Vĩ Dạ thương Miên Thẩm Trời thu nhớ cố nhân Hơi may sương phảng phất Nắng sớm ngọc tri âm.
VƯỜN NHÀ SỚM MAI NAY Hoàng Kim An nhởn nhơ chơi với cỏ hoa Vườn nhà sớm mai nay trời đẹp Ngoại giữ cháu giúp con dạy học Thung dung đời và khát khao xanh
Tình yêu là người thầy tốt hơn trách nhiệm (Love is a better teacher than duty). Nếu anh không thể giải thích đơn giản thì anh chưa hiểu đủ rõ (If you can’t explain it simply, you don’t understand it well enough). Học từ ngày hôm qua, sống ngày hôm nay, hi vọng cho ngày mai. Điều quan trọng nhất là không ngừng đặt câu hỏi (Learn from yesterday, live for today, hope for tomorrow. The important thing is not to stop questioning). Khoa học mà thiếu tôn giáo thì khập khiễng. Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng (Science without religion is lame, religion without science is blind). Đừng tham công nhưng hãy cố gắng làm người có ích (Strive not to be a success, but rather to be of value).Nhớ lời vàng Albert Einstein. Học và thực hành tốt năm lời vàng này là đủ dùng cho cả một đời ( Hoàng Kim) Thông tin tại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/albert-einstein-loi-vang/ và https://hoangkimvn.wordpress.com/ và http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-31-thang-7;
MIÊN THẨM THẦY THƠ VIỆT Hoàng Kim
“Ngô Cối công danh đạt hết tầm Lúc nhàn nhìn kính tóc hoa râm Tranh đua năm tháng ai hơn trước Sánh với chàng Phan giỏi bội phần” Nguồn: Tùng Thiện Vương (đời và thơ), Nguyễn Phước Bảo Quyến, NXB Thuận Hoá, 2008. (Nguyên tác: 三十见白发其二Tam thập kiến bạch phát kỳ 2 Ba mươi tuổi thấy tóc bạc kỳ 2吴会功名遂杳然,Ngô Cối công danh toại diểu nhiên, Ngô Cối công danh toại nguyện như thế等闲镜裏早华颠。 Đẳng nhàn kính lí tảo hoa điên. Lúc nhàn nhìn vào gương sớm thấy đầu tóc điểm bạc共争岁月谁先着, Cộng tranh tuế nguyệt thuỳ tiên trước, Tranh đua cùng năm tháng ai nổi tiếng trước比似潘郎胜两年。Tỷ tự Phan lang thắng lưỡng niên. Sánh tựa chàng Phan giỏi hơn hai lứa tuổi Nguồn: Phân tích những khuynh hướng tình cảm đạo lí xã hội trong thi ca Tùng Thiện Vương, Ngô Văn Chương, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hoá, 1973).
Vua Tự Đức từng viết: “Văn như Siêu Quát vô tiền Hán; Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường”. Tùng Thiện Vương Miên Thẩm là danh sĩ Việt Nam, nhà thơ lớn thời nhà Nguyễn. Ông sinh ngày 11 tháng 12 năm 1819 nhằm ngày 24 tháng 10 năm Kỹ Mão, mất năm 1870. Miên Thẩm cùng với hai em là Tuy Lý Vương, Tương An Quận Vương, được người đời xưng tụng là “Tam Đường”. Miên Thẩm tên tự Thận Minh, Trọng Uyên, hiệu Thương Sơn, biệt hiệu Bạch Hào Tử, là con trai thứ 10 của vua Minh Mạng, và là em vua Thiệu Trị. Thuở lọt lòng, ông được ông nội đặt tên là Ngợn. Đến năm 1832, khi đã có Đế hệ thi, ông được cải tên là Miên Thẩm (Nguyễn Phúc Miên Thẩm).
MIÊN THẨM SÁNH ĐỖ PHỦ
Miên Thẩm rất nổi tiếng về thơ nhưng nổi bật hơn cả là nhân cách của một danh sĩ tinh hoa, con người thận trọng, minh triết lỗi lạc, uyên bác và tài hoa như chính tên của ông Thận Minh và Trọng Uyên. Ông sống thận trọng và minh triết, trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt của chính bản thân ông. Các ông hoàng nhà Nguyễn không được đi thi, ít được tham gia chính sự, khi đất nước đang hết sức rối ren: nội bộ triều đình lủng củng, rạn nứt, loạn lạc khắp nơi, thiên tai, mất mùa nhiều năm cùng nạn ngoại bang xâm lấn. Hai trăm năm sau rất khó xác định được tài năng thật sự của ông trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự… Chỉ biết rằng sinh thời, Miên Thẩm là một ông hoàng có nhiều uy tín bởi đạo đức cao, tri thức rộng. Ông đến với mọi người đều bằng tấm lòng chân thực, khiêm tốn, phóng khoáng, không hề phân biệt địa vị, tuổi tác hay sang hèn. Nhờ vậy Tùng Vân xã (còn được gọi là Mặc Vân thi xã) mà ông là “Tao đàn nguyên súy” tập họp được nhiều danh sĩ, trong đó có Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát… Về văn nghiệp, ông là một nhà thơ chữ Hán bậc thầy, được các danh sĩ đương thời, kể cả vua Tự Đức, nhờ duyệt thơ và được một số nhà thơ Trung Quốc đánh giá cao, trong đó có Tiến sĩ Lao Sùng Quang. Cao Bá Quát (1809 – 1855) quốc sư của cuộc nổi dậy Mỹ Lương[1], và là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam, tại bài đề tựa Thương Sơn thi tập của Miên Thẩm, đã viết:…”Tôi theo Quốc công (Tùng Thiện Vương) chơi đã lâu. Thơ của Quốc công đâu phải đợi đến ngày nay mới nói đến? Và cũng đâu phải đợi đến Quát này mới có thể nói được? Sáng ngày mai, đứng ở ngoài cầu Đốc Sơ trông về phía Nam… đó chẳng phải là núi Thương Sơn ư? Mua rượu uống rồi, cởi áo ở nơi bắc trường đình, bồi hồi ngâm vịnh các bài thơ “Hà Thượng” của Quốc công, lòng khách càng cảm thấy xa xăm man mác…”
Ví Miên Thẩm sánh Đỗ Phủ liệu có nói quá hay không? Đỗ Phủ thương đọc lại được coi là Thi thánhThi sử Trung Quốc do đức độ cao thượng, tài thơ văn tuyệt vời. Đỗ Phủ cùng Lý Bạch là hai nhà thơ vĩ đại nhất thời nhà Đường. Thơ Đỗ Phủ nổi tiếng vì phong cách đơn giản và thanh lịch đặc sắc bậc nhất trong thơ cổ điển Trung Quốc. Tầm vóc Đỗ Phủ sánh với Victor Hugo và Shakespeare. Thơ Đỗ Phủ ảnh hưởng sâu sắc văn hóa cổ điển Trung Quốc và văn học hiện đại Nhật Bản. Cụ Nguyễn Du đã từng thán phục Đỗ Phủ “Thiên cổ văn chương thiên cổ sư Bình sinh bội phục vị thường ly” (Văn chương lưu muôn đời, bậc thầy muôn đời Bình sinh bái phục không lúc nào ngớt. Cụ Hồ Chí Minh trong Di chúc đã có trích thơ Đỗ Phủ. Cuộc đời Đỗ Phủ là tấm gương phản chiếu đất nước Trung Hoa thời loạn khi đời sống nhân dân tột cùng điêu đứng vì thường xuyên biến động. Đỗ Phủ bộ sưu tập thơ được bảo tồn khoảng 1500 bài thơ đều là tuyệt phẩm. Thi Viện hiện có Đỗ Phủ trực tuyến 1450 bài. Miên Thẩm ông hoàng thơ ca có phong cách thanh lịch đặc sắc Huế Việt Nam, mỗi bậc thầy một vẻ, so sánh thường khập khểnh, nhưng thơ đều thanh cao, cuộc đời và tác phẩm đều ẩn chứa tương đồng. Sớm thu đọc lại Miên Thẩm và Đỗ Phủ so sánh tương và khác biệt thật cảm khái https://hoangkimlong.wordpress.com/category/do-phu-thuong-doc-lai/
Tùng Thiện Vương Miên Thẩm cuộc đời và thơ văn thật đáng khâm phục và kinh ngạc. Miên Thẩm lưu lại cho đời 14 bộ sách, riêng bộ ‘Thương Sơn thi tập’ có 2.200 bài thơ, tiếc là thơ ông chưa được đầu tư dịch thuật Hán Nôm bảo tồn và phát triển thỏa đáng. Thi Viện chỉ mới lưu một sồ bài. Soi gương kim cổ thì danh sĩ Trung Hoa Chung Ứng Nguyên đã ví ông với đại văn hào Hàn Dũ và đại văn hào Tô Đông Pha là bát đại gia Đường Tống: “Như Thương Sơn sinh vào Trung Quốc/ Thi tài ngang với ông Hàn Dũ, ông Tô Đông Pha/ Than ôi ! đời nay ai sánh vai? /Than ôi đời nay không ai có thể sánh vai được!“. Chúng ta khi bình tâm xem xét kỹ lại cuộc đời thơ văn và tầm minh triết thì Miên Thẩm là Đỗ Phủ thơ Việt. Ba ý chính để đánh giá: Thứ nhất là chất lượng thơ. Thứ hai là khối lượng tác phẩm và những bài thơ “giản dị xúc động ám ảnh” đọng lại trong lòng người đọc; Thứ ba là tư tưởng cuộc đời nhân cách tác giả là minh triết trí tuệ gương cho người đương thời và hậu thế. Miên Thẩm cả ba ý này đều rất gần gũi với Đỗ Phủ qua những tư liệu lắng đọng ở “Miên Thẩm cuộc đời và thơ văn” nêu trên. Xin được trích dẫn giới thiệu một số bài thơ tuyển chọn dưới đây.
Thi Viện có lưu một sồ bài thơ Tùng Thiện Vương Miên Thẩm dưới đây:
“Xuân hiểu”, “Tiến trầu (cúng quan tham)”, “Nhà nghèo” là ba trong số trên hai ngàn bài thơ của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm
XUÂN HIỂU Nguyễn Phước Miên Thẩm Dịch thơ Phan Văn Các
Gió đông se lạnh màn mai Cánh hoa sương nặng giọt rơi xuống thềm Áo đơn ngại chẳng cuốn rèm Một mình nằm với hơi men ngà ngà Không yên ngựa dạo tìm thơ Hoạ bình quây gối ngắm hờ núi xuân.
Liệu tiếu đông phong hiểu mạc nhàn, Phi hoa hoà lộ trích lan can, Hà tu bất quyển khiếp y đan. Tiểu ẩm vi huân hoàn độc ngoạ, Tầm thi vô kế thúc ngâm an, Hoạ bình vi chẩm khán xuân san.
Nguồn: Khúc hát gõ mái chèo, Phan Văn Các, 1999 Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quó̂c gia, Viện nghiên cứu Hán Nôm xem thêm: Phạm Văn Ảnh 2012. Cổ duệ từ của Miên Thẩm từ văn bản đến định hướng sáng tác; Thông báo Hán Nôm học 2012, tr.62-79
TIỀN TRẦU (CÚNG QUAN THAM) Nguyễn Phước Miên Thẩm Dịch thơ Nguyễn Sĩ Đại
Sớm đã cúng tiền trầu Chiều tiền trầu lại cúng Quan lớn ưa cung phụng Oan dân rõ như ngày. Trong nhà quan lớn tiền bỏ nát Dân đen bán nhà lại bán vợ Cái xác tuy còn, mất nhà ở Gông cùm may thoát, vợ còn đâu Ôm con mà dứt tay chồng Ném trầu, trông mặt, khóc ròng cả hai!
Phù lưu tiền hành
Triêu tiến phù lưu tiền Mộ tiến phù lưu tiền Đại quan nghiệt phù lưu Nãi tuyết tiểu dân oan Đại quan đường trung tiền tác hư Tiểu dân mại gia, hoàn mại phụ Thử thân tuy tồn, gia dĩ hưu Già tỏa hạnh thoát, phụ nan lưu Bão nhi tạm lai dữ phu biệt Lộ bàng đối khấp xan phù lưu.
Con nhà nghèo khổ đau, Quanh năm rét lại đói. Bụng rỗng phải ăn rau, Lấy lửa thay chăn gối. Khắp đất là gươm đao, Đầy trời là hoạ hại. Vui vẻ thay nhà giàu, Yến tiệc suốt đêm thâu.
Tân khổ bần gia tử, Niên niên hàn phục cơ. Hiểu trường sơ thế phạn, Đống cốt hoả vi y. Biển địa do binh giáp. Mãn thiên thả tật oai, Chu môn lạc hà sự, Dạ ẩm đạt triều huy.
TỪ HIẾU VĨ DẠ XƯA
Về Huế, viếng lăng Tùng Thiện Vương gần chùa Từ Hiếu, thăm nhà xưa của nhà thơ lớn đối diện Vĩ Dạ Xưa, trò chuyện với không gian thơ rất Huế, là một thú vui nhàn tản, tĩnh lặng. Người như Tùng Thiện Vương thật hiếm. Miên Thẩm chuyện cũ viết lại để ghi nhớ về một chuyện xưa không nỡ quên: Miên Thẩm thuở lọt lòng, được ông nội đặt tên là Ngợn[1], theo Wikipedia Tiếng Việt. Ông được cải tên là Miên Thẩm (Nguyễn Phúc Miên Thẩm), vào năm 1832, khi vua Minh Mệnh ban hành Đế hệ thi. Năm lên 7 tuổi, Miên Thẩm cùng với các em vào Dưỡng Chính đường, được thầy Thân Văn Quyền[2] dạy chu đáo. Ông rất chịu khó học tập, nên mới 8 tuổi (1827), nhân theo hầu vua dự lễ Nam Giao, ông làm bài Nam Giao thi, rất được tán thưởng. Năm 1839, ông được phong làm Tùng Quốc Công, mở phủ ở phường Liêm Năng, bên bờ sông An Cựu, Huế. Năm 1849, ông lập thêm Tiêu Viên sau phủ, đón mẹ (Thục tân Nguyễn Thị Bửu) và ba em gái (Nguyễn Phúc Vĩnh Trinh, Nguyễn Phúc Trinh Thận tức nữ sĩ Mai Am và Nguyễn Phúc Tĩnh Hòa) ra phụng dưỡng chăm nuôi. Khi các em lần lượt có chồng, rồi mẹ mất, ông cải tạo phủ chính làm nhà thờ, còn mình lui về ở Tiêu Viên và dựng lều tranh bên cạnh mộ mẹ cư tang ba năm. Năm 1854, mãn tang, ông được gia phong Tùng Thiện Công. Năm 1858, ông mua 12 mẫu ruộng ở xã Dương Xuân, làm nhà ở gọi là Phương Thốn thảo đường. Năm 1865, ông giữ chức Tả Tôn Nhân phủ, trong thời gian này xảy ra sự biến giặc Chày vôi. Trước đó, ông đã gả con gái là Thể Cúc cho Đoàn Hữu Trưng, một thanh niên ở làng An Truyền (tức làng Chuồn). Năm 1866, Hữu Trưng ngầm làm cuộc nổi dậy (sử cũ gọi là giặc Chày Vôi) nhằm lật đổ vua Tự Đức. Việc thất bại, Hữu Trưng và nhiều người bị hành hình. Mặc dù trước đó, Hữu Trưng đã lấy cớ vợ cư xử trái lễ với mẹ chồng mà trả về để tránh liên lụy cho nhà vợ, Miên Thẩm cũng trói cả con gái và cháu ngoại, quỳ dâng sớ xin chịu tội. Vua Tự Đức không kết tội chỉ nói ông chọn rể không cẩn thận để mất thanh danh, nay trừ bổng trong tám năm. Suốt những năm bị trừ bổng ấy, ông lên ngôi chùa cổ Từ Lâm hoang tàn ở xã Dương Xuân làm nơi cư ngụ, vợ con phải canh tác trồng cây quả đem ra chợ bán để có cái ăn hàng ngày. Ông mất ngày 30 tháng 3 năm Canh Ngọ (tức 30 tháng 4 năm 1870) lúc 51 tuổi. Năm 1878, ông được vua Tự Đức gia tặng là Tùng Thiện Quận Vương. Năm 1929, vua Bảo Đại mới truy phong ông là Tùng Thiện Vương, tước vị mà ngày nay người ta quen gọi.Sự nghiệp trước tác của Tùng Thiện Vương rất phong phú (14 tập).Trong số đó đáng kể là Thương Sơn thi tập, gồm 54 quyển chia ra 8 tập với hơn 2.200 bài thơ. Các tác phẩm khác: Thương Sơn từ tập, Thương Sơn thi thoại, Thương Sơn ngoại tập, Thương Sơn văn di v.v… Theo như trong tập Thơ Tùng Thiện Vương [3], vào giữa thế kỷ 19 tại kinh thành Phú Xuân (Huế) đã xuất hiện một số nhà thơ dòng dõi hoàng tộc Nguyễn Phúc, trong đó có Tùng Thiện Công (tước vị của Miên Thẩm lúc bấy giờ), Nguyễn Phúc Miên Trinh, Nguyễn Phúc Miên Bửu, công chúa Mai Am (tất cả đều là em của ông) được nhiều người biết hơn cả.
Thơ của ông dù viết theo thể loại nào (hành, dao, thán, từ…), dù mang nội dung cảm hoài, ngôn chí hay thù tạc…, tất cả đều có văn pháp giản dị, ý tứ thâm sâu, chữ nghĩa chọn lọc, đều mang tính hiện thực cao (rất gần với thơ Đỗ Phủ thời nhà Đường), chứa đựng tinh thần yêu nước, thương dân, hết lòng vì bè bạn. Có thể kể đến một bài như: “Phù lưu tiền hành”, “Mại trúc dao”, “Kim hộ thán”, “Bộ hổ từ”… Bên cạnh tai ách áp bức, nhũng nhiễu, bóc lột của tầng lớp trên; người dân còn lâm cảnh đói kém, lưu tán do thiên tai như lũ lụt, hạn hán nhiều năm liền như các bài: “Nam Định hải dật”, “Thủy, Lưu dân thán”… Và thao thức, dằn dặt trước bao biến động của đất nước như các bài: “Tống Lương từ”, “Mại chỉ y”, “Vận, Khiển sầu”, “Tuế mộ mặc vân sào dạ tập”, “Thương tâm”, Đọc Nguyễn Đình Chiểu, Nhạc Phi, Nhị nguyệt nhị thập… Bên cạnh những nỗi đau chung, nơi tâm tư ông còn trĩu nỗi đau riêng.
Theo sử sách ghi, sau đám tang vua Thiệu Trị (1847), hai người cháu ruột của ông là Hồng Bảo và Hồng Nhậm cùng tranh giành ngôi vua, mở màn cho một bi kịch chốn vương triều. Cuối cùng, Hồng Bảo bị hạ ngục vì tội liên hệ với “bên ngoài”, để rồi phải tự tìm cái chết thân còn mang xiềng xích. Thảm cảnh đã được ông khéo gửi gấm trong một bài thơ khá dài: “Quỷ khốc hành”. Năm 1866, cuộc biến động ở Khiêm Lăng (loạn Chày vôi thời Tự Đức) do chính con rể đầu của ông là Đoàn Hữu Trưng chủ xướng, một lần nữa khiến vết thương lòng nhức nhói cho đến cuối đời (Vận, Tuế án độc tọa khiển muộn…).
Tuy sau này vua Tự Đức xét ông vô can, nhưng chính nỗi đau mới này cùng sự lo toan dân tình, nạn nước; đã khiến ông thêm chán ngán cảnh điện ngọc, cung son, làm tinh thần ông thêm suy sụp nơi cơ thể vốn gầy gò, lắm bệnh. Ông viết:
Lờ mờ học Đạo nửa đời người Trúc dép, đường đi mới rõ mười Thiên Mụ, Thánh Duyên trăng với sóng Bóng rừng, hương nước, có còn ai?
“Tuyệt Bút Từ”, 1870
Ngoài ra, ông còn có mảng thơ trữ tình viết về cảnh vật thiên nhiên và bè bạn…Tiến sĩ nhà Thanh là Lao Sùng Quang, khi đọc bài “Khiển hoài” của ông, đã phải khen rằng:
Đọc đến câu bạch âu hoàng diệp (của ông) Nghe người ớn lạnh hơi thu…
Thư mục về Tùng Thiện Vương Miên Thẩm không nhiều. Ngoài Tùng Thiện vương trên web Việt Nam gia phả, thì Wikipedia tiếng Việt chỉ mới có một ít thư mục về Người
^Từ điển Văn học (bộ mới, Nhà xuất bản Thế giới, 2004), sách Vua Minh Mạng với Thái y viện & ngự dược, ghi ông tên là Hiện (Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2007, tr. 46).
^Cuộc đời và sự nghiệp nhà giáo Thân Văn Quyền: [1]. Ngoài người thầy này, Miên Thẩm còn là học trò của Trương Đăng Quế và sau này cũng là cha vợ của ông.
^Thơ Tùng Thiện Vương, Lương An tuyển chọn, Nhà xuất bản Thuận Hoá 1994
THƯƠNG SƠN THƠ MIÊN THẨM
Thương Sơn thi tập 2200 bài thơ sao gọi là Thương Sơn? Đó có phải là dãy núi 苍山; cáng shān, còn gọi là Điểm Thương Sơn (点苍山, là một dãy núi kỳ vĩ trong Thiên long bát bộ danh tiếng của Kim Dung mà thực tế ngoài đời là dãy Thương Sơn dài khoảng 50 km, rộng khoảng 20 km, ở phía tây Đại Lý, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Phía đông Thương Sơn là hồ Nhĩ Hải chăng? Thương Sơn thuộc phía nam dãy núi Vân Lĩnh, phía bắc bắt đầu từ Nhĩ Nguyên, phía nam kéo dài đến cầu Thiên Sinh, phía đông giáp với hồ Nhĩ Hải, phía nam giáp với sông Hắc Huệ. Thương Sơn đỉnh cao nhất của nó là đỉnh Mã Long, cao 4.122 m, ngoài ra dãy núi này còn có 18 đỉnh khác đều cao trên 3.500 m[1] Mười chín đỉnh núi chính của Thương Sơn từ bắc xuống nam bao gồm: Vân Lộng, Thương Lãng, Ngũ Đài, Liên Hoa, Bạch Vân, Hạc Vân, Tam Dương, Lan Phong, Tuyết Nhân, Ứng Lạc, Quan Âm, Trung Hòa, Long Tuyền, Ngọc Cục, Mã Long, Thánh Ứng, Phật Đính, Mã Nhĩ, Tà Dương. 18 khe suối bao gồm: Hà Di, Vạn Hoa, Dương Khê, Mang Dũng, Cẩm, Linh Tuyền, Bạch Thạch, Song Uyên, Ẩn Tiên, Mai, Đào, Trung, Lục Ngọc, Long, Thanh Bích, Mộ Tàn, Đình Huỳnh, Dương Nam.
ĐẠI LÝ CHÙA QIAN XUN
Dưới chân núi Thương Sơn đối diện với Hồ Nhĩ Hải tại Thành phố Đại Lý có Chùa Qianxun cao 69,13 mét, là một trong những ngôi chùa cổ cao nhất của triều đại nhà Đường (618 – 907). Đây là một trong ba ngôi chùa cổ nổi tiếng, một danh thắng tuyệt đẹp có lịch sử hơn 1.800 năm, biểu tượng lịch sử sự phát triển của Phật giáo Trung Quốc. Nhiều tác phẩm điêu khắc của Phật làm bằng vàng, bạc, gỗ hoặc tinh thể, và di sản quý giá khác tìm thấy nơi này trong chùa Qianxun, đóng một vai trò quan trọng để giải thích lịch sử cổ đại của Thành phố Đại Lý.
“Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường”. Thương Sơn thi tập 2200 bài thơ của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm có lẽ cũng ẩn chứa nhiều điều hay của một thời như ngôi chùa cổ xưa và dãy núi Thương Sơn kỳ vĩ chăng? .
* Cụ Mai Khắc Ứng nghe nói vừa về Huế. Cụ là nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Huế. Cụ vừa có bài thơ “Tạ từ” rất hay gửi lại. Tôi thật ao ước được nghe kể hoặc lời bình về cụ Miên Thẩm, con người thận trọng, minh triết lỗi lạc, uyên bác và tài hoa này.
** Tử Mỹ Tô Thuấn Khâm, danh sĩ thời Bắc Tống có bài thơ Thiên Bình sơn, chung tâm sự và ngữ cảnh về vùng Ngô Cối (tên gọi Tô Châu ngày nay) Bản dịch của Lê Xuân Khải để đối sánh:
Ngô Cối dồn nhiều núi Đỉnh liền đỉnh cơ man Tên Thiên Bình trong đó Làm chủ đứng vút lên Trấn Tây Nam lẫm liệt Mọi đỉnh tranh chầu bên Ta biết ý tạo vật Chắn thiên phủ dựng nên Suối trong vòng bên dưới Thế múa bay ngước nhìn Đá to như người đứng Sừng sững lời muốn tuôn Vin giây leo bậc hiểm Tùng trúc cổ um chen Nửa vời núi đình đứng Trước vách núi xanh vươn Hốc đá phun suối ngọc Như mưa bốn mùa liền Nguồn sinh từ mây trắng Mầu phấn sữa trong ngần Năm hạn dùng tưới tắm Đủ cho cả chín miền Nước sâu trong như thế Mà ứng long chưa cần Ta vừa bị trần bỏ Hiểu biết có đôi phần Hùng thắng luôn thôi thúc Đến đây vui vô vàn Để được trong tai mắt Dẫu hổ vồ cũng cam.
Ngô Cối quát chúng san, Trấp trấp bất khả sổ. Kỳ gian hiệu Thiên Bình, Đột ngột vi chi chủ. Kiệt nhiên trấn Tây nam, Quần lĩnh tranh củng phụ. Ngô tri tạo vật ý, Tất dĩ bình thiên phủ. Thanh khê chí kỳ hạ, Ngưỡng thị thế như vũ. Vĩ thạch như trường nhân, Thụ lập dục ngôn ngữ. Môn la duyên hiểm đăng, Lạn mạn tùng trúc cổ. Trung yêu hữu nguy đình, Tiền đối thuý bích cử. Thạch đậu bính ngọc tuyền, Linh tinh tứ thời vũ. Nguyên sinh bạch vân gian, Nhan sắc nhược phấn nhũ. Hạn niên hoặc bá sái, Nhuận khả túc cửu thổ. Nại hà đãn hoằng trừng, Vị vi ứng long thủ. Dư tài khí trần trung, Nham hác tố tự hứa. Bàn hoàn trạch hùng thắng, Chi thử khoái tâm lữ. Thứ đắc nhĩ mục thanh, Chung cam tử vu hổ.
Dịch nghĩa
Vùng Ngô Cối có nhiều núi Dồn về đây không biết bao nhiêu mà kể Trong đó có núi Thiên Bình Đứng vút lên làm chủ Lẫm liệt đứng chắn phía Tây nam Mọi núi tranh nhau chầu dựa vào Ta biết đây là ý của con tạo Ắt lấy đó làm bức nình phong cho thiên phủ Suối trong vòng ở bên dưới Ngước nhìn thế như bay múa Đá to như người cao lớn Sừng sững như muốn nói Bám vào giây leo lên bậc đá chơi vơi Tùng trúc cổ um tùm Giữa vời núi có mái đình đứng chênh vênh Trước đình là vách núi xanh dựng đứng Nơi hốc đá phun ra suối ngọc Mát lạnh bốn mùa như mưa Nguồn sinh ra từ nơi mấy trắng Mầu như phấn sữa Gặp năm hạn có thể tưới tắm Đủ nước cho chín vùng đất Sao trong và sâu như thế Mà ứng long chưa lấy đi Ta mới bị bỏ rơi nơi trần thế Tự biết mình có hiểu biết Chăm chăm tìm nơi nào hùng thắng Đến đây thấy lòng sướng vui Nơi tai mắt được trong Cuối cùng dẫu có chết vì hổ cũng cam.
* Tô Thuấn Khâm 蘇舜欽 (1008—1048) tự Tử Mĩ 子美, người gốc Từ Châu (nay thuộc Trung Giang, Tứ Xuyên), chuyển đến Khai Phong (nay thuộc Hà Nam). Ông nhận chức huyện lệnh, làm chức Bình sự ở Đại Lý rồi được Phạm Trọng Yêm 范仲淹 tiến cử làm Tập hiền điện hiệu lý. Sau bị bọn quyền quý chèn ép, cách chức, về ở ẩn đình Chương Lương (nay thuộc tỉnh Giang Tô). Ông là một trong nhóm cách tân thơ ca thời bấy giờ. Nguồn: Thơ Tống/ NXB Văn học, 1991.
Người hiểu Thơ Tống Tô Thuấn Khâm Tử Mỹ là Tùng Thiện Vương Miên Thẩm chăng?
Anh đưa em vào Vườn thiêng cổ tích Nơi trời đất giao hòa Ong làm mật yêu hoa Lá non đùa nắng mới
Nhạc đồng xuân thung dung Đắm say hòa quyện Ban mai mù sương sớm Trời xanh trong như ngọc Cá nước chim trời Vui thú an nhiên…
Khoảng lặng đất trời Bí mật vườn thiêng.
VĨ DẠ THƯƠNG MIÊN THẨM Hoàng Kim
Vĩ Dạ thương Miên Thẩm Trời thu nhớ cố nhân Hơi may sương phảng phất Nắng sớm ngọc tri âm.
NHỚ LỜI VÀNG ALBERT EINSTEIN Hoàng Kim
Tình yêu là người thầy tốt hơn trách nhiệm (Love is a better teacher than duty). Nếu anh không thể giải thích đơn giản thì anh chưa hiểu đủ rõ (If you can’t explain it simply, you don’t understand it well enough). Học từ ngày hôm qua, sống ngày hôm nay, hi vọng cho ngày mai. Điều quan trọng nhất là không ngừng đặt câu hỏi (Learn from yesterday, live for today, hope for tomorrow. The important thing is not to stop questioning). Khoa học mà thiếu tôn giáo thì khập khiễng. Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng (Science without religion is lame, religion without science is blind). Đừng tham công nhưng hãy cố gắng làm người có ích (Strive not to be a success, but rather to be of value).Nhớ lời vàng Albert Einstein. Học và thực hành tốt năm lời vàng này là đủ dùng cho cả một đời ( Hoàng Kim) Thông tin tại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/albert-einstein-loi-vang/ và https://hoangkimvn.wordpress.com/ và http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và https://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-31-thang-7;
“Ngô Cối công danh đạt hết tầm Lúc nhàn nhìn kính tóc hoa râm Tranh đua năm tháng ai hơn trước Sánh với chàng Phan giỏi bội phần” Nguồn: Tùng Thiện Vương (đời và thơ), Nguyễn Phước Bảo Quyến, NXB Thuận Hoá, 2008. (Nguyên tác: 三十见白发其二Tam thập kiến bạch phát kỳ 2 Ba mươi tuổi thấy tóc bạc kỳ 2吴会功名遂杳然,Ngô Cối công danh toại diểu nhiên, Ngô Cối công danh toại nguyện như thế等闲镜裏早华颠。 Đẳng nhàn kính lí tảo hoa điên. Lúc nhàn nhìn vào gương sớm thấy đầu tóc điểm bạc共争岁月谁先着, Cộng tranh tuế nguyệt thuỳ tiên trước, Tranh đua cùng năm tháng ai nổi tiếng trước比似潘郎胜两年。Tỷ tự Phan lang thắng lưỡng niên. Sánh tựa chàng Phan giỏi hơn hai lứa tuổi Nguồn: Phân tích những khuynh hướng tình cảm đạo lí xã hội trong thi ca Tùng Thiện Vương, Ngô Văn Chương, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hoá, 1973).
Vua Tự Đức từng viết: “Văn như Siêu Quát vô tiền Hán; Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường”. Tùng Thiện Vương Miên Thẩm là danh sĩ Việt Nam, nhà thơ lớn thời nhà Nguyễn. Ông sinh ngày 11 tháng 12 năm 1819 nhằm ngày 24 tháng 10 năm Kỹ Mão, mất năm 1870. Miên Thẩm cùng với hai em là Tuy Lý Vương, Tương An Quận Vương, được người đời xưng tụng là “Tam Đường”. Miên Thẩm tên tự Thận Minh, Trọng Uyên, hiệu Thương Sơn, biệt hiệu Bạch Hào Tử, là con trai thứ 10 của vua Minh Mạng, và là em vua Thiệu Trị. Thuở lọt lòng, ông được ông nội đặt tên là Ngợn. Đến năm 1832, khi đã có Đế hệ thi, ông được cải tên là Miên Thẩm (Nguyễn Phúc Miên Thẩm).
MIÊN THẨM SÁNH ĐỖ PHỦ
Miên Thẩm rất nổi tiếng về thơ nhưng nổi bật hơn cả là nhân cách của một danh sĩ tinh hoa, con người thận trọng, minh triết lỗi lạc, uyên bác và tài hoa như chính tên của ông Thận Minh và Trọng Uyên. Ông sống thận trọng và minh triết, trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt của chính bản thân ông. Các ông hoàng nhà Nguyễn không được đi thi, ít được tham gia chính sự, khi đất nước đang hết sức rối ren: nội bộ triều đình lủng củng, rạn nứt, loạn lạc khắp nơi, thiên tai, mất mùa nhiều năm cùng nạn ngoại bang xâm lấn. Hai trăm năm sau rất khó xác định được tài năng thật sự của ông trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự… Chỉ biết rằng sinh thời, Miên Thẩm là một ông hoàng có nhiều uy tín bởi đạo đức cao, tri thức rộng. Ông đến với mọi người đều bằng tấm lòng chân thực, khiêm tốn, phóng khoáng, không hề phân biệt địa vị, tuổi tác hay sang hèn. Nhờ vậy Tùng Vân xã (còn được gọi là Mặc Vân thi xã) mà ông là “Tao đàn nguyên súy” tập họp được nhiều danh sĩ, trong đó có Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát… Về văn nghiệp, ông là một nhà thơ chữ Hán bậc thầy, được các danh sĩ đương thời, kể cả vua Tự Đức, nhờ duyệt thơ và được một số nhà thơ Trung Quốc đánh giá cao, trong đó có Tiến sĩ Lao Sùng Quang. Cao Bá Quát (1809 – 1855) quốc sư của cuộc nổi dậy Mỹ Lương, và là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam, tại bài đề tựa Thương Sơn thi tập của Miên Thẩm, đã viết:…”Tôi theo Quốc công (Tùng Thiện Vương) chơi đã lâu. Thơ của Quốc công đâu phải đợi đến ngày nay mới nói đến? Và cũng đâu phải đợi đến Quát này mới có thể nói được? Sáng ngày mai, đứng ở ngoài cầu Đốc Sơ trông về phía Nam… đó chẳng phải là núi Thương Sơn ư? Mua rượu uống rồi, cởi áo ở nơi bắc trường đình, bồi hồi ngâm vịnh các bài thơ “Hà Thượng” của Quốc công, lòng khách càng cảm thấy xa xăm man mác…”
Ví Miên Thẩm sánh Đỗ Phủ liệu có nói quá hay không? Đỗ Phủ thương đọc lại được coi là Thi thánhThi sử Trung Quốc do đức độ cao thượng, tài thơ văn tuyệt vời. Đỗ Phủ cùng Lý Bạch là hai nhà thơ vĩ đại nhất thời nhà Đường. Thơ Đỗ Phủ nổi tiếng vì phong cách đơn giản và thanh lịch đặc sắc bậc nhất trong thơ cổ điển Trung Quốc. Tầm vóc Đỗ Phủ sánh với Victor Hugo và Shakespeare. Thơ Đỗ Phủ ảnh hưởng sâu sắc văn hóa cổ điển Trung Quốc và văn học hiện đại Nhật Bản. Cụ Nguyễn Du đã từng thán phục Đỗ Phủ “Thiên cổ văn chương thiên cổ sư Bình sinh bội phục vị thường ly” (Văn chương lưu muôn đời, bậc thầy muôn đời Bình sinh bái phục không lúc nào ngớt. Cụ Hồ Chí Minh trong Di chúc đã có trích thơ Đỗ Phủ. Cuộc đời Đỗ Phủ là tấm gương phản chiếu đất nước Trung Hoa thời loạn khi đời sống nhân dân tột cùng điêu đứng vì thường xuyên biến động. Đỗ Phủ bộ sưu tập thơ được bảo tồn khoảng 1500 bài thơ đều là tuyệt phẩm. Thi Viện hiện có Đỗ Phủ trực tuyến 1450 bài. Miên Thẩm ông hoàng thơ ca có phong cách thanh lịch đặc sắc Huế Việt Nam, mỗi bậc thầy một vẻ, so sánh thường khập khểnh, nhưng thơ đều thanh cao, cuộc đời và tác phẩm đều ẩn chứa tương đồng. Sớm thu đọc lại Miên Thẩm và Đỗ Phủ so sánh tương và khác biệt thật cảm khái https://hoangkimlong.wordpress.com/category/do-phu-thuong-doc-lai/
Tùng Thiện Vương Miên Thẩm cuộc đời và thơ văn thật đáng khâm phục và kinh ngạc. Miên Thẩm lưu lại cho đời 14 bộ sách, riêng bộ ‘Thương Sơn thi tập’ có 2.200 bài thơ, tiếc là thơ ông chưa được đầu tư dịch thuật Hán Nôm bảo tồn và phát triển thỏa đáng. Thi Viện chỉ mới lưu một sồ bài. Soi gương kim cổ thì danh sĩ Trung Hoa Chung Ứng Nguyên đã ví ông với đại văn hào Hàn Dũ và đại văn hào Tô Đông Pha là bát đại gia Đường Tống: “Như Thương Sơn sinh vào Trung Quốc/ Thi tài ngang với ông Hàn Dũ, ông Tô Đông Pha/ Than ôi ! đời nay ai sánh vai? /Than ôi đời nay không ai có thể sánh vai được!“. Chúng ta khi bình tâm xem xét kỹ lại cuộc đời thơ văn và tầm minh triết thì Miên Thẩm là Đỗ Phủ thơ Việt. Ba ý chính để đánh giá: Thứ nhất là chất lượng thơ. Thứ hai là khối lượng tác phẩm và những bài thơ “giản dị xúc động ám ảnh” đọng lại trong lòng người đọc; Thứ ba là tư tưởng cuộc đời nhân cách tác giả là minh triết trí tuệ gương cho người đương thời và hậu thế. Miên Thẩm cả ba ý này đều rất gần gũi với Đỗ Phủ qua những tư liệu lắng đọng ở “Miên Thẩm cuộc đời và thơ văn” nêu trên. Xin được trích dẫn giới thiệu một số bài thơ tuyển chọn dưới đây.
Thi Viện có lưu một sồ bài thơ Tùng Thiện Vương Miên Thẩm dưới đây:
“Xuân hiểu”, “Tiến trầu (cúng quan tham)”, “Nhà nghèo” là ba trong số trên hai ngàn bài thơ của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm
XUÂN HIỂU Nguyễn Phước Miên Thẩm Dịch thơ Phan Văn Các
Gió đông se lạnh màn mai Cánh hoa sương nặng giọt rơi xuống thềm Áo đơn ngại chẳng cuốn rèm Một mình nằm với hơi men ngà ngà Không yên ngựa dạo tìm thơ Hoạ bình quây gối ngắm hờ núi xuân.
Liệu tiếu đông phong hiểu mạc nhàn, Phi hoa hoà lộ trích lan can, Hà tu bất quyển khiếp y đan. Tiểu ẩm vi huân hoàn độc ngoạ, Tầm thi vô kế thúc ngâm an, Hoạ bình vi chẩm khán xuân san.
Nguồn: Khúc hát gõ mái chèo, Phan Văn Các, 1999 Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quó̂c gia, Viện nghiên cứu Hán Nôm xem thêm: Phạm Văn Ảnh 2012. Cổ duệ từ của Miên Thẩm từ văn bản đến định hướng sáng tác; Thông báo Hán Nôm học 2012, tr.62-79
TIỀN TRẦU (CÚNG QUAN THAM) Nguyễn Phước Miên Thẩm Dịch thơ Nguyễn Sĩ Đại
Sớm đã cúng tiền trầu Chiều tiền trầu lại cúng Quan lớn ưa cung phụng Oan dân rõ như ngày. Trong nhà quan lớn tiền bỏ nát Dân đen bán nhà lại bán vợ Cái xác tuy còn, mất nhà ở Gông cùm may thoát, vợ còn đâu Ôm con mà dứt tay chồng Ném trầu, trông mặt, khóc ròng cả hai!
Phù lưu tiền hành
Triêu tiến phù lưu tiền Mộ tiến phù lưu tiền Đại quan nghiệt phù lưu Nãi tuyết tiểu dân oan Đại quan đường trung tiền tác hư Tiểu dân mại gia, hoàn mại phụ Thử thân tuy tồn, gia dĩ hưu Già tỏa hạnh thoát, phụ nan lưu Bão nhi tạm lai dữ phu biệt Lộ bàng đối khấp xan phù lưu.
Con nhà nghèo khổ đau, Quanh năm rét lại đói. Bụng rỗng phải ăn rau, Lấy lửa thay chăn gối. Khắp đất là gươm đao, Đầy trời là hoạ hại. Vui vẻ thay nhà giàu, Yến tiệc suốt đêm thâu.
Tân khổ bần gia tử, Niên niên hàn phục cơ. Hiểu trường sơ thế phạn, Đống cốt hoả vi y. Biển địa do binh giáp. Mãn thiên thả tật oai, Chu môn lạc hà sự, Dạ ẩm đạt triều huy.
TỪ HIẾU VĨ DẠ XƯA
Về Huế, viếng lăng Tùng Thiện Vương gần chùa Từ Hiếu, thăm nhà xưa của nhà thơ lớn đối diện Vĩ Dạ Xưa, trò chuyện với không gian thơ rất Huế, là một thú vui nhàn tản, tĩnh lặng. Người như Tùng Thiện Vương thật hiếm. Miên Thẩm chuyện cũ viết lại để ghi nhớ về một chuyện xưa không nỡ quên: Miên Thẩm thuở lọt lòng, được ông nội đặt tên là Ngợn[1], theo Wikipedia Tiếng Việt. Ông được cải tên là Miên Thẩm (Nguyễn Phúc Miên Thẩm), vào năm 1832, khi vua Minh Mệnh ban hành Đế hệ thi. Năm lên 7 tuổi, Miên Thẩm cùng với các em vào Dưỡng Chính đường, được thầy Thân Văn Quyền[2] dạy chu đáo. Ông rất chịu khó học tập, nên mới 8 tuổi (1827), nhân theo hầu vua dự lễ Nam Giao, ông làm bài Nam Giao thi, rất được tán thưởng. Năm 1839, ông được phong làm Tùng Quốc Công, mở phủ ở phường Liêm Năng, bên bờ sông An Cựu, Huế. Năm 1849, ông lập thêm Tiêu Viên sau phủ, đón mẹ (Thục tân Nguyễn Thị Bửu) và ba em gái (Nguyễn Phúc Vĩnh Trinh, Nguyễn Phúc Trinh Thận tức nữ sĩ Mai Am và Nguyễn Phúc Tĩnh Hòa) ra phụng dưỡng chăm nuôi. Khi các em lần lượt có chồng, rồi mẹ mất, ông cải tạo phủ chính làm nhà thờ, còn mình lui về ở Tiêu Viên và dựng lều tranh bên cạnh mộ mẹ cư tang ba năm. Năm 1854, mãn tang, ông được gia phong Tùng Thiện Công. Năm 1858, ông mua 12 mẫu ruộng ở xã Dương Xuân, làm nhà ở gọi là Phương Thốn thảo đường. Năm 1865, ông giữ chức Tả Tôn Nhân phủ, trong thời gian này xảy ra sự biến giặc Chày vôi. Trước đó, ông đã gả con gái là Thể Cúc cho Đoàn Hữu Trưng, một thanh niên ở làng An Truyền (tức làng Chuồn). Năm 1866, Hữu Trưng ngầm làm cuộc nổi dậy (sử cũ gọi là giặc Chày Vôi) nhằm lật đổ vua Tự Đức. Việc thất bại, Hữu Trưng và nhiều người bị hành hình. Mặc dù trước đó, Hữu Trưng đã lấy cớ vợ cư xử trái lễ với mẹ chồng mà trả về để tránh liên lụy cho nhà vợ, Miên Thẩm cũng trói cả con gái và cháu ngoại, quỳ dâng sớ xin chịu tội. Vua Tự Đức không kết tội chỉ nói ông chọn rể không cẩn thận để mất thanh danh, nay trừ bổng trong tám năm. Suốt những năm bị trừ bổng ấy, ông lên ngôi chùa cổ Từ Lâm hoang tàn ở xã Dương Xuân làm nơi cư ngụ, vợ con phải canh tác trồng cây quả đem ra chợ bán để có cái ăn hàng ngày. Ông mất ngày 30 tháng 3 năm Canh Ngọ (tức 30 tháng 4 năm 1870) lúc 51 tuổi. Năm 1878, ông được vua Tự Đức gia tặng là Tùng Thiện Quận Vương. Năm 1929, vua Bảo Đại mới truy phong ông là Tùng Thiện Vương, tước vị mà ngày nay người ta quen gọi.Sự nghiệp trước tác của Tùng Thiện Vương rất phong phú (14 tập).Trong số đó đáng kể là Thương Sơn thi tập, gồm 54 quyển chia ra 8 tập với hơn 2.200 bài thơ. Các tác phẩm khác: Thương Sơn từ tập, Thương Sơn thi thoại, Thương Sơn ngoại tập, Thương Sơn văn di v.v… Theo như trong tập Thơ Tùng Thiện Vương [3], vào giữa thế kỷ 19 tại kinh thành Phú Xuân (Huế) đã xuất hiện một số nhà thơ dòng dõi hoàng tộc Nguyễn Phúc, trong đó có Tùng Thiện Công (tước vị của Miên Thẩm lúc bấy giờ), Nguyễn Phúc Miên Trinh, Nguyễn Phúc Miên Bửu, công chúa Mai Am (tất cả đều là em của ông) được nhiều người biết hơn cả.
Thơ của ông dù viết theo thể loại nào (hành, dao, thán, từ…), dù mang nội dung cảm hoài, ngôn chí hay thù tạc…, tất cả đều có văn pháp giản dị, ý tứ thâm sâu, chữ nghĩa chọn lọc, đều mang tính hiện thực cao (rất gần với thơ Đỗ Phủ thời nhà Đường), chứa đựng tinh thần yêu nước, thương dân, hết lòng vì bè bạn. Có thể kể đến một bài như: “Phù lưu tiền hành”, “Mại trúc dao”, “Kim hộ thán”, “Bộ hổ từ”… Bên cạnh tai ách áp bức, nhũng nhiễu, bóc lột của tầng lớp trên; người dân còn lâm cảnh đói kém, lưu tán do thiên tai như lũ lụt, hạn hán nhiều năm liền như các bài: “Nam Định hải dật”, “Thủy, Lưu dân thán”… Và thao thức, dằn dặt trước bao biến động của đất nước như các bài: “Tống Lương từ”, “Mại chỉ y”, “Vận, Khiển sầu”, “Tuế mộ mặc vân sào dạ tập”, “Thương tâm”, Đọc Nguyễn Đình Chiểu, Nhạc Phi, Nhị nguyệt nhị thập… Bên cạnh những nỗi đau chung, nơi tâm tư ông còn trĩu nỗi đau riêng.
Theo sử sách ghi, sau đám tang vua Thiệu Trị (1847), hai người cháu ruột của ông là Hồng Bảo và Hồng Nhậm cùng tranh giành ngôi vua, mở màn cho một bi kịch chốn vương triều. Cuối cùng, Hồng Bảo bị hạ ngục vì tội liên hệ với “bên ngoài”, để rồi phải tự tìm cái chết thân còn mang xiềng xích. Thảm cảnh đã được ông khéo gửi gấm trong một bài thơ khá dài: “Quỷ khốc hành”. Năm 1866, cuộc biến động ở Khiêm Lăng (loạn Chày vôi thời Tự Đức) do chính con rể đầu của ông là Đoàn Hữu Trưng chủ xướng, một lần nữa khiến vết thương lòng nhức nhói cho đến cuối đời (Vận, Tuế án độc tọa khiển muộn…).
Tuy sau này vua Tự Đức xét ông vô can, nhưng chính nỗi đau mới này cùng sự lo toan dân tình, nạn nước; đã khiến ông thêm chán ngán cảnh điện ngọc, cung son, làm tinh thần ông thêm suy sụp nơi cơ thể vốn gầy gò, lắm bệnh. Ông viết:
Lờ mờ học Đạo nửa đời người Trúc dép, đường đi mới rõ mười Thiên Mụ, Thánh Duyên trăng với sóng Bóng rừng, hương nước, có còn ai?
“Tuyệt Bút Từ”, 1870
Ngoài ra, ông còn có mảng thơ trữ tình viết về cảnh vật thiên nhiên và bè bạn…Tiến sĩ nhà Thanh là Lao Sùng Quang, khi đọc bài “Khiển hoài” của ông, đã phải khen rằng:
Đọc đến câu bạch âu hoàng diệp (của ông) Nghe người ớn lạnh hơi thu…
Thư mục về Tùng Thiện Vương Miên Thẩm không nhiều. Ngoài Tùng Thiện vương trên web Việt Nam gia phả, thì Wikipedia tiếng Việt chỉ mới có một ít thư mục về Người
^Từ điển Văn học (bộ mới, Nhà xuất bản Thế giới, 2004), sách Vua Minh Mạng với Thái y viện & ngự dược, ghi ông tên là Hiện (Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2007, tr. 46).
^Cuộc đời và sự nghiệp nhà giáo Thân Văn Quyền: [1]. Ngoài người thầy này, Miên Thẩm còn là học trò của Trương Đăng Quế và sau này cũng là cha vợ của ông.
^Thơ Tùng Thiện Vương, Lương An tuyển chọn, Nhà xuất bản Thuận Hoá 1994
THƯƠNG SƠN THƠ MIÊN THẨM
Thương Sơn thi tập 2200 bài thơ sao gọi là Thương Sơn? Đó có phải là dãy núi 苍山; cáng shān, còn gọi là Điểm Thương Sơn (点苍山, là một dãy núi kỳ vĩ trong Thiên long bát bộ danh tiếng của Kim Dung mà thực tế ngoài đời là dãy Thương Sơn dài khoảng 50 km, rộng khoảng 20 km, ở phía tây Đại Lý, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Phía đông Thương Sơn là hồ Nhĩ Hải chăng? Thương Sơn thuộc phía nam dãy núi Vân Lĩnh, phía bắc bắt đầu từ Nhĩ Nguyên, phía nam kéo dài đến cầu Thiên Sinh, phía đông giáp với hồ Nhĩ Hải, phía nam giáp với sông Hắc Huệ. Thương Sơn đỉnh cao nhất của nó là đỉnh Mã Long, cao 4.122 m, ngoài ra dãy núi này còn có 18 đỉnh khác đều cao trên 3.500 m[1] Mười chín đỉnh núi chính của Thương Sơn từ bắc xuống nam bao gồm: Vân Lộng, Thương Lãng, Ngũ Đài, Liên Hoa, Bạch Vân, Hạc Vân, Tam Dương, Lan Phong, Tuyết Nhân, Ứng Lạc, Quan Âm, Trung Hòa, Long Tuyền, Ngọc Cục, Mã Long, Thánh Ứng, Phật Đính, Mã Nhĩ, Tà Dương. 18 khe suối bao gồm: Hà Di, Vạn Hoa, Dương Khê, Mang Dũng, Cẩm, Linh Tuyền, Bạch Thạch, Song Uyên, Ẩn Tiên, Mai, Đào, Trung, Lục Ngọc, Long, Thanh Bích, Mộ Tàn, Đình Huỳnh, Dương Nam.
ĐẠI LÝ CHÙA QIAN XUN
Dưới chân núi Thương Sơn đối diện với Hồ Nhĩ Hải tại Thành phố Đại Lý có Chùa Qianxun cao 69,13 mét, là một trong những ngôi chùa cổ cao nhất của triều đại nhà Đường (618 – 907). Đây là một trong ba ngôi chùa cổ nổi tiếng, một danh thắng tuyệt đẹp có lịch sử hơn 1.800 năm, biểu tượng lịch sử sự phát triển của Phật giáo Trung Quốc. Nhiều tác phẩm điêu khắc của Phật làm bằng vàng, bạc, gỗ hoặc tinh thể, và di sản quý giá khác tìm thấy nơi này trong chùa Qianxun, đóng một vai trò quan trọng để giải thích lịch sử cổ đại của Thành phố Đại Lý.
“Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường”. Thương Sơn thi tập 2200 bài thơ của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm có lẽ cũng ẩn chứa nhiều điều hay của một thời như ngôi chùa cổ xưa và dãy núi Thương Sơn kỳ vĩ chăng? .
* Cụ Mai Khắc Ứng nghe nói vừa về Huế. Cụ là nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Huế. Cụ vừa có bài thơ “Tạ từ” rất hay gửi lại. Tôi thật ao ước được nghe kể hoặc lời bình về cụ Miên Thẩm, con người thận trọng, minh triết lỗi lạc, uyên bác và tài hoa này.
** Tử Mỹ Tô Thuấn Khâm, danh sĩ thời Bắc Tống có bài thơ Thiên Bình sơn, chung tâm sự và ngữ cảnh về vùng Ngô Cối (tên gọi Tô Châu ngày nay) Bản dịch của Lê Xuân Khải để đối sánh:
Ngô Cối dồn nhiều núi Đỉnh liền đỉnh cơ man Tên Thiên Bình trong đó Làm chủ đứng vút lên Trấn Tây Nam lẫm liệt Mọi đỉnh tranh chầu bên Ta biết ý tạo vật Chắn thiên phủ dựng nên Suối trong vòng bên dưới Thế múa bay ngước nhìn Đá to như người đứng Sừng sững lời muốn tuôn Vin giây leo bậc hiểm Tùng trúc cổ um chen Nửa vời núi đình đứng Trước vách núi xanh vươn Hốc đá phun suối ngọc Như mưa bốn mùa liền Nguồn sinh từ mây trắng Mầu phấn sữa trong ngần Năm hạn dùng tưới tắm Đủ cho cả chín miền Nước sâu trong như thế Mà ứng long chưa cần Ta vừa bị trần bỏ Hiểu biết có đôi phần Hùng thắng luôn thôi thúc Đến đây vui vô vàn Để được trong tai mắt Dẫu hổ vồ cũng cam.
Ngô Cối quát chúng san, Trấp trấp bất khả sổ. Kỳ gian hiệu Thiên Bình, Đột ngột vi chi chủ. Kiệt nhiên trấn Tây nam, Quần lĩnh tranh củng phụ. Ngô tri tạo vật ý, Tất dĩ bình thiên phủ. Thanh khê chí kỳ hạ, Ngưỡng thị thế như vũ. Vĩ thạch như trường nhân, Thụ lập dục ngôn ngữ. Môn la duyên hiểm đăng, Lạn mạn tùng trúc cổ. Trung yêu hữu nguy đình, Tiền đối thuý bích cử. Thạch đậu bính ngọc tuyền, Linh tinh tứ thời vũ. Nguyên sinh bạch vân gian, Nhan sắc nhược phấn nhũ. Hạn niên hoặc bá sái, Nhuận khả túc cửu thổ. Nại hà đãn hoằng trừng, Vị vi ứng long thủ. Dư tài khí trần trung, Nham hác tố tự hứa. Bàn hoàn trạch hùng thắng, Chi thử khoái tâm lữ. Thứ đắc nhĩ mục thanh, Chung cam tử vu hổ.
Dịch nghĩa
Vùng Ngô Cối có nhiều núi Dồn về đây không biết bao nhiêu mà kể Trong đó có núi Thiên Bình Đứng vút lên làm chủ Lẫm liệt đứng chắn phía Tây nam Mọi núi tranh nhau chầu dựa vào Ta biết đây là ý của con tạo Ắt lấy đó làm bức nình phong cho thiên phủ Suối trong vòng ở bên dưới Ngước nhìn thế như bay múa Đá to như người cao lớn Sừng sững như muốn nói Bám vào giây leo lên bậc đá chơi vơi Tùng trúc cổ um tùm Giữa vời núi có mái đình đứng chênh vênh Trước đình là vách núi xanh dựng đứng Nơi hốc đá phun ra suối ngọc Mát lạnh bốn mùa như mưa Nguồn sinh ra từ nơi mấy trắng Mầu như phấn sữa Gặp năm hạn có thể tưới tắm Đủ nước cho chín vùng đất Sao trong và sâu như thế Mà ứng long chưa lấy đi Ta mới bị bỏ rơi nơi trần thế Tự biết mình có hiểu biết Chăm chăm tìm nơi nào hùng thắng Đến đây thấy lòng sướng vui Nơi tai mắt được trong Cuối cùng dẫu có chết vì hổ cũng cam.
* Tô Thuấn Khâm 蘇舜欽 (1008—1048) tự Tử Mĩ 子美, người gốc Từ Châu (nay thuộc Trung Giang, Tứ Xuyên), chuyển đến Khai Phong (nay thuộc Hà Nam). Ông nhận chức huyện lệnh, làm chức Bình sự ở Đại Lý rồi được Phạm Trọng Yêm 范仲淹 tiến cử làm Tập hiền điện hiệu lý. Sau bị bọn quyền quý chèn ép, cách chức, về ở ẩn đình Chương Lương (nay thuộc tỉnh Giang Tô). Ông là một trong nhóm cách tân thơ ca thời bấy giờ. Nguồn: Thơ Tống/ NXB Văn học, 1991.
Người hiểu Thơ Tống Tô Thuấn Khâm Tử Mỹ là Tùng Thiện Vương Miên Thẩm chăng?
VĨ DẠ THƯƠNG MIÊN THẨM Hoàng Kim
Vĩ Dạ thương Miên Thẩm Trời thu nhớ cố nhân Hơi may sương phảng phất Nắng sớm ngọc tri âm.
Ông vua xe hơi Henry Ford sinh ngày 30 tháng 7 năm 1863 mất năm 1947. Ông là người sáng lập Công ty Ford Motor, Quỹ Ford, là doanh nhân người Mỹ, một trong ba người giàu nhất thế giới. Ông là một trong những người đầu tiên áp dụng sản xuất kiểu dây chuyền lắp ráp trong sản xuất ô tô, không chỉ tạo nên cuộc cách mạng ngành công nghiệp sản xuất ở Hoa Kỳ và châu Âu mà còn có nhiều ảnh hưởng tới kinh tế và xã hội thế kỷ 20 tới mức sự phối hợp giữa sản xuất hàng loạt, tiền lương cao và giá thành sản phẩm thấp cho người tiêu dùng đã được gọi là “Chủ nghĩa Ford.” Ông đã để lại hầu như toàn bộ tài sản của mình cho Quỹ Ford, nhưng vẫn thu xếp để gia đình ông mãi giữ được quyền quản lý công ty.
Henry Ford sau khi chết được lên Thiên đàng. Tại cổng Thiên đàng có Thánh Peter chờ sẵn để đón ông. Vừa gặp Ford, Thánh Peter bảo ông:
– Hồi còn sống, ngươi đã sáng chế ra phương pháp làm việc dây chuyền trong kỹ nghệ sản xuất xe hơi, phương pháp đó đã làm thay đổi cả thế giới. Với thành quả như vậy, ngươi được một ân huệ là có thể đàm đạo với bất cứ ai ở Thiên đàng này.
Suy nghĩ vài giây, Ford xin được gặp Thượng đế. Thánh Peter bèn dẫn ông đi. Vừa gặp Thượng đế, ông liền hỏi ngay:
– Thưa Ngài, lúc chế tạo ra đàn bà, Ngài đã nghĩ gì ?
Thượng đế nghe xong bèn hỏi lại:
– Ngươi hỏi như vậy là có ý gì?
Ford liền trả lời:
– Trong sáng chế của Ngài có quá nhiều sơ sót, ít nhất có 8 thiếu sót nghiêm trọng:
1- Phía trước thì bị phồng lên, phía sau thì bị nhô ra
2- Máy thường kêu to khi chạy nhanh.
3- Tiền bảo trì và nuôi dưỡng quá cao.
4- Thường xuyên đòi hỏi nước sơn mới.
5- Cứ đi 28 ngày là lại bị chảy nhớt và không làm việc được.
6- Chỗ bơm xăng và ống xả lại quá gần nhau.
7- Đèn trước thì quá nhỏ.
8- Tiêu thụ nhiên liệu thì nhiều khủng khiếp.
Thượng đế nghe xong liền bảo:
– Ngươi đợi một lát để ta xem lại bản thiết kế.
Ngài bèn cho gọi toàn bộ kỹ sư trên Thiên đàng đến để xem xét lại quá trình sản xuất đàn bà của mình dưới ánh sáng những phê phán của Henry Ford. Sau một thời gian nghiên cứu, Hội đồng Kỹ sư Thiên đàng đã trình lên Thượng đế bản báo cáo tổng hợp. Xem xong ngài bèn phán rằng:
– Những lời ngươi vừa nói hoàn toàn đúng, sáng chế của ta thật có nhiều sai sót. Nhưng tính trên phương diện kinh tế thì hiệu quả thị phần của ta lại rất cao: Có gần 100% đàn ông trên thế giới xài sản phẩm do ta chế tạo, trong khi chỉ có chưa đầy 10% đàn ông xài sản phẩm của nhà ngươi.
Vua xe hơi giật mình thấy lời Thượng đế sao mà quá đúng. Hóa ra thói quen tiêu dùng có sức mạnh lớn hơn logic khoa học rất nhiều lần. Và trong thế kỷ 21 này điều đó chưa dễ gì khắc phục ! Đáp ứng tốt nhất tâm lý và nhu cầu khách hàng là nguyên tắc thứ ba của Chín nguyên tắc vàng Jack Welch (1935-2020) “Nhà quản lý giỏi nhất của thế kỷ XX” (*)
(*) Jack Welch (1935-2020) là nhà kỹ trị được Tạp chí Fortune gọi ông là “Nhà quản lý giỏi nhất của thế kỷ XX”, ông còn được gọi là “CEO hàng đầu của thế giới” hay “Doanh nhân người Mỹ đương đại thành công và vĩ đại nhất”.Ông làm chủ tịch và CEO của General Electric (GE) năm 1981 và đã tăng vốn hóa của GE lên hơn 30 lần, đạt 450 tỷ USD và nổi tiếng khắp toàn cầu.
1 Trung thực thành tín là giá trị cốt lõi; 2. Đổi mới sáng tạo để phát triển; 3 Đáp ứng tốt nhất tâm lý và nhu cầu khách hàng; 4. Tận dụng tốt lợi thế quy mô lớn; 5 Tự tin, đơn giản hóa và hiệu suất; 6. Năng lực đội ngũ lãnh đạo giỏi: thích ứng, chủ động, can đảm, trung thành; 7. Thu hút những người tài giỏi nhất về với mình;. 8 Môi trường làm việc thân thiện; 9 Dạy và học suốt đời không mỏi.
Lời dặn của Thánh Trần Hoàng Ngọc Dộ khát vọng Lời thề trên sông Hóa Đọc lời nguyền trăm năm Ngọc sáng và sức khỏe
LỜI DẶN CỦA THÁNH TRẦN Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn mất ngày 20 tháng 8 âm lịch năm 1300. Người được dân Việt tôn kính gọi là Đức Thánh Trần và thường dâng lễ tạ ơn sớm từ 20 tháng 8 dương lịch đến ngày lễ chính. Vua Trần Anh Tông lúc Đức Thánh Trần sắp lâm chung có ân cần ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: “Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?”. Đức Thánh Trần trả lời: “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy”. Nguyên văn: “Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã (vườn không nhà trống), đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy” * (Đại Việt sử ký toàn thư tập 2 trang 76 -77).
Trần Hưng Đạo giành chiến thắng trước quân Nguyên trên sông Bạch Đằng, kết thúc chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3 vào ngày 9 tháng 4 năm 1288, tức 8 tháng 3 năm Mậu Tý. Sau ba lần thắng giặc, đất nước thanh bình, ông lui về Vạn Kiếp và mất ngày 20 tháng 8 năm 1300 tại vườn An Lạc. Đền Kiếp Bạc ( Hải Dương) là nơi đền thờ chính của đức Thánh Trần.
Chùa Thắng Nghiêm (Hà Nội) nơi Trần Hưng Đạo lúc nhỏ tu học, là nơi Người hiển thánh.
Đức Thánh Trần gương soi kim cổ
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là nhà chính trị, quân sự, nhà văn kiệt xuất thời nhà Trần. Chiến công kiệt xuất đánh bại quân đội nhà Nguyên năm 1285 và 1287 đã đưa Đức Thánh Trần thành đại danh tướng lừng lẫy nhất của thế giới và Việt Nam. “CHỌN TƯỚNG” là một chương trong Binh thư Yếu lược của Trần Quốc Tuấn, kiệt tác súc tích và sâu sắc lạ lùng.
“Người quân tử tiến thoái quả quyết, xem người thì thanh thản vui tươi, chí thì ở trừ tàn bạo, đó là khí độ của người tướng quốc. Thấy ác không giận, thấy lành không mừng, nhan sắc không thay đổi, đó là lượng của người thiên tử.
Được sự thắng nhỏ, gặp sự thua nhỏ, mà mừng lo hình ra nét mặt, hễ thấy động thì động, thấy tĩnh thì tĩnh, nhát mà không tính toán gì, cất chân thì thần sắc không định, mà hay lấy lời nói để thắng người, đó là tướng ngu vậy.
Bảy phép để biết người:
1. Hỏi bằng lời nói xem trả lời có rõ ràng không 2. Lấy lời cật vấn đến kỳ cùng để xem cách ứng biến của họ. 3. Cho gián điệp thử xem có trung thành không. 4. Hỏi rõ ràng tường tất để xem đức hạnh thế nào. 5. Lấy của mà thử để xem có thanh liêm không 6. Lấy sắc đẹp mà thử để xem có đứng đắn không. 7. Lấy việc khó khăn mà thử để xem có dũng cảm không. 8. Đem rượu cho họ uống say để xem có giữ được thái độ không.
Tướng ngu có tám điều tệ:
1. Lòng tham mà không chán 2. Ghen người hiền, ghét người tài 3. Tin lời dèm pha, thích lời nịnh hót 4. Xét người mà không xét mình 5. Do dự không quả quyết 6. Say đắm rượu và sắc đẹp 7. Thích xảo trá mà lòng nhút nhát 8. Nói lời viễn vông mà không giữ lễ
Gia Cát Lượng sách Tướng Uyển chỉ bảy phép biết người.
Biết tính tình của người, chẳng gì khó bằng xem xét, lành dữ tuy khác nhau, tính tình và vẻ mặt chẳng phải một: có kẻ thì ôn hoà, hiền lành nhưng làm việc trộm cắp;có kẻ bề ngoài thì cung kính nhưng trong bụng thì vô lễ, dối trá; có kẻ bề ngoài thì mạnh dạn nhưng trong bụng thì khiếp sợ;có kẻ làm việc tận lực nhưng bụng không trung thành;
Bảy phép sau đây để biết người
1. Hỏi việc phải trái để dò chí hướng; 2. Lấy lời cật vấn để biết ứng biến; 3. Đem mưu kế hỏi để lường kiến thức; 4. Giao chuyện hiểm nguy để soi dũng cảm; 5. Mời rượu cho uống say để xét tính tình; 6. Đưa lợi gái thử để rõ thanh liêm chính trực; 7. Đem việc cậy nhờ để xét sự trung thành, tin thật.
Tám hạng tướng và bậc đại tướng
Nhân tướng là người dùng đức để đem đường cho người, dùng lễ để xếp việc cho họ, hiểu thấu sự đói rét của người dưới, biết rõ khó nhọc của đồng sự, đó là nhân tướng.
Nghĩa tướng là người làm việc không cẩu thả, thấy lợi mà không tham, biết chết vinh hơn sống nhục.
Lễ tướng là người có địa vị cao quý mà không kiêu căng, công hơn người mà không cậy, tài năng mà biết hạ mình, cứng cỏi mà biết nhẫn nhịn.
Trí tướng là người gặp biến bất ngờ mà chí không đổi, ứng phó linh hoạt với việc khó khăn, có thể đổi họa thành phúc, gặp cơn nguy biến mà sắp đặt thành thắng thế.
Tín tướng là người thưởng phạt nghiêm minh công bằng, khen thưởng không chậm trễ và không bỏ sót, trừng phạt không buông tha cho kẻ cao quý.
Bộ tướng thủ hạ của đại tướng phải chọn người tay chân lẹ làng, võ nghệ tuyệt luân, giỏi đánh gần, ứng biến di chuyển mau lẹ, để bảo vệ an toàn cao nhất cho chủ soái.
Kỵ tướng là người có thể vượt núi non cheo leo, từng trải việc nguy hiểm, cưỡi ngựa bắn tên mau lẹ như chim bay, tới thì đi trước, lui thì về sau.
Mãnh tướng là người khí thế vượt hẳn ba quân, dám coi thường địch mạnh, gặp đánh nhỏ vẫn luôn cẩn trọng, gặp đánh lớn thì can đảm quả quyết.
Bậc đại tướng là người bao trùm và vượt hẳn tám hạng tướng kể trên, gặp hiền tài thì tôn trọng lắng nghe, biết tỏ ý mình không theo kịp người, biết nghe lời can ngăn như thuận theo dòng nước, lòng rộng rãi nhưng chí cương quyết, giản dị và nhiều mưu kế.”
Vạn Kiếp tông bí truyền thư (萬劫宗秘傳書) của Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương, tác phẩm này còn gọi là Vạn Kiếp binh thư đã thất truyền. Bài tựa của Trần Khánh Dư trong cuốn sách này giải thích bí truyền đại sư là người thế nào:
“Phàm người khéo cầm quân thì không cần bày trận, khéo bày trận thì không cần giao chiến, khéo giao chiến thì không thể thất bại, khéo thất bại thì không thương vong. Xưa kia, Cao Dao làm chức sĩ sư mà mọi người không dám trái mệnh, Văn Vương và Vũ Vương nhà Chu là bậc thầy về văn và về võ, ngấm ngầm sửa đức để khuynh loát quyền bính của nhà Thương mà lấy nghiệp vương. Đó đều có thể gọi là những người giỏi cầm quân, không cần bày trận vậy. Vua Thuấn múa lá mộc và lông trĩ mà họ Hữu Miêu tự mình tìm đến, Tôn Vũ nước Ngô đem mỹ nhân trong cung thử tập trận mà phía tây phá nước Sở hùng cường, phía Bắc ra uy với nước Tần nước Tấn, nổi tiếng khắp chư hầu. Đó đều có thể gọi là những người giỏi bày trận, không cần giao chiến vậy. Cho đến Mã Ngập nước Tấn dựa vào bát trận đồ chuyển đánh nghìn dặm, phá được Thụ Cơ Năng mà lấy lại Lương Châu. Thế gọi là người giỏi giao chiến không bao giờ thất bại vậy.Cho nên, trận nghĩa là bày ra, là khéo léo. Ngày xưa, vua Hiên Viên lập ra phép “tỉnh điền” để đặt binh chế, Gia Cát Lượng xếp đá bên sông để làm bát trận, Vệ công sửa lại làm trận Lục Hoa, Hoàn Ôn định ra trận Xà Thế, trước sau đều có trận đồ nổi tiếng, trình bày tuần tự, thành phép tắc rõ ràng. Nhưng người đương thời ít ai thông hiểu, muôn vàn đầu mối nhìn vào dường như rối loạn, chưa từng nắm được lẽ biến dịch bên trong. Ví như những phép tắc và suy luận của Lý Thuyên, người sau không ai hiểu nghĩa là gì. Vì thế, Quốc công ta bèn so sánh, kê cứu trận đồ và binh pháp của các nhà, tổng hợp lại thành một bộ sách. Tuy chép cả những điều chi tiết, nhưng người sử dụng thì nên bỏ bớt những chỗ rườm, tóm lấy thực chất. Rồi lấy năm hành ứng với nhau, chín cung câu với nhau, phối hợp cương và nhu, xoay vần chẵn và lẽ, không làm hỗn loạn âm dương và thần sát, phương lợi và sao tốt, hung thần và ác tướng, ba cát và năm hung, việc nào việc ấy thực phân minh rõ rệt. Quốc công lại còn thêm bớt với chiến thuật của thời Tam đại, nhờ đó trăm trận trăm thắng. Cho nên đương thời phía bắc làm cho Hung Nô phải sợ, phía tây làm cho Lâm Ấp phải kinh. Rồi ông đem sách này dạy bảo con em làm gia truyền, không tiết lộ cho người ngoài biết. Lại có lời dặn rằng: “Sau này con cháu và bề tôi phò tá của ta có học được bí thuật này thì nên lấy đầu óc sáng suốt, linh hoạt mà thực hành và sắp đặt nó, chứ không nên lấy đầu óc cứng nhắc, tối tăm mà cất giữ và lưu truyền. Nếu trái điều đó thì sẽ mang vạ vào thân, lại hại lây đến cả con cháu. Đó gọi là tiết lậu cơ trời vậy.”
Bài tựa của Trần Khánh Dư cho Vạn Kiếp tông bí truyền thư, còn như sách Binh thư yếu lược mà người đời ngờ rằng bản thật đã bị cướp và thất lạc, đời sau chỉ có chân truyền lời này.
Chùa Thắng Nghiêm (Hà Nội) nơi Trần Hưng Đạo lúc nhỏ tu học, là nơi Người hiển thánh.
Ôi, đọc lại “Binh Thư Yếu lược” “Hịch Tướng Sĩ Văn” và Vạn Kiếp tông bí truyền thư, gương soi kim cổ, lắng nghe cuộc sống, để biết sửa mình;
Hoàng Kim
HOÀNG NGỌC DỘ KHÁT VỌNG
Hoàng Ngọc Dộ (1937-1994) là nhà giáo. Ông quê ở xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch (nay là thị xã Ba Đồn), tỉnh Quảng Bình. Mẹ mất sớm. Nhà nghèo. Cha bị bom Mỹ giết hại. Ông đã nổ lực nuôi dạy các em vượt qua gian khổ, nghèo đói và chiến tranh để vươn lên trở thành những gia đình thành đạt và hạnh phúc. Gương nghị lực vượt khó hiếm thấy, ăn ngày một bữa suốt năm năm, nuôi hai em vào đại học với sự cưu mang của thầy bạn và xã hội đã một thời lay động sâu xa tình cảm thầy trò Trường Cấp Ba Bắc Quảng trạch (Quảng Bình). Ông mất sớm, hiện còn lưu lại gần 100 bài thơ. Lời thơ trong sáng, xúc động, ám ảnh, có giá trị khích lệ những em học sinh nhà nghèo, hiếu học. Anh Hai Hoàng Ngọc Dộ cũng là người Thầy dạy học đầu tiên cho Hoàng Kim: “Dặn con cháu khiêm nhu cần kiệm”; “Cảnh mãi đeo người được đâu em Hết khổ, hết cay, hết vận hèn Nghiệp sáng đèn giời đà chỉ rõ Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen”;”Không vì danh lợi đua chen. Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân”; “Soi mặt mình trong gương không bằng soi mặt mình trong lòng người”; “Có những di sản tỉnh thức cùng lương tâm, không thể để mất vì không thể tìm lại” Hoàng Ngọc Dộ khát vọng
LỜI NGUYỀN Hoàng Ngọc Dộ
Không vì danh lợi đua chen Thù nhà, nợ nước, quyết rèn bản thân!
Ước hẹn anh em một lời nguyền Thù nhà đâu sá kể truân chiên Bao giờ đền được ơn trung hiếu Suối vàng nhắm mắt mới nằm yên.
NỖI LÒNG Hoàng Ngọc Dộ
Nhá củ lòng anh nhớ các em Đang cơn lửa tắt khó thắp đèn Cảnh cũ chưa lìa đeo cảnh mới Vơi ăn, vơi ngủ, với vơi tiền
Cảnh mãi đeo người được đâu em Hết khổ, hết cay, hết vận hèn Nghiệp sáng đèn giời đang chỉ rõ Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen.
ÁNH SAO Hoàng Ngọc Dộ
Bóng đêm trùm kín cả không trung Lấp lánh phương Đông sáng một vừng Mây bủa, mây giăng còn chẳng ngại Hướng nhìn trần thế bạn văn chương.
BỮA CƠM TRÒN Hoàng Ngọc Dộ
Hôm nay anh được chén cơm ngon Cửa miệng anh ăn, nuốt chả trơn Bởi lẽ ngày dài em lam lũ Mà sao chỉ có bữa cơm tròn.
NHỚ NGƯỜI XƯA Hoàng Ngọc Dộ
Ông Trình, ông Trãi, ông Du ơi Chí cả ngày xưa Cụ trả rồi Có biết giờ đây ai khắc khoải Năm canh nguyệt giãi gợi lòng tôi
Bó gối mười năm ở nội thành Thầy xưa đã rạng tiết thanh danh Tớ nay vương nợ mười năm lẽ Sự nghiệp Thầy ơi rạng sử xanh.
CUỐC ĐẤT ĐÊM Hoàng Ngọc Dộ
Mười lăm trăng qủa thật tròn Anh hùng thời vận hãy còn gian nan Đêm trăng nhát cuốc xới vàng Trăng dòm ta hẹn trăng càng dòm thêm Đất vàng vàng ánh trăng đêm Đêm khuya ta với nàng quên nhọc nhằn.
LỜI THỀ TRÊN SÔNG HÓA
Sông Hóa ơi Bạch Đằng Giang Ta đến nơi đây chẳng một lần Lời thề sông núi trời đất hiểu Lời dặn của Thánh Trần (*)
Sông Hóa ơi hời, ơi Linh Giang Quê hương liền dải tụ trời Nam Minh Lệ, Hưng Long hai bầu sữa Hoàng Gia trung chính một con đường.
Rào Nan Đá Đứng chốn sông thiêng Nguồn Son Chợ Mới đẹp ân tình Minh Lệ đình xưa thương làng cũ Nguyện làm hoa đất của quê hương.
Đất nặng ân tình đất nhớ thương Ta làm hoa đất của quê hương Để mai mưa nắng con đi học Lưu dấu chân trần với nước non
Cuộc chiến sông Bạch Đằng nơi voi chiến sa lầy rơi nước mắt và lời thề trên sông Hóa 1288 của Hưng Đạo Vương. Lời thơ lẫm liệt hào hùng bi tráng: “Thuyền bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới/ Hùng dũng sáu quân, giáo gươm sáng chói/[…] / Trận đánh được thua chửa phân/ Chiến lũy bắc nam đối chọi/ […] / Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối / Những tưởng gieo roi một lần/ Quét sạch Nam bang bốn cõi/ […] /Trời cũng chiều người / Hung đồ hết lối! ” Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải viết: ‘Thái bình tu nổ lực/ Vạn cổ thử giang san”.
ĐỌC LỜI NGUYỀN TRĂM NĂM
Đỗ Thái hậu mẹ vua Tống Thái Tổ, sau một năm khi vua lên ngôi có triệu vua tới trước giường mà dặn dò: “Đức nhân và nội lực mới là người thắng sau cùng. Người nhân nghĩa không ai thắng nổi !”
Nhà Tống là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này dài 319 năm .(Tương ứng với thời nhà Lý của Đại Việt. Nhà Lý là hoàng triều Đại Việt bắt đầu khi Lý Công Uẩn lên ngôi vào tháng 10 âm lịch năm 1009 sau khi giành được quyền lực từ tay nhà Tiền Lê. Triều đại này trải qua 9 vị hoàng đế và chấm dứt khi Lý Chiêu Hoàng, lúc đó mới có 7 tuổi, bị ép thoái vị để nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh vào năm 1225, tổng cộng là 216 năm). Nhà Tống Trung Quốc được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi kết thúc thời kỳ Ngũ đại Thập quốc. Nhà Tống trong suốt thời gian tồn tại thường xuyên xung đột với các quốc gia phương bắc là Liêu, Tây Hạ và Kim. Cuối cùng, Nhà Tống đã bị chinh phục bởi nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo, chứ không phải là Kim, Liêu, Tây Hạ, là những lân bang. Diện tích nhà Tổng thuở lập quốc là 800.000 km2, nhỏ hơn diện tích kế thừa thời Đường là 10.760.000 km2, nhưng đến năm 980 thì nhà Tống là lớn nhất đạt 3.100.000 km2, và lúc nhà Tống đổi thời sang nhà Nguyên thì diện tích đất Tống lúc đó là 1.800.000 km2 . Và, nhà Tống bị chinh phục là bởi nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo. : Đỗ Thái hậu nói “Hoàng thượng biết vì sao Hậu Chu mất không? Là vì họ đưa một đứa trẻ 7 tuổi lên làm vua”, Đỗ Thái hậu lại thúc giục vua nên lập em trai để kế vị, tránh vào vết xe đổ của Hậu Chu. “Liên thủ ai và chống ai phải tùy vào thế và lực nhưng đức nhân và nội lực mới là người thắng sau cùng. Người nhân nghĩa không ai thắng nổi ! Sau Tổng Thái Tổ là võ quan duy nhất thì các vua nhà Tống sau đều là các trí vương, nhân vương, biết tùy thời mà hành xử. Vua Tống Nhân Tông đã liên thủ và cân bằng quyền lực với các ‘nữ lưu Nghiêu Thuấn ‘ là Tào Thái hậu, Cao Thái hậu nên đã giúp ổn định được nhà Tống chính thể lâu dài như vậy. “Tư Trị Thông Giám” như “Đông Chu Liệt Quốc” là sách hay cần đọc. Phim “Khúc nhạc thanh bình” đúc kết giỏi.
Lãnh thổ nhà Tống năm 1111.
NGỌC SÁNG VÀ SỨC KHỎE
Nhớ tháng bảy mưa ngâu và những lời tâm đắc của Thạch Lam: “Văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Thạch Lam tốt tính, biết vừa đủ (tường minh vừa phải) nói viết điều gì cũng lương thiện chừng mực. Ông sống nhân cách, gần gũi người dân nghèo khổ, tiếc là ông mất quá sớm. Thạch Lam mất lúc 32 tuổi ngày 27 (28?) tháng 6 năm 1942chưa kịp nói và viết gì nhiều. Tám tác phẩm Thạch Lam gửi lại cho đời gồm: Gió đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Ngày mới (1939), Hạt ngọc (1940), Quyển sách (1440), Theo giòng (1941), Sợi tóc (1942), Hà Nội băm sáu phố phường (1943) .
Nguyễn Tường, là một dòng họ lớn vinh quang và bi kịch, Cụ ông Nguyễn Tường Vân là Binh bộ Thượng thư của vua Gia Long. Chữ Tường là bởi vua Gia Long đi đến chân núi Phước Tường, Hội An thì hỏi mọi người núi này là núi gì, ông trả lời “Thưa Chúa đây là núi Phước Tường”. Vua Gia Long nói với ông Nguyễn Tường Vân đi bên cạnh là hầu cận rất thân “Phước là họ ta nhưng Tường thì ta ban cho nhà ngươi”. Từ đó trở đi thì mới là họ Nguyễn Tường, trước thì chỉ Nguyễn không thôi.
Thạch Lam tâm niệm: “văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn”. Văn là người. Nhân cách, cuộc đời và di sản văn chương Thạch Lam là hạt ngọc đời nay về cả nghĩa đen và nghĩa bóng.
Chuyện cổ tích người lớn sưu tầm và biên tập Thạch Lam ngọc đời nay. (*) Theo các tư liệu thu thập chính trên Bách khoa toàn thư Mở Wikipedia Tiếng Việt cập nhật thông tin đến 27 tháng 7 năm 2021 để đời không nỡ quên. Hoàng Kim tra cứu, đối chiếu, chỉnh lý và ghi chép
Sơn Nam lời yêu thương gửi lại: “Cố gắng viết ngắn, câu nào cũng có thông tin”. Khuyến nông tức là cách giữ đạo làm nông, thì dân mới giàu mạnh được”.“Cái cốt cách người Việt Nam mình là nhân nghĩa” “”Với tôi, Tổ quốc là một nơi kiếm sống được bằng một việc lương thiện nào đó, không bị ai làm khó dễ, có vài người bạn chơi được, không ba trợn” “Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê”. “Người tứ xứ về tứ giác sinh cơ lập nghiệp, thì cần giữ cái đạo làm người, thì kinh tế thị trường ở đây mới nên bộ mặt nông thôn mới”. “Đến với văn chương để mong nổi danh thì đừng có hòng. Nền văn học của ta hơn nửa thế kỷ qua, nhìn lại ở một góc độ nào đó, coi như lấy rổ múc nước”. “vì vậy mà phải viết cho đàng hoàng, phải có lương tâm nghề nghiệp thì các báo, các nhà xuất bản họ mới mua của mình, độc giả họ mới đọc của mình”. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/son-nam-ong-gia-nam-bo/
Cụ Sơn Nam là nhà văn, nhà báo, nhà khảo cứu Nam Bộ, “ông già Nam Bộ”, “ông già Ba Tri”, “ông già đi bộ’, “pho từ điển sống về miền Nam”, “nhà Nam Bộ học”.Cụ Sơn Nam đã giã từ cõi nhân sinh ngày 13 tháng 8 năm 2008 và kịp để lại cho đời một sự nghiệp trước tác đồ sộ trên 8000 trang sách của hơn 44 đầu sách đã in và trên 10.000 trang sách chưa in. Bài thơ “Thay lời tựa” của Cụ Sơn Nam trong “Hương rừng Cà Mau” hay ám ảnh: “Trong khói sóng mênh mông/ Có bóng người vô danh/ Từ bên này sông Tiền/ Qua bên kia sông Hậu/ Mang theo chiếc độc huyền/ Điệu thơ Lục Vân Tiên/ Với câu chữ:/ Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả/ Tới Cà Mau – Rạch Giá/ Cất chòi đốt lửa giữa rừng thiêng/ Muỗi vắt nhiều hơn cỏ/ Chướng khí mù như sương/ Thân không là lính thú/ Sao chưa về cố hương?…”. Lời điếu của cụ Sơn Nam khóc cụ Bùi Giáng sao mà chân tình, văn hóa, tri âm, tri kỹ đến vậy: “Anh Giáng ơi! Sinh thời anh ăn mặc xốc xếch, áo trong dài hơn áo ngoài,…nhưng văn thơ của anh ngay ngắn đường hoàng. Anh có nề gì cháo chợ cơm hàng, cả cơm thừa canh cặn, nhưng câu chữ anh xài sạch sẽ, ý tứ sáng trong. Cả đời anh lang thang khi chùa khi chợ có cố định đâu đâu, mà bữa nay đưa anh đi có quân canh lính gác, có vòng hoa của Thành ủy– Ủy Ban, có Hội Nhà văn, dậy là anh có hộ khẩu Sài Gòn rồi đó nghe anh Giáng!” Cụ Sơn Nam cũng chân thành ngợi ca cụ Trương Vĩnh Ký đã dành thời gian cuối đời để viết chuyện hay cho con nít đọc.“Viết chuyện hay con nít tìm đọc là khó lắm đó nghe” chứ không chỉ là những công trình bác học đồ sộ. Nhớ Sơn Nam ông già Nam Bộ, chúng ta nhớ những trang văn, những chuyện đời thấm đẫm tính nhân văn của ông.
Viết về cụ Sơn Nam, tôi thích hơn cả là của Đoàn Nam Sinh, Huỳnh Kim, Võ Đắc Danh, Trần Thị Hồng Hạnh, Lê Văn Thảo, Lam Điền, Trần Mạnh Hảo và chùm Sơn Nam video nhạc tuyển. Hãy học thái độ của nước mà đi như dòng sông! Tôi từ trước đã tâm đắc điều này, và ngộ ra những người hiền thường thung dung, an nhiên với đời thường. Những người hiền phương Nam như Sơn Nam, Bùi Giáng, Võ Hồng, Trang Thế Hy… đều thật là hiền hòa, chất phác.
Hoàng Kim
Tài liệu dẫn
NHỚ SƠN NAM Đoàn Nam Sinh
Hồi
còn nhỏ, thập kỷ sáu mươi về trước, trong làng ấp xa xăm, tôi đã được
đọc những bài viết của chú trên tờ Hương Quê, giấy báo trắng láng với
màu mè, hình vẽ minh họa rất đẹp. Mẫu chuyện mà tôi nhớ đời là bà con
xứ Nam kỳ đã lập thế nhử vịt câu sấu như thế nào, với giọng văn giản
dị, tưng tửng. Ba tôi, người cũng từng dầu dãi sông nước giải thích
chuyện trẻ nhỏ nghịch ý với cha mẹ thì thường bị quở là “đem câu sấu cho
rồi”, tụi nhỏ tôi sợ lắm.
Ông
cậu vợ tôi sau này, ngày còn nhỏ nhà ngoại khá giả cho đi học trên Nam
Vang, chắc có Pri-me rồi về Rạch Giá đi dạy học. Đổi vùng khắp chốn
đến sau khởi nghĩa mới biết là đi theo cộng sản từ thời ông Giàu gây
dựng đâu bên Xiêm bên Lèo. Cậu làm chủ tịch một xã ở Gò Quao, mà cái
bằng “đẹp trai” không giấu được. Ở đâu chị em cũng bu theo. Cậu có lần
kể “tao đi công tác với hai cô, mùa nước nổi chun nóp ngủ trên chòi gò,
lần quần rồi tao quất cả hai”. Không biết có phải vì đào hoa, lăng
nhăng hay sao đó cậu ở lại, không tập kết. Rồi tù tội liên miên. Có lần
cậu nói “thằng cha này là Minh Tài, nó viết văn hay lắm, ham đi xuống
thực tế, rồi ham viết, chẳng kể gì giờ giấc, chưng dọn. Người hổng biết
nói chả ở dơ, lúc 9 năm chả hay về đây, tiếng Tây chỉ có mấy người
biết, đủ để nói thầm, chả thân cậu lắm!”. Sau này tôi kể lại với chú
cậu Trần Kỳ Ứng dưới Gò Quao hỏi thăm, chú nói chuyện “hồi đó ai cũng
yêu nước, đánh Tây đặng giành độc lập. Có mấy người biết chữ đâu. Lớp
đó là người theo đạo Thiên chúa cũng vào Đảng, làm lãnh đạo Việt Minh.
Khi định biên lại khoảng năm 53, làm theo kiểu mấy anh Tàu nên nhiều
người chán nãn…”.
Lớn
lên trong thời chiến, lại lo chuyện học hành, chuyện kiếm hiệp/võ hiệp
kỳ tình tràn lan rồi phong trào hip-pi, phản chiến đến triết lý hiện
sinh hiện tồn,…Mỹ đã đổ quân vào Đà Nẵng, đảo chính, tăng quân, leo
thang đánh phá,…Làng quê ứng phó bằng tích trữ khô muối, dầu đèn,
trảng-sê hầm hào trước bom sai đạn lạc; phố chợ lung lay trước bao cuộc
biểu tình, đình công bãi thị, học sinh bãi khóa, chống đàn áp Phật giáo
rồi chống hiến chương Vũng Tàu, đả đảo Nguyễn Khánh bán nước, đả đảo
Thiệu-Kỳ-Có,…khiến tụi nhỏ tôi chẳng còn thời gian và lòng dạ nào dòm
đến văn học miền Nam nữa.
Sau
68, anh em tan tác người một ngã. Ngọn lửa tàn độc tràn qua thôn ấp
ngày một hung tợn, ác liệt. Làn sóng tỵ nạn chiến tranh lan ra, người
dân tản cư chạy vào khu dồn, lớp trẻ chúng tôi về Sài Gòn. Mấy năm sau
tôi thấy chú trong phong trào chống chế độ kiểm duyệt báo chí của Sở
Phối hợp Nghệ thuật, tổ chức biểu tình với khẩu hiệu “Ký giả đi ăn mày”,
nhưng mỗi người một việc.
Bẵng
đi có chục năm liền, cũng vì mưu sinh chen chúc, tuy không xa nhưng
khó dịp hàn huyên. Có lần gặp nhau tôi hỏi nghe chuyện vợ con chú sao
đó, chú Sơn Nam buồn buồn ̶ “mình viết văn mà không hay thì ai đọc, làm
sao sống? Mà lo chuyện viết lách thì bỏ bê, vợ con mấy người thông
cảm”…Tới 97, đợt 300 năm Sài Gòn chú nhờ tôi tiếp mấy chuyện vặt. Lúc
này chú thuê nhà ở Phan Văn Trị, một cái buồng dài và hẹp, bốn bề nước
đái khai um. Cũng chỉ cái máy Olivetti gõ cọc cạch và bộn bề sách vở xếp
chung quanh lan cả lên chiếc giường tám tấc. Gần đến ngày trả tiền nhà
chú lúng túng, xốn xang cùng nổi lo trễ nãi bà chủ phiền.
Chú
Sơn Nam lúc này đã thấy già, nói chuyện vẫn bông lơn nhưng có phần cam
chịu. Có bữa được ít tiền nhuận bút, “chú em chở dùm qua đi gửi cho
thằng con, nó khổ lắm”. Lần khác thì “thằng con dưới Mỹ Tho hẹn lên xin
mấy trăm về lo chuyện nhà”.
Mấy
lần chú xuất hiện trên phim, và khi đi ra quê Bắc tế cụ Nguyễn Hữu
Cảnh, với bộ nam phục lụa màu xanh thấy ngồ ngộ, khác xa với “ông già
đi bộ” thường ngày, lưng chú đã hơi còng rồi.
Vài
năm sau nữa, tôi nhớ bữa đưa tang Bùi Giáng ở Gò Dưa, sau bài ai điếu
của Cung Văn là điếu văn của Hội Nhà Văn thành phố. Chú moi ra bài viết
sẵn trên túi áo vét xanh nhầu nhỉ, sửa lại đôi kính cũng rầu rĩ như
ông chủ và chú run run nói: “Anh Giáng ơi! Sáng nay anh NQS nói với tui
anh là lớp trước, lại ở trong này, cũng ít dịp gần gũi. Anh đại diện
cho Hội đọc dùm điếu văn này. Dậy đây là phần của Hội nghe anh Giáng…Tui
đọc dậy là xong rồi, còn đây là của tui. Anh Giáng ơi! Sinh thời anh
ăn mặc xốc xếch, áo trong dài hơn áo ngoài,…nhưng văn thơ của anh ngay
ngắn đường hoàng. Anh có nề gì cháo chợ cơm hàng, cả cơm thừa canh cặn,
nhưng câu chữ anh xài sạch sẽ, ý tứ sáng trong. Cả đời anh lang thang
khi chùa khi chợ có cố định đâu đâu, mà bữa nay đưa anh đi có quân canh
lính gác, có vòng hoa của Thành ủy – Ủy Ban, có Hội Nhà văn, dậy là
anh có hộ khẩu Sài Gòn rồi đó nghe anh Giáng!…”.
Có
lần hội thảo khoa học về cụ Trương Vĩnh Ký, như những lần hội thảo
danh nhân Nam bộ khác, chú đã đọc tham luận. Không phải về những công
trình bác học, đồ sộ hoặc luận về công/tội, chú nói đến chuyện sau cùng
cụ TVK đã dành thời gian viết chuyện cho con nít đọc, “mà viết chuyện
hay con nít tìm đọc là khó lắm đó nghe”.
Lúc
Bé Tư mới ra cuốn Cánh đồng bất tận, một ông lão nghe chuyện hỏi tôi
NQS ủng hộ lắm hả, cháu có không? Tui nghe chú Sơn Nam có bản photo. Mà
lúc này ổng về ở dưới Lăng Ông rồi. Chở chú lại thăm giả chút. Hai
người lớn nói chuyện văn chương, tôi mãi mê đọc báo. Chỉ nghe thoáng
khúc cuối chú Sơn Nam nói “nó muốn đặt tên cho đứa nhỏ là Hiền, Lành gì
đó chứ không Thù, Hận,…nghĩ lại không biết tụi mình là con hoang của vụ
hiếp dâm nào?” Tôi xin phép hai ông chú ra về trước.
Tự
nhiên mấy năm gần cuối đời hai dái tai của chú dày ra, rộng hơn phát
đỏ hồng, anh em mừng. Thì cũng có chuyện hợp đồng bán được tác quyền,
sách được in lại đẹp đẽ, chú cũng mừng. Nhưng thường bữa, trừ đợt bịnh
nặng, chú vẫn đến thư viện Gò Vấp cạnh cầu Hang tìm sách đọc, viết và
nhờ mấy cháu đánh máy lại. Rủng rỉnh thì mời mấy cô bé đi ăn trưa, cơm
dĩa. Sáng sáng lại ngồi cà phê đen xéo phía kia đường.
Khúc
cuối cùng cuộc đời, do có chuyện bình chọn để lãnh giải thưởng gì đó
ngoài trung ương mới có chuyện “…Sơn Nam không được, vì nhờ biết tiếng
Tây, đọc các bài viết cũ rồi viết lại chứ không có công trình gì…”. Từ
hồi chữ quốc ngữ thịnh lên tới giờ, có biết bao nhà văn đọc rồi phóng
tác; có bao người đọc để biết mà tránh viết giống người trước? Tôi thì
biết rõ là chú Sơn Nam không đạo văn như cái án oan kiểu gây dư luận
đó.
Lại
rủi cho chú khi đi đường bị xe của bọn trẻ chạy vong mạng làm gãy
chân, chú chỉ nói buồn “tụi nhỏ chúc thọ ông già kiểu này ngặt quá!”.
Mới
đó mà chú đã đi xa một năm rồi, ngày đưa tang chú tôi từ Gia Lai về,
mệt quá ngủ quên, khi anh em nhắc thì đã xong mọi việc. Tiếc và buồn!
Thôi, đêm nay tôi nhớ chú, ngồi viết gọn mấy dòng dâu bể.
Bài
“Thay lời tựa” tập truyện ngắn nổi tiếng “Hương Rừng Cà Mau” của nhà
văn Sơn Nam là một bài thơ hay. Bài thơ dài 28 câu viết về cái thuở
tiền nhân xưa từ miền Trung tha hương vào khai hoang mở cõi phương Nam.
Đó là một bài thơ độc đáo hiếm thấy của nhà văn Sơn Nam mà nhiều người
đã thuộc lòng vì cái điệu buồn chất chứa trong từng âm điệu, câu chữ.
Nhưng
có lẽ ít ai biết bài thơ đó nhà văn viết khi nào và ở đâu. Một hôm,
cuối năm 2000, gần Tết, tôi nhớ vào ngày 15-1-2001, ông ghé thăm báo
Cần Thơ và nhắn tôi qua chơi. Tôi chở ông về nhà mình, giở cuốn “Hương
rừng Cà Mau” do nhà xuất bản Trẻ tái bản năm 1986, có chữ ký tặng bằng
mực đỏ của ông ngày nào, rồi hỏi:
– Bài thơ này chú Tám làm hồi nào vậy?
Ông nheo nheo mắt, nói:
– Viết từ năm 1961, trong nhà tù Phú Lợi. Hồi đó chánh quyền Sài Gòn bỏ tù cái tội mình vẫn theo kháng chiến.
Rồi
ông ngồi chép lại cả bài thơ trên mặt sau một tờ lịch lớn. Nét chữ của
một ông già 75 tuổi mà bay bướm quá chừng. Cuối bài thơ, ông ghi:
“Viết thơ này từ năm 1961, nay chép lại tặng Huỳnh Kim, bờ sông Hậu”.
Tôi đã nhờ thợ phủ la-mi-na và ép tờ lịch ấy lên một tấm gỗ để lưu giữ
được lâu dài bút tích của nhà văn Sơn Nam.
Tôi
treo kỉ vật này trên tường kế bên kệ sách và gắn kề bên nét chữ của
ông, một chiếc lá cây khô hoang dã đã lìa cành tự khi nào. Chiếc lá ấy,
nét chữ ấy, mỗi lần nhìn lên, như nghe có tiếng người xưa vọng lại:
Trong khói sóng mênh mông
Có bóng người vô danh
Từ bên này sông Tiền
Qua bên kia sông Hậu
Mang theo chiếc độc huyền
Điệu thơ Lục Vân Tiên
Với câu chữ:
Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả
Tới Cà Mau – Rạch Giá
Cất chòi đốt lửa giữa rừng thiêng
Muỗi vắt nhiều hơn cỏ
Chướng khí mù như sương
Thân không là lính thú
Sao chưa về cố hương?
Chiều chiều nghe vượn hú
Hoa lá rụng buồn buồn
Tiễn đưa về cửa biển
Những giọt nước lìa nguồn
Đôi tâm hồn cô tịch
Nghe lắng sầu cô thôn
Dưới trời mây heo hút
Hơi vọng cổ nương bờ tre bay vút
Điệu hò… ơ theo nước chảy chan hòa
Năm tháng đã trôi qua
Ray rứt mãi đời ta
Nắng mưa miền cố thổ
Phong sương mấy độ qua đường phố
Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê…
Nhà
văn Sơn Nam đã về với đất, nhẹ như câu thơ của ông “Hạt bụi nghiêng
mình nhớ đất quê”. Sáng nay, lục tìm trong ký ức và trong Thời báo Kinh
tế Sài Gòn (TBKTSG), như gặp lại ông…
1.
Năm
bảy năm trước, khi còn khỏe, nhà văn Sơn Nam có viết lai rai cho
TBKTSG, thường là vào dịp Tết. Có một bài mà bây giờ đọc lại, thấy như
ông nói chuyện đang xảy ra. Đó là bài “Làm tiền và xài tiền”. Mở đầu bài
báo, ông viết: “Tuy không rành về kinh tế tài chính nhưng tôi dám
phát biểu rằng không phải có nhiều vàng trong tay là mặc nhiên được
đứng vào hàng ngũ tư sản Việt Nam trong giai đoạn mở cửa này”. Rồi ông
nhận xét: “Mấy năm gần đây, phát sinh một hiện tượng ăn xài hoang phí
trong một bộ phận dân cư ở Sài Gòn và các tỉnh, đến mức mà chính những
nhà kinh doanh nước ngoài phải ngạc nhiên, thậm chí coi khinh. Trúng
mối vài dịch vụ sang nhượng nhà đất, buôn lậu, tráo trở chứng từ, dành
dụm được năm, mười cây vàng, hoặc hơn, làm tiền không đổ mồ hôi thì dĩ
nhiên cần tiêu xài vô lý, dịp may hiếm có. Tiền sẽ vào túi, dễ dàng,
cóc nằm há mồm là sung rụng ngay vào miệng, muốn khạc ra cũng không
được. Đó là chưa kể một số cán bộ tiêu cực có bài bản, ăn chơi một buổi
bằng một năm lương bổng của người làm công. Xài ô-tô hạng sang, quần
áo thứ tốt, nhà cửa trang trí toàn đồ ngoại”.
Một chỗ khác, ông mô tả rành rọt: “Rượu
mạnh với nhãn hiệu đắt tiền, nốc vài chai đã là tốn bạc triệu. Gọi
thức ăn đủ món, nhưng món nào cũng gắp thử một vài đũa, hoặc không gắp
rồi chờ đem món khác! Ăn để phá của, vì của cải ấy làm ra không đổ mồ
hôi, lắm khi không tiêu xài thì không phải lẽ, vì đó là tiền thù lao
tập thể cho phép cả nhóm kết nghĩa! Tiêu xài để cho người đồng lõa thấy
mình là người hào hiệp, thừa tiềm năng và thừa bản lãnh. Đến mức những
người phục vụ cửa hàng tuy cười tươi ra mặt nhưng khi vào nhà bếp, họ
cũng lắc đầu, khinh bỉ cái phong cách điên khùng của “thời đại”. Chưa
hết! Ăn uống bừa bãi, nửa ăn nửa bỏ, nôn mửa, lắm khi để xóa mặc cảm
tội lỗi, họ lại cởi áo, dùng những lời lẽ phàm tục, nhờ điện thoại cầm
tay để nói láo với bạn bè, với vợ con hoặc trêu chọc cô gái nào đó để
ra vẻ mình… có máu văn nghệ. Chưa kể trường hợp say quá mức, họ lại đùa
giỡn bằng cách chế diễu các cơ quan nhà nước và tự chế diễu mình”.
Ông quan sát thấu đáo cả những kiểu sống như thế này: “Có
tiền nhiều, nhưng không tin nơi ngày mai, hoặc quá tin vào tử vi, tuổi
con rồng, gặp tháng con chuột. Họ cầu mong làm giàu thêm, không bỏ
những dịp may có thể thoáng qua rồi mất. Con cái của họ cần được nổi
danh trong khu phố, với bạn bè cùng trang lứa. Nào khiêu vũ, nào ăn
điểm tâm ở khách sạn sang trọng nhất, xài đô-la chớ không xài tiền
Việt, trong khăn mù-soa nhung nhúc những khoen lớn khoen nhỏ. Mất chiếc
xe gắn máy đắt tiền này, lập tức cho con số tiền to để sắm trở lại
chiếc khác, lắm khi còn đắt tiền và hợp thời trang hơn”.Gần cuối bài đó, nhà văn nhắc nhẹ: “Ở
Việt Nam, xưa kia đã từng có xuất hiện vài nhà tư sản xứng đáng cho
đời sau ghi nhớ. Thí dụ như ông Trương Văn Bền. Khi rảnh rang, ông
tranh thủ đọc sách, nghiên cứu cách tiếp thị, phân phối sản phẩm theo
đường dây hợp lý. Mỗi sáng, ông không quên tập thể dục”.
2.
Nhà
văn Sơn Nam viết báo kinh tế như vậy đó. Còn các nhà báo kinh tế và
doanh nhân thì lại hay trích văn của ông. Trong mấy chục bài của họ đã
đăng trên TBKTSG, dễ gặp lại hình ảnh “ông già Nam bộ” Sơn Nam.
Tỉ
như trong bài “Như ngày xưa tiền nhân đi mở cõi”, ông Trần Kim Chung –
Tổng giám đốc Công ty cổ phần Quốc tế C&T – đại diện Tập đoàn Mỹ
phẩm Amore – Pacific Hàn Quốc, tâm sự: “Có một bài thơ của nhà văn
Sơn Nam luôn làm tôi liên tưởng rằng, chuyện khởi nghiệp kinh doanh
ngày nay cũng tựa như chuyện tiền nhân ta ngày xưa đi mở cõi. Đó là
đoạn đầu trong bài thay lời tựa tập truyện ngắn “Hương rừng Cà Mau” của
nhà văn: Trong khói sóng mênh mông / Có bóng người vô danh / Từ bên
này sông Tiền / Qua bên kia sông Hậu / Mang theo chiếc độc huyền / Điệu
thơ Lục Vân Tiên / Với câu chữ: “Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả” / Tới
Cà Mau, Rạch Giá / Cất chòi đốt lửa giữa rừng thiêng…”.
Hoặc trong bài “Quán Sơn Nam”, nhà báo Võ Đắc Danh kể: “Sáng
thứ bảy, tôi tìm đến địa chỉ liên lạc thường nhật của ông, tức cái
quán cà phê trong khuôn viên nhà truyền thống quận Gò Vấp. Khác với lệ
thường, hôm nay sau khi uống xong ly sữa tươi và ly cà phê đen, nhà văn
Sơn Nam ăn thêm một gói bắp nấu, rắc lên một ít đường cát và dừa nạo.
Bắp nấu là món ăn sáng của người nghèo, hồi trước bắp nấu được gói bằng
lá chuối, múc ăn bằng một miếng sóng lá dừa. Bây giờ là cây muỗng
nhựa, bắp nấu gói trong bọc ny lông, bên ngoài gói thêm lớp giấy báo.
Thấy
ông ăn một cách ngon lành, tôi hỏi: “Tía tìm đâu ra món này, đã lâu
rồi tôi không thấy?”. Ông nói ở gần nhà ông còn một người bán, nhưng
phải dậy sớm mua mới có.
Ông
vừa ăn xong thì một thanh niên tìm tới, nói là ở tạp chí Điện ảnh đến
nhận bài báo Tết theo đơn đặt hàng. Ông vừa lấy bản thảo trong túi ra,
vừa cười nói: “Lấy tiền trước của họ, xài hết rồi mới viết”. Ông cho
tôi xem trước khi giao nó cho khách hàng. Năm Giáp Thân, ông viết về
khỉ. Thì ra, ông là một trong những cư dân Sài Gòn trực tiếp chứng kiến
các chuyên gia người Pháp mang hai con khỉ đầu tiên đến Thảo cầm viên.
Ông nói ông rất khoái câu nói của Gamzatov, đại ý: con khỉ muốn thành
người phải trải qua quá trình tiến hóa hàng triệu năm, nhưng con người
muốn trở lại thành khỉ thì chỉ cần một chai rượu”.
Hay trong bài “Thế kỷ XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản”, nhà báo Hưng Văn viết: “Nhà
văn Sơn Nam đề nghị: Trong chương trình sử học cho học sinh, nên có
một bài nói về ông Phan Thanh Giản; đủ tình đủ lý; gọi là tình huống
đặc biệt của Nam bộ khi phải hội nhập với vùng Đông Nam Á và phương Tây
quá sớm so với các vùng khác trong cả nước. Ông để lại cho đời sau
chút gì khó quên, khó xóa nhòa, gọi là tâm linh, phóng khoáng, mơ mộng”.
Tấm
ảnh đăng kèm bài này là hình nhà văn Sơn Nam lật xem cuốn “Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư” trên giường bệnh vào chiều ngày 19-6-2005. Một giọt
nước mắt ứa ra nơi khóe mắt ông già 80 tuổi. Dạo đó, ông phải nằm viện
cả tháng trời sau một tai nạn giao thông. Cùng nhiều bạn đọc khác, tôi
từ Cần Thơ về Sài Gòn thăm ông, gởi biếu ông quà của công nhân Công ty
In Vườn Lài ở Quận 10 và của giáo sư Trần Hữu Dũng ở Mỹ nhờ chuyển. Tôi
cũng tặng ông cuốn sách của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư ở Cà Mau, do Nhà
xuất bản Trẻ và TBKTSG mới ấn hành. Ông lặng lẽ giở vài trang sách,
không nói một lời. Nhưng nhìn ánh mắt ông, tôi hiểu tình cảm của ông
dành cho nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, năm đó Tư 29 tuổi. Trước đó mấy tháng,
tôi gặp ông chỗ cái quán cà phê mà anh Võ Đắc Danh kể ở trên. Nhắc tới
cô Tư, ông nói: “Viết hay hơn Sơn Nam à nghen!”. Sau đó tôi gọi điện thoại cho Tư rồi đưa máy cho hai chú cháu nói chuyện. Nhớ giọng ông hào hứng: “Chịu khó viết mỗi ngày. Báo hổng đăng thì để đó, rồi sẽ có ngày báo đăng”. Bữa đó, truyện “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư chưa đăng báo.
* Blog Huỳnh Kim, bài này đăng Thời báo Kinh tế Sài Gòn 21-8-2008
VÀI KỈ NIỆM VỚI NHÀ VĂN SƠN NAM Huỳng Kim (Vũ Châu ghi)
Ấn tượng nhứt của anh với nhà văn Sơn Nam là gì?
–
Lần nào gặp, tôi cũng thấy ổng giản dị, lạc quan và hầu như nói chuyện
gì với ổng tôi cũng học được nhiều thông tin bổ ích. Sơn Nam là một
nhà văn nổi tiếng nhưng rất dễ tiếp xúc và chuyện trò. Ở nhà, trong
quán cà phê, giữa cuộc họp… hay bất cứ đâu, hễ rảnh rang là ổng sẵn sàng
la cà với mọi người, nhất là với giới bình dân. Có lần tôi về Sài Gòn
ghé thăm khi ổng đang nằm trên giường bệnh. Ổng gầy lắm, da bọc xương,
nhưng nói chuyện thì tỉnh táo, ánh mắt vui. Ổng khuyên tôi nên coi bộ
phim “Mê-kông ký sự” mà theo ổng thì còn gặp được những hình ảnh văn hóa
gốc của nhiều dân tộc thiểu số chưa bị “con người hiện đại” can thiệp.
Ổng nói rất lạc quan: “Nếu còn sống được tới 85 tuổi, tôi sẽ viết tiếp câu chuyện này, ở hai bên bờ sông Tiền, sông Hậu của đồng bằng sông Cửu Long”.
Nghe nói nhà văn Sơn Nam có dạy anh viết báo?
–
Không dạy trên giảng đường, ổng chỉ dạy tôi trong cuộc sống. Từ năm
1975, nhà tôi ở chung con hẻm nhỏ với nhà văn trên đường Lạc Long Quân,
quận Tân Bình, TPHCM. Tôi vào bộ đội rồi chuyển sang nghề báo. Phóng sự
đầu tiên tôi nhờ ổng đọc, viết về đảo Phú Quốc gởi báo Quân đội nhân
dân. Cho tới giờ, tôi vẫn thực hành lời dạy viết báo của nhà văn Sơn Nam
từ dạo đó: “Cố gắng viết ngắn, câu nào cũng có thông tin”.
Một
lần khác, vào năm 1993, tôi theo nhà văn vào xã Tây Phú thuộc huyện
Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Trong khi chúng tôi cứ loay hoay với mấy cái
báo cáo tổng kết về chuyện đi khai hoang vùng tứ giác, thì nhà văn Sơn
Nam đã lội lòng vòng quanh chợ xã. Quay về, ông chỉ hỏi anh bí thơ xã
mấy câu mà nghe xong thấy… quá nể: “Có gái giang hồ vào tứ giác tìm
tình yêu hay không?”; “Có người nông dân bất mãn? Có anh cán bộ cường
hào?”; “Điện thoại bàn đã gọi ra quốc tế nhưng sách báo về xã sao thấy
còn ít quá?”… Khi nghe anh bí thơ xã kể chuyện bà con nông dân lập
miếu Thần Nông, 17 tháng 3 âm lịch hằng năm họ cúng tạ ơn trời đất, tổ
tiên và cây lúa, nhà văn Sơn Nam nói: “Đó là đạo. Làm ruộng là
đạo, giữ đất là đạo. Khuyến nông tức là cách giữ đạo làm nông, thì dân
mới giàu mạnh được. Tôi lội chợ Tây Phú, thấy có đánh bi-da, có tiệm
vàng, có cái kéo rèn từ Phú Tân đưa qua, có bộ xa-lông tre lấy mẫu từ
Mộc Hóa, có cô bán quán quê Đồng Tháp, có thầy giáo quê Thanh Hóa… Người
tứ xứ về tứ giác sinh cơ lập nghiệp, thì cần giữ cái đạo làm người,
thì kinh tế thị trường ở đây mới nên bộ mặt nông thôn mới”. Khi
ghé thăm chùa, thăm khu di chỉ văn hóa Óc-Eo, cánh nhà báo chúng tôi
lăng xăng hỏi nhà chùa đủ chuyện thì nhà văn Sơn Nam lặng lẽ thắp nhang
trước bàn thờ Phật, cúng dường nhà chùa và bố thí cho người nghèo
chung quanh chùa.
Đó là những bài học làm báo và làm người nhớ đời của tôi.
Anh có giữ kỷ vật gì của nhà văn Sơn Nam không?
–
Tôi đang giữ tập truyện “Hương Rừng Cà Mau” do Nhà xuất bản Trẻ tái
bản lần đầu tiên sau ngày giải phóng, tháng 11-1986, in giấy vàng khè,
giá 25 đồng, có chữ ký tặng bằng bút bi màu đỏ của nhà văn Sơn Nam. Tôi
cũng đang treo bên kệ sách, bút tích của nhà văn Sơn Nam chép bài thơ
thay lời tựa tập truyện “Hương Rừng Cà Mau”. Lần đó, tôi nhớ vào ngày
15-1-2001, sau khi ghé thăm báo Cần Thơ, nhà văn về nhà tôi chơi. Sau
đó, ổng chép lại bài thơ vào mặt sau một tờ lịch lớn và ký tặng vì biết
tôi rất thích bài thơ đó. Tôi tò mò hỏi chú viết bài thơ trong hoàn
cảnh nào, ổng nói: “Viết từ năm 1961, trong nhà tù Phú Lợi; hồi đó
chính quyền Sài Gòn bỏ tù cái tội mình vẫn theo kháng chiến”.
“CỐT CÁCH NGƯỜI VIỆT NAM MÌNH LÀ NHÂN NGHĨA” Huỳnh Kim
Trung
tuần tháng 3-1990, nhà văn Sơn Nam về Cần Thơ để chuẩn bị cho một công
trình nghiên cứu về chùa Nam Nhã. Lúc này ông đã 64 tuổi, thường xuyên
đi về miền Tây. Biết tôi đã chuyển qua làm ở báo Quân khu 9 và cộng
tác với mấy tờ báo ở Sài Gòn, Hà Nội, ông nhắn tôi đi uống cà phê đêm
rồi về nhà tôi chơi. Lâu ngày gặp nhau, không hiểu sao tôi vẫn muốn
nghe ông nói chuyện về miền Tây, về đồng bằng sông nước mà khi đó dù đã
cưới vợ quê gốc Cần Thơ, lúc nào tôi cũng thấy mình thiếu cái… cốt
cách miền Tây. Tôi còn nhớ đã hỏi ông như thế này:
– Cái cốt cách người đồng bằng mình, theo chú Tám, là sao?
Ông trả lời:
–
Cái cốt cách người Việt Nam mình là nhân nghĩa. Ông vua mà không nhân
nghĩa thì sẽ bị cái nhân nghĩa của nhân dân “cách cái mạng”. Hàng xóm
có đám ma, mình góp tiền lo đám, dù người đó lúc còn sống mình không
ưa. Không phải chỉ ông vua chết, mình mới cúng. Người ăn mày chết, mình
cũng cúng. Đứa trẻ chết, mình cúng. Người ăn cắp, người đói chết, mình
cúng. Xưa, công chúa Thuận Thiên than lạnh với cha, vua Lý Thánh Tông
họp quần thần bảo: Trẫm thương dân như thương công chúa. Công chúa mặc
hai lớp áo cung đình còn than lạnh, huống hồ là muôn dân của trẫm bị cầm
tù vì nghèo vì dốt. Nay trẫm lệnh phải phát đủ quần áo để muôn dân
được ấm. Đó không phải là mị dân, cái gốc của nó là nhân nghĩa Việt
Nam.
Ông
còn nói thêm về cái hiện trạng sống thiếu nhân nghĩa xung quanh ta.
Tôi giật mình nghĩ lại mình. Lúc đó là đã mười bốn năm kể từ ngày ba
tôi mất. Lúc đó, đời lính đã tạm yên, không còn ra mặt trận 979 nữa,
nhưng vợ chồng tôi chưa bao giờ nghĩ tới chuyện thờ phượng ba tôi, tất
cả để một mình mẹ già của tôi ở Sài Gòn lo nhang khói. Mà hai vợ chồng
tôi lúc đó là đảng viên, lúc nào cũng nghĩ mình sống có ích, có nghĩa
với dân với nước! Có ngờ đâu, có những lúc thấy tâm hồn trống vắng cô
đơn kì lạ mà không làm sao hiểu nổi. Như là đêm hôm đó, tôi lập cập tiễn
ông già 64 tuổi ra khỏi căn nhà “gia binh” già nua của mình, gió đêm
lạnh ngắt.
HK
* Blog Huỳnh Kim, hai bài này đăng báo Cần Thơ (tháng 8-2008)
HẠT BỤI NGHIÊNG MÌNH NHỚ ĐẤT QUÊ Võ Đắc Danh
Biết
thế nào rồi cũng có cuộc chia ly, hôm ấy, cách nay hơn ba năm, khi ông
còn tá túc ở thư viện Gò Vấp, tôi mua một tờ giấy cứng với cây bút
lông mang lên, nói: “Tía chép giùm con bài thơ để con giữ bút tích của
tía làm kỷ niệm”. Ông nói: “Ừ, để đó đi, vài hôm nữa đã, tôi có chết
sớm đâu mà lo, giờ có rảnh hôn, chở tôi đi vòng vòng Sài Gòn chơi”.
Không ngờ đó là lần cuối cùng tôi chở ông đi dạo, và rồi bài thơ ông
cũng không kịp chép cho tôi. Hôm ấy được tin ông bị tai nạn giao thông,
tôi chạy sang thì ông đã nằm liệt giường, thậm chí không còn nhận ra
tôi là ai nữa. Bây giờ thì ông đã ra đi!
Nhớ
hôm ấy, ngồi sau lưng tôi, ông kể chuyện huyên thuyên, rồi bất chợt
khi ngồi ở một quán cà phê vỉa hè, ông nói: “Tôi còn mấy chuyện hay
lắm, nhưng về già tôi mới viết”. Tôi giật mình nhìn ông và tự hỏi, về
già là bao lâu nữa, hơn 80 rồi, ông lẩm cẩm rồi chăng? Rồi ông lại nói:
“Có gặp thằng Nguyễn Trọng Tín, nói tôi nhắn với nó chuyển sang viết
văn xuôi đi, thời buổi này mà làm thơ là húp nước mắm”. Tôi nói ông Tín
bây giờ viết báo rồi, ông cười: “Vậy là càng tốt, viết báo dễ kiếm
tiền hơn”. Trầm ngâm một chút, ông nói: “Nè, tôi dặn ông cái này nghen,
ông viết báo thì cứ lo viết báo, đừng bày đặt góp ý với thằng chủ báo
phải làm thế này thế nọ, trào máu có ngày! Ngoài mặt nó giả bộ gật đầu
nhưng trong bụng nó ghét cay ghét đắng”.
Từ
chiến khu về thành ông được phân công ở lại sau tập kết, một phòng
trọ, một bộ bà ba vải ú trắng, một đôi guốc vông, lang thang đi bộ khắp
Sài Gòn. Ông nói sự nghiệp của ông có ảnh hưởng khá nhiều từ lời khuyên
của Bình Nguyên Lộc.
Những
ngày đầu tiên ở Sài Gòn, ông lang thang đi tìm Bình Nguyên Lộc, hôm ấy
gặp nhau trong một căn gác xép, hai người trao đổi với nhau xem nên
viết cái gì để vừa kiếm tiền nuôi sống, vừa có lợi cho dân. Bình Nguyên
Lộc trầm ngâm khá lâu rồi nói: “Tôi thấy Sài Gòn bây giờ khá đông dân
nhập cư từ miền Tây, hay là ông viết những chuyện xứ ông, chắc sẽ có
nhiều người đọc”. Quả nhiên, những câu chuyện của Sơn Nam về rừng U
Minh đã thu hút đông đảo độc giả Sài Gòn, không chỉ dân miền Tây mà cả
những người đến từ mọi miền đất nước.
Ông
nói: “Đến với văn chương để mong nổi danh thì đừng có hòng. Nền văn
học của ta hơn nửa thế kỷ qua, nhìn lại ở một góc độ nào đó, coi như
lấy rổ múc nước”. Tôi cũng không hỏi vì sao, bởi biết tánh ông thỉnh
thoảng hay “phán” ra một câu rồi bỏ ngỏ, không giải thích, ai muốn hiểu
sao thì tự hiểu. Với riêng ông, ông tự xem viết văn là một cái nghề,
cái nghiệp để mưu sinh, “vì vậy mà phải viết cho đàng hoàng, phải có
lương tâm nghề nghiệp thì các báo, các nhà xuất bản họ mới mua của
mình, độc giả họ mới đọc của mình”.
Dường như với Sơn Nam, mọi thứ đều rất thực tế và rất đơn giản. Trong câu chuyện Âm dương cách trở của ông cách nay gần 20 năm, tôi vẫn bị ám ảnh một chi tiết: “Ông già hớt tóc vỉa hè bị công an khu vực xét hộ khẩu, ông nói: “Tôi sống ở đây gần trọn một đời người, chỉ biết mình là công dân của Tổ quốc Việt Nam thôi”. Anh công an hỏi: “Vậy theo ông thế nào là Tổ quốc?”. Ông già nói: “Với tôi, Tổ quốc là một nơi kiếm sống được bằng một việc lương thiện nào đó, không bị ai làm khó dễ, có vài người bạn chơi được, không ba trợn”. Ông già hớt tóc sau đó qua đời, được một người bạn thầy tu cho hỏa táng và mang hũ hài cốt về quê ở U Minh”.
Cho đến bây giờ, khát vọng đơn giản của ông già kia vẫn đang là khát
vọng của hàng triệu con người. Càng nghĩ càng thấy “đáng sợ” một Sơn
Nam.
SƠN NAM CÂY TRÀM CỔ THỤ RỪNG U MINH Trần Thị Hồng Hạnh (* giải nhất Văn học tuổi 20 lần 3-2005)
Con bé rụt rè, tự ti ngày ấy chỉ có sách vở làm bạn. Con bé chưa từng
ra khỏi thị xã bé như lòng bàn tay đã bay bổng với một không gian đặc
biệt, với những con người khác thường độc đáo trong Hương rừng Cà Mau
của Sơn Nam. Vụt chốc, những dị nhân buổi giao thời như ông già Năm xay
lúa, ông mù Vân Tiên cùng vô số những nhân vật khác trong sáng tác của
Sơn Nam đã đưa con bé – tôi – đến khung trời của sự hào sảng Nam bộ, của
những chí khí chọc trời khuấy nước dưới vẻ bề ngoài bình thường.
Trong một lần trả lời phỏng vấn, ông nói mình viết những Mùa len
trâu, Hương rừng Cà Mau từ “ký ức quê nhà mãi mãi không bao giờ phai
nhạt”. Quê nhà của ông, nơi có cây tràm. “Trời sinh ra cây tràm thật là
kỳ diệu, nó bám chặt rễ trong sình, chìm ngập trong nước mà vẫn mạnh
khỏe, vẫn sinh sôi nảy nở để giữ vững mảnh đất bồi cho quê hương và giữ
người cho đất”.
Tôi cũng nghĩ như vậy về ông. Ông đã góp nhặt tất cả những điều bình
thường nhất, đã viết lại để giữ lại những nét đẹp đẽ của quê hương mình.
Ông như cây tràm cần mẫn ra hoa, kéo ong bướm đến làm mật. Ông như
hương tràm dìu dịu mà làm say mê bao kẻ trót một lần đến với rừng. Bây
giờ, khi rừng đã bị phá rất nhiều, khi những con sông không chở nặng phù
sa mà héo úa vì ô nhiễm, khi cá tôm không còn là của trời ưu đãi vùng
đất phương Nam; những trang văn của ông bỗng trở thành vùng cổ tích,
thành bảo tàng tâm tưởng cho những người con đồng bằng tự hào trong hoài
vọng, nuối tiếc về những gì mà thiên nhiên đã ban tặng cho xứ sở của
mình.
Lần cuối cùng được gặp ông cách đây hơn sáu tháng, vẫn thấy ông miệt
mài với những con chữ, vẫn đau đáu với những trang văn. Cuộc trò chuyện
ngắn ngủi thường bị ngắt quãng vì ai đó cần ông chỉ cho một điều gì đó
về vùng đất Nam bộ. Vì đơn giản là họ biết, cứ hỏi “từ điển Nam bộ sống”
này thì sẽ có câu trả lời.
Từ hôm nay, và nhiều năm sau nữa, nhiều độc giả sẽ tìm đến với những
trang văn đẫm vị phù sa sông nước Nam bộ để hầu mong thấu được cái hồn
cốt của đất và người nơi này. Rồi từ những con chữ lung linh ký ức đẹp
về đất, về người; người đọc sẽ thấy thấp thoáng một dáng gầy, nhỏ, đang
cắm cúi trên từng trang sách. Một trang đời đã khép lại. Vĩnh biệt một
cây tràm cổ thụ của rừng U Minh!
SƠN NAM NHỮNG TRANG VĂN SẼ SỐNG MÃI Lê Văn Thảo * Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, Chủ tịch Hội Nhà văn TP.HCM
Đối với tôi, Sơn Nam là nhà văn số một của vùng đồng bằng Nam bộ. Tôi
đọc ông từ tuổi ấu thơ, thời gian nghiệt ngã giờ đây biến tôi và ông
thành hai người già như nhau, nhưng với nhà văn tôi vẫn là người em nhỏ,
rất nhỏ. Tôi yêu sông nước Cà Mau, viết nhiều về Cà Mau, con người vùng
đất đó đã cuốn hút tôi, đôi khi nghĩ lại hay chính là do những tác phẩm
của Sơn Nam tôi đọc được từ hồi nhỏ, chính con người vùng đất trong tác
phẩm đó đã đi vào cuộc sống của tôi? Nhà văn đã mất đúng giữa trưa,
trời miền Nam mây mù dông bão.
Tôi đau xót, và cũng thấy tự hào là người cầm bút của vùng miền có
nhà văn Sơn Nam, nơi con sông cánh đồng rừng đước rừng mắm lấp lánh
trang văn của ông. Đó là những trang văn sẽ sống mãi, như viên ngọc quý
càng lâu càng sáng.
SƠN NAM TRÊN 10.000 TRANG SÁCH CHƯA IN Lam Điền
Niềm an ủi cuối đời – như có lần ông tâm sự – là các sách của ông đã
xuất bản tập trung, nhờ hợp đồng tác quyền ký kết với NXB Trẻ từ tháng
12-2002. Đến nay đã có 19 tựa sách của nhà văn Sơn Nam ra mắt bạn đọc
trong chương trình sách này, đó là các tác phẩm:
– Bốn truyện vừa; Bà Chúa Hòn; Biển cỏ miền Tây – Hình bóng cũ; Dạo
chơi tuổi già; Đất Gia Định; Bến Nghé xưa & người Sài Gòn; ĐBSCL:
nét sinh hoạt xưa – Văn minh miệt vườn; Đình miếu & lễ hội dân gian
miền Nam; Hương rừng Cà Mau; Lịch sử khẩn hoang miền Nam; Nói về miền
Nam – Cá tính miền Nam; Phong trào Duy Tân ở Bắc Trung Nam; Theo chân
người tình – Một mảnh tình riêng; Tìm hiểu đất Hậu Giang – Lịch sử đất
An Giang; Hồi ký Sơn Nam; Vạch một chân trời – Chim quyên xuống đất; Xóm
Bàu Láng; Gốc cây, cục đá, ngôi sao – Danh thắng miền Nam; Chuyện xưa
tích cũ; Hương quê – Tây đầu đỏ và một số truyện ngắn khác.
Đây là tổng cộng 8.000 trang in, tập hợp từ 44 đầu sách của nhà văn
Sơn Nam đã xuất bản từ trước đến nay. Thế nhưng, đến khi nhắm mắt xuôi
tay, nhà văn Sơn Nam vẫn còn hơn 10.000 trang sách chưa in, đang được
NXB Trẻ tập hợp, trong đó phần lớn là các bài báo và những bài khảo cứu
của ông.
SƠN NAM VẠT LỤC BÌNH NAM BỘ Trần Mạnh Hảo
… “Không hiểu sao, mỗi lần nhớ đến nhà văn Sơn Nam, tôi lại hình
dung đến những vạt hoa lục bình trên các kênh rạch, sông ngòi của miền
Nam. Lục bình, loài hoa “vừa đi vừa nở”, như một bài thơ tôi viết thuở
nào, là một thứ hoa quá bình thường, thậm chí quá tầm thường, do trời
trồng, cứ phiêu dạt, cứ lang bạt kỳ hồ như mây bay gió thổi, như số phận
và tâm hồn của người nghệ sĩ. Lục bình vừa đi vừa sống, vừa đi vừa nở
hoa, vừa đi vừa sinh sôi và tan rã. Nương trên sông nước, có lúc loài
hoa xê dịch này chạy như bay về phía chân trời, chạy như đang bị nghìn
thượng nguồn lũ lụt đuổi bắt, chạy như đang trôi tuột về phía hư vô, về
phía không còn gì, để bấu víu và tồn tại…
Quả thực, Sơn Nam là loài lục bình chuyên đi bộ, trôi bộ trên
những vỉa hè của Sài thành. Ông cứ tưng tửng như thế mà đi vào lòng
người, mà đi vào văn học. Học theo phép trôi nổi, vô bờ bến của hoa lục
bình, chừng như Sơn Nam cứ tưng tửng suốt hơn bảy mươi năm mà đi bộ trên
những vỉa hè bụi bậm quanh co của con người. Đốm lục bình trên cạn này
có cảm giác như trôi không nghỉ, vừa đi vừa ngậm cái sâu kèn bốc khói,
thảng hoặc cười ruồi một cái rất bí hiểm, hoặc gật đầu chào một bóng
mây, quờ tay lên khoảng không như tính vịn vào sự hụt hẫng của bước chân
phận số. Trên dòng đời trôi dạt, cuộn xoáy về vô định ấy, trong hoang
sơ im lặng chợt trổ ra bông lục bình, đột ngột như tiếng khóc oa oa sơ
sinh của mang mang thiên cổ, có lúc lại đầy đặn, ấm áp tươi vui như
tiếng cười của trời đất. Nhìn lên trời, đám mây tưng tửng kia chợt như
một dề lục bình của cao xanh, trôi đi muôn đời bí hiểm mà sao chưa học
được phép nở hoa của bông lục bình hoang dã.
(…) Dòng sông đuổi bắt chân trời, chẳng có gì trên đời có gan bám
theo dòng sông về vô tận ngoài chấm lục bình kia. Lục bình như một biểu
tượng sâu xa của kiếp người, vẫn trổ hoa trong mưa gió. Như một đóa lục
bình văn học, tâm hồn Sơn Nam đang trôi trên những trang văn về phía
chân trời của cuộc sống.”
SƠN NAM
(nhà văn) Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sơn Nam (1926 – 2008) là một nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam nổi tiếng. Tiểu sử Ông
tên thật là Phạm Minh Tài sinh ngày 11 tháng 12 năm 1926, tại làng Đông
Thái, huyện An Biên, tỉnh Rạch Giá (nay thuộc xã Đông Thái, huyện An
Biên, tỉnh Kiên Giang). Do sự nhầm lẫn của nhân viên hộ tịch, tên khai
sinh của ông bị viết sai thành Phạm Minh Tày.
Thuở nhỏ ông học tiểu học tại quê nhà, rồi học trung học tại Cần Thơ.
Năm 1945, ông tham gia Thanh niên Tiền phong, giành chính quyền tại địa
phương, rồi lần lượt tham gia công tác ở Hội Văn hóa Cứu quốc tỉnh,
phòng Chính trị Quân khu, phòng Văn nghệ Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ.
Bút danh Sơn Nam ra đời trong thời gian này, để tưởng nhớ người phụ nữ
Khmer đã cho ông bú mớm thời thơ ấu (Sơn là một họ lớn của người Khmer,
Nam là để nhắc nhớ mình là người phương Nam)[1]. Sau Hiệp định Genève
1954, ông về lại Rạch Giá.
Năm 1955, ông lên Sài Gòn cộng tác với các báo: Nhân loại, Công Lý, Ánh sáng, Tiếng chuông, Lẽ sống…
Năm 1960-1961, bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa bắt giam ở nhà lao
Phú Lợi (Thủ Dầu Một, Bình Dương)[2]. Ra tù, ông tiếp tục làm báo, viết
văn và khảo cứu về Nam Bộ. Sau 1975, ông tiếp tục hoạt động trên lĩnh
vực văn hóa văn nghệ. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Nhà văn Sơn Nam đã viết nên nhiều tác phẩm dấu ấn, ông được nhiều
người gọi yêu là “ông già Nam Bộ”, “ông già Ba Tri”, “ông già đi bộ’,
“pho từ điển sống về miền Nam” hay là “nhà Nam Bộ học”. Toàn bộ các sáng
tác của ông được Nhà xuất bản Trẻ tại thành phố Hồ Chí Minh mua bản
quyền. Ông qua đời ngày 13 tháng 08 năm 2008 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác phẩm
Chuyện xưa tình cũ (1958)
Tìm hiểu đất Hậu Giang (1959)
Hương rừng Cà Mau (1962)
Chim quyên xuống đất (1963)
Hình bóng cũ (1964)
Truyện ngắn của truyện ngắn (1967)
Vạch một chân trời (1968)
Người Việt có dân tộc tính không? (1969)
Gốc cây – Cục đá & Ngôi sao (1969)
Thiên địa hội và cuộc Minh Tân (1971)
Phong trào duy tân ở Bắc Trung Nam (1975)
Đồng bằng Sông Cữu Long, nét sinh hoạt xưa (1985)
Vạch một chân trời (1988)
Bà chúa Hòn (1989)
Lịch sử An Giang (1989)
Chuyện tình một người thường dân (1990)
Theo chân người tình (1991)
Văn minh miệt vườn (1992)
Ngôi nhà mặt tiền (1992)
Âm dương cách trở (1993)
Đình miếu & lễ hội dân gian miền Nam (1994)
Lăng ông bà Chiểu và lễ hội văn hóa dân gian (1994)
Dạo chơi (1994)
Giới thiệu Sà Gòn xưa (1995)
Hương rừng Cà Mau tập 1 (1997)
Người Sài Gòn (1997)
Bến Nghé xưa (1997)
Lịch sử khẩn hoang miền Nam (1997)
Đất Gia Định xưa (1997)
Nghi thức lễ bái của người Việt Nam (1997)
Tuổi già (1997)
Danh thắng miền Nam (1998)
Ấn tượng 300 năm (1998)
Biển cỏ miền Tây ( 2000)
Một mảnh tình riêng (2000)
Tiếp cận Đồng bằng Sông Cửu Long (2000)
Cá tính miền Nam (2000)
Chim quyên xuống đất (2001)
Hồi ký Sơn Nam tập 1 (2001)
Hương rừng Cà Mau tập 2 (2001)
Hương rừng Cà Mau tập 3 (2001)
Dạo chơi tuổi già (2002)
Chuyện xưa tích cũ (2002)
Hồi ký Sơn Nam tập 2 (2002) Từ U Minh đến Cần Thơ –
Ở chiến khu 9 –
20 năm giữa lòng đô thị –
Bình An
Tìm hiểu đất Hậu Giang & lịch sử đất An Giang X
óm Bàu Láng …
Ghi nhận công lao
“ Sơn Nam là một tâm hồn lạc lõng trong thế giới buyn-đinh và
Mercedes, trong thế giới triết hiện sinh, tranh trừu tượng và nhạc tuýt.
Nhưng đó là một tâm hồn đẹp không biết bao nhiêu, đẹp cái vẻ đẹp của lọ
sứ Cảnh Đức Trấn ở Giang Tây (có khác lọ hoa Ý Đại Lợi ngày nay), và ít
được người đời thưởng thức hơn là họ đã thưởng thức một tiểu thuyết gia
chuyên viết về chuyện tình chẳng hạn. Nhưng phải nhìn nhận rằng, cái
đẹp Sơn Nam bất hủ… ”
“ Không chỉ cống hiến trong văn chương, ông (Sơn Nam) còn được
xem là người có công khai phá, khảo cứu và sưu tầm văn hóa mảnh đất Nam
Bộ. Vì vậy, không phải hiển nhiên mà người ta trân trọng gọi ông là “nhà
Nam Bộ học” hay ông già Ba Tri… ” “ Sơn Nam là một trong số những nhà văn từng sống ở đô thị miền Nam
nhưng tác phẩm vẫn được in liền mạch sau giải phóng, điều đó không phải
dễ. Trước hết, tác phẩm của Sơn Nam không thuộc dạng a dua. Sống dưới
chế độ ấy mà tránh được lối viết ấy quả là rất cao tay. Có lần người
viết bài này hỏi vậy, Sơn Nam cười nhẹ, cũng chẳng giỏi giang gì đâu mà
tôi chủ yếu viết về phong tục, về lịch sử khai khẩn đất đai Nam Bộ, và
nếu là truyện thì đi vào tầng lớp nông dân, dân nghèo thành thị.
“Hơn nửa thế kỷ gắn bó với nghiệp sáng tác, những trang viết của
ông không đơn thuần là sự giải trí cho độc giả mà còn là những khảo cứu,
khám phá về mảnh đất phương Nam. Là người Nam Bộ chính gốc nên nhà văn
Sơn Nam là người am hiểu quá trình hình thành dải đất này. Những sáng
tác của ông mang hơi thở của thiên nhiên, của văn hóa và con người Nam
Bộ được thể hiện qua giọng văn giản dị, mộc mạc…”
Đọc Trung dung là ‘Chân tình’ (giữa Chân thật), thật nhớ lời điếu của cụ Sơn Nam khóc cụ Bùi Giáng sao mà chân tình, văn hóa, tri âm, tri kỹ đến vậy: “Anh Giáng ơi! Sinh thời anh ăn mặc xốc xếch, áo trong dài hơn áo ngoài,…nhưng văn thơ của anh ngay ngắn đường hoàng. Anh có nề gì cháo chợ cơm hàng, cả cơm thừa canh cặn, nhưng câu chữ anh xài sạch sẽ, ý tứ sáng trong. Cả đời anh lang thang khi chùa khi chợ có cố định đâu đâu, mà bữa nay đưa anh đi có quân canh lính gác, có vòng hoa của Thành ủy– Ủy Ban, có Hội Nhà văn, dậy là anh có hộ khẩu Sài Gòn rồi đó nghe anh Giáng!”
Một ngày kia, nhà hiền triết Trang Tử dẫn học trò đi điền dã, đến một quán bên đường thì mặt trời đã đứng bóng. Thày trò kéo nhau vào, ngồi kín cả một gian nhà, chủ quán xum xoe, hớn hở ra mặt vì có khách đông. Chừng uống cạn một tuần trà mà chưa có cơm nước gì, Trang Tử gọi học trò yêu là thày Khai Quảng ra mà rằng: ” Sao giờ này chưa có cơm nước gì hả con?”. Lại nghe tiếng người đầy tớ hỏi chủ quán rằng: “Có hai con, một con gầy và một con béo, làm thịt con nào?” “Mày khéo lẩm cẩm, làm con béo đãi các thày chứ con!” Thày Khai Quảng hai tay chắp sau lưng đi tới đi lui, ra chiều suy nghĩ, chẳng nói gì rồi gật gù ra chiều đắc ý lắm. Cơm nước xong xuôi, thày trò lại vội vã lên đường ngay cho kịp giờ lên lớp. Đi được một lát, trời càng nắng gắt, thày Khai Quảng thưa với Trang Tử rằng: ” Trời nắng gắt, chúng con rước thày vào gốc cổ thụ trước mặt nghỉ một lát rồi thày trò ta lại lên đường” Thày trò phân ngôi cao thấp ngồi tránh nắng, lại nghe tiếng những người thợ xẻ tranh cãi với nhau xem nên hạ cây nào trước: “Ta hạ cây gỗ tạp này xuống, để chúng thật vô tích sự, nhường chỗ cho gỗ quí sống với chứ!” Thày Khai Quảng lấy làm lo, đi đi lại lại ra chiều suy nghĩ kinh lắm, lẩm bẩm một mình rồi đánh bạo thưa với thày rằng: “Con thưa thày, chim vì béo mà thiệt thân, gỗ vì tạp mà không được tồn tại. Con nghĩ mãi không ra, dám xin thày chỉ giáo. Người quân tử phải hành xử như thế nào cho phải đạo?” Trang Tử lấy làm vui khi nghe học trò biết suy nghĩ đặt vấn đề, ôn tồn mà rằng: ” Đạo của ta là trung dung” Thày Khai Quảng lui ra, cảm thán: “Ta một đời đi học, chưa hiểu hết hai chữ trung dung, chẳng lấy làm hổ thẹn lắm ru!” Nói rồi, xuất hạn dầm dề, hóa ra học hành bao năm mà không tinh tấn, chẳng nên cơm cháo gì ? Còn đang muốn từ biệt sư phụ mà về, bổng nghe tin dữ, vợ nhà bổng chốc trâm gẫy bình rơi. Thày Khai Quảng ra chiều thương cảm lắm, hình dung tiều tụy, lòng đau như cắt, nước mắt đầm đìa có bài thơ mà đời sau còn truyền tụng mãi, nhưng ít người biết ý tứ thày muốn gởi gắm ra làm sao:
Trời xanh úp mặt nghe tin Thôi rồi! Em Má Ri Lyn đi rồi Từ đây ta bỏ ngai trời Thu thời gian đập tơi bời càn khôn Giữa hư vô nếu em còn Nhớ ta em gửi cái hồn cho ta Úp môi ôm mặt khóc òa Cồn lê lên miệng là ba bốn lần
Có người biết chuyện, bảo rằng khéo dư nước mắt, vợ chết rồi thì lấy vợ khác, đàn bà thiếu giống, có phải bị vợ bỏ đâu mà khóc. Có người lại bảo thôi cứ khóc, đấy là ý trời, không tốt, không xấu, thuận theo mệnh trời mà tồn tại chứ. Ta lật lại tích xưa, lòng cứ bồi hồi, té ra làm người tử tế không phải là dễ mà cũng không phải quá khó.
TB
Bùi Giáng sáng tác bài thơ trên khi hay tin Marilyn Monroe mất, Chú ý câu chữ của bài thơ, đặc biệt là câu cuối. Tớ chỉ dám nói thế thôi.
Mời các bạn tham khảo Đạo Đức Kinh, tớ vẫn chẳng hiểu gì cả. Chán thật.
Thiện hành vô triệt tích. Thiện ngôn vô hà trích. Thiện số bất dụng trù sách. Thiện bế vô quan kiện nhi bất khả khai. Thiện kết vô thằng ước, nhi bất khả giải. [Đạo Đức Kinh, chương 27]
Dịch nghĩa : Giỏi đi thì không lưu dấu vết xe. Giỏi nói thì không để bị chỉ trích. Giỏi đếm thì không dùng que đếm. Giỏi đóng cửa dù không có then chốt mà không ai mở được. Giỏi thắt dây dù không có dây nhợ mà không ai cởi được.
Nhân dân ta, dân tộc ta, non sông đất nước ta đời đời nhớ ơn những người con trung hiếu đã hiến thân mình cho Tổ Quốc. Tấm ảnh Bác Hồ nghiêm trang, lặng lẽ, tĩnh lặng trong lòng của chúng ta thật nhiều điều. Có những khoảng lặng trời đất thấu lòng người, cả dân tộc ta cùng hướng về Ngày Thương Binh Liệt Sĩ .
Bài thơ “Viếng mộ cha mẹ” của đại tá Hoàng Trung Trực rút trong tập thơ “Dấu chân người lính”. “Em ơi can đảm lên” là thơ thầy Nguyễn Khoa Tịnh; “Hoàng Ngọc Dộ khát vọng” là di cảo thơ anh hai thầy giáo Hoàng Ngọc Dộ, người đã thay cha mẹ mất sớm dìu dắt các em.. “Hoàng Trung Trực đời lính” có trường ca ‘Dấu chân người lính’; “Mẹ” là thơ Tô Hoàn, rút trong “Tuyển tập thơ lục bát Việt Nam” tái bản tháng 7 năm 2000, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin ấn hành. “Ba nén nhương” là bài thơ của nhà thơ thương binh Hoàng Cát đăng trên báo và trang thơ Nguyễn Trọng Tạo.”Thư của người ra trận” là bài thơ người lính vô danh do anh Lê Trung Xuân đọc năm 1971 và Hoàng Kim chép lại theo trí nhớ. Bốn người bạn Xuân, Chương, Trung, Kim đều cùng là sinh viên đại học nhập ngũ tháng 9 năm 1971. Chúng tôi cùng trong một tổ chiến đầu bốn người. Hai anh Xuân và Chương đều hi sinh năm 1972 tại Quảng Trị, còn Phạm Huy Trung và Hoàng Kim trở về trường cũ sau ngày đất nước thống nhất . Anh Xuân ra đi đã mang theo bí mật của bài “Thư của người ra trận” mà cho đến nay chúng tôi vẫn chưa biết rõ ai là tác giả. “Quảng Bình đất mẹ ơn người”; “Linh Giang sông quê hương”; “Lời thề trên sông Hóa”; “Thắp đèn lên đi em”; “Nhớ tháng bảy mưa ngâu” là thơ Hoàng Kim.
VIẾNG MỘ CHA MẸ Hoàng Trung Trực
Dưới lớp đất này là mẹ là cha Là khởi phát đời con từ bé bỏng Là lời mẹ ru dịu dàng cánh võng Là gươm đao cha một thuở đau đời
Hành trang cho con đi bốn phương trời Là nghĩa khí của cha, là nhân từ của mẹ Vẫn bầu sữa tinh thần không ngừng không nghỉ Để hành trang cho con đi tiếp cuộc đời
Cuộc đời con bươn chãi bốn phương trời Nay về lại nơi cội nguồn sinh trưởng Dâng nén hương mà lòng hồi tưởng Thuở thiếu thời dưới lồng cánh mẹ cha
“Ước hẹn anh em một lời nguyền Thù nhà đâu sá kể truân chiên Bao giờ đền được ơn trung hiếu Suối vàng nhắm mắt mới nằm yên”.
EM ƠI CAN ĐẢM LÊN Nguyễn Khoa Tịnh
Thầy ước mong em noi gương Quốc Tuấn
Đọc thơ em, tim tôi thắt lại
Lòng nghẹn ngào, nước mắt chảy rưng rưng
Nửa xót xa nhưng nửa lại vui mừng
Xót xa vì đời em còn thơ dại
Mới tuổi thơ mà cuộc đời đầy khổ ải
Mới biết cười đã phải sống mồ côi
Như chiếc thuyền giữa biển tự trôi
Như chiếc lá bay về nơi vô định “Bụng đói” viết ra thơ em vịnh:
“Cơm ngày một bữa sắn trộn khoai Có biết lòng ta bấy hỡi ai? Vơi vơi lòng dạ, cồn cào bụng Kể chi no đói, mặc ngày dài”
Phải!
Kể chi no đói mặc ngày dài
Rất tự hào là thơ em sung sức
Rất tự hào là em tôi đầy nghị lực
Đã hiển lộ mình qua “Cái chảo rang”
“Trung dũng ai bằng cái chảo rang Lửa to mới biết sáp hay vàng Xào nấu chiên kho đều vẹn cả Chua cay mặn ngọt giữ an toàn Ném tung chẳng vỡ như nồi đất Quăng bừa xó bếp vẫn nằm ngang Tốt đẹp đâu cần danh tiếng hão Bạn cùng lửa đỏ, nóng chang chang”
Phải!
Lửa to mới biết sáp hay vàng!
Em hãy là vàng,
Mặc ai chọn sáp!
Tôi vui sướng cùng em
Yêu giấc “Ngủ đồng”
Hiên ngang khí phách:
“Sách truyền sướng nhất chức Quận công Ta sướng khi ra ngủ giữa đồng Lồng lộng trời hè muôn làn gió Đêm thanh sao sang mát thu không Nằm ngữa ung dung như khanh tướng Lấy mấy vần thơ tỏ nỗi lòng Tinh tú bao quanh hồn thời đại Ngủ đồng khoan khoái ngắm gương trong”
Tôi biết chí em khi “Qua đèo Ngang”
Ung dung xướng họa với người anh hùng
Đã làm quân thù khiếp sợ:
“Ta đi qua đèo Ngang Cũng gặp Người trèo qua núi hiểm Đỉnh dốc chênh vênh Xe mù bụi cuốn Có lẽ thiên nhiên đã định bao giờ Một dãy Hoành Sơn bát ngát trận đồ Điệp điệp núi cao Trùng trùng rừng thẳm. Người thấy Súng gác trời xanh Gió lùa biển lớn Nông dân rộn rịp đường vui Thanh Quan nàng nhẽ có hay Cảnh mới đã thay cảnh cũ. Ta hay Máu chồng đất đỏ Mây cuốn dặm khơi Nhân công giọt giọt mồ hôi Hưng Đạo thầy ơi có biết Người nay nối chí người xưa
Tới đây Nước biếc non xanh Biển rộng gió đùa khuấy nước Đi nữa Đèo sâu vực thẳm Núi cao mây giỡn chọc trời
Nhớ thù nhà, luống thẹn làm trai Thương dân nước, thà sinh phận gái “Hoành Sơn cổ lũy” Hỏi đâu dấu tích phân tranh? Chỉ thấy non sông Lốc cuốn, bốn phương sấm động.
Người vì việc nước ra đi Ta muốn cứu dân nên thăm trận thế Điều không hẹn mà xui gặp mặt Vô danh lại gặp hữu danh Cuộc đời dài ắt còn sẽ gặp nhau Nay hội ngộ giữa đỉnh cao trời đất Anh em ta ngự trên xe đạp Còn Người thì lại đáp com măng Đường xuyên sơn Anh hùng gặp anh hùng Nhìn sóng biển Đông Như ao trời dưới núi.
Xin kính chào Bậc anh hùng tiền bối Ta ngưỡng mộ Người Và tỏ chí với non sông Mẹ hiền ơi! Tổ Quốc ơi! Xin tiếp bước anh hùng!”
Hãy cố lên em!
Noi gương danh nhân mà lập chí
Ta với em
Mình hãy kết thành đôi tri kỷ!
Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương
Tôi tự hào bài “Tỏ chí” của em:
“Quốc Tuấn ngày xưa chí vững bền Thù nhà, nợ nước chẳng hề quên Đến bữa quên ăn, đêm quên ngủ Thương dân, yêu nước quyết báo đền Văn hay thu phục muôn người Việt Võ giỏi kinh hồn lũ tướng Nguyên Mươi năm sau nữa ơi ông Tuấn Nối chí ông, nay cháu tiến lên!”
Tôi thương mến em
Đã chịu khó luyện rèn
Biết HỌC LÀM NGƯỜI !
Học làm con hiếu thảo.
Mười lăm tuổi đã “Tập làm thầy giáo”
“Vui gì hơn buổi đầu làm thầy giáo Của lớp vở lòng đất mẹ yêu thương Trưa nắng luyến các em cùng đến lớp Giọng líu lo như chim hót ven đường.
Đứng trước các em tuổi nhỏ đáng yêu Mà đã tưởng tới bao nhiêu người lớn Nghe em đọc giọng thanh thanh dễ mến Mà đã nghe đất nước xuyến xao mình!”
Tổ Quốc đang chờ em phía trước. Em ơi em, can đảm bước chân lên!
(*) “Bụng đói”, “Cái chảo rang”, “Ngủ đồng”, “Qua đèo Ngang”, “Tỏ chí”, “Tập làm thầy giáo” là những bài thơ Hoàng Kim được thầy Nguyễn Khoa Tịnh trích dẫn in nghiêng trong bài thơ này.
MẸ Tô Hoàn
Con về thăm mẹ chiều mưa
Mới hay nhà dột gió lùa bốn bên
Hạt mưa sợi thắng sợi xiên
Cứ nhằm vào mẹ những đêm trắng trời
Con đi đánh giặc một đời
Mà không che nổi một nơi mẹ nằm!
BA NÉN HƯƠNG Hoàng Cát
Nén hương này con thắp giỗ mẹ
Bom ập đến mẹ về cõi thế
Nén hương này anh thắp giỗ em
Ở lại miền Nam không có mộ để anh tìm
Nén hương này tôi thắp giỗ thân tôi Chiến tranh cướp đi hai chục năm rồi
Ba nén hương một mình tôi làm giỗ Giỗ chính mình, giỗ mẹ, giỗ em tôi !
THƯ CỦA NGƯỜI RA TRẬN (Bài thơ chưa rõ tác giả)
Anh viết cho em lá thư dài tâm sự Trời Lục Nam đêm này khó ngủ Cũng mơ màng như nét bút anh biên.
Ở quê hương giờ chắc đã lên đèn Sau vất vả một ngày lao động Đêm nay nhé cùng anh em hãy sống Những ngày đầu thơ ấu của tình yêu.
Nhớ lắm em ơi những sớm những chiều Ta sánh bước dưới trời cao trong vắt Anh nắm tay em, em cười trong mắt Trăng thẹn thùng lẫn vội bóng mây trôi …. Rồi từ đó bao đêm thao thức bồi hồi Anh mơ được cùng em xây tổ ấm No đói có nhau ngọt bùi khoai sắn Một căn nhà đàn con nhỏ líu lô
Tấm lòng em là cả một bài thơ Anh muốn viết như một người thi sĩ Ruộng lúa nương khoai tấm lòng tri kỷ Có bóng em đi thêm đẹp cả đất trời.
Nhưng em ơi khi ta bước vào đời Đâu chỉ có bướm có hoa có trời có đất Đâu chỉ có mơ màng những đêm trăng mật Mà đất trời đã nổi phong ba
Tạm biệt em, anh bước đi xa Khi thửa ruộng luống cày còn dang dỡ Khi mầm non tình ta vừa mới nhú Khi căn nhà còn tạm mái tranh.
Quê hương ơi xóm nhỏ hiền lành
Có biết chăng người yêu ta ở đó
Một nắng hai sương giải dầu mưa gió
Mắt mỏi mòn ai đó ngóng trông nhau.
Anh đi biển rộng sông sâu Con thuyền nhỏ vẫn mong ngày cập bến Đò có đông em ơi đừng xao xuyến Nắng mưa này đâu chỉ có đôi ta.
Anh đi bão táp mưa sa Chỉ thương em một cánh hoa giữa trời Đời là thế đó em ơi Buồn thương xa cách chia phôi là thường.
Anh gửi cho em lời nhắn lên đường Bức thư của người ra trận Dù mai sau trong niềm vui chiến thắng Anh chưa về nhưng đã có thư anh …
(*) THƯ CỦA NGƯỜI RA TRẬN Bài thơ chưa rõ tác giả:Lê Trung Xuân Quảng Bình Trồng trọt 3D, Phạm Văn Chương Nghệ An Trồng trọt 4B, Phạm Huy Trung Nghệ An Trồng trọt 4a Hoàng Kim Trồng trọt 4a thuộc Lớp sinh viên ‘xếp bút nghiên lên đường chiến đấu’ của Trường Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc, nhập ngũ ngày 3/9/1971, biên chế vào chung một tổ bốn người của C4 D476 568, đóng quân và huấn luyện chiến đấu ta5i Mai Siu, xã Bắc Sơn, huyên Lục Ngạn tỉnh Hà Bắc. Sau đó đơn vị đi chiến đấu, Phạm Huy Trung (nay ở 159 Nguyễn Văn Thủ, Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh), Hoàng Hải Hưng (nay ở 75 Trịnh Khắc Lập, thị trấn Xuân An, Nghi Xuân, Hà Tĩnh) và Hoàng Kim được cử đi học lớp huấn luyên tiểu đội trưởng, còn Lê Trung Xuân và Phạm Văn Chương đều đã hi sinh. Thư của người ra trận do anh Lê Trung Xuân đọc. Bài thơ chưa rõ tác giả). xem thêm Người lín già thời Bác https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nguoi-linh-gia-thoi-bac/
HOÀNG NGỌC DỘ KHÁT VỌNG Hoàng Ngọc Dộ và Hoàng Kim
Hoàng Ngọc Dộ (1937-1994) là nhà giáo. Ông quê ở xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch (nay là thị xã Ba Đồn), tỉnh Quảng Bình. Mẹ mất sớm. Nhà nghèo. Cha bị bom Mỹ giết hại. Ông đã nổ lực nuôi dạy các em vượt qua gian khổ, nghèo đói và chiến tranh để vươn lên trở thành những gia đình thành đạt và hạnh phúc. Gương nghị lực vượt khó hiếm thấy, ăn ngày một bữa suốt năm năm, nuôi hai em vào đại học với sự cưu mang của thầy bạn và xã hội đã một thời lay động sâu xa tình cảm thầy trò Trường Cấp Ba Bắc Quảng trạch (Quảng Bình). Ông mất sớm, hiện còn lưu lại gần 100 bài thơ. Lời thơ trong sáng, xúc động, ám ảnh, có giá trị khích lệ những em học sinh nhà nghèo, hiếu học. Anh Hai Hoàng Ngọc Dộ cũng là người Thầy dạy học đầu tiên cho Hoàng Kim: “Dặn con cháu khiêm nhu cần kiệm”; “Cảnh mãi đeo người được đâu em Hết khổ, hết cay, hết vận hèn Nghiệp sáng đèn giời đà chỉ rõ Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen”;”Không vì danh lợi đua chen. Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân”; “Soi mặt mình trong gương không bằng soi mặt mình trong lòng người”; “Có những di sản tỉnh thức cùng lương tâm, không thể để mất vì không thể tìm lại Hoàng Ngọc Dộ Khát vọng
ÁNH SAO Hoàng Ngọc Dộ
Bóng đêm trùm kín cả không trung Lấp lánh phương Đông sáng một vừng Mây bủa, mây giăng còn chẳng ngại Hướng nhìn trần thế bạn văn chương.
LỜI NGUYỀN Hoàng Ngọc Dộ
Không vì danh lợi đua chen Thù nhà, nợ nước, quyết rèn bản thân!
Ước hẹn anh em một lời nguyền Thù nhà đâu sá kể truân chiên Bao giờ đền được ơn trung hiếu Suối vàng nhắm mắt mới nằm yên.
Hai anh em giữa Sài Gòn giải phóng (Hoàng Trung Trực sư 341, Hoàng Kim sư 325B)
HOÀNG TRUNG TRỰC ĐỜI LÍNH Hoàng Trung Trực
Cuộc đời và thời thế
Năm Thân con khóc chào đời Sức sống sữa Mẹ suốt đời tình thương Nước nhà gặp cảnh tai ương Việt Nam là bãi chiến trường giao tranh Pháp Nhật Tàu tới hoành hành Chạy giặc Cha Mẹ phải đành lánh thân Người dân khổ cực muôn phần Nước nhà chiến sự, nghèo bần Mẹ Cha Trường Sơn rừng núi là nhà Rừng thiêng nước độc, ta ra chẳng thời *
(*) Ernest Hemingway (1899-1961), tác giả của kiệt tác Ông già và biển cả, Giã từ vũ khí, là một cựu quân nhân, sống trãi gần trọn đời trong chiến tranh và nghèo đói của chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai, nên ông đã mô tả người như ông là thế hệ cầm súng, không hề được tận hưởng chất lượng cuộc sống, là “Thế hệ bỏ đi” (Lost Generation) của cộng đồng người Paris xa xứ; xemBorlaug và Hemingway
Tuổi thơ trong nghèo đói
Ai quyền sống được làm người Mà dân mất nước gặp thời chua cay? Đời Cha sự nghiệp đổi thay Lính Tây ngày trước, thời này đánh Tây Ru ta lời Mẹ đêm ngày Vọng theo hồn Nước tháng ngày bên Cha Cha thì chiến đấu đường xa Mẹ con chạy giặc, cửa nhà thì không Nỗi niềm cuộc sống đau lòng Bão mưa tàn phá, gió lồng không ngơi.
Gia đình nhiều nguy nan
Mẹ ta dãi nắng dầm mưa Lo cho con có cháo dưa học hành Giữa rừng số phận mong manh Mẹ phải chịu bệnh hoành hành héo hon Đời Mẹ chung thủy sắt son Đời Cha lính chiến tuổi xuân đọa đày Lời thề nguyên bản xưa nay Đã là người lính không lay lòng vàng Bệnh về chẳng chút thở than Bao nhiêu mầm bệnh Cha mang theo về
Mẹ Cha bao gian khổ
Bệnh sốt rét thật là ghê Gan lách phù thủng trăm bề hại Cha Chiến tranh tan cửa nát nhà Mình Cha xoay xở thật là gian nan Phận con rau cháo cơ hàn Tuổi thơ năm tháng bần hàn Mẹ Cha Tháng ngày khoai muối dưa cà Đời còn Cha Mẹ đậm đà tình thương Tình Cha Mẹ, nghĩa Nước Non Tháng ngày chăm chút vuông tròn hiếu trung.
Tuổi xuân vui lên đường Lên đường theo lệnh tòng quân Xa nhà nỗi nhớ bội phần từ đây Mẹ khóc nước mắt tuôn đầy Lo con gian khổ cuộc đời chiến binh Cha không khóc chỉ làm thinh Tiễn con tựa cửa lặng nhìn theo con Vần xoay sự nghiệp vuông tròn Dấu chân Cha trước, nay con theo Người Gẫm suy mới rõ thế thời Hoàng Trung Trực đã thành người chiến binh.
Giải phóng nước bạn Lào (10/1963- 5/1965)
Đất Hương Khê , núi Quảng Bình Vượt Trường Sơn vắt sức mình kiệt hao Núi Phú Riềng, đất Lạc Xao Nơi này ghi dấu chiến hào binh ta Đời nhọc nhằn, thân xót xa Trĩu vai súng đạn, gạo là quanh lưng Vượt bao đèo dốc hành quân Liên hồi tác chiến, máu dầm mồ hôi Lại thêm sốt rét từng hồi Thuốc men chẳng có, tháng trời toàn măng Chia nhau chén cháo cứu thân Trên bom, dưới đạn, ngủ hầm, tình thâm.
Nhớ người thân đã khuất
Đêm trường thân lại xông pha Theo chân thủ trưởng vào ra trận thù Đạn giặc đan chéo như mưa Đôi chân thủ trưởng đạn cưa mất rối Trong ta tỉnh thức tình người Cõng ngay thủ trưởng xuôi đồi chạy lui Đêm rừng trời lại tối thui Lạc mất phương hướng tới lui tìm đường Quay đầu hỏi ý tình thương Mới hay thủ trưởng tìm đường đi xa Không hơi thở một xác ma Làm ta thực sự xót xa một mình Người thấm mệt, phút tử sinh Giữa rừng im ắng lặng thinh không người Chỉ nghe tiếng thú quanh đồi Làm cho ớn lạnh khắp người của ta Song vì cái đói không tha Cho nên khiếp sợ theo đà mất tiêu Trãi qua những phút hiểm nghèo Vác xác thủ trưởng cố leo tìm đường.
Giữa rừng núi, không người thương Còn đâu phương hướng, tai ương không người Một tâm hồn một cuộc đời Không gạo không lửa, giữa trời rừng xanh Một mình tính mạng mong manh Tình thương người lính giúp anh chí bền Năm ngày thủ trưởng vẫn nguyên Tìm ra đơn vị bình yên lòng mình.
Tin Mẹ mất giữa chiến trường
Nỗi đau nghiệt ngã vô hình Nhận tin Mẹ mất nội tình cách phân Công ơn Mẫu tử tình thâm Căn bệnh đã cướp Mẫu thân mất rồi Còn đâu bóng dáng hình Người Đất trời nghiêng ngữa hại đời ta đây Nỗi lòng đau khổ khôn khuây Mẹ hiền ơi phút giờ này còn đâu Lòng buồn tê tái đêm thâu Trần gian đâu nữa Mẹ hiền, Cha ơi
Buồn thương Cha nỗi nhớ Người Tình thương Cha Mẹ, trên đời còn Cha Con không khóc chỉ nhớ nhà Trăm lần thương Mẹ xót xa phận mình Làm người lính chiến tử sinh Chiến tranh tàn khốc dứt tình Mẹ Cha Tang thương đến không về nhà Cuộc đời người lính vẫn là chiến tranh Máu bạn đổ tiếp bên anh Xác xương vùi dập trời xanh phủ rừng Núi đồi che ấm thân lưng Nhóm lên ngọn lửa bập bùng Trường Sơn.
(xem tiếp chuỗi chiến dịch và sự kiện chính …)
QUẢNG BÌNH ĐẤT MẸ ƠN NGƯỜI Hoàng Kim
Quảng Bình đất Mẹ ơn Người Tổ tiên cát bụi nhiều đời thành quê Đinh ninh như một lời thề Trọn đời trung hiếu để về dâng hương
Lòng son trung chính biết ơn Quê hương chung đúc khí thiêng Quảng Bình Về quê kính nhớ Tổ tiên Mừng vui giữa chốn bạn hiền người thân
Đất trời ngày mới thanh tân Thung dung thăm hỏi ân cần níu chân. Đường xuân như một dòng sông Việt Nam thống nhất thác ghềnh đến nơi.
Hồn chính khí bốc lên ánh sáng Sáng choang ngọc đá giữa hoang tàn’. Tâm nhân văn lắng đọng tinh hoa Hoa Đất Hoa Người trong cõi Bụt.
LINH GIANG SÔNG QUÊ HƯƠNG Hoàng Kim
Nhà mình gần ngã ba sông Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình Linh Giang sông núi hữu tình Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con
“Chèo thuyền cho khuất bến Son Để con khỏi chộ nước non thêm buồn “ Câu ru quặn thắt đời con Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ
Ra đi từ bấy đến chừ Lặn trong sương khói bến đò sông quê Ngày xuân giữ vẹn lời thề Non sông mở cõi, tụ về trời Nam.
LỜI THỀ TRÊN SÔNG HÓA Hoàng Kim
Sông Hóa ơi Bạch Đằng Giang Ta đến nơi đây chẳng một lần Lời thề sông núi trời đất hiểu Lời dặn của Thánh Trần (*)
Sông Hóa ơi hời, ơi Linh Giang Quê hương liền dải tụ trời Nam Minh Lệ, Hưng Long hai bầu sữa Hoàng Gia trung chính một con đường.
Rào Nan Đá Dựng chốn sông thiêng Nguồn Son Chợ Mới đẹp ân tình Minh Lệ đình xưa thương làng cũ Nguyện làm hoa đất của quê hương.
Đất nặng ân tình đất nhớ thương Ta làm hoa đất của quê hương Để mai mưa nắng con đi học Lưu dấu chân trần với nước non.
(*) Trương Hán Siêu “Phú sông Bạch Đằng” đã thuật lại cuộc chiến sông Bạch Đằng nơi voi chiến sa lầy rơi nước mắt và lời thề trên sông Hóa 1288 của Hưng Đạo Vương. Lời thơ lẫm liệt hào hùng bi tráng: “Thuyền bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới/ Hùng dũng sáu quân, giáo gươm sáng chói/[…] / Trận đánh được thua chửa phân/ Chiến lũy bắc nam đối chọi/ […] / Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối / Những tưởng gieo roi một lần/ Quét sạch Nam bang bốn cõi/ […] /Trời cũng chiều người / Hung đồ hết lối! ” Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải viết: ‘Thái bình tu nổ lực/ Vạn cổ thử giang san”.— cùng với Tình yêu cuộc sống, Kim Hoàng, Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Thị Thủy và Hoang Long.
THẮP ĐÈN LÊN ĐI EM ! Hoàng Kim
Thắp đèn lên đi em!
Xua tăm tối, giữa đêm trường ta học
Vũ trụ bao la đèn em là hạt ngọc
Cùng sao khuya soi sáng mảnh đất này
Dù sớm chiều em đã học hăng say
Dù ngày mệt chưa một hồi thanh thản
Đèn hãy thắp sáng niềm tin chiến thắng
Em thắp đèn lên cho trang sách soi mình.
Thắp đèn lên đi em!
Xua tăm tối giữa đêm trường ta học
Em đâu chỉ học bằng ánh mắt
Mà bằng cả lòng mình, cả khối óc hờn căm
Thù giặc giết cha, bom cày sập tung hầm
Nhà tan nát, sân trường đầy miệng hố
Hãy học em ơi, dù ngày có khổ
Lao động suốt ngày em cần giấc ngủ ngon
Nhưng đói nghèo đâu có để ta yên
Và nghị lực nhắc em đừng ngon giấc
Nợ nước thù nhà ngày đêm réo dục
Dậy đi em, Tổ quốc gọi anh hùng.
Thắp đèn lên đi em!
Xua tăm tối giữa đêm trường ta học
Mặc cho gió đêm nay lạnh về tê buốt
Tấm áo sờn không đủ ấm người em
Vùng dậy khỏi mền, em thắp ngọn đèn lên
Để ánh sáng xua đêm trường lạnh cóng
Qua khổ cực càng yêu người lao động
Trãi đói nghèo càng rèn đức kiên trung
Em đã đọc nhiều gương sáng danh nhân
Hãy biết nhục, biết hèn mà lập chí
Thắp đèn lên đi em, ngọn đèn dầu bền bỉ
Sáng giữa đời lấp lánh một niềm tin.
Thắp đèn lên đi em!
NHỚTHÁNG BẢY MƯA NGÂU Hoàng Kim
Tháng Bảy mưa Ngâu
Trời thương chúng mình
Mưa giăng
Ướt đầm vạt áo
Bảy sắc cầu vồng
Lung linh huyền ảo
Mẹ thương con
Đưa em về cùng anh.
Chuyến xe tốc hành
Chạy giữa trăm năm
Chở đầy kỷ niệm
Chở đầy ắp tình em
Từ nơi chân trời
Góc biển
Chàng Ngưu hóa mình vào dân ca
Con ngựa, con trâu
Suốt đời siêng năng làm lụng.
Thương con gà luôn dậy sớm
Biết ơn con chó thức đêm trường.
Em ơi !
Những câu thơ ông bà gửi lại
Đã theo chúng mình đi suốt thời gian.
Tháng Bảy mưa Ngâu
Đầy trời mưa giăng giăng
Thương nàng Chức Nữ
Em là tiên đời thường
Đầy đặn yêu thương
Tháng Bảy mưa Ngâu
Nhớ thương ai góc biển chân trời
Những cuộc chia ly
Đong đầy nỗi nhớ …
Chiêm bao mơ về chuyện cũ
Khói sương mờ ký ức thời gian
Chốn nào chúng mình hò hẹn
Nơi em cùng anh xao xuyến yêu thương
Ngắm mưa Ngâu tháng Bảy Mưa, mưa hoài, mưa mãi Mưa trong lòng người Nên mưa rất lâu…
Mưa rơi như dòng lệ trắng Đất trời thương nối một nhịp cầu.
Em ơi Lời tình tự của nghìn năm dân tộc. Như sắc cầu vồng Nối hai miền xa cách Để xa nên gần Vời vợi nhớ thương.