đắm và quyết liệt của Chế Mân – Huyền Trân với sự hi sinh thầm lặng cao cả của bốn nhân vật huyền thoại Trần Nhân Tông – Chế Mân- Huyền Trân- Lê Phụ Trần, bừng sáng bình minh Yên Tử.

TẠM BIỆT HUẾ
Thu Bồn

bởi vì em dắt anh lên những ngôi đền cổ
nên chén ngọc giờ chìm dưới đáy sông sâu
những lăng tẩm như hoàng hôn chống lại ngày quên lãng
mặt trời vàng và mắt em nâu

xin chào Huế một lần anh đến
để ngàn lần anh nhớ hư vô
em rất thực nắng thì mờ ảo
xin đừng lầm em với cố đô

áo trắng hỡi thuở tìm em không thấy
nắng minh mang mấy nhịp Tràng Tiền
nón rất Huế mà đời không phải thế
mặt trời lên từ phía nón em nghiêng

nhịp cầu cong và con đường thẳng
một đời anh đi mãi chẳng về đâu
con sông dùng dằng con sông không chảy
sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu

tạm biệt Huế với em là vĩnh biệt
Hải Vân ơi xin người đừng tắt ngọn sao khuya
tạm biệt nhé với chiếc hôn thầm lặng
anh trở về hoá đá phía bên kia.

Huế 1980

Huế xưa và nay là nơi lưu dấu đức hi sinh cao cả vì nước của cha con vua Phật Trần Nhân Tông và công chúa Huyền Trân. Đền thờ công chúa Huyền Trân trong không gian Trung tâm Văn hóa Huyền Trân có không gian rộng 28 ha tọa lạc tại 151 đường Thiên Thai, phường An Tây, chân núi Ngũ Phong, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 7 km. “núi không cần cao, có tiên ắt thiêng. Sông không cần sâu, rồng chầu thành nổi tiếng”… Đến cố đô Huế, tôi dạo chơi cùng Trần Văn Minh người bạn thân thuở nhỏ nay là giáo sư tiến sĩ nhà giáo nhân dân nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm Huế. Chúng tôi cùng thành kính ngưỡng mộ đức Nhân Tông và Huyền Trân Công Chúa, cùng lắng nghe thông xanh đàn Nam Giao trò chuyện và lắng nghe tiếng chuông hòa bình mờ tỏ trong mây trên đỉnh tháp núi Ngũ Phong của vùng Trung tâm Văn hóa Huyền Trân. Đây là nơi giao hòa Trời Đất và hương linh các bậc Thầy, những người con trung hiếu tận tụy hi sinh hết lòng vì Nước vì Dân. Tôi đã cảm khái viết bài thơ nhớ Thầy Nguyễn Khoa Tịnh:

THẦY ƠI
Hoàng Kim

Thầy ơi, em nặng lòng với Huế
Mừng duyên lành con em xe về miền Trung
Nơi LỘC Khê Hầu NGUYÊN vẹn công nghìn năm mở cõi
Với dòng sông Hương soi bóng núi Ngự Bình.

Huế là cố đô Nhà Nguyễn trãi mười đời chúa mười ba đời vua, từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ vùng Thuận Hóa năm 1558, cai quản xứ Đàng Trong sáng lập và tạo dựng mười đời chúa Nguyễn trong hơn 2 thế kỷ và chỉ chấm dứt sau khi nhà Tây Sơn nổi dậy và đánh đổ cả hai tập đoàn Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn vào cuối thế kỷ 18. Nhà Nguyễn được tiếp nối khi nhà Tây Sơn sụp đổ, vua Gia Long lên ngôi năm 1802 và chấm dứt triều Nguyễn khi hoàng đế Bảo Đại thoái vị vào năm 1945, với 143 năm.

Thầy Nguyễn Khoa Tịnh thông xanh núi Huế là người thầy dạy nhân cách và lịch sử, khai sáng thế hệ chúng tôi. Tôi đã viết bài ‘Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời‘ để tỏ lòng tri ân sâu nặng đối với người Thầy lớn và những thầy bạn mà tôi không thể có được ngày hôm nay nếu thiếu sự động viên, giúp đỡ này: “Em đã học nhiều gương sáng danh nhân. Hãy biết nhục, biết hèn mà lập chí. Thắp đèn lên đi em, ngọn đèn dầu bền bỉ. Sáng giữa đời lấp lánh một niềm tin”.

Dân Việt đi như dòng sông về biển. Gia đình tôi cũng đi theo con đường Nam Tiến của dân tộc, từ Linh Giang dòng sông quê hương đến bao dòng sông thao thiết chảy. Chúng tôi đã đi từ Sông Thương, Sông Hồng, Sông Lam, Sông Nhật Lệ, Sông Thu Bồn, đến Sông Tiền, Sông Hậu, … từ Mekong nhớ Neva, Từ Sông Hương, Kỳ Lộ tới Đồng Nai… Những con sông tắm mát đời người.

Huyền Trân, Ngọc Khoa, Ngọc Vạn là ba người Mẹ Việt đã chịu điều tiếng thị phi để tạo dựng cơ nghiệp muôn đời cho dân tộc Việt. Huyền Trân công chúa là con gái của vua Trần Nhân Tông đã vì “nước non ngàn dặm ra đi” kết duyên vợ chồng với vua Chế Mân đất phương Nam. Hai công nữ Ngọc Vạn và Ngọc Khoa là con gái của chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã được chúa Nguyễn gả cho vua Chiêm Thành và vua Cao Miên “dùng chính sách hoà bình, thân thiện để kết hòa hiếu”. Năm 1620, Chúa Sãi gả Công Nữ Ngọc Vạn cho vua Cao Miên là Chư Chetta II (1618-1686) nên dân Việt đã vào làm ăn sinh sống thuận lợi tại vùng sông Đồng Nai Cù Lao Phố Biên Hòa ngày nay, thuộc đất Thủy Chân Lạp của Cao Miên. Năm 1631, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên cũng lại gả Công Nữ Ngọc Khoa cho Vua Chiêm Thành Pô Romê. Dân Việt đã vào sinh cơ lập nghiệp ở kinh đô Chiêm Thành thời ấy tại ven sông Kỳ Lộ thuộc huyện Đồng Xuân, Tuy An ngày nay. Sông Kỳ Lộ dài 120 km, bắt nguồn từ vùng núi La Hiên cao trên 1000 m, vùng giáp ranh giữa Bình Định và Gia Lai, chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam đổ ra cửa biển Tiên Châu ở Tuy An (Phú Yên), với một phân lưu đổ vào Đầm Ô Loan, nhờ vậy mà hai dân tộc Chiêm-Việt có được sự hoà hiếu” (Theo Nguyễn Phúc tộc Thế phả xuất bản ở Huế 1995).

Tôi lưu một ghi chép nhỏ “Bài ca yêu thương” để thỉnh thoảng quay lại. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bai-ca-yeu-thuong/

BillGatesLearningbyDoing

BILL GATES HỌC ĐỂ LÀM
Hoàng Kim

Bill Gates là một thế giới trí tuệ, lắng đọng nhiều kinh nghiệm sống học để làm (learning to doing) cần được khám phá. Bill Gates bỏ học mà thành tài, giàu có mà phúc hậu, bỏ quyền lực mà làm từ thiện, sống hữu hạn mà vĩnh cữu. Nhiều giá trị lớn của ông cần được khám phá không riêng cho lớp trẻ mà mang tính phổ quát cho tất cả mọi người. Bill Gates ngày 25 tháng 8 năm 2021 đã nhắn ba tin quan trọng:  cách các quốc gia châu Phi ngăn chặn thảm họa sốt rét; nhấn mạnh nghiên cứu mà quân đội Hoa Kỳ đang thực hiện; thông tin cập nhật về một bước đột phá đáng kinh ngạc về chống bệnh sốt rét trong đại dịch COVID-19

Bởi Bill Gates | Ngày 25 tháng 8 năm 2021 Chào mừng đến với Tuần lễ Muỗi năm 2021 trên Ghi chú của Gates. Năm ngoái, nhiều người lo sợ về một thảm họa sốt rét. Một phân tích của Tổ chức Y tế Thế giới cho thấy sự gián đoạn trong việc kiểm soát và điều trị bệnh sốt rét do COVID-19 có thể dẫn đến sự gia tăng đáng kể số ca tử vong do sốt rét ở vùng cận Sahara, châu Phi. Một năm sau, tôi vui mừng thông báo rằng trường hợp xấu nhất này, ít nhất là hiện tại, đã tránh được. Tuần lễ Muỗi này, tôi chia sẻ câu chuyện về cách các quốc gia châu Phi ngăn chặn thảm họa sốt rét bằng cách nhanh chóng điều chỉnh các chương trình sốt rét của họ để đối phó với những thách thức của đại dịch.

Tôi cũng nhấn mạnh nghiên cứu mà quân đội Hoa Kỳ đang thực hiện để chống lại loài muỗi gây ra nhiều thương vong cho quân đội hơn là bom và đạn.

Cuối cùng, tôi cung cấp thông tin cập nhật về một bước đột phá đáng kinh ngạc có thể kiểm soát sự lây lan của bệnh sốt xuất huyết, một căn bệnh khủng khiếp do muỗi truyền lây nhiễm cho 400 triệu người mỗi năm. Cảm ơn bạn đã quan tâm đến việc tìm hiểu về tất cả những cải tiến đang được thực hiện để chống lại dịch bệnh lây lan từ loài động vật nguy hiểm nhất trên thế giới.

Cảm ơn bạn đã là Người trong cuộc!

Cách chống lại bệnh sốt rét trong đại dịch

Bất chấp sự gián đoạn của COVID-19, các chương trình sốt rét của Châu Phi vẫn tiếp tục duy trì các nỗ lực điều trị và kiểm soát bệnh sốt rét. Khi bắt đầu đại dịch, nhiều người lo sợ rằng không chỉ bản thân COVID-19 sẽ là một thảm họa, mà việc khóa cửa và các phương pháp phòng ngừa khác sẽ có tác động khủng khiếp: làm gián đoạn cuộc chiến chống sốt rét một cách thảm khốc. Một phân tích mô hình từ Tổ chức Y tế Thế giới, mà tôi đã chia sẻ ở đây vào năm ngoái, cho thấy rằng số ca tử vong do sốt rét hàng năm ở châu Phi cận Sahara có thể tăng gấp đôi, trở lại tỷ lệ tử vong chưa từng thấy trong hơn 20 năm.

Một năm sau, tôi rất vui khi có thể thông báo rằng trường hợp xấu nhất này, ít nhất là hiện tại, đã tránh được. Đó là nhờ sự lãnh đạo của các quốc gia châu Phi đã nhanh chóng điều chỉnh các chương trình sốt rét của họ để đáp ứng những thách thức của đại dịch. Thực hành các biện pháp tránh xa xã hội và các biện pháp an toàn khác, nhân viên sốt rét đã có thể thực hiện nhiệm vụ của mình, cung cấp màn ngủ được xử lý thuốc trừ sâu lâu dài, kiểm soát quần thể muỗi bằng cách phun trong nhà và điều trị dự phòng cho phụ nữ mang thai và trẻ em. Ở Nigeria, quốc gia vẫn phải chịu 60 triệu ca sốt rét mỗi năm, các nhân viên y tế thậm chí còn tăng cường cung cấp dịch vụ kiểm soát sốt rét, bảo vệ hàng triệu trẻ em trong một trong những chiến dịch lớn nhất của họ cho đến nay.

Đồng thời, các nguồn tài nguyên về sốt rét đã phục vụ hai nhiệm vụ, giải quyết căn bệnh do muỗi truyền và giúp kiểm soát sự lây lan của COVID-19.

Tại Zambia, các nhà khoa học và thiết bị trong phòng thí nghiệm giám sát bộ gen của Chương trình Loại trừ Sốt rét Quốc gia được sử dụng để theo dõi tình trạng kháng thuốc sốt rét đã nhanh chóng xoay trục để tìm ra các biến thể COVID-19 ở quốc gia này. Tại Mozambique, một ứng dụng được tạo cho nhân viên y tế để cung cấp báo cáo theo thời gian thực về các ca sốt rét và sốt đã cung cấp dữ liệu quan trọng cho phản ứng COVID quốc gia.

 Bất chấp sự tiến bộ này, công việc của chúng tôi vẫn chưa kết thúc. Bệnh sốt rét vẫn giết chết hơn 400.000 người mỗi năm. Và việc ngăn chặn đại dịch và hạn chế di chuyển đã cản trở một số hoạt động sốt rét quan trọng, bao gồm cả việc tiếp cận các nỗ lực chẩn đoán và điều trị ở châu Phi.

Tuy nhiên, tôi vẫn lạc quan rằng một thế giới không có bệnh sốt rét đang trong tầm tay. Và đại dịch COVID-19 nhắc nhở chúng ta lý do tại sao diệt trừ bệnh sốt rét là điều cần thiết. Nhiều nền tảng chúng ta cần để chống lại bệnh sốt rét và ngăn chặn đại dịch tiếp theo giống nhau: dữ liệu chính xác, thời gian thực; chuỗi cung ứng đáng tin cậy để đưa thuốc và nguồn lực đến những nơi cần thiết nhất; và cộng tác xuyên quốc gia.

Đầu tư vào các chương trình chống sốt rét giúp xây dựng hệ thống y tế mạnh mẽ hơn, không chỉ giúp cứu sống và chấm dứt bệnh sốt rét mà còn bảo vệ chúng ta khỏi đại dịch tiếp theo. Và điều đó tạo ra một thế giới lành mạnh, an toàn hơn cho tất cả mọi người.”

BillGates“Đừng so sánh mình với bất cứ ai trong thế giới này … nếu bạn làm như vậy, bạn đang sỉ nhục chính mình” (Don’t compare yourself with anyone in this world … if you do so, you are insulting yourself. Bill Gates).

Gates Notes@BillGates là một trong những trang yêu thích nhất của tôi. Văn hóa mạng ngày nay đang tương tác mỗi lúc một hoàn hảo và hợp lý hơn với văn hóa đọc, đó là sự phối kết của phát triển và bảo tồn. Văn hóa mạng nhanh mạnh hiệu quả hơn, chia sẽ hơn, cần cho sự đọc mau lẹ và tiết kiệm thời gian hơn,  trong khi văn hóa đọc sâu sắc, tinh tế hơn, chắt lọc hơn, cần cho bảo tồn và suy ngẫm nhiều hơn, lắng đọng tinh hoa hơn. Trang Gates Notes@BillGates tổng hòa khá hoàn hảo điều đó.

Những câu nói Bill Gates thật đáng suy ngẫm. Cuộc đời của nhiều người không thành công và kém may mắn có thể vịn lời ông mà đứng dậy. Minh triết nhân sinh của Bill Gates thật chí thiện, trí tuệ với tư duy mạch lạc và có hệ thống khoa học. Bill Gates là chuyên gia hàng đầu của máy tính nhưng trong Gates Notes công việc đầu tư tiền bạc, công sức và thời gian của ngân quỹ Bill & Melinda Gates Foundation lại xếp hàng đầu cho nông nghiệp, thiên nhiên, đồ ăn thức uống của con người.

Sự lựa chọn này của Bill Gates làm tôi nhớ đến lời thầy Norman Borlaug: “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời”.

BillGatesfamilyBill Gates có một gia đình hạnh phúc thật sự. Bill Gates được coi là người giàu nhất thế giới, với tài sản trên 100 tỷ đô la US , tuyên bố sẽ cho đi 99% tài sản của mình và sẽ chỉ để lại cho ba đứa con một phần rất nhỏ, chưa tới 1% tổng số tài sản.

Bill Gates đã nghĩ thật thoáng và thật chuẩn mực khi được hỏi tại làm sao ông không để cho các con ông nhiều hơn thế để bảo đảm cuộc sống sung túc hơn, Bill Gates nói:

Tôi và vợ tôi đều muốn cho con cháu có được cuộc sống thực sự của riêng chúng. Tôi không muốn chúng thành cái bóng của tôi hay suốt đời sống dựa vào (tiền của) tôi. Tôi muốn chúng có nghề nghiệp riêng, có con đường đi cho riêng mình, giàu hay nghèo do chúng tự chọn lựa. Tôi mong chúng được trải nghiệm tất cả hương vị của cuộc sống, từ những nỗ lực để vượt qua khó khăn đến những suy nghĩ cân nhắc để phát triển. Cuộc sống thực sự phải có dễ có khó, có thăng có trầm, có vui có buồn, có lúc lo lắng có lúc bình tâm … Như vậy mới thực sự là sống! Chứ nếu tôi để lại cho các con tôi nhiều tiền của quá, chúng sẽ đâm ra lười biếng và sống cuộc sống nhàm chán, vì không còn thử thách và hồi hộp hay hy vọng gì nữa! Nếu tôi làm như vậy khác nào biến các con tôi thành robot chỉ biết ăn rồi ngủ rồi đi chơi rồi chờ chết? Làm vậy là làm hại các con chứ đâu phải là thương yêu?”

Tôi thích sự học để làm, học vừa làm rất trí tuệ của ông. Câu châm ngôn hay về “sự đọc” vận vào đây thật đúng: “Trong một thế giới có đủ bình tâm, người viết nhỏ hơn người đọc, người đọc nhỏ hơn quyển truyện họ đang đọc, và quyển truyện nhỏ hơn sự đọc. Người viết và người đọc rồi chết, truyện rồi quên. Sự đọc ở lại và làm nên một phần mênh mông trong định nghĩa của việc làm người“.

Bill Gates học để làm thật thấm thía.

Hoàng Kim

MƯỜI CÂU NÓI NỔI TIẾNG CỦA BILL GATE

Bill Gates – ông chủ của tập đoàn máy tính lớn nhất thế giới Microsoft – trước khi về hưu vào đầu tháng 7 năm 2008, đã đưa ra 10 lời khuyên dành cho các bạn thanh niên trên con đường lập nghiệp. Hải Hiền VNN đã đưa tin. PGS.TS. Phan Thanh Kiếm đã kịp thời chuyển tin này cho DẠY VÀ HỌC

1. Thế giới vốn không công bằng. Bạn biết điều này chứ? Dù bạn có nhận thấy sự bất công trong xã hội hay không thì cũng đừng hy vọng làm thay đổi được nó. Việc cần làm là hãy thích nghi với nó.

2. Mọi người sẽ không bao giờ ngó ngàng đến lòng tự trọng của bạn, điều mà họ quan tâm chính là thành tựu mà bạn đạt được. Do đó, trước khi có được những thành tựu thì bạn đừng nên quá chú trọng hay cường điệu lòng tự trọng của bản thân mình lên.

3. Thường thì bạn sẽ không thể trở thành CEO nếu chỉ mới tốt nghiệp trung học. Nhưng khi bạn đã trở thành một CEO thì không còn ai để ý là bạn mới chỉ có tốt nghiệp trung học nữa.

4. Khi bạn gặp khó khăn hay bế tắc trong công việc thì đừng có oán trách số phận. Điều bạn học được khi gặp trắc trở chính là kinh nghiệm và bài học để lần sau không bao giờ mắc phải nữa.

5. Nên hiểu một điều rằng: Trước khi có bạn, bố mẹ bạn không phải là những người “chán ngắt, vô vị” như bạn của ngày hôm nay đã nghĩ. Đây chính là cái giá rất lớn mà bố mẹ đã phải trả cho sự trưởng thành của bạn.

6. Khi đi học, bạn đứng thứ mấy trong lớp cũng không phải là vấn đề quan trọng. Nhưng khi đã bước chân ra xã hội thì mọi việc lại không đơn giản như vậy. Dù đi đâu hay làm công việc gì bạn cũng nên tạo đẳng cấp cho mình.

7. Khi đi học, bạn luôn mong chờ đến ngày nghỉ lễ, Tết. Khi đi làm thì hoàn toàn không giống vậy, dường như là bạn sẽ không được nghỉ ngơi. Công việc sẽ cuốn bạn đi bất cứ lúc nào kể cả ngày nghỉ.

8. Khi ngồi trên ghế nhà trường, lúc gặp khó khăn trong học tập thì có giáo viên giúp đỡ bạn. Tuy nhiên, nếu lúc đó bạn lại cảm thấy mọi khó khăn đều do những yêu cầu quá nghiêm khắc từ phía giáo viên thì bạn đừng nên đi làm sau khi tốt nghiệp. Đơn giản nếu như không có những yêu cầu nghiêm khắc từ phía công ty thì chắc chắn bạn sẽ không làm được gì và sẽ nhanh chóng thất nghiệp, hơn nữa lúc này sẽ không có ai giúp đỡ bạn cả.

9. Mọi người đều thích xem phim truyền hình, nhưng bạn không nên xem nhiều vì đó không phải là cuộc sống của bạn. Vì công việc ở công ty mới phản ánh cuộc sống thực của bạn.

10. Không bao giờ phê bình người khác sau lưng của họ, đặc biệt đừng bao giờ phê phán sếp là người không có năng lực, điều này là không đúng.

Theo Hải Hiền – VNN, năm 2008


Remarks of Bill Gates, Harvard Commencement 2007

President Bok, former President Rudenstine, incoming President Faust, members of the Harvard Corporation and the Board of Overseers, members of the faculty, parents, and especially, the graduates:

I’ve been waiting more than 30 years to say this: “Dad, I always told you I’d come back and get my degree.”

I want to thank Harvard for this timely honor. I’ll be changing my job next year … and it will be nice to finally have a college degree on my resume.

I applaud the graduates today for taking a much more direct route to your degrees. For my part, I’m just happy that the Crimson has called me “Harvard’s most successful dropout.” I guess that makes me valedictorian of my own special class … I did the best of everyone who failed.

But I also want to be recognized as the guy who got Steve Ballmer to drop out of business school. I’m a bad influence. That’s why I was invited to speak at your graduation. If I had spoken at your orientation, fewer of you might be here today.

Harvard was just a phenomenal experience for me. Academic life was fascinating. I used to sit in on lots of classes I hadn’t even signed up for. And dorm life was terrific. I lived up at Radcliffe, in Currier House. There were always lots of people in my dorm room late at night discussing things, because everyone knew I didn’t worry about getting up in the morning. That’s how I came to be the leader of the anti-social group. We clung to each other as a way of validating our rejection of all those social people.

Radcliffe was a great place to live. There were more women up there, and most of the guys were science-math types. That combination offered me the best odds, if you know what I mean. This is where I learned the sad lesson that improving your odds doesn’t guarantee success.

One of my biggest memories of Harvard came in January 1975, when I made a call from Currier House to a company in Albuquerque that had begun making the world’s first personal computers. I offered to sell them software.

I worried that they would realize I was just a student in a dorm and hang up on me. Instead they said: “We’re not quite ready, come see us in a month,” which was a good thing, because we hadn’t written the software yet. From that moment, I worked day and night on this little extra credit project that marked the end of my college education and the beginning of a remarkable journey with Microsoft.

What I remember above all about Harvard was being in the midst of so much energy and intelligence. It could be exhilarating, intimidating, sometimes even discouraging, but always challenging. It was an amazing privilege – and though I left early, I was transformed by my years at Harvard, the friendships I made, and the ideas I worked on.

But taking a serious look back … I do have one big regret.

I left Harvard with no real awareness of the awful inequities in the world – the appalling disparities of health, and wealth, and opportunity that condemn millions of people to lives of despair.

I learned a lot here at Harvard about new ideas in economics and politics. I got great exposure to the advances being made in the sciences.

But humanity’s greatest advances are not in its discoveries – but in how those discoveries are applied to reduce inequity. Whether through democracy, strong public education, quality health care, or broad economic opportunity – reducing inequity is the highest human achievement.

I left campus knowing little about the millions of young people cheated out of educational opportunities here in this country. And I knew nothing about the millions of people living in unspeakable poverty and disease in developing countries.

It took me decades to find out.

You graduates came to Harvard at a different time. You know more about the world’s inequities than the classes that came before. In your years here, I hope you’ve had a chance to think about how – in this age of accelerating technology – we can finally take on these inequities, and we can solve them.

Imagine, just for the sake of discussion, that you had a few hours a week and a few dollars a month to donate to a cause – and you wanted to spend that time and money where it would have the greatest impact in saving and improving lives. Where would you spend it?

For Melinda and for me, the challenge is the same: how can we do the most good for the greatest number with the resources we have.

During our discussions on this question, Melinda and I read an article about the millions of children who were dying every year in poor countries from diseases that we had long ago made harmless in this country. Measles, malaria, pneumonia, hepatitis B, yellow fever. One disease I had never even heard of, rotavirus, was killing half a million kids each year – none of them in the United States.

We were shocked. We had just assumed that if millions of children were dying and they could be saved, the world would make it a priority to discover and deliver the medicines to save them. But it did not. For under a dollar, there were interventions that could save lives that just weren’t being delivered.

If you believe that every life has equal value, it’s revolting to learn that some lives are seen as worth saving and others are not. We said to ourselves: “This can’t be true. But if it is true, it deserves to be the priority of our giving.”

So we began our work in the same way anyone here would begin it. We asked: “How could the world let these children die?”

The answer is simple, and harsh. The market did not reward saving the lives of these children, and governments did not subsidize it. So the children died because their mothers and their fathers had no power in the market and no voice in the system.

But you and I have both.

We can make market forces work better for the poor if we can develop a more creative capitalism – if we can stretch the reach of market forces so that more people can make a profit, or at least make a living, serving people who are suffering from the worst inequities. We also can press governments around the world to spend taxpayer money in ways that better reflect the values of the people who pay the taxes.

If we can find approaches that meet the needs of the poor in ways that generate profits for business and votes for politicians, we will have found a sustainable way to reduce inequity in the world.
This task is open-ended. It can never be finished. But a conscious effort to answer this challenge will change the world.

I am optimistic that we can do this, but I talk to skeptics who claim there is no hope. They say: “Inequity has been with us since the beginning, and will be with us till the end – because people just … don’t … care.”
I completely disagree.

I believe we have more caring than we know what to do with.

All of us here in this Yard, at one time or another, have seen human tragedies that broke our hearts, and yet we did nothing – not because we didn’t care, but because we didn’t know what to do. If we had known how to help, we would have acted.

The barrier to change is not too little caring; it is too much complexity.

To turn caring into action, we need to see a problem, see a solution, and see the impact. But complexity blocks all three steps.

Even with the advent of the Internet and 24-hour news, it is still a complex enterprise to get people to truly see the problems. When an airplane crashes, officials immediately call a press conference. They promise to investigate, determine the cause, and prevent similar crashes in the future.

But if the officials were brutally honest, they would say: “Of all the people in the world who died today from preventable causes, one half of one percent of them were on this plane. We’re determined to do everything possible to solve the problem that took the lives of the one half of one percent.”

The bigger problem is not the plane crash, but the millions of preventable deaths.

We don’t read much about these deaths. The media covers what’s new – and millions of people dying is nothing new. So it stays in the background, where it’s easier to ignore. But even when we do see it or read about it, it’s difficult to keep our eyes on the problem. It’s hard to look at suffering if the situation is so complex that we don’t know how to help. And so we look away.

If we can really see a problem, which is the first step, we come to the second step: cutting through the complexity to find a solution.

Finding solutions is essential if we want to make the most of our caring. If we have clear and proven answers anytime an organization or individual asks “How can I help?,” then we can get action – and we can make sure that none of the caring in the world is wasted. But complexity makes it hard to mark a path of action for everyone who cares — and that makes it hard for their caring to matter.

Cutting through complexity to find a solution runs through four predictable stages: determine a goal, find the highest-leverage approach, discover the ideal technology for that approach, and in the meantime, make the smartest application of the technology that you already have — whether it’s something sophisticated, like a drug, or something simpler, like a bednet.

The AIDS epidemic offers an example. The broad goal, of course, is to end the disease. The highest-leverage approach is prevention. The ideal technology would be a vaccine that gives lifetime immunity with a single dose. So governments, drug companies, and foundations fund vaccine research. But their work is likely to take more than a decade, so in the meantime, we have to work with what we have in hand – and the best prevention approach we have now is getting people to avoid risky behavior.

Pursuing that goal starts the four-step cycle again. This is the pattern. The crucial thing is to never stop thinking and working – and never do what we did with malaria and tuberculosis in the 20th century – which is to surrender to complexity and quit.

The final step – after seeing the problem and finding an approach – is to measure the impact of your work and share your successes and failures so that others learn from your efforts.

You have to have the statistics, of course. You have to be able to show that a program is vaccinating millions more children. You have to be able to show a decline in the number of children dying from these diseases. This is essential not just to improve the program, but also to help draw more investment from business and government.

But if you want to inspire people to participate, you have to show more than numbers; you have to convey the human impact of the work – so people can feel what saving a life means to the families affected.

I remember going to Davos some years back and sitting on a global health panel that was discussing ways to save millions of lives. Millions! Think of the thrill of saving just one person’s life – then multiply that by millions. … Yet this was the most boring panel I’ve ever been on – ever. So boring even I couldn’t bear it.

What made that experience especially striking was that I had just come from an event where we were introducing version 13 of some piece of software, and we had people jumping and shouting with excitement. I love getting people excited about software – but why can’t we generate even more excitement for saving lives?

You can’t get people excited unless you can help them see and feel the impact. And how you do that – is a complex question.

Still, I’m optimistic. Yes, inequity has been with us forever, but the new tools we have to cut through complexity have not been with us forever. They are new – they can help us make the most of our caring – and that’s why the future can be different from the past.

The defining and ongoing innovations of this age – biotechnology, the computer, the Internet – give us a chance we’ve never had before to end extreme poverty and end death from preventable disease.

Sixty years ago, George Marshall came to this commencement and announced a plan to assist the nations of post-war Europe. He said: “I think one difficulty is that the problem is one of such enormous complexity that the very mass of facts presented to the public by press and radio make it exceedingly difficult for the man in the street to reach a clear appraisement of the situation. It is virtually impossible at this distance to grasp at all the real significance of the situation.”

Thirty years after Marshall made his address, as my class graduated without me, technology was emerging that would make the world smaller, more open, more visible, less distant.

The emergence of low-cost personal computers gave rise to a powerful network that has transformed opportunities for learning and communicating.

The magical thing about this network is not just that it collapses distance and makes everyone your neighbor. It also dramatically increases the number of brilliant minds we can have working together on the same problem – and that scales up the rate of innovation to a staggering degree.

At the same time, for every person in the world who has access to this technology, five people don’t. That means many creative minds are left out of this discussion — smart people with practical intelligence and relevant experience who don’t have the technology to hone their talents or contribute their ideas to the world.

We need as many people as possible to have access to this technology, because these advances are triggering a revolution in what human beings can do for one another. They are making it possible not just for national governments, but for universities, corporations, smaller organizations, and even individuals to see problems, see approaches, and measure the impact of their efforts to address the hunger, poverty, and desperation George Marshall spoke of 60 years ago.

Members of the Harvard Family: Here in the Yard is one of the great collections of intellectual talent in the world.

What for?

There is no question that the faculty, the alumni, the students, and the benefactors of Harvard have used their power to improve the lives of people here and around the world. But can we do more? Can Harvard dedicate its intellect to improving the lives of people who will never even hear its name?

Let me make a request of the deans and the professors – the intellectual leaders here at Harvard: As you hire new faculty, award tenure, review curriculum, and determine degree requirements, please ask yourselves:

Should our best minds be dedicated to solving our biggest problems?

Should Harvard encourage its faculty to take on the world’s worst inequities? Should Harvard students learn about the depth of global poverty … the prevalence of world hunger … the scarcity of clean water …the girls kept out of school … the children who die from diseases we can cure?

Should the world’s most privileged people learn about the lives of the world’s least privileged?

These are not rhetorical questions – you will answer with your policies.

My mother, who was filled with pride the day I was admitted here – never stopped pressing me to do more for others. A few days before my wedding, she hosted a bridal event, at which she read aloud a letter about marriage that she had written to Melinda. My mother was very ill with cancer at the time, but she saw one more opportunity to deliver her message, and at the close of the letter she said: “From those to whom much is given, much is expected.”

When you consider what those of us here in this Yard have been given – in talent, privilege, and opportunity – there is almost no limit to what the world has a right to expect from us.

In line with the promise of this age, I want to exhort each of the graduates here to take on an issue – a complex problem, a deep inequity, and become a specialist on it. If you make it the focus of your career, that would be phenomenal. But you don’t have to do that to make an impact. For a few hours every week, you can use the growing power of the Internet to get informed, find others with the same interests, see the barriers, and find ways to cut through them.

Don’t let complexity stop you. Be activists. Take on the big inequities. It will be one of the great experiences of your lives.

You graduates are coming of age in an amazing time. As you leave Harvard, you have technology that members of my class never had. You have awareness of global inequity, which we did not have. And with that awareness, you likely also have an informed conscience that will torment you if you abandon these people whose lives you could change with very little effort.
You have more than we had; you must start sooner, and carry on longer.

Knowing what you know, how could you not?

And I hope you will come back here to Harvard 30 years from now and reflect on what you have done with your talent and your energy. I hope you will judge yourselves not on your professional accomplishments alone, but also on how well you have addressed the world’s deepest inequities … on how well you treated people a world away who have nothing in common with you but their humanity.

Good luck.

GreenSuperRiceinVietnam

LÚA SIÊU XANH VIỆT NAM
Bill Gates trong chuyen vui


Bill Gates đi vào câu chuyện đời thường người Việt. Ngưỡng mộ Bill Gates học để làm, và vui đùa theo câu chuyện của Bill Keller. Gia đình tôi dự cưới của vợ chồng cháu Hoàng Thế Toàn là con trai vợ chồng anh Hoàng Trung Trực, tôi đùa vui với Hoang Long và mọi người

Con trai tôi là Hoàng Long năm 2016 đang học nghiên cứu sinh tiến sĩ, học bổng Melinda Gates, tại Viện Hàn Lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc, CAAS, Bắc Kinh, Trung Quốc, với sự hướng dẫn của thầy Zhikang Li và thầy Tian Qing Zheng..Hoàng Long học và làm Lúa siêu xanh Việt Nam, ước mơ bảo tồn và phát triển đề tài “Chọn tạo giống lúa siêu xanh thích ứng biến đổi khí hậu ở Việt Nam”.

Hoàng Long thật sự yêu thích Lúa Siêu Xanh Việt Nam kết nối CAAS IRRI. Điều này nếu thực hiện được sẽ thật tốt cho người nông dân Việt và chương trình lúa gạo Việt Nam. Tôi nói vui (nói trạng) với Hoang Long con trai tôi, theo câu chuyện của Bill Keller, trong tiệc vui làm ai cũng cười . Tôi chỉ sửa đôi chữ nguyên bản “Con sẽ kết hôn với cô gái do ba chọn” Nó nói: “Không!”. Tôi nói với nó, “Cô ấy là con gái của Bill Gates”. Nó nói, “OK.” Tôi nhắn tin cho Bill Gates Melinda Gates và nói, “tôi muốn ông gả con gái của mình cho con trai của tôi.” Bill Gates nói, “Không.” tôi nói với Bill Gates, con trai tôi là người lãnh đạo của Lúa Siêu Xanh ở Việt Nam “, Bill Gates nói:” OK “. Tôi gọi điện cho thầy Tiến sĩ Zhikang Li , Giám đốc Lúa Siêu Xanh Toàn Cầu và hỏi thầy để cho con trai tôi làm CEO Lúa Siêu Xanh Việt Nam. Thầy nói, “Không.” Tôi nói với thầy, “Con trai tôi là con rể của Bill Gates. Ông nói, “OK.” Đây chính là cách mà các nhà chính trị hoạt động. Cám ơn Bill Keller với câu chuyện vui này. Chúng ta yêu mến Bill Gate thật nhiều)

(I told my son, “You will marry the girl I choose.” He said, “NO!” I told him, “She is Bill Gates’ daughter.” He said, “OK.” I called Bill Gates and said, “I want your daughter to marry my son.” Bill Gates said, “NO.” I told Bill Gates, My son is the leader of Green Super Rice in Vietnam ” Bill Gates said, “OK.” I called Dr. Li, the President of Green Super Rice and asked him to make my son the CEO. He said, “NO.” I told him, “My son is Bill Gates’ son-in-law.” He said, “OK.” This is exactly how politics works . . . Thanks Bill Keller for the story! We love Bill Gate very much.)

Cảm ơn Bill Keller cho câu chuyện gốc tương tự. Tôi chỉ sửa đôi chữ nguyên bản và nói trang chuyện này trong buổi tiệc vui … Tôi sẽ gửi bạn một ít ảnh nữa bên dưới để minh họa. Lúa siêu xanh Việt Nam là một câu chuyện dài …

Cảm ơn Bill GatesMelinda Gates. Biết ơn học bổng mà ông bà đã dành cho Hoang Long con trai tôi. Đó là niềm vui thực sự. Tôi đọc lại chuyện “nói trạng” vui này mà ứa nước mắt Bill Gates học để làm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bill-gates-hoc-de-lam/

LÚA SIÊU XANH VIỆT NAM KẾT NỐI CAAS IRRI
Hoàng Kim


Sau bảy năm (2012-2018) đánh giá và tuyển chọn giống lúa siêu xanh (GSR Green Super Rice) Việt Nam, ngày 24 tháng 5 năm 2018 tại Viện Khoa học Cây trồng, Viện Hàn lâm Nông nghiệp Trung Quốc (CAAS) tiến sĩ Hoàng Kim đã gặp Giáo sư tiến sĩ  Zhikang Li và Phó Giáo sư tiến sĩ Tian-Qing Zheng để trao đổi kế hoạch hợp tác Lúa Siêu Xanh Việt Nam kết nối CAAS IRRI trong việc đánh giá mở rộng các giống lúa GSR65, GSR90 tại Phú Yên , các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Đồng Bằng Sông Cửu Long. Giáo sư tiến sĩ  Zhikang Li và Phó Giáo sư tiến sĩ Tian-Qing Zheng thông tin sẽ sắp xếp lịch đến thăm lúa siêu xanh ở Phú Yên và Đắc Lắc , Sóc Trang vào khoảng tháng Tám hoặc tháng Mười để bàn kế họach nghiên cứu phát triển. Sự cấp bách xây dựng vùng giống cho sản xuất mở rộng vụ đông xuân tới. Tình hình tốt.

LÚA SIÊU XANH VIỆT NAM
Viet Nam Green Super Rice (GVN & GSR)

Hoang Long, Nguyễn Văn Phu, Trúc Mai,
Tin Mật, Phuoc Nguyen Thanh, Hoàng Kim và tập thể
Nhớ ai vừng đông vừa rạng
Ước dòng tin nhắn đầu tiên
Hương đất thơm mùi ruộng cấy
Phương xa vời vợi bạn hiền
Ở đâu lung linh Kiếp Bạc
Sao Khuê vằng vặc Côn Sơn
Ở đâu một trời thương nhớ
Cho ta khoảng lặng tâm hồn
http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkim

LÚA SIÊU XANH VIỆT NAM Về miền Tây với Hai Lúa https://www.facebook.com/photo.php?fbid=10211457387531986&set=pob.100005991462558&type=3&theater
GSR65 Gạo Việt chất lượng và thương hiệu https://hoangkimlong.wordpress.com/category/gao-viet-chat-luong-va-thuong-hieu/

Xem tiếp
Con đường lúa gạo Việt Nam
Lúa Siêu Xanh Việt Nam kết nối CAAS IRRI
Việt Nam con đường xanh

xem tiếp:
Bill Gates học để làm
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bill-gates-hoc-de-lam/

Bài viết mới trên TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây   cp nht mi ngày

Video yêu thích
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim  Ngọc Phương Nam  Thung dung  Dạy và học  Cây Lương thực  Dạy và Học  Tình yêu cuộc sống  Kim on LinkedIn  Kim on Facebook Kim on Twitter

Tiếng Việt thuyền và biển

TIẾNG VIỆT THUYỀN VÀ BIỂN
Hoàng Kim

Tổ Quốc và Tình yêu
Tiếng Việt thuyền và biển
Thiên nhiên với Gia đình
Tím một trời yêu thương

Lưu Quang Vũ Xuân Quỳnh
Hai bài thơ kiệt tác
Một chuyện tình không quên.
Thăm thẳm lời cảm mến..

Sớm Thu thơ giữa lòng.

Tiếng Việt
Lưu Quang Vũ

Tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói sẫm
Cánh đồng xa cò trắng rủ nhau về
Có con nghé trên lưng bùn ướt đẫm
Nghe xạc xào gió thổi giữa cau tre.

Tiếng kéo gỗ nhọc nhằn trên bãi nắng
Tiếng gọi đò sông vắng bến lau khuya
Tiếng lụa xé đau lòng thoi sợi trắng
Tiếng dập dồn nước lũ xoáy chân đê.

Tiếng cha dặn khi vun cành nhóm lửa
Khi hun thuyền, gieo mạ, lúc đưa nôi
Tiếng mưa dội ào ào trên mái cọ
Nón ai xa thăm thẳm ở bên trời.

“Ðá cheo leo trâu trèo trâu trượt…”
Ði mòn đàng dứt cỏ đợi người thương
Ðây muối mặn gừng cay lòng khế xót
Ta như chim trong tiếng Việt như rừng.

Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói
Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ
Ôi tiếng Việt như bùn và như lụa
Óng tre ngà và mềm mại như tơ.

Tiếng tha thiết, nói thường nghe như hát
Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh
Như gió nước không thể nào nắm bắt
Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh.

Dấu hỏi dựng suốt ngàn đời lửa cháy
Một tiếng vườn rợp bóng lá cành vươn
Nghe mát lịm ở đầu môi tiếng suối
Tiếng heo may gợi nhớ những con đường.

Một đảo nhỏ ngoài khơi nhiều kẻ nhận
Vẫn tiếng làng tiếng nước của riêng ta
Tiếng chẳng mất khi Loa thành đã mất
Nàng Mỵ Châu quỳ xuống lạy cha già.

Tiếng thao thức lòng trai ôm ngọc sáng
Dưới cát vùi sóng dập chẳng hề nguôi
Tiếng tủi cực kẻ ăn cầu ngủ quán
Thành Nguyễn Du vằng vặc nỗi thương đời.

Trái đất rộng giàu sang bao thứ tiếng
Cao quý thâm trầm rực rỡ vui tươi
Tiếng Việt rung rinh nhịp đập trái tim người
Như tiếng sáo như dây đàn máu nhỏ.

Buồm lộng sóng xô, mai về trúc nhớ
Phá cũi lồng vời vợi cánh chim bay
Tiếng nghẹn ngào như đời mẹ đắng cay
Tiếng trong trẻo như hồn dân tộc Việt.

Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết
Người qua đường chung tiếng Việt cùng tôi
Như vị muối chung lòng biển mặn
Như dòng sông thương mến chảy muôn đời.

Ai thuở trước nói những lời thứ nhất
Còn thô sơ như mảnh đá thay rìu
Ðiều anh nói hôm nay, chiều sẽ tắt
Ai người sau nói tiếp những lời yêu?

Ai phiêu bạt nơi chân trời góc biển
Có gọi thầm tiếng Việt mỗi đêm khuya?
Ai ở phía bên kia cầm súng khác
Cùng tôi trong tiếng Việt quay về.

Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ
Quên nỗi mình quên áo mặc cơm ăn
Trời xanh quá môi tôi hồi hộp quá
Tiếng Việt ơi tiếng Việt xót xa tình…

Đây là một bài thơ hiếm hoi của Lưu Quang Vũ được đăng báo trong những năm người ta từ chối thơ anh. Để đăng được trên báo Văn nghệ, nhà thơ Phạm Tiến Duật khi đó đã phải biên tập sửa ba chỗ như chú thích trong bài. Bản được công bố được coi là bản chính nên các tuyển thơ Lưu Quang Vũ về sau đều in theo bản này. Bản ở đây được chép căn cứ theo bản thảo viết tay gốc của tác giả và được công bố sau này. Trích đoạn bài thơ này được sử dụng trong đề thi tốt nghiệp THPT quốc gia môn Ngữ văn năm 2016.

Nguồn: Trích dẫn từ Thi Viện.
1. Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, NXB Hội nhà văn, 2010
2. Lưu Quang Vũ, thơ tình, NXB Văn học, 2002
3. Lưu Quang Vũ – thơ và đời, NXB Văn hoá – Thông tin, 1999
4. Thơ Việt Nam 1945-1985, NXB Giáo dục, 1985

Thuyền và biển
Xuân Quỳnh

Em sẽ kể anh nghe
Chuyện con thuyền và biển:

“Từ ngày nào chẳng biết
Thuyền nghe lời biển khơi
Cánh hải âu, sóng biếc
Đưa thuyền đi muôn nơi

Lòng thuyền nhiều khát vọng
Và tình biển bao la
Thuyền đi hoài không mỏi
Biển vẫn xa… còn xa

Những đêm trăng hiền từ
Biển như cô gái nhỏ
Thầm thì gửi tâm tư
Quanh mạn thuyền sóng vỗ

Cũng có khi vô cớ
Biển ào ạt xô thuyền
(Vì tình yêu muôn thuở
Có bao giờ đứng yên?)

Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mông nhường nào
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu, về đâu

Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau – rạn vỡ

Nếu từ giã thuyền rồi
Biển chỉ còn sóng gió”

Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố
4-1963

Bài thơ này đã được các nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu, Hữu Xuân phổ nhạc thành các bài hát cùng tên.

Nguồn: Xuân Quỳnh, Chồi biếc, NXB Văn học, 1963, trích dẫn và bảo tồn bởi Thi Viện

Bài viết mới trên DẠY VÀ HỌC
https://hoangkimvn.wordpress.com bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter

Đường xuân theo chân Bác

ĐƯỜNG XUÂN THEO CHÂN BÁC
Hoàng Kim


Về Nghĩa Lĩnh Đền Hùng
Chợt gặp mai đầu suối
Lên Trúc Lâm Yên Tử
Kế sách một chữ Đồng
Lev Tonstoy năm kiệt tác

Đức Thái Tông và Hưng Đạo khai sáng nhà Trần, đã sớm đưa ra quyết sách một chũ Đồng và Trúc Lâm Trần Nhân Tông đã phát triển thành chủ thuyết. Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn dụng kế lớn “mưu phạt tâm công’ “Việc nhân nghĩa cốt ở an dân”, phát triển tinh hoa văn hóa gốc phương Đông với giá trị nền tảng “thiên thời địa lợi nhân hòa” “thiên mệnh địa linh nhân kiệt”. Nay nhân hội thảo khoa học về giá trị văn hóa tâm linh mà Trung tướng Nguyễn Mạnh Đẩu có bài tham luận, tôi đọc lại Đường sống trong Lev Tonstoy năm kiệt tác của Kim Notes lắng ghi chú. Đây là nhận thức luận, thu hoạch của riêng mình, mà tôi chưa kịp sắp xếp lại; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/duong-xuan-theo-chan-bac/

1

Duong xuan 2

VỀ NGHĨA LĨNH ĐỀN HÙNG

Đền thiêng trên Nghĩa Lĩnh.
Giếng ngọc dưới trời Nam.
Chén cơm truyền con cháu.
“Vạn cổ thử giang san”

Về Nghĩa Lĩnh Đền Hùng
Lên non thiêng Yên Tử
Đến Kiếp Bạc Côn Sơn
Vào Tràng An Bái Đính

Thăm Trường xưa Hà Bắc
Nhớ Linh Giang quê hương
Động Thiên Đường tuyệt đẹp
Biển Nhật Lệ Quảng Bình

Đất Mẹ vùng di sản
Nguồn Son nối Phong Nha
Biển xanh kề núi thẳm
Mừng bạn về Quê choa

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ve-nghia-linh-den-hung/

Đường xuân theo chân Bác’ ‘Đường xuân đời quên tuổi‘ là những điều tốt đẹp nhất mà tôi cảm nhận được bằng trái tim, tự giác thực hành, noi theo mà không ai bắt buộc sau đêm lạnh ở Việt Bắc nhớ Người. “Những gì tốt đẹp nhất phải được cảm nhận bằng trái tim”. Helen Keller đã nói vậy.  Nghiên cứu lịch sử là để nhận diện đúng dòng chủ lưu của vận hội mới, nhận thức được những giá trị tâm linh nền tảng gốc. Tùy cơ, tùy vận, tùy thiên mệnh, tùy thời, tùy thế, lại tùy nghi. Dĩ bất biến ứng vạn biến, nhằm góp phần xây dựng đất nước phát triển mạnh mẽ, bền vững.

Về Việt Bắc, tôi thấm cái lạnh thấu xương của thời giao mùa trong chuyến khảo sát tạo hạt sắn lai tại chợ Đồn Bắc Kạn, Yên Lãng núi Hồng. Tôi ra Đông Bắc năm trước, đã thấm cái rét cắt da của đêm thiêng Yên Tử khi nửa đêm khởi hành từ chùa Hoa Yên đi bộ lên chùa Đồng. Đêm lạnh tôi chứng ngộ được đức lớn của Trần Nhân Tông khi Người dấn thân từ bỏ ngôi vua lúc 35 tuổi lên tu hành thiền trên Trúc Lâm Yên Tử trải mười lăm năm để hội tụ các Thiền phái giáo hội Phật giáo đời Trần về một mối.

Tôi cũng thấu hiểu, kính trọng và ngưỡng ngộ nhân cách lớn của chủ tịch Hồ Chí Minh trải mười lăm năm gian khổ ở chiến khu Việt Bắc với sáu năm gầy dựng Việt Minh (1941- 1945) và chín năm lãnh đạo chính phủ kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954).

Những người trải tuổi cao, có đức hi sinh chịu khổ làm việc thiện mới thấu hiểu minh triết dấn thân và bình sinh của Người.

2

Duong xuan 1

CHỢT GẶP MAI ĐẦU SUỐI

Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh
Đường về vó ngựa dẫm mây xanh
Qua đèo chợt gặp mai đầu suối
Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành”. T

ôi biết bài thơ “Qua đèo chợt gặp mai đầu suối” của Bác Hồ đăng trên báo khoảng năm 1970 do một chuyện ngẫu nhiên tình cờ nên nhớ mãi. Bài thơ kỳ lạ vì ẩn chứa nhiều triết lý sâu sắc không dễ thấy, vì nó là thơ của Bác Hồ mà ít thấy sách báo nào nhắc đến cho đến xuân 2013 đã trãi hơn sáu mươi ba năm.

Thuở ấy, tôi mới mười bảy tuổi, đã cùng người anh trai ra thăm đèo Ngang. Chúng tôi vừa đi xe đạp vừa đi bộ từ chân núi lên đến đỉnh đèo. Gần cột mốc địa giới hai tỉnh trên đỉnh đường xuyên sơn, cạnh khe suối ven đỉnh dốc sườn đèo có cây mai rừng rất đẹp. Chúng tôi đang thưởng ngoạn thì chợt gặp xe của bộ trưởng Xuân Thủy và xe của ông Nguyễn Tư Thoan bí thư tỉnh ủy Quảng Bình vừa tới. Họ đã xuống xe ngắm nhìn trời, biển, hoa, núi và bộ trưởng Xuân Thuỷ bình bài thơ trên.

Bộ trưởng Xuân Thủy là nhà ngoại giao có kiến thức rộng, bạn thơ của Hồ Chí Minh, giỏi dịch thơ chữ Hán. Ông cũng là người đã dịch bài thơ “Nguyên tiêu” nổi tiếng, nên khi tôi tình cờ được nghe lời bình phẩm trực tiếp của ông về bài thơ trên thì tôi đã nhớ rất lâu. Tôi cũng hiểu nghĩa rõ ràng cụm từ “Trung Nam Hải” từ dịp ấy.

Ba mươi năm sau, khi anh Gia Dũng sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu bài thơ “Tìm bạn không gặp” trong tập thơ “Ngàn năm thương nhớ” tuyển thơ một nghìn năm Thăng Long, Hà Nội. Bài thơ “Tầm hữu vị ngộ” của Bác do nhà Hán học nổi tiếng Phan Văn Các diễn nghĩa và dịch thơ. Nội dung tuy vẫn thế nhưng bản dịch mới, lời dịch sát nghĩa chữ Hán hơn so với bản tự dịch thoáng ý của chính Bác lại có khác MỘT chữ so với bài mà tôi được đọc và nghe bình trước đây. Đó là từ “nghìn dặm” được thay bằng từ “trăm dặm” (“bách lý tầm quân vị ngộ quân” thay vì “thiên lý tầm quân vị ngộ quân”). Bản dịch mới có lời ghi chú, nghe nói là của Bác. Bài thơ viết năm 1950 nhưng xuất xứ và cảm xúc thực sự của Người khi thăng hoa bài thơ nổi tiếng này thì nay vẫn còn để ngỏ.

Bác ra nước ngoài từ đầu năm 1950 đến đầu tháng Tư mới về nước theo hồi ức “Chiến đấu trong vòng vây” của đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bác lúc đó đã sáu mươi tuổi, bí mật đi đến Bắc Kinh gặp chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông rồi đi luôn sang Matxcơva gặp đồng chí Stalin. Bác cũng đi tìm gặp đại tướng Trần Canh khi chuẩn bị chiến dịch Biên giới. Trong cơn lốc của các sự kiện, Bác khẳng định: “Tổng phản công của ta sẽ là một giai đoạn lâu dài. Rồi đây, có sự chi viện của Liên Xô và Trung Quốc về vật chất, vũ khí, trang bị, ta sẽ đỡ khó khăn hơn, nhưng giành được thắng lợi là phải do sức nỗ lực của chính bản thân ta quyết định”.

“Nghìn dặm” hay “trăm dặm”? “gặp bạn” hay “không gặp”? hoặc “gặp nhưng không gặp về cách làm”? Ngữ nghĩa của câu thơ “Bách lý tầm quân vị ngộ quân” khác hẳn với “thiên lý tầm quân vị ngộ quân”, đó là sự gặp gỡ một minh quân, một minh chủ, một chủ thuyết chứ không đơn giản là “Tìm bạn không gặp”. Dường như Bác đang đề cập một vấn đề rất lớn của định hướng chiến lược đối ngoại “phải biết tranh thủ thời cơ, tận dụng sự ủng hộ và chi viện quốc tế nhưng giành được thắng lợi là phải dựa vào sức mình là chính” . Nhiều sự kiện lịch sử hiện tại đã được giải mã nhưng còn nhiều ẩn ý sâu sắc trong thơ Bác cần được tiếp tục tìm hiểu, khám phá thêm. Những năm tháng khó khăn của cách mạng Việt Nam “chiến đấu trong vòng vây”; Những tổn thất và sai lầm trong cải cách ruộng đất do sự thúc ép từ phía Liên Xô và sự vận dụng không phù hợp kinh nghiệm của Trung Quốc; Quan hệ của nước nhỏ đối với các nước lớn. Nhiều điều tinh tế ẩn chứa trong thơ Bác.

Ý tứ trong bài thơ của Bác rất gần với với một bài thơ cổ của Trung Quốc thời nhà Tống: “Tận nhật tầm xuân bất kiến xuân/Mang hài đạp phá lãnh đầu vân/ Quy lai khước phá mai hoa hạ/ Xuân tại chi đầu vị thập phân”. Bài thơ tả một ni cô mang hài trèo đèo vượt núi cực khổ tìm xuân suốt ngày mà vẫn chẳng gặp xuân. Đến khi trở về mới thấy xuân đang hiện trên những cành mai trong vườn nhà.

Bác Hồ cũng vượt vòng vây phong tỏa, chịu nhiều gian khổ suốt bốn tháng ròng để tìm sự ủng hộ quốc tế cho cách mạng Việt Nam đang “chiến đấu trong vòng vây”. Trên đường về, qua đèo, Bác chợt gặp cây mai đầu suối và Bác đã ngộ ra được những vấn đề sâu sắc của phương pháp cách mạng. Đối diện với mặt trời đỏ “đông phương hồng, mặt trời lên” là mặt TRĂNG hiền hoà (rằm xuân lồng lộng trăng soi) và gốc MAI vàng cổ thụ bên SUỐI nguồn tươi mát (bên suối một nhành mai). Trăng, suối, hoa mai là những cụm từ quan trọng trong thơ Bác. Nó là triết lý ứng xử tuyệt vời của một nước nhỏ đối với các nước lớn trong quan hệ quốc tế phức tạp. Trời càng sáng, trăng càng trong, nước càng mát, mai càng nở rộ.

Ngày cuối đông, hiểu sâu thêm một bài thơ hay của Bác và góp thêm một tản văn về trăng, suối nguồn, hoa mai. Học minh triết trong quan điểm chiến lược của Bác “dựa vào sức mình là chính đồng thời tranh thủ thời cơ và sự ủng hộ quốc tế”. Trăng, suối nguồn, hoa mai là biểu tượng và đối sách quốc gia mà Bác nhắn gửi. Đó là phong thái thung dung, điềm tĩnh, bản lĩnh gan góc bất khuất, dám giành độc lập, giữ độc lập tự do để mưu cầu hạnh phúc cho dân, đám đánh và biết đánh thắng.

Tâm hồn bình dị chí anh minh

“Bình sinh đầu ngẩng tới trời xanh
Khuất núi hồn THƠM quyện đất lành
Anh hùng HỒ dễ nên nghiệp ấy?
Tâm hồn bình dị CHÍ anh MINH”.

Bài thơ tứ tuyệt này được thêu trên bức trướng do năm nhà cách mạng lão thành Nga gửi đến tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Anh Phan Chí Thắng đã gửi cho tôi tư liệu quý trên đây cuối tháng ba năm 2008 với lời nhắn:

Gửi Hoàng Kim. Cách đây mấy ngày, trong một cuộc tiếp xúc nhiều người, tôi vô tình được nói chuyện với anh H. – cháu nội người đỗ đầu khoa Hội cùng năm với cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Dì ruột của anh H lấy anh cả của ông Lê Đức Thọ. Anh H. kể là được nghe trực tiếp từ ông Lê Đức Thọ về bài tứ tuyệt được thêu trên trướng do 5 nhà cách mạng lão thành Nga gửi đến tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chỉ nghe một lần mà anh H. thuộc lòng cho đến bây giờ, thật xứng danh cháu nội cụ Hội Nguyên. Tôi xin chép lại vào đây để Hoàng Kim tham khảo.

Có vài điểm thắc mắc: 1. Làm sao mà các nhà cách mạng Nga lại làm được thơ tứ tuyệt? Hay là họ nhờ ai đó làm giúp theo ý họ? 2. Các chữ viết hoa trong bài tứ tuyệt được thêu chữ hoa, nghĩa là có dụng ý. Ba chữ là lấy từ trong “Hồ Chí Minh”. Còn chữ “Thơm” có phải đó cũng là tên hoạt động của Bác Hồ trong thời gian công tác cùng với 5 nhà cách mạng Nga kia? Hay là một tên gọi khác của Bác mà rất ít người biết? Sơ bộ như thế đã, các nhà nghiên cứu sẽ tìm câu trả lời.

Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam do đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất, đọc tại Lễ truy điệu trọng thể Hồ Chủ tịch, ngày 9 tháng 9 năm 1969” đã nhận định về Bác: “Hồ Chủ Tịch là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, là người xây dựng nền Cộng hoà Dân chủ Việt Nam và Mặt trận Dân tộc Thống Nhất, là người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Người là linh hồn, là ngọn cờ chói lọi, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, chiến đấu anh dũng, viết nên những trang sử vẻ vang nhất của Tổ quốc ta. Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ Tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp tâm đắc: “Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ sống mãi”. Hồ Chí Minh là con người bình dị và quang minh lỗi lạc với tám chữ tâm niệm Bác đã mẫu mực thực hành suốt đời đó là “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”.

Giáo sư Trần Văn Giàu đúc kết bảy phẩm chất cơ bản của Bác Hồ được con dân nước Việt và thế giới ngợi ca đối với “Nhân cách lớn của chủ tịch Hồ Chí Minh”: 1) Ưu tiên đạo đức; 2) Tận tụy quên mình; 3) Kiên trì bất khuất; 4) Khiêm tốn giản dị; 5) Hài hòa kết hợp; 6) Thương, quý người, nâng đỡ con người, thấu tình đạt lý; 7) Yêu thiên nhiên hòa hợp với thiên nhiên“.

Lệ thần Trần Trọng Kim có tác phẩm Một Cơn Gió Bụi và Lê Mai có bài viết Chủ tịch Nước Hồ Chí Minh góp thêm tư liệu quý chân thực về trí tuệ bậc Thầy “anh hùng hồ dễ nên nghiệp ấy”.

“Tâm hồn bình dị chí anh minh” và “Bình sinh đầu ngẩng tới trời xanh” là hai câu thơ khái quát được nhân cách, bản lĩnh và tầm vóc của chủ tịch Hồ Chí Mính. Người chủ của bài thơ hay này phải là người hiểu được bình sinh của Bác đủ nhân trí dũng dám đánh và biết đánh thắng địch mạnh, dám đối diện mặt trời đỏ, hiểu được bản chất nhân văn của một tâm hồn bình dị chí anh minh và sành văn chương, khéo khái quát được thần thái của Bác trong vỏn vẹn bốn câu thơ.

Manh mối đầu tiên trong logic của “thần thám Địch Nhân Kiệt” là vậy. Tôi ngờ rằng đây chỉ có thể là thơ của chính Bác, cũng có thể là thơ của ông Lê Đức Thọ đã khéo léo dàn dựng một cách tài tình. Ông Trường Chinh Sóng Hồng và Xuân Thủy cũng giỏi thơ, ông Phạm Văn Đồng giỏi văn chương nhưng không thể là tác giả. Ông Lê Đức Thọ là có thể vì bình sinh ông ưa làm Trần Thủ Độ, ông có chí lãnh tụ, từng muốn làm tổng bí thư, mưu sâu kế hiểm từng làm liệt vị tướng Giáp, khéo xuất hiện như các vị tướng cầm quân trong các chiến dịch lớn Mậu Thân, Hồ Chí Minh và chiến tranh biên giới Tây Nam, khéo lộ diện trong ngoại giao đánh đàm hai tay trường kỳ với Mỹ Thiệu tại Paris, ông là người sắp xếp nhân sự, cũng thích làm thơ và khéo dựng chuyện sâu xa…

Giải mã câu chuyện do chính ông nêu ra kỳ bí như xem phim Võ Tắc Thiên cần đi từ chính những người trong cuộc biết rõ. Ngày xuân lưu lại điều này trong DẠY VÀ HỌC, DANH NHÂN VIỆT để tiếp tục nghiên cứu. Nhiều sự thật lịch sử cần đủ thông tin, đúng người, đúng việc, đúng liều lượng và đúng thời điểm. Tôi viết “Đường xuân theo chân Bác” năm ra Bắc và ngày này mỗi năm, ngày tiết trời rét mùa đông lại đọc lại, để thấm thía hơn.

Bình sinh đầu ngẩng tới trời xanh! Hồ Chí Minh nghe nói cũng có thơ viết ở đền Trần trong đó có câu “Tôi bác xưa nay vẫn anh hùng” tự cho mình nối tiếp công việc tiền nhân của Trần Hưng Đạo. Người cũng đã dùng cụm từ “kẻ phi thường” thay cho cụm từ “bậc phi thường” khi nói về thân thế và sự quyền biến của Nguyễn Huệ và Lý Công Uẩn trong hai câu “Nguyễn Huệ là kẻ phi thường” và “Công Uẩn là kẻ phi thường” tại tác phẩm Lịch sử nước ta (Hồ Chí Minh tuyển tập tập 1, trang 596, 598), mặc dù Bác biết rất rõ cụm từ “bậc phi thường” vì Bác là bậc Thầy về chữ nghĩa và rất cẩn trọng ngôn ngữ nhưng Người vẫn viết vậy. Bác coi trọng lịch sử, đánh giá công bằng mà không rơi vào sự giáo điều mê tín bất cứ ai.

Báo cáo của Việt Nam gửi Quốc tế Cộng sản ngày 12 tháng 7 năm 1940 do Hồ Chí Minh sọạn thảo là cẩm nang đón trước thời cơ “nghìn năm có một” của Tổng khởi nghĩa tháng 8 và Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945. Tài liệu tổng hợp, phân tích, đánh giá đầy đủ, toàn diện tình hình, sâu sắc hiếm thấy nhưng cực kỳ súc tích chỉ vắn tắt 12 trang. Đó là một trong số những thí dụ rõ nhất về thiên tài kiệt xuất của Hồ Chí Minh dám chớp thời cơ giành chính quyền và biết thắng. Hãy nghe Hồ Chí Minh phân tích tình thế và đưa ra mưu lược hành động thật quả quyết:

“Tóm lại, những điều kiện khách quan cho phép chúng tôi có hi vọng thành công. Song, lực lượng chủ quan- lực lượng của Đảng còn quá yếu. Như trên đã nói, một đảng mới mười tuổi lại trãi qua hai lần khủng bố lớn, số cán bộ có kinh nghiệm đấu tranh hiện còn đang rên xiết trong tù ngục, khiến đảng viên và quần chúng như “rắn mất đầu” không thể tận dụng cơ hội tốt “nghìn năm có một”. Chúng tôi liệu có khả năng làm thay đổi hoàn cảnh đó, khắc phục khó khăn đó, giúp Đảng hoàn thành sứ mạng lịch sử của nó hay không? Có. Chúng tôi nhất định không thể từ trong đánh ra. Chúng tôi chỉ có cách từ ngoài đánh vào. Nếu chúng tôi có được: 1) Tự do hành động ở biên giới; 2) Một ít súng đạn; 3) Một chút kinh phí; 4) Vài vị cố vấn thì chúng tôi nhất định có thể lập ra và phát triển một căn cứ địa chống Pháp, chống Nhật – đó là hi vọng thấp nhất. Nếu chúng tôi có thể mở rộng Mặt trận thống nhất các dân tộc bị áp bức, có thể lợi dụng mâu thuận giữa các nước đế quốc thì tiền đồ tươi sáng là có thể nhìn thấy được. Tôi rất hi vọng các đồng chí giúp tôi nhanh chóng giải quyết vấn đề này. 12.7.40.” (Hồ Chí Minh Toàn tập t. 3 tr. 162-174).

Ngày nay nhìn lại, càng đọc càng thấm thía nhiều điều sâu sắc. Đầu xuân này chúng ta hãy nghe Lê Mai kể lại một trích đoạn trong “Chủ tịch Nước Hồ Chí Minh”:

Quốc Hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, vào ngày 9. 11. 1946, đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên mà sự tiến bộ, mẫu mực, dân chủ của nó cho đến nay – không những làm chúng ta mà còn làm cả thế giới thán phục. Trong bản Hiến pháp dân chủ ấy, ngoài việc thiết kế một thiết chế chính trị mẫu mực, đã quy định quyền hạn của Chủ tịch Nước rất rõ ràng, đó là người thay mặt cho nước, giữ quyền Tổng chỉ huy quân đội toàn quốc, chỉ định hoặc cách chức các tướng soái trong lục quân, hải quân, không quân, ký sắc lệnh bổ nhiệm Thủ tướng, ban bố các đạo luật, đặc xá, ký hiệp ước với các nước, tuyên chiến hay đình chiến …

Hồ Chí Minh là Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Dĩ nhiên, dấu ấn của Hồ Chí Minh hết sức đậm nét trong bản Hiến pháp đầu tiên. Sự thông minh xuất chúng, hiểu nhiều, biết rộng của Hồ Chí Minh đã làm Võ Nguyên Giáp – một người tài ba, một cộng sự rất gần gũi Hồ Chí Minh kinh ngạc. Ông kể, gần như làm bất cứ việc gì, ông đều thấy Hồ Chí Minh đã tiên liệu, suy nghĩ vấn đề đó từ rất lâu rồi. Bản Tuyên ngôn độc lập, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chỉ là vài dẫn chứng sinh động.

Đối với những tình huống đột xuất thì sao? Những ứng phó của Chủ tịch nước Cộng hòa non trẻ, trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, thù trong, giặc ngoài đầy rẫy càng làm chúng ta khâm phục.

Ngay sau cái Tết Bính Tuất năm 1946 – Tết độc lập đầu tiên sau tám mươi năm trời nô lệ, Hồ Chí Minh đã có một cuộc nói chuyện dài với tướng Raun Xalăng. Xalăng – một sỹ quan Pháp, người đã từng ăn cơm lam chấm mắm ngóe miền thượng nguồn, ăn mắm tôm vắt chanh ở miền xuôi của VN. Tướng Xalăng đang rất hung hăng, điều này dễ hiểu, vì bấy giờ, Pháp ỷ vào sức mạnh nên coi thường Chính phủ Hồ Chí Minh. Nhưng, ông ta có vẻ bối rối khi hiện ra trước mắt mình là một nhà hiền triết phương Đông với phong thái ung dung tự tại tỏa ra từ đôi mắt sáng, chòm râu thưa, mái tóc pha sương, nước da dãi dầu mưa nắng, một cốt cách thanh cao khắc khổ ẩn tàng sức mạnh siêu quần được dấu kín trong bộ quần áo kaki cổ đứng không cài cúc.

– Mời tướng quân xơi nước.

Tướng Xalăng nâng chén nước lên theo lời mời của Hồ Chí Minh và nói:

– Thưa ngài Hồ Chí Minh…

Lập tức, Hồ Chí Minh ngắt lời ông ta:

– Tôi đã mời “tướng quân” xơi nước chứ tôi không mời “ngài” Raun Xalăng…

Raun Xalăng mất chủ động, lúng túng xin lỗi, mặc dù dụng ý của ông ta rất rõ ràng: không công nhận chức Chủ tịch của Hồ Chí Minh, cũng tức là không công nhận nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Sau những lời xã giao, thăm hỏi, trao đổi về tình hình chung, bỗng Raun Xalăng chuyển câu chuyện. Ông ta nói:

– Chủ tịch thử nghĩ xem, nên để chúng tôi khôi phục trật tự ở nước này, vì chúng tôi đủ lực lượng và rất nhiều phương tiện. Theo ý tôi, nếu được như vậy đất nước này sẽ biết ơn Chủ tịch, vì Chủ tịch là người đứng đầu Chính phủ có uy tín tuyệt đối với nhân dân. Nếu Chủ tịch để chúng tôi đưa quân vào đây không gặp trở ngại nào thì đó là sự chứng minh trước thế giới Chủ tịch biết kiềm chế quân đội của mình và điều đó thể hiện uy quyền của Chủ tịch là vô song.

Phải công nhận lời nói của Xalăng rất khôn khéo mà hiểm độc. Hồ Chí Minh bình thản chế thêm nước trà vào chén mời Xalăng:

– Tướng quân uống nước đi. Hút tiếp một hơi thuốc lá thơm, giọng nói trầm hùng của Hồ Chí Minh phắt căng lên:

– Tôi không thể làm như lời tướng quân, nếu làm như vậy, tôi sẽ là kẻ phản quốc. Tướng quân nên nhớ rằng, chúng tôi yêu nước Pháp, nhưng không muốn làm nô lệ. Nước Pháp có binh hùng, có nhiều tướng giỏi, nhiều vũ khí tối tân. Một Pháp có thể giết 10 VN, 10 VN có thể chỉ diệt được một Pháp nhưng toàn dân VN đều một lòng kháng chiến chống Pháp.

– Chúng tôi rất mạnh. Cuộc đổ bộ của chúng tôi đã sẵn sàng. Vì sao Chủ tịch không chịu thừa nhận điều hiển nhiên ấy?

Giọng Hồ Chí Minh như có lửa:

– Nếu quân Pháp lại đổ bộ đến đây, chúng tôi không chặn đứng được ngay, nhưng sẽ đổ máu, những người dân Pháp sẽ bị chết. Đó là điều bất hạnh cho cả hai bên. Chúng tôi không bao giờ mong điều đó xảy ra. Nhưng chúng tôi không chịu làm nô lệ một lần nữa.

Chữ “THƠM” và chữ “HỒ” trong bài thơ tứ tuyệt giúp ta liên tưởng Nguyễn Huệ (Hồ THƠM) và Nguyễn Ái Quốc (HỒ Chí Minh). Cụ Hồ Sĩ Tạo (ông nội ruột của Hồ Chí Minh) với cụ Hồ Phi Phúc (cha của Nguyễn Huệ) là quan hệ dòng tộc.

Có giả thuyết cho rằng tổ tiên nhà Tây Sơn vốn họ Hồ ở làng Hương Cái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Họ theo chân chúa Nguyễn vào lập nghiệp miền Nam khi chúa Nguyễn vượt Lũy Thầy đánh ra đất Lê – Trịnh tới Nghệ An (năm 1655). Ông cố của Nguyễn Huệ tên là Hồ Phi Long (vào giúp việc cho nhà họ Đinh ở thôn Bằng Chân, huyện Tuy Viễn, tức An Nhơn) cưới vợ họ Đinh và sinh được một trai tên là Hồ Phi Tiễn. Hồ Phi Tiễn không theo việc nông mà bỏ đi buôn trầu ở ấp Tây Sơn, cưới vợ và định cư tại đó. Vợ của Hồ Phi Tiễn là Nguyễn Thị Đồng, con gái duy nhất của một phú thương đất Phú Lạc, do đó họ đổi họ của con cái mình từ họ Hồ sang họ Nguyễn của mẹ. Người con là Nguyễn Phi Phúc cũng chuyên nghề buôn trầu và làm ăn phát đạt. Nguyễn Phi Phúc có 8 người con, trong đó có ba người con trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ.

Nguyễn Huệ sinh năm 1753 còn có tên là Hồ Thơm hay Quang Bình, Văn Huệ. Cụ Hồ rất coi trọng lịch sử nên sự liên hệ giữa câu chuyện có thật trên đây và bài thơ có thể là một giả thuyết. Chữ “Thơm” cũng có thể là tên hoạt động của Bác Hồ trong thời gian công tác cùng với 5 nhà cách mạng Nga kia, hay là một tên gọi khác của Bác hoặc cũng có thể là người yêu thương của Bác như vĩa than núi Hồng của tình yêu Yên Lãng.

Duong xuan 3

Về Việt Bắc đêm lạnh nhớ Bác

“Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng ba rét nàng Bân”. Rét đài là đợt rét cho cây trổ hoa; rét lộc là đợt rét khi cây nẩy mầm non; rét nàng Bân là đợt rét muộn nàng Bân may áo lạnh cho chồng. Tôi về Việt Bắc tháng giêng rét đài lúc trời rét đậm, vận nước vần vũ với cái lạnh thấm thía đến thấu xương của thời giao mùa. Tôi đi mang mang giữa vùng núi cao mà lòng bâng khuâng nhớ kỹ niệm cũ. Nơi đây là tuổi trẻ của tôi. Nay về Việt Bắc khi tôi trạc tuổi Bác của các năm đầu gian khổ kháng chiến, đêm lạnh nhớ Bác và thương sự dấn thân vì nước của Người.

Việt Bắc gồm sáu tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên (gọi tắt là Cao – Bắc – Lạng – Hà- Tuyên Thái). Đó là căn cứ địa đầu não của Đảng Lao Động Việt Nam trong thời trước khởi nghĩa (1941-1945) và là nơi trú đóng của chính phủ Việt Minh thời kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954).

Cao Bằng có hang Pác Bó (Cốc Bó) tiếng Tày nghĩa là “đầu nguồn” được chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm nơi ở khi Bác về nước lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền. Trước cửa hang có một con suối lớn chảy ngầm từ trong núi đá ra, nguồn của con suối là bên phía Bắc của ngọn núi này và thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Bác Hồ đã đặt tên suối Pác Bó là suối Lê Nin và ngọn núi cao kia là núi Các Mác.

Trong chiến tranh biên giới Việt-Trung năm 1979, quân Trung Quốc đã cho nổ mìn phá hoại hang Cốc Pó định cắt đứt mạch nguồn này nhưng núi cao, suối lớn, mạch vững nên chỉ có thể chặn không có thể hủy. Người đời sau sẽ bàn sâu hơn về đúng sai của mỗi bên nhưng thời Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh rõ ràng là tình bạn hữu nghị tin cậy và không hề xẩy ra sự cố nào.

Ngày nay hang Cốc Pó đã được khôi phục một phần để phục vụ khách tham quan. Cao Bằng là đất đầu nguồn của dòng Bách Việt (bộ tẩu) đi về phương Nam “tẩu vi thượng sách”, né địch mạnh để dựng nghiệp lớn. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585) là nhà tiên tri, nhà giáo, nhà thơ triết lý, nhà văn hoá lớn của thời Lê – Mạc. Lúc nhà Mạc sắp mất sai người đến hỏi ông. Ông khuyên vua tôi nhà Mạc “Cao Bằng tuy thiển, khả diên sổ thể” (Cao Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được). Nhà Mạc theo lời ông và giữ được đất Cao Bằng gần 80 năm nữa.

Bắc Kạn là tỉnh vùng núi cao, có địa hình phức tạp, cơ sở vật chất và kinh tế chưa phát triển, nơi “Việt Bắc cho ta vay địa thế”(1), có hồ Ba Bể một trong 20 hồ nước ngọt đặc biệt của thế giới cần được bảo vệ và nằm trong vườn quốc gia Ba Bể, được công nhận là khu du lịch quốc gia Việt Nam và Vườn di sản ASEAN. Đó cũng là nơi có căn cứ địa cách mạng ATK Chợ Đồn nổi tiếng, một trong những khu căn cứ của Hồ Chí Minh và các cán bộ cấp cao của Đảng Lao Động Việt Nam cùng các nhân sĩ trong chính phủ kháng chiến của cụ Hồ, nơi mà hồn thiêng của cụ Phán Men Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, Chủ tịch Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa bị giặc Pháp giết hại ở rừng thiêng Việt Bắc đến nay vẫn chưa tìm được xác (2).

Lạng Sơn là cửa ngõ quan trọng bậc nhất của phía Bắc, nơi hiện có hai cửa khẩu quốc tế, bốn cửa khẩu quốc gia và bảy chợ biên giới Việt Trung, nơi đồi núi chiếm hơn 80% diện tích cả tỉnh và có nhiều thắng cảnh nổi tiếng Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa/ có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh, nơi có nhiều dòng sông, ấn tượng nhất là sông Thương, sông Kỳ Cùng, qua sông Thương gửi về bến nhớ tôi nhiều năm đóng quân với bao kỷ niệm (3).

Tuyên Quang có khu di tích văn hóa, lịch sử và sinh thái Quốc gia Tân Trào, Địa bàn chính tại xã Tân Trào trong thung lũng nhỏ ở Đông Bắc huyện Sơn Dương được bao bọc bởi núi Hồng ở phía Đông, núi Thoa, ngòi Thia ở phía Nam, núi Bòng ở phía Tây. Đây là tâm điểm của thủ đô kháng chiến chín năm, địa chỉ đến của những chuyến du lịch về nguồn. Đất và người Tuyên Quang có rất nhiều điều cần nghiên cứu luận bàn.

Thái Nguyên là tỉnh trọng điểm phía Bắc Hà Nội về quốc phòng – kinh tế – xã hội và đào tạo nguồn nhân lực. Đây là vùng đất địa linh của tam giác châu giữa lòng của vòng cung Đông Triều, trường thành chắn Bắc Đây là vùng thiên nhiên trong lành, suối nguồn tươi trẻ, lưu dấu tích anh hùng, mỹ nhân trong vầng trăng, bóng nước giữa rừng Hồ trên núi. nơi có núi Cốc, sông Công, hồ núi Cốc, vịnh Hạ Long trên núi, với diện tích mặt hồ khoảng 25 km2.

Đền Hồ Chí Minh trên rừng Yên Lãng, đỉnh đèo De dưới là mỏ than núi Hồng giữ ngọn lửa thiêng, vùng huyền thoại chuyện tình yêu thương mà tôi đang hết lòng lưu giữ huyền thoại cũ và mới. Đảo Cái lưu những cổ vật đặc biệt quý hiếm về Chùa Vàng và đền bà chúa Thượng Ngàn nổi tiếng.

Hà Giang là một thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam. Phía Đông giáp tỉnh Cao Bằng, phía Tây giáp tỉnh Yên Bái và Lào Cai, phía Nam giáp tỉnh Tuyên Quang, phía Bắc, Hà Giang giáp châu tự trị dân tộc Choang và Miêu Văn Sơn thuộc tỉnh Vân Nam và địa cấp thị Bách Sắc thuộc tỉnh Quảng Tây của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Tôi muốn nhấn mạnh điều này để thấy chủ tịch Hồ Chí Minh tinh tế đến ngần nào khi xác định Việt Bắc trong địa giới hành chính với tư cách là một là một cấp hành chính. Hà Giang nằm ở cực Bắc của Việt Nam, tỉnh này có nhiều ngọn núi đá cao và sông suối. Địa hình của tỉnh Hà Giang khá phức tạp, có thể chia làm 3 vùng. Vùng cao núi đá phía bắc nằm sát chí tuyến bắc, có độ dốc khá lớn, thung lũng và sông suối bị chia cắt nhiều. Nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm nhưng do địa hình cao nên khí hậu Hà Giang mang nhiều sắc thái ôn đới. Vùng cao núi đất phía tây thuộc khối núi thượng nguồn sông Chảy, sườn núi dốc, đèo cao, thung lũng và lòng suối hẹp.Vùng thấp trong tỉnh gồm vùng đồi núi, thung lũng sông Lô và Thành phố Hà Giang. Hà Giang có nhiều núi non hùng vĩ, có đỉnh Tây Côn Lĩnh (2419 m) là cao nhất làm ta nhớ đến bài thơ của Hồ Chí Minh “Bồi hồi dạo bước Tây Phong Lĩnh/trông lại trời Nam nhớ bạn xưa”.

Sáu tỉnh Cao Bắc Lạng Hà Tuyên Thái là bài học lớn nhưng tiếc chưa có tác phẩm địa chí lịch sử văn hóa Việt Bắc nào xứng tầm với vùng này.

Liên khu Việt Bắc thời kháng chiến chống thực dân Pháp gồm 17 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Lai Châu, Bắc Giang, Bắc Ninh, Phúc Yên, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Quảng Yên, Hải Ninh, Đặc khu Hồng Gai và huyện Mai Đà của tỉnh Hòa Bình. Liên khu Việt Bắc là địa thế chiến lược lui có thể thủ, tiến có thể công, là vùng đất địa linh nhân kiệt. Tam giác châu Bắc Bộ tâm điểm Hà Nội được bảo vệ bởi hai dãy núi: Đông Bắc là dải Tam Đảo với 99 ngọn Nham Biền chạy xuống Đông Triều có non thiêng Trúc Lâm Yên Tử oai trấn Đông Bắc; Tây Nam là dải Tản Viên nối 99 ngọn núi hùng vĩ chạy dọc sông Đáy tới Ninh Bình kết nối Trường Sơn xương sống của đất Việt tại vùng Thần Phù- Nga Sơn với câu ca dao cổ nổi tiếng “Lênh đênh qua cửa Thần Phù/ Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm“.

Việt Bắc là vùng đất đứng chân mở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà với nhãn quan thiên tài, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 127-SL ngày 4-11-1949 thiết lập Liên khu Việt Bắc là cấp hành chính, trên cơ sở hợp nhất Liên khu 1 và Liên khu 10. Từ năm 1949 đến năm 1954, Thượng tướng Chu Văn Tấn làm Khu trưởng, Bí thư khu ủy, Chánh án Tòa án Quân sự, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính. Từ năm 1954 đến cuối năm 1956, ông làm Tư lệnh kiêm Chính ủy, Bí thư Quân khu ủy Liên khu Việt Bắc. Khi vùng Tây Bắc được giải phóng, khu tự trị Tây Bắc được thành lập theo Sắc lệnh số 134-SL của Chủ tịch Chính phủ ngày 28-1-1953, gồm bốn tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái và Sơn La tách khỏi Liên khu Việt Bắc và khu tự trị Việt Bắc được thành lập ngày 1-7-1956 gồm sáu tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên.

Sau này những nhà địa lý lịch sử văn hóa chắc chắn sẽ còn quay lại nhiều lần với quyết sách của chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhưng điều rất rõ ràng là khu tự trị Việt Bắc và khu tự trị Tây Bắc là hai khu vực có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống, cần có những chính sách đối xử và ưu tiên phát triển riêng phù hợp cho mỗi vùng.

Đêm lạnh ở Việt Bắc tôi thấm thía nhất về Bác ba điều: Thứ nhất là bộ đội cụ Hồ, thứ nhì là trọng dụng hiền tài, thứ ba là tiên liệu và quyền biến. Bác xây dựng được một đội quân cách mạng “bộ đội cụ Hồ” thực sự được dân tin yêu quý trọng. Nhiều câu chuyện cảm động mà anh Phạm Hồng nay 85 tuổi, người có 5 cha con ra trận với bài thơ “Mừng tuổi 80 năm 2008” (3) xúc động giản dị như người lính Nguyên Phong của đức Nhân Tông xưa. Bác Hồ coi trọng hiền tài và hiền tài không phụ Bác. Kẻ sĩ chết cho người tri kỷ . Bao tấm gương sáng nhân sĩ hết lòng vì nước và vì cảm tấm lòng tri ngộ của Bác mà đã ra sức chung tay gánh vác việc nước trong thời buổi gian nan. Cả một trời sao nhân sĩ chói lọi trong thời đại Hồ Chí Minh như Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Giàu, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Tôn Thất Tùng, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Tố, Đặng Văn Ngữ, Đặng Thái Mai, Nguyễn Lân,….

Tôi trích bài viết nghĩa cử của cụ Hồ khóc cụ Nguyễn Văn Tố, người bị Pháp giết tại Bắc Kạn để thấy Bác đối với trí thức và trí thức đối với Bác. Việc tiên liệu và quyền biến của Bác đã có quá nhiều tư liệu. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gặp gỡ của chủ nghĩa Mác Lê Nin với sự chắt lọc tinh hoa từ Tôn Dật Tiên qua ba tiêu ngữ ‘Độc lập, Tự do, Hạnh phúc’. Sự vận dụng những nguyên lý phổ quát trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cùng với những vận dụng sáng tạo mưu lược, kế sách dựng nước, giữ nước của Việt Nam phù hợp với điều kiện cụ thể của chính dân tộc mình thể hiện đậm nét nhất qua tên Nước và tên Đảng.

Bác rất coi trọng thực tiễn, coi trọng đại đoàn kết dân tộc, giỏi tiên liệu và quyền biến “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Về nhân cách và phẩm chất của người cán bộ cách mạng, Bác là tấm gương thực hành suốt đời của tám chữ: “Cần kiệm liêm chính chí công vô tư” trao lại cho đời sau. Bác viết: “Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc. Người có bốn đức: Cần, kiệm, liêm, chính. Thiếu một mùa thì không thành trời. Thiếu một phương thì không thành đất. Thiếu một đức thì không thành người”. “Cũng như sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân“.

Về Việt Bắc đêm lạnh nhớ Bác. “Nếu nước được độc lập mà nhân dân không được hưởng Hạnh phúc, Tự do thì Độc lập cũng không có nghĩa lý gì” (Hồ Chí Minh). Việt Bắc, Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ là năm vùng đất trấn biên, vừa là phên dậu, vừa là yết hầu của Tổ quốc. Cuộc sống người dân ở đó, sau sáu mươi năm giải phóng Thủ Đô và gần bốn mươi năm sau Việt Nam thống nhất tuy đã đổi mới nhiều nhưng gian khó, tiêu cực vẫn còn nhiều lắm.

Chủ tịch Hồ Chí Minh mất năm 1969, di nguyện của Người để lại trong di chúc lịch sử “Công việc trên đây là rất to lớn, nặng nề, và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân.” (5)

Năm nay nước ta có những vận hội mới nào? Tùy cơ, tùy vận, tùy thiên mệnh, tùy thời, tùy thế, lại tùy nghi. Dĩ bất biến ứng vạn biến.

Thương cụ Nguyễn Vắn Tố

Thăm Bắc Kạn, tôi rưng rưng nhớ cụ Phán Men Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố. Cụ Tố mất ở Bắc Kạn ngày 7 tháng 10 năm 1946, đến nay vẫn chưa tìm thấy xác.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và cụ Nguyễn Văn Tố gặp nhau sau ngày Cách mạng tháng 8 mới thành công, thù trong giặc ngoài, bề bộn khó khăn. hai triệu người chết đói năm Ất Dậu đang đè nặng lên xã hội. Cụ Hồ mến đức tài cụ Tố nên đã mời cụ Tố đảm nhận trọng trách Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội (nay là Bộ LĐ-TB-XH) trong Chính phủ Hồ Chí Minh. Sau tổng tuyển cử đầu tiên, cụ trúng cử đại biểu Quốc hội với tư cách là đại biểu tỉnh Nam Định. Quốc hội Việt Nam kỳ họp đầu tiên cụ Tố đươc bầu là Trưởng ban thường trực Quốc hội (ngày nay là Chủ tịch Quốc hội) khóa 1 và cho đến ngày 8/11/1946, cụ Bùi Bằng Đoàn thay thế. Ngày 3/11/1946, cụ lại giữ chức Bộ trưởng không bộ trong Chính phủ.

Ngày 7 tháng 10 năm 1947, theo Bernard Fall, ” Lúc tờ mờ sáng Liên đoàn không vận “S” gồm 1,137 người lính bất ngờ nhẩy dù xuống bộ chỉ huy Việt Minh tại Bắc Kạn, Chợ Mới và Chợ Đồn. Họ lấy được bức thư của Hồ Chí Minh mới viết xong chưa kịp ký, bắt được một ông bộ trưởng và các cố vấn Nhật, Đức quốc xã (những người Đức này hợp tác với Nhật trước đây nay trốn theo VM sợ đồng minh bắt xử tội) . Hồ Chí Minh và các lãnh đạo đã trốn thoát. Các kho hàng rơi vào tay Pháp cùng với 200 con tin Pháp-Việt mà Việt Minh mang theo khi họ rút khỏi Hà Nội cuối năm 1946.” Đây là ngày mở màn Chiến dịch Việt Bắc trong Bước ngoặt lịch sử Chiến tranh Đông Dương.

Một binh đoàn quân dù Pháp nhảy xuống Bắc Kạn để tiến công Việt Minh. Ông Nguyễn Văn Tố, Chủ tịch Quốc hội khóa I, Bộ trưởng Cứu tế Xã hội, đã bị bắt và bị quân Pháp giết. Chủ tịch Hồ Chí Minh và tướng Võ Nguyên Giáp thoát hiểm trong gang tấc, với một giai thoại đến nay vẫn chưa được kiểm chứng.

Mục tiêu của Pháp mở màn Chiến dịch Việt Bắc để sau đó sa lầy và chịu thảm bại trong Chiến tranh Đông Dương là cuộc hành quân mang mệnh danh LÉA, lấy tên một ngọn đèo cao 1362 mét trên đường thuộc địa số 3 giữa Bắc Kạn và Cao Bằng. Quân Pháp tham chiến là lực lượng chọn lọc đặc biệt tinh nhuệ và với sự ra đòn sâu độc, chớp nhoáng này, nhằm: “Diệt và bắt cơ quan đầu não của Việt Minh, tìm diệt chủ lực, phá tan căn cứ địa Việt Bắc, bịt kín, khóa chặt biên giới Việt–Trung, ngăn chặn không cho Việt Minh tiếp xúc với Trung Quốc và loại trừ mọi chi viện từ bên ngoài vào. Truy lùng Việt Minh đến tận sào huyệt, đánh cho tan tác mọi tiềm lực kháng chiến của họ”  Giai thoại kể rằng: Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp nấp sau một bụi cây khi quân Pháp đi tới, Giáp tưởng sẽ bị bắt, nhưng rồi quân Pháp đi qua không trông thấy nên hai người thoát được.”.

Bối cảnh nước Việt Nam trước và sau câu chuyện này ra sao? Giả thuyết là Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp bị bắt ngày 7 tháng 10 năm 1947, thì điều gì xẩy ra? Câu trả lời khá chắc chắn là họ sẽ bị bắn ngay. Đó là mẹo “ném đá giấu tay” trong tam thập lục kế: Cụ Nguyễn Văn Tố, Chủ tịch Quốc hội khóa I, Bộ trưởng Cứu tế Xã hội, bị bắt, bị tra tấn không qua xét xử đã bị quân Pháp giết ngay khi thấy ông thật giống Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Cách dễ dàng nhất trong chiến tranh là đổ lỗi cho loạn lạc; Sa Hoàng Nikolai II vị vua nổi tiếng của Nga cùng toàn bộ những người thân tín của ông sau khi bị bắt cũng bị giết ngay; Cụ Thượng chi Phạm Quỳnh, người chủ thuyết Quân chủ lập hiến khôi phục quyền hành của Triều đình Huế trên cả ba kỳ, chống lại sự bảo hộ của Pháp và kiên trì chủ trương chủ nghĩa quốc gia, cũng bị giết ngay mà không rõ ai giết và lý do nào; Cưu hoàng Nguyễn Phúc Vĩnh San Duy Tân được De Gaulle đồng ý cho trở lại Việt Nam trên cương vị Hoàng đế, sau khi đưa ra đề xuất thẳng thừng đòi hỏi sự thống nhất của ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) đã tử nạn ngay tại Trung Phi và tất cả những người đi trên máy bay đều thiệt mạng, Tổng thống Ngô Đình Diệm là Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa  sau cuộc đảo chính Nam Việt Nam năm 1963 cũng bị giết ngay và câu hỏi thực chất ai đã giết tổng thống, vẫn là một câu hỏi nóng hổi tính thời sự.

” Thấy cụ (Nguyễn Văn Tố) là người chững chạc, nói tiếng Pháp yêu cầu chấm dứt chiến tranh xâm lược. Lúc biết đó không phải là Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng đã bắn chết khi ông già tìm cách chạy thoát. Đó là cụ Trưởng ban thường trực quốc hội, nhân sĩ yêu nước tâm huyết và có uy tín. Cụ Nguyễn Văn Tố hy sinh là một tổn thất lớn cho ta” Hồi ký “Chiến đấu trong vòng vây” tướng Võ Nguyên Giáp đã kể lại.

Sang năm 1948, sau khi đánh tan âm mưu tấn công của thực dân Pháp Nhà nước ta đã tổ chức lễ truy điệu cụ Tố. Trong bài truy điệu, Hồ Chủ tịch đã dành những lời trân trọng, thống thiết: “…Nhớ cụ xưa/ Văn chương thuần túy, học vấn cao sâu/ Thái độ hiền từ, tính tình thanh khiết/ Mở mang văn hóa, cụ dốc một lòng/ Phú quý công danh, cụ nào có thiết”… “Chúng tra tấn cực kỳ dã man, tàn khốc/ Cụ trả lời chúng bằng một nụ cười oanh liệt/ Chúng làm hại cụ, lịch sử Pháp muôn đời thêm một vết xấu xa…/Cụ dù hy sinh,tinh thần cụ ngàn thu sẽ vẻ vang bất diệt/ “Chính phủ khôn xiết buồn rầu, đồng bào khôn xiết nỗi lòng thương tiếc”.

Nói đến vị liệt sỹ Bộ trưởng đầu tiên đã ngã xuống vì nền độc lập còn non trẻ của nước nhà, ai cũng thấy cuộc đời và sự nghiệp của cụ thật đáng khâm phục. GS Hà Văn Tấn gọi cụ Tố là “nhà sử học anh hùng” . Giáo sư Nguyên Xuân thì gọi cụ Nguyễn Văn Tố là nhà bác học “thông kim bác cổ” Tuy nhiên, đến ngày nay, ai cũng xót thương cho linh hồn của cụ, vẫn còn lang thang nơi rừng thiêng của tỉnh Bắc Kạn, cám cảnh không có nơi cho đồng bào cả nước đến cắm nén nhang thơm viếng cụ.

Nhớ về đồng đội cũ

Tôi về Việt Bắc nhiều lần. Lần đầu là đợt tuyển quân ở Cao Bằng, Lạng Sơn năm 1972. Đơn vị chúng tôi là trung đoàn 568 đóng tại Lục Ngạn, Hà Bắc chuyên đào tạo quân tăng cường, tiền thân của sư đoàn 325 B đóng ở Tiên Yên, Quảng Ninh. Trước đó, tôi gia nhập quân đội tháng 9 năm 1971 ở Trường Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc cấp tốc huấn luyện ba tháng và hành quân ngay vào Nam qua sông Thương gửi về bến nhớ tham gia chiến dịch Quảng Trị:“Ta lại hành quân qua sông Thương/ Một đêm vào trận tuyến/ Nghe Tổ Quốc gọi lên đường! Mà lòng ta xao xuyến / …”

Anh Phạm Hồng nguyên chính ủy trung đoàn 568 sau làm chính ủy sư đoàn 325B (nòng cốt của sư đoàn 356 ‘Nước mắt Vị Xuyên”) năm 2019 là 91 tuổi đã nhớ lại (Trích Thư của anh Phạm Hồng 80 tuổi năm 2008″ :

… “Xa em, càng nhớ những ngày này 35 năm trước, theo lệnh tổng động viên của Chủ tịch Nước, hàng chục vạn sinh viên của các trường đại học, cao đẳng trong cả nước đã xếp bút nghiên lên đường cùng cả nước “đánh cho Mỹ cút” như lời Bác Hồ dặn. Anh cùng đơn vị được đón em từ Trường Đại học Nông nghiệp cùng hàng ngàn anh em về huấn luyện chi viện chiến trường.

Biết em là con út, mới lớn lên đã sớm mồ côi cha mẹ, ngày chỉ được ăn một bữa, áo chỉ mặc một manh … mà đã có chí học hành thành sinh viên đại học, tình nguyện vào chiến trường đánh Mỹ! Anh và đồng đội để em cùng đơn vị vào miền Nam đánh vài trận rồi gọi ra ngay để có kinh nghiệm về đội huấn luyện, góp sức đào tạo hàng vạn tiểu đội trưởng “khuôn vàng thước ngọc” của phân đội nhỏ nhất trong quân đội ta. Hàng vạn tiểu đội trưởng từ đoàn 568 anh hùng đã phụ trách hàng vạn tiểu đội với hơn mười vạn quân đi khắp chiến trường chống Mỹ xâm lược…

Cùng lúc ấy, trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước năm 1972, đã có nhiều bạn sinh viên của em trong 81 đại đội vượt sông Thạch Hãn vào đánh giặc ở thành cổ Quảng Trị 81 ngày đêm… Sau này, cả nước và thế giới đều biết những người con “tiền trí thức” yêu quý của dân tộc và quân đội ta từ trường đại học hiên ngang đi thẳng ra chiến trường đánh Mỹ, trở thành những anh hùng bất tử với dòng Thạch Hãn:“Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ / Đáy sông còn đó bạn tôi nằm / Có tuổi thanh xuân thành sóng nước /Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm”.

Em cùng với những bạn trí thức ngày ấy đã xứng đáng với lòng tin yêu và truyền thống của đoàn 568 làm tốt nhiệm vụ đào tạo tiểu đội trưởng cho chiến trường, rồi học tiếp đại học, lấy bằng tiến sĩ, về làm giám đốc trung tâm nghiên cứu khoa học nông nghiệp, ngày đêm gắn bó với Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên và duyên hải miền Trung. Nay em lại làm giảng viên đại học, góp phần đào tạo những kỹ sư, thạc sỹ, tiến sỹ của hơn 45 triệu nông dân đã đang nuôi sống cả xã hội và đi lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.

Nhân năm mới, mừng hai em không ngừng tiến bộ và thành đạt trên con đường khoa học của mình, mừng hai cháu Nguyên Long nối tiếp truyền thống gia đình, luôn tiến bộ trưởng thành. Mong được đón các em và các cháu. Gửi các em những dòng tâm tình của anh trong trang thơ kèm đây nhân 2008 là 80 mùa xuân”.

Thấm thoát thoi đưa vừa ngoảnh lại
Xuân nay mình đã tám mươi tròn
Bốn tư năm lẻ đi đánh giặc
Hưu về tóc bạc vẫn lòng son

Nhớ buổi đầu vào Vệ quốc quân
Dối nhà đi họp đã hơn tuần
Kiểm tra sức khoẻ năm phòng huyện
Suýt bị trả về: chưa đủ cân!

Trận đầu bố trí ở Cầu Bây
Giáo búp đa sắc lẹm trong tay
Đợi địch tràn sang là xốc tới
“Đánh giáp lá cà” với giặc Tây.

Trận hai chặn Pháp ở cầu Ghềnh
Quê hương Bãi Sậy giáp Như Quỳnh
Với khẩu súng trường, viên đạn thép
Quần với thằng Tây cao lênh khênh

Trận ba được nhận khẩu tiểu liên
Với mười viên đạn một băng liền
Chặn giặc từ đầu đường “ba chín”
Thôn nghèo Yên Lịch dạ trung kiên!

Vừa đánh Tây vừa cõng thương binh
Vượt sông giá lạnh lúc bình minh
Máu đồng đội thấm đầy quân phục
Vẫn chẳng rời nhau nghĩa tử sinh!

Thế rồi hơn bốn chục mùa xuân
Chiến trường giục giã chẳng dừng chân
Theo anh Văn, ngọn cờ Quyết thắng
Bác Hồ cùng chúng cháu hành quân!

Cả đời mãi miết cuộc trường chinh
Ơn vợ, quê hương vẹn nghĩa tình
Tần tảo nuôi con, chăm cha mẹ
Vượt ngàn gian khó, giỏi mưu sinh!

Pháp Mỹ chạy rồi, nước chửa yên
Hai đầu biên giới lửa triền miên
Năm cha con lại cùng thắng giặc
Trên biên phía Bắc bảy năm liền.

Trở về đội ngũ cựu chiến binh
Cháu con đều tiến bộ, trưởng thành
Cùng anh em tiếp vun truyền thống
Chung tay làm rạng rỡ quê mình…

Sức mạnh nhân dân và đồng đội
Dựng làng văn hoá thật kiên trung
Vượt bao thử thách hai thời đại
Quê hương Tán Thuật xã anh hùng.

Tám chục tuổi đời vẫn thanh xuân
Sáu hai tuổi Đảng vẫn kiệm, cần
Liêm chính làm theo lời Bác day
Vinh nào bằng “công bộc nhân dân”

Mười tám năm qua hưu chẳng nghỉ
Đồng đội luôn về sum họp vui
Mọi việc làm đều cùng suy nghĩ
Đơm hoa, kết trái đẹp cho đời

Vui thay mình đang tới tám hai
Phía trước đường xuân vẫn rộng dài
Nước mạnh, dân giàu, nhà hạnh phúc
Ngẩng đầu thẳng bước tới tương lai.

Phạm Hồng
CCB nhà 8/17 Bạch Đằng Thành phố Hải Dương. Người lính già thời Bác người chính ủy sư đoàn 325 B và sư đoàn 356 xưa, thân như anh em ruột, ngày 10 tháng 9 Kỷ Hợi nhằm ngày 8 tháng 10 năm 2019 đã từ trần lúc 93 tuổi. Chính ủy Phạm Hồng đã có một thời gian làm thư ký của bác Giáp, tuyên huấn và nhân cách thật tuyệt vời Anh thật vui vẻ, tráng kiện, lạc quan và thực sự là “người lính già đầu bạc, kể mãi chuyện Nguyên Phong“:  Câu chuyện của anh về bộ đội anh Văn, người lính cụ Hồ, năm cha con ra trận. Câu chuyện về một gia đình quân nhân, thanh bạch, trung trinh, nặng lòng vì nước. Tôi nhớ mãi kỷ niệm ngày tôi lần hồi về Hải Dương thăm anh. Anh nghe chuyện của tôi đã nhận quyết định chuyển ngành trở về trường đại học trước kỳ lĩnh quân trang hàng năm và tự trọng không chịu trả quyết định để có thêm bộ quần áo mủ giày và lương khô mà cả cười. Năm anh em trong phòng tham mưu sư đoàn 325 B sau này tăng cường khung cho sư đoàn 356 ‘nước mắt Vị Xuyên‘ đều không trở về. Đó là một câu chuyện dài cảm động

Trần Nhân Tông và  Hồ Chí Minh là phúc lớn của dân tộc Việt. Trần Nhân Tông và Hồ Chí Minh đều là biểu tượng của bậc vĩ nhân “bình sinh đầu ngẩng tới trời xanh” của dân tộc Việt trong cuộc đấu tranh “trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” để giành độc lập và thống nhất Tổ Quốc. Hôm nay giữa mênh mang trời đất vào xuân, tôi bồi hồi ngắm dấu xưa núi cao hoang sơ “đầu nguồn” Pác Bó “sớm ra bờ suối tối vào hang / cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng” “xem sách chim rừng vào cửa đậu/ phê văn hoa núi ghé nghiên soi ”. Ký ức thời gian lần lượt trở về trong tôi với những ký sự ảnh và ghi chép cá nhân của những lần về Việt Bắc đến Nghĩa Lĩnh đền Hùng, hồ Ba Bể, Yên Lãng núi Hồng, sông Công núi Cốc,…

Đền thiêng trên Nghĩa Lĩnh.
Giếng ngọc dưới trời Nam. 
Chén cơm truyền con cháu. 
Vạn cổ thử giang san” (* trích dẫn thơ Trần Quang Khải)

Tôi viết “Đường xuân”, về Việt Bắc đêm lạnh nhớ Bác, tập hợp các ghi chép và suy ngẫm “Núi Tản Viên, Tam Đảo, Nham Biền”; “Vó ngựa trời Nam”, “Chuyện tình Hồ trên núi”; “Qua đèo chợt gặp mai đầu suối” (bài thơ kỳ lạ Tầm hữu vị ngộ – tìm bạn không gặp – của Bác ); “Hai bài thơ đồng dao của Bác”; “Bỗng nghe vần Thắng vút lên cao”; “Bình sinh Hồ Chí Minh” (quan hệ đến câu chuyện bức trướng của năm vị lão thành cách mạng Nga); “Kẻ phi thường trong thơ Bác Hồ”… Việt Bắc là tuổi trẻ của tôi, nơi  tôi được về thăm lại lần này khi đã trải qua độ tuổi mà trước đây những bậc tiền nhân dấn thân vào nơi giá rét để thấm hiểu sự minh triết phúc hậu tận tâm và đức hi sinh là bài học lớn suốt đời không bao giờ quên! Đêm lạnh cắt da, tôi nghĩ đến đức Nhân Tông, đến Bác đều về nơi hang lạnh. Lòng tôi bùi ngùi thương Người tuổi cao và thấm thía việc dấn thân làm người phúc hậu. Nhiều uẩn khúc lịch sử, thật giả chưa tường minh, nhưng tôi tin tưởng sâu sắc rằng, nghiên cứu lịch sử sẽ tìm tòi và thấu hiểu được sự minh triết sâu sắc kín đáo của Người, những lời dặn còn mãi với non sông.xem tiếp Việt Nam con đường xanh

Kim Notes lắng ghi chú
Nguyễn Du trăng huyền thoại

Hoàng Kim về bến Giang Đình xưa nơi Nguyễn Du viết Kiều và Nguyễn Công Trứ cùng Nguyễn Du đàm đạo. Non xanh còn đó, nước biếc còn đây, rác còn nhiều nhưng nước non vẫn vậy. Tôi yêu Kiều Nguyễn Du.


Nguyễn Du thơ chữ Hán
Kiếm bút thấu tim Người,
Đấng danh sĩ tinh hoa,
Nguyễn Du khinh Thành Tổ,
Bậc thánh viếng đức Hòa

Nguyễn Du tư liệu quý
Linh Nhạc thương người hiền,
Trung Liệt đền thờ cổ,
“Bang giao tập” Việt Trung,
Nguyễn Du niên biểu luận

Nguyễn Du Hồ Xuân Hương
“Đối tửu” thơ bi tráng,
“Tỏ ý” lệ vương đầy,
Ba trăm năm thoáng chốc,
Mại hạc vầng trăng soi.

Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ
Uy Viễn “Vịnh Thúy Kiều”,
Tố Như “Đọc Tiểu Thanh”,
Bến Giang Đình ẩn ngữ,
Thời biến nhớ người xưa.

Nguyễn Du thời Tây Sơn
Mười lăm năm tuổi thơ,
Mười lăm năm lưu lạc,
Thời Hồng Sơn Liệp Hộ,
Tình hiếu thật phân minh

Nguyễn Du làm Ngư Tiều
Câu cá và đi săn,
Ẩn ngữ giữa đời thường,
Nguyễn Du ức gia huynh,
Hành Lạc Từ bi tráng

Nguyễn Du thời nhà Nguyễn
Mười tám năm làm quan,
Chính sử và Bài tựa,
Gia phả với luận bàn.
Bắc hành và Truyện Kiều

Nguyễn Du tiếng tri âm
Hồ Xuân Hương là ai,
Kiều Nguyễn luận anh hùng,
Thời Nam Hải Điếu Đồ,
Thời Hồng Sơn Liệp Hộ

Nguyễn Du trăng huyền thoại
Đi thuyền trên Trường Giang,
Tâm tình và Hồn Việt,
Tấm gương soi thời đại.
Mai Hạc vầng trăng soi,

(*) Nguyễn Du trăng huyền thoại là nghiên cứu lịch sử văn hóa của Hoàng Kim. Nguyễn Du thơ chữ Hán; Nguyễn Du tư liệu qúy; Nguyễn Du Hồ Xuân Hương; Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ là bài 1, 2, 3, 4 trong chuỗi chuyên luận này được hiệu đính, bổ sung, đúc kết nhân ngày 10/8 Canh Tý âm lịch, là ngày giỗ thứ 200 của cụ Nguyễn Du (1820- 2020) và kỷ niệm 256 năm ngày sinh của cụ Nguyễn Du (1766-2021) đấng danh sĩ tinh hoa, đại thi hào, danh nhân văn hóa thế giới, là ngày 23 tháng 11 Ất Dậu nhằm ngày 3 tháng 1 năm 1766. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguyen-du-trang-huyen-thoai


Nguyễn Du niên biểu luận là Nguyễn Du và thời thế theo từng năm của 55 năm cuộc đời ông Nguyễn Du trăng huyền thoại, Mai Hạc vầng trăng soi góp phần làm sáng tỏ cuộc đời thời thế của ông và hổ trợ thông tin giải mã ẩn ngữ Truyện Kiều và Bắc Hành là hai kiệt tác của Nguyễn Du Thiền sư Linh Nhạc Phật Ý tại Tổ Đình Phước Tường Thủ Đức trong giấc mơ lạ Nguyễn Du nửa đêm đọc lại khuyên tôi lập “Nguyễn Du niên biểu luận” Nguyễn Du và thời thế để tìm hiểu về Người. Theo vị Thiền sư này thì dấu vết chứng cứ sự thật hàng năm của Nguyễn Du là chỉ dấu đáng tin cậy nhất về những sự kiện trọng yếu trong thời ông. Điều này chi phối quyết định và gợi ý sâu sắc nhất xử thế của bình sinh hành trạng Nguyễn Du. Chúng ta nếu muốn hiểu đúng sự thật về Nguyễn Du và Truyện Kiều thì cần có những sự kiện chính yếu của thời thế đàng Trong và đàng Ngoài cùng với các nước liên quan soi vào hệ quy chiếu chính cuộc đời Nguyễn Du và gia tộc Nguyễn Du làm trung tâm mới thấu hiểu. Đó là phương pháp luận liên ngành tổng hợp với hệ thống thông tin thực sự bổ ích để hiểu đúng ẩn ngữ Truyện Kiều, lịch sử, văn hóa, con người và bối cảnh hình thành kiệt tác”Truyện Thúy Kiều”. Kết quả nghiên cứu này cho thấy: Nguyễn Du 55 năm cuộc đời chia làm hai thời kỳ Nguyễn Du thời Tây Sơn (1766-1802) và Nguyễn Du thời Nhà Nguyễn (1802-1820). Nguyễn Du thời Tây Sơn có Mười lăm năm tuổi thơ (1766 – 1780), Mười lăm năm lưu lạc (1781 – 1796), Năm năm thời Hồng Sơn Liệp Hộ (1797- 1802). Nguyễn Du làm quan thời nhà Nguyễn 18 năm từ năm 1802 cho tới lúc ông mất năm 1820.

Nguyễn Du thời Tây Sơn (1766-1802) Tóm tắt gồm có bốn sự kiện chính nổi bật (ngày nay sử liệu đã hoàn toàn sáng tỏ, có đủ chứng cứ sự thật chứng thực).1) Quang Trung đại phá quân Thanh năm Kỷ Dậu 1789; 2) Nguyễn Vương bình Gia Định nhờ lợi dụng tình thế ngay đúng năm ấy; 3) Nguyễn Du xây đền cổ Trung Liệt cho nhà Hậu Lê tại Thăng Long và tu bổ phần mộ tổ tiên Họ Nguyễn Tiên Điền từ năm 1793 đến 1795 (Thời điểm 1792- 1793 là lúc 3 vị vua Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Lê Chiêu Thống đều mất; Nguyễn Du xây đền Trung Liệt cho các trung thần nghĩa sĩ thời hậu Lê đã được thực hiện từ năm 1793 vã hoàn thành khoảng đầu năm 1795. Vua Lê Chiêu Thống qua đời tại Bắc Kinh năm 1793 nhưng tro cốt của ông được đưa về Việt Nam năm 1804 và chôn ở Thanh Hóa quê hương của tổ tiên ông Cương mục quyển XI .VII trang 48a, trích dẫn từ Chính sử triều Nguyễn; nguồn dẫn khác theo Lê Thành Khôi ‘Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ 20’, trang 386); 4) Nguyễn Du làm Nam Hải Điếu Đồ (1791-1796) và Hồng Sơn Liệp Hộ (1797- 1802) Thời Nguyễn Du làm Hồng Sơn Liệp Hộ (Người đi săn ở núi Hồng), Nguyễn Du sống chủ yếu ở Nghệ Tĩnh. Thông tin chi tiết tại Nguyễn Du niên biểu luận, Nguyễn Du thời Tây Sơn

Nguyễn Du thời Nhà Nguyễn (1802-1820):Tóm tắt gồm có sáu sự kiện chính nổi bật (ngày nay sử liệu cũng đã hoàn toàn sáng tỏ, có đủ chứng cứ sự thật chứng thực): 1) Nguyễn Du gặp vua Gia Long năm 1802 khi vua Gia Long ra Bắc và Nguyễn Du được bổ nhiệm ngay làm quan tri huyện Phù Dung (1802) sau đó được thăng chức tri phủ Thường Tín (1803-1804) và cai bạ Quảng Bình (1808-1811); 2) Nguyễn Du làm quan nhà Nguyễn có chính tích được lưu trong Chính sử Nhà Nguyễn, 3) Nguyễn Du được thăng Đông Các học sĩ, hàm ngũ phẩm, tước Du Đức hầu, ông vào nhậm chức cần chánh điện đại học sĩ, chức vụ dâng sách cho vua Gia Long đọc mỗi ngày. (1805- 1807), 4) Nguyễn Du làm quan Chánh sứ đi sứ nhà Thanh (1813-1814); 5) Nguyễn Du sau khi đi sứ nhà Thanh thành công trở về được nghỉ phép ở quê sáu tháng, Trong thời gian này, Nguyễn Du đã hoàn thiện tập thơ Truyện Kiều chữ Nôm và Bắc Hành chữ Hán (gồm “Bắc hành tạp lục” 132 bài, “Nam trung tạp ngâm” 16 bài “Thanh Hiên thi tập” 78 bài). 6) Nguyễn Du vào Huế nhậm chức Hữu Tham tri Bộ Lễ (1815-1820) và chết ở Huế năm 1820. Thông tin chi tiết tại Nguyễn Du niên biểu luận, Nguyễn Du thời nhà Nguyễn .

Mời quý bạn đọc chùm bài Nguyễn Du trăng huyền thoại, Nguyễn Du tư liệu quý, Nguyễn Du thơ chữ Hán; Nguyễn Du thời Tây Sơn; Nguyễn Du Hồ Xuân Hương của Hoàng Kim.

Hình thế nước Đại Việt đàng Trong đàng Ngoài năm 1760. Bản đồ vẽ bởi công ty Cóvens e Mortier, Amsterdam (hình trên) và Hình thế nước Đại Việt đàng Trong đàng Ngoài năm 1788 trước mùa xuân Kỷ Dậu năm 1790 (vẽ theo sử liệu và bản đồ Trần Trọng Kim) đã cho thấy Nguyễn Du cuộc đời và thời thế. Diễn biến thời cuộc từ khi Nguyễn Du sinh ra năm 1766 đến khị Triều đại Tây Sơn sụp đổ năm 1802 qua minh chứng tại Nguyễn Du niên biểu luận

NGUYỄN DU MỘT TỔNG LUẬN

1. Nguyễn Du không chỉ là nhà thơ lớn, danh nhân văn hóa thế giới mà còn là danh sĩ tinh hoa, đấng anh hùng hào kiệt minh sư hiền tài lỗi lạc.

2. Nguyễn Du rất mực nhân đạo và minh triết, ông nổi bật hơn tất cả những chính khách và danh nhân cùng thời. Nguyễn Du vượt lên vinh nhục bản thân giữa thời nhiễu loạn, vàng lầm trong cát để trao lại ngọc cho đời. “Nguyễn Du là người rất mực nhân đạo trong một thời đại ít nhân đạo” (Joocjo Budaren nhà văn Pháp). Ông chí thiện, nhân đạo, minh triết, mẫu hình con người văn hóa tương lai. Kiều Nguyễn Du là bài học lớn về tâm tình hồn Việt. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã thấm sâu vào hồn Việt và lan tỏa khắp thế giới.

3. Nguyễn Du quê hương và dòng họ cho thấy gia tộc họ Nguyễn Tiên Điền là dòng họ lớn đại quý tộc có thế lực mạnh “Triều đình riêng một góc trời/ Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”. Vị thế gia tộc Nguyễn Tiên Điền đến mức nhà Lê, họ Trịnh, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn đều tìm mọi cách liên kết, lôi kéo, mua chuộc, khống chế hoặc ra tay tàn độc để trấn phản.

4. Nguyễn Du niên biểu luận, cuộc đời và thời thế là bức tranh bi tráng của một bậc anh hùng hào kiệt nhân hậu, trọng nghĩa và tận lực vì lý tưởng. Nguyễn Du đã phải gánh chịu quá nhiều chuyện thương tâm và khổ đau cùng cực cho chính ông và gia đình ông bởi biến thiên của thời vận”Bắt phong trần phải phong trần.Cho thanh cao mới được phần thanh cao“. Nguyễn Du mười lăm năm tuổi thơ (1765-1780) mẹ mất sớm, ông có thiên tư thông tuệ, văn võ song toàn, văn tài nổi danh tam trường, võ quan giữ tước vị cao nơi trọng yếu; người thân gia đình ông giữ địa vị cao nhất trong triều Lê Trịnh và có nhiều người thân tín quản lý phần lớn những nơi trọng địa của Bắc Hà. Nguyễn Du mười lăm năm lưu lạc (1781- 1796) Thời Hồng Sơn Liệp Hộ (1797-1802) Nlà giai đoạn đất nước nhiễu loạn Lê bại Trịnh vong, nội chiến, tranh đoạt và ngoại xâm. Nguyễn Du và gia đình ông đã chịu nhiều tổn thất nhưng ông kiên gan bền chí, tận tụy hết lòng vì nhà Lê “Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn. Để lời thệ hải minh sơn. Làm con trước phải đền ơn sinh thành“. Nguyễn Du thời Nhà Nguyễn (1802- 1820) ra làm quan triều Nguyễn giữ các chức vụ từ tri huyên, cai bạ, cần chánh điện đại hoc sĩ, chánh sứ đến hữu tham tri bộ lễ. Ông là nhà quản lý giỏi yêu nước thương dân, Nguyễn Du để lại kiệt tác Truyện Kiều là di sản muôn đời, kiệt tác thơ chữ Hán có Bắc hành tạp lục 132 bài, Nam trung tạp ngâm 16 bài và Thanh Hiên thi tập 78 bài, là phần sâu kín trong tâm trạng Nguyễn Du, tỏa sáng tầm vóc và bản lĩnh của một anh hùng quốc sĩ tinh hoa, chạm thấu những vấn đề sâu sắc nhất của tình yêu thương con người và nhân loại. Đặc biệt “Bắc Hành tạp lục” là kiệt tác sử thi và tuyên ngôn ngoại giao nhân nghĩa  làm rạng danh nước Việt.

5. Minh triết ứng xử của Nguyễn Du là bậc hiền tài trước ngã ba đường đời là phải chí thiện và thuận theo tự nhiên “Tùy cơ, tùy vận, tùy thiên mệnh, tùy thời, tùy thế, lại tùy nghi” Nguyễn Du ký thác tâm sự vào Truyện Kiều là ẩn ngữ ước vọng đời người, tâm tình và tình yêu cuộc sống “Thiện căn cốt ở lòng ta, Chữ tâm kia mới thành ba chữ tài” .

6. Truyện Kiều có tầm ảnh hưởng rất sâu rộng đã trở thành hồn Việt, và là tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam được dịch ra hơn 20 thứ tiếng và trên 73 bản dịch. Giá trị tác phẩm Kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du có sự tương đồng với kiệt tác Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần.nhưng khác chiều kích văn hóa giáo dục và giá trị tác phẩm.

7. Nhân cách, tâm thế của con người Nguyễn Du đặt trong mối tương quan với Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh của thời đại Hậu Lê Trịnh – nhà Tây Sơn – đầu triều Nguyễn; khi so sánh với Tào Tuyết Cần là văn nhân tài tử của thời đại cuối nhà Minh đến đầu và giữa nhà Thanh thì vừa có sự tương đồng vừa có sự dị biệt to lớn.

8. Gia tộc của Nguyễn Quỳnh – Nguyễn Thiếp – Nguyễn Du tương đồng với gia tộc của Tào Tỷ – Tào Dần – Tào Tuyết Cần nhưng nền tảng đạo đức văn hóa khác nhau  Nhấn mạnh điều này để thấy sự cần thiết nghiên cứu liên ngành lịch sử, văn hóa, con người tác gia, bởi điều đó chi phối rất sâu sắc đến giá trị của kiệt tác.

9. Nguyễn Du danh si tinh hoa là tấm gương soi sáng thời đại Nguyễn Du

3

LÊN TRÚC LÂM YÊN TỬ
Hoàng Kim

Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấu hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa Đồng
Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc
 
“Yên sơn sơn thượng tối cao phong
Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu
Quải ngọc châu lưu lạc bán không
Nhân miếu đương niên di tích tại
Bạch hào quang lý đổ trùng đồng” (1)
 

Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong
Trời mới ban mai đã rạng hồng
Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả
Nói cười lồng lộng giữa không trung
Giáo trúc quanh chùa giăng nghìn mẫu
Cỏ cây chen đá rũ tầng không
Nhân Tông bảo tháp còn lưu dấu
Mắt sáng hào quang tỏa ánh đồng (2)  

Non thiêng Yên Tử
Nghìn năm Thăng Long, Đông Đô, Hà Nôi
Bảy trăm năm đức Nhân Tông
Non sông bao cảnh đổi
Kế sách một chữ Đồng
Lồng lộng gương trời buổi sớm
Trong ngần, thăm thẳm, mênh mông ….  

1) Thơ Nguyễn Trãi
2) Bản dịch thơ Nguyễn Trãi của Hoàng Kim  

Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu.
Sách Nhàn đọc giấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim…

Trần Nhân Tông

TÌM VỀ ĐỨC NHÂN TÔNG
Hoàng Kim


Người ơi con đến đây tìm
Non thiêng Yên Tử như tranh họa đồ
Núi cao trùng điệp nhấp nhô
Trời xuân bảng lãng chuông chùa Hoa Yên

Thầy còn dạo bước cõi tiên
Con ươm mầm sống xanh thêm ruộng vườn
Mang cây lộc trúc về Nam
Ken dày phên giậu ở miền xa xôi

Cư trần lạc đạo, Người ơi
Tùy duyên vui đạo sống đời thung dung
Hành trang Thượng sĩ Tuệ Trung
Kỳ Lân thiền viện cành vươn ra ngoài

An Kỳ Sinh trấn giữa trời
Thơ Thiền lưu dấu muôn đời nước non …

LÊN TRÚC LÂM YÊN TỬ
Hoàng Kim


Lên non thiêng Yên Tử
Đêm trắng và bình minh
Khi nhớ miền đất thiêng
Lại thương vùng trời thẳm

Đi đường thấu non cao
Tầm nhìn ôm biển rộng
Thương Nhân Tông Bảo Sái
Đỉnh mây vờn Trúc Lâm

Dạo chơi non nước Việt
Non xanh bên bạn hiền
Thung dung cùng cây cỏ
Xuống núi thăm người quen.

KẾ SÁCH MỘT CHỮ ĐỒNG
Hoàng Kim 

Tỉnh thức giữa đêm thiêng Yên Tử
Để thấu hiểu đức Nhân Tông
Ta thành tâm đi bộ
Lên tận đỉnh chùa đồng
Tâm sáng Ức Trai trong tựa ngọc

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/len-truc-lam-yen-tu/

5

LEV TONSTOY NĂM KIỆT TÁC
Hoàng Kim

Lev Tolstoy (1828 – 1910) là nhà hiền triết và đại văn hào Nga danh tiếng bậc nhất lịch sử nhân loại với năm kiệt tác lắng đọng mãi với thời gian: 1) Chiến tranh và Hòa bình, 2) Ana Karenina, 3) Phục sinh; 4) Đường sống; 5) Suy niệm mỗi ngày. Riêng hai tác phẩm Đường sống và Suy niệm mỗi ngày / Minh triết cho mỗi ngày (Wise Thoughts for Every Day) được coi là hai công trình trọng yếu cuối cùng của Lev Tonstoy và ông đã xem nó là đóng góp quan trọng nhất của ông cho nhân loại.

LEV TOLSTOY SUY NIỆM MỖI NGÀY

Theo Peter Serikin tại lời giới thiệu của tác phẩm Suy niệm mỗi ngày / Minh triết cho mỗi ngày (Wise Thoughts for Every Day) là công trình trọng yếu cuối cùng của Lev Tonstoy.Ông xem nó là đóng góp quan trọng nhất của ông cho nhân loại. “Tonstoy giữ cái ‘cẩm nang’ cho một cuộc sống tốt này trên bàn làm việc của ông trong suốt những năm cuối cùng đời mình cho đến phút cuối (thậm chí ông còn yêu cầu trợ lý cùa mình V. Chertkov, đưa cho ông xem bản in thử trên giường chết của ông) Chi tiết nhỏ này cho thấy Tonstoy yêu quý tác phẩm này xiết bao!”.

Cũng theo Peter Serikin bộ ba tập sách ‘Minh triết của hiền nhân’ 1903  (The Thoughts of Wise Men) ; Một chu kỳ đọc (A Circle of Reading’ 1906; Minh triết cho mỗi ngày 1909 (Wise Thoughts for Every Day) dường như phát triển sau khi Lev Tolstoy bệnh nặng và phục sinh như một phép lạ cuối năm 1902. Bộ ba này của Tolstoy hết sức phổ biến từ lần xuất bản thừ nhất vào năm 1903 cho đến năm 1917. Rồi cả ba cuốn đều không được xuất bản trong suốt thời kỳ gần 80 năm vì nội dung tôn giáo của chúng, Và nó được xuất hiện trở lại gần đây sau sup đổ của Liên bang Xô Viết.

Sách ‘Suy niệm mỗi ngày’ nguyên tác tiếng Nga của Lev Tonstoy do Đỗ Tư Nghĩa dịch từ bản tiếng Anh ‘Wise Thoughts for Every Day’ của Peter Serikin xuất bản ở New York Mỹ từ năm 2005 và, Bản quyền bản tiếng Việt của Công ty THHH Văn Hóa Khai Tâm 2017. Hành trình cuốn sách này đến Việt Nam khá muộn  nhưng may mắn thay những tư tưởng minh triết của nhà hiền triết Lev Tonstoy đã tới chúng ta gợi mở cho sự suy ngẫm ‘minh triết cho mỗi ngày’ cùng đồng hành với người thầy hiền triết vĩ đại.

Lev Tonstoy ‘Suy niệm mỗi ngày’ 365 ngày, mỗi ngày ông viết một mục suy ngẫm ngắn và sâu sắc. Trung Quốc thời kỳ đại cách mạng văn hóa có một câu chuyện khác tương tự, Lâm Bưu người được coi là nhà đầu tư quyền lực hiệu quả nhất và phát kiến thiên tài khi ông tạo dựng nên được cơn sốt sùng bái cá nhân đối với Mao Trạch Đông đã tuột mất đại quyền và thành phe thiểu số để cân bằng quyền lực, chọi với đỉnh cao thế lực Đảng Chính quyền phái đa số Lưu Đặng khi ấy Lưu Thiếu Kỳ đã làm Chủ tịch Nước và Đặng Tiểu Bình nắm cương vị Tổng Bí Thư Đảng. Lâm Bưu với tư cách Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng đã chọn lọc phát hành 5 triệu cuốn sách đỏ Mao tuyển cho toàn quân và Hồng vệ binh. Cuốn sách đỏ nhỏ bỏ túi này với những danh ngôn tuyển chọn của Mao Trạch Đông có giá trị hiện thực như thế nào trong lật ngược thế cờ bạn đã thấy rõ. Bây giờ chúng ta hãy Đọc lại và suy ngẫm “Đức tin” và “Tình yêu” của Lev Tonstoy trong CNM365 ngày của ông:

Lev Tonstoy viết  ĐỨC TIN. Quy luật của Thượng đế tất yếu bao hàm đòi hỏi việc chu toàn ý chí của Ngài. Bởi về tất cả mọi con người đều được Thượng đế sáng tạo ra một cách bình đẳng, nên quy luật của Ngài là Một, chung cho tất cả chúng ta. Đời chúng ta chỉ có thể tốt đẹp khi nào chúng ta hiểu quy luật của Thượng đế và tuân theo nó.

Có một câu cách ngôn cổ của Do Thái: “Linh hồn của một người là ngọn đèn của Thượng đế” Khi ngọn đèn ấy chưa được thắp lên thì một cá nhân sẽ vẫn mãi bơ vơ; nhưng khi nó được thắp lên, y trở nên mạnh mẽ và tự do. Dĩ nhiên, điều này không thể khác, bởi vì đó không phải là quyền lực của chính y, mà là của Thượng đế.

Mặc dù chúng ta không biết sự thiện phổ quát là gì, chúng ta thực sự biết rằng, tất cả chúng ta nên tuân theo quy luật của sự thiện, vốn hiện hữu cả trọng sự khôn ngoan của con người lẫn trong trái tim chúng ta.

Nếu chúng ta tin rằng, họ có thể làm hài lòng Thượng đế thông qua những nghi lễ và những lời cầu nguyện thôi – chứ không phải bằng hành động- thì họ đã nói dối với cả thượng đế lẫn chính họ

Lev Tonstoy khuyên chúng ta về ĐỨC TIN. “Hãy luôn luôn hạnh phúc và sung sướng”  hãy  tuân theo quy luật của sự thiện và luôn nhớ câu cách ngôn cổ của người Do Thái: “Linh hồn của một người là ngọn đèn của Thượng đế“.  Minh triết cho mỗi ngày là một kho tàng minh triết tinh túy.

Lev Tonstoy viết  về TÌNH YÊU. Ông Lev Tonstoi khi về già nhớ những kỷ niệm cũ. Ông đã viết “Suy niệm mỗi ngày” cho 365 ngày để tự nhìn lại kiệt tác “Tự thú” mà ông đã viết trước đó. Ông đã đúc kết, chắt lọc, hòa trộn tác phẩm cũ và nâng lên cao hơn trong mục từ TÌNH YÊU. Ông viết: “Người ta hỏi một hiền triết phương Đông: Khoa học là gì? Ông đáp: Biết người. Họ hỏi Cái Thiện là gì? Ông đáp: Yêu người. Để sống theo quy luật của Thượng đế, một con chim phải bay, một con cá phải bơi và một con người phải yêu thương. Cách tốt nhất để cải thiện cuộc đời của nhau là qua tình yêu Yêu là biểu lộ cái tốt lành. Tình yêu không chỉ thực hiện trong lời nói mà còn trong những hành động chúng ta thực hiện vì kẻ khác“.

Hoàng Kim noi theo người Thầy lớn minh triết, thắp lên ngọn đèn trí tuệ của chính mình. Tôi diễn đạt ĐỨC TIN và TÌNH YÊU của tôi theo sự trãi nghiệm cuộc đời niềm tin và nghị lực

NIỀM TIN VÀ NGHỊ LỰC
Hoàng Kim

Minh triết đời người là yêu thương
Cuối dòng sông là biển
Niềm tin thắp lên nghị lực
Yêu thương mở cửa thiên đường.

LEV TONSTOY CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH

Lev Tolstoy đại văn hào Nga, là cha đẻ của kiệt tác “Chiến tranh và hòa bình”, đỉnh cao của trí tuệ con người. Tiểu thuyết sử thi vĩ đại này đưa Lev Tolstoy vào trái tim của nhân loại và được yêu mến ở khắp mọi nơi trên thế giới. Tác phẩm “Chiến tranh và hòa bình được bình chọn là kiệt tác trong sách “Một trăm kiệt tác“ của hai nhà văn Nga nổi tiếng I.A.A-Bra- mốp và V.N. Đê-min do Nhà xuất bản Vê tre Liên bang Nga phát hành năm 1999, Nhà xuất bản Thế Giới Việt Nam phát hành sách này năm 2001 với tựa đề “Những kiệt tác của nhân loại“, dịch giả là Tôn Quang Tính, Tống Thị Việt Bắc và Trần Minh Tâm. “Chiến tranh và hòa bình” cũng được xây dựng thành bộ phim cùng tên do đạo diễn là Sergey Fedorovich Bondarchuk, công chiếu lần đầu năm 1965 và được phát hành ngày 28 tháng 4 năm 1968 tại Hoa Kỳ. Phim đoại giải thưởng Oscar phim nói tiếng nước ngoài xuất sắc nhất năm 1968.

Tóm tắt tác phẩm Chiến tranh và hòa bình

Tác phẩm mở đầu với khung cảnh một buổi tiếp tân, nơi có đủ mặt các nhân vật sang trọng trong giới quý tộc Nga của Sankt Peterburg. Bên cạnh những câu chuyện thường nhật của giới quý tộc, người ta bắt đầu nhắc đến tên của Napoléon và cuộc chiến tranh sắp tới mà Nga sắp tham gia. Trong số những tân khách hôm ấy có công tước Andrei Bolkonsky một người trẻ tuổi, đẹp trai, giàu có, có cô vợ Liza xinh đẹp mới cưới và đang chờ đón đứa con đầu lòng. Và một vị khách khác là Pierre người con rơi của lão bá tước Bezukhov, vừa từ nước ngoài trở về. Tuy khác nhau về tính cách, một người khắc khổ về lý trí, một người hồn nhiên sôi nổi song Andrei và Pierre rất quý mến nhau và đều là những chàng trai trung thực, luôn khát khao đi tìm lẽ sống. Andrei tuy giàu có và thành đạt nhưng chán ghét tất cả nên chàng chuẩn bị nhập ngũ với hy vọng tìm được chỗ đứng của một người đàn ông chân chính nơi chiến trường. Còn Pierre từ nước ngoài trở về nước Nga, tham gia vào các cuộc chơi bời và bị trục xuất khỏi Sankt Peterburg vì tội du đãng. Pierre trở về Moskva, nơi cha chàng đang sắp chết. Lão bá tước Bezukhov rất giàu có, không có con, chỉ có Pierre là đứa con rơi mà ông chưa công nhận. Mấy người bà con xa của ông xúm quanh giường bệnh với âm mưu chiếm đoạt gia tài. Pierre đứng ngoài các cuộc tranh chấp đó vì chàng vốn không có tình cảm với cha, nhưng khi chứng kiến cảnh hấp hối của người cha lúc lâm chung thì tình cảm cha con đã làm chàng rơi nước mắt. Lão bá tước mất đi để lại toàn bộ gia sản cho Pierre và công nhận chàng làm con chính thức. Công tước Kuragin không được lợi lộc gì trong cuộc tranh chấp ấy bèn tìm cách dụ dỗ Pierre. Vốn là người nhẹ dạ, cả tin nên Pierre rơi vào bẫy và phải cưới con gái của lão là Hélène, một cô gái có nhan sắc nhưng lẳng lơ và vô đạo đức. Về phần Andrei chàng quyết định gởi vợ cho cha và em chăm sóc sau đó gia nhập quân đội. Khi lên đường Andrei mang một niềm hi vọng có thể có thể tìm thấy ý nghĩa cuộc sống cũng như công danh trên chiến trường. Chàng tham gia trận đánh Austerlitz lừng danh, bị thương nặng, bị bỏ lại trên chiến trường. Khi tỉnh dậy chàng nhìn thấy bầu trời xanh rộng lớn và sự nhỏ nhoi của con người, kể cả những mơ ước, công danh và kể cả Napoléon người được chàng coi như thần tượng. Andrei được đưa vào trạm quân y và được cứu sống. Sau đó, chàng trở về nhà chứng kiến cái chết đau đớn của người vợ trẻ khi sinh đứa con đầu lòng. Cái chết của Lisa, cùng với vết thương và sự tiêu tan của giấc mơ Tulông đã làm cho Andrei tuyệt vọng. Chàng quyết định lui về sống ẩn dật. Có lần Pierre đến thăm Andrei và đã phê phán cách sống đó. Lúc này, Pierre đang tham gia vào hội Tam điểm với mong muốn làm việc có ích cho đời. Một lần, Andrei có việc đến gia đình bá tước Rostov. Tại đây, chàng gặp Natasha con gái gia đình của bá tước Rostov. Chính tâm hồn trong trắng hồn nhiên và lòng yêu đời của nàng đã làm hồi sinh Andrei. Chàng quyết định tham gia vào công cuộc cải cách ở triều đình và cầu hôn Natasha. Chàng đã được gia đình bá tước Rostov chấp nhận, nhưng cha chàng phản đối cuộc hôn nhân này. Bá tước Bolkonsky (cha của Andrei) buộc chàng phải đi trị thương ở nước ngoài trong khoảng thời gian là một năm. Cuối cùng, chàng chấp nhận và xem đó như là thời gian để thử thách Natasha. Chàng nhờ bạn mình là Pierre đến chăm sóc cho Natasha lúc chàng đi vắng. Natasha rất yêu Andrei, song do nhẹ dạ và cả tin nên nàng đã rơi vào bẫy của Anatole con trai của công tước Vasily, nên Natasha và Anatole đã định bỏ trốn nhưng âm mưu bị bại lộ, nàng vô cùng đau khổ và hối hận. Sau khi trở về Andrei biết rõ mọi chuyện nên đã nhờ Pierre đem trả tất cả những kỷ vật cho Natasha. Nàng lâm bệnh và người chăm sóc thông cảm cho nàng lúc này là Pierre. Vào lúc này, nguy cơ chiến tranh giữa Pháp và Nga ngày càng đến gần. Cuối năm 1811, quân Pháp tiến dần đến biên giới Nga, quân Nga rút lui. Đầu năm 1812, quân Pháp tiến vào lãnh thổ Nga. Chiến tranh bùng nổ. Vị tướng già Mikhail Kutuzov được cử làm tổng tư lệnh quân đội Nga. Trong khi đó, quý tộc và thương gia được lệnh phải nộp tiền và dân binh. Pierre cũng nộp tiền và hơn một ngàn dân binh cho quân đội. Andrei lại gia nhập quân đội, ban đầu vì muốn trả thù tình địch, nhưng sau đó chàng bị cuốn vào cuộc chiến và tinh thần yêu nước của nhân dân Nga. Trong trận Borodino, dưới sự chỉ huy của vị tướng Kutuzov quân đội Nga đã chiến đấu dũng cảm tuyệt vời. Andrei cũng tham gia trận đánh này và bị thương nặng. Trong lán quân y, chàng gặp lại tình địch của mình cũng đang đau đớn vì vết thương. Mọi nỗi thù hận đều tan biến, chàng chỉ còn thấy một nỗi thương cảm đối với mọi người. Chàng được đưa về địa phương. Trên đường di tản, chàng gặp lại Natasha và tha thứ cho nàng. Và cũng chính Natasha đã chăm sóc cho chàng cho đến khi chàng mất. Sau trận Borodino, quân Nga rút khỏi Moskva. Quân Pháp chiếm được Moskva nhưng có tâm trạng vô cùng lo sợ. Pierre trở về Moskva giả dạng thành thường dân để ám sát Napoléon. Nhưng âm mưu chưa thực hiện được thì chàng bị bắt. Trong nhà giam, Pierre gặp lại Platon Karataev, một triết gia nông dân. Bằng những câu chuyện của mình, Platon đã giúp Pierre hiểu thế nào là cuộc sống có nghĩa. Quân Nga bắt đầu phản công và tái chiếm Moskva. Quân Pháp rút lui trong hỗn loạn. Nga thắng lợi bằng chính tinh thần của cả dân tộc Nga chứ không phải do một cá nhân nào, đó là điều Kutuzov hiểu còn Napoléon thì không hiểu. Trên đường rút lui của quân Pháp, Pierre đã trốn thoát và trở lại Moskva. Chàng hay tin Andrei đã mất và vợ mình cũng vừa mới qua đời vì bệnh. Chàng gặp lại Natasha, một tình cảm mới mẻ giữa hai người bùng nổ. Pierre quyết định cầu hôn Natasha. Năm 1813, hai người tổ chức đám cưới. Bảy năm sau, họ có bốn người con. Natasha lúc này không còn là một cô gái vô tư hồn nhiên nữa mà đã trở thành một người vợ đúng mực. Pierre sống hạnh phúc nhưng không chấp nhận cuộc sống nhàn tản mà . tham gia tổ chức cách mạng của những người tháng Chạp.

“Chiến tranh và hòa bình” là bộ sử thi vĩ đại nhất của Lev Tolstoy, trước hết là vì tác phẩm đã làm sống lại thời kì toàn thể nhân dân Nga và quân đội thiện chiến và tướng lĩnh giỏi của Pháp gặp nhau trên chiến trường. Nhân dân là nhân vật trung tâm của toàn bộ cuốn tiểu thuyết anh hùng ca này. Qua đó, Tolstoy muốn làm nổi bật tính chất nhân dân anh hùng quyết định vận mệnh lịch sử của dân tộc. Về nghệ thuật, tác phẩm kết cấu dựa trên sự thống nhất hai mặt của chủ nghĩa anh hùng nhân dân và truyện kể lịch sử. Cốt truyện được xây dựng trên hai biến cố lịch sử chủ yếu đầu thế kỉ XIX : cuộc chiến tranh năm 1805 và 1812, đồng thời phản ánh cuộc sống hòa bình của nhân dân và giai cấp quý tộc Nga vào các giai đoạn 1805 – 1812, 1812 – 1820. Các tình tiết và cốt truyện nói trên lại kết cấu tập trung xung quanh hai biến cố lịch sử chủ yếu này. Chủ đề nhân dân gắn bó khăng khít với chủ đề lịch sử, và đề tài chiến tranh quán xuyến toàn bộ tác phẩm đan chéo với đề tài về hòa bình. Bởi vậy, truyện kể lịch sử cùng với chủ nghĩa anh hùng nhân dân là hai mặt cơ sở thống nhất tạo thành kết cấu hoàn chỉnh của sử thi, tạo nên mọi tình tiết trong tác phẩm và được hình tượng hóa theo quá trình xây dựng tác phẩm. Một trong những đặc điểm nổi bật khác của “Chiến tranh và hòa bình” là nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật. Số phận nhân vật với những tâm trạng tinh tế đều gắn bó mật thiết với bước thăng trầm của lịch sử. Đây chính là điểm cách tân của Tolstoy về thể loại anh hùng ca, từ đó sáng tạo nên loại anh hùng ca hiện đại trong lịch sử Văn học Nga và Văn học thế giới. Phim Chiến tranh và Hoà bình có thời lượng : 484 phút (4 tập): Tập 1 – Andrei Bolkonsky Tập 2 – Natasha Rostova (225 phút – 1965); Tập 3 – 1812 (104 phút – 1966); Tập 4 – Pierre Bezukhov (125 phút – 1966).

Sách Chiến tranh và hòa bình lời giới thiệu

Hai nhà văn Nga nổi tiếng I.A.A-Bra-mốp và V.N.Đê-min đã giới thiệu và bình chọn tác phẩm “Chiến tranh và hòa bình” như sau: “Một lần nhân lúc nhàn rỗi vì chưa có kế hoạch mới, để đỡ buồn tẻ và sốt ruột, tôi nghĩ ra một câu hỏi cho mình tự trả lời: Nếu như ta bị đày ra hoang đảo, và chỉ được phép mang theo một cuốn sách thôi, ta sẽ chọn quyển nào?. Suy nghĩ chốc lát, tôi đưa ra đáp án: “Có lẽ chỉ mỗi “Chiến tranh và hòa bình!” Tại sao ư? Nhiều quyển đáng chọn lắm cơ mà ! Câu trả lời đơn giản là vậy mà hóa ra không dễ trả lời.”

”Chiến tranh và hòa bình” ẩn chứa điều bí mật sau đây: Nó là cuốn cẩm nang, là đáp án của tất cẩ mọi câu hỏi mà độc giả có thể gặp trong cuộc sống. Tiểu thuyết có một tầm bao quát sâu rộng lớn: Tính sử thi hùng tráng và tính trữ tình tinh tế, những suy ngẫm triết lý sâu xa về số phận con người, lịch sử và thế giới, những hình tượng bất tử, luôn sống động như đang hiện diện trước mắt ta nhờ bút pháp diệu kỳ của nhà văn. Sẽ là không đầy đủ, nếu chỉ gọi “Chiến tranh và hòa bình” là bộ “Bách khoa toàn thư”; muốn trọn vẹn hơn, ta phải coi nó là “pháp điển đạo đức”. Định nghĩa này là chính xác, bởi bao thế hệ đã từng không mệt mỏi noi theo, học tập suốt đời lý tưởng sống cao đẹp của An-đrây Bôn-côn-xki và Na-ta-sa Rô-xtôva, học tập chủ nghĩa yêu nước nồng nàn của lớp lớp nhân vật khác trong tác phẩm, và của chính nhà văn….”

GS Tôn Thất Trình trao đổi về Chiến tranh và Hòa bình

Giáo sư Tôn Thất Trình có bài viết khá dài về những hấp dẫn của kiệt tác Chiến tranh và Hòa bình nhưng có nhận xét khá thú vị Thầy viết “Chiến Tranh và Hòa Bình là truyện của năm gia đình Nga: Bezukhows, Rostovs, Kuragins và Bolkonskki.. không có mấy bi hài kịch tính như truyện Lôi Vũ của Lỗ Tấn-Tàu, các truyên Việt Nam Công chúa Trần Huyền Trân vói vua Chiêm Thành và tướng Trần Khắc Chung: “Đừng về Chiêm quốc nhé Huyền Trân !”, bà Chúa Chè – Trịnh Sâm, Công chúa Ngọc Hân – Nguyễn Huệ (vua Quang Trung) Vua Gia Long, Công Nương Ngọc Khoa với vua Miên, Chuyện Tám Bính – Bỉ Vỏ- Nguyên Hồng, Đoạn Tuyệt của Nhất Linh, Anh Phải sống của Khái Hưng …”

Vài ghi chép của Hoàng Kim

Ngày 9 tháng 9 có bốn sự kiện Quốc tế trùng hợp: Ngày 9 tháng 9 năm 1791, thủ đô Washington, D.C. được đặt tên theo tên George Washington tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên; Ngày 9 tháng 9 năm 1828 là ngày sinh Lev Tolstoy, nhà văn Nga, tác giả của kiệt tác “Chiến tranh và hòa bình” đỉnh cao văn chương Nga và Thế giới; Ngày 9 tháng 9 năm 1872 là ngày sinh Phan Châu Trinh, chí sĩ, nhà văn, nhà thơ Việt Nam; Ngày 9 tháng 9 năm 1976 là ngày mất của Mao Trạch Đông, lãnh tụ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.Bốn nhân vật lịch sử trên đây ảnh hưởng to lớn đến lịch sử văn hóa của bốn dân tộc và nhân loại. Họ nếu sinh ra đồng thời và sống chung cùng một chổ liệu họ có trở thành những người bạn chí thiết?

George Washington, Lev Tolstoy, Phan Châu Trinh ba người đều có quan điểm triết học thiên về tiến hóa, bảo tồn và phát triển nhưng Mao Trạch Đông thi lại có quan điểm triết học thiên về cách mạng, cải tạo con người, cải tạo xã hội. Một bên năng về xây, một bên năng về chống.

Mao Trạch Đông bình sinh kính trọng George Washington, Lev Tolstoy nhưng thích quan điểm cách mạng của Karl Marx và Vladimir Lenin hơn. Mao Trạch Đông nghiên cứu sâu sắc triết học phương Tây và phương Đông nhưng văn chương thì yêu thích nhất là kiệt tác Thủy Hử và Tam Quốc Diễn Nghĩa. Ông khi ở trên đỉnh cao quyền lực thì cuốn sách không rời tay là “Tư trị Thông giám” học về thuật cai trị của đế vương, nhằm tìm trong sự rối loạn của lịch sử những quy luật và mưu lược kinh bang tế thế. Mao chủ trương “cách mạng gia tộc, cách mạng sư sinh (thầy và trò)“. Ông chủ trương: “Cách mạng không thoát khỏi chiến tranh, mới có thể xóa cũ lập mới”. Tháng 8 năm 1917, Mao đã viết thư cho học giả Bắc Kinh nói lên sự cần thiết của triết học Trung Quốc. Ông nói: “Đây không phải là vấn đề lấy triết học của phương Tây để thay thế, bởi vì dân chủ của giai cấp tư sản phương Tây đã không đủ khả năng giải quyết vấn đề của nhân loại. Cho nên tư tưởng phương Tây, phương Đông phải biết cách lợi dụng. Ý của tôi là tư tưởng phương Tây vẫn chưa đầy đủ, trong đó có nhiều bộ phận phải được cải tạo đồng thời với tư tưởng phương Đông. Vấn đề mấu chốt ăn sâu và tim óc và tiềm thức của Mao Trạch Đông là cách mạng, là nổ lực cải tạo Trung Quốc, cải tạo Thế Giới.

Thế giới đang đổi thay. Những người theo quan điểm thực dụng, hiện sinh đang chen lấn với những người cách mạng, bạo lực và các xu hướng vị kỷ, tôn thờ tự do cá nhân, xã hội dân sự, dân chủ …

“Chiến tranh và hòa bình” kiệt tác của Lev Tolstoy, cần đọc lại và suy ngẫm.

Còn ba tác phẩm Ana Karenina, Phục sinh; Đường sống; tôi sẽ dành chiêm nghiệm vào một dịp khác.

HÌNH NHƯ
Hoàng Kim

Hình như thênh thênh ngày rộng
Hình như dìu dịu nắng trời
Ngày mới không còn thấy vội
Thanh nhàn ngày tháng đưa nôi …

Hạnh phúc sao mà giản dị
An nhiên vui với mỗi ngày
Ríu rít nghe chim gọi tổ
Nồng nàn hương mít thơm cây …

Hoa Lúa quyện vào Hoa Đất
Giấc mơ hạnh phúc bình an
Ngắm gốc mai vàng trước ngõ
Thời gian lắng đọng người hiền.

(*) Kim Notes lắng ghi chú

Kim Hoàng

Thích ! Rất hay. Đọc “Suy niệm mỗi ngày” Trà sớm với bạn hiền. Đọc lại “Lev Tonstoy năm kiệt tác: đồng cảm, tâm đắc với cụ Lac Nguyen https://hoangkimlong.wordpress.com/category/lev-tonstoy-nam-kiet-tac/

NHỮNG LỜI ĐÁNG SUY NIỆM

“Bạn đừng bao giờ nói xấu ai cả. Những lời nói xấu, không sớm thì muộn, luôn luôn sẽ rớt vào đầu những kẻ thốt ra, và có thể làm hại cho sự thành công của ta trên đường đời. Nói xấu người khác là một cách bất lương để tự khoe mình. Nếu không nói được những lời nhân từ, khuyến khích thì thôi, đừng nói gì cả. Chẳng làm gì đôi khi là khôn, nhưng chẳng nói gì cả thì lúc nào cũng là khôn.

Người đời này quá trọng về trí tuệ và coi thường tư cách! Chúng ta đã luyện trí tuệ cho sắc bén mà để cho cái ý thức tự chủ nhạt đi.

Nhân loại khôn hơn mỗi người chúng ta. Do đó mà một số người nông nổi tự khoe, theo thuyết duy trí, mới có cái vẻ khó thương: Họ chỉ biết một phần nhỏ thôi, không biết được toàn thể. Sự nhũn nhặn làm tôn kiến thức của ta lên, cũng như sự e lệ làm tôn vẻ đẹp của người nữ! ” (Will Durant)

Người che đậy khuyết điểm của mình bằng thủ đoạn tổn thương người khác là kẻ đê tiện.

Conquering yourself is the greatest feat [Plato (Plátōn), the Greek philosopher]

Tự chinh phục mình là chiến công vĩ đại nhất.😍

Video yêu thích

Chỉ tình yêu ở lại
Bài ca thời gian Run away with me.
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

 

 



Sớm mai ngắm mai nở

SỚM MAI NGẮM MAI NỞ
Hoàng Kim

1
Sớm mai ngắm mai nở
Giấc mơ lành yêu thương
Ngày xuân đọc Trạng Trình
Nhớ Viên Minh, Hoa Lúa

Sớm mai ngắm mai nở
Vận khí và vận mệnh
Chín điều lành hạnh phúc
Việt Nam con đường xanh.

Xuân sớm Ngọc Phương Nam
Giấc mơ thiêng cùng Goethe
Xuân ấm áp tình thân
Giấc mơ lành yêu thương

‘Hứng mật đời thành thơ
việc nghìn năm hữu lý
Trạng Trình. Đến Trúc Lâm
năm việc lớn Hoàng Thành
Đất trời xanh Yên Tử”.

2

Sớm mai ngắm mai nở
Ngắm đức Phật và cây
Lang thang vườn cổ tích
Ta vui chơi chốn này

Nhớ xưa dưới tán cây
Cùng Norman trò chuyện
Con đường xanh giấc mơ
Dạo chơi vui cùng Goethe

Noi theo dấu chân Bụt
Hai bảy năm với Người
dưới tán bồ đề xanh,
kẻ tầm đạo thành đạo

Tám mươi tuổi Niết Bàn
Sa la hoa trắng muốt.
Sớm xuân ngắm mai nở
Thanh nhàn vui xuân sang

3

Sớm mai ngắm mai nở
Thung dung cùng tháng năm
Học lời hay của bạn
Trân trọng ngọc riêng mình.

Sớm mai ngắm mai nở
Mặt trời hồng đang lên

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nho-ban.jpg

HOA MAI TRONG TẾT VIỆT
Hoàng Kim

Mai vàng là đặc sản Việt Nam. Mai vàng là hoa xuân Tết Việt. Hoa mai là biểu tượng mùa xuân, may mắn, vui tươi trường thọ. Cành mai ẩn tàng thông điệp mùa xuân. Hoa mai vừa có cốt cách, vừa đẹp thanh nhã, vừa có hương thơm và nở sớm nhất trong các loại hoa xuân. Vì vậy, hoa mai đã được chọn để biểu hiện cho cốt cách thanh cao của người hiền. Hoa mai, hoa đào, hoa lê, hoa mận có nhiều loài với vùng phân bố rộng lớn ở nhiều nước châu Á nhưng chỉ riêng mai vàng là đặc sản của Việt Nam, trong khi mai trắng và hoa đào là phổ biến tại Trung Quốc, Nhật Bản, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc và các nước Trung Á.

Tết cổ truyền Việt Nam hình ảnh biểu trưng là hoa mai, hoa đào, bánh chưng . Hoa mai là một trong bốn loài hoa kiểng quý nhất (mai, lan, cúc, trúc) của Việt Nam đặc trưng cho bốn mùa. Hoa mai gắn liền với văn hóa, đời sống, tâm linh, triết lý sống, nghệ thuật ứng xử, thơ văn, nhạc họa. Hiếm có loài hoa nào được quan tâm sâu sắc như vậy “Đêm qua sân trước một nhành mai” (Mãn Giác 1052-1096) “Lâm râm mưa bụi gội cành mai” (Trần Quang Khải 1241-1294); Ngự sử mai hai hàng chầu chắp/ Trượng phu tùng mấy rặng phò quanh” (Huyền Quang 1254-1334); Quét trúc bước qua lòng suối/ Thưởng mai về đạp bóng trăng” (Nguyễn Trãi 1380-1442); “Cốt cách mai rừng nguyên chẳng tục”( Nguyễn Trung Ngạn 1289-1370); “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” (Nguyễn Du 1765-1820) “Nhờ chúa xuân ưu ái/ Xếp đứng đầu trăm hoa/ Chỉ vì lòng khiêm tốn/ Nên hẵng nở tà tà” (Phan Bội Châu 1867- 1940); “Mộng mai đình” (Trịnh Hoài Đức 1725-1825) ; “Non mai rồi gửi xương mai nhé/ Ước mộng hồn ta hóa đóa mai” (Đào Tấn 1845-1907); “Một đời chỉ biết cúi đầu vái trước hoa mai” (Cao Bá Quát 1809-1855) “Hững hờ mai thoảng gió đưa hương” (Hàn Mặc Tử 1912-1940) “Tìm em tôi tìm/ Mình hạc xương mai”(Trịnh Công Sơn 1939-2001), “Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh. Đường về vó ngựa dẫm mây xanh. Qua đèo chợt gặp mai đầu suối . Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành” “Hai mươi tư tháng sáu Lên ngọn núi này chơi Ngẫng đầu mặt trời đỏ Bên suối một nhành mai (Hồ Chí Minh 1890-1969); … Đó là một số tác gia và tác phẩm tiêu biểu về Hoa Mai.

Hoa Mai Thi Thiệu Ung Trung Quốc đối sánh với Hoa Mai thơ Mãn Giác Việt Nam đã cách đây trên dưới ngàn năm, cùng với Tảo Mai Trần Nhân Tông và Cự ngao đới sơn của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cách đây trên năm trăm năm. Những bài thơ trên là những dự ngôn rất sâu sắc về quy luật của tạo hóa. Tôi xin được trích dẫn mà không lạm bàn ; xem tiếp Hoa Mai trong Tết Việt

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là NLU.jpg

TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây   cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích

Mùa xuân đầu tiên (Văn Cao) -Thanh Thúy
Quê Hương saxophone hay nhất của Trần Mạnh Tuấn
Ban Mai; Chỉ tình yêu ở lại
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter

Hoa Đất của Quê Hương

HOA ĐẤT CỦA QUÊ HƯƠNG
Hoàng Kim

Đất nặng ân tình đất nhớ thương
Ta làm hoa đất của quê hương
Để mai mưa nắng con đi học
Lưu dấu chân trần với nước non.

2
Sớm mai trên đồng rộng
Em cười trời đất nghiêng
Lúa đang thì con gái
Em đang thì làm duyên

3
Mình là hoa của đất
Ươm mầm xanh cho đời.
Gieo yêu thương hi vọng
Gặt hái những niềm vui.

Thấm thoắt bao xuân qua
Cùng nhau từ thuở ấy
Lộc muộn ngày hôm nay
Nhớ buổi đầu gieo cấy.

Hàng trăm ngàn hecta
Bội thu từ giống mới .
Nhìn bà con hân hoan
Đường trần vui quên mỏi.

4
Điền trúc măng ngon
hôm qua chăm mai
sớm nay hái nấm
chiều về thu măng.

Thung dung thanh nhàn
sống giữa thiên nhiên
Đọc bài cho em
vui cùng bạn quý.

5
Người ta hoa đất
An nhàn vô sự là tiên
Thung dung cỏ hoa
Thế giới người hiền

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là hoadat3.jpg
Hoacuadat1
Hoacuadat2
Hoacuadat3

HOA ĐẤT THƯƠNG LỜI HIỀN
Hoàng Kim


1

Ta vui đếm nhịp thời gian
Thung dung nhàn giữa gian nan đời thường.

Mẫu Phương Nam Tao Đàn
Đường Huyền Trân Công Chúa
Nam tiến của người Việt
Hoa Đất thương lời hiền

2

Người ta hoa đất
An nhàn vô sự là tiên
Thung dung cỏ hoa
Thế giới người hiền

Điền trúc măng ngon
Hôm qua chăm mai
Sớm nay hái nấm
Chiều về thu măng.

Thung dung thanh nhàn
Sống giữa thiên nhiên
Đọc bài cho em
Vui cùng bạn quý

Đọc sách dọn vườn
Lánh chốn bon chen
Thảnh thơi cuộc đời
Chơi cùng hoa cỏ.

Xưa lên non Yên Tử
Mang lộc trúc về Nam
Nay đến chốn thung dung
Vui nhởn nhơ hái nấm.

Ơn Thầy Ơn Bạn
Lộc xuân cuộc đời
Thung dung Hoa Lúa
Phúc hậu, an nhiên,

Minh triết, tận tâm
Hoa Người Hoa Đất
Làm ngọc cho đời
Đạo ẩn vô danh.

3

Mình là hoa của đất
Ươm mầm xanh cho đời.
Gieo yêu thương hi vọng
Gặt hái những niềm vui.

Thấm thoắt bao xuân qua
Cùng nhau từ thuở ấy
Lộc muộn ngày hôm nay
Nhớ buổi đầu gieo cấy.

Hàng trăm ngàn hec ta
Bội thu từ giống mới .
Nhìn bà con hân hoan
Đường trần vui quên mỏi.

4

Nhà Trần trong sử Việt
Lời dặn của Thánh Trần
Yên Tử Trần Nhân Tông
Chuyện cổ tích người lớn

Về với vùng văn hóa
Nhớ cụ Thái Kim Đỉnh
Nguyễn Du trăng huyền thoại
Trà sớm thương người hiền

Việt Nam con đường xanh

5

Sớm nào cũng dành nửa tiếng,
Thung dung đếm nhịp thời gian.
Thong thả chỉ thêu nên gấm,
An nhiên việc tốt cứ làm.
Thoáng chốc đường trần nhìn lại,
Thanh nhàn vô sụ là tiên

6

Điểm nhịp thời gian đầy bút mực
Thung dung năm tháng thảnh thơi nhàn
Đất cảm trời thương người mến đức
An nhiên thầy bạn quý bình an.

Ngày mới đầy yêu thương
Chuyện cũ chưa hề cũ
An nhiên nhàn nét bút
Thảnh thơi gieo đôi vần

2017-11-01_YenTu

Ngày Hạnh Phúc đọc lại kinh Dịch và lời khuyên của Trạng Trình: “Căn bản học Dịch là phải biết tùy thời, hướng thiện và lạc quan. Tùy thời thì an nhàn, trái thời thì vất vả. Tùy thời mà vẫn giữ được trung chính.”

HOA ĐẤT
“Giải thưởng cao quý này xin được dành tặng cho cha mẹ và bà con Phú Yên đã ủng hộ và trực tiếp ứng dụng kết quả nghiên cứu” (Nguyễn Thị Trúc Mai).

BÀI PHÁT BIỂU CẢM ƠN
HỘI THI SÁNG TẠO KỸ THUẬT TỈNH PHÚ YÊN LẦN THỨ 8 (2018-2019)

Kính thưa đồng chí Phan Đình Phùng, Tỉnh Ủy viên PCT UBND Tỉnh; Kính thưa các đồng chí lãnh đạo, Kính thưa Ban Tổ chức, Ban Giám khảo Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật tỉnh Phú Yên. Kính thưa quý đại biểu!

Tôi xin thay mặt các tác giả được nhận giải của Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật tỉnh Phú Yên lần thứ 8 (2018-2019), bày tỏ lời biết ơn chân thành tới quê hương Phú Yên – Xứ sở “Hoa vàng trên cỏ xanh”. Giải thưởng cao quý này xin được dành tặng cho cha mẹ và bà con Phú Yên đã ủng hộ và trực tiếp ứng dụng kết quả nghiên cứu. Cảm ơn lãnh đạo UBND tỉnh, lãnh đạo Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Yên, Ban Tổ chức và Ban Giám khảo Hội thi đã tổ chức thành công một cuộc thi hết sức có ý nghĩa, được sự ủng hộ rộng rãi của các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân trong địa bàn tỉnh Phú Yên.

Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật tỉnh Phú Yên thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống, tiếp cận nhanh với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa tỉnh nhà. Các sản phẩm dự thi có tính mới, có tính sáng tạo; khả năng ứng dụng vào thực tế cao, thậm chí có sản phẩm đã được phát triển rộng rãi trong sản xuất, thương mại hóa và góp phần làm giàu cho kinh tế tỉnh Phú Yên, như giải pháp Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao và kỹ thuật thâm canh tại tỉnh Phú Yên”, giải pháp “sản xuất than không khói từ phế phẩm nấm linh chi”, hay giải pháp “quản lý nhà yến 4.0”.

 Chúng tôi cảm thấy rất hạnh phúc, hân hoan và cảm kích công tác tổ chức khoa học, chuyên nghiệp của Ban Tổ chức cuộc thi. Đó là một trong những động lực thôi thúc chúng tôi cống hiến sức lao động sáng tạonhiều hơn nữa để góp phần phát triển Tỉnh nhà nói riêng và cho đất nước nói chung, về mọi mặt trong phạm vi cho phép.

Kính chúc các quý đại biểu mạnh khỏe, hạnh phúc, chúc Hội nghị tổng kết trao giải của chúng ta thành công rực rỡ!

Trân trọng cảm ơn!

KM419 o Phu Yen

“Người ta hoa đất” (tục ngữ Việt)

KM419
KM419_QÐ
KM419_va_3giongsankhac


(**) Giống sắn KM419 được Bộ Nông nghiệp & PTNT công nhận sản xuất thử tại Quyết định số 85/QĐ-BNN-TT ngày 13 tháng 1 năm 2016, hiện đã trồng phổ biến trong sản xuất mỗi năm khoảng 200.000 ha ở Đông Nam Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ.

Giống sắn KM419 có đặc điểm: thời gian sinh trưởng 7-10 tháng, năng suất củ tươi bình quân 36,9 tấn / ha, hàm lượng tinh bột 28,3%, năng suất tinh bột 10,4 tấn /ha, (so với KM94 đạt năng suất củ tươi 29,3 tấn/ ha, hàm lượng tinh bột 28,2 %, năng suất tinh bột 8,2 tấn/ ha). Giống sắn KM419 cây cao vừa phải, thân thẳng, tán gọn, nhặt mắt, lá xanh đậm, ngọn xanh, cọng phớt đỏ, dạng củ đồng đều, thịt củ màu trắng, thích hợp với chế biến và thị trường; nhiễm nhẹ đến trung bình bệnh cháy lá.

Trước giải pháp sắn Phú Yên “Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao và kỹ thuật thâm canh tại tỉnh Phú Yên” đã có những công trình nghiên cứu liên quan sự bảo tồn và phát triển bền vững giống sắn KM419 và kỹ thuật thâm canh đã được công bố:“Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật canh tác nhằm nâng cao năng suất cây sắn tại huyện Đồng Xuân tỉnh Phú Yên” (Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Minh Hiếu, Hoàng Kim 2014); “Khảo nghiệm giống sắn và xác định lượng phân kali, khoảng cách trồng thích hợp cho giống sắn KM419 tại Tây Ninh” (Nguyễn Minh Cường 2014). “Kết quả nghiên cứu tuyển chọn giống sắn tại bốn vùng sinh thái 2011-2013” (Trần Ngọc Ngoạn, Nguyễn Trọng Hiển, Nguyễn Thị Cách, Hoàng Kim 2014), “Xác định giống sắn năng suất cao và lượng phân bón NPK thích hợp cho canh tác sắn tại vùng Đông Nam Bộ” (Đào Trọng Tuấn 2013); Đánh giá và tuyển chọn giống sắn làm nguyên liệu sản xuất tinh bột và nhiên liệu sinh học (Nguyễn Thị Lệ Dung 2011); “Khai thác cây nhiên liệu sinh học chịu hạn sắn, jatropha, lúa miến, để nâng cao sinh kế và thu nhập cho các nông hộ  sản xuất nhỏ ở Việt Nam 2009-2011” (Hoang Kim, Nguyen Van Bo, Rod Lefroy et al. 2011). “Tuyển chọn các dòng sắn lai đơn bội kép nhập nội từ CIAT 2007-2008” (Hoàng Kim, Hoàng Long và ctv. 2009);

HoaDat
Hoa Dat 1

Người ta hoa đất

xem tiếp: Hoa Đất của quê hương
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoa-dat-cua-que-huong/

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nho-mien-dong.jpg

HOA ĐẤT CỦA QUÊ HƯƠNG
Hoàng Kim

Đất nặng ân tình đất nhớ thương
Ta làm hoa đất của quê hương
Để mai mưa nắng con đi học
Lưu dấu chân trần với nước non.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là thang-nam-nho-lai-va-suy-ngam-2.jpg

NHỚ LẠI VÀ SUY NGẪM
Hoàng Kim


Trận thắng hôm qua bạn góp máu hồng
Lớp học hôm nay bạn không trở lại
Trách nhiệm trong mình nhân lên gấp bội
Đồng đội ơi tôi học cả phần anh.

Bài học cuộc sống thấm thía nhất thường là bài học của chính đời mình trãi nghiệm. Tôi xúc động đọc lại ‘Thầy bạn là lộc xuân’ và thật tâm đắc với Hoàng Ngọc Dộ khát vọng, Hoàng Trung Trực đời lính vì cao hơn trang văn là chính cuộc đời của chính mình, của những người anh ruột mình thấm từng giọt chữ. Tháng năm tôi nhớ lại và suy ngẫm về 18 thư mục ghi chép nhỏ (Notes) nay được lưu chung một chỗ để thỉnh thoảng đọc lại: 1) Nước Việt Nam thống nhất; 2) Đêm trắng và bình minh; 3) Tháng Năm tháng của hoa; 4) Những câu chuyện tháng năm 5) Về lại mái trường xưa; 6) Lời thề trên sông Hóa; 7) Nhớ kỷ niệm một thời; 8) Năm tháng ở trời Âu; 9) Vòng qua Tây Bán Cầu; 10) Đi để hiểu quê hương; 11) Bài học tự thắng mình; 12) Suy ngẫm từ núi Xanh; 13) Suy tư sông Dương Tử; 14) Trận Thượng Hải năm 1937; 15) Trận Vũ Hán năm 1938; 16) Đi thuyền trên Trường Giang; 17) Trung Quốc một suy ngẫm; 18) Việt Nam con đường xanh.

NƯỚC VIỆT NAM THỐNG NHẤT

Chiến tranh Việt Nam dài và ác liệt quá, tổn thất mất mát lớn quá. Đó là một trong những sự kiện lớn nhất thế kỷ 20 không riêng Việt Nam mà của toàn nhân loại. 30 tháng 4 là kết thúc cuộc chiến tranh ba mươi năm, là ngày hòa bình, thống nhất đất nước đầu tiên của dân tộc Việt. Chiến tranh Việt Nam (1955–1975) là giai đoạn thứ hai và là giai đoạn khốc liệt nhất của Chiến tranh Đông Dương (1945–1979). Đây là cuộc chiến giữa hai bên, một bên là Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam cùng Hoa Kỳ và một số đồng minh khác như Úc, New Zealand, Đại Hàn, Thái Lan và Philippines tham chiến trực tiếp; một bên là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tại miền Nam Việt Nam, cùng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đều do Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo, được sự viện trợ vũ khí và chuyên gia từ các nước xã hội chủ nghĩa (cộng sản), đặc biệt là của Liên Xô và Trung Quốc. Cuộc chiến này tuy gọi là “Chiến tranh Việt Nam” do chiến sự diễn ra chủ yếu tại Việt Nam, nhưng đã lan ra toàn cõi Đông Dương, lôi cuốn vào vòng chiến cả hai nước lân cận là Lào và Campuchia ở các mức độ khác nhau. Do đó cuộc chiến còn được gọi là Chiến tranh Đông Dương lần thứ 2. Cuộc chiến này chính thức kết thúc với sự kiện 30 tháng 4, 1975, khi Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa đầu hàng quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam, trao chính quyền lại cho Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là thang-nam-nho-lai-va-suy-ngam.jpg

Tôi là người lính của 30 tháng 4. Hai anh em tôi, thuộc hai cánh quân lớn trong năm cánh quân, gặp nhau giữa lòng thành phố sau ngày Việt Nam thống nhất. Chùm ảnh dưới đây là ít ảnh tư liệu gia đình. Tôi viết về cái “tôi” nhỏ bé và đơn giản trong cái “ta” to lớn và phức tạp của đất nước con người Việt Nam để tìm về thế giới của riêng mình như giọt nước trong biển cả có vị mặn, máu và nước mắt.

ĐÊM TRẮNG VÀ BÌNH MINH

Ông José António Amorim Dias, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Cộng hòa Dân chủ Timor-Leste tại UNESCO và Liên minh châu Âu trên chuyến tàu tốc hành từ Brussels đến Paris chung khoang với tôi đã trò chuyện và chia sẽ rất nhiều điều về triết lý nhân sinh và văn hóa giáo dục. Khu vực Bắc Âu có chất lượng cuộc sống tốt, và Vương quốc Bhutan nơi đề xuất ý tưởng Ngày Quốc tế Hạnh phúc là nước có chỉ số hạnh phúc cao dựa trên các yếu tố như sức khỏe, tinh thần, giáo dục, môi trường, chất lượng quản lý và mức sống của người dân là điều rất đáng suy ngẫm.

Môi trường sống yên lành và chất lượng cuộc sống tốt là giấc mơ hạnh phúc của mọi người dân. Đi xa về Bắc Âu đến Phần Lan, Thụy Điển, Hà Lan, Đan Mạch, Na Uy là vùng thiên nhiên, văn hóa thanh bình, mới lạ. Nơi đó không gian văn hóa thật trong lành. Chất lượng cuộc sống tốt hơn nhiều vùng tôi đã qua. Bắc Âu thoát ra khỏi cuộc chiến tranh. Họ không bị cuốn vào chiến tranh như Việt Nam, như châu Á, châu Phi, Tây Âu , Đông Âu và châu Đại dương. Họ bình tĩnh chuyển từ thế đối đầu lách ra khỏi cuộc chiến tranh giành quyền lực và nguồn lợi khốc liệt suốt hàng thế kỷ để trở thành những nước thanh bình và có chất lượng cuộc sống cao nhất thế giới.

Tôi suy ngẫm kỹ điều này trong bài viết “Đêm trắng và bình minh”. Khối các nước Bắc Âu Scandinavia (gồm Hà Lan, Đan Mạch, Na Uy, Thuỵ Điển, Phần Lan, Iceland, Greenland, quần đảo Faroe thuộc Đan Mạch), đêm 30 tháng 4 là Đêm Walpurgis, Bình minh ngày mới. Ngày 30 tháng 4 và ngày Quốc tế Lao động 1 tháng 5 ở Bắc Âu là các ngày lễ hội mừng Xuân đến. Hoa xuân bừng nở khắp nơi, tơ trời hương đất say đắm lòng người. Năm tháng ở trời Âu, tôi viết Bài ca tháng năm, suy ngẫm về bài học cuộc sống.

THÁNG NĂM THÁNG CỦA HOA

Tháng năm là tháng của hoa
Anh đi ở giữa bao la đất trời
Nghe lòng thư thái, thảnh thơi
Ngắm ai từng cặp trao lời yêu thường.

Hoa xuân bừng nở khắp đường
Công viên ngợp giữa một rừng đầy hoa
Bên dòng sông nhỏ quanh co
Bạch dương rọi nắng, lơ thơ liễu mềm.

Anh đi vào chốn bình yên
Bùi ngùi lại nhớ thương em ở nhà.

Bài học Bắc Âu miền đất trong lành, nước Bỉ trái tim EU, và Ghent thành phố khoa học công nghệ là chỉ dấu minh triết cho các vĩ nhân lịch sử biết khéo tập hợp những lực lượng tinh hoa và sức mạnh dân chúng để thoát khỏi hiểm họa và bảo tồn được ngọc quý di sản.

Tôi nhớ đến Bernadotte với vợ là Déssirée trong tác phẩm “Mối tình đầu của Napoléon” của Annemarie Selinko. Vợ chồng hai con người kỳ vĩ này với lý tưởng dân chủ đã xoay chuyển cả châu Âu, giữ cho Thụy Điển tồn tại trong một thế giới đầy biến động và nhiễu nhương. Bắc Âu phồn vinh văn hóa, thân thiện môi trường và có nền giáo dục lành mạnh phát triển như ngày nay là có công và tầm nhìn kiệt xuất của họ. Bernadotte là danh tướng của Napoleon và sau này được vua Thụy Điển đón về làm con để trao lại ngai vàng. Ông xuất thân hạ sĩ quan tầm thường nhưng là người có chí lớn, suốt đời học hỏi và tấm lòng cao thượng rộng rãi. Vợ ông là Déssirée là người yêu đầu tiên của Napoleon nhưng bị Napoleon phản bội khi con người lừng danh này tìm đến Josephine một góa phụ quý phái, giàu có, giao du toàn với những nhân vật quyền thế nhất nước Pháp, và Napoleon đã chọn bà làm chiếc thang bước lên đài danh vọng. Bernadotte với vợ là Déssirée hiểu rất rõ Napoleon. Họ đã khéo chặn được cơn lốc cuộc chiến đẫm máu tranh giành quyền lợi giữa các tập đoàn thống trị và các nước có lợi ích khác nhau. Bernadotte và Déssirée đã đưa đất nước Thụy Điển và Bắc Âu khai sáng vầng hào quang bình minh phương Bắc.

Việt Nam và khối Asean hiện cũng đang đứng trước “con sư tử phương Đông trỗi dậy” và sự vần vũ của thế giới văn minh tuy nhiều cơ hội hơn nhưng cũng tiềm ẩn nhiều hiểm họa khó lường hơn. Điều này dường như rất giống của thời Napoleon người hùng châu Âu khao khát một nước Pháp phục hưng dân tộc và mở rộng phạm vi ảnh hưởng.

Trong vùng địa chính trị đầy điểm nóng tranh chấp biên giới hải đảo, sự tham nhũng, chạy theo văn minh vật chất; nguy cơ tha hóa ô nhiễm môi trường, nguồn nước, bầu khí quyển, vệ sinh thực phẩm, văn hóa giáo dục và chất lượng cuộc sống thì bài học trí tuệ càng cấp thiết và rõ nét.

Đi đâu cũng không bằng Tổ quốc mình. Nói gì, làm gì cũng không bằng dạy, học và làm cho đồng bào đất nước mình. Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương. Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc. Dạy và học thực tiễn trên chính Tổ quốc mình.

Việt Nam quê hương tôi là đất nước của biết bao nhiêu thế hệ xả thân vì nước để quyết giành cho được độc lập, thống nhất, tự do và toàn vẹn lãnh thổ. “Nếu chỉ để lại lời nói suông cho đời sau sao bằng đem thân đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã” nhưng “sức một người thì có hạn, tài trí thiên hạ là vô cùng”. Làm nhà khoa học xanh hướng đến bát cơm ngon của người dân nghèo, đó là điều tôi tâm đắc nhất!

Nhân loại đã có một thời đi trong đêm trắng ánh sáng của thiên đường, đêm trắng bình minh phương Bắc. Sự chạng vạng tranh tối tranh sáng có lợi cho sự quyền biến nhưng khoảng khắc bình minh là sự kỳ diệu mở đầu cho Ngày mới, Xuân mới.

Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời bắt đầu từ tuổi trẻ. Tôi đã đi qua một vòng trái đất, một vòng cuộc đời, một vòng đêm trắng để bây giờ ngày mới bắt đầu từ Bình minh.

NHỮNG CÂU CHUYÊN THÁNG NĂM

Bác Võ Nguyên Giáp được nhiều người Việt Nam kính trọng vì Bác Giáp đặt việc công lên trên hết “dĩ công vi thượng”. ‘Bác Văn ơi thành kính tiễn Người’ Gia đình tôi hòa trong dòng người đông đảo của toàn quốc đã đến Dinh Thống Nhất tiễn Bác. Hôm đó là lần duy nhất trong đời, tôi đã đeo đủ huân huy chương

Võ Nguyên Giáp tổng tập hồi ký là tác phẩm lớn nhất của nhà thiên tài quân sự Việt, soi sáng rất nhiều góc khuất trong lý luận và thực tiễn của thời đại Hồ Chí Minh. Muốn thấu hiểu chiến tranh Đông Dương và chiến tranh Việt Nam, thấu hiểu 30 tháng 4, tháng năm nhớ lại và suy ngẫm, chúng ta cần đọc lại rất kỹ “Võ Nguyên Giáp, tổng tập hồi ký”.

Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911, mất ngày 4 tháng 10 năm 2013. Ông là Đại tướng đầu tiên, Tổng tư lệnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam, là một trong những người góp công thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được Chính phủ Việt Nam tôn vinh là “người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, chỉ huy chính trong các chiến dịch và chiến thắng chính trong Chiến tranh Đông Dương (1946–1954) đánh bại Thực dân Pháp, Chiến tranh Việt Nam (1960–1975) chống Mỹ, thống nhất đất nước và Chiến tranh biên giới Việt-Trung (1979) chống quân Trung Quốc tấn công biên giới phía Bắc. Tướng Giáp xuất thân là một giáo viên dạy sử, ông trở thành nhà lãnh đạo quân sự, vị tướng kiệt xuất của Việt Nam và thế giới. Ông được nhân dân ngưỡng mộ và được nhiều tờ báo ca ngợi là anh hùng của nhân dân Việt Nam.

Lời thề của Tổng thống Mỹ George Washington cũng là điều chúng ta cần rất suy ngẫm. Ông nói “Cái tên người Mỹ phải xóa bỏ bất cứ những liên hệ ràng buộc nào mang tính cách địa phương”. Tổng thống Washington khi mất được tán tụng như là “người đầu tiên trong chiến tranh, người đầu tiên trong hòa bình, và người đầu tiên trong lòng dân tộc của ông”. Washington đã trở thành biểu tượng dân tộc và quốc tế, đặc biệt tại Pháp và châu Mỹ Latin. Các học giả lịch sử luôn xếp ông là một trong số những vị tổng thống vĩ đại nhất.”. Ngày 30 tháng 4 năm 1789 là ngày Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ George Washington đọc lời tuyên thệ nhậm chức Tổng thống dân cử đầu tiên, trên ban công Tòa nhà Liên bang trên Phố Wall tại thành phố New York. Tổng thống Washington có một viễn tưởng về một quốc gia hùng mạnh và vĩ đại, xây dựng trên những nền tảng của nền cộng hòa, sử dụng sức mạnh của liên bang. Ông tìm cách sử dụng chính phủ cộng hòa để cải thiện hạ tầng cơ sở, mở rộng lãnh thổ phía tây, lập ra trường đại học quốc gia, khuyến khích thương mại, tìm nơi xây dựng thành phố thủ đô (Washington, D.C.), giảm thiểu những sự căng thẳng giữa các vùng và vinh danh tinh thần chủ nghĩa quốc gia.

George Washington hiện nay được biết như vị cha già của nước Mỹ. Ông sinh ngày 22 tháng 2 năm 1732, mất ngày 14 tháng 12 năm 1799. Ông là một nhà lãnh đạo chính trị và quân sự có ảnh hưởng lớn đối với quốc gia non trẻ Hoa Kỳ từ năm 1775 đến năm 1799. Ông đã lãnh đạo người Mỹ chiến thắng Vương quốc Anh trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ với tư cách là tổng tư lệnh Lục quân Lục địa năm 1775–1783, và ông cũng đã trông coi việc viết ra Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787. Quốc hội nhất trí chọn lựa ông làm tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ (1789–1797). Phong cách lãnh đạo của ông đã có ảnh hưởng đến thể thức và lễ nghi cho chính quyền mà được sử dụng từ đó cho đến nay, thí dụ như dùng một hệ thống nội các và buổi đọc diễn văn nhậm chức. Với tư cách là tổng thống, ông đã xây dựng một chính quyền quốc gia mạnh mẽ và giàu tài chính mà đã tránh khỏi chiến tranh, dập tắt nổi loạn và chiếm được sự đồng thuận của hầu hết người Mỹ

Tháng năm nhớ lại và suy ngẫm là mốcson để chúng ta tìm về tác phẩm “Giu-cốp, nhớ lại và suy nghĩ”. Giu cốp là danh tướng lỗi lạc huyền thoại của quân đội Liên Xô, người đã kết thúc oanh liệt trận Beclin, trận thắng quyết định trong chiến tranh thế giới thứ hai; Hitler và Eva tự sát; Liên Xô cắm quốc kỳ trên nóc Tòa nhà quốc hội Đức ngày 30. 4. 1945. Đó là trận đọ sức sinh tử, mà nếu không có Giu cốp lịch sử có thể đổi khác.

“Nhớ lại và suy nghĩ” là tác phẩm nổi tiếng của Giu cốp đã làm sáng tỏ nhiều góc khuất. Lịch sử Thế giới có lẽ đã thay đổi, đặc biệt là trận Beclin, trận thắng sinh tử cuối cùng, quan hệ Xô Mỹ, quan hệ Liên Xô và Nam Tư, nhiều vấn đề hệ trọng quốc gia của Liên Xô. Những ý kiến của Giu cốp tỏa sáng khi được đáp ứng đầy đủ và sự tổn thất là tai họa thật ghê gớm khi không được trọng thị. Chúng ta muốn hiểu chiến tranh thế giới thứ Hai và chiến tranh lạnh thì không thể không nghiền ngẫm kỹ con người và tác phẩm Giu cốp. Bộ sách quý “Đọc lại và suy ngẫm” là chìa khóa vàng để hiểu nhiều điều.

“Trước những thắng lợi nhanh chóng trên hướng Berlin và dựa trên các báo cáo lạc quan của đại tướng V.I.Chuikov – tư lệnh tập đoàn quân cận vệ 8, Stalin lệnh cho Tổng tham mưu trưởng, đại tướng A. I. Antonov soạn thảo một kế hoạch đánh chiếm Berlin ngay trong thời gian cuối tháng 2, đầu tháng 3 năm 1945. Tuy nhiên, G. K. Zhukov cho rằng mọi việc không đơn giản như Tổng tư lệnh tối cao nghĩ. Từ kinh nghiệm Chiến dịch phòng thủ phản công tại khu vực Moskva năm 1941, G. K. Zhukov cho rằng quân Đức sẽ không chịu mất Berlin một cách dễ dàng và sẽ tổ chức phản công vào hai bên sườn của ba phương diện quân Liên Xô lúc này đã làm thành một đội hình kéo dài như một mũi nhọn trên hướng Berlin. Ông hiểu rõ: đánh thẳng vào Berlin không khó, nhưng quân Đức có thể cắt đứt và hợp vây lực lượng Hồng quân tiến quá nhanh về phía trước, khiến cho Hổng quân tổn thất nặng. Thêm vào đó, Hồng quân chưa có kinh nghiệm đánh chiếm một thành phố rộng lớn và có sự phòng thủ kiên cố như Berlin. Chính vì vậy, ông yêu cầu quân đội phải củng cố thật chặt trận địa trên bờ tây sông Oder. Đồng thời Zhukov cũng tiến hành trinh sát một cách kỹ lưỡng: ông ra lệnh cho không quân chụp 6 kiểu ảnh về thành phố Berlin và các phòng tuyến của quân Đức xung quanh đấy, rồi dựa vào đó cùng với những tài liệu bắt được và lời khai của tù binh Zhukov cho biên soạn một bản báo cáo tổng hợp được thuyết minh rõ ràng đính kèm với những tấm bản đồ chi tiết, phát hành xuống các cấp chỉ huy từ tư lệnh đến chỉ huy đại đội. Và thực tế đã diễn ra đúng như G. K. Zhukov dự đoán. Trong khi phòng ngự tích cực trên tuyến sông Oder – Neisse, từ tháng 2 năm 1945, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Đức đã điều động tập đoàn quân xe tăng 6 SS và tập đoàn quân 5 từ mặt trận phía Tây về khu vực Budapest, điều động các tập đoàn quân xe tăng 3 và tập đoàn quân 11 đến khu vực Đông Pomerania để tổ chức phản công. Nắm được chính xác tình hình, G. K. Zhukov đề nghị I. V. Stalin cho hoãn ngay chiến dịch Berlin, điều Phương diện quân Belorussia 2 của Nguyên soái K. K. Rokossovssky quay lên hướng Tây Bắc mở Chiến dịch Đông Pomerania chặn trước cuộc phản công của quân Đức. Ngày 20 tháng 2, Phương diện quân Belorussia 2 sử dụng các tập đoàn quân xe tăng cận vệ 1 và 2 đột kích vào Gonnof – Stagag – Colberg, chia cắt và bao vây cụm quân Đông Pomerania khỏi chủ lực của Cụm tập đoàn quân Vistula (Đức). Ngày 4 tháng 3, 14 sư đoàn của cụm quân này bị đánh tan. Tại hướng Nam, G. K. Zhukov cũng yêu cầu Nguyên soái K. E. Voroshilov chỉ đạo các phương diện quân Ukraina 2 và 3 thiết lập trận địa phòng thủ vững chắc tại khu vực Budapest – Velense – Balaton, mở chiến dịch phòng ngự Balaton, đánh bại cuộc phản công của 31 sư đoàn Đức, trong đó có 11 sư đoàn xe tăng được triển khai ngày 6 tháng 3. Ngày 15 tháng 3, cuộc phản công của quân Đức tại khu vực Balaton bị chặn đứng, hai phương diện quân Ukraina 2 và 3 chuyển sang tấn công thẳng qua Budapest đến Viên.[102] Ở giữa mặt trận, Phương diện quân Ukraina 1 tiến hành chiến dịch Hạ Silesia quét sạch quân Đức khỏi khu vực Glogau, thủ tiêu mối đe dọa bên sườn trái của phương diện quân và vững tiến ra tuyến Neisse. Một số chỉ huy quân sự Liên Xô quá hăng hái đã coi sự chậm trễ công phá Berlin là một khuyết điểm của ông. Tuy nhiên, sự thật đã chứng minh G. K. Zhukov đúng. Với cuộc phản kích của quân Đức từ hai bên sườn (từ khu vực Đông Pomerania xuống phía Đông Nam, từ khu vực Budapest vòng lên phía Đông Bắc, phối hợp với Cụm tập đoàn quân A từ Silesia vòng lên phía Tây Bắc), các Phương diện quân Liên Xô có thể sẽ phải chịu những thiệt hại nặng nề như quân Đức trước cửa ngõ Moskva cách đó gần 4 năm trước hoặc như Hồng quân Nga Xô Viết trước cửa ngõ Warsawa năm 1920.

Cuộc tổng công kích sau cùng vào Berlin bắt đầu sau hai ngày sử dụng các trận đánh trinh sát để buộc quân Đức phải điều động lực lượng bố trí ở hướng chủ yếu đi hướng khác, 5 giờ sáng ngày 16 tháng 4, G. K. Zhukov phát lệnh mở màn Chiến dịch Berlin, chiến dịch quân sự cuối cùng trong cuộc đời binh nghiệp của ông. Sau gần 1 giờ pháo binh, tên lửa Katyusha bắn chuẩn bị, hơn 140 ngọn đèn pha phòng không công suất lớn rọi thẳng vào phòng tuyến của quân Đức đã làm lóa mắt toàn bộ các đài quan sát, các đối kính pháo, kính tiềm vọng… Xe tăng và bộ binh Liên Xô trong ngày đầu đã vượt qua hai tuyến phòng thủ vòng ngoài. Khi tiến vào nội đô Berlin, Zhukov nhận thấy đường sá trong thành phố quá chật hẹp đối với các tập đoàn quân xe tăng từng phát huy uy lực mạnh mẽ trên thảo nguyên trống trải. Vì vậy ông điều các lực lượng xe tăng xuống cùng thành lập các tổ hiệp đồng tác chiến cùng với bộ binh, pháo binh và các binh chủng khác – với quân số mỗi tổ thường chỉ gồm một trung đội. Các tổ hiệp đồng đó đã chiến đấu rất linh hoạt giữa các đường phố chằng chịt như mê cung của thủ đô nước Đức. Sau một tuần tấn công, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 1 của Phương diện quân Ukraina 1 và Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 2 của Phương diện quân Belorussia 1 đã gặp nhau tại khu vực Ketshino – Potsdam – Brandenburg, phía tây Berlin. Các đơn vị khác của ba phương diện quân Liên Xô đã gặp gỡ với quân Đồng Minh Anh, Hoa Kỳ trên bờ sống Elbe. 8 vạn Hồng quân đã hy sinh trong trận Berlin đẫm máu, nhưng vào ngày 30 tháng 4, lá cờ chiến thắng được cắm lên nóc nhà Quốc hội Đức. Hitler và Goebbel tự sát. 0 giờ ngày 9 tháng 5, tạị Karlhorst, đại diện nước Đức và quân đội Đức Quốc xã ký biên bản đầu hàng vô điều kiện trước đại diện 4 nước đồng minh Anh, Hoa Kỳ, Liên Xô và Pháp. Thay mặt nhà nước, quân đội và nhân dân Liên Xô, nguyên soái G. K. Zhukov ký biên bản này. Do có công đánh chiếm Berlin, Zhukov được phong tặng Huân chương Sao vàng – Anh hùng Liên Xô lần thứ ba.

Giu cốp xếp đầu bảng về số lượng các trận thắng tầm cỡ toàn cầu, được nhiều người công nhận về tài năng chỉ đạo chiến dịch và chiến lược. Những chiến tích của ông đã trở thành những đóng góp rất to lớn vào kho tàng di sản kiến thức quân sự nhân loại. Nó không những có ảnh hưởng lớn về lý luận quân sự của Liên Xô mà cũng có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của lý luận quân sự thế giới. Nguyên soái A. M. Vasilevsky nhận định G. K. Zhukov là một trong những nhà cầm quân lỗi lạc của nền quân sự Xô Viết. Trong cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại của Liên bang Xô viết, ông đã giữ các chức vụ Tư lệnh Phương diện quân Dự bị, Tư lệnh Phương diện quân Tây, Tư lệnh Phương diện quân Beloussia 1, Tổng tham mưu trưởng quân đội Liên Xô, Thứ trưởng Bộ dân ủy Quốc phòng kiêm Phó Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô, Ủy viên Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Hầu hết các nhà lãnh đạo quân sự nổi tiếng thế giới cùng thời với ông như Thống chế Anh Sir Bernard Law Montgomery, Thống tướng Hoa Kỳ Dwight David Eisenhower, Thống chế Pháp Jean de Lattre de Tassigny đều công nhận tên tuổi của ông đã gắn liền với hầu hết các chiến thắng lớn trong cuộc chiến như Trận Moskva (1941), Trận Stalingrad, Trận Kursk, Chiến dịch Bagrachion, Chiến dịch Visla-Oder và Chiến dịch Berlin. Trong giai đoạn sau chiến tranh, ông giữ các chức vụ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô tại nước Đức, tư lệnh các quân khu Odessa và Ural. Sau khi lãnh tụ tối cao I. V. Stalin qua đời, ông được gọi về Moskva và được bổ nhiệm chức vụ Thứ trưởng thứ nhất Bộ Quốc phòng Liên Xô. Trong thời gian từ năm 1955 đến năm 1957, ông giữ chức vụ Ủy viên trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô. Năm 1957, trong thời gian đang đi thăm Nam Tư, ông bị đưa ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Năm 1958, ông bị miễn nhiệm tất cả các chức vụ trong quân đội”.

*.

Tướng Giáp của chiến tranh Việt Nam giống và khác gì so tướng Giucốp? Thượng tướng Trần Văn Trà đã viết về đại tướng Võ Nguyên Giáp thật minh triết và thật ám ảnh: “phải thật công khai, thật công phu, thật công bằng và thật công tâm khi nghiên cứu về Võ Nguyên Giáp”.“Suốt hai cuộc kháng chiến, tôi chưa hề thầy Bí thư Quân ủy Trung ương kiêm Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp mắc một sai lầm nào về chiến lược và chiến thuật quân sự; tôi chỉ thấy Anh Văn đi những nước cờ bậc thầy để vây hãm và tiến công quân địch”. Đó thật sự là một tổng kết rất sâu sắc của một danh tướng Việt Nam đối với TổngTư lệnh Võ Nguyên Giáp. Trần Văn Trà bóng hạc là danh tướng tài năng gắn bó lâu dài nhất, bền bỉ nhất và xuất sắc nhất trong các vị tướng chiến trường miền Nam, mà tôi ngưỡng mộ.. Tôi tâm đắc với nhận định này. Bác Giáp viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh “Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn sống mãi”. Võ Nguyên Giáp ẩn số Chính Trung đã trãi nghiệm nhiều biến cố lịch sử nên chắc chắn hiểu rất rõ bài học Bắc Âu khi thực hành xuất sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chúng ta muốn hòa bình nên chúng ta đã nhân nhượng nhưng chúng ta càng nhân nhượng, họ càng lấn tới vì họ dã tâm muốn cướp nước ta một lần nữa”. Bài học chiến tranh và hòa bình sâu sắc thay!.

Được và Mất là cái giá của sự chiến thắng!

VỀ LẠI MÁI TRƯỜNG XƯA

Đâu phải bây giờ ta mới quý thời gian
Mỗi ngày đi qua
Mỗi tháng đi qua
Mỗi năm đi qua
Thấm thoắt thời gian
Nhìn sự vật đổi thay ta biết rõ

Mái tóc Thầy ta đã bạc đi già nữa
Hàng trăm bạn bè thuở ấy đã đi xa
Ta lại về đây với mái trường xưa
Thân thiết quá nhưng sao hồi hộp thế
Trăm khuôn mặt trông vừa quen vừa lạ
Ánh mắt chào đọng sáng những niềm vui

Ta chỉ là hạt cát nhỏ nhoi
Trong trùng điệp triệu người lên tuyến lửa
Giá độc lập giờ đây thêm hiểu rõ
Thắng giặc rồi càng biết quý thời gian

Đất nước ba mươi năm chiến đấu gian nan
Mỗi tấc đất đều đậm đà nghĩa lớn
Bao xương máu cho tự do toàn vẹn
Bao đồng bào, đồng chí đã hi sinh.

Ta dâng cho Tổ Quốc tuổi thanh xuân
Không tiếc sức cho cuối cùng trận thắng
Xếp bút nghiên để đi cầm khẩu súng
Càng tự hào làm người lính tiên phong

Nay trở về khi giặc đã quét xong
Trách nhiệm trao tay tiếp cầm ngọn bút
Nâng cuốn sách lòng bồi hồi cảm xúc
Ta hiểu những gì ta phải gắng công

Trận thắng hôm qua bạn góp máu hồng
Lớp học hôm nay bạn không trở lại
Trách nhiệm trong mình nhân lên gấp bội
Đồng đội ơi tôi học cả phần anh.

Biết ơn thầy cô giáo dịu hiền
Bằng khích lệ động viên lòng vượt khó
Trăm gian nan buổi ban đầu bở ngỡ
Có bạn thầy càng bền chí vươn lên

Trước mỗi khó khăn có bạn luôn bên
Như đồng đội trong chiến hào chia lửa
Ôi thân thiết những bàn tay tập thể
Ta nhủ lòng cần xứng đáng hơn

Đâu phải bây giờ ta mới quý thời gian
Hiểu mất mát, biết tự hào phải cố
Trận tuyến mới nguyện xứng là chiến sĩ
Thiêng liêng lời thề, vững một niềm tin.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là que-huong.jpg

LỜI THỀ TRÊN SÔNG HÓA

Sông Hóa ơi Bạch Đằng Giang
Ta đến nơi đây chẳng một lần
Lời thề sông núi trời đất hiểu
Lời dặn lại của Đức Thánh Trần

Sông Hóa ơi hời ơi Linh Giang
Quê hương liền dải tụ trời Nam
Minh Lệ, Hưng Long hai bầu sữa
Hoàng Gia trung chính một con đường.

Rào Nan Đá Dựng chốn sông thiêng
Nguồn Son Chợ Mới đẹp ân tình
Minh Lệ đình xưa thương làng cũ
Nguyện làm hoa đất của quê hương

Đất nặng ân tình đất nhớ thương
Ta làm hoa đất của quê hương
Để mai mưa nắng con đi học
Lưu dấu chân trần với nước non

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là 1-dinh-minh-le-va-nha-toi.jpg

NHỚ KỶ NIỆM MỘT THỜI

Giữa ngày vui nhớ miền Đông
Nôn nao lòng lại giục lòng nhớ thương
Chân đi muôn dặm nẻo đường
Phải đâu cứ đất quê hương mới là

Đêm nằm nghe gió thoảng qua
Nồng thơm hương lúa, đậm đà tình quê
Chợt dưng lòng lại gọi về
Vùng quê xa với gió hè miền Đông

Vục đầu uống ngụm nước trong
Nhớ sao Vàm Cỏ ngọt dòng sông xanh
Nhớ từ xóm Giữa xa em
Nhớ lên Bù Đốp, Lộc Ninh, xóm Chùa

Xa em từ bấy đến chừ
Một vầng trăng sáng, xẽ chia đôi miền
Em về Châu Đốc, Long Xuyên
Anh lên Srêpốc với niềm nhớ thương

Nằm đêm lưng chẳng tới giường
Nghe chao cánh võng giữa rừng đêm khuya
Chăm chăm theo nét bản đồ
Cùng anh, cùng bạn tiến vô Sài Gòn

Giữa ngày vui nhớ miền Đông
Nhớ em, nhớ bạn, thuỷ chung vẹn toàn
Phải vì vất vả gian nan
Của bao năm đặm nhớ thương đến rày …

Non sông những tháng năm này
Lọc muôn sắc đỏ cho ngày hội vui
Nhớ em trong dạ bùi ngùi …
Trông trời hoa, nhớ đất trời miền Đông.

NĂM THÁNG DƯỚI TRỜI ÂU

Đi giữa Praha rực rỡ nắng vàng
Gió bớt thổi nên lòng người bớt lạnh
Phố xá nguy nga, nhịp đời hối hả
Gợi lòng ta uẩn khúc những suy tư

Ôi quê hương thân thiết tự bao giờ
Mỗi bước đi xa càng thêm yêu Tổ Quốc
Nhớ quê nhà nửa đêm ta tỉnh thức
Ngóng phương trời vợi vợi nhớ mênh mông

Biết ơn quê nghèo cắt rốn chôn rau
Nơi mẹ cha xưa suốt đời lam lũ
Cha giặc giết luống cày còn bỏ dỡ
Sự nghiệp này trao lại tay con

Biết ơn anh tần tảo sớm hôm
Năm năm học mỗi ngày cơm một bữa
Bắt ốc mò cua bền gan vững chí
Nhắc thù nhà nợ nước cho em.

Sống giữa lòng dân những tháng những ngày
Anh chị góp công, bạn thầy giúp sức
Đêm trăn trở ngọn đèn khuya tỉnh thức
Nhớ một thời thơ ấu gian nan …

Biết ơn em người bạn gái thủy chung
Thương cha mẹ quý rể nghèo vẫn gả
Em gánh vác mọi việc nhà vất vả
Dành cho anh nghiên cứu được nhiều hơn

Biết ơn trại nhà mảnh đất yêu thương
Nơi suốt đời ta nghĩa tình gắn bó
Mảnh đất thiêng chim phượng hoàng làm tổ
Lúa ngô sắn khoai hoa qủa dâng đời

VÒNG QUA TÂY BÁN CÂU

Khi chiều hôm nắng tắt ở chân trời
Tạm ngưng học, tắm rồi em hãy dạo
Bước khoan thai nhận hương trời chiều tối
Nghĩ suy về năm tháng đã đi qua

Em đã xa cái tuổi học trò
Nhưng việc học có bao giớ là muộn?
Nấc thang học càng vươn cao càng muốn
Bao cuộc đời nhờ học để thành công

Nhớ nghe em những năm tháng không quên
Năm năm học mỗi ngày cơm một bữa
Đêm tỉnh thức đói cồn cào trong dạ
Vẫn gan vàng, dạ sắt, lòng son

Nhớ ngày cha ngã xuống vì bom
Tấm áo máu suốt đời ta nhớ mãi
Trong thương đau nhân quyết tâm gấp bội
Phải làm gì để trả mối thù sâu.

Nhớ ngọn đèn chong giữa canh thâu
Những đêm lạnh của trời Hà Bắc
“Thắp đèn lên đi em!” thơ của thời đi học
Xốn xang lòng đã mấy chục năm qua

Ôi vầng trăng, vầng trăng quê ta
Và ngôi sao Mai đã thành đốm lửa
Một giọt máu tim ta treo giữa trời nhắc nhở
Em bên Người năm tháng lớn khôn lên

Nhớ những mùa chiến dịch thức bao đêm
Thèm một bữa cơm rau và giấc ngủ
Sau trận đánh lại miệt mài cuốn vở
Tin có ngày trở lại mái trường yêu

Bao bạn bè của năm tháng không quên
Nay vĩnh viễn nằm sâu trong lòng đất
Về thăm quê cũng người còn, người mất
Bài học trường đời chắp nối bấy năm qua

Nay em như chim trời bay cao, bay xa
Điều kiện học khác xưa, một phòng riêng ngọai quốc
Những tháng học này là niềm mơ ước
Em cần miệt mài tranh thủ thời gian

Dẫu mỗi ngày hơn tám tiếng học căng
Ngôn ngữ mới buổi đầu chưa hiểu kịp
Em hãy học dẫu đêm về có mệt
Mỗi ngày này là vốn quý nghe em!

Chốn phồn hoa bao cám dỗ thấp hèn
Bao thèm muốn khiến người ta lùn xuống
Những dễ dãi khiến lòng người dao động
Em hãy cầm lòng bền chí học chăm.

ĐI ĐỂ HIỂU QUÊ HƯƠNG

Tạm biệt
Tạm biệt Obregon California !
Cánh bay đưa ta về CIMMYT
Bầu trời xanh bát ngát
Lững lờ mây trắng bay
Những ngọn núi cao nhấp nhô
Những dòng sông dài uốn khúc
Hồ lớn Ciudad Obregon
ba tỷ khối nước
Nở xòe như chùm pháo bông
Những cánh đồng mênh mông
Thành trăm hình thù dưới làn mây bạc
Con đường dài đưa ta đi
Suốt dọc từ Nam chí Bắc
Thành sợi chỉ màu chạy mút tầm xa…

Ơi vòm trời xanh bao la
Gọi lòng ta nhớ về Tổ Quốc
Ôi Việt Nam, Việt Nam
Một vùng nhớ trong lòng ta tỉnh thức
Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương.

BÀI HỌC TỰ THẮNG MÌNH

Ngày mỗi ngày phải tự thắng mình
Trận chiến mới, em là chiến sĩ
Ngày mỗi ngày ghi đều nhật ký
Tự thắng mình bài học đầu tiên !

Có điện lung linh suốt đêm
Không quên vầng trăng ngọn lửa
Ngày dẫu miệt mài
Đêm về phải cố
Khắc sâu lời nguyền xưa !

“Không vì danh lợi đua chen
Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân”

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là thang-nam-nho-lai-va-suy-ngam-1.jpg

SUY NGẪM TỪ NÚI XANH

Ngày Quốc tế Lao động năm 2017 tôi dạo chơi Thiên An Môn, Cố Cung, Di Hòa Viên, Thiên Đàn, vui đón cháu bé xinh đẹp ngay tại điểm linh ứng ‘số 1 tâm điểm của thủ đô Bắc Kinh’ trên đỉnh núi Xanh (景山, Jǐngshān, Cảnh Sơn, Green Mount), ngọn núi địa linh của đế đô. Núi Xanh là trục chính của Hoàng Thành, chính trục Cố Cung và Thiên An Môn. Suy ngẫm từ núi Xanh Bắc Kinh, tôi tâm đắc lời nhắn gửi sâu xa của bậc hiền minh lỗi lạc Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Muốn bình sao chẳng lấy nhân. Muốn an sao lại bắt dân ghê mình”. ”Biển Đông vạn dặm giang tay giữ. Đất Việt muôn năm vững thái bình. (Vạn lý Đông minh quy bá ác/ Ức niên Nam cực điện long bình). Suy ngẫm về cuộc cách mạng Xanh và đỉnh cao Hòa Bình.

Tôi nghe rằng Nguyễn An (阮安) người Việt, có tên Hoa là A Lưu ( 阿留) là một người lao động tài giỏi, là vị kiến trúc sư tổng công trình sư của Cố Cung và Tử Cấm Thành cùng với Sái Tín thời vua Minh Thành Tổ. Nguyễn An cũng là người tham gia trị thủy hệ thống sông Hoàng Hà, lưu lại tiếng tốt muôn đời trong lịch sử văn hóa Việt Trung.

Nguyễn An sinh năm 1381 tại trấn Sơn Nam, trong một làng nghề nào đó, nay thuộc địa phận Hà Đông, thủ đô Hà Nội, Việt Nam, mất năm 1453 ở Bắc Kinh, Trung Quốc, theo Zhu, Jianfei (2004), Chinese Spatial Strategies: Imperial Beijing, 1420-1911. Routledge, trang 28, ISBN -13: 978-0415318839; ISBN-10: 0415318831. Nguyễn An khi gần 16 tuổi, khoảng năm 1397, thời vua Trần Thuận Tông nhà Trần, đã tham gia các hiệp thợ xây dựng cung điện ở kinh thành Thăng Long nhà Trần. Năm 1407, nhà Minh sang đánh bại nhà Hồ, chiếm được Việt Nam. Tướng nhà Minh là Trương Phụ, ngoài việc bắt cha con Hồ Quý Ly (Hồ Nguyên Trừng sau làm quan nhà Minh) cùng toàn bộ triều đình nhà Hồ đem về Trung Quốc, còn tiến hành lùng bắt các thanh thiếu niên trai trẻ tuấn tú của Việt Nam mang sang Trung Hoa, chọn để hoạn làm Thái giám phục vụ trong cung vua nhà Minh. Trong số đó có nhiều người sau nổi tiếng tài giỏi như Nguyễn An, Vương Cấn, Phạm Hoằng, … Vua Minh Thành Tổ Chu Đệ (1403 – 1424), cho dời đô từ Nam Kinh lên Yên Kinh (của nhà Nguyên trước đó) và đổi tên là Bắc Kinh. Vua Minh cho xây dựng Cố Cung (là Tử Cấm Thành xây từ năm 1406 đến năm 1420 thì hoàn thành). Nguyễn An rất giỏi tính toán, có biệt tài về kiến trúc xây dựng, lại liêm khiết hiếm thấy, lại là thái giám phục vụ ở cung vua nên Minh Thành Tổ tin dùng giao làm Tổng Công Trình Sư.

Yên Đệ Minh Thành Tổ và một vị vua gian hùng thời hoạn, xô lệch lịch sử Trung Quốc cho đến nay vẫn được chính sử Trung Quốc ngợi ca. Ông đã xóa bỏ hồ sơ thời cai trị của Minh Huệ Đế nhập vào thời kỳ Minh Thái Tổ, bắt đầu triều đại của mình bằng cách hợp pháp hóa việc lên ngôi xóa bỏ lịch sử toàn bộ thời gian trị vì của người cháu và thiêu hủy hay sửa đổi tất cả các tài liệu có liên quan đến tuổi thơ và cuộc nổi loạn của mình. Điều này dẫn đến việc thanh trừng vô số quan viên ở Nam Kinh và ban thẩm quyền đặc biệt ngoài vòng pháp luật cho chính sách bí mật của hoạn quan và nội chính. Ông nối tiếp chính sách tập trung của Chu Nguyên Chương, tăng cường thể chế của đế quốc và thành lập thủ đô mới tại Bắc Kinh. Ông cho cải cách khoa cử và theo đuổi chính sách đối ngoại bành trướng với nhiều chiến dịch quy mô lớn chống lại quân Mông Cổ, đồng thời tăng cường sự ảnh hưởng và cường thịnh của nhà Minh đối với khu vực Đông Á và Đông Nam Á. Vĩnh Lạc Đế thành lập một hạm đội hùng hậu do Trịnh Hòa điều khiển. Trịnh Hòa (1371–1433) đã dẫn hạm đội xuống Bắc nước Úc, qua bán đảo Ả Rập và có tài liệu cho rằng Trịnh Hòa qua tận châu Mỹ. Hoàng đế còn cho sửa và mở lại Đại Vận Hà và vào khoảng năm 1407 đến năm 1420, trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng Tử Cấm Thành. Dưới thời ông, các học giả đương thời đã hoàn thành công trình đồ sộ Vĩnh Lạc đại điển.

Công tội thiên thu của Yên Đệ Minh Thành Tổ như thế nào đối với Việt Nam? Nguyễn Trãi đã cho rằng Yên Đệ chính là người chủ trương đốt hết sách vở, phá hủy bia đá có khắc văn tự của người Việt, bắt những thợ thủ công có tay nghề cao người Việt thiến đi rồi đưa về Trung Quốc để phục dịch, sự đàn áp đối với người Việt là thảm khốc, sưu cao thuế nặng. Nguyễn Trãi đã khẳng định những tội ác mất nhân tính này trong “Bài cáo bình Ngô”:

Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc,
ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,
khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả,
chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen,
nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng,
máu mỡ bấy no nê chưa chán ;
Nay xây nhà, mai đắp đất,
chân tay nào phục dịch cho vừa.
Nặng nề những núi phu phen,
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được?

Nguyễn Du sau này trong kiệt tác Kỳ Lân Mộ, đối diện với vua Càn Long đã dâng sách quý mắng thẳng sự gian hùng của Minh Thành Tổ và chỉ rõ điều tất yếu lịch sử của sự chuyển dịch nhà Minh sang nhà Thanh. Thái độ can đảm và chính nghĩa ngời sáng của người anh hùng đặt vận nước lên cao hơn sự toan tính phục hận của họ Nguyễn Tiên Điền trước thế lớn mà họ Nguyễn Gia Miêu rõ ràng đã lợi thế, làm cho vua Càn Long hợp ý, nể trọng. Nguyễn Du với phương lược ngoại giao xuất chúng này và “Bắc Hành tạp lục” là kỳ thư “Nguyễn Du kiệt tác thơ chữ Hán” sử thi muôn đời, sánh ngang bằng một đạo quân, đã dập tắt sự dòm ngó, cưỡng đoạt đất phương Nam:

KỲ LÂN MỘ
Nguyễn Du

Phương Chi Yên Đệ người thế nào?
Cướp ngôi của cháu, đồ bất nhân.
Mỗi khi nổi giận giết mười họ,
Cổn to vạc lớn hại trung thần
Năm năm giết người hơn trăm vạn
Xương chất thành núi máu chảy tràn
Nếu bảo thánh nhân Kỳ Lân xuất
Buổi ấy sao không đi về Nam?

Nguyên văn chữ Hán

Hà huống Yên Đệ hà như nhân
Đoạt điệt tự lập phi nhân quân
Bạo nộ nhân sinh di thập tộc
Đại bỗng cự hoạch phanh trung thần
Ngũ niên sở sát bách dư vạn
Bạch cốt thành sơn địa huyết ân
Nhược đạo năng vị Thánh nhân xuất
Đương thế hà bất Nam du tường?

(xem thêm: Nguyễn Du trăng huyền thoại, tản văn của Hoàng Kim)

Tôi ngắm nhìn người nghệ sĩ nhân gian, vui cùng ông và đùa cùng trẻ thơ. Tôi dạo chơi đỉnh núi Xanh, nhìn chốn lâu đài thay chỗ gốc cây dấu xưa Sùng Trinh tuẫn tiết khi nhà Minh diệt vong, ngắm những nơi lưu dấu các di sản của những triều đại hiển hách nhất Trung Hoa, lắng nghe đất trời và các cổ vật kể chuyện.

Ngày trước đó, tôi vinh hạnh được làm việc với giáo sư Zhikang Li, trưởng dự án Siêu Lúa Xanh (Green Super Rice) chương trình nghiên cứu lúa nổi tiếng của CAAS & IRRI và có cơ hội tiếp cận với các nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc.

Chú khỉ Tôn Hành Giả là một biểu tượng điển hình cho trí tuệ và ước muốn tự do. Con đường Tây Du Ký và bài ký Ngô Thừa Ân là một góc nhìn về con đường tìm kiếm hạnh phúc và sự tìm lại chính mình.

Trong gian phòng đối diện với ban mai, Lời giáo sư Norman Borlaug văng vẳng bên tai tôi: “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó.” Sự hiền minh lỗi lạc của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, và di sản vô giá của giáo sư Norman Borlaug cùng với các bậc Thầy về cách mạng xanh mãi mãi là niềm tin và nổ lực của chúng ta !



Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là di-thuyen-tren-truong-giang.jpg

ĐI THUYỀN TRÊN TRƯỜNG GIANG
Hoàng Kim

Đi thuyền trên Trường Giang
Thăm thẳm dòng sông phẳng
Chốn xưa trận Xích Bích
Sử thi Tô Đông Pha.

Người Việt xưa nơi này (*)
Bách Việt vùng Mân Việt
Trần Tự Minh nhà Trần
Nam tiến từ thời trước

Đại chiến hồ Bà Dương
Nhà Minh thành đế nghiệp
Ninh Minh giang chu hành*
Hoàng Hạc Lâu trời biếc

Sông quanh co thăm thẳm
Hiểm sâu như lòng người
Đi thuyền trên Trường Giang
Thương hoài thơ Tô Nguyễn

Nhớ giấc mơ Trung Hoa
Bảy ba vượt sông rộng **
Nguyễn Du hồn nơi nao
Trường Giang cuồn cuộn chảy

(*) Trường Giang (sông Dương Tử) ranh giới tự nhiên của tộc Bách Việt

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là hoanghac-lau-2.jpg

(**) Sông Trường Giang nơi khoảng giữa đập Tam Hiệp và Vũ Hán có 5 sự kiện lớn của lịch sử: Sự kiện Trận Xích Bích đặc biệt nổi tiếng thời Tam Quốc; sự kiện “Đại chiến hồ Bà Dương” trận thủy chiến ác liệt bậc nhất cuối thời nhà Nguyên đầu thời Minh, có sự kiện “Ninh Minh giang chu hành” của Nguyễn Du là kiệt tác văn chương và sách trắng ngoại giao đầu triều Nguyễn Ánh đánh giá thái độ của nhà Thanh sự sâu hiểm sông Trường Giang như lòng người qua ‘bang giao tập ngoại giao thời Tây Sơn” với các sự kiện bí mật kho báu trên đỉnh Tuyết Sơn và cái chết bí ẩn của Nguyễn Huệ; có sự kiện Chủ tịch Mao Trạch Đông bơi qua sông Trường Giang ngày 6/7/1966; có sự kiện đập Tam Hiệp bắt đầu tích nước vào ngày 1 tháng 6 năm 2003 đúng vào đêm trăng tròn 15 tháng 4 âm lịch hàng năm, cũng là ngày Tam Hiệp (đản sanh, giác ngộ, giải thoát),

“Đại chiến hồ Bà Dương” là sự kiện lớn nhất thay đổi vận mệnh Trung Quốc cận đại xẩy ra ngày 3 tháng 10 năm 1363. Trần Hữu Lượng năm Chí Chính thứ 20 (1360) là Hán Vương giành trọn nửa nước, đã dẫn đội thủy quân mạnh từ Thái Thạch theo Trường Giang xuôi xuống phía đông, tiến công Chu Nguyên Chương và sau đó tử trận.. Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương nhờ thắng này mà thồng nhất Trung Quốc và khai sáng nhà Minh Hạc vàng nghìn năm dấu tích cũ (*) Theo các bộ sử Việt như Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử tiêu án của Ngô Thời Sĩ, Đại nam thực lục, Đại Việt sử ký bản kỷ cùng gia phả nhà Trần để lại thì các bộ sử Việt đều khẳng định Trần Hữu Lượng là con thứ của Trần Ích Tắc. Sử Việt xác định Trần Ích Tắc có người con thứ là Trần Hữu Lượng ở Hồ Bắc. Trần Ích Tắc khi qua đời có con cả là Trần Hữu Thành thay cha dạy học cho Trần Hữu Lượng. Tổ tiên nhà Trần  là cụ tổ Trần Tự Minh thuộc nhóm tộc người Bách Việt ở vùng Mân Việt (nay thuộc Phúc Kiến – Trung Quốc), theo dòng người Bách Việt xuống phía Nam giúp vua An Dương Vương. Trần Tự Minh cùng Cao Lỗ từng là những vị tướng tài ba trụ cột, là hai cánh tay đắc lực giúp An Dương Vương nhiều lần đánh bại quân Triệu Đà.  Sau này Trần Hữu Lượng học theo cuốn sách Đông A võ phái của cụ tổ là Trần Tự An, noi gương tổ phụ khởi nghĩa chống Chu Nguyên Chương. Đại Việt Sử ký Toàn thư có viết rằng Trần Hữu Lượng từng sai sứ sang hòa thân với Trần Dụ Tông, liên minh với quân Đại Việt chống Nguyên:  “Giáp Ngọ, [Thiệu Phong] năm thứ 14 [1354], (Nguyên Chí Chính năm thứ 14). Mùa xuân, tháng 2, quan trấn giữ biên giới phía bắc cho chạy trạm tâu việc Trần Hữu Lượng nước Nguyên dấy binh, sai sứ sang xin hòa thân (Hữu Lượng là con Trần Ích Tắc)”. Tuy nhiên vua Trần là Trần Dụ Tông đã từ chối. Nhà Trần Đại Việt từ khi Trần Ích Tắc chạy theo quân Nguyên, đã xem ông ta là kẻ phản bội và không công nhận là dòng tộc nữa, nên đã từ chối “hòa thân”:

Nguyễn Du viết bài “Minh Ninh Giang Chu Hành” tả cảnh hiểm trở của sông Minh Ninh là sông Trường Giang ngày nay

ĐI THUYỀN TRÊN MINH GIANG
Nguyễn Du thơ chữ Hán
Nhất Uyên dịch thơ

Vùng núi Việt Tây nhiều khe núi,
Qua nghìn năm chảy hợp thành sông.
Nước như đổ tự trời cao xuống,
Trên thác nghe gì chăng ?
Rồng thiêng nổi giận sấm đùng đùng
Dưới thác nghe thấy gì ?
Máy nỏ bật nhanh tên lìa dây,
Một dòng vạn dậm không ngừng chảy.
Núi cao giáp bờ như tường thành,
Ở giữa đá lạ chen chúc nổi.
Như rồng, rắn, cọp, beo, ngựa, trâu la liệt trước mặt bày.
Lớn như cái nhà, nhỏ như nắm tay,
Hòn cao như đứng, thấp ngủ say.
Hòn thẳng như chạy, cong vòng xoay,
Nghìn hình vạn vẽ không nói hết,
Giao long ra vào thành vực sâu.
Sóng vỗ phun bọt ngày đêm ầm ầm tiếng,
Nước lụt hạ dâng tuôn trào sôi.
Một ngày ba ngày lòng bồi hồi.
Bồi hồi lo sợ điều trông thấy,
Nguy thay hiểm thay chìm sâu không đáy.
Ai cũng nói đất Trung Hoa bằng phẳng,
Hóa ra đường Trung Hoa lại thế này.
Sâu hiểm quanh co giống lòng người,
Nguy vong, nghiêng đổ đều ý trời.
Tài cao văn chương thường bị ghét,
Thịt người là thứ ma quỷ thích,
Làm sao dẹp yên hết phong ba ?
Trung tín thảy không nhờ cậy được.
Không tin: “Ra cửa đường hiểm nguy“
Hãy  ngắm dòng sông cuồn cuộn chảy.

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
MINH NINH GIANG CHU HÀNH

Việt Tây sơn trung đa giản tuyền,
Thiên niên hợp chú thành nhất xuyên.
Tự cao nhi hạ như bát thiên,
Than thượng hà sở văn ?
Ứng long kích nộ lôi điển điển,
Than hạ hà sở kiến ?
Nổ cơ kịch phát thỉ ly huyền,
Nhất tả vạn lý vô đình yên.
Cao sơn giáp ngan như tường viên,
Trung hữu quái thạch sâm sâm nhiên.
Hữu như long, xà, hổ, báo, ngưu, mã la kỳ tiền.
Đại giả như ốc, tiểu như quyền.
Cao giả như lập, đê như miên,
Trực giả như tẩu,khúc như tuyền.
Thiên hình vạn trạng nan tận ngôn.
Giao ly xuất một thành trùng uyên,
Dũng đào phún mạt đạ tranh hôi huyên.
Hạ lao sơ trướng phí như tiên.
Nhất hành tam nhật tâm huyền huyền.
Tâm huyền huyền đa sở úy.
Nguy hồ đãi tai cốt một vô để.
Cộng đạo Trung Hoa lột thản bình,
Trung Hoa đạo Trung phù như thị !
Oa bàn khuất khúc tự nhân tâm,
Nguy vong khuynh phúc giai thiên ý.
Cao tài mỗi bị văn chương đố.
Nhân nhục tối vi ly mị hỷ,
Phong ba na đắc tận năng bình.
Trung tín đáo đầu vô túc thị.
Bất tín “xuất môn giai úy đồ “
Thị vọng thao thao thử giang thủy.

Chú Thích:
Minh Ninh giang:  sông Minh Giang chảy qua Minh Ninh. Ứng long: Rồng hiện.Trung tín: Đường Giới đời  Tống: Bình sinh thượng trung tín, Kim nhật nhiệm phong ba: Ngày thường giữ trung tín, Hôm nay mặc kệ phong ba….,Nguyễn Du viết : Đường Trung Hoa không bằng phẳng mà quanh co, sâu hiểm như lòng người. Trung tín thảy không nhờ cậy được.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là tro-chuyen-trung-quoc-voi-lao-khoa.jpg

TRUNG QUỐC MỘT SUY NGẪM
Hoàng KimHoang Long


Tuyết rơi trên Vạn Lý
Trường Thành bao đổi thay
Ngưa già thương đồng cỏ
Đại bàng nhớ trời mây.

Ngược gió đi không nản
Rừng thông tuyết phủ dày
Ngọa Long cương đâu nhỉ
Đầy trời hoa tuyết bay.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là ho-khau-song-hoang-ha-di-tuyet-8-12-2020.jpg

Hồ Khẩu trên Hoàng Hà
Đại tuyết thành băng giá
Thế nước và thời trời
Rồng giữa mùa biến hóa.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là Len-Thai-Son-Huong-Phat.jpg

ĐƯỜNG TRẦN THÊNH THÊNH BƯỚC
Đỉnh xanh mờ sương đêm
Hoàng Thành Trúc Lâm sáng
Phước Đức vui kiếm tìm.

*

Lên Thái Sơn hướng Phật
Chiếu đất ở Thái An
Đi thuyền trên Trường Giang
Nguyễn Du trăng huyền thoại

Khổng Tử dạy và học
Đến Thái Sơn nhớ Người
Kho báu đỉnh Tuyết Sơn
Huyền Trang tháp Đại Nhạn

Tô Đông Pha Tây Hồ
Đỗ Phủ thương đọc lại
Hoa Mai thơ Thiệu Ung
Ngày xuân đọc Trạng Trình

Quảng Tây nay và xưa
Lên đỉnh Thiên Môn Sơn
Ngày mới vui xuân hiểu
Kim Dung trong ngày mới

Trung Quốc một suy ngẫm

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là dan-con.jpg

DẶN CON
lời của Bố


Bố giận con rồi bố lại thương
Con chớ thức khuya bố dặn con
Dạy con là việc không hề muộn
Mắt sáng sức bền tỉnh mới khôn

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nho-anh.jpg

NHỚ ANH
thơ Hoàng Kim


Gốc mai vàng trước ngõ
Rằm xuân lại nhớ anh
Cành mai rung rinh quả
Xuân sang lộc biếc cành.

“Anh trồng gốc mai này cho em!” Anh cả của tôi trước khi mất đã trồng tặng cho tôi một gốc mai trước ngõ vào hôm sinh nhật con tôi. Cháu sinh đêm trước Noel còn anh thì mất lúc gần nửa đêm trăng rằm tháng giêng. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/goc-mai-vang-truoc-ngo/

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là chaongaymoi31thang128229.jpg

MẠ ƠI
Hoàng Ngọc Dộ

“Đã chẵn tháng rồi, ôi Mạ ôi!
Tuần trăng tròn khuyết đã hết rồi
Mà con không thấy đâu bóng Mạ
Thấy trăng vắng Mạ dạ bùi ngùi. (1)

Năm mươi ngày chẵn thấm thoắt trôi
Mạ về cỏi hạc để con côi
Vầng trăng tròn trặn vừa hai lượt
Vắng Mạ, lòng con luống ngậm ngùi. (2)

Con đọc sách khuya không nghe tiếng Mạ
Nỗi tâm tư con nghĩ miên man
Lúc Mạ còn, con bận việc riêng con
Không đọc được để Mạ nghe cho thỏa dạ.
Nay con đọc, vắng nghe tiếng Mạ
Nỗi bùi ngùi lòng dạ con đau
Sách mua về đọc Mạ chẵng nghe đâu
Xót ruôt trẻ lòng sầu như cắt.
Mạ ơi Mạ, xin Mạ hãy nghe lời con đọc. (3)

Buồn khi rảo bước đồng quê
Buồn khi chợp mắt Mạ về đâu đâu
Buồn khi vắng Mạ dạ sầu
Buồn khi mưa nắng giải dầu thân Cha
Buồn khi sớm tối vào ra
Ngó không thấy Mạ, xót xa lòng buồn. (4)

Nhớ năm năm cơm ngày một bữa
Thương Cha ngực nát bởi bom thù
Tấm áo rách suốt đời lương thiện
‘Lời Nguyền’ khắc cốt ghi tâm:

Không vì danh lợi đua chen
Công Cha nghĩa Mẹ quyết rèn bản thân. (5)


(*) Hoàng Ngọc Dộ trang thơ khát vọng
KHÁT VỌNG Thơ Hoàng Ngọc Dộ (1, 2, 3, 4, 5)

HOÀNG NGỌC DỘ TRANG THƠ KHÁT VỌNG
Hoàng Ngọc Dộ và Hoàng Kim

anh Hai Hoàng Ngọc Dộ cũng là người Thầy dạy học đầu tiên cho Hoàng Kim: “Dặn con cháu khiêm nhu cần kiệm”; “Cảnh mãi đeo người được đâu em Hết khổ, hết cay, hết vận hèn Nghiệp sáng đèn giời đang chỉ rõ Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen”;”Không vì danh lợi đua chen. Công Cha nghĩa Mẹ quyết rèn bản thân”; “Soi mặt mình trong gương không bằng soi mặt mình trong lòng người”; “Có những di sản tỉnh thức cùng lương tâm, không thể mất và không thể tìm lại được”. Hoàng Ngọc Dộ trang thơ “Khát vọng” (1) https://www.thivien.net/…/Kh%…/topic-jvbfrjspi2Y6S8b3jeqzpA…

ÁNH SAO
Hoàng Ngọc Dộ

Bóng đêm trùm kín cả không trung
Lấp lánh phương Đông sáng một vừng
Mây bủa, mây giăng còn chẳng ngại
Hướng nhìn trần thế bạn văn chương.

LỜI NGUYỀN

Không vì danh lợi đua chen
Thù nhà, nợ nước, quyết rèn bản thân!

Ước hẹn anh em một lời nguyền
Thù nhà đâu sá kể truân chiên
Bao giờ đền được ơn trung hiếu
Suối vàng nhắm mắt mới nằm yên.

CHÙM THƠ VỀ MẠ (MẸ-TIẾNG QUẢNG BÌNH)

(1) CHẴN THÁNG

Đã chẵn tháng rồi, ôi Mạ ôi!
Tuần trăng tròn khuyết đã hết rồi
Mà con không thấy đâu bóng Mạ
Thấy trăng vắng Mạ dạ bùi ngùi.

(2) NĂM MƯƠI NGÀY

Năm mươi ngày chẵn thấm thoắt trôi
Mạ về cỏi hạc để con côi
Vầng trăng tròn trặn vừa hai lượt
Vắng Mạ, lòng con luống ngậm ngùi.

(3) ĐỌC SÁCH

Con đọc sách khuya không nghe tiếng Mạ
Nỗi tâm tư con nghĩ miên man
Lúc Mạ còn, con bận việc riêng con
Không đọc được để Mạ nghe cho thỏa dạ.

Nay con đọc, vắng nghe tiếng Mạ
Nỗi bùi ngùi lòng dạ con đau
Sách mua về đọc Mạ chẵng nghe đâu
Xót ruôt trẻ lòng sầu như cắt.

Mạ ơi Mạ, xin Mạ hãy nghe lời con đọc.

(4) BUỒN

Buồn khi rão bước đồng quê
Buồn khi chợp mắt Mạ về đâu đâu
Buồn khi vắng Mạ dạ sầu
Buồn khi mưa nắng giải dầu thân Cha
Buồn khi sớm tối vào ra
Ngó không thấy Mạ, xót xa lòng buồn.

CHIA TAY BẠN QÚY

Đêm ngày chẳng quản đói no
Thức khuya dậy sớm lo cho hai người
Chăm lo văn sách dùi mài
Thông kim bác cổ, giúp đời cứu dân

Ngày đêm chẵng quản nhọc nhằn
Tối khuyên, khuya dục, dạy răn hai người
Mặc ai quyền quý đua bơi
Nghèo hèn vẫn giữ trọn đời thủy chung

Vận nghèo giúp kẻ anh hùng
Vận cùng giúp kẻ lạnh lùng vô danh
Mặc ai biết đến ta đành
Dăm câu ca ngợi tạc thành lời thơ

Hôm nay xa vắng đồng hồ
Bởi chưng hết gạo, tớ cho thay mày
Mày tuy gặp chủ tốt thay
Nhớ chăng hôm sớm có người tri ân.

THỨC EM DẬY

Đã bốn giờ sáng
Ta phải dậy rồi
Sao mai chơi vơi
Khoe hào quang sáng

Ta kêu Kim dậy
Nó đã cựa mình
Vớ vẫn van xin
Cho thêm chút nữa.

Thức, lôi, kéo, đỡ
Nó vẫn nằm ỳ
Giấc ngủ say lỳ
Biết đâu trời đất

Tiếc giấc ngủ mật
Chẳng chịu học hành
Tuổi trẻ không chăm
Làm sao nên được

Đêm ni, đêm trước
Biết bao là đêm
Lấy hết chăn mền
Nó say sưa ngủ

Ta không nhắc nhủ
Nó ra sao đây
Khuyên em đã dày
Nó nghe chẳng lọt

Giờ đây ta quyết
Thực hiện nếp này
Kêu phải dậy ngay
Lay phải trở dậy

Quyết tâm ta phải
Cố gắng dạy răn
Để nó cố chăm
Ngày đêm đèn sách

Ta không chê trách
Vì nó tuổi thơ
Ta không giận ngờ
Vì nó tham ngủ

Quyết tâm nhắc nhủ
Nhắc nhủ, nhắc nhủ …

NẤU ĂN

Ngày một bữa đỏ lửa
Ngày một bữa luốc lem
Ngày một bữa thổi nhen
Ngày một bữa lường gạo
Ngày một bữa tần tảo
Ngày một bữa nấu ăn.

(*) 5 năm cơm ngày một bữa

NỖI LÒNG

Nhá củ lòng anh nhớ các em
Đang cơn lửa tắt khó thắp đèn
Cảnh cũ chưa lìa đeo cảnh mới
Vơi ăn, vơi ngủ, với vơi tiền

Cảnh mãi đeo người được đâu em
Hết khổ, hết cay, hết vận hèn
Nghiệp sáng đèn giời đang chỉ rõ
Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen.

DỰ LIÊN HOAN

Hôm nay anh được chén cơm ngon
Cửa miệng anh ăn, nuốt chả trơn
Bởi lẽ ngày dài em lam lũ
Mà sao chỉ có bữa cơm tròn.

NHỚ NGƯỜI XƯA

Ông Trình, ông Trãi, ông Du ơi
Chí cả ngày xưa Cụ trả rồi
Có biết giờ đây ai khắc khoải
Năm canh nguyệt giãi gợi lòng tôi

Bó gối mười năm ở nội thành
Thầy xưa đã rạng tiết thanh danh
Tớ nay vương nợ mười năm lẽ
Sự nghiệp Thầy ơi rạng sử xanh.

EM ỐM

Bồn chồn khi được tin nhà
Rằng người xương thịt nay đà bị đau
Nghĩ mình là kẻ đỡ đầu
Mà sao phải chịu lao đao chốn này.

ĐÊM RÉT THƯƠNG EM

Đêm này trời rét, rét ghê
Ta thương chiến sĩ dầm dề gió sương
Thương em lặn lội chiến trường
Chăn không, áo mỏng, gió sương dạn dày.

EM VỀ

Em về anh biết nấu chi
Ba lần khoai sắn, kể chi cá gà
Thương em lặn lội đường xa
Về nhà khoai sắn, dưa cà cùng anh

Bao giờ giặc Mỹ sạch sanh
Em về anh thết cơm canh cá gà
Mùng vui kể chuyện nước nhà
Gia đình đoàn tụ thật là đượm vui.

LÀM ĐỒNG

Làm đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót, say sưa với đồng
Chung tay liềm hái cuốc chòng
Ngày nay nhỏ giọt, mai lòng sướng vui.

Làm đồng nắng sém, da hui
Ai ơi xin chớ tham hời của dân
Khổ cay nắng sém da hồng
Xuân xanh già dặn với đồng, ai ơi!

NGẮM TRĂNG

Nằm ngữa trong nhà ngắm Hằng Nga
Hợp cảnh, hợp tình, Hằng ngắm lại
Hợp nhà, hợp cửa, ả rọi hoa
Từng đám vòng tròn nằm giữa chiếu
Chiếu thế mà ra lại chiếu hoa
Hậu Nghệ thuở xưa sao chị ghét
Ngày nay mới biết ả yêu ta.

NHÀ DỘT

Lã chã đêm đông giọt mưa phùn
Lách qua tranh rạ nhỏ lung tung
Chiếu giường ướt đẫm, thân đâu thoát
Nghĩ cảnh nhà hoa thật não nùng.

QUA ĐÈO NGANG

Qua đèo Ngang, qua đèo Ngang
Rừng thẳm Hoành Sơn giống bức màn
Tường thành hai dãy nhiều lũy nhỏ
Gió chiều lướt thổi nhẹ hơi hương
Cổng dinh phân định đà hai tỉnh
Cheo leo tầng đá, giá hơi sương
Người qua kẻ lại đều tức cảnh
Ta ngẫm thơ hay của Xuân Hương (1)

(1) Thơ Xuân Hương:
“Một đèo, một đèo, lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo …”

CUỐC ĐẤT ĐÊM

Mười lăm trăng qủa thật tròn
Anh hùng thời vận hãy còn gian nan
Đêm trăng nhát cuốc xới vàng
Trăng dòm, ta hẹn, trăng càng dòm thêm
Đất vàng, vàng ánh trăng đêm
Đêm khuya, ta với nàng quên nhọc nhằn.

Hoàng Ngọc Dộ (1937-1994) là nhà giáo. Ông quê ở xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch (nay là thị xã Ba Đồn), tỉnh Quảng Bình. Mẹ mất sớm. Nhà nghèo. Cha bị bom Mỹ giết hại. Ông đã nổ lực nuôi dạy các em vượt qua gian khổ, nghèo đói và chiến tranh để vươn lên trở thành những gia đình thành đạt và hạnh phúc. Gương nghị lực vượt khó hiếm thấy, ăn ngày một bữa suốt năm năm, nuôi hai em vào đại học với sự cưu mang của thầy bạn và xã hội đã một thời lay động sâu xa tình cảm thầy trò Trường Cấp Ba Bắc Quảng trạch (Quảng Bình). Ông mất sớm, hiện còn lưu lại gần 100 bài thơ. Lời thơ trong sáng, xúc động, ám ảnh, có giá trị khích lệ những em học sinh nhà nghèo, hiếu học. Chúng tôi chọn lưu lại một số bài tiêu biểu trên Thi viện. Hoàng Ngọc Dộ khát vọng https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-ngoc-do-khat-vong/ (1) https://www.thivien.net/…/Kh%…/topic-jvbfrjspi2Y6S8b3jeqzpA với Tình Yêu Cuộc Sống.

Hoàng Kim CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC http://hoangkimvn.wordpress.com
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích

Chỉ tình yêu ở lại
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Đùa vui với thầy Hiền

Hien 2 Phi Tu Tuyen Tuyet Hong

Đùa vui với thầy Hiền
CHUYỆN TRẠNG BÁC BA PHI
Kim Hoàng
‘ba phi thành thần, một phi cũng đủ’
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/dua-vui-voi-thay-hien.

Mình biết nhiều chuyện trạng Bác Ba Phi dân U Minh Hạ, ấp Lung Tràm, xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Mộ bác Ba Phi ngày nay được đặt giữa hai ngôi mộ của bà Ba Lữ và bà Chăm. Khu nhà và mộ phần của bác Ba Phi đang được địa phương đề xuất xây dựng thành tuyến du lịch văn hóa của tỉnh Cà Mau.

Bác Ba Phi tên thật là Nguyễn Long Phi sinh năm 1884, mất năm 1964, quê gốc Đồng Tháp, nghe kể là nông dân nòi, cụ rất phúc hậu, rất thương yêu vợ con, có biệt tài kể chuyện trạng. Bác Ba Phi đã được vợ cả là bà Ba Lữ đứng ra cưới vợ hai Chăm cho chồng (vì bà ba Lữ không có con) Bà hai sinh ra Nguyễn Tứ Hải, sau này cưới vợ là Nguyễn Thị Anh sinh ra Nguyễn Quốc Trị. Trị là nhân vật thằng Đậu rất nổi tiếng trong văn hóa Nam Bộ. Đậu là cháu đích tôn của bác Ba Phi, làm sáng danh ‘ba phi thành thần’.

Người đời cho rằng phước lộc tho mỗi người là do vận mệnh chính mình với âm đức tổ tiên ông bà cha mẹ phù hộ, cũng rất lệ thuộc bởi đất lập nghiệp và đất phát tích với đức hạnh tài năng của chính người đó

Đến với Tây Nguyên mới, Mang Yang đất và người , cũng là vùng đất đặc biệt huyền thoại đấy, thầy Hiền https://hoangkimlong.wordpress.com/category/den-voi-tay-nguyen-moi/

Đùa vui với thầy Hiền đọc tích hợp tại đây https://cnm365.wordpress.com/2022/08/27/cnm365-cltvn-27-thang-8/

Bài viết mới trên DẠY VÀ HỌC
https://hoangkimvn.wordpress.com bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích

Chỉ tình yêu ở lại
Bài ca thời gian
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on witter

Thơ tứ tuyệt Hoàng Kim

THƠ TỨ TUYỆT HOÀNG KIM
Bạch Ngọc

Hình như thênh thênh ngày rộng
An nhiên vui với mỗi ngày
Yêu thương lặn vào giấc ngủ
Thương người như thể thương thân.

Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tho-tu-tuyet-hoang-kim./

CHUYỆN ĐỒNG DAO CHO EM
Hoàng Kim


Hiểu nhàn biết đủ thời an
Thung dung minh triết thanh nhàn thảnh thơi
Người sung sướng biết sống vui
Những người hiếu hạnh được đời yêu thương.

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-dong-dao-cho-em/

#Thungdung #hoangkimlong

Hoang Thành ơi Hoàng Thành
Nặng lòng ta đến thế
“Nhớ Nước đau lòng con quốc quốc
Thương Nhà mỏi miệng cái gia gia”


xem tiếp

thayoi

Thơ tứ tuyệt Hoàng Kim
LỜI THẦY DẶN THUNG DUNG
Hoàng Kim

Việc chính đời người chỉ ít thôi.
Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi.
Phúc hậu suốt đời làm việc thiện.
Di sản muôn năm mãi sáng ngời

2

Biết đủ thời nhàn sống thảnh thơi
Con, em và cháu vững tay rồi
Đời sống an nhiên lòng thanh thản
Minh triết mỗi ngày dạy học vui.

3

Thung dung đời thoải mái
ban mai của riêng mình
giọt thời gian điểm ngọc
thanh nhàn khát khao xanh.

4

Nhân hậu đời quên tuổi
Thanh nhàn vui tháng năm
Học không bao giờ muộn
Tỉnh lặng với chính mình

5

Quốc Công đạo làm tướng
Tiết Chế đức dụng nhân
Tự do ngời tâm đức
Văn chương ngọc cho đời

Ban mai lặng lẽ sáng
Hoàng Kim


6

Ban mai lặng lẽ sáng
Phúc hậu tới thảnh thơi
Minh triết và sáng tạo
Vui đi dưới mặt trời

7

Hiền lành ẩn trí tuệ
Đức độ là tinh anh
Bảo tồn và trưởng thành
Một niềm tin thắp lửa

8

Ban mai nắng mới lên
Hoa bình minh tỉnh thức
Long lanh hương trời đất
Lộc non xanh mướt cành.

9

Chào đón bình minh an
Bà cõng cháu nấu cơm
Ông cùng con dọn vườn
Vui khỏe cùng trẻ thơ …

.10

Đường trần thênh thênh bước
Đỉnh xanh mờ sương đêm
Hoàng Thành Trúc Lâm sáng
Phước Đức vui kiếm tìm.

Nguyễn Du trăng huyền thoại

11

Nguyễn Du thơ chữ Hán
Kiếm bút thấu tim Người,
Đấng danh sĩ tinh hoa,
Nguyễn Du khinh Thành Tổ,
Bậc thánh viếng đức Hòa

12

Nguyễn Du tư liệu quý

Linh Nhạc thương người hiền,
Trung Liệt đền thờ cổ,
“Bang giao tập” Việt Trung,
Nguyễn Du niên biểu luận

13

Nguyễn Du Hồ Xuân Hương

“Đối tửu” thơ bi tráng,
“Tỏ ý” lệ vương đầy,
Ba trăm năm thoáng chốc,
Mại hạc vầng trăng soi.

14

Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ

Uy Viễn “Vịnh Thúy Kiều”,
Tố Như “Đọc Tiểu Thanh”,
Bến Giang Đình ẩn ngữ,
Thời biến nhớ người xưa.

15

Nguyễn Du thời Tây Sơn

Mười lăm năm tuổi thơ,
Mười lăm năm lưu lạc,
Thời Hồng Sơn Liệp Hộ,
Tình hiếu thật phân minh

16

Nguyễn Du làm Ngư Tiều

Câu cá và đi săn,
Ẩn ngữ giữa đời thường,
Nguyễn Du ức gia huynh,
Hành Lạc Từ bi tráng

17

Nguyễn Du thời nhà Nguyễn

Mười tám năm làm quan,
Chính sử và Bài tựa,
Gia phả với luận bàn.
Bắc hành và Truyện Kiều

18

Nguyễn Du tiếng tri âm

Hồ Xuân Hương là ai,
Kiều Nguyễn luận anh hùng,
Thời Nam Hải Điếu Đồ,
Thời Hồng Sơn Liệp Hộ

19

Nguyễn Du trăng huyền thoại

Đi thuyền trên Trường Giang,
Tâm tình và Hồn Việt,
Tấm gương soi thời đại
Mai Hạc vầng trăng soi,

20

Ai viết cho ai những câu thơ lưu lạc.
Giữa trần gian thầm lặng tháng năm dài
Mười năm lưu lạc tìm gươm báu
Đời ta chỉ cúi lạy hoa mai

21

Tro ve diem hen

Bài ca nhịp thời gian

Anh như chim ưng quay về tổ ấm
Vẫn khát bầu trời ước vọng bay lên
Ơi Bồng Lai cồn cào nỗi nhớ
Anh về bên này lại nhớ bên em

22

Sớm xuân qua Đại Lãnh

Vui được dịp sớm xuân qua Đại Lãnh
Ngắm đất trời núi biển lúc hừng đông
Nghe vó ngựa ruổi dài đường vạn dặm
Đá Bia ơi.thăm thẳm đất Tiên Rồng,

23

Vui khỏe bởi chính mình

Vui khỏe bởi chính mình thôi
Tùy duyên vui đạo sống đời an nhiên
Thảnh thơi cùng với bạn hiền
An nhàn vô sự là tiên ở đời.

24

Vĩ Dạ Thương Miên Thẩm

Vĩ Dạ thương Miên Thẩm
Trời thu nhớ cố nhân
Hơi may sương phảng phất
Nắng sớm ngọc tri âm.

25

Chua Giang giua dong xuan

CHÙA GIÁNG GIỮA ĐỒNG XUÂN
Hoàng Kim

Nơi cổ tự mây lành che xóm vắng
Viên Minh xưa chùa Giáng ở đây rồi
Bụt thư thái chim rừng nghe giảng đạo
Trời trong lành gió núi lắng xôn xao.

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chua-giang-giua-dong-xuan/

26

SÔNG HOÀNG LONG GIỮA LÒNG
Hoàng Kim

Sông Hoàng Long sông Hoàng Long
Nguồn nước yêu thương chảy giữa lòng
Bái Đính Tràng An nôi người Việt
Cao Sơn thăm thẳm đức Minh Không

27

Duong xuan

ĐƯỜNG XUÂN THEO CHÂN BÁC
Hoàng Kim

Đường xuân nhớ thơ hay
Chợt gặp mai đầu suối
Sớm Đông trên đồng rộng
Nhớ Người mùa Giáng sinh

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chot-gap-mai-dau-suoi/http://hoangkimvn.wordpress.com/tag/nho-nguoi-mua-giang-sinh

28

Thiên nhiên là thú thần tiên

THIÊN NHIÊN LÀ THÚ THẦN TIÊN
Hoàng Kim

Thiên nhiên là thú thần tiên
Chân quê là chốn bình yên đời mình
Bạn hiền bia miệng anh linh
Thảnh thơi hưởng trọn ân tình thế gian.

29

MỪNG CÔ GIÁO LÃO THÀNH
Hoàng Kim


Lặng thầm góc cũ ngôi nhà ấy.
Mẫu mực yêu thương một lớp người.
Vàng giữa đời thường không đếm tuổi.
Đông qua xuân tới trọn đời vui.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là thien-nhien-la-thu-than-tien-2.jpg
Thien nhien la thu than tien 3

30
SỚM ĐÔNG NHỚ TRẠNG TRÌNH
Hoàng Kim


Thao thức nhịp thời gian
Thung dung dạy và học
Thăm thẳm câu chuyện ảnh
Thơ vui những ngày nhàn

Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim
xem 36 đường dẫn tại https://hoangkimlong.wordpress.com/…/tho-tu-tuyet…/

Thien nhien la thu than tien 4

31

SỚM ĐÔNG TRÊN ĐỒNG RỘNG
Hoàng Kim


Sớm Đông Trời tạnh mây quang
Vươn vai Đón nắng Mặc cơn gió lùa‘
Vấn vương’ *câu hẹn ngày qua
Đông tàn Ủ mộng Xuân sang nõn cành …

Thien nhien la thu than tien 5

32

SỚM ĐÔNG THƠ GIỮA LÒNG
Hoàng Kim


Đêm lạnh đông tàn chậm nắng lên
Nghe hơi sương giá buốt bên thềm
Em đi làm sớm trời đang ngủ
Giữ ấm xin đừng vội để quên.

33

LÊN THÁI SƠN HƯỚNG PHẬT
Hoàng KimHoang Long

Đường trần thênh thênh bước
Đỉnh xanh mờ sương đêm
Hoàng Thành Trúc Lâm sáng
Phước Đức vui kiếm tìm ….

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/len-thai-son-huong-phat

34

Tuyết rơi trên Vạn Lý
Trường Thành bao đổi thay
Ngưa già thương đồng cỏ
Đại bàng nhớ trời mây.

35
Ngược gió đi không nản
Rừng thông tuyết phủ dày
Ngọa Long cương đâu nhỉ
Đầy trời hoa tuyết bay..

36

TRUNG QUỐC MỘT SUY NGẪM
Hoàng KimHoang Long


Trung Quốc đường cao tốc
Vành đai và con đường
Sáng tạo và Công nghệ
Thế giới trong mắt ai
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/trung-quoc-mot-suy-ngam/

Hồ Khẩu trên Hoàng Hà
Đại tuyết thành băng giá
Thế nước và thời trời
Rồng giữa mùa biến hóa.

Khổng Tử dạy và học
Đến Thái Sơn nhớ Người
Kho báu đỉnh Tuyết Sơn
Huyền Trang tháp Đại Nhạn

Tô Đông Pha Tây Hồ
Đỗ Phủ thương đọc lại
Hoa Mai thơ Thiệu Ung
Ngày xuân đọc Trạng Trình

Quảng Tây nay và xưa
Lên đỉnh Thiên Môn Sơn
Ngày mới vui xuân hiểu
Kim Dung trong ngày mới

Bình sinh Mao Trạch Đông
Bình sinh Tập Cận Bình
Lời dặn của Thánh Trần
Trung Quốc một suy ngẫm

LÃO KHỐT TRẺ NHỜ VỢ
Kim Hoàng

Lão Khốt trẻ nhờ vợ
Mắt cười tươi hớn hở
Đường dài dai sức ngựa
Sống thọ đời #Thungdung

BÀ ĐEN
Hoàng Kim

Người đi tìm Ngọc phương Nam
Nhớ bầu sữa Mẹ muôn vàn yêu thương
Bà Đen Dầu Tiếng Tây Ninh
Khoai mì đậu phộng nên danh ơn Người.

xem tiếp Bà Đen https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ba-den/ Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tho-tu-tuyet-hoang-kim/

Bà Đen ở Tây Ninh (ảnh Phan Văn Tự)

BÀ ĐEN Ở TÂY NINH

Tỉnh Tây Ninh có núi Bà Đen. Báo Nông nghiệp Việt Nam có video tuyệt đẹp giới thiệu về danh thắng này https://www.facebook.com/NongNghiepVietNamOnline/videos/276320777967406. #vietnamhoc#cnm365#cltvn đã tích hợp. Tỉnh Tây Ninh là nôi nuôi dưỡng và phát triển các giống khoai mì KM94, SM937-26, KM98-1, KM98-5, KM140, KM419 là các giống khoai mì chủ lực tạo nên danh tiếng toàn cầu “Cách mạng sắn Việt Nam”. Tỉnh Tây Ninh cũng là nôi nuôi dưỡng và phát triển các giống đậu phộng HL25, Lì và Giấy chọn lọc, đậu xanh HL89-E3, đậu rồng và các loại đậu đỗ thực phẩm, đóng góp hiệu quả cho sản xuất nông nghiệp; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ba-den/ và xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tho-tu-tuyet-hoang-kim/

45

NGUYỄN DU TRĂNG HUYỀN THOẠI
Hoàng Kim

Đi thuyền trên Trường Giang,
Tâm tình và Hồn Việt,
Tấm gương soi thời đại
Mai Hạc vầng trăng soi,

Nhân nhàn rỗi đọc lại Thâm Giang Trần Gia Ninh, thương “Kim Thiếp Vũ Môn”, nhớ ‘Thiên hạ trục lộc‘, xin chép về so ngẫm Nguyễn Du làm Ngư Tiều Câu cá và đi săn, Ẩn ngữ giữa đời thường, Nguyễn Du ức gia huynh, Hành Lạc Từ bi tráng xem tiếp Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tho-tu-tuyet-hoang-kim/Mai Hạc vầng trăng soi https://hoangkimlong.wordpress.com/category/mai-hac-vang-trang-soi/http://hoangkimlong.wordpress,com/category/nguyen-du-trang-huyen thoại


xem thêm
CỐ SỰ TÂN LUẬN-THIÊN HẠ TRỤC LỘC
故事新論-, 天下逐鹿( bàn luận chuyện cũ- Thiên hạ đuổi bắt hươu)
Trần Gia Ninh 18 tháng 8, 2021  [Khá dài, ai rỗi , thích lịch sử và tò mò thì hẵng đọc ]

Sắp đến ngày 19/8 và 2/9, có người bạn viết lách hỏi Mỗ “ Cách mạng tháng 8 giống như cuộc cách mạng nhung, đúng không ? “ Vâng, đúng là cmt8 không đổ máu, nhưng chỉ là lúc khởi đầu đầu thôi, nó không được dàn xếp nhanh chóng như CM nhung Tiệp khắc, mà kéo dài đến 30 năm và đổ không ít máu mới xong . Đúng hơn, nó giống hình ảnh của câu chuyện xưa chép trong Sử ký Tư Mã Thiên : Tần thất kì lộc, thiên hạ cộng trục chi秦失其鹿, 天下共逐之(Triều Tần mất con hươu, cả thiên hạ cùng đuổi theo bắt)

Đời sau thường dùng làm điển tich THIÊN HẠ TRỤC LỘC 天下逐鹿 Truyện chép

“Trước lúc bị hành hình, Hàn Tín bi phẫn nói rằng:

– Ta hối hận không nghe theo kế của Khoái Thông, để đến nỗi chết dưới tay đàn bà.

Lưu Bang sau khi nghe, lập tức hạ lệnh tróc nã Khoái Thông. Không ngờ Khoái Thông khảng khái nói với Lưu Bang:

– Lúc đầu, khi pháp độ triều Tần bại hoại, chính quyền rệu rã, sáu nước Sơn Đông đại loạn, nhất thời chư hầu nổi dậy. Lúc đó giống như triều Tần mất đi con hươu, người trong thiên hạ đều đuổi theo bắt, kết quả là người nào có bản lĩnh cao cường, hành động nhanh chóng sẽ bắt được con hươu này. Thần lúc đó chỉ biết có Hàn Tín mà không biết bệ hạ, huống chi người muốn đoạt thiên hạ rất đông, chỉ là lực lượng không đủ mà thôi. Lẽ nào bệ hạ muốn giết hết họ?

Lưu Bang nghe qua, không nói lời nào liền thả Khoái Thông (Sử kí – Hoài Âm Hầu liệt truyện 史记 – 淮阴侯列传).

Từ tháng 3 năm 1945, Việt Nam rơi vào một tình trạng hỗn loạn do khoảng trống về quyền lực chính trị quá lớn. Người Nhật đang lo chống đỡ các đòn tấn công của quân đội đồng minh Anh-Mỹ. Cả chính phủ của Trần Trọng Kim lẫn triều đình của Bảo Đại đều không đủ lực lượng quân sự và uy tín chính trị để kiểm soát tình hình. Đó là lúc con hươu quyền lực sổng chuồng, thiên hạ đuổi bắt. Quần hùng đủ mặt anh hào, thử điểm mặt những chủ chốt xem sao:

Việt quốc,Việt cách, Việt Minh, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn tường Tam,Trần Trọng Kim, Bảo Đại, Hồ chí Minh, Ngô đình Diệm…Thời 45-46 là khởi đầu thời “ thiên hạ trục lộc” , đáng tiếc là 30 năm sau mới tóm gọn được hươu. Cũng giống như trong lịch sử hơn hai ngàn năm trước, những hào kiệt này đều từng là hoặc là tiền bối, hoặc là chiến hữu, bạn bè , hoặc giúp nhau lúc hoạn nạn, hoặc tôn trọng nhau và không ai giết hại ai cả, không như Lưu Bang giết Hạng Vũ , Bành Việt, Anh Bố, Hàn Tín …và các chiến hữu của mình.

Nguyễn Hải Thần (1879-1959) người Hà đông là chí sĩ yêu nước từ thời theo Đông Du của Phan Bội Châu còn sót lại. Ông đã học tại trường Chấn Vũ (Tokyo, Nhật Bản) cùng lớp với Tưởng giới Thạch . Về Trung quốc Nguyễn Hải Thần vào Trường Võ bị Hoàng Phố và trở thành giảng viên môn chính trị tại trường này. Ông còn nổi tiếng với nghề thầy bói. Tháng 10 năm 1942 tại Liễu Châu (Trung Hoa), Nguyễn Hải Thần cùng với Nghiêm Kế Tổ, và chiến hữu sáng lập Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, gọi tắt là Việt Cách. Cuối tháng 8/1945, Việt Cách về nước theo 200.000 quân Trung Hoa Dân quốc do các tướng Lư Hán , Tiêu Văn chỉ huy sang với danh nghĩa giải giới quân đội Nhật. Khi đó thì ở Việt nam Nhật đã đầu hàng đồng minh (15/8). Chính phủ Trần trong Kim ( do Nhật dựng lên )từ chức, Khâm sai Phan Kế Toại nhượng bộ. Hồ Chí Minh về Hà Nội lập Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngày 28-8 và ra mắt ngày 2-9- 45 tuyên bố nước Việt Nam thống nhất (3 kỳ), thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Chính phủ gồm đa số là Việt Minh. Việt minh là do HCM thành lập.

Hồ chí Minh là tên gọi mới của Nguyễn Ái Quốc, ông không theo con đường thất bại của hai cụ Phan mà đi tìm con đường khác sang Âu Mỹ Nga học hỏi , về Trung hoa gây dựng tổ chức rồi về Cao bằng lập ra Việt Minh (gọi tắt của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội-chỉ thay chữ “cách mệnh” của Việt Cách bằng chữ “độc lập”) năm 1941 do đảng Cộng Sản Đông Dương lãnh đạo Năm 1944, Việt Minh đã tổ chức quân đội ở Cao Bằng gọi là Việt Nam (Tuyên Truyền) Giải Phóng Quân.

Việt Cách đã giúp Việt Minh khi hoạn nạn lúc còn trứng nước: Tướng Trương Phát Khuê (Lãnh tụ Trung Hoa Quốc Dân Đảng ở Lưỡng Quảng) bắt cầm tù Hồ Chí Minh khi ông sang Trung Quốc (1942-1943). Hồ Chí Minh chỉ được tha nhờ lời xin đặc xá của ông Nguyễn Hải Thần.

Vũ Hồng Khanh (1898-1993), quê ở Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên , xuất thân giáo làng, là một trong những yếu nhân của Việt nam Quốc dân đảng. Khi khởi nghĩa Yên bái thất bại, ông trốn sang TQ tiếp tục hoạt động chống Pháp. Ông liên kết với Nguyễn Hải Thần lập ra tại Liễu Châu năm 1942 Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, (Việt Cách). Tháng 5 năm 1945, tại Trùng Khánh (Trung Quốc), Việt Nam Quốc dân Đảng liên minh với Đại Việt Quốc dân đảng (Trương Tử Anh) và Đại Việt Dân Chính đảng (Nguyễn Tường Tam) thành một tổ chức mới, là Đại Việt Quốc dân đảng. Ngày 1 tháng 9 năm 1945, ông từ Côn Minh về nước qua ngả Mường Khương, vào Lào Cai.

Do cần phải hợp tác để đối phó với Việt Minh ngày 15 tháng 12 năm 1945 các đảng phái chống Việt Minh đã thống nhất thành lập một lực lượng gọi là Mặt trận Quốc dân Đảng Việt Nam. Vũ Hồng Khanh giữ chức Bí thư trưởng tổ chức này. Đó là Việt Quốc.

Ngày 2 tháng 3 năm 1946 ông tham gia Chính phủ liên hiệp kháng chiến và đảm nhận chức vụ Phó Chủ tịch Kháng chiến Ủy viên hội (sau đổi là Ủy ban Kháng chiến). Ông cùng Hồ Chí Minh đã ký với Jean Sainteny Hiệp định sơ bộ 1946. Hiệp định này cho Pháp vào nhưng đẩy được Tưởng về nước.

Nguyễn Hải Thần thì chống Việt minh quá quắt khiến Tiêu Văn chỉ huy quân QDĐ Trung hoa phải giảng hoà ép Hải Thần phải hợp tác. Ngày 23/12/1945, Tướng Tiêu Văn tổ chức một cuộc họp hòa giải các bên để thành lập chính phủ liên hiệp. Cuối cùng các bên đạt được một thỏa thuận được tuyên bố là mang tính pháp lý (viết bằng chữ Hán) theo đó các ghế bộ trưởng trong chính phủ sẽ phân chia như sau: Việt Minh 2 bộ trưởng, Đảng Dân chủ Việt Nam (cũng tham gia Việt Minh) 2 bộ trưởng, Việt Quốc 2 bộ trưởng, Việt Cách 2 bộ trưởng, phi đảng phái 2 bộ trưởng. Thỏa thuận này không sử dụng tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vì Việt Quốc không đồng ý với tên này. Cuộc bầu cử quốc hội được hoãn 2 tuần. Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Hải Thần chấp nhận để Hồ Chí Minh tiếp tục làm chủ tịch nước lâm thời. Quốc hội sẽ quyết định quốc kỳ và quốc huy. Hai đảng này cũng không được tham gia vào cơ quan chỉ huy và tham mưu của quân đội. Việt Quốc sẽ được 50 ghế còn Việt Cách 20 ghế trong Quốc hội mà không phải tranh cử. Điều này khẳng định với nhiều người rằng 2 đảng phái này không có khả năng giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tại địa phương.

Hồ chí Minh sang Pháp từ tháng 5 đến tháng 10/1946. Ở nhà các phe phái đánh nhau dữ dội kể cả bằng súng đạn, không ai chịu ai, đỉnh điểm là vụ nhà số 7 phố Ôn Như Hầu ngày 12/7/1946. Quân tàu Tưởng đã rút hết không còn chỗ dựa nữa, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh , Nguyễn tường Tam …bỏ nước trốn sang Trung quốc.

Hồ chí Minh từ Pháp trở về, ngày 31/10/46 bị quốc hội chất vấn về chuyện này , Hồ chí Minh trả lời : “Về ông Phó Chủ tịch Nguyễn Hải Thần, ông nguyên Bộ trưởng Bộ ngoại giao Nguyễn Tường Tam và ông nguyên Phó Chủ tịch Quân ủy hội Vũ Hồng Khanh. Các ông ấy bây giờ không có mặt ở đây. Lúc nước nhà đang gặp bước khó khăn, quốc dân tin ở người nào mới trao cho người ấy công việc lớn. Thế mà các ông ấy lại bỏ đi thì các ông ấy phải tự hỏi lương tâm thế nào. Trả lời thế là đủ. Những người bỏ việc đi kia, họ không muốn gánh việc nước nhà hoặc họ cũng không đủ sức mà gánh nổi. Nay chúng ta không có họ ở đây, chúng ta cũng cứ gánh được như thường. Nhưng nếu các anh em ấy biết nghĩ lại mà trở về thì chúng ta cũng hoan nghênh”.

Hài Thần ở Hongkong, không tham chính nữa , lấy vợ trẻ mới và chết tại đó năm 1959 thọ 80 tuổi,

Bào Đại cầm đầu phái đoàn chính phủ sang Trùng Khánh thì ở lại không về.

Còn nhớ thời đầu kháng chiến có câu hò rất phổ biến : “ Ai ngu như Bảo Đại/Ai dại như Nguyễn hải Thần/ Mưu đem dân ta vào vòng nô lệ một lần thứ hai “

Nguyễn tường Tam lúc bỏ trốn là bộ trưởng bộ Ngoại giao. Năm 1951 Tam về lại Việt nam và tuyên bố không tham gia các hoạt động chính trị nữa. Thế nhưng Năm 1960 ông thành lập Mặt trận Quốc dân Đoàn kết, ủng hộ cuộc đảo chính của Đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông. Đảo chính thất bại, trước khi bị chính phủ Ngô Đình Diệm đem ra tòa xét xử, Nguyễn Tường Tam dùng thuốc độc tự tử đêm 8/7/1963 lúc đó Tam 57 tuổi.

Vũ Hồng Khanh sang Trung quốc theo Quốc dân đảng Trung hoa chiêu binh mãi mã. Năm 1949 Mao thắng Tưởng, dồn tàn quân Quốc dân đảng chạy về biên giới Việt Nam. Vũ Hồng Khanh cầm đầu chừng bảy đến tám ngàn tàn quân Quốc dân đảng tiến vào Việt Nam qua ngả Na Sầm, giữa Lạng Sơn và Cao Bằng. Khi quân trú phòng Pháp định tước vũ khí đoàn quân này, đụng độ nổ ra. Bị cả quân Pháp và Việt Minh vây đánh, mất chừng hai nghìn người , ngày 6 tháng 1 năm 1950, Vũ Hồng Khanh và số tàn quân còn lại hạ vũ khí đầu hàng quân Pháp. Khanh về cộng tác với Pháp, Bảo Đại và chính quyền VNCH. Sau sự kiện năm 1975, Vũ Hồng Khanh theo lệnh chính quyền Cách mạng đi tập trung học tập cải tạo, dù ông đã 77 tuổi.

Năm 1986 ông được trả tự do và về sống với con gái cả tại quê nhà Vĩnh Tường và mất ở đó vào 1993 thọ 95 tuổi. Một tài liệu khác nói rằng đích thân Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn đã vào trại cải tạo đề nghị thả sớm Vũ Hồng Khanh vì năm 1943 ông có công can thiệp với tướng Trung Hoa Quốc dân Đảng Trương Phát Khuê thả Lý Thụy – bí danh của Hồ Chí Minh – tại Liễu Châu, Trung Quốc.

Nhân vật cuối cùng trong số quần hùng từ giã cõi đời là Bảo Đại, ông chết ở Paris năm 1997. Trong những phỏng vấn báo chí trước khi mất cũng như trong hồi ký “Con rồng An nam” Ông luôn luôn biểu lộ sự nể trọng đối với Hồ Chi Minh, đối thủ đã thắng ông và mọi kẻ chống đối dân tộc khác trong cuộc đua tranh “thiên hạ trục lộc”.

Một nhân vật cũng khá lý thú ,tuy không phải là một quần hùng trục lộc vào thời 45-46 là Ngô Đình Diệm. Vào cuối năm 1945, Ngô Đình Diệm bị dân quân bắt ở Nam Trung Bộ, giải ra Hà Nội. Biết việc này, với tư cách Chủ tịch Chính phủ… ngày 15/1/1946, Hồ chí Minh yêu cầu cho đưa Ngô Đình Diệm đến gặp tại Bắc Bộ phủ, thuyết phục ông Diệm đi với nhân dân, tham gia vào việc nước. Nhưng ông Diệm từ chối, tuyên bố “sẽ vẫn tiếp tục chống Pháp nhưng không thể đi với Việt Minh”. Nhiều cán bộ giúp việc quanh HCM không đồng tình, cho rằng ông Diệm là người thân Nhật, rất nguy hiểm, Hồ Chí Minh nói: Nếu ông ta thân Nhật thì Nhật đã tan tành rồi, còn chỗ nào mà thân nữa. Còn ông ta nói vẫn còn chống Pháp, nhưng không đi với Việt Minh, thì cứ thả ông ra, để ông ấy chống Pháp theo kiểu của ông ấy!” Thế là Hồ Chí Minh đã lệnh thả Ngô Đình Diệm. Sử quan bình luận rằng, giá mà lúc ấy Hồ Chí Minh không biết Ngô Đình Diệm bị bắt, thì Ngô Đình Diệm đã bỏ xác dưới tay dân quân Quảng Ngãi rồi. Lịch sử VN có thể sẽ đi con đường ngắn và đỡ đổ máu hơn. Nhưng cuối cùng thì Ngô Đình Diệm đã phải trả giá vào 1963 do đệ tử của chình mình giết, không phải dưới tay của Việt Minh. Liệu có nên quy cho Hồ Chí Minh cái tội đã quá nhân từ và quân tử để sau này chuốc lấy hậu hoạ 30 năm ?

Tiếc thay lịch sử không có chữ nếu.

Cuối cùng sau 30 năm thì Việt minh đã bắt được hươu và giữ chặt cho đến khi nào…SỔNG CHUỒNG !

Chuyện “ THIÊN HẠ TRỤC LỘC” tân bản đến đây là hết.

trở về trang chính Minh triết Hồ Chí Minh

46

THẾ GIỚI CÒN ĐỔI THAY

Việt Nam con đường xanh
Tỉnh thức cùng tháng năm
Vị tướng của lòng dân
Minh triết Hồ Chí Minh


Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim
Nhớ lại và suy ngẫm

Năm bức ảnh kỷ niệm
Năm di sản đời người
Một lần và mãi mãi
Mai Hạc vầng trăng soi

BỨC ẢNH KỶ NIỆM Mạnh Đẩu Nguyễn
Hôm nay, Kỷ niệm 204 năm Ngày sinh Các Mác ( 05/5/1818 – 05/5/2022 ) – Nhà Triết học, Nhà Tư tưởng, Nhà Kinh tế thiên tài của nhân loại – tôi đăng lại bức ảnh chụp dưới chân Tượng đài của Ông tại Quảng trường Đỏ ở Matscova trong một lần đến nước Nga.

Tôi lần đầu tiên và dường như duy nhất chỉ một làn trong đời đeo huân chương, đó là lần đi viếng Bác https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vi-tuong-cua-long-dan/

47

ĐỒNG XUÂN LƯU DẤU HIỀN
Hoàng Kim

liên vận Dịu dàng Bàu Tró thơ của Nguyễn Hoài Nhơn
Nhớ Người, Mưa; Đồng Xuân lưu dấu hiền, thơ Hoàng Kim

Thương chi thương lạ cánh diều
Đồng Xuân Bàu Tró bao điều ước mong
Ngựa già chưa nản chân bon
Nhớ Người năm tháng, Mưa còn bâng khuâng ..

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/dong-xuan-luu-dau-hien/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nho-nguoi/; Thơ Tứ tuyệt Kim Hoàng https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tho-tu-tuyet-hoang-kim/ liên vận thơ Nguyễn Hoài Nhơn https://www.facebook.com/nguyenhoai.nhon.12/posts/682912139196351 và Mưa nắng và thời vận https://hoangkimlong.wordpress.com/category/mua-nang-va-thoi-van/

DỊU DÀNG BÀU TRÓ
Nhơn Nguyễn Hoài 7 tháng 5, 2020  ·

Êm đềm một sắc trời xanh
Thả vào đáy nước ngọt lành, nguyên sơ
Cát viền như lụa, như tơ
Thướt tha nhành liễu buông hờ xuống tôi

Mảnh trăng như chiếc thuyền trôi
Người xưa vừa chống qua thời hồng hoang
Khép vòng mặt nước mênh mang
Cho ai xõa tóc, vội vàng chao chân

Hồ không đáy, sóng không vần
Nghe như huyền thọai chợt gần, chợt xa…
Vô tình ta lại gặp ta
Với bao gương mặt ông cha hiện về

Tay cầm mảnh gốm mân mê
Thoảng thơm hương lúa, vẳng nghe tiếng chày
Bầy chim Lạc giật mình bay
Xuyên qua lớp lớp sâu dày thời gian

Cho tôi một thoáng ngỡ ngàng
Trước màu xanh đến mơ màng hồ ơi
Dịu dàng Bàu Tró mãi thôi
Như là ánh mắt của người tôi yêu.

49

NhoMeCha

CẦU TRỜI NỐI MẸ CHA XƯA
Hoàng Kim

Cầu trời nối mẹ cha xưa
Mưa dày thấm đất nắng thưa thấu trời
Lời thương giao cảm lòng người
Ngày của Mẹ suốt trọn đời trong con.

liên vận Thơ Tứ tuyệt Kim Hoàng https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tho-tu-tuyet-hoang-kim/ và Mưa tháng năm nhớ bạn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/mua-thang-nam-nho-ban/

50

Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là ngay-cua-me.jpg

NGÀY CỦA MẸ https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ngay-cua-me/

Thanh thản thêm thấm thía
#thungdung đám giỗ về
Người lành năm sáu đứa
Trò chuyện thời trẻ thơ

Đường xuân ai rong ruổi
Hoa Đất thương lời hiền
Trăng rằm đêm Phật Đản
Cánh trời thức #Annhiên

Ơn Người thầm che chở
Nhân hậu đới bình yên


NHỚ NÚI
Hoàng Kim

Nhớ đồng xuân nhớ bạn
Bà Đen Gia Ninh Trần
Tre rồng sông Kỳ Lộ
Thương Kim Thiết Vũ Môn

(*) Nhớ bạn Đặng Văn Quan ; xem tiếp Bà Đen https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ba-den/; Tre Rồng Sông Kỳ Lộ https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tre-rong-song-ky-lo/ và ngắm ảnh https://www.facebook.com/gianinh.tran.3/posts/3131884303691819 ngẫm thơ https://www.facebook.com/xuanlinhnewsbmt/posts/2532015563586411 đọc lại và suy ngẫm Thương Kim Thiết Vũ Môn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thuong-kim-thiep-vu-mon/
60

RẰM ĐẢN SINH NHỚ MẸ
Hoàng Kim

Đêm Vu Lan nhớ bài thơ đi học
Thấm nhọc nhằn củ sắn, củ khoai
Nhớ tay Chị gối đầu khi Mẹ mất
Thương lời Cha căn dặn học làm Người…

Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tho-tu-tuyet-hoang-kim và Ngày mới Ngọc cho đời https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ngay-moi-ngoc-cho-doi/

Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc. CNM365 Tình yêu cuộc sống #hoangkimlong; #CLTVN; #Thungdung; CNM365;

SÁU QUY LUẬT CĂN BẢN
Hoàng Kim


Học không bao giờ muộn sáu đạo lý căn bản: 1) Luật Hấp Dẫn; 2) Luật Nhân Quả; 3) Luật Trong Ngoài; 4) Luật Tập Trung; 5) Luật Cân Bằng; 6) Luật Nhất Quán. Trước một quyết định quan trọng, nhất thiết phải suy nghĩ sâu xa về sáu quy luật, đạo lý căn bản này; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoc-khong-bao-gio-muon/https://vt.tiktok.com/ZSeB4m9My/. Học không bao giờ muộn sáu dấu hiệu nhân tướng học để nhân biết người đang được Trời, Phật, Đấng Quyền Năng,Tổ Tiên, Thần Hộ Mệnh bảo bọc che chở phù hộ: Thứ nhất Người có dung mạo đẹp, phúc hậu, đoan trang, sang trong; Thứ hai Người hiểu và tin sâu luật nhân quả. Thứ ba Người đi đâu cũng được nhiều người yêu mến Thú tư Người thoát được nguy hiểm trong gang tấc, khó khăn. Thứ năm Người mang lại may mắn phúc lành điều tốt cho mọi người. Thứ sáu Người có con ngoan ngoãn, hiếu thuận, giỏi giang, đó là nghiệp duyên nhân quả báo ứng từ kiếp trước đến trả ơn, đến báo oán, đến trả nợ, đến đòi nợ, mà sự tin sâu luật nhân quả, tu nhân tích đức, hành thiện sống tốt giúp cho sự chuyển đổi nghiệp duyên và thời vận. https://www.facebook.com/tuvinhansinh/videos/764479228055279/

Học không bao giờ muộn
TRẺ GIÀ LỐI NHÌN KHÁC NHAU
Đỗ Hồng Ngọc


1. Khi còn trẻ, ta thường nghĩ rằng: Biết níu giữ là khôn ngoan. Nhưng khi đã già, ta mới nhận ra rằng: Biết buông bỏ mới là trí tuệ!

2. Khi còn trẻ, ta thường nghĩ rằng: Người giàu có là người lấy về rất nhiều. Nhưng khi đã già, ta mới biết rằng: Người giàu có là người cho đi rất lớn!

3. Khi còn trẻ, ta thường nghĩ rằng: Mạnh mẽ là vượt qua người khác. Nhưng khi đã già, ta mới biết rằng: Mạnh mẽ là vượt qua chính mình!

4. Khi còn trẻ, ta thường nghĩ rằng: Kẻ nói nhiều là kẻ thông minh. Nhưng khi đã già, ta mới biết rằng: Người biết lắng nghe mới là người thông thái!

5. Khi còn trẻ, ta thường nghĩ rằng: Nếu ta thắng phải hơn người thua. Nhưng khi đã già, ta mới biết rằng: Đến nơi là mọi người cùng thắng!

6. Khi còn trẻ, ta thường muốn sống thật lâu. Nhưng khi đã già, ta muốn sống sao cho có ý nghĩa với cuộc đời!

7. Khi còn trẻ, ta thường muốn người khác chấp nhận mình. Nhưng khi đã già, ta nhận ra rằng: Chỉ cần mình chấp nhận mình là đủ!

8. Khi còn trẻ, ta mong muốn thay đổi cả thế giới. Nhưng khi đã già, ta mong muốn thay đổi chỉ bản thân mình mà thôi!

9. Khi còn trẻ, ta thường nghĩ rằng: Khi trưởng thành, ta sẽ không còn bị tổn thương. Nhưng khi đã già, ta mới biết rằng: Trưởng thành là biết điều chỉnh tiếng khóc về chế độ im lặng!

10. Và khi còn trẻ, ta thường nghĩ rằng: Có tiền sẽ có tình yêu, có vật chất, người ta sẽ yêu quý… Nhưng khi đã già, ta mới biết rằng: Lương thiện bạn sẽ có mọi trái tim!

Cảm ơn lời nhắn nhắc sự chia sẻ thông tin của PVT Lê Thanh Hải với FB Vũ Công Hiển; Trong đêm thiêng Phật Đản, xin được tích hợp về Học không bao giờ muộn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoc-khong-bao-gio-muon

95

SÁNG MÃI NGỌC LƯU LY
Hoàng Kim


Trọn nợ duyên Phạm Lãi
Vẹn Tây Thi Ngũ Hồ
Yêu một đời đằm thắm
Sáng mãi ngọc lưu ly

NỢ DUYÊN
Hoàng Kim

Nợ anh mưa nắng dãi dầu
Em tôi rụng tóc sói đầu nhớ thương.
Nợ em nửa sợi tơ vương
Anh mang vàng đá trãi đường nhân duyên.

xem tiếp Sáng mãi ngọc lưu ly https://hoangkimlong.wordpress.com/category/sang-mai-ngoc-luu-ly/ và Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tho-tu-tuyet-hoang-kim và Ngày mới Ngọc cho đời https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ngay-moi-ngoc-cho-doi/https://www.facebook.com/loithu.xua/posts/10224398853091547

Viet Hoa Đỗ cùng với Nguyen Thi Ngoan37 người khác. Snopdrseto7022m,tlh25á32niu 9aa3m0839 hl8g1t 1ff9g4g72c19823  ·

LAN MAN CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ TRONG NHỮNG NGÀY TRÁNH DỊCH !

Cách nay vài hôm, tôi được đọc một bài viết hay trên trang Fb của Thầy Nguyễn Tử Siêm về cuộc đời lẫm liệt của Nhà văn hóa, vị lão thành CM Nguyễn Hữu Đang. Trước khi mất, cụ Nguyễn Hữu Đang đã tự làm một câu đối rất khúc chiết và thâm hậu cho mình:

“Nào công, nào tội, nào nhục, nào vinh, thương số phận Khuất Nguyên, Nguyễn Trãi/ Vận nước, vận nhà, biết thời, biết thế, quý cuộc đời Phạm Lãi, Trương Lương”.

Trong cảnh nhàn cư vì tránh dịch covid Khựa, tôi tìm hiểu vài điều về PHẠM LÃI.

Phạm Lãi là một nhân vật lịch sử sống vào thời Xuân Thu chiến quốc bên Tàu; ông là một vị tướng tài giỏi, thông tuệ, đã có công lớn trong việc giúp Việt vương Câu Tiễn tiêu diệt được nước Ngô của Phù Sai. Sau chiến thắng khải hoàn, biết rõ được bản chất thật của Câu Tiễn, ông đã từ bỏ vinh quang nhất thời, rút lui đúng lúc để giữ mình. Có đôi ba giả thuyết về việc lặng lẽ trốn đi ở ẩn của ông, nhưng tôi thích giả thuyết “loãng mạng” này hơn.

Sau khi giúp Câu Tiễn là vua nước Việt bên Trung hoa phục quốc thành công, Phạm Lãi đã lặng lẽ đưa nàng Tây Thi trốn về vùng Ngũ hồ để ẩn dật. Ông ngao du cùng người đẹp khắp vùng hồ nước mênh mông, sống bằng nghề đánh bắt cá, nấu rượu (chắc có dùng hèm để nuôi lợn), hưởng thú cảnh nhàn cùng gió trăng mây nước, sống đạm bạc để nuôi vợ con. Chính vì không màng chức tước quyền lực, ông là người tài giỏi duy nhất còn sống trong số các vị tướng sỹ đã giúp Câu Tiễn giành được quyền bính. Và ông đã sống thọ đến tuổi thất thập cổ lai hy (525 TCN – 455 TCN).

Xin chia sẻ cùng các bạn vài hình ảnh đẹp minh họa cuộc sống thường dân an lành của Phạm Lãi để chúng ta cùng suy ngẫm.

P/s: Có bạn sẽ thắc mắc sao hình ảnh không thấy có Tây Thi ? Có lẽ vì nàng đang mắc bận làm mấy món cá chiên, cá hấp, lươn om, ốc nhồi trong nhà để khi chiều xuống cho vị tướng tài giỏi hiểu người biết ta nhấp rượu, ngắm trăng cùng người đẹp.

Đừng ai ném đá tui nha. Híc !

96

LỜI THƯƠNG (15)
#HoangKimLong


Bóng hạc chốn xa xôi
Đường xuân đời quên tuổi
Hoàng Thành đến Trúc Lâm
Cánh cò bay trong mơ


Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim :chùm 15 bài thơ Lời thương https://hoangkimlong.wordpress.com/category/loi-thuong/

97

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là minh-triet-cho-moi-ngay.jpg

MINH TRIẾT CHO MỖI NGÀY
Hoàng Kim

Cẩn trọng giữ sức khỏe
Minh triết cho mỗi ngày
Dạy học và làm vườn
An nhiên vui khỏe sống

Lối tư duy Đông Tây Nam Bắc xưa và nay có nhiều sự khác biệt. Góc nhìn Mỹ, giấc mơ Mỹ, lối sống Mỹ lựa chọn biểu tượng George Washington “trang nghiêm và uy nghi, trước sau như một, ôn hòa và thành thật, lễ nghĩa công bình nhân đạo” thích “nói và làm đi đôi” “nói và làm nhất quán” mới tạo được “lòng tin chiến lược. Thế nhưng, góc nhìn phương Đông có thể khác “quyền biến“, “mềm, năng động, có mềm có cứng“, “trong cứng có mềm, trong mềm có cứng“,”nói vậy mà không phải vậy“, “nói một đằng làm một nẻo“, “bất kể mèo trắng mèo đen, miễn là bắt được chuột“, “không không có có không có có không“. Điều đó có nghĩa : nói làm đi đôi, làm mà không nói, nói mà không làm, có thể cứng Rule, có thể mềm, vô pháp vô thiên như cách Mao Trạch Đông. (xem thêm Bình sinh Tập Cận Bình) Ở Việt Nam ngày nay nhìn sâu và thực tiễn từ nhận thức lý luận đến thực hành quản lý Đảng Cộng sản Việt Nam thời nay nêu ra hai luận điểm tư duy cơ bản có giá trị nền tảng: 1) XÂY dựng chỉnh đốn Đảng và Hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; 2) CHỐNG sự suy thoái của cán bộ đảng viên về tư tưởng, đạo đức, lối sông, vi phạm quy định về những điều đảng viên không được làm, dẫn đến sự khác biệt trong nhận thức, nghĩ, nói và làm. xem tiếp Minh triết cho mỗi ngày https://hoangkimlong.wordpress.com/category/minh-triet-cho-moi-ngay/

98

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là nha-trang-va-yersin.jpg

SẮN VIỆT ĐẤT ÔNG HOÀNG
Hoàng Kim


Sắn Việt Đất Ông Hoàng
Nha Trang và A. Yersin;
Huyền thoại xứ Trầm Hương
Hòn Bà sông Nha Trang
Báu vật nơi đất Việt

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là ve-suoi-dau-nha-trang-tham-yersin.jpg

Đất Ông Hoàng A. Yersin

Trại Chăn nuôi  Suối Dầu ở Suối Cát xã Cam Lâm, cách Nha Trang 20 km về phía nam và cách Đà Lạt 191 km. Nơi cột cây số ven đường Quốc lộ 1 có tấm bảng hiệu khiêm nhường chỉ đường vào đất lành suối Dầu ông Năm Yersin. (Suối Dầu hay suối Giầu, giống như Đại Ngãi hay Đại Nghĩa, quê hương người anh hùng lao động Lương Định Của con đường lúa gạo Việt Nam ở Sóc Trăng). Trại Chăn nuôi Suối Dầu Cam Lâm chính nơi đây năm 1993 đã là nôi khảo nghiệm nhân giống sắn KM94, SM937-26 ra Khánh Hòa và các tỉnh miền Trung Việt Nam sau hơn nữa thế kỷ từ năm 1943 mà bác Năm Yersin mất. Chị Đinh Thị Dục, giám đốc Trung tâm Khuyến Nông và Khuyến Lâm Khánh Hòa đã phối hợp cùng chúng tôi công bố kết quả này tại sách sắn ”Chương trình sắn Việt Nam hướng đến năm 2000″ trang 239 – 243. Tôi tìm về di sản đất lành Suối Dầu ông Năm Yersin với biết bao xúc động cảm khái. Tôi lắng nghe các cây cao su già trăm tuổi, mía, đồng cỏ …và các ruộng sắn rì rào trò chuyện với gió núi, gió đồng quê gió biển. Chính nơi đây, trên một phần tư thế kỷ trước, chúng tôi đã đến đây nhiều lần và thấu hiểu và chiêm nghiêm trên cõi đời này có nhiều điều uẩn khúc. Mục tiêu sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật có lời giải đúng và làm được việc. xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/san-viet-dat-ong-hoang/

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là sanvietnam19971.jpg

Chúng tôi đến trồng sắn KM94, SM937-26 tại khu đất 500 ha của ông Năm Hoàng Yersin tại Suối Dầu Cam Lâm . Đó là một duyên may kỳ lạ. Giống sắn KM94 đã loang nhanh khắp miền Trung và Việt Nam, thành giống sắn chủ lực Việt Nam. Giống sắn SM937-26 sau gần 30 năm (1994-2022) nay vẫn là một trong những nguồn lợi chính cho bao người dân ở tỉnh Khánh Hòa. Ngày 25 tháng 4 năm 2022, đề tài “Một số giống cây trồng, vật nuôi đạt hiệu quả kinh tế phù hợp trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa” do tiến sĩ Nguyễn Thanh Phương, nguyên Phó Viện Trưởng Viện Khoa học Nông nghiệp Duyên hải Nam Trung Bộ chủ trì thực hiện, phối hợp cùng với Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn với các cơ quan hữu quan Khánh Hòa đã đánh giá thực trạng nguồn vật liệu giống cây trồng vật nuôi tốt của tỉnh Khánh Hòa. Đề tài tiếp tục xác nhận rằng giống săn SM937-26 là giống sắn tốt nhất hiện nay trên địa bàn tỉnh (Giống sắn này được tích hợp gen tốt thành KM397, đang tiếp tục bảo tồn phát triển giống sắn KM568) xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/san-viet-dat-ong-hoang/

99

CUỘC ĐỜI THÀNH TRANG VĂN
Hoàng Kim


Có một ngày như thế
Cuộc đời thành trang văn
Hoàng Lê bảy năm trước
Mừng ngày mới tháng năm.

xem tiếp Câu chuyện ảnh tháng năm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cuoc-doi-thanh-trang-van/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ba-den/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/co-mot-ngay-nhu-the/

BÀ ĐEN
Hoàng Kim

Người đi tìm Ngọc phương Nam
Nhớ bầu sữa Mẹ muôn vàn yêu thương
Bà Đen Dầu Tiếng Tây Ninh
Khoai mì đậu phộng nên danh ơn Người .

xem tiếp Bà Đen https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ba-den/ Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tho-tu-tuyet-hoang-kim/

100

Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là co-mot-ngay-nhu-the.jpg

BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN
Hoàng Kim


Bảo tồn và phát triển
Một gia đình yêu thương
Có một ngày như thế
Cuộc đời thành trang văn

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/mot-gia-dinh-yeu-thuong/#Thungdung Thơ Tứ tuyệt Hoàng Kim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tho-tu-tuyet-hoang-kim/

Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là co-mot-ngay-nhu-the-1.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là co-mot-ngay-nhu-the-2.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là co-mot-ngay-nhu-the-3.jpg
Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là bao-ton-va-phat-trien-1.jpg

BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN
Hoàng Kim


Bảo tồn và phát triển thích hợp bền vững là bài học cuộc sống lắng đọng đặc biệt quý giá. Hình ảnh trên đây chỉ là một thí dụ nhỏ của câu chuyện Một gia đình yêu thương Một nếp nhà văn hóa gợi mở cho sự ghi chép và nghiên cứu về Đối thoại nền văn hóa.

Cụ Nguyễn Trãi có câu “Nên thợ, nên thầy nhờ có học/ No ăn, no mặc bởi hay làm” Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm thì viết rằng: ”Đạo trời đất là Trung Tân. Vẹn toàn điều Thiện là Trung, không vẹn toàn điều Thiện thì không phải là Trung. Tân là cái bến, biết chỗ dừng lại là bến chính, không biết chỗ dừng lại là bến mê… Nghĩa chữ Trung chính là ở chỗ Chí Thiện. Trung Tân quán bi ký, 1543). Đạo ở mình ta lấy đạo trung/ Chớ cho đục, chớ cho trong (Thơ chữ Nôm, Bài số 104) Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn, người đến chốn lao xao (Thơ chữ Nôm, Bài số 79). Nơi vắng vẻ theo ý Cụ là không ham những chốn “lao xao” thanh tịnh để sáng chí , thanh đạm để đến xa. Cụ Hồ Chí Minh dạy rằng “Muốn cải tiến kỹ thuật phải biết kỹ thuật. Muốn cải tiến tổ chức lao động, cũng phải biết phương pháp tổ chức và có kinh nghiệm tổ chức” Bảo tồn và phát triển thích hợp bền vững là đường sống.

Di truyền và biến đổi Châu Mỹ chuyện không quên, là nội dung chính của bài viết này. Tôi trầm tư nghĩ về người Mỹ di truyền và biến đổi khi thăm người da đỏ ở Mexico, khảo sát cây ngô nguồn gốc di truyển và sự tiến hóa, so sánh bữa ăn thường ngày của người dân nông thôn Mexico và Obregon California bản địa truyền thống với người dân ở các phố xá sầm uất hiện nay khi tôi may mắn được đi dọc suốt các bang miền Tây nước Mỹ. Sự bảo tồn và phát triển, điều gì được giữ lại và điều gì đang biến đổi phát triển?. Mệnh trời (thiên mệnh, số trời) ở đâu?. Ai nhân danh công lý để hủy diệt cái xưa củ, cái lạc hậu yếu kém, cái không thích hợp? Luật nhân quả, luật di truyền và biến đổi, bảo tồn và phát triển thích hợp bền vững là gi? Điều lạ là chẳng phải tôi ở ngành di truyền chọn giống nông học quan tâm câu chuyện “Người da đỏ ở Mexico” mà các em tôi là giáo sư Nguyễn Hữu Minh và phó giáo sư tiến sĩ Nguyễn Chiến Thắng ở ngành xã hội học và kinh tế học của khoa học nhân văn, nguyên là cựu sinh viên Georgetown University thuộc Washington, United States, cùng với Nga Lê, Anh và Tim, và hầu như cả nhà, ai cũng đều rất quan tâm điều đó. “Người da đỏ ở Seattle“, “Vị thần Inca bị quên lãng” là điểm nhấn được bảo tồn để quay lại.

Machu Picchu, di sản thế giới UNESCO ở Peru, nơi được Tổ chức New7Wonders chọn là một trong 7 kỳ quan thế giới mới. Đó là di sản nền văn minh Inca, người da đỏ Inca  và thần Mặt trời. Đấy thực sự là một kho báu vĩ đại tâm linh khoa học kỳ bí chưa thể giải thích được. Đền thờ thần Mặt trời tựa lưng vào tựa lưng vào “Cổ Sơn” cột chống trời, “Thành phố đã mất của người Inca, theo cổ ngữ của người Inca; Đó là một khu tàn tích Inca thời tiền Columbo trong tình trạng bảo tồn tốt ở độ cao 2.430 m trên một quả núi có chóp nhọn tại thung lũng Urubamba ở Peru, khoảng 70 km phía tây bắc Cusco. Tất cả các chuyến đi tới Machu Picchu đều xuất phát từ Cusco. Tại thủ đô Lima có một đường bay nội địa dẫn tới Cusco. CIP rất gần trung tâm Lima và sân bay quốc tế nên rỗi hai ngày là bạn có thể đi thăm được.

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là minh-trie1babft-ce1bba7a-thomas-jefferson.jpg

Minh triết Thomas Jefferson tôi đọc kỹ lại chủ thuyết của ông và suy ngẫm trong sự so sánh với Viện Goethe, Viện Khổng Tử, với học thuyết tiến hóa của Darwin, và kể cả với cái gọi là học thuyết “không gian sinh tồn” đầy tranh cãi Điều gì là quy luật của tạo hóa? Điều gì là tương đồng, điều gì là tương phản và điều gì là dị biệt trong các học thuyết di truyền và biến đổi ?. Tỉnh lặng để thấu hiểu tiếng vọng thời gian. Thomas Jefferson là vị tổng thống thứ ba của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, ông là người sáng lập ra Đảng Dân chủ và Cộng hòa Hoa Kỳ, là nhà tư tưởng, lập pháp hàng đầu của nước Mỹ, một nhà triết học chính trị theo chủ nghĩa tự do nhiệt thành có ảnh hưởng lớn nhất thời cận đại Vị trí của ông chỉ đứng sau George Washington người có công lớn khai sinh ra nước Mỹ,. Di sản lớn nhất của Thomas Jefferson là tác giả của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ, của Đạo Luật Virginia về Tự Do Tôn Giáo và Người Cha của Đại Học Virginia’.

Nhân chủng học Người Mỹ trở thành đề tài nóng trong sự tiếp cận đa ngành tìm hiểu người Mỹ hiện đại. Người Mỹ di truyền và biến đổi, con đường di sản còn nhiều điều cần học và bàn luận. Người Mỹ ở nước Mỹ có lẽ được nghiên cứu về dân tộc học kỹ hơn hết so với nhiều nước trên thế giới. Dân số nước Mỹ năm 2016 ước khoảng 323,14 triệu người. Hoa Kỳ là một quốc gia đa chủng tộc, nơi sinh sống của nhiều người có nhiều nguồn gốc quốc gia và chủng tộc khác nhau. Vì vậy, Hoa Kỳ là một quốc gia đa văn hóa, nơi có rất nhiều truyền thống và giá trị đa dạng khác nhau. Nền văn hóa phương Tây khởi đầu từ của những người định cư Hà Lan, Anh, Đức Ái Nhĩ Lan, Ý, Ba Lan Pháp, Scotland hòa máu với dòng văn hóa bản địa sắc tộc Mỹ trở thành dòng chủ đạo.

Người Mỹ gốc Phi và nền văn hóa đặc sắc Mỹ gốc châu Phi, phát triển trên truyền thống của những người nô lệ Trung Phi ngày nay khi được hòa trộn với văn hóa bản địa sắc tộc Mỹ đã có ảnh hưởng sâu rộng đến nền văn hóa dòng chính của Mỹ. Sự bành trướng lãnh thổ của Hoa Kỳ về miền Tây đã hội nhập vùng Louisiana và vùng Tây Nam Spenish Territory ngôn ngữ Tây Ban Nha và văn hóa Mexico đến gần hơn với Hoa Kỳ. Làn sóng di dân ồ ạt từ Đông Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latin tới nước Mỹ suốt những thập kỷ qua đã hòa trộn lan tỏa nấu chảy các nền văn hóa để có dòng chủ lưu và các đặc điểm văn hóa riêng biệt của tổ tiên mình. Người Mỹ còn có hơn 4 triệu người sống ở ngoại quốc, chủ yếu ở Canada, Mexico và châu Mỹ Latinh.

So sánh các nhóm sắc tộc và chủng tộc của người Mỹ và người Mexico cho thấy: Tại México người lai giữa người da trắng và người da đỏ ước 60-75%, người da đỏ bản địa chiếm tỉ lệ 12 – 30% dân số; người da trắng đến từ Tây Ban Nha, Mỹ, Canada, Pháp, Ý, Bồ Đào Nha, Đức, Ba Lan, Nga,…chiếm tỉ lệ 9 – 25 %; người da vàng đến từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Philippines, Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ … và người da đen đến từ châu Phi chiếm tỷ lệ ít hơn.

Tại Mỹ những số liệu chi tiết tôi chưa có cơ hội khảo sát sâu hơn nhưng sự sử dụng ngôn ngữ của người Mỹ đã cho thấy: Các ngôn ngữ (2007) Tiếng Anh (1 ngôn ngữ) 225,5 triệu; Tiếng Tây Ban Nha bao gồm tiếng Creole 34,5 triệu; Tiếng Hoa 2,5 triệu; Tiếng Pháp bao gồm tiếng Creole 2,0 triệu; Tiếng Tagalog 1,5 triệu; Tiếng Việt 1,2 triệu; Tiếng Đức 1,1 triệu; Tiếng Triều Tiên 1,1 triệu. Cập nhật thông tin về sắc tộc và ngôn ngữ sẽ rất thú vị trong sự nghiên cứu di truyền và biến đổi.

Tiến sĩ Hannibal Multar, là người Mỹ gốc Do Thái Jesusalem, chuyên gia CIMMYT dẫn tôi đi thăm thăm nguồn gốc cây ngô ở thung lũng Oaxaca ở Tây Nam Mexico và cộng đồng người da đỏ ở Teotihuacan thành phố thời tiền Colombo, di sản thế giới 1987 tại Mexico, thăm kim tự tháp cổ Monte Alban trung tâm của nền văn minh Zapotec, di sản thế giới năm 1987 ở tiểu bang Oaxaca phía nam Mexico. Chuyến đi tôi tóm tắt ở bài Mexico ấn tượng lắng đọng.

Cây ngô có tên khoa học là Zea mays L. do nhà thực vật học Thụy Điển Linnaeus đặt tên theo hệ thống tên kép Hy Lạp – La tinh: Zea là một từ của Hy Lạp để chỉ cây ngũ cốc và mays là từ “Maya”, tên một bộ tộc da đỏ ở vùng Trung Mỹ. Cây ngô có nguồn gốc ở Trung Mỹ, trồng nhiều nhất ở Châu Mỹ, nước trồng nhiều nhất là Hoa Kỳ, sản lượng ngô năm 2014 khoảng 353 triệu tấn/năm. Cây ngô hiện đại đã là kết quả thuần dưỡng từ cỏ ngô Teosinte thung lũng sông Balsas, ở nam Mexico từ 5.500 tới 10.000 TCN. Dấu tích bắp ngô khảo cổ tìm thấy sớm nhất khoảng năm 4.250 TCN tại hang Guila Naquitz trong thung lũng Oaxaca ở tây nam Mexico. Oaxaca là một trong 31 tiểu bang của Mexico được bao bọc bởi các bang Guerrero về phía tây, Puebla về phía tây bắc, Veracruz về phía bắc, Chiapas về phía đông và đường bờ biểnThái Bình Dương ở phía nam. Cây ngô tại Trung Mỹ sau đó được lan dần ra các khu vực xung quanh trở thành cây lương thực quan trọng nhất của châu Mỹ trước khi Cristop Colông tìm ra châu Mỹ. Đến cuối thế kỉ 15, cây ngô được người Tây Ban Nha đưa về trồng ở vùng Địa Trung Hải, Italia, Pháp… sau đó người Bồ Đào Nha đưa sang Trung Quốc, Nhật Bản…ở Châu Á và đến thế kỉ 16 mới đưa sang các nước châu Phi (José Antonio Serratos Hernández 2009). Ở Việt Nam cây ngô có nguồn gốc từ Trung Quốc. Đầu đời Khang Hi, năm 1685, Trần Thế Vinh đi sứ nhà Thanh lấy được giống ngô đem về nước (Lê Quý Đôn “Vân Đài loại ngữ” ). Ngô được trồng ở hạt Sơn Tây, làm lương thực chính, sau đó lan rộng ra cả nước. Cây ngô từ nguồn gốc ban đầu ở Mexico nay vùng phân bố phổ biến khắp toàn cầu với sản lượng đứng đầu cây lương thực cây thực phẩm và thức ăn gia súc. Tổng sản lượng ngô toàn cầu năm 2014 là 1.016,74 triệu tấn, kế tiếp là lúa nước 745,71 triệu tấn, lúa mì 713,18 triệu tấn. (Hoàng Kim chủ biên 2017).

Mexico là nôi cội nguồn của cây ngô. Người dân México cho đến nay mặc dẫu đã nhiều thay đổi nhưng bữa ăn truyền thống vẫn dùng ngô làm món ăn chính. Ngô được ăn chung với các loài rau đậu, ớt, cà chua, lúa mì. México là nơi ra đời có nhiều loại bánh ngô có nhân thịt hoặc trộn rau, bánh ngô phomat, bánh ngô cay, thực phẩm đồ uống phổ biến là sữa ngô và rượu tequila được chế từ lá cây Agave Azul Tequilana, một loài thực vật bản địa ở Mexico, có độ cồn từ 38–40%, cá biệt có loại có độ cồn lên tới 43–46%. Ngày nay việc sử dụng gạo cũng rất phổ biến tai México để làm lương thực, ngoài ra còn có thịt bò, thịt lợn, thịt gà, rượu nho, tỏi, đu đủ, dứa, ớt cay, khoai lang, đậu, lạc, chocolate … thế nhưng món ăn ngô vẫn chủ đạo trong đời sống thường ngày.

Tôi liên tưởng câu chuyện “Thăm ngôi nhà cũ của Darwin”. Charles Robert Darwin (12 tháng 2, 1809 – 9 tháng 4, 1882) là một nhà nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực tự nhiên học người Anh. Tại ngôi nhà cũ bình dị Down House ở Anh, Darwin đã làm việc về thuyết tiến hóa bởi chọn lọc tự nhiên và nhiều thí nghiệm khác. Ông đã phát hiện và chứng minh rằng mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên.“Nguồn gốc các loài” của Charles Darwin, xuất bản lần đầu tiên ngày 24 tháng 11, năm 1859 là ấn phẩm khoa học tiêu biểu và là tác phẩm nòng cốt của ngành sinh học tiến hóa. Tôi đến thăm ngôi nhà xưa của ông trước đây ở Anh ngắm nhìn đôi mắt nhà tự nhiên học người Anh Charles Darwin soi thấu nguồn gốc muôn loài, và thật ngưỡng mộ sức khái quát của ông trong sự đúc kết “Nguồn gốc các loài”. Triết lý của Charles Darwin thật sâu sắc. “Mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên.

Ý tưởng thật lạ này của sinh học tiến hóa.cứ đeo bám tôi suốt nhiều năm khi tôi so sánh cơ hội đến “Thăm ngôi nhà cũ của Darwin”, được du học ở “Viện Di truyền Mendel Tiệp Khắc”, thăm Praha Goethe và lâu đài cổ , Tiệp Khắc kỷ niệm một thời, Dạo chơi cùng Goethe, thăm Di sản Walter Scott, Nghị lực, Học để làm ở Ấn Độ, có thời gian làm việc với Những người bạn Nga của Viện Vavilop, được đến Brazil và nhiều nước Nam Mỹ thấu hiểu tài liệu quý 500 năm nông nghiệp Brazil, may mắn tiếp cận trang vàng của những người thầy lớn có tầm nhìn rộng và sức khái quát cao. Tôi may mắn cũng đã được trãi nghiệm một phần trong 90 năm Viện KHKTNN miền Nam; 60 năm Đại học Nông Lâm TP. HCM và duyên may đã được học tận gốc, nhiều trăn trở may kịp chụp ảnh lại, nay rỗi rãi nhớ việc thăm người da đỏ ở Mexico ở Oregon miền Tây nước Mỹ và thăm cây ngô nguồn gốc phát sinh và đa dạng di truyền ở Mexico. Tôi lẩn thẩn nhớ về học thuyết tiến hóa và liên tưởng tới sự tương quan giữa cây Ngô di truyền và biến đổi với người Mỹ di truyền và biến đổi. chỉ tiếc vẫn là mình đang dạo chơi trong thực tiễn và ký ức vụn mà chưa lý giải gì được về điều này một cách có hệ thống.

Bảo tồn và phát triển thích hợp bền vững là bài học cuộc sống lắng đọng đặc biệt trân quý . Di truyền và biến đổi; Châu Mỹ chuyện không quên; Một gia đình yêu thương; Một nếp nhà văn hóa Bảo tồn và phát triển https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien/

101

KON KA KINH GIA LAI
Hoàng Kim

Kon Ka Kinh Kon Ka Kinh
Thăm thẳm Gia Lai bát ngát xanh
Vườn Quốc gia Việt Nam Hồn Việt
Trầm Hương hoa núi nhớ hương rừng

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/kon-ka-kinh-gia-lai/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tho-tu-tuyet-hoang-kim/

Kon Ka Kinh Kon

Như Mai ngày đã trao đổi : “Thầy Hoàng Kim ơi, em tìm hiểu thông tin trên Wikipedia thì thấy có 2 VQG Tà Đùng (ĐăkNong) (công nhận năm 2018) và VQG Sông Thanh (Quảng Nam)(công nhận tháng 12/2020). Nhưng ở đây không thấy Thầy liệt kê ạ. Thầy cho em hỏi những thông tin này em nên tìm tài liệu ở những trang nào ạ, Em cảm ơn Thầy ạ.”; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vuon-quoc-gia-viet-nam/

VƯỜN QUỐC GIA VIỆT NAM
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim

Việt Nam hiện có 35 Vườn Quốc Gia (VQG) Ở vùng núi và trung du phía Bắc có 1) Tam Đảo, 2) Hoàng Liên, 3) Ba Bể, 4) Cao nguyên đá Đồng Văn, 5) Phia Oắc – Phia Đén, 6) Bái Tử Long, 7) Xuân Sơn, 8) Quần thể di tích danh thắng Yên Tử; Ở vùng đồng bằng sông Hồng có 9) Ba Vì, 10) Cúc Phương, 11) Cát Bà, 12) Xuân Thủy; Ở vùng ven biển bắc Trung Bộ có 13) Phong Nha – Kẻ Bàng, 14) Bến En, 15) Pù Mát, 16) Vũ Quang ; Ở vùng ven biển nam Trung Bộ có 17) Bạch Mã, 18) Núi Chúa, 19) Phước Bình; 20) Sông Thanh ; Ở vùng Tây Nguyên có 21) Chư Yang Sin, 22) Bidoup Núi Bà, 23) Chư Mom Ray, 24) Kon Ka Kinh, 25) Yok Đôn; 26) Tà Đùng; Ở vùng Đông Nam Bộ có 27) Cát Tiên, 28) Lò Gò-Xa Mát, 29) Bù Gia Mập,  30) Côn Đảo; Ở vùng Tây Nam Bộ có 31) Mũi Cà Mau, 32) Phú Quốc, 33) Tràm Chim, 34) U Minh Hạ,  35) U Minh Thượng;

Tổng diện tích Vườn Quốc Gia Việt Nam công nhân trước năm 2018 (chưa tính Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử và Tà Đùng, Sông Thanh ) khoảng 10.455,74 km² (trong đó có 620,10 km² là mặt biển), chiếm khoảng 3% tổng diện tích lãnh thổ đất Việt Nam. Riêng Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử là khu di tích lịch sử văn hóa thiên nhiên đặc biệt gắn liền với sự ra đời, hình thành và phát triển của thiền phái Trúc Lâm Việt Nam được kỳ vọng là di sản thế giới liên tỉnh Bắc Giang, Hải Dương và Quảng Ninh đầu tiên ở Việt Nam đã lập hồ sơ trình UNESCO công nhận nhưng tạm thời dừng lại vì những lý do đặc biệt liên quan đến sự bảo đảm an ninh và phát triển bền vững quốc gia.

(trích …)

Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh là một vườn quốc gia của Việt Nam, nằm ở cao nguyên Kon Tum, thuộc địa bàn ba huyện Mang Yang, KBang và Đắk Đoa của tỉnh Gia Lai, phần trung tâm nằm ở xã Ayun, huyện Mang Yang, phía đông bắc tỉnh Gia Lai, cách thành phố Pleiku khoảng 50 km về hướng đông bắc. Vườn quốc gia Kon Ka Kinh được thành lập theo Quyết định số 167/2002/QĐ-TTg ngày 25 tháng 11 năm 2002 của Thủ tướng chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trên cơ sở chuyển đổi và nâng cấp từ Khu bảo tồn thiên nhiên Kon Ka Kinh. Diện tích là 41.780 ha, với tọa độ địa lý từ 14°09′ đến 14°30′ vĩ bắc và từ 108°16′ đến 108°28′ kinh đông. Phía bắc giáp xã Đắk Roong huyện KBang, phía nam giáp xã Hà Ra và một phần xã A Yun, xã Đắk Yă cùng huyện Mang Yang, phía đông giáp các xã Đắk Roong, Kon Pne, Kroong và Lơ Ku huyện KBang, phía tây giáp xã Hà Đông huyện Đắk Đoa.

Kon Ka Kinh Gia Lai (ảnh Hồ Thị Thùy Linh)

Vườn quốc gia Kon Ka Kinh là một khu vực ưu tiên về bảo tồn đa dạng sinh học của Việt Nam, khu vực và quốc tế mà trong tương lai nó còn là một địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Ngoài sự đa dạng và phong phú của hệ động thực vật rừng, Vườn quốc gia Kon Ka Kinh đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lưu vực đầu nguồn của các con sông như sông Ba và sông Đắk Pne, cung cấp nước tưới tiêu cho hàng ngàn ha cà phê, hồ tiêu, đất nông nghiệp và cung cấp nước sinh hoạt cho các huyện của tỉnh Gia Lai và Kon Tum. Phía tây của vườn quốc gia là một phần lưu vực của nhà máy thủy điện Yaly. Vườn quốc gia Kon Ka Kinh đã thống kê được 687 loài thực vật thuộc 459 chi và 140 họ, trong đó có 11 loài đặc hữu, 34 loài quý hiếm, đã được ghi trong sách đỏ Việt Nam và thế giới, 428 loài động vật, trong đó có 223 loài động vật có xương sống sinh sống trên cạn (34 bộ, 74 họ) và 205 loài động vật không xương sống (như bướm) thuộc 10 họ bộ Cánh vẩy

Vườn Quốc Gia ở Việt Nam 20a VQG  Kon Ka Kinh (ảnh tư liệu VQG Kon Ka Kinh, trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vuon-quoc-gia-viet-nam/

102

VƯỜN GIỐNG SẮN ĐỒNG XUÂN
Hoàng Kim


Trăm năm ai chớ phụ ai,
chỉ thêu nên gấm, sắt mài nên kim

(ca dao Việt cổ)

Vườn giống sắn Đồng Xuân
Chuyện hiền vui trăm năm
Một niềm tin thắp lửa
Ân tình đất phương Nam.

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vuon-giong-san-dong-xuan/

103

NẮNG BAN MAI NGÀY MỚI
Hoàng Kim

Hoàng Thành trông năm tháng
Đồng xuân lưu dấu hiền
Nắng ban mai ngày mới
Đất Phú Trời Bình Yên

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nang-ban-mai-ngay-moi/

104

NGÀY MỚI NHỚ BẠN HIỀN
Hoàng Kim

Hoa Lúa yêu thương thầy bạn quý.
Ngọc lành trĩu nặng giữa đồng xuân
Tâm sáng đường xuân đời quên tuổi
Nắng mới hương quê bát ngát gần.

https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-27-thang-8/https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tho-tu-tuyet-hoang-kim/

CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM

Cây Lương thực Việt Nam #CLTVN chủ yếu có lúa ngô, sắn, khoai. Ẩm thực Việt, nguồn thức ăn đồ uống Việt (Food & Drink) bao gồm gạo ngô, sắn, khoai, cây đậu đỗ thực phẩm, rau hoa quả, thịt, cá, … Dạy và học cây lương thực ngày nay ngày càng đòi hỏi sự hiểu biết chuyên sâu và có sự kết nối liên ngành, nâng cao sự liên kết hiệu quả sản xuất chế biến cung ứng tiêu thụ sản phẩm thành chuỗi giá trị ngành hàng. Mục tiêu nhằm.nâng cao giá trị chất lượng cuộc sống của người dân, tỏa sáng Việt Nam đất nước con người ra Thế giới về giống cây lương thực Việt, thương hiệu Việt, hiệu sách Việt, sinh thái nông nghiệp, ẩm thực, ngôn ngữ, lịch sử văn hóa Việt Nam.

Một số sản phẩm Cây Lương thực Việt Nam thương hiệu Nông Lâm được nghiên cứu phát triển, trồng phổ biến trong sản xuất những năm qua, là lời biết ơn chân thành của các tác giả với Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm 65 năm ngày thành lập (19/11/1955-19/11/2020), Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam đường tới IAS 100 năm (1925-2025) với thầy bạn và đông đảo nông dân. Bài viết này giới thiệu một số đúc kết tư liệu liên quan.dạy và học Cây Lương thực Việt Nam giúp bạn đọc tiện theo dõi. Cây Lương thực Việt Nam #CLTVN

HOÀNG LONG CÂY LƯƠNG THỰC
#CLTVN https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-long-cay-luong-thuc Dạy và học trực tuyến Cây Lương thực Việt Nam https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cay-luong-thuc-viet-nam/; Tin Hội thảo khoa học; DẠY VÀ HỌC Việt Nam học; CNM365 Tình yêu cuộc sống; Chuyển đổi số nông nghiệp; Bảo tồn và phát triển sắn; Lúa siêu xanh Việt Nam

Dạy và học trực tuyến
CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAM
Hoàng Long, Hoàng Kim và đồng sự
http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong
Bài học Cây Lương Thực (đọc thêm ngoài bài giảng)
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-long-cay-luong-thuc/

105

TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
Hoàng Kim

Sớm mai đón mai nở
Mặt trời hồng đang lên
Bài ca nhịp thời gian
Hoa Đất của quê hương

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tinh-thuc-cung-thang-nam/

Tôi nhiều lần đến Ấn Độ, đã một lần may mắn tới được quê hương Phật, và tự mình trồng một nhánh Bồ Đề ở vườn nhà để nay cây đã lớn. Minh triết của đức Phật Lời Phật dạy trong lòng tôi là triết lý tình yêu cuộc sống,.lắng đọng 27 khẩu quyết yêu thích, lan tỏa trong đời thường mà tôi thật sự tâm đắc.Tôi thích nên chép lại để đọc lại và suy ngẫm mà chưa thật rõ nguồn gốc của những lời này sự xác tín lời nói có ở sách nào, với ai, khi nào, ở đâu, trong hoàn cảnh nào. Người Thầy tâm thức trong tôi là Trúc Lâm Trần Nhân Tông. Người Thầy gần gũi tôi là Thiền Sư Lão Nông Tăng https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thien-su-lao-nong-tang/; Tác phẩm khoa học mà tôi yêu thích là Bảy Kỳ Quan Phật Giáo Thế Giới https://youtu.be/aMgIJ16_uDg

LỜI PHẬT DẠY

An nhiên
CNM365
xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tinh-thuc-cung-thang-nam/

Hình ảnh này không có thuộc tính alt; tên tập tin này là NLU.jpg

CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Mẫu phương Nam Tao Đàn

Mẫu Phương Nam Tao Đàn (ảnh Hoàng Kim)

HOA ĐẤT THƯƠNG LỜI HIỀN
Hoàng Kim

Mẫu Phương Nam Tao Đàn
Đường Huyền Trân Công Chúa
Nam tiến của người Việt
Hoa Đất thương lời hiền

xem tiếp Hoa Đất thương lời hiền Chuyện đồng dao cho em Phục sinh giữa tối sáng Tỉnh lặng với chính mình Vui đi dưới mặt trời Vui bước tới thảnh thơi Vui sống giữa thiên nhiên Đọc “Ngụ ngôn thời @” Mười năm ở Bạc Liêu Chuyện cổ tích người lớn

ĐỢI ANH NGÀY TRỞ LẠI
Hoàng Kim

Anh như cơn mưa ngọt đầu mùa
Mang đến niềm vui của ngày gieo hạt
Mai Việt nở bừng khoe sắc
Đằm thắm ”Lời thì thầm của dòng sông”

Anh và em như bức tranh tĩnh vật treo tường
Một đôi bình gốm qúy
Cặp bình giản dị
Sang trọng,
khiêm nhường
tỏa sáng cho nhau

Anh mang đến cho em giấc ngủ nhiệm màu
Xoá đi ưu tư phiền muộn
Anh vỗ về em
bằng lời ru ngọt ngào cảm động
Tìm những nét cao quý nhất trong em
mà trân trọng giãi bày

Anh thân yêu
Nay anh đã xa rồi
Em vẫn ước mong anh
Đợi anh ngày trở lại


ĐỢI ANH NGÀY TRỞ LẠI
(Bài thơ của sự khát khao chờ đợi)

Anh Vạn An là chủ bút của blog THƠ VÀ VẼ. Anh là người trãi nghiệm, giản dị và tinh tế. Anh đã thân ái chào cư dân blog để đi đâu không rõ. Việc anh vắng lâu đã làm nhiều người sững sờ, trong đó có Lâm Cúc, Huỳnh Mai, Bích Nga, Hoài Vân, Phương Phương SG, Juliete … và tôi là những người thường được anh dành ưu ái cảm nhận. Tội nghiệp cho Juliete, sau khi anh đi, cô cũng bặt tin luôn kể từ dạo đó. Thế mới thấy những người tri kỷ họ quý nhau đến dường nào!

Bất cứ ai đã từng tiếp xúc với trang weblog của anh Vạn An đều nhìn nhận rằng đây là một nhà họa sỹ bậc thầy và là một nhà thơ tài hoa. Tôi đã viết bài thơ “Đợi Anh” cho anh, cho tôi, cho con tôi và cho những người yêu đang khao khát chờ đợi. Tôi cũng viết bài thơ này cho những người thân thương đang ngóng đợi người thân hoặc ngóng trông điều lành và niềm vui. Cái giá của sự chờ đợi thật lớn. Hạnh Phúc thay cho ai biết mình đang được yêu thương và chờ đợi và thực sự hiểu hết cái giá của sự khắc khoải chờ đợi đó.

Bài viết mới trên DẠY VÀ HỌC
https://hoangkimvn.wordpress.com bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích

Chỉ tình yêu ở lại
Bài ca thời gian
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on witter