CHỌNGIỐNGSẮN VIỆT NAM Hoàng Kim, Hoàng Long,Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Bạch Mai, Nguyễn Việt Hưng, Trần Công Khanh(Bài tổng hợp dùng để giảng dạy sắn trong nhà trường và làm tài liệu khuyến nông)
Giống sắn KM419 Giống sắn KM 419 được chọn tạo từ tổ hợp lai BKA900 x KM 98-5. Giống do Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Yên, Trường Đại học Nông Lâm Huế tuyển chọn và giới thiệu (Hoàng Kim, Trần Ngọc Ngoạn, Nguyễn Thị Trúc Mai, Võ Văn Quang, Nguyễn Bạch Mai, Nguyễn Thị Lệ Dung, Nguyễn Phương, Hoàng Long, Nguyễn Minh Cường, Đào Trọng Tuấn, Trần Công Khanh, Nguyễn Minh Hiếu, Nguyễn Văn Bộ, Nguyễn Thị Cách, Nguyễn Trọng Hiển, Lê Huy Ham, H. Ceballos and M. Ishitani. (2016), Giống được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận sản xuất thử tại Quyết định số 85 / QĐ-BNN-TT Hà Nội ngày 13 tháng 1 năm 2016 cho vùng sinh thái Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ).
+ Thân xanh xám thẳng, ngọn xanh cọng đỏ, lá xanh đậm, không phân nhánh. + Năng suất củ tươi: 34,9-54,9 tấn/ha. + Tỷ lệ chất khô: 35,1- 39.0%. + Hàm lượng tinh bột: 27,8 – 30,7%. + Năng suất tinh bột: 10,1-15,8 tấn/ ha + Chỉ số thu hoạch: 62 %. + Thời gian thu hoạch: 7-10 tháng. + Nhiễm trung bình bệnh chồi rồng và bệnh khảm lá virus CMD + Cây cao vừa, nhặt mắt, tán gọn, thích hợp trồng mật độ dày 12,500- 14.000 gốc/ ha .
Giống sắn KM419 đã phát triển rộng rãi tại Tây Ninh, Đồng Nai, Đắk Lắk, Phú Yên,…được nông dân các địa phương ưa chuộng với tên gọi sắn giống cao sản siêu bột Nông Lâm. Đặc biệt tại tỉnh Phú Yên giống sắn KM419 được trồng trên 85% tổng diện tích sắn của toàn tỉnh mang lại bội thu năng suất và hiệu quả cao về kinh tế xã hội. Tại Tây Ninh, năm 2019 diện tích sắn bị nhiễm bệnh CMD tuy vẫn còn cao nhưng mức độ hại giảm mạnh, lý do vì KM419 và KM94 là giống chủ lực chiếm trên 76% diện tích mỗi vụ của toàn tỉnh (KM419 chiếm 45% ở vụ Đông Xuân và 54,2% ở vụ Hè Thu; KM94 chiếm 31% ở vụ Đông Xuân và 21,6% ở vụ Hè Thu). Tại Đăk Lắk, năm 2019 diện tích sắn KM419 chiếm trên 70% diện tích mỗi vụ của toàn tỉnh.
Sự bùng nổ về năng suất sản lượng và hiệu quả kinh tế sắn đã trùng hợp với sự xuất hiện, lây lan của các bệnh hại bệnh sắn nghiêm trọng. Đặc biệt bệnh khảm lá CMD do virus gây hại (Sri Lanka Cassava Mosaic Virus) lây lan rất nhanh và gây hại khủng hoảng các vùng trồng sắn. Tại Việt Nam, bệnh này được phát hiện vào tháng 5/2017 trên giống sắn HLS11, đến tháng 7/ 2019 bệnh đã gây hại các vùng trồng sắn của 15 tỉnh, thành phố, trên hầu hết các giống sắn hiện có ở Việt Nam. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Cục BVTV đã có văn bản 1068 ngày 9/5/2019 xác định “Việc hướng dẫn nông dân mua giống KM419 sạch bệnh là giải pháp an toàn, kinh tế nhất hiện nay” .
Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính (CMD, CWBD) phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên và vùng phụ cận (Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long và đồng sự 2020). Sử dụng giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao và nhiểm trung bình bệnh CMD và bệnh chồi rồng (CWBD) để đưa thêm vào gen mục tiêu (C39) kháng bệnh. Chọn tạo và phát triển 1-2 các giống sắn mới trong phả hệ các giống sắn triển vọng KM568, KM537, KM536, KM535, KM534 là nội dung nghiên cứu quan trọng “Chọn tạo sắn Việt Nam” cấp thiết, có tính khả thi cao, tính mới cao, kế thừa và phát triển bền vững giống sắn ở Việt Nam tốt nhất hiện nay.
Giống sắn KM 94
Tên gốc KU50 (hoặc Kasetsart 50) được nhập nội từ CIAT/Thái Lan trong bộ giống khảo nghiệm Liên Á năm 1990. Giống do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên nhập nội, tuyển chọn và giới thiệu (Trần Ngọc Quyền, Hoàng Kim, Võ Văn Tuấn, Kazuo Kawano 1995, Trịnh Phương Loan, Trần Ngọc Ngoạn và ctv. 1995). Giống được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận giống quốc gia năm 1995 trên toàn quốc tại Quyết định số 97/NN-QLCN/QĐ ngày 25/11/1995. Giống sắn KM94 là giống sắn chủ lực của Việt Nam có diện tích thu hoạch năm 2008 chiếm 75, 54% (Hoang Kim Nguyen Van Bo et al. 2010), năm 2016 chiếm 31,8 % và năm 2019 chiếm khoảng 37% tổng diện tích sắn toàn Việt Nam
Giống KM94 có đặc điểm:
+ Thân xanh xám, ngọn tím, không phân nhánh. + Năng suất củ tươi: 33,0 tấn/ha. + Tỷ lệ chất khô: 35,1- 39.0%. + Hàm lượng tinh bột: 28,7%. + Năng suất tinh bột: 7,6-9,5 tấn/ ha + Chỉ số thu hoạch: 58 %. + Thời gian thu hoạch: 9-11 tháng. + Nhiễm trung bình bệnh chồi rồng, bệnh khảm lá sắn CMD và bệnh cháy lá + Cây cao, cong ở phần gốc, thích hợp trồng mật độ 10.000-11 000 gốc/ ha .
Giống sắn KM 140
Giống sắn KM140 là con lai của tổ hợp KM 98-1 x KM 36 do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam tuyển chọn và giới thiệu (Trần Công Khanh, Hoàng Kim, Võ Văn Tuấn, Nguyễn Hữu Hỷ, Phạm Văn Biên, Đào Huy Chiên, Reinhardt Howeler và Hernan Ceballos 2007, 2009). Giống KM140 được Bộ Nông nghiệp & PTNT, cho phép sản xuất thử trên toàn quốc (Quyết định số 3468/ QĐ- BNN- TT, ngày 05/ 11/ 2007) và công nhận chính thức tại Quyết định số 358 ngày 20 tháng 09 năm 2010 và cho phép sản xuất hàng hoá trên toàn Quốc theo Thông tư số 65. 65/2010/TT-BNNPTNT, ngày 05 tháng 11 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. 0714-10-10-00.và đoạt giải Nhất Hội thi sáng tạo kỹ thuật toàn quốc VIFOTECH năm 2010. Giống KM140 được trồng nhiều tại các tỉnh phía Nam với diện tích thu hoạch năm 2008 trên 30.000 ha, năm 2010 trồng trên 150.000 ha; hiện là giống phổ biến.
Đặc điểm giống: + Thân xanh, thẳng, ngọn xanh, cây cao vừa phải, không phân nhánh. + Năng suất củ tươi: 33,4 – 35,0 tấn/ha. + Tỷ lệ chất khô: 34,8 – 40,2%. + Hàm lượng tinh bột: 26,1- 28,7%. + Năng suất bột : 9,5 -10,0 tấn/ha + Chỉ số thu hoạch: 58 -65 %. + Thời gian thu hoạch: 8-10 tháng. + Nhiễm nhẹ bệnh cháy lá. + Thời gian giữ bột ngắn hơn KM94
Giống sắn KM 98-5 Nguồn gốc: Giống sắn KM98-5 là con lai của tổ hợp KM 98-1 x Rayong 90 do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam tuyển chọn và giới thiệu (Trần Công Khanh, Hoàng Kim, Võ Văn Tuấn, Nguyễn Hữu Hỷ, Phạm Văn Biên, Đào Huy Chiên, Reinhardt Howeler và Hernan Ceballos 2006, 2009). Giống được UBND tỉnh Tây Ninh và UBND tỉnh Đồng Nai công nhận kết quả đề tài ứng dụng KHKT cấp Tỉnh năm 2006. Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận giống năm 2009 cho các vùng Đông Nam Bộ, Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên tại Quyết định số 358 ngày 20 tháng 09 năm 2010 Giống KM98-5 được trồng tại các tỉnh phía Nam với diện tích thu hoạch năm 2008 trên 25.000 ha, năm 2010 trồng trên 100.000 ha; hiện là giống phổ biến..
Đặc điểm giống: + Thân xanh, hơi cong ở gốc, ngọn xanh, ít phân nhánh. + Giống sắn KM98-5 có cây cao hơn và dạng lá dài hơn so với KM419 + Năng suất củ tươi: 34,5 tấn/ha. + Tỷ lệ chất khô: 39,2%. + Hàm lượng tinh bột: 28,5%. + Năng suất bột : 9,8 tấn/ha + Chỉ số thu hoạch: 63 %. + Thời gian thu hoạch: 8-10 tháng. + Thời gian giữ bột tương đương KM94 + Nhiễm nhẹ bệnh cháy lá.
Giống sắn KM98-1
Nguồn gốc: KM98-1 là con lai Rayong 1x Rayong 5 (= giống sắn KU 72 của Thái Lan hình trên, nhưng việc lựa chọn giống bố mẹ, lai tạo và chọn dòng thực hiện hoàn toàn tại Việt Nam) do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam tuyển chọn và giới thiệu (Hoàng Kim, Kazuo Kawano, Trần Hồng Uy, Trần Ngọc Quyền, Võ Văn Tuấn, Trần Công Khanh, 1999). Giống KM98-1 được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận giống năm 1999 cho các vùng Đông Nam Bộ, Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên. Giống KM98-1 được trồng phổ biến tại các tỉnh Tây Ninh, Đồng Nai, Nghệ An, Thừa Thiên Huế…. với diện tích thu hoạch năm 2008 trên 18.000 ha, năm 2010 trồng trên 20.000 ha, hiện là giống phổ biến..
Đặc điểm giống: + Thân xanh, tai lá rõ, lá xanh, cọng tím + Năng suất củ tươi: 32,5 – 40,0 tấn/ha. + Tỷ lệ chất khô: 35,8%. + Hàm lượng tinh bột: 27,2- 28,3 %. + Năng suất bột : 8,9 tấn/ha + Chỉ số thu hoạch: 66 %. + Thời gian thu hoạch: 8-10 tháng. + Nhiễm nhẹ bệnh cháy lá. + Bảo quản giống ngắn hơn KM94
Giống sắn SM 937-26
Nguồn gốc: Tên gốc SM937 của CIAT/Clombia được nhập nội bằng hạt từ CIAT/Thái Lan năm 1990. Giống do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam tuyển chọn và giới thiệu (Trần Ngọc Quyền, Hoàng Kim, Võ Văn Tuấn, Kazuo Kawano 1995). Giống SM937-26 được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận tạm thời năm 1995 cho các vùng Đông Nam Bộ, Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên tại Quyết định số 98/NN-QLCN/QĐ ngày 25/11/1995.. Giống SM937-26 được trồng nhiều tại các tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi với diện tích thu hoạch năm 2008 trên 15.000 ha, năm 2010 trồng trên 20.000 ha, hiện là giống phổ biến.
Đặc điểm giống: + Thân nâu đỏ, thẳng, không phân nhánh + Năng suất củ tươi: 32,5 tấn/ha. + Tỷ lệ chất khô: 37,9%. + Hàm lượng tinh bột: 28,9%. + Năng suất bột : 9,4 tấn/ha + Chỉ số thu hoạch: 61 %. + Thời gian thu hoạch: 8-10 tháng. + Nhiễm nhẹ bệnh cháy lá. + Vỏ củ dày và cứng hơn KM94
Minh triết là yêu thương Cuối dòng sông là biển Niềm tin thắp lên nghị lực Yêu thương mở cửa thiên đường.
“Hãy luôn luôn hạnh phúc và sung sướng” Lev Tonstoy khuyên chúng ta hãy tuân theo quy luật của sự chí thiện và luôn nhớ câu cách ngôn cổ của người Do Thái: “Linh hồn của một người là ngọn đèn của Thượng đế“ … biết noi theo gương người Thầy lớn để thắp lên ngọn đèn trí tuệ của chính mình.
VỀ LẠI MÁI TRƯỜNG XƯA Hoàng Kim
Đâu phải bây giờ ta mới quý thời gian Mỗi ngày đi qua Mỗi tháng đi qua Mỗi năm đi qua Thấm thoắt thời gian Nhìn sự vật đổi thay ta biết rõ
Mái tóc Thầy ta đã bạc đi già nữa Hàng trăm bạn bè thuở ấy đã đi xa Ta lại về đây với mái trường xưa Thân thiết quá nhưng sao hồi hộp thế Trăm khuôn mặt trông vừa quen vừa lạ Ánh mắt chào đọng sáng những niềm vui
Ta chỉ là hạt cát nhỏ nhoi Trong trùng điệp triệu người lên tuyến lửa Giá độc lập giờ đây thêm hiểu rõ Thắng giặc rồi càng biết quý thời gian
Đất nước ba mươi năm chiến đấu gian nan Mỗi tấc đất đều đậm đà nghĩa lớn Bao xương máu cho tự do toàn vẹn Bao đồng bào, đồng chí đã hi sinh.
Ta dâng cho Tổ Quốc tuổi thanh xuân Không tiếc sức cho cuối cùng trận thắng Xếp bút nghiên để đi cầm khẩu súng Càng tự hào làm người lính tiên phong
Nay trở về khi giặc đã quét xong Trách nhiệm trao tay tiếp cầm ngọn bút Nâng cuốn sách lòng bồi hồi cảm xúc Ta hiểu những gì ta phải gắng công
Trận thắng hôm qua bạn góp máu hồng Lớp học hôm nay bạn không trở lại Trách nhiệm trong mình nhân lên gấp bội Đồng đội ơi tôi học cả phần anh.
Biết ơn thầy cô giáo dịu hiền Bằng khích lệ động viên lòng vượt khó Trăm gian nan buổi ban đầu bở ngỡ Có bạn thầy càng bền chí vươn lên
Trước mỗi khó khăn có bạn luôn bên
Như đồng đội trong chiến hào chia lửa
Ôi thân thiết những bàn tay tập thể
Ta nhủ lòng cần xứng đáng hơn
Đâu phải bây giờ ta mới quý thời gian Hiểu mất mát, biết tự hào phải cố Trận tuyến mới nguyện xứng là chiến sĩ Thiêng liêng lời thề, vững một niềm tin.
HƯNG LỘC NÔI YÊU THƯƠNG Hoàng Kim
Sắn đâu rồng leo quấn quýt thân Ngô trồng xen đậu, lúa khoai chăm Ngày vui đồng ruộng, đêm đọc sách Mưa nắng an nhiên học kiệm cần.
NHỚ MIỀN ĐÔNG Mảnh đất này lắm máu xương…
Giữa ngày vui nhớ miền Đông Nôn nao lòng lại giục lòng nhớ thương Chân đi muôn dặm nẻo đường Phải đâu cứ đất quê hương mới là
Đêm nằm nghe gió thoảng qua Nồng thơm hương lúa, đậm đà tình quê Chợt dưng lòng lại gọi về Vùng quê xa với gió hè miền Đông
Vục đầu uống ngụm nước trong Nhớ sao Vàm Cỏ ngọt dòng sông xanh Nhớ từ xóm Giữa xa em Nhớ lên Bù Đốp, Lộc Ninh, xóm Chùa
Xa em từ bấy đến chừ Một vầng trăng sáng, xẽ chia đôi miền Em về Châu Đốc, Long Xuyên Anh lên Srêpốc với niềm nhớ thương
Nằm đêm lưng chẳng tới giường Nghe chao cánh võng giữa rừng đêm khuya Chăm chăm theo nét bản đồ Cùng anh, cùng bạn tiến vô Sài Gòn
Giữa ngày vui nhớ miền Đông Nhớ em, nhớ bạn, thuỷ chung vẹn toàn Phải vì vất vả gian nan Của bao năm đặm nhớ thương đến rày …
Non sông những tháng năm này Lọc muôn sắc đỏ cho ngày hội vui Nhớ em trong dạ bùi ngùi … Trông trời hoa, nhớ đất trời miền Đông.
HƯNG LỘC NÔI YÊU THƯƠNG
Ôi quê hương thân thiết tự bao giờ Mỗi bước đi xa càng thêm yêu Tổ Quốc Nhớ quê nhà nửa đêm ta tỉnh thức Ngóng phương trời vợi vợi nhớ mênh mông
Biết ơn quê nghèo cắt rốn chôn rau Nơi mẹ cha xưa suốt đời lam lũ Cha giặc giết luống cày còn bỏ dỡ Sự nghiệp này trao lại tay con
Biết ơn anh tần tảo sớm hôm Năm năm học mỗi ngày cơm một bữa Bắt ốc mò cua bền gan vững chí Nhắc thù nhà nợ nước cho em.
Sống giữa lòng dân những tháng những ngày Anh chị góp công, bạn thầy giúp sức Đêm trăn trở ngọn đèn khuya tỉnh thức Nhớ một thời thơ ấu gian nan …
Biết ơn em người bạn gái thủy chung Thương cha mẹ quý rể nghèo vẫn gả Em gánh vác mọi việc nhà vất vả Dành cho anh nghiên cứu được nhiều hơn
Biết ơn trại nhà mảnh đất yêu thương Nơi suốt đời ta nghĩa tình gắn bó Mảnh đất thiêng chim phượng hoàng làm tổ Lúa ngô sắn khoai hoa qủa dâng đời
HOA ĐẤT CỦA QUÊ HƯƠNG
Đất nặng ân tình đất nhớ thương Ta làm hoa đất của quê hương Để mai mưa nắng con đi học Lưu dấu chân trần với nước non.
NĂM THÁNG Ở TRỜI ÂU Hoàng Kim
Đi giữa Praha rực rỡ nắng vàng Gió bớt thổi nên lòng người bớt lạnh Phố xá nguy nga, nhịp đời hối hả Gợi lòng ta uẩn khúc những suy tư
*
Tháng năm là tháng của hoa Anh đi dạo giữa bao la đất trời Nghe lòng thư thái thảnh thơi Ngắm ai từng cặp trao lời yêu thương
Hoa xuân bừng nở kháp đường Công viên ngợp giữa một rừng đầy hoa Bên dòng sông nhỏ quanh co Bạch dương rọi nắng lơ thơ liễu mềm
Anh đi mỗi bước bình yên Bùi ngùi lại nhớ thương em ở nhà …
VÒNG QUA TÂY BÁN CẦU Hoàng Kim
Khi chiều hôm nắng tắt ở chân trời
Tạm ngưng học, tắm rồi em hãy dạo
Bước khoan thai nhận hương trời chiều tối
Nghĩ suy về năm tháng đã đi qua
Em đã xa cái tuổi học trò
Nhưng việc học có bao giớ là muộn?
Nấc thang học càng vươn cao càng muốn
Bao cuộc đời nhờ học để thành công
Nhớ nghe em những năm tháng không quên
Năm năm học mỗi ngày cơm một bữa
Đêm tỉnh thức đói cồn cào trong dạ
Vẫn gan vàng, dạ sắt, lòng son
Nhớ ngày cha ngã xuống vì bom
Tấm áo máu suốt đời ta nhớ mãi
Trong thương đau nhân quyết tâm gấp bội
Phải làm gì để trả mối thù sâu.
Nhớ ngọn đèn chong giữa canh thâu
Những đêm lạnh của trời Hà Bắc
“Thắp đèn lên đi em!” thơ của thời đi học
Xốn xang lòng đã mấy chục năm qua
Ôi vầng trăng, vầng trăng quê ta
Và ngôi sao Mai đã thành đốm lửa
Một giọt máu tim ta treo giữa trời nhắc nhở
Em bên Người năm tháng lớn khôn lên
Nhớ những mùa chiến dịch thức bao đêm
Thèm một bữa cơm rau và giấc ngủ
Sau trận đánh lại miệt mài cuốn vở
Tin có ngày trở lại mái trường yêu
Bao bạn bè của năm tháng không quên
Nay vĩnh viễn nằm sâu trong lòng đất
Về thăm quê cũng người còn, người mất
Bài học trường đời chắp nối bấy năm qua
Nay em như chim trời bay cao, bay xa
Điều kiện học khác xưa, một phòng riêng ngọai quốc
Những tháng học này là niềm mơ ước
Em cần miệt mài tranh thủ thời gian
Dẫu mỗi ngày hơn tám tiếng học căng
Ngôn ngữ mới buổi đầu chưa hiểu kịp
Em hãy học dẫu đêm về có mệt
Mỗi ngày này là vốn quý nghe em!
Chốn phồn hoa bao cám dỗ thấp hèn
Bao thèm muốn khiến người ta lùn xuống
Những dễ dãi khiến lòng người dao động
Em hãy cầm lòng bền chí học chăm.
ĐI ĐỂ HIỂU QUÊ HƯƠNG Hoàng Kim
Tạm biệt Oregon ! Tạm biệt Obregon California ! Cánh bay đưa ta về CIMMYT Bầu trời xanh bát ngát Lững lờ mây trắng bay Những ngọn núi cao nhấp nhô Những dòng sông dài uốn khúc Hồ lớn Ciudad Obregon ba tỷ khối nước Nở xòe như chùm pháo bông Những cánh đồng mênh mông Thành trăm hình thù dưới làn mây bạc Con đường dài đưa ta đi Suốt dọc từ Nam chí Bắc Thành sợi chỉ màu chạy mút tầm xa…
Ơi vòm trời xanh bao la Gọi lòng ta nhớ về Tổ Quốc Ôi Việt Nam, Việt Nam Một vùng nhớ trong lòng ta tỉnh thức Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương.
BÀI HỌC TỰ THẮNG MÌNH Hoàng Kim
Ngày mỗi ngày phải tự thắng mình Trận chiến mới, em là chiến sĩ Ngày mỗi ngày cần ghi đều nhật ký Tự thắng mình là bài học đầu tiên !
Có điện lung linh suốt đêm Không quên vầng trăng ngọn lửa Ngày dẫu miệt mài Đêm về phải cố Khắc sâu lời nguyền xưa !
“Không vì danh lợi đua chen Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân”
Lưu bút Norman E. Borlaug gửi Hoàng Kim ngày 17 tháng 7 năm 1989 từ CIMMYT (hình) sau khi tôi đã về Việt Nam. Bài học phúc hậu, minh triết, tân tâm của gương sáng người Thầy, đã theo tôi suốt đời, tỏa sáng nhân cách, trí tuệ.
Chuyện Bài học tự thắng mình trong chùm bài viết Đi như một dòng sôngChâu Mỹ chuyện không quên.nối Con đường di sản LewisClark . Đó là sự tiếp nối Làng Minh Lệ quê tôi của các ghi chú nhỏ (Notes) Linh Giang Đình Minh Lệ; Đá Đứng chốn sông thiêng; Nguồn Son nối Phong NhaĐất Mẹ vùng di sản. Tôi xa quê Quảng Bình từ nhỏ. Quê hương nơi sinh thành là bài học quý cho bất cứ ai lớn nổi thành người, nhưng tôi vì hoàn cảnh lưu lạc xa xứ nên hiểu quê hương có giới hạn, mà ấn tượng lắng đọng sâu sắc nhất là Tổ quốc Quê hương đất nước con người, trãi mười hai bến nước của vận mệnh chiếc lá trôi dạt, đi để hiểu quê hương. Làng Minh Lệ quê tôi là bài học KHAI TÂM đầu đời là của cha mẹ và thầy giáo già mù nơi ngôi nhà tuổi thơ bến quê, với sự chỉ dạy tiếp theo của anh hai Hoàng Ngọc Dộ, chị năm Hoàng Thị Huyền đã thay cha mẹ mất để nuôi em dìu dắt cưu mang em, với thầy Nguyễn Khoa Tịnh khóc trên bục giảng cùng quý thầy bạn và người thân thắp lên ngọn lửa. Bài học của bến nước này là KHAI TRÍ. Chùm ảnh bài này thắp sáng ước mơ. .
LỜI THẦY DẶN Hoàng Kim
Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời
Biết đủ thời nhàn sống thảnh thơi Con em và cháu vững tay rồi An nhàn vô sự là tiên đấy Minh triết mỗi ngày dạy học chơi.
Bộ Trưởng Nguyễn Ngọc Trìu đến Trung tâm Hưng Lộc năm 1987 thăm thành tựu tiến bộ kỹ thuật “Trồng ngô lai xen đậu ở vùng Đông Nam Bộ” và mô hình “Nghiên cứu phát triển đậu rồng ở các tỉnh phía Nam” (Nguồn: Nhớ cụ Nguyễn Ngọc Trìu, bài và ảnh Hoàng Kim)
Chào mừng quý Thầy Cô và Các Bạn 30 năm ngày ra Trường. Ảnh Họp mặt Kỷ niệm 30 năm ngày ra Trường, Khóa 2 Trồng Trọt, Chăn nuôi, Kinh tế, Lâm Nghiệp, Thủy Sản, Cơ Khí Trường Đại Học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh, năm 2010 (Nguồn: Thầy bạn trong đời tôi, Bài và ảnh Hoàng Kim 2010)
“Cà phê ở Huế thơm ngon lắm. Mười bốn ngàn thôi uống suốt ngày. Ngắm em tóc gió bay bay nắng. Nghe bạn tâm tình hơn rượu say” (PC) “Về quê lần trước ghé thăm đây. Đất hiếu cầu thương níu bạn bầy. Thơ thiền Nhất Hạnh tìm nơi cũ. Mặt trời từng hạt chính nơi này” (HK). Em Ra Huế thăm vị chân chúa Nguyễn Hoàng ở lăng Trường Cơ, tọa lạc tại xã La Khê, huyện Hương Trà, nay là làng La Khê, xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế; thăm Thiên Thụ Sơn vùng cây trên 2000 ha mà triều Nguyễn dày công mang kỳ hoa dị thảo cả nước có nguồn cây trái chính yếu đặc sản đất phương Nam về trồng ở chốn kinh kỳ để lưu dấu những hoài niệm bôn tẩu trọn đời quy giang sơn về một mối. Lạ lùng thay, khi được may mắn uống trà ban mai tĩnh lặng ở Từ Hiếu với bạn hiền lại được lắng nghe cổ vật và các trang sách uyên áo của các vị thiền sư trò chuyện. Tâm chợt ngộ ra rằng vị chân chúa nhà Nguyễn chưa hẵn đã ở Trường Cơ mà có thể ẩn khuất ở chính nơi đây, gần Nam Giao và phía sau của chính điện Từ Hiếu, cội nguồn của hiếu sinh
TRÀ SỚM THƯƠNG NGƯỜI HIỀN Hoàng Kim Ngày mới Ban mai chợt tỉnh thức Nghe đầy tiếng chim kêu Đêm qua mây mưa thế Hoa mai rụng ít nhiều. Trà sớm thương người hiền, trong không gian tỉnh lặng, ăn sáng và chuyện vui, lắng nghe đời thật chậm. Ai học làm và dạy. Ai vô sự là tiên Ai an nhàn thanh thản Ai thân với bạn hiền. Văn chương là cõi mộng. Giấc mơ lành trăm năm. Phúc hậu là lẽ sống. Thơ ra ngoài ngàn năm, Chuyện Tình yêu cuộc sống, Ông Nguyễn và bác Văn. Cụ Trình và Trần lão, Gần gũi mà xa xăm. Tính sáng hơn châu báu. Trở về với chính mình. Trà thơm chào ngày mới. Vui khỏe và bình yên… Hieu Nguyenminh, Trần Văn Minh, Trần Thị Lệ, Hoàng Kim, trà sớm ở cố đô Huế, trò chuyện về cụ Miên Thẩm
Cảm ơn Nguyen Thanh Binh thầm lặng mà hiệu quả đóng góp cho quê hương. Trà sớm với bạn hiền cùng Nguyen Thanh Binh (Roots of Peace) cũng lại là thật đáng nhớ. Ba giờ khuya, Bình ra bến tàu đón tôi, trà sớm là với nông dân. Quảng Trị dân ra đồng sớm (chứ không phải 8:00 sáng theo lịch làm việc hành chính). Nguyen Thanh Binh thân với tôi cũng như nhóm bạn nhà nông ở Phú Yên, Sóc Trăng, Đăk Lăk, Đồng Nai, Tây Ninh, … Những buổi học trên đồng giữa khoa học, khuyến nông và nông dân luôn thiết thực với cuộc sống mỗi ngày của người dân và thực sự là chén cơm của họ.
MIÊN THẨM THẦY THƠ VIỆT Hoàng Kim.
“Văn như Siêu Quát vô tiền Hán; Thi đáo Tùng Tuy thất thịnh Đường” Vua Tự Đức ông vua nổi tiếng hay chữ thời Nguyễn trong lịch sử Việt Nam đã viết như vậy. Vua Tự Đức trước mộ Tùng Thiện Vương cũng cảm khái đề thơ: Nhất Đại Thi Ông thệ bất hoàn! (Sao Nhất Đại Thi Ông nỡ không trở lại !). Sổ xích tân phần tỳ mẫu mộ Kỷ thiên cựu vịnh bá nhân hoàn (Vài thước đất vun gần mộ mẹ Mấy bài thơ rãi khắp bầu trời.) Tôi theo chân Lê Ngọc Trác tìm về Tùng Thiện Vương, lần theo lời đánh giá này để tìm về cội nguồn hiểu rõ thơ Tùng Thiện Vương Miên Thẩm.
Miên Thẩm cuộc đời và thơ văn
Tùng Thiện Vương tên thật là Nguyễn Phúc Miên Thẩm, sinh ngày 11 tháng 12 năm 1819 nhằm ngày 24 tháng 10 năm Kỷ Mão tại Cung Thanh Hoà, trong Đại nội Kinh thành Huế, mất ngày 30 tháng 4 năm 1870, tên tự là Trọng Uyên, tên tự khác là Thận Minh, hiệu Thương Sơn, biệt hiệu Bạch Hào Tử. Ông là một nhà thơ lớn của triều đại nhà Nguyễn ở trong hội Mạc Vân thi xã nổi tiếng. Miên Thẩm cùng với hai em là Tuy Lý Vương, Tương An Quận Vương được người đời xưng tụng là “Tam Đường”. Ông là cháu nội của vua Gia Long, con trai thứ 10 của vua Minh Mạng, em của vua Thiệu Trị, chú của vua Tự Đức. Mẹ ông là Thục tần Nguyễn Thị Bửu người Bình Chương Gia Định con gái của Tư không Nguyễn Khắc Thiệu rất giỏi chữ nghĩa. Ông thuở nhỏ tên Hiện đến năm 1832 khi đã có Đế hệ thi ông được cải tên là Nguyễn Phúc Miên Thẩm. Theo Đại Nam liệt truyện, ông thuở nhỏ được cùng ng với các em học thầy Thân Văn Quyền dạy chu đáo, Sau khi lớn lên ông trở thành con rể của quan đại thần Trương Đăng Quế là danh thần trải bốn triều vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức trong lịch sử Việt Nam.
Năm 1839 ông được phong làm Tùng Quốc công, mở phủ ở phường Liêm Năng, bên bờ sông An Cựu, Huế. Năm 1849, ông lập thêm Tiêu Viên sau phủ, đón mẹ là Thục tần Nguyễn Thị Bửu và ba em gái (Nguyệt Đình , Mai Am và Huệ Phố ra phụng dưỡng chăm nuôi. Khi các em lần lượt có chồng, rồi mẹ mất, ông cải tạo phủ chính làm nhà thờ, còn mình lui về ở Tiêu Viên và dựng lều tranh bên cạnh mộ mẹ cư tang ba năm. Nhà Tùng Thiện Vương dấu tích nay đối diện với Vĩ Dạ xưa bên sông An Cựu.
Năm 1854 mãn tang, ông được gia phong Tùng Thiện công. Năm 1858, ông mua 12 mẫu ruộng ở xã Dương Xuân, làm nhà ở gọi là Phương Thốn thảo đường. Năm 1865, ông giữ chức Tả Tôn Nhân phủ, trong thời gian này xảy ra sự biến giặc Chày vôi Trước đó, ông đã gả con gái là Thể Cúc cho Đoàn Hữu Trưng, một thanh niên ở làng An Truyền (tức làng Chuồn ở xã Phú An huyện Phú Vang ngày nay). Nguyên Đoàn Hữu Trưng cha mất sớm, mẹ bị mù, đông em, nên từ thuở nhỏ ông đã phải làm lụng vất vả để nuôi em, nuôi mẹ. Dù vậy, vốn thông minh và ham học, ngay từ buổi ấy ông đã là người nổi tiếng hay chữ khắp vùng. Vào một dịp Tết, nhờ một câu đối mà Đoàn Trưng và Đoàn Trực được Tuy Lý Vương Miên Trinh cho vào học trong vương phủ . Tài học của Đoàn Trưng có dịp vang lên chốn kinh thành. Năm 1864 Tùng Thiện Vương Miên Thẩm (anh ruột Tuy Lý Vương), cũng vì quý tài, gả con gái đầu là Thể Cúc cho Đoàn Trưng, dù lúc ấy ông chưa đỗ đạt gì. Năm 1866, Hữu Trưng ngầm làm cuộc nổi dậy nhằm lật đổ vua Tự Đức bằng Đinh Đạo[6] (con Hồng Bảo). Việc thất bại, Hữu Trưng và nhiều người bị hành hình. Mặc dù trước đó, Hữu Trưng đã lấy cớ vợ cư xử trái lễ với mẹ chồng mà trả về để tránh liên lụy cho nhà vợ, Miên Thẩm cũng trói cả con gái và cháu ngoại, quỳ dâng sớ xin chịu tội. Tự Đức không kết tội chỉ nói ông: “Chọn rể không cẩn thận để mất thanh danh, nay trừ bổng trong tám năm”. Suốt những năm bị trừ bổng ấy, ông lên ngôi chùa cổ Từ Lâm hoang tàn ở xã Dương Xuân làm nơi cư ngụ, vợ con phải canh tác trồng cây quả đem ra chợ bán để có cái ăn hàng ngày. Ông mất ngày 30 tháng 3 năm Canh Ngọ (tức 30 tháng 4 năm 1870), lúc 51 tuổi. Thụy là Văn Nhã. Năm 1878 ông được vua Tự Đức gia tặng là Tùng Thiện Quận vương. Năm 1936 vua Bảo Bảo Đại mới truy phong ông là Tùng Thiện Vương mà ngày nay vẫn gọi.
Miên Thẩm là Đỗ Phủ thơ Việt
Ông sống thận trọng, minh triết, trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt, các ông hoàng nhà Nguyễn không được đi thi, ít được tham gia chính sự, khi đất nước đang hết sức rối ren: nội bộ triều đình lủng củng, rạn nứt, loạn lạc khắp nơi, thiên tai, mất mùa nhiều năm cùng nạn ngoại bang xâm lấn. Hai trăm năm sau thật khó xác định được tài năng thật sự và đóng góp của ông trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự… Chỉ biết rằng sinh thời, Miên Thẩm là một ông hoàng có nhiều uy tín bởi đạo đức cao, tri thức rộng. Ông đến với mọi người đều bằng tấm lòng chân thực, khiêm tốn, phóng khoáng; không hề phân biệt địa vị, tuổi tác hay sang hèn. Nhờ vậy Mạc Vân thi xã còn gọi là Tùng Vân thi xã mà ông là “Tao đàn nguyên súy” tập họp được nhiều danh sĩ đương thời, trong đó có Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Hà Tôn Quyền, Phan Thanh Giản, Nguyễn Văn Giai và nhiều hoàng thân quý tộc như Thọ Xuân Vương Miên Định, Hàm Thuận Quận Công Miên Thủ, Tuy Lý Vương Miên Trinh, Tương An Quận Vương Miên Bửu, Hoằng Hóa Quận Vương Miên Triện, …
Miên Thẩm là một nhà thơ chữ Hán bậc thầy. Ông được một số nhà thơ Trung Quốc đánh giá cao, trong đó có Tiến sĩ Lao Sùng Quang. Chung Ứng Nguyên một danh sĩ người Bắc Kinh Trung Quốc đã làm thơ ca tụng Miên Thẩm Tùng Thiện Vương: Nhược sử nguyên tinh giáng Trung Quốc / Hàn trào, Tô hải, si đồng lưu / Hu ta công hồ thùy dữ trù / Hu ta công hồ vô dữ trù (Như Thương Sơn sinh vào Trung Quốc/ Thi tài ngang với ông Hàn Dũ, ông Tô Đông Pha/ Than ôi ! đời nay ai sánh vai? /Than ôi đời nay không ai có thể sánh vai được!)
Miên Thẩm cũng được các danh sĩ đương thời, kể cả vua Tự Đức nhờ duyệt thơ. Cao Bá Quát (1809 – 1855) một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam, quốc sư của cuộc nổi dậy Mỹ Lương tại bài đề tựa Thương Sơn thi tập của Miên Thẩm, đã viết:…”Tôi theo Quốc công (Tùng Thiện Vương) chơi đã lâu. Thơ của Quốc công đâu phải đợi đến ngày nay mới nói đến? Và cũng đâu phải đợi đến Quát này mới có thể nói được? Sáng ngày mai, đứng ở ngoài cầu Đốc Sơ trông về phía Nam… đó chẳng phải là núi Thương Sơn ư? Mua rượu uống rồi, cởi áo ở nơi bắc trường đình, bồi hồi ngâm vịnh các bài thơ “Hà Thượng” của Quốc công, lòng khách càng cảm thấy xa xăm man mác …
Tùng Thiện Vương để lại cho đời một gia tài văn học thật đồ sộ (14 tập). Trong đó Thương Sơn thi tập gồm 54 quyển chia ra 8 tập với hơn 2.200 bài thơ. Các tác phẩm chính khác như Thương Sơn từ tập- Thương Sơn thi thoại- Thương Sơn ngoại tập- Thương Sơn văn di- Nạp bị văn tập- Học giá chí- Nam cầm phổ- Độc ngã thư sao- Lão sinh thường đàm- Tịnh y kí- Tình kị tập- Thi tấu hợp biên- Lịch đại thi tuyển- Thức cốc biên – Thi kinh diễn nghĩa ca- Lịch đại đế vương thống hệ đồ- Lịch đại thi nhân tiểu sử Về thơ quốc âm của ông, nay chỉ còn bài đề sách “Nữ phạm diễn nghĩa từ” của Tuy Lý Vương và khúc liên ngâm Hoà lạc ca (Tùng Thiện,Tuy Lý, Tương An).
Miên Thẩm bậc thầy văn chươngViệt
Ví Miên Thẩm là Đỗ Phủ thơ Việt liệu có nói quá hay không? Đọc Đỗ Phủ nhớ Đặng Dung, Đỗ Phủ những bài thơ bi tráng, Đỗ Phủ là Thi thánhThi sử Trung Quốc do đức độ cao thượng, tài thơ văn tuyệt vời. Đỗ Phủ cùng Lý Bạch là hai nhà thơ vĩ đại nhất thời nhà Đường. Thơ Đỗ Phủ nổi tiếng vì phong cách đơn giản và thanh lịch đặc sắc bậc nhất trong thơ cổ điển Trung Quốc. Tầm vóc Đỗ Phủ sánh với Victor Hugo và Shakespeare. Thơ Đỗ Phủ ảnh hưởng sâu sắc tới văn hóa cổ điển Trung Quốc và văn học hiện đại Nhật Bản. Cụ Nguyễn Du đã từng thán phục Đỗ Phủ “Thiên cổ văn chương thiên cổ sư Bình sinh bội phục vị thường ly” (Văn chương lưu muôn đời, bậc thầy muôn đời Bình sinh bái phục không lúc nào ngớt. Cụ Hồ Chí Minh trong Di chúc đã có trích thơ Đỗ Phủ. Cuộc đời Đỗ Phủ là tấm gương phản chiếu đất nước Trung Hoa thời loạn khi đời sống nhân dân tột cùng điêu đứng vì thường xuyên biến động. Đỗ Phủ bộ sưu tập thơ được bảo tồn khoảng 1500 bài thơ đều là tuyệt phẩm. Thi Viện hiện có Đỗ Phủ trực tuyến 1450 bài.
Tùng Thiện Vương Miên Thẩm cuộc đời và thơ văn thật đáng khâm phục và kinh ngạc. Miên Thẩm lưu lại cho đời 14 bộ sách, riêng bộ ‘Thương Sơn thi tập’ có 2.200 bài thơ, tiếc là thơ ông chưa được đầu tư dịch thuật Hán Nôm bảo tồn và phát triển thỏa đáng. Thi Viện chỉ mới lưu một sồ bài. Soi gương kim cổ thì danh sĩ Trung Hoa Chung Ứng Nguyên đã ví ông với đại văn hào Hàn Dũ và đại văn hào Tô Đông Pha là bát đại gia Đường Tống: “Như Thương Sơn sinh vào Trung Quốc/ Thi tài ngang với ông Hàn Dũ, ông Tô Đông Pha/ Than ôi ! đời nay ai sánh vai? /Than ôi đời nay không ai có thể sánh vai được!“. Chúng ta khi bình tâm xem xét kỹ lại cuộc đời thơ văn và tầm minh triết thì Miên Thẩm là Đỗ Phủ thơ Việt. Ba ý chính để đánh giá: Thứ nhất là chất lượng thơ. Thứ hai là khối lượng tác phẩm và những bài thơ “giản dị xúc động ám ảnh” đọng lại trong lòng người đọc; Thứ ba là tư tưởng cuộc đời nhân cách tác giả là minh triết trí tuệ gương cho người đương thời và hậu thế. Miên Thẩm cả ba ý này đều rất gần gũi với Đỗ Phủ qua những tư liệu lắng đọng ở “Miên Thẩm cuộc đời và thơ văn” nêu trên. Xin được trích dẫn giới thiệu một số bài thơ tuyển chọn dưới đây.
Thi Viện có lưu một sồ bài thơ Tùng Thiện Vương Miên Thẩm dưới đây:
“Xuân hiểu”, “Tiến trầu (cúng quan tham)”, “Nhà nghèo” là ba trong số trên hai ngàn bài thơ của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm
XUÂN HIỂU Nguyễn Phước Miên Thẩm Dịch thơ Phan Văn Các
Gió đông se lạnh màn mai Cánh hoa sương nặng giọt rơi xuống thềm Áo đơn ngại chẳng cuốn rèm Một mình nằm với hơi men ngà ngà Không yên ngựa dạo tìm thơ Hoạ bình quây gối ngắm hờ núi xuân.
Liệu tiếu đông phong hiểu mạc nhàn, Phi hoa hoà lộ trích lan can, Hà tu bất quyển khiếp y đan. Tiểu ẩm vi huân hoàn độc ngoạ, Tầm thi vô kế thúc ngâm an, Hoạ bình vi chẩm khán xuân san.
Nguồn: Khúc hát gõ mái chèo, Phan Văn Các, 1999 Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quó̂c gia, Viện nghiên cứu Hán Nôm xem thêm: Phạm Văn Ảnh 2012. Cổ duệ từ của Miên Thẩm từ văn bản đến định hướng sáng tác; Thông báo Hán Nôm học 2012, tr.62-79
TIỀN TRẦU (CÚNG QUAN THAM) Nguyễn Phước Miên Thẩm Dịch thơ Nguyễn Sĩ Đại
Sớm đã cúng tiền trầu Chiều tiền trầu lại cúng Quan lớn ưa cung phụng Oan dân rõ như ngày. Trong nhà quan lớn tiền bỏ nát Dân đen bán nhà lại bán vợ Cái xác tuy còn, mất nhà ở Gông cùm may thoát, vợ còn đâu Ôm con mà dứt tay chồng Ném trầu, trông mặt, khóc ròng cả hai!
Phù lưu tiền hành
Triêu tiến phù lưu tiền Mộ tiến phù lưu tiền Đại quan nghiệt phù lưu Nãi tuyết tiểu dân oan Đại quan đường trung tiền tác hư Tiểu dân mại gia, hoàn mại phụ Thử thân tuy tồn, gia dĩ hưu Già tỏa hạnh thoát, phụ nan lưu Bão nhi tạm lai dữ phu biệt Lộ bàng đối khấp xan phù lưu.
Con nhà nghèo khổ đau, Quanh năm rét lại đói. Bụng rỗng phải ăn rau, Lấy lửa thay chăn gối. Khắp đất là gươm đao, Đầy trời là hoạ hại. Vui vẻ thay nhà giàu, Yến tiệc suốt đêm thâu.
Tân khổ bần gia tử, Niên niên hàn phục cơ. Hiểu trường sơ thế phạn, Đống cốt hoả vi y. Biển địa do binh giáp. Mãn thiên thả tật oai, Chu môn lạc hà sự, Dạ ẩm đạt triều huy.
Miên Thẩm trang đời lắng đọng
Về Huế, viếng lăng Tùng Thiện Vương ở gần chùa Từ Hiếu, Huế, thăm ngôi nhà xưa của nhà thơ lớn đối diện Vĩ Dạ Xưa, trò chuyện với không gian thơ rất Huế, đó là một thú vui nhàn tản, tĩnh lặng.
Người như Tùng Thiện Vương thật hiếm. Miên Thẩm chuyện cũ viết lại là để ghi nhớ về một câu chuyện không nỡ quên: Theo Wikipedia Tiếng Việt, Miên Thẩm thuở lọt lòng, ông được ông nội đặt tên là Ngợn[1]. Đến năm 1832, khi đã có Đế hệ thi, ông được cải tên là Miên Thẩm (Nguyễn Phúc Miên Thẩm). Năm lên 7 tuổi, Miên Thẩm cùng với các em vào Dưỡng Chính đường, được thầy Thân Văn Quyền[2] dạy chu đáo. Ông rất chịu khó học tập, nên mới 8 tuổi (1827), nhân theo hầu vua dự lễ Nam Giao, ông làm bài Nam Giao thi, rất được tán thưởng. Năm 1839, ông được phong làm Tùng Quốc Công, mở phủ ở phường Liêm Năng, bên bờ sông An Cựu, Huế. Năm 1849, ông lập thêm Tiêu Viên sau phủ, đón mẹ (Thục tân Nguyễn Thị Bửu) và ba em gái (Nguyễn Phúc Vĩnh Trinh, Nguyễn Phúc Trinh Thận tức nữ sĩ Mai Am và Nguyễn Phúc Tĩnh Hòa) ra phụng dưỡng chăm nuôi. Khi các em lần lượt có chồng, rồi mẹ mất, ông cải tạo phủ chính làm nhà thờ, còn mình lui về ở Tiêu Viên và dựng lều tranh bên cạnh mộ mẹ cư tang ba năm. Năm 1854, mãn tang, ông được gia phong Tùng Thiện Công. Năm 1858, ông mua 12 mẫu ruộng ở xã Dương Xuân, làm nhà ở gọi là Phương Thốn thảo đường. Năm 1865, ông giữ chức Tả Tôn Nhân phủ, trong thời gian này xảy ra sự biến giặc Chày vôi. Trước đó, ông đã gả con gái là Thể Cúc cho Đoàn Hữu Trưng, một thanh niên ở làng An Truyền (tức làng Chuồn). Năm 1866, Hữu Trưng ngầm làm cuộc nổi dậy (sử cũ gọi là giặc Chày Vôi) nhằm lật đổ vua Tự Đức. Việc thất bại, Hữu Trưng và nhiều người bị hành hình. Mặc dù trước đó, Hữu Trưng đã lấy cớ vợ cư xử trái lễ với mẹ chồng mà trả về để tránh liên lụy cho nhà vợ, Miên Thẩm cũng trói cả con gái và cháu ngoại, quỳ dâng sớ xin chịu tội. Vua Tự Đức không kết tội chỉ nói ông chọn rể không cẩn thận để mất thanh danh, nay trừ bổng trong tám năm. Suốt những năm bị trừ bổng ấy, ông lên ngôi chùa cổ Từ Lâm hoang tàn ở xã Dương Xuân làm nơi cư ngụ, vợ con phải canh tác trồng cây quả đem ra chợ bán để có cái ăn hàng ngày. Ông mất ngày 30 tháng 3 năm Canh Ngọ (tức 30 tháng 4 năm 1870) lúc 51 tuổi. Năm 1878, ông được vua Tự Đức gia tặng là Tùng Thiện Quận Vương. Năm 1929, vua Bảo Đại mới truy phong ông là Tùng Thiện Vương, tước vị mà ngày nay người ta quen gọi.
Sự nghiệp trước tác của Tùng Thiện Vương rất phong phú (14 tập).Trong số đó đáng kể là Thương Sơn thi tập, gồm 54 quyển chia ra 8 tập với hơn 2.200 bài thơ. Các tác phẩm khác: Thương Sơn từ tập, Thương Sơn thi thoại, Thương Sơn ngoại tập, Thương Sơn văn di v.v… Theo như trong tập Thơ Tùng Thiện Vương [3], vào giữa thế kỷ 19 tại kinh thành Phú Xuân (Huế) đã xuất hiện một số nhà thơ dòng dõi hoàng tộc Nguyễn Phúc, trong đó có Tùng Thiện Công (tước vị của Miên Thẩm lúc bấy giờ), Nguyễn Phúc Miên Trinh, Nguyễn Phúc Miên Bửu, công chúa Mai Am (tất cả đều là em của ông) được nhiều người biết hơn cả.
Thơ của ông dù viết theo thể loại nào (hành, dao, thán, từ…), dù mang nội dung cảm hoài, ngôn chí hay thù tạc…, tất cả đều có văn pháp giản dị, ý tứ thâm sâu, chữ nghĩa chọn lọc, đều mang tính hiện thực cao (rất gần với thơ Đỗ Phủ thời nhà Đường), chứa đựng tinh thần yêu nước, thương dân, hết lòng vì bè bạn. Có thể kể đến một bài như: “Phù lưu tiền hành”, “Mại trúc dao”, “Kim hộ thán”, “Bộ hổ từ”… Bên cạnh tai ách áp bức, nhũng nhiễu, bóc lột của tầng lớp trên; người dân còn lâm cảnh đói kém, lưu tán do thiên tai như lũ lụt, hạn hán nhiều năm liền như các bài: “Nam Định hải dật”, “Thủy, Lưu dân thán”… Và thao thức, dằn dặt trước bao biến động của đất nước như các bài: “Tống Lương từ”, “Mại chỉ y”, “Vận, Khiển sầu”, “Tuế mộ mặc vân sào dạ tập”, “Thương tâm”, Đọc Nguyễn Đình Chiểu, Nhạc Phi, Nhị nguyệt nhị thập… Bên cạnh những nỗi đau chung, nơi tâm tư ông còn trĩu nỗi đau riêng.
Theo sử sách ghi, sau đám tang vua Thiệu Trị (1847), hai người cháu ruột của ông là Hồng Bảo và Hồng Nhậm cùng tranh giành ngôi vua, mở màn cho một bi kịch chốn vương triều. Cuối cùng, Hồng Bảo bị hạ ngục vì tội liên hệ với “bên ngoài”, để rồi phải tự tìm cái chết thân còn mang xiềng xích. Thảm cảnh đã được ông khéo gửi gấm trong một bài thơ khá dài: “Quỷ khốc hành”. Năm 1866, cuộc biến động ở Khiêm Lăng (loạn Chày vôi thời Tự Đức) do chính con rể đầu của ông là Đoàn Hữu Trưng chủ xướng, một lần nữa khiến vết thương lòng nhức nhói cho đến cuối đời (Vận, Tuế án độc tọa khiển muộn…).
Tuy sau này vua Tự Đức xét ông vô can, nhưng chính nỗi đau mới này cùng với lo toan dân tình, nạn nước; tất cả khiến lòng ông thêm chán ngán cảnh điện ngọc, cung son đã khiến tinh thần ông thêm suy sụp nơi cơ thể vốn gầy gò, lắm bệnh. Ông viết:Lờ mờ học Đạo nửa đời người Trúc dép, đường đi mới rõ mười Thiên Mụ, Thánh Duyên trăng với sóng Bóng rừng, hương nước, có còn ai? “Tuyệt Bút Từ”, 1870
Ngoài ra, ông còn có mảng thơ trữ tình viết về cảnh vật thiên nhiên và bè bạn…Tiến sĩ nhà Thanh là Lao Sùng Quang, khi đọc bài “Khiển hoài” của ông, đã phải khen rằng:
Đọc đến câu bạch âu hoàng diệp (của ông) Nghe người ớn lạnh hơi thu…
Thư mục về Tùng Thiện Vương Miên Thẩm không nhiều. Ngoài Tùng Thiện vương trên web Việt Nam gia phả, thì Wikipedia tiếng Việt chỉ mới có một ít thư mục về Người
^Từ điển Văn học (bộ mới, Nhà xuất bản Thế giới, 2004), sách Vua Minh Mạng với Thái y viện & ngự dược, ghi ông tên là Hiện (Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2007, tr. 46).
^Cuộc đời và sự nghiệp nhà giáo Thân Văn Quyền: [1]. Ngoài người thầy này, Miên Thẩm còn là học trò của Trương Đăng Quế và sau này cũng là cha vợ của ông.
^Thơ Tùng Thiện Vương, Lương An tuyển chọn, Nhà xuất bản Thuận Hoá 1994
Thương Sơn và Miên Thẩm
Thương Sơn thi tập 2200 bài thơ sao gọi là Thương Sơn? Đó có phải là dãy núi 苍山; cáng shān, còn gọi là Điểm Thương Sơn (点苍山, là một dãy núi kỳ vĩ trong Thiên long bát bộ danh tiếng của Kim Dung mà thực tế ngoài đời là dãy Thương Sơn dài khoảng 50 km, rộng khoảng 20 km, ở phía tây Đại Lý, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Phía đông Thương Sơn là hồ Nhĩ Hải chăng? Thương Sơn thuộc phía nam dãy núi Vân Lĩnh, phía bắc bắt đầu từ Nhĩ Nguyên, phía nam kéo dài đến cầu Thiên Sinh, phía đông giáp với hồ Nhĩ Hải, phía nam giáp với sông Hắc Huệ. Thương Sơn đỉnh cao nhất của nó là đỉnh Mã Long, cao 4.122 m, ngoài ra dãy núi này còn có 18 đỉnh khác đều cao trên 3.500 m[1] Mười chín đỉnh núi chính của Thương Sơn từ bắc xuống nam bao gồm: Vân Lộng, Thương Lãng, Ngũ Đài, Liên Hoa, Bạch Vân, Hạc Vân, Tam Dương, Lan Phong, Tuyết Nhân, Ứng Lạc, Quan Âm, Trung Hòa, Long Tuyền, Ngọc Cục, Mã Long, Thánh Ứng, Phật Đính, Mã Nhĩ, Tà Dương. 18 khe suối bao gồm: Hà Di, Vạn Hoa, Dương Khê, Mang Dũng, Cẩm, Linh Tuyền, Bạch Thạch, Song Uyên, Ẩn Tiên, Mai, Đào, Trung, Lục Ngọc, Long, Thanh Bích, Mộ Tàn, Đình Huỳnh, Dương Nam.
Dưới chân núi Thương Sơn đối diện với Hồ Nhĩ Hải tại Thành phố Đại Lý có Chùa Qianxun cao 69,13 mét, là một trong những ngôi chùa cổ cao nhất của triều đại nhà Đường (618 – 907). Đây là một trong ba ngôi chùa cổ nổi tiếng, một danh thắng tuyệt đẹp có lịch sử hơn 1.800 năm, biểu tượng lịch sử sự phát triển của Phật giáo Trung Quốc. Nhiều tác phẩm điêu khắc của Phật làm bằng vàng, bạc, gỗ hoặc tinh thể, và di sản quý giá khác tìm thấy nơi này trong chùa Qianxun, đóng một vai trò quan trọng để giải thích lịch sử cổ đại của Thành phố Đại Lý.
“Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường”. Thương Sơn thi tập 2200 bài thơ của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm có lẽ cũng ẩn chứa nhiều điều hay của một thời như ngôi chùa cổ xưa và dãy núi Thương Sơn kỳ vĩ chăng? .
*Nghe nói cụ Mai Khắc Ứng vừa về Huế, cụ là nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Huế, cụ vừa có bài thơ “Tạ từ” rất hay gửi lại. Tôi thật ao ước được nghe kể hoặc lời bình của cụ về cụ Miên Thẩm, con người thận trọng, minh triết lỗi lạc, uyên bác và tài hoa này.
Thầy To Le Van viết “Tiền nhân bảo” Công trồng là công bỏ, Công làm cỏ là công ăn“. Đúng vậy tôi chỉ có công trồng chỉ có 2 cây là PHTI-HCMC và FCC trồng trong những đêm dài chuyển mình đổi mới: không được thành lập thêm cơ quan ở HCMC nếu không có chữ kí của ông Võ Văn Kiệt phó chủ tịch hội đồng bộ trưởng và ông Phan Văn Khải chủ tịch thành phố. Tôi ở nước ngoài về cầm thơ tay của ông Chín Cần – phó ban tổ chức trung ương, Bộ trưởng, không biết sợ là gì cứ thế xông vào thế mà được việc. Có đội ngủ tốt. Cơ quan làm được nhiều việc, có uy tín với xã hội. Tôi về hưu đã lâu, nhân ngày gia đình Việt Nam, anh em cơ quan đến thăm. Cầm phong bì trên ngực, gạo, sữa nặng quá không ôm được biểu lộ tấm lòng của người già. Trân trong trước tình cảm của anh chị em”. Đọc những lời chia sẻ, Ấm áp mãi tình thân. Trang sách đời rộng mở. Dạy và học chuyên cần. Em Hoàng Kim xin được lưu về chuyên trang CHUYỆN THẦY LÊ VĂN TỐ https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-thay-le-van-to/
Giáo sư Lê Văn Tố là một người thầy hiền hậu, tài năng mà đời tôi may mắn được gần gũi, học hỏi và tôi thực sự kính trọng. Thầy Tố cùng quê Nghệ Tĩnh với cụ Nguyễn Công Trứ người đã tuyên ngôn sứ mệnh của kẻ quốc sĩ: “Đã mang tiếng ở trong trời đất. Phải có danh gì với núi sông” đối với người có học thực sự phải làm được điều gì đó ích lợi cho dân cho nước. Chuyện đời giáo sư Lê Văn Tố khơi dậy trong tôi sự thăm thẳm nhớ quê của một người con xa xứ và ước vọng tiếp tục hoàn thiện những công việc ân tình ích lợi cho tổ quốc quê hương. Trong biết bao chuyện đời thường của thầy Tố, tôi thích “MỘT CHUYẾN ĐI ‘DỐI GIÀ’ VÀ NHỮNG SUY TƯ”, “LỊCH SỬ LOGO FCC”, “FOLI VÀ FOVINA”, “NHỮNG CÂU THƠ ĐỜI THƯỜNG ÁM ẢNH”, ít ảnh chọn lọc và chuyện vui “BẠN BÈ HỌC TRÒ ĐÙA THẦY TỐ” Chuyện đời thầy Tố cùng vợ về quê là câu chuyện không phải của riêng ai, chỉ là người trước người sau mà thôi, bạn cũng chẳng kiêng cử về hai chữ “dối già” vì thầy cô nay còn mạnh khỏe lắm, phải thọ đến trăm tuổi, nhưng một cuộc du xuân cùng vợ về quê là chuyện to. Thầy coi xong việc này như thảnh thơi xong một việc chính.
Mời bạn lắng nghe lời Thầy kể:
1. BA CHUYỆN HAI BÀI THƠ
MỘT CHUYẾN ĐI “DỐI GIÀ” VÀ NHỮNG SUY TƯ Giáo sư Tiến sĩ Khoa học Lê Văn Tố
Bước vào tuổi 75 tôi muốn có cuộc du xuân “dối già” cùng vợ về quê.
Như có món nợ nào đó chưa trả xong khi bước sang thế
giới khác, đầu óc tôi vẫn văng vẳng đâu đó câu ví dặm “ giận thì giận
mà thương thì thương” tôi không giận ai cả. Chỉ biết giận mình vì tuy có
một số sản phẩm được người tiêu dùng chấp nhận nhưng chưa có gì đóng
góp cho quê hương. Có lẽ núm nhau mẹ chôn ở gốc tre bụi chuối nào đó nên
quê hương vẫn sâu đậm trong lòng – mặc dầu li hương hơn 60 năm.
Không sâu đậm sao được đến như Le
Breton thầy giáo của giáo sư Lê Thước ở trường quốc học Vinh đã không
ngần ngại khi viết: “ông yêu xứ Nghệ và con người Nghệ Tĩnh”( Le vienx
An-Tĩnh 1936, bản dịch của Trung Tâm văn hóa ngôn ngữ đông tây năm
2005). Có lẽ Le Breton vì hiểu và yêu xứ Nghệ nên mới để lại tác phẩm
chân tình giàu tính văn học, sáng giá về khảo cổ học, sử học, am hiểu về
địa chất Nghệ Tĩnh đến thế.
Để tiết kiệm thời gian, tôi liên hệ một số cơ sở du lịch và khách
sạn 5 sao Mường Thanh Sông Lam ở Vinh thu xếp cho một chuyến du lịch
cao cấp với hướng dẫn viên giàu tri thức, am hiểu địa danh các huyện
Diễn Châu, Yên Thành, Nam Đàn, Thanh Chương, Hương Sơn, Hương Khê, theo
đường 8 đến biên giới Lào- Việt. Yêu cầu đơn giản đó không được đáp ứng.
Tôi thuê xe về quê nội, quê ngoại.
Hai quê qua bao thăng trầm nay đã được công nhận là di tích văn
hóa lịch sử. Quê nội đời cố Lê Kim Ứng đã có công giúp phong trào Cần
Vương và là nơi trú ngụ của gia đình cụ Nguyễn Sinh Sắc cùng 3 con sinh
sống một thời gian thời thơ ấu. Phong cảnh và tình người chắc để lại
trong lòng Bác Hồ những kĩ niệm khó quên nên khi Bác gặp tham tán quân
sự Việt Nam tại Mạc Tư Khoa (người cùng quê) Bác còn hỏi thăm và khen là
Nguyệt Bổng (tên cũ) đẹp.
Nhiều văn nghệ sĩ trong kháng chiến chống Pháp như Nguyễn Văn Tý,
Trần Hoàn,…đã từng sinh sống tại quê tôi. Hồi nhỏ chúng tôi vẫn nghêu
ngao “một chiều anh bước đi, em tiễn đưa anh ra tận cuối đồi, rằng kháng
chiến còn trường kì là còn gian khổ”. Trần Hoàn đã bén duyên với người
con gái quê tôi, trước lúc đi công tác xa đã để lại bài hát trên.
Khi vua Hàm Nghi bị bắt, phong trào Cần Vương đi vào thoái trào.
Các sĩ phu Cần Vương cảm kích trước sự giúp đỡ của gia tộc Lê Kim Ứng đã
nói : việc nước chưa thành, công ơn gia tộc chưa trả được chỉ mới chọn
được miếng đất tốt để hai cụ an nghỉ lúc trăm tuổi với lòng mong mỏi gia
tộc ngày càng hưng thịnh. Tôi không am hiểu phong thủy nhưng mộ Cố trên
đồi cao vẫn hội đủ: tả thanh long, hữu bạch hổ có sông dài uốn lượn
phía dưới.Tuổi già nhưng nhờ mấy trăm bậc đá cháu mới làm nên vẫn cố leo
lên thắp hương Cố lần cuối.
Bên kia quả đồi là giếng Cửa Khâu nước chảy quanh năm từ lòng núi
không bao giờ cạn với đàn cá tung tăng như cá thần Cẩm Thủy (Thanh
Hóa). Chị em tôi lúc nhỏ hay phải gánh nước từ giếng Cửa Khâu về để mẹ
làm tương ăn quanh năm, thổi xôi nếp rồng cúng giỗ…
Về quê nhiều lần hỏi về giếng Cửa Khâu, nếp rồng, bánh vo (làm từ
bột gạo lức lúa nương) chỉ còn mấy người già còn nhớ. May thay lần này
có người dẫn đường tìm lại được giếng Cửa Khâu khi trời vừa tối. Cảm
động vô cùng bà con xúm lại. Người biếu chai rượu, kẻ chai tương được
sản xuất từ nguồn nước giếng này. Đúng là món ngon nhớ đời. Không phải
chỉ mình tôi mà biết bao người xứ Nghệ, khách thập phương từng sinh sống
ở đây vẫn nhớ con cá mát kho tương, xôi nếp rồng, bánh vo… Nay chỉ còn
trong kí ức người già!
Bù lại có món ngọn lang luộc xào
tỏi mà các anh chị ở tòa soạn báo Kinh tế Sài Gòn, Sài Gòn Times khi
chiêu đãi tôi ở thành phố Hồ Chí Minh thường nhắc đến nay đã trở thành
món đặc sản nhưng phổ thông khắp thành Vinh. Ước gì ngọn lang, cá thu
nướng Cửa Lò, gà đồi Nghệ An trở thành hàng hóa phổ biến ở Hà Nội, thành
phố Hồ Chí Minh.
Nghệ An còn nổi tiếng với cam Xã
Đoài. Lần này về quê, cố tìm đến vùng cam Xã Đoài để mua bằng được loại
cam nổi tiếng ngọt, thơm, nguyên gốc về làm quà. Loại cam mà tôi đã từng
được ăn, được chứng kiến người dân chăm sóc theo lối cổ truyền. Cũng
gọi là cam Xã Đoài bán hiện nay nhưng sao quá nhiều nước và chua! Đường
cao tốc vun vút qua xứ đạo năm xưa, khó tìm được người dân để hỏi đường.
May gặp được người dắt trâu làm đồng về chỉ nói đơn giản: “Không cần
hỏi ai cả cứ đi tiếp nhìn bên trái thấy nhiều tòa nhà, cổng thành kiên
cố, đường bê tông dài bao quanh– cam Xã Đoài ở đó.
Có lẽ sau Tết hết mùa cam chỉ
thấy hai quả cam đá to tướng trên tượng đài trước tòa dinh thự. Chợt nhớ
tới ông Nguyễn Hữu Tiêu giám đốc nông trường Sông Con (Nghĩa Đan) . Chỉ
còn một mắt vì gian truân của cuộc đời nhưng vẫn sáng nhìn xa trông
rộng nên đã đưa cam Xã Đoài lên vùng đồi tạo nên thương hiệu cam Vinh
nổi tiếng một thời làm mát lòng người dân miền Bắc, trong lúc khan hiếm
hàng hóa của thời bao cấp.
Hi vọng sẽ còn dịp trở về thắp hương trên bàn thờ ông Tiêu ở
Nghĩa Đàn với cam Xã Đoài thứ thiệt. Cam Xã Đoài mọc trên đất pha cát
xung quanh nhà thờ Xã Đoài. Có lẽ cần đến vai trò xứ đạo để phát triển
và giữ được thương hiệu loại cam quý giá này.
Viết đến đây tôi lại nhớ đến cố ngoại Phan Sĩ Thục được vua Tự
Đức cử làm chánh sứ đến triều Thanh. Làm quan to trong triều nhưng khi
lương, giáo tàn sát lẫn nhau, cố đã mở cửa nhà quan để giáo dân vào trú
ẩn, góp phần hòa giải mâu thuẫn. Ngày nay con đường mang tên ông là một
trong những con đường dẫn đến tượng đài Bác Hồ ở Vinh. Tôi thầm cảm ơn
các anh chị lớp trước, phải “có tâm có tầm” mới cất giữ được bút phê của
vua “Liêm như Thục” và ấn kiếm áo mũ vua ban cho đời sau (sách vua quan
triều Nguyễn cũng đã ghi chép chuyện này).
Lần này về quê tôi còn gắng sức đến thắp hương mộ bà Hoàng Thị
Loan trên đồi cao. Mát trời cảnh đẹp nhưng nhiều cụ già với lòng thành
tâm chỉ ngồi dưới chân đồi. Giá có những chiếc cáng nhỏ để giúp các cụ!
Con đường bậc thang lên đồi dốc chỉ có nước trà xanh và nước có gas nếu
có củ sắn dây luộc trồng xung quanh đồi hoặc nước sắn dây sẽ thêm mát
lòng người đến viếng… Nhà lưu niệm Nguyễn Du to rộng mênh mông nhưng sao
vẫn thiếu tiếng ngâm Kiều của mẹ thuở nhỏ…
Quà về quê tôi chỉ có dịp mang theo cam Quỳ Hợp thay cho cam Xã
Đoài và chai tương Cửa Khâu. Nếu có thêm cá thu nướng Cửa Lò đông lạnh
hút chân không thì tốt biết bao. An ninh ở sân bay Vinh không cho tôi
mang chai tương theo người nhưng sau khi biết tôi mang tương về để
nghiên cứu phát triển sản xuất đã linh động cho qua. Về Sài Gòn kể
chuyện mọi người khen an ninh có tâm và có tầm nhìn…
Chuyến đi dối già chỉ có mấy ngày nhưng có biết bao điều suy tư.
Suy tư có thể đúng có thể sai nhưng vẫn là suy tư của người con xứ Nghệ
xa quê.
GS. TSKH Lê Văn Tố
LỊCH SỬ LOGO FCC The History of Logo FCC
Anh em ở cơ quan cũ FCC và tổng giám đốc FCC anh Trần Phương đến
chơi và trao đổi với tôi viết lịch sử FCC để lưu lại và giáo dục truyền
thống cho lớp trẻ mới vào . Tôi từ chối và nói : Đã gửi phòng lưu trữ cơ
quan các tài liệu cũng như bút tích của ông Võ Văn Kiệt ,ông Phan Văn
Khải và ông Nguyễn Văn Chính ( Chín Cần Bí Thư Trung Ương Đảng , Bộ
Trưởng Bộ Lương Thực ). Cơ quan nếu cần thì dựa vào tài liệu đó cũng như
đĩa CD cử người viết là xong. Nay tôi chỉ kể lịch sử Logo FCC để mọi
người có thêm tài liệu:
Việt Nam từ thiếu ăn bắt đầu xuất cảng gạo, hồi ấy chúng ta giành
gạo tốt nhất để bán. Nước ngoài mua gạo 35% tấm Việt Nam về bán lại gạo
có phẩm chất cao hơn. Thuộc chuyên môn của mình, tôi đề nghị nhà nước
cho thành lập cơ quan giám định thứ 2 với tên giao dịch quốc tế là :Food
Control Center (FCC) bên cạnh Vinacontrol. Với sự hợp tác chân thành ,
tránh phiền phức cho khách hàng FCC đã tới Vinacontrol bàn bạc, thống
nhất quy trình làm việc và đưa các mẫu gạo chuẩn để giám định. Cán bộ
FCC thắc mắc tại sao mẫu gạo chuẩn chỉ ghi tên Vinacontrol và Viện
Nghiên Cứu Lương Thực, còn FCC ở đâu ?
Ở trong tim các anh và trên ngực các anh – Tôi trả lời và chỉ
vào ngực áo đồng phục của mọi người có Logo FCC. Mình phục vụ tốt hết
lòng với khách hàng sẽ tạo dần uy tín. FCC với đội ngũ chuyên môn của
mình đã tới từng kho hàng tham gia chuẩn bị hàng xuất khẩu cho họ theo
đúng hợp đồng đã kí đồng thời mời cơ quan giám định quốc tế OMIC-Nhật
Bản đến giảng dạy và cộng tác chuyên môn. FCC dần dần đã tạo dựng được
uy tín của mình với khách hàng trong và ngoài nước song song với việc
đào tạo tuyển dụng nhân viên mới. Có lần doanh nghiệp phản ánh với chúng
tôi anh H buổi đêm bắt doanh nghiệp đem xe về Sài Gòn ngủ để mai đến
Long An làm việc tiếp. Thời đó đường sá đi lại rất khó khăn sau khi điều
tra chúng tôi biết đó là sự thật lập tức cho nhân viên tạm thời nghỉ
việc và hẹn lúc nào biết cách phục vụ khách hàng sẽ được làm việc tiếp.
Nghề giám định có nhiều lúc cũng rất cân não và khó khăn. Lúc kiểm lô ý
dĩ xuất cảng sang Nhật, tới cảng Yokohama họ trả lại vì nhiễm độc tố
Aflatoxin vượt chuẩn. Với lề lối làm việc khoa học, FCC khẳng định với
khách hàng nếu lỗi của mình, chúng tôi sẽ nhận trách nhiệm nhưng trước
hết cần lấy mẫu lại để kiểm tra đồng thời kiểm tra mẫu lưu trữ để trong
kho và gửi mẫu sang Băng Cốc, Tokyo. Có kết quả tương đồng, tôi tin rằng
chúng tôi có lý và khuyên khách hàng về sấy khô lại sản phẩm đổi các
công ten nơ khác, nếu Nhật họ yêu cầu thì mạnh dạn xuất hàng. Mọi việc
êm xuôi, tôi cũng trút được gánh nặng thoát khỏi vòng số 8 vì tội cố ý
làm trái.
Có lẽ ở Yokohama họ lấy mẫu không đúng cách không đại diện cho
lô hàng nên có sai sót nói trên. Từ sự việc này dự án ACIAR đề nghị tôi
và một chuyên gia Úc viết bài giảng về phương pháp lấy mẫu cho các
trường đại học.
Không phải chỉ tranh luận với khách hàng nước ngoài mà còn tranh
luận với hải quan nước nhà. Chúng ta có nhà máy xay bột mì hiện đại
nhưng nếu nhập hạt mì về xay sát sẽ bị đánh thuế vì hải quan cho rằng
hạt mì là đã qua xay xát (Vì hạt lúa mì sau thu hoạch đã rất bóng ).
Thuyết phục không xong, tôi cho hạt mì ngâm ủ và nói nếu qua xay xát hạt
mì sẽ không nảy mầm. Cuối cùng hải quan chấp nhận. Có lần chúng tôi mời
cán bộ FAO đến chứng kiến lô dầu ăn viện trợ cho Việt Nam bị ôi mốc vì
chất lượng kém. Họ tâm phục khẩu khục đổi cho ta lô dầu khác. FCC ngày
càng phát triển được ủy quyền giám định không những chỉ hàng lương thực
thực phẩm mà còn nhiều loại hàng hóa khác. Cái áo đã chật nhưng Logo FCC
đã đi ra thế giới làm thế nào đây ? Động viên anh em tìm thêm một chữ C
cho hợp với cái áo mới, từ đó có tên : Food & Commoditoes Control.
FCC đã giữ vững và phát triển tên tuổi của mình hơn 30 năm nay nhưng 1
lần nữa chứng tỏ sự non yếu của tôi – 1 người chuyên về kỹ thuật lương
thực thực phẩm chỉ nghĩ đến giám định thực phẩm mà thôi…
Khi được xây dựng trụ sở mới tôi bàn với anh em : Mình chưa đủ
tài chính xây dưng tòa nhà 9 lầu thì chỉ xây dựng 4 lầu nhưng nền móng
kết cấu đủ 9 lầu tránh đập phá lãng phí.
Về hưu đã lâu rất ít khi tới cơ quan nhưng mỗi lần đến để sinh
hoạt khoa học hoặc giới thiệu sách khoa học mới của các bạn đồng nghiệp.
Nhìn tòa nhà 9 tầng vươn cao giữa hàng me cổ thụ ( Hợp đồng giao hẹn
với công ty xây dựng không được chặt me ) lòng tôi lại lâng lâng.”
GS.TSKH Lê Văn Tố
FOLI VÀ FOVINA Một phần tư thế kỉ trôi qua của sản phẩm nghiên cứu Foli
Xuất khẩu gạo còn tồn dư nhiều gạo gãy, tấm tốt. Tiếc quá, tôi
bàn với anh em ta sản xuất cháo ăn liền được không ? Ăn liền nhưng tiền
đâu nghiên cứu ? Anh em hỏi lại tôi ? Ra Hà Nội xin tiền nghiên cứu
nhưng họ không tin vì cháo thì phải nấu nhừ chứ máy móc làm sao được?
Biết tôi từ lâu nhưng họ vẫn trách yêu : Cậu sách vở nhiều quá thần kinh
hay sao? Về lại Sài Gòn tôi gõ cửa giáo sư Hoàng Anh Tuấn (giám đốc sở
khoa học, ủy viên ủy ban TP. HCM) xin tiền nghiên cứu. Ông cười bảo tôi :
Đó không phải là lĩnh vực của tôi nhưng tôi tin anh về làm thủ tục đi.
Có 50 triệu cầm tay ( Hồi đó 50 triệu là to ) các kĩ sư của chúng
tôi ra đặt xưởng CARIC thiết bị chịu áp lực làm Extruder. Họ từ chối.
Thử dùng nòng súng đại bác cũ được không ? – Tôi bàn với anh em. Kĩ sư
Lộc và bộ phận cơ khí đã làm được Extruder từ nòng súng đại bác và sau
đó kĩ sư Bình, kĩ sư Châu làm Extruder cỡ nhỏ hơn. Cháo ăn liền ra đời
bán chạy khắp toàn quốc. Uy tín của Viện được nâng cao. Sáng sớm dân xếp
hàng dày đặc trước cơ quan chờ thùng cháo ăn liền về cho gia đình và
bán lại kiếm lời. Anh em bảo tôi đặt tên cho xưởng cháo đi. Đi đâu họ
cũng hỏi xưởng cháo ngượng lắm !
Xưởng FOLI được không ? Sao lại gọi là xưởng FOLI ?
FOLI là food ăn liền để liền mạch với sản phẩm PHOMI được sản
xuất từ nguyên liệu phối lúa mì rất bổ dưỡng chuyển giao cho xí nghiệp
xay lúa mì Bình Đông bán rất chạy nuôi sống được 60 công nhân đang thất
nghiệp.
Sản phẩm đã bán chạy sẽ có người làm giả nên cần đăng kí bản
quyền. Tên FOLI và Logo FOLI mang hình đầu gà từ đó vì sản phẩm ra đời
năm Qúy Dậu ( 1993 ). Mặc dù vậy ở Hà Nội có cô giáo vì kế sinh nhai làm
giả cháo ăn liền của chúng tôi. Công an hỏi ý kiến để xử lý. Tôi bàn
với công an : Vì sinh kế cô giáo mới làm như vậy các anh chỉ cần khuyên
họ nếu có điều kiện thì mở cơ sở sản xuất mới chứ không được lấy tên
FOLI. Từ cháo ăn liền họ hàng của FOLI có thêm nhiều sản phẩm mới : Cơm
gạo nứt ăn liền, cốm gạo lứt rong biển, chè đậu xanh ăn liền, cốm 5 loại
đậu, xưởng đồ hộp di động, canh chua ăn liền …. Sản phẩm đã có mặt trên
thị trường ¼ thế kỉ.
Hội nghị tổng kết ở cơ quan giám đốc sở khoa học bảo tôi lên trả
lời câu hỏi tri thức Việt kiều : Tại sao các anh làm được Extruder trong
giai đoạn hiện nay. Không giấu diếm tôi thú thật là chúng tôi phải dùng
nòng súng đại bác để chế tạo và nói đùa thêm : Các anh khôn đã xuất
biên chúng tôi ở lại vừa điên vừa khùng. Là đồ Nghệ tôi đã chơi chữ có
người cho tôi là điên khùng, tiếng Pháp FOLIE là kẻ khùng điên.
Về hưu nhớ lời của nhà thơ Nga Eptusenco: Đừng chết trước lúc lìa
đời. Còn khỏe và đang “ngứa nghề” tôi thành lập Pilot Plan cho mình tại
nhà để sản xuất thực phẩm có lợi cho sức khỏe từ nguyên liệu tự nhiên
với tên gọi FOVINA (Food Vital, Natural) như kem bổ sung Isoflavon, bánh
Macca, bánh bổ sung các loại hạt dinh dưỡng bánh mì thanh long giữ được
dài ngày cho người đi biển … công nhân vui mừng được ăn nghỉ đàng hoàng
và sống bằng sản phẩm mình làm ra. Đó cũng là địa điểm thuận lợi để các
nhà khoa học ngồi hàn huyên tâm sự thử sản phẩm mới“.
GS.TSKH Lê Văn Tố
NHỮNG CÂU THƠ ĐỜI THƯỜNG ÁM ẢNH
Tôi đã trích dẫn nguyên văn ba câu chuyện trên trên trang FB của To Le Van để đọc và suy ngẫm, và sẽ còn quay lại trong nhiều dịp. Tôi tẩn mẫn in đậm các chữ “chai tương“. “FCC’ ‘POLI’ ‘FOVINA’ . Bill Gates vừa hôm qua chia sẻ thông tin What’s the secret to making great bread?
(‘Bí quyết để làm bánh mì tuyệt vời là gì?’) Câu hỏi của Bill Gates
dường như là một dấu lặng sâu xa cho ẩm thực và nông nghiệp, là một sự
đồng cảm …
Chuyện đời của giáo sư Lê Văn Tố là bài học suy ngẫm. Thầy Tố qua tám mươi xuân vẫn trên con đường di sản mang các giá trị ẩm thực Việt lan rộng và tỏa sáng. Con người của tâm huyết và thực tiễn là lặng lẽ dâng hiến. Đó là đức độ của một người Thầy.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa thẩm thơ khá tinh tế “thơ hay là giản dị, xúc động, ám ảnh”. Anh Tư Hoàng Trung Trực của tôi, vị đại tá tư lệnh sư đoàn thời chống Mỹ, cũng thích kể chuyện đời bằng thơ vì theo anh kể chuyện thơ có hồn và dễ nhớ hơn. Anh đã viết hồi ức thơ “Dấu chân người lính” kể về những khốc liệt hi sinh gian khổ chiến trường, đối mặt sinh tử.Thầy Lê Văn Tố cũng vậy, thầy hồi tưởng chuyện đời của thầy bằng những câu thơ tuy mộc mạc đời thường nhưng thật ám ảnh.
NGOÀI THẤT TUẦN VIẾT LÚC NỬA ĐÊM Lê Văn Tố
Mẹ nằm đó miên man trên giường bệnh.
Tóc trắng phau miệng mấp mấy mấy điều,
Chị nằm bên : “mẹ tỉnh hay mê ?”
Mẹ đi rồi thương ai nhiều nhất ?
Mẹ thều thào con nào đẻ chả thương,
Nhưng rồi mẹ lại vấn vương.
“Thương thằng Tố nhiều hơn con ạ !
Nó dành phần nuôi mẹ sớm chiều.
Con mẹ hiếu thảo đủ điều.
Nhưng phải xâm xiu, còn lo cho gia đình chúng nó…”
Nhớ lúc “bão tan” còn niêu đất nhỏ
Mẹ bảo : “Thổi nồi cháo – nhớ đổ nước cho nhiều”.
Ngô không có, khoai chẳng còn.
Còn gì đâu mà nổi lửa mẹ ơi !
Đêm đông gió giật từng hồi.
Hết cả rồi biết sống sao đây ?
Bán nốt con chó, bán cả cái vò
Có bữa câu được con tràu to.
Đổi gạo cháo no mấy bữa
Rồi lại co ro ngồi trên bậu cửa.
Con muốn bỏ học, mẹ không cho. Bụng đói, rét co, nằm không chăn chiếu Gốc sim già – lửa ấm được một bên. Rồi mẹ lại lom khom lên núi xuống đồng .
Không quản ngày đông, nắng hè cháy bỏng…
Mẹ gánh, mẹ gồng xộc xệch mòn vai
Mua mít tại nhà bổ bán ở chợ
Hột nhặt về – độn để con ăn
Đêm ngủ chiêm bao thấy mẹ hiện về.
Nghẹn ngào con viết vội vần thơ…
CHÂN ĐẤT THEO ANH Lê Văn Tố
Hòa bình về Thủ Đô
Nghệ An còn đói khổ
Đưa em ra Kinh Đô
Dép Bác Hồ* nỏ có
Em lội bộ theo anh
Tính toán mãi loanh quanh
Mua đôi dép con hổ**
Em bước chân đi nhanh.
Hổ rình chân em cứa
Xách cọp đi theo mình
Lặng thinh em tiến bước.
Em tiến bước lặng thinh
Mấy con nhỏ phía trước
Ngoái cổ cười bảo nhau
Đi mau mặc kệ tau
Chân đau đi răng được ?
Rồi em tiến dài bước
Vượt qua mọi chông gai
Không dép lốp xâu quai
Nhưng có oai con hổ.
* Loại dép bằng lốp ôtô xâu quai.
** Loại dép nhựa tái chế rất cứng
2.NHỮNG CHUYỆN THẬT ĐỜI THƯỜNG
Hoàng Kim xin chia sẻ ngay mẫu ký ức quý giá của giáo sư tiến sĩ khoa học To Le Van. Tôi nói với các em sinh viên và các bạn đồng nghiệp: “Bài học khởi nghiệp của thầy Lê Văn Tố và FCC là rất quý và thật đáng suy ngẫm”
Thầy Tố kể: “Cảm ơn các bạn xa gần đã quan tâm và bình luận. Nói đến “công trồng” không thể không nhắc đến anh Nguyễn An Hoàng mà tôi có duyên được gặp anh khi anh ở Hungary về đang phụ trách một đơn vị HCSN phía Nam của Bộ cơ khí luyện kim. Tôi chân thành nói với anh “Tôi không biết quản lí đâu. Tôi chỉ là người đứng mũi chịu sào để các anh chủ động hoạt động”. Công trình đầu tiên của cơ quan do anh tự thiết kế chế tạo và lắp ráp: Máy sấy bột sắn làm tá dược cho xí nghiệp dược Tây Ninh. Làm xong đưa ra sản xuất nhưng họ không có tiền trả chỉ trả bằng sắt thép. Bán sắt thép ở thành phố thì công an ập vào! Tôi bắt đầu biết sợ nhưng cũng động viên anh em: “Nhà nước giao cho ta con gà để cúng, ta làm sạch sẽ luộc lên nộp đủ gan mề cổ cánh, chỉ lấy nước húp thôi” và dặn thêm tôi có làm sao khi đi thăm nuôi nhớ mang thêm sách tiếng anh và từ điển để tôi dạy phạm nhân. Mọi việc ổn thỏa chúng tôi từng bước đi lên, Khi FCC lớn mạnh, áo đã chật nhà nước không cho núp bóng viện nghiên cứu nữa mà phải thành lập doanh nghiệp nhà nước hẳn hoi. Tôi và anh Trần Phương (Tổng giám đốc FCC hiện nay) bay ra Hà Nội. Công việc còn ngổn ngang mà sớm mai đã phải xét duyệt, anh Phương phải phóng xe đến nhà chị Tuất đánh máy làm việc suốt đêm.Sáng sau mắt nhắm mắt mở trước hội đồng xét duyệt của Bộ tài chính và Bộ NN & PTNT, thôi thì “khôn ngoan chẳng lọ thật thà” tôi nói: “Sổ sách của chúng tôi như sổ chợ nhưng đảm bảo không bị thất thoát nhờ hội đồng giúp đỡ xử lí cho”. Phải nói rằng thời đó khó khăn nhưng hội đồng dễ thông cảm cho các “nhà kĩ thuật khởi nghiệp”. Không đao to búa lớn kiểm điểm bình bầu nhưng cơ quan làm việc nhuần nhuyễn với nhau. Trưa ăn cơm nóng sốt tại cớ quan rồi lăn ra chợp mắt làm xong việc mới về. Nói đến trụ sở không thể nhắc đến Omic Nhật Bản, họ hiểu và tin tưởng cho chúng tôi vay tiền rồi lấy công trả nợ. Tiền ít nhưng tham làm 4 lầu để sử dụng nhưng móng đủ sức làm 9 lầu. Anh em thắc mắc hỏi: “Sao đang đói mà anh làm to thế?” Tôi cười: “Làm cho các anh đó. Sau này khỏi phải đập phá khi xây thêm. Chúng ta đã chứng kiến cảnh đập phá quá nhiều rồi”. Khi tôi về hưu anh Đức (giám đốc PHT-HCMC) lên bộ xin xây 9 lầu cho cơ quan. Nguyên tắc phải khảo sát nền móng trước khi cấp giấy phép nhưng giáo sư Giang biết tôi là người chủ trì công trình xây dựng trước đây nên nói ngay: “Anh Tố mà làm thì chắc chắn”. Nghe anh Đức kể lại về hưu rồi vẫn sướng rơn vì trí thức được lãnh đạo tin tưởng. Thực tế giáo sư Giang chỉ gặp tôi 1 lần khi đó anh là vụ trưởng khi tôi đang tổ chức triển lãm ở Cần Thơ với tiêu đề “Đưa công nghiệp chế biến về nông thôn để mỗi địa phương có sản phẩm của mình”. Hàng có bao nhiêu bán hết sạch. Cứ như vậy chúng tôi tiến từng bước vững chắc. Ngẫu hứng mấy dòng để góp vui với cơ quan tổ chúc kỉ niệm 30 năm ngày thành lập FCC, vì khi đó sức khỏe yếu không chống gậy đến được.”
Thầy Lê Văn Tố viết “Tiền nhân bảo” Công trồng là công bỏ, Công làm cỏ là công ăn “ . Đúng vậy tôi chỉ có công trồng chỉ có 2 cây là PHTI-HCMC và FCC trồng trong những đêm dài chuyển mình đổi mới : không được thành lập thêm cơ quan ở HCMC nếu không có chữ kí của ông Võ Văn Kiệt phó chủ tịch hội đồng bộ trưởng và ông Phan Văn Khải chủ tịch thành phố. Tôi ở nước ngoài về cầm thơ tay của ông Chín Cần -phó ban tổ chức trung ương, Bộ trưởng, không biết sợ là gì cứ thế xông vào thế mà được việc . Có đội ngủ tốt. Cơ quan làm được nhiều việc, có uy tín với xã hội. Tôi về hưu đã lâu nhân ngày gia đình Việt Nam anh em cơ quan đến thăm. Cầm phong bì trên ngực, gạo, sữa nặng quá không ôm được biểu lộ tấm lòng của người già. Trang sách đời rộng mở. Dạy và học chuyên cần. Em Hoàng Kim xin được lưu về chuyên trang CHUYỆN THẦY LÊ VĂN TỐ https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-thay-le-van-to/
3. THẦY BẠN VÀ HỌC TRÒ
Tôi nhẫn nha chép lại những chuyện đời quanh thầy Tố, vui có buồn có
nhưng đến đây thì cứ vui. Sớm nay, tập thể dục xong, trước khi góp ý bài
đăng báo khoa học kỹ thuật nông nghiệp cho nhỏ học trò, tôi lướt qua
một chút các trang tin nóng trong ngày, suy tư hoài khi đọc bài “Tắc kẹt vì đâu?“”Ba hoa cái tôi, cái tội và cái tồi“”Thị trường thép thế giới: Tương lai không sáng sủa“.
Biết bao chuyện nóng hổi mà kẻ sĩ không thể không lo nghĩ. Nhưng thôi,
đến thăm thầy, xin được nói chuyện vui nhiều hơn chuyện buồn thì tốt
hơn. Thầy Quyền nghề nông của chúng tôi là tấm gương mẫu mực về sự phúc hậu, minh triết, tận tụy trên con đường xanh của chúng ta, một người bạn thiết của thầy Tố, luôn quan tâm dặn dò giữ gìn sức khỏe.
Thầy Lê Văn Tố cùng thời với những anh chị, bạn hữu “Nga học, Tây
học”của thế hệ nông nghiệp đầu tiên nước Việt Nam mới. Nhiều người quen
thân của thầy đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong nông nghiệp, sinh học
và giáo dục nghề nông như: GS. Lương Định Của (16 tháng 8 năm 1920 – 28 tháng 12 năm 1975), GS. Đào Thế Tuấn (4 tháng 7 năm 1931- 19 tháng 1 năm 2011),
GS. Vũ Tuyên Hoàng (2 tháng 12 năm 1939 -26 tháng 2 năm 2008), PGS. Lưu
Trọng Hiếu (-15 tháng 5 năm 2008), GS. Trần Thế Thông, GS. Nguyễn Văn
Luật, GS. Mai Văn Quyền, GS. Trịnh Xuân Vũ, GS. Ngô Kế Sương, PGS.
Nguyễn Văn Uyển, GS. Nguyễn Tử Siêm, … Quê hương, dòng họ, gia đình,
người thân và bạn quý là nguồn sinh khí, điểm tựa cho mỗi cuộc đời và sự
nghiệp.
Trong nhiều câu chuyện đời thường, tôi thích bài thơ các anh Võ Đức Tình, Thao Lâm viết về thầy Tố:
CÓ MỘT NƠI NHƯ THẾ Võ Đức Tình
Mái nhà xưa hai trái tim vàng Giản dị một đời chẳng cao sang Chỉ lo đào tạo bao thế hệ Kiến thức tinh hoa thật vững vàng
Nơi ấy vườn xanh rộn tiếng cười Thuyền câu rong ruổi khắp muôn nơi Đưa cá về ao: hàng lưu trữ Đãi bạn bè xa đãi khách mời
Ăn xong về lại mái nhà xưa Bánh nóng trà thơm suốt bốn mùa Bè bạn gần xa đều thưởng thức Xem thầy chế biến đã vừa chưa
Bạn hỏi rằng đâu đẹp thế này Cảnh đẹp người vui chuyện đắm say Nơi ấy bạn hiền thành tri kỷ Cô Nga thầy Tố ” trực” đêm ngày Duc Tinh Vo friends with To Le Van
Hoàng Kim ở CIMMYT 1988 trong bài viết Đi như một dòng sông là những ký ức vụn kể về Con đường di sản LewisClark của Châu Mỹ chuyện không quên. Tôi đã kể về Làng Minh Lệ quê tôi với bốn ghi chú nhỏ (Notes) Linh Giang Đình Minh Lệ; Đá Đứng chốn sống thiêng. Nguồn Son nối Phong Nha Quê Mẹ vùng di sản. Tôi xa quê từ nhỏ Quê hương nơi sinh thành với nơi ở sống chết thường là bài học lón nhất đời người nhưng tôi vì hoàn cảnh xa quê nên hiểu quê hương có giới hạn mà thường ấn tượng về mười hai bến nước của chiếc lá trôi dạt của vận mệnh, Đi để hiểu quê hương,
Đi như một dòng sông là bài học kinh nghiệm khởi nghiệp kể lại cho người thân và thầy bạn quý, đặc biệt là cho bạn trẻ đang tìm kiếm sự kết nối học để làm (Learning to Doing) và dạy hiệu qủa. Bài viết này được trích từ phần đầu của Thầy bạn là lộc xuân với phần giữa Dạy và học ngày nay và phần cuối Con đường di sản LewisClark của Châu Mỹ chuyện không quên . Đó là thu hoạch của tôi với thầy bạn
TỪ CẬU BÉ LÀNG MINH LỆ
Quê tôi ở miền Trung nghèo khó “Nhà mình gần ngã ba sông/ Rào Nan, chợ Mới, nguồn Son, Quảng Bình,/ Linh Giang sông núi hữu tình / Nơi đây cha mẹ sinh thành ra con/ Chèo thuyền cho khuất bến Son/ Để con khỏi chộ (thấy) nước non thêm buồn/ Câu thơ quặn thắt đời con/ Mẹ cha mất sớm, con còn trẻ thơ”. Tôi xa quê từ nhỏ. Mười tuổi mồ côi mẹ, Mười bốn tuổi cha chết do bom Mỹ giết hại.Tôi với chị gái Hoàng Thị Huyền ở với anh trai Hoàng Ngọc Dộ trong nhà hầm của lớp học ở làng Phù Lưu để học cấp ba Bắc Quảng Trạch. Anh trai tôi dạy cấp một, giáo viên khẩu phần ăn 13 ký lương thực mỗi tháng, trong đó có 70% là khoai sắn. Anh vì nuôi hai em thay cha mẹ mất nên khẩu phần ăn ấy chia cho ba người ăn. Đói. Gia đình tôi năm năm đã ăn ngày một bữa. Thầy Nguyễn Khoa Tịnh đứng khóc trên bục giảng vận động thầy cô, bạn hữu chia sớt khoai sắn giúp đỡ. Tôi cũng dạy năm lớp vở lòng, ba lớp bổ túc văn hóa và cùng anh cuốc đất tăng gia để vượt khó vươn lên. Thầy Hiệu trưởng Trần Đình Côn đã viết những lời xúc động trong Bài ca Trường Quảng Trạch trường ca tình thầy trò: “Thương em nhỏ gieo neo mẹ mất. Lại cha già giặc giết hôm qua. Tình thầy, tình bạn, tình cha. Ấy là ân nghĩa thiết tha mặn nồng” (9) Những gương mặt thầy bạn đã trở thành máu thịt trong đời tôi.
Thi đậu vào Trường Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc năm 1970, tôi học Trồng trọt 4 cùng khóa với các bạn Trần Văn Minh, Đỗ Thị Minh Huệ, Phan Thanh Kiếm, Đỗ Khắc Thịnh, Vũ Mạnh Hải, Phạm Sĩ Tân, Phạm Huy Trung, Lê Xuân Đính, Nguyễn Hữu Bình, Lê Huy Bá … cho đến ngày 02 tháng 9 năm 1971 thì tôi gia nhập quân đội cùng lứa với Nguyễn Văn Thạc. Đợt tuyển quân sinh viên trong ngày độc lập đã nói lên sự quyết liệt sinh tử và ý nghĩa thiêng liêng của ngày cầm súng. Chiến trường đánh lớn. Đơn vị chúng tôi chỉ huấn luyện rất ngắn rồi vào trận ngay với 81 đại đội vượt sông Thạch Hãn. Chiến dịch Quảng Trị năm 1972 sau này đã đi vào huyền thoại: “Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Có tuổi hai mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm” Tổ chúng tôi bốn người thì Xuân và Chương hi sinh, chỉ Trung và tôi trở về trường sau ngày đất nước thống nhất. Những vần thơ viết dưới đây là xúc động sâu xa của tôi khi nghĩ về bạn học đồng đội đã khuất: “Trận chiến hôm qua bạn góp máu hồng. Lớp học hôm nay bạn không trở lại. Trách nhiệm trong mình nhân lên gấp bội. Đồng chí ơi, tôi học cả phần anh”
Tôi về học tiếp năm thứ hai tại Trồng trọt 10 của Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc đến cuối năm 1977 thì chuyển trường vào Đại học Nông nghiệp 4, tiền thân Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Trồng trọt 2 thuở đó là một lớp chung mãi cuối khóa mới tách ra 2A,2B, 2C. Tôi làm Chủ tịch Hội Sinh viên thay cho anh Nguyễn Anh Tuấn khoa thủy sản ra trường về dạy Đại học Cần Thơ. Trồng trọt khóa hai chúng tôi thuở đó được học với các thầy cô: Nguyễn Đăng Long, Tô Phúc Tường, Nguyễn Tâm Đài, Trịnh Xuân Vũ, Lê Văn Thượng, Ngô Kế Sương, Trần Thạnh, Lê Minh Triết, Phạm Kiến Nghiệp, Nguyễn Bá Khương, Nguyễn Tâm Thu, Nguyễn Bích Liễu, Trần Như Nguyện, Trần Nữ Thanh, Vũ Mỹ Liên, Từ Bích Thủy, Huỳnh Thị Lệ Nguyên, Trần Thị Kiếm, Vũ Thị Chỉnh, Ngô Thị Sáu, Huỳnh Trung Phu, Phan Gia Tân, Nguyễn Văn Tài, Nguyễn Văn Kế, … Ngoài ra còn có nhiều thầy cô hướng dẫn thực hành, thực tập, kỹ thuật phòng thí nghiệm, chủ nhiệm lớp như Bùi Cách Tuyến, Nguyễn Văn Kịp, Lê Quang Hưng, Trương Đình Khôi, Nguyễn Ngọc Châu, Nguyễn Gia Quốc, Nguyễn Văn Biền, Lê Huy Bá, Hoàng Quý Châu, Phạm Lệ Hòa, Đinh Ngọc Loan, Chung Anh Tú và cô Thảo làm thư ký văn phòng Khoa. Bác Năm Quỳnh là Bí thư Đảng ủy đầu tiên của Trường sau đó là thầy Kiên và cô Bạch Trà. Thầy Nguyễn Phan là Hiệu trưởng kiêm Trưởng Trại Thực nghiệm. Thầy Dương Thanh Liêm, Nguyễn Ngọc Tuân, Võ Thị Tuyết, Ngô Văn Mận, Bùi Xuân An … ở khoa Chăn nuôi Thú y, thầy Nguyển Yên Khâu, Nguyễn Quang Lộc … ở khoa Cơ khí, cô Nguyễn Thị Sâm ở Phòng Tổ chức, cô Văn Thị Bạch Mai dạy tiếng Anh, thầy Đặng, thầy Tuyển, thầy Châu ở Kinh tế -Mác Lê …Thầy Trần Thạnh, anh Quang, anh Đính, anh Đống ở trại Trường là những người đã gần gũi và giúp đỡ nhiều các lớp nông học.
Thuở đó đời sống thầy cô và sinh viên thật thiếu thốn. Các lớp Trồng trọt khóa 1, khóa 2, khóa 3 chúng tôi thường hoạt động chung như: thực hành sản xuất ở trại lúa Cát Lái, giúp dân phòng trừ rầy nâu, điều tra nông nghiệp, trồng cây dầu che mát sân trường, rèn nghề ở trại thực nghiệm, huấn luyện quốc phòng toàn dân, tập thể dục sáng, hội diễn văn nghệ, thi đấu bóng chuyền, bóng đá tạo nên sự thân tình gắn bó. Những sinh viên các khóa đầu tiên được đào tạo ở Khoa Nông học sau ngày Việt Nam thống nhất hiện đang công tác tại trường có các thầy cô như Từ Thị Mỹ Thuận, Lê Văn Dũ, Huỳnh Hồng, Cao Xuân Tài, Phan Văn Tự, …
Tháng 5 năm 1981, nhóm sinh viên của khoa Nông học đã bảo vệ thành công đề tài thu thập và tuyển chọn giống khoai lang Hoàng Long, Chiêm Dâu, Gạo, Bí Đà Lạt được Bộ Nông nghiệp công nhận giống ở Hội nghị Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Toàn Quốc Lần thứ Nhất tổ chức tại Thành phố Hố Chí Minh. Đây là một trong những kết quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật đầu tiên của Trường giới thiệu cho sản xuất. Thầy Cô Khoa Nông học và hai lớp Trồng trọt 2, Trồng trọt 3 cũng đã làm họ trai họ gái tác thành đám cưới cho vợ chồng tôi. Sau này, chúng tôi lấy tên khoai Hoàng Long để đặt cho con và thầm hứa việc tiếp nối sự nghiệp nghiên cứu khoa học và giảng dạy, một nghề nghiệp cao quý và lương thiện. “Biết ơn thầy cô giáo dịu hiền. Bằng khích lệ động viên lòng vượt khó. Trăm gian nan buổi ban đầu bở ngỡ. Có bạn thầy càng bền chí vươn lên. Trước mỗi khó khăn tập thể luôn bên. Chia ngọt xẻ bùi động viên tiếp sức. Thân thiết yêu thương như là ruột thịt. Ta tự nhủ lòng cần cố gắng hơn
Bạn học chúng tôi vẫn thỉnh thoảng họp mặt, có Danh sách các lớp Trồng trọt 2, Trồng trọt 3 số điện thoại và địa chỉ liên lạc. Một số hình ảnh của các lớp ngày ấy và bây giờ
TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA TÔI Đi như một dòng sông, Đời người là chuỗi năm quá trình kế tiếp nhau, đan xen nhau, hỗ trợ nhau, trộn vào nhau thành chuỗi hệ thống gồm Học, Làm, Dạy, Nhàn, Viết.
SỰ HỌC khởi đầu từ lúc con người sinh ra cho đến khi có VIỆC LÀM để mưu sinh, để lao động, để cống hiến, để không còn làm người ăn bám sống trên mồ hôi thành quả của người khác, để biến cái sở trường thành hữu dụng. Đó là sự học chân chính, học để làm. Sự học tốt nhất là tự học suốt đời và sự học hữu dụng nhất, hiệu quả nhất là học làm người có ích. Học để làm tốt một nghề.
VIỆC LÀM VÀ VIỆC DẠY dường như chiếm một nữa đời người khi một phần tư đời người cho tuổi thơ và sự học, Dẫu sự học tốt nhất là tự học suốt đời nhưng thật xấu hổ nếu không biết làm và dạy. Học làm người có ích là có tâm huyết, chuyên nghiệp và kỹ năng học làm người có ích. Có người giảng dạy và việc làm tách riêng , làm thành thạo trước và trao truyền sau nhưng có nhiều người việc làm và việc dạy kết rất nhuyễn, Cha mẹ là thầy cô đầu đời của con.
AN NHÀN VÔ SỰ VÀ VIẾT. Nhàn và viết là lắng đọng di sản. An nhàn vô sự và viết dường như chiếm một phần tư đời người sau cùng. Phúc cho ai hưởng nhàn và đọng lại di sản. Minh triết sống phúc hậu là bài học quý, Bản chất cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và vô thường. Minh triết của đời người hạnh phúc là biết sống thung dung, phúc hậu, an nhiên tự tại, nhận ra kho báu vô giá của chính mình, không lo âu, không phiền muộn, sống với tinh thần dịu hiền và trái tim nhẹ nhõm.
CON ĐƯỜNG DI SẢN LEVIS CLARK
Tôi sang châu Mỹ nhiều lần, có được 36 bài đường links, thỉnh thoảng vui đọc lại và viết Đó là một chặng đường trải nghiệm thích thú, trong con đường di sản của riêng mình
Thầy tôi Norman Borlaugtrao đổi với tôi thật nhiều câu chuyệnThomas Jefferson (1743 – 1826) là Nhà tư tưởng sáng lập nước Mỹ, với Lewis & Clark cuộc thám hiểm miền Tây nước Mỹ. Đó là một ví dụ điển hình về tầm nhìn và dự án khoa học thành công. Con đường di sảnLewis và Clark lắng đọng trong tôi thật sâu Chuyện bây giờ mới kể … Cuộc thám hiểm của Lewis và Clark đã được khởi sự vào ngày 14 tháng 5 năm 1804 và kết thúc cuối năm 1806. Đây là cuộc thám hiểm trên bộ đầu tiên của người Mỹ đến những tiểu bang duyên hải cận tây nhất của nước Mỹ và ngược lại. Miền Tây nước Mỹ là vùng đất nhiều thổ dân da đỏ sinh sống khoảng 10 ngàn năm trước đó, và thuở ấy miền Tây nước Mỹ có sự hiện diện của những cư dân mới là người thám hiểm và định cư thuộc các nước Tây Ban Nha, Anh, México, Nga và Mỹ. Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson đã kiến nghị Quốc hội Mỹ phê chuẩn đầu tư cho chuyến khảo sát đường bộ của cuộc thám hiểm của Lewis và Clark cùng cộng sự. Trong một lá thư đề ngày 20 tháng 6 năm 1803, Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson đã viết cho Lewis. “Mục tiêu sứ mạng của anh là thám hiểm Sông Missouri và dòng suối chính của nó qua dòng chảy và sự liên thông của nó với các bộ phận nước khác của Thái Bình Dương để xem Sông Columbia, Xứ Oregon, Colorado hay bất cứ con sông nào có thể cung cấp một sự liên thông mặt nước thực tiễn và trực tiếp nhất ngang qua lục địa này để giúp cho những mục đích thương mại“.
Thầy tôi trong buổi trò chuyện của mình đã khoanh vào các chỉ dấu Thomas JeffersonLewis & Clark thành những điểm chính nhấn mạnh cho các lời diễn đạt của mình
Trong chuyến khảo sát CIANO, OREGON của Miền Tây Mexico và nước Mỹ năm 1989 sau 186 năm từ chuyến thám hiểm miền Tây nước Mỹ của Lewis & Clark và cộng sự, tôi nhớ đinh ninh lời Thầy dặn, thật ấn tượng và thấm thía khi viết bài thơ cảm khái:
ĐI KHẮP QUÊ NGƯỜI ĐỂ HIỂU ĐẤT QUÊ HƯƠNG
Tạm biệt Oregon ! Tạm biệt Obregon California ! Cánh bay đưa ta về CIMMYT Bầu trời xanh bát ngát Lững lờ mây trắng bay Những ngọn núi cao nhấp nhô Những dòng sông dài uốn khúc Hồ lớn Ciudad Obregon ba tỷ khối nước
Nở xòe như chùm pháo bông Những cánh đồng mênh mông Thành trăm hình thù dưới làn mây bạc Con đường dài đưa ta đi Suốt dọc từ Nam chí Bắc Thành sợi chỉ màu chạy mút tầm xa…
Ơi vòm trời xanh bao la Gọi lòng ta nhớ về Tổ Quốc Ôi Việt Nam, Việt Nam Một vùng nhớ trong lòng ta tỉnh thức Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương.
Hoàng Kim
Sáu tháng ở CIMMYT với tôi là một câu chuyện ám ảnh. Tôi như cậu bé chăn cừu mà Paulo Coelho kể trong kiệt tác của tâm hồn Nhà Giả Kim (O Alquimista) mà tôi đã viết ở Ngọc lục bảo Paulo Coelho, cũng giống như cô bé Quách Tương tại tiểu thuyết ‘Thần điêu đại hiệp’ của Kim Dung đi vào thế giới bí ẩn của riêng mình với khát khao tìm kiếm
Thầy Norman Borlaug là nhà khoa học xanh sống nhân đạo, và nêu gương tốt. Thầy là nhà nông học Mỹ cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và Tổng thống Mỹ trao tặng huân chương cao quý nhất của nước Mỹ, thế giới tôn vinh là nhà bác học số một của nhân loại trong cuộc chiến chống nghèo đói. Thầy đã suốt đời nghiên cứu giảng dạy về chọn tạo và phát triển cây lương thực, góp phần cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập cho hàng trăm triệu nông dân nghèo ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Thầy là người sáng lập Giải thưởng Lương thực Thế giới và tổ chức nhiều hoạt động thiết thực thắp sáng niềm tin yêu cuộc sống.Câu chuyện về Người tôi đã kể vắn tắt tại Norman Borlaug di sản, niềm tin và nổ lực
Tôi được Thầy ghé thăm gần trọn buổi chiều tại phòng riêng ở CIMMYT, Mexico ngày 29.8.1988. Thầy đã một mình ghé thăm người trò nhỏ duy nhất của châu Á trong lớp học “Quản lý Trung tâm Trạm trại Nông nghiệp”. Khi Thầy đến, tôi đang thắp nến trên giá sách trong phòng đề tưởng nhớ ngày cha mất. Biết cha tôi bị bom Mỹ giết hại tại làng nhỏ ở Quảng Bình của buổi chiều này hai mươi năm trước (1968) lúc tôi còn là học sinh trung học của Trường cấp Ba Bắc Quảng Trạch, Thầy bối rối xin lỗi và thật bất ngờ tôi đã có được một buổi chiều vô giá riêng tư bên Thầy.
Người Thầy của tôi đã chọn chỉ cho tôi chỉ dấu Thomas Jefferson đã viết tự truyện của riêng mình để nói ít nhất trong lịch sử nước Mỹ nhưng để lại di sản lớn bằng cách chọn nhấn mạnh các mục từ khi bắt đầu và kết thúc sự nghiệp công cộng lâu dài của mình.
Lời Thầy dặn thật thấm thía: “ Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm tiếng để đời”.
Tôi nghĩ ngợi nhiều về miền Tây của Mexico và nước Mỹ xưa và nay. Ở đó cũng có những cây xương rồng và những vùng đất cằn cỗi.
Miền Tây của Mexico, CIANO và vùng OREGON của Miền Tây nước Mỹ cũng đồi núi trập trùng hệt Việt Nam và biên độ nóng bức và giá lạnh thật lớn, dân cư thưa thớt với nhiều người dân bản địa.
Chúng tôi đến CIANO và đi dọc miền Tây mà không đi ngang nước Mỹ như Cuộc thám hiểm của Lewis và Clark. CIANO là địa chỉ xanh tuyệt vời để tôi hiểu thế nào là một trạm trại nông nghiệp thực sự.
Khu văn phòng của trại thực nghiệm CIANO không lớn nhưng thực sự tiện nghi và hiệu quả và đồng ruộng nghiên cứu thí nghiệm thì được đầu tư và quản lý thật tuyệt vời.
Cánh đồng lúa mì thí nghiệm thực nghiệm tại CIANO thực sự cuốn hút. Đoàn chúng tôi ngày đi tham quan học tập. Buổi chiều sau khi ăn tối tôi lại mê mãi ghi chép,đọc và viết. Bài học mà thầy Norman Borlaug chỉ dấu với tôi về Cuộc thám hiểm của Lewis và Clark thật thú vị.
Chuyến khảo sát của Lewis và Clark trong hai năm rưỡi đã đạt được thành tựu:
Hoa Kỳ hiểu biết rộng thêm về địa lý của phía miền tây nước Mỹ trong hình thức các bản đồ về các con sông và dãy núi chính.
Quan sát và mô tả 178 loài thực vật và 122 loài động vật (qua Danh sách của loài thực động vật được mô tả qua chuyến thám hiểm Lewis và Clark)
Khuyến khích giao thương da thú Âu-Mỹ tại miền Tây
Mở rộng quan hệ ngoại giao Âu-Mỹ với người bản thổ Mỹ
Thiết lập một tiền lệ cho việc thám hiểm miền Tây của Quân đội Hoa Kỳ
Củng cố tuyên bố chủ quyền của Hoa Kỳ đối với Lãnh thổ Oregon
Tập trung sự chú ý của truyền thông và của Hoa Kỳ vào miền Tây
Nhật ký của Lewis và Clark với các trang viết về họ đã hình thành một bộ văn chương lớn nói về miền Tây.
Tìm hiểu đất nước và con người Mexico, chúng ta tìm về bốn câu hỏi là bốn yếu tố chính: Đất nước (đất đai và thức ăn); Con người (tộc người, ngôn ngữ, văn hóa); Môi trường sống (khí hậu, danh thắng, vấn đề chung); Chế độ và Kinh tế hiện trạng. “Đất nước Mexico ấn tượng lắng đọng” là phần hai của bài viết “Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương” tiếp theo phần một “Con đường di sản Lewis và Clark“. Hợp chúng quốc Mê-hi-cô gọi tắt Mexico là một nước cộng hòa liên bang ở Bắc Mỹ có diện tích gần 2 triệu km², xếp thứ 14 trên thế giới và dân số khoảng 123,16 triệu người, xếp thứ 12 trên thế giới, so Việt Nam dân số khoảng 95,26 triệu người, xếp thứ 15, số liệu ước lượng tháng 7 năm 2016 theo The World Factbook. México là nước nói tiếng Tây Ban Nha nhiều nhất ở châu Mỹ và Thế giới. Đất nước này bị đô hộ bởi thực dân Tây Ban Nha từ thế kỷ thứ 16 và được công nhận là một quốc gia độc lập chính thức năm 1821. Mexico có 31 bang và thành phố thủ đô Mê-hi-cô thuộc liên bang là một trong những khu đô thị đông dân nhất thế giới.
México có tên gọi bắt nguồn từ tên kinh đô cổ của dân tộc Mexica, nền văn minh Aztec trong lịch sử. Theo kinh thư Mendoza là một cuốn sách kể về lịch sử của người Aztec và ngày nay xuất hiện trên quốc kỳ và quốc huy của México, có một vị thần đã chỉ cho người dân của bộ tộc này địa điểm xây dựng kinh đô tại nơi có một con đại bàng mang trong miệng một con rắn và đậu xuống cành cây xương rồng ở địa điểm gần hồ Texcoco. Nơi đây sau đó, người Aztec đã xây dựng nên một thành phố rộng lớn, đó là Trung tâm lịch sử của thành phố México ngày nay (hình trên), di sản thế giới được UNESCO công nhận năm 1987. Ngôn ngữ chính thức của México là tiếng Tây Ban Nha và 62 ngôn ngữ bản địa được quyền bình đẳng theo hiến pháp. Tại Mexico có số lượng người nói tiếng Tây Ban Nha cao nhất thế giới. Mexico xếp vào châu Mỹ latinh dù Mexico ở Bắc Mỹ, lý do chủ yếu bởi yếu tố ngôn ngữ, văn hóa, tộc người, và lịch sử. Nếu như tiếng Anh là ngôn ngữ chính ở nước Mỹ, tiếng Bồ Đào Nha là ngôn ngữ chính ở Brazil , tiếng Pháp và tiếng Anh là ngôn ngữ chính ở Canada thì ở hầu hết các nước Nam Mỹ và vùng Caribe đều sử dụng tiếng Tây Ban Nha làm ngôn ngữ chính. Nói cách khác, tiếng Tây Ban Nha là thông dụng nhất của phần lớn các nước châu Mỹ Latinh. Tại Mexico, tôn giáo chính là Công giáo Roma chiếm khoảng 87,9% theo điều tra nhân khẩu năm 2000, mặc dù số lượng người đi lễ nhà thờ hàng tuần chỉ khoảng 46%; người dân México theo đạo Tin lành ít hơn với khoảng 5,2%, số còn lại theo một số tôn giáo khác.
Đất nước México là nơi ra đời hai nền văn minh lớn của châu Mỹ là Aztec và Maya. Mexico có thiên nhiên đa dạng và nền văn hóa đa sắc tộc, có lẽ đặc sắc nhất châu Mỹ của sự giao thoa nhiều nền văn hóa mà chủ đạo là nền văn hóa bản địa truyền thống đã biến đổi với nền văn hóa Tây Ban Nha đã Mỹ Latinh hóa. Sự pha trộn với khối văn hóa Mỹ Anh , Brazil Bồ Đào Nha, Canada Pháp ngữ đã làm cho México là ột quốc gia là một quốc gia đa chủng tộc sử dụng như ngôn ngữ ở đất nước Thuy Sĩ mà người dân ở đó có thể hiểu dễ dàng ba đến bốn thứ tiếng. Nhóm sắc tộc chiếm tỉ lệ cao nhất tại México là người lai giữa người da trắng và người da đỏ ước tính từ 60-75%. Nhóm sắc tộc chiếm tỉ lệ 12 – 30% dân số là người da đỏ bản địa. Nhóm sắc tộc chiếm tỉ lệ 9 – 25 % là người da trắng đến từ Tây Ban Nha, Mỹ, Canada, Pháp, Ý, Bồ Đào Nha, Đức, Ba Lan, Nga,…, người da vàng đến từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Philippines, Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ … và người da đen đến từ châu Phi với tỷ lệ ít hơn.
Đất nước México địa hình chủ yếu là đồi núi và hệ thống khí hậu quá đa dạng, nên việc đầu tư sản xuất thâm canh quy mô lớn ở México khó hơn nhiều so với nước Mỹ, Canada và Nam Mỹ. Người México bản địa bữa ăn truyền thống chủ yếu ngô làm lương thực chính, kết hợp với các loài rau đậu, ớt, cà chua, lúa mì. México là nơi ra đời có nhiều loại bánh ngô có nhân thịt hoặc trộn rau, bánh ngô phomat, bánh ngô cay, thực phẩm đồ uống phổ biến là sữa ngô và rượu tequila được chế từ lá cây Agave Azul Tequilana, một loài thực vật bản địa ở Mexico, có độ cồn từ 38–40%, cá biệt có loại có độ cồn lên tới 43–46%. Ngày nay việc sử dụng gạo cũng rất phổ biến tai México để làm lương thực, ngoài ra còn có thịt bò, thịt lợn, thịt gà, rượu nho, tỏi, đu đủ, dứa, ớt cay, khoai lang, đậu, lạc, chocolate …Con người mang ẩm thực quê hương mình đi khắp hành tinh nên một đất nước đa sắc tộc như Mexico có nền ẩm thực rất đa dạng. México cũng có thị trường âm nhạc lớn nhất châu Mỹ Latinh và xuất khẩu âm nhạc rộng khắp Trung Mỹ, Nam Mỹ, châu Âu (đặc biệt là Tây Ban Nha) và nhiều nước trên thế giới .
México hiện nay là nền kinh tế lớn thứ 11 trên thế giới và có thu nhập bình quân đầu người thuộc nhóm trung bình cao. Kinh tế México có mối liên hệ chặt chẽ với Canada và Mỹ nhờ Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ. México là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế khác như Liên Hiệp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới và có vai trò quan trọng trong khu vực Mỹ Latinh, là nước Mỹ Latinh duy nhất nằm trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế. Vấn nạn chủ yếu của México là sự phân hóa giàu nghèo, tỷ lệ nghèo đói cao, bất bình đẳng thu nhập, tình trạng bạo lực, buôn bán ma túy phổ biến tại nhiều vùng, sự khủng hoảng trong quan hệ ngoại giao giữa México với các nước tham gia khai thác tài nguyên tại đây, sự di cư rất cao từ nước Mexico sang Mỹ vì chênh lệch nhiều về đời sống.
Danh sách di sản thế giới tại Mexico có tổng cộng 34 di sản được UNESCO công nhận, trong đó có 27 di sản văn hóa, 6 di sản tự nhiên và 1 di sản hỗn hợp.
Chùm ảnh dưới đây là những là một thoáng Mexico nhớ lại và suy ngẫm.
Ấn tượng hơn cả là Teotihuacan thành phố thời tiền Colombo, di sản thế giới 1987, ở México.
Monte Alban kim tự tháp cổ trung tâm của nền văn minh Zapotec, di sản thế giới năm 1987 ở tiểu bang Oaxaca phía nam Mexico.
ĐỐI THOẠI NỀN VĂN HÓA Hoàng Kim
Cảm ơn tác giả Nguyễn Thị Bích Hậu và sự chia sẻ của Vien Tran, một bài nghiên cứu văn hóa giáo dục và phân tích nghiêm túc. Xã hội cần những hiền tài trong chấn hưng đất nước, nhưng cần thực sự hiểu biết chọn lọc tinh hoa và sự thích hợp, thổi vào những môn học cấp bách, cần thiết , tẻ nhạt với ước vọng và niềm đam mê,
“Hơn nữa việc truyền cảm hứng từ thành tích của một kỳ thi học thuật thì nó cũng hạn chế trong cộng đồng các tín đồ của môn đó thôi vì có phải ai cũng yêu Toán hay Lý, Hóa, Sinh gì đâu. Nhưng thành tựu thể thao hay nghệ thuật thì lại được vinh danh ác liệt. Là vì những môn này phổ biến ai chả thích nên họ quan tâm. Và các ngôi sao thể thao hay nghệ thuật có thể hành nghề ngay từ rất sớm và mau chóng lên đài vinh quang của nghề đó nếu có tài và đủ sự khổ luyện. Và hơn nữa những tài năng này thường mau chóng bị đào thải do các điều kiện cần và đủ ở nhiều môn chính là trẻ và khỏe. Nhưng dù như vậy, các tài năng Toán học hay bất cứ môn khoa học nào tại Mỹ sau này rất giỏi và họ sẽ trở thành các nhà khoa học, các nhà phát minh sáng chế tuyệt vời cho thế giới. Đó là vì họ thực sự yêu thích và hơn cả yêu thích là đam mê cháy bỏng môn mà họ theo đuổi. Họ cũng biết rằng vinh quang của khoa học cần phải trả giá bằng sự nghiêm túc tìm tòi, khám phá, học hỏi nhiều năm. Họ không phải là gà chọi mà là tinh hoa của nước Mỹ. Đào tạo tài năng kiểu gà chọi chỉ có ích cho việc tự sướng, còn sau này sẽ làm thui chột tài năng và thậm chí tạo ra những con người sống dở chết dở vì bị thổi phồng quá mức từ khi còn nhỏ và mắc kẹt trong cái bẫy của danh vọng hão huyền”. (Nguyễn Thị Bích Hậu) .
Cái kết thật hợp lý ! Xin phép được chia sẻ. Tôi may mắn được trãi nghiệm CHÂU MỸ CHUYỆN KHÔNG QUÊN và đã được KHAI TRÍ bằng chính điều này (ảnh) “Đó là vì họ thực sự yêu thích và hơn cả yêu thích là đam mê cháy bỏng môn mà họ theo đuổi. Họ cũng biết rằng vinh quang của khoa học cần phải trả giá bằng sự nghiêm túc tìm tòi, khám phá, học hỏi nhiều năm.” (Nguyễn Thị Bích Hậu). “Mục đích sau cùng của DẠY VÀ HỌC là thấu hiểu bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc.”Học để làm (Learning by Doing/ Learning to Doing). Học để sử dụng được thành thạo chuyên nghiệp sở học thành hữu dụng, hữu ích cho nhân dân đất nước mình và chính bản thân mình”. (Hoàng Kim).
Tài liệu dẫn
Đào tạo tài năng kiểu gà chọi sẽ làm thui chột tài năng Nguyễn Thị Bích Hậu
Đào tạo tài năng kiểu gà chọi chỉ có ích cho việc tự sướng, còn sau này sẽ làm thui chột tài năng và thậm chí tạo ra những con người sống dở chết dở vì bị thổi phồng quá mức từ khi còn nhỏ và mắc kẹt trong cái bẫy của danh vọng hão huyền.
Trong khi Việt Nam ( hạng 17 toàn đoàn) rầm rộ trên báo chí đăng tin hàng loạt về thành tích của đội tuyển Olympic Toán thì đội tuyển Mỹ ( hạng 3 toàn đoàn năm nay) chả có 1 dòng nào trên báo và cũng chả có hình ảnh gì luôn. Mà có hạng 1 thì cũng vậy nốt.
Leo lên Gúc gồ tìm thì thấy năm nào vinh dự lắm, đứng hạng 1 toàn đoàn thì đội tuyển Mỹ được một bài nhỏ tí kèm ảnh trên website của Hội Toán học Mỹ và may ra thêm 1 bài trên website của trường Carnegie Mellon là mừng hú.
Còn không thì chìm nghỉm. Mặc dù Mỹ nhiều năm nay hạng toàn đoàn đứng 1 ,2,3 và cùng lắm là 4. Đi thi chỉ có 6 bạn thì 5 bạn lãnh huy chương vàng còn 1 thì huy chương bạc, đại khái vậy.
Ra đường hỏi dân hay học sinh coi học sinh Mỹ nào lãnh huy chương vàng Toán hay bất cứ môn nào khác năm nay thì coi chừng toi đặc. Vì đảm bảo là hỏng ai bít là chính. Vì báo chí không đưa tin và thật sự trừ một ít người quan tâm thì tìm hiểu tí, còn lại chả ma nào quan tâm.
Thay vào đó chỉ cần hỏi tên cầu thủ bóng chày, bóng bầu dục hay bóng rổ hay ca sĩ trẻ nào lãnh thành tích cao nhất năm nay thì sẽ có cả núi người nói ro ro.
Mà nhìn vào đội tuyển Toán của Mỹ đi thi Olympic quốc tế dưới đây ( năm 2019, 2018 và 2015) có thể thấy giống như đội tuyển nước Á châu nào đó. Bởi toàn là mặt Á châu. Thực ra đều là người gốc Á quốc tịch Mỹ là chính, và chủ yếu là gốc Tàu và gốc Ấn rất giỏi và thông minh.
Cũng có 1 huấn luyện viên là phó giáo sư tại đại học Carnegie Mellon. Mà ông này dựa theo tên thì gốc Sing và xa xôi hơn nữa thì chắc là gốc Tàu qua Sing ở mà gia đình đã ở Mỹ và có quốc tịch Mỹ từ nhỏ. Po-Shen Loh là tên ổng ( trong hình). Ông này từng đoạt Huy chương Bạc Olympic Toán năm 1999. Yêu Toán và tốt nghiệp hạng xuất sắc tại CalTech danh giá, sau đó là nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Princeton rồi qua dạy tại Carnegie Mellon.
Cách chọn học sinh vào đội tuyển đại khái là dễ ẹc. Học sinh Mỹ muốn tham gia các kỳ thi toán giỏi ( hay bất cứ kỳ thi học sinh giỏi môn gì) thì cứ việc đăng ký với Hiệp hội quốc gia Mỹ của môn đó cũng là nhà tổ chức qua mạng và tìm coi nơi nào thi gần nhà mình nhất thì phi tới, nạp vài chục usd lệ phí là xong.
Thi hết vòng này qua vòng khác thoải mái, miễn đậu thì vào vòng trong. Không có đội tuyển đội tiếc gì và chả có ma nào luyện chưởng. Ông nào thích thì bò ra mà học toán. Nếu cần thì đăng ký tham gia vào các chương trình sinh hoạt của cộng đồng yêu Toán của Hội Toán học Mỹ, đại loại nạp phí hội viên thì sẽ đi sinh hoạt chung hay hội thảo, và nhận các tài liệu chuyên về Toán để ngâm cú và tán dóc với nhau về Toán.
Khi nào thi vào vòng cuối thì sẽ chọn ra tùy năm chừng vài chục bạn có thành tích cao nhất tham dự trại hè MAA’s Mathematical Olympiad Summer của Hội Toán học Mỹ vào tháng 6 hàng năm. Đại loại để cho nó có tính quốc tế thì thường có 70 học sinh tham gia, trong đó ngoài học sinh Mỹ thì mời cả học sinh giỏi Toán của 10 nước khác tới. Các bạn này sẽ cùng nhau ăn chơi nhảy múa trong cái trại đó kèm theo học và giải Toán rồi trao đổi và tranh luận, thi thố cho vui. Trại hè mà. Như vậy thì học sinh vừa được học vừa được chơi vừa được học hỏi từ các bạn giỏi Toán nhất nước Mỹ và thế giới. Trại này cũng thường chỉ diễn ra 2-3 tuần thôi. Tiền bạc thì không mất vì được tài trợ.
Rồi hết trại hè chọn ra chừng 6 bạn đi thi. Túm lại 6 bạn này sẽ là những người giỏi nhất. Mà tiêu chí của giỏi nhất ở đây không phải là gà chọi đã được vỗ nhiều năm và tung vào sới chọi chết thôi như kiểu ta. 6 bạn này là những người thông minh và đam mê Toán nhất. Do chủ yếu là tự học nên sức bật và khả năng tự khám phá, tự ngâm cú của các bạn này là cực kỳ cao cường. Thành ra năm nào đi thi chủ yếu là gặt huy chương vàng, buồn buồn lãnh thêm 1 cái huy chương bạc.
Vậy mà về nước ngoài gia đình cha mẹ và 1 ít người thân quen thì chả ma nào đón rước. Và cũng chả báo chí nào thèm tới quay phim chụp hình lăng xê gì ráo. Mà các cháu này cũng không thấy buồn bã gì vì thi Olympic thì cũng chỉ là 1 kỳ thi năng khiếu thôi có gì ghê gớm đâu. Muốn là nhà toán học hay nhà khoa học gì đó còn phải lao động cật lực vài chục năm nữa.Trường trung học của Vịt Bầu và Chim Sẻ nhà mình ở Mỹ có 1 đội tuyển thể thao năm nào cũng hạng 1 toàn Mỹ. Khi mà vô địch xong thì cả trường dàn quân ra từ trong ra tận cổng hân hoan chào đón, phụ huynh nở mày nở mặt sướng lắm. Nhưng mà học sinh nào thi đậu các giải Toán Lý Hóa gì đó thì may ra được đưa lên FB của trường là vinh dự lắm rồi.
Vì sao vậy? Vì Mỹ họ quan niệm rằng thành tựu của học thuật thật ra chỉ có thể vinh danh sau nhiều năm miệt mài khám phá, nghiên cứu, sáng tạo. Đại khái như là giải Nobel. Còn nếu chỉ dừng lại tại 1 kỳ thi quốc tế kể cả danh giá như Olympic thì cũng chỉ là bước khởi đầu. Hơn nữa việc truyền cảm hứng từ thành tích của một kỳ thi học thuật thì nó cũng hạn chế trong cộng đồng các tín đồ của môn đó thôi vì có phải ai cũng yêu Toán hay Lý, Hóa, Sinh gì đâu.
Nhưng thành tựu thể thao hay nghệ thuật thì lại được vinh danh ác liệt. Là vì những môn này phổ biến ai chả thích nên họ quan tâm. Và các ngôi sao thể thao hay nghệ thuật có thể hành nghề ngay từ rất sớm và mau chóng lên đài vinh quang của nghề đó nếu có tài và đủ sự khổ luyện. Và hơn nữa những tài năng này thường mau chóng bị đào thải do các điều kiện cần và đủ ở nhiều môn chính là trẻ và khỏe.
Nhưng dù như vậy, các tài năng Toán học hay bất cứ môn khoa học nào tại Mỹ sau này rất giỏi và họ sẽ trở thành các nhà khoa học, các nhà phát minh sáng chế tuyệt vời cho thế giới. Đó là vì họ thực sự yêu thích và hơn cả yêu thích là đam mê cháy bỏng môn mà họ theo đuổi. Họ cũng biết rằng vinh quang của khoa học cần phải trả giá bằng sự nghiêm túc tìm tòi, khám phá, học hỏi nhiều năm. Họ không phải là gà chọi mà là tinh hoa của nước Mỹ.
Đào tạo tài năng kiểu gà chọi chỉ có ích cho việc tự sướng, còn sau này sẽ làm thui chột tài năng và thậm chí tạo ra những con người sống dở chết dở vì bị thổi phồng quá mức từ khi còn nhỏ và mắc kẹt trong cái bẫy của danh vọng hão huyền.
Nguyễn Thị Bích Hậu — với Trúc Mai và 19 người khác.
ĐỐI THOẠI NỀN VĂN HÓA Hoàng Kim
Bài học cuộc sống quý giá là sự thấu hiểu và đối thọại giữa các nền văn hóa. Văn hóa là những gì lắng đọng khi ta đã quên đi tất cả. Tôi kể về một lớp học đã theo tôi suốt bao năm. Lớp học đa sắc tộc. Triết luận Goethe, Jefferson, Borlaug và Hemingway lắng đọng thật sâu sắc trong lòng tôi. Sử thi “Faust” kiệt tác văn chương thế giới của Goeth lưu dấu di sản khoa học nhân văn ở nhiều nơi trên thế giới. Thomas Jefferson, tác giả của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ, của Đạo Luật Virginia về Tự Do Tôn Giáo và Người Cha của Đại Học Virginia’ đủ đọng mật cho một thế giới biến chuyển. Norman Borlaug nhà khoa học xanh ‘cứu sống nhiều người hơn bất cứ ai khác trong lịch sử’. Hemingway “Ông già và biển cả” là bài học tự do niềm vui sáng tạo giúp ta trở về với Ngày xuân đọc Trạng Trình; Trúc Lâm Trần Nhân Tông; Nguyễn Du trăng huyền thoại; Tô Đông Pha Tây Hồ
“Đối thoại nền văn hóa’ là phần ba, tiếp theo phần một “Con đường di sản LewisClark“; phần hai “Mexico ấn tượng lắng đọng” của bài viết “Đi như một dòng sông” và Châu Mỹ chuyện không quên. Từ cậu bé chân đất Làng Minh Lệ đi ra thế giới, tôi nhớ không quên lời dạy đầu đời của cha tôi, người bị bom Mỹ giết ngày 29 tháng 8 âm lịch năm 1968, “Con Kim. Cu khi mô cũng nhớ con cả. Con học với Thầy phải biết kính thầy, lễ phép để cho thầy thương, chơi với bạn phải biết nhường bạn để cho bạn mến, làm việc gì cũng phải biết tự ý cẩn thận lời nói và việc làm, không bị người ta xui (dại). Bốn ý đó con phải nhớ nha con. Khai tâm là lời cha mẹ thầy anh chị thuở đầu đời nhưng khai trí lại học được ở trường đời “Đi như một dòng sông” mà thu hoạch được nhiều nhất chính ở bến sông này Châu Mỹ chuyện không quên mà tôi đã đúc kết được trên 36 đường link “Đối thoại nền văn hóa cho tự học của chính mình và hiến tặng bạn đọc.
ĐỐI THOẠI VĂN HÓA LỚP HỌC
Tiến sĩ Hannibal Multar, người Do Thái quê gốc Jerusalem, nay định cư ở Mỹ, Trưởng Chương trình Đào tạo của CIMMYT, thầy giáo chủ nhiệm lớp chúng tôi, trong bữa cơm chiêu đãi đầu tiên tại thủ đô Mexico thành phố di sản thế giới 1987, ngay câu đầu tiên sau khi giới thiệu về mình, đã quay sang hỏi tôi: Kim ‘bạn tôi”. Lớp mình đủ năm châu. Bạn là người Việt Nam duy nhất của châu Á tại đây. Làm ơn hãy cho tôi biết, bạn muốn học gì ? Tôi bình tĩnh và lém lĩnh trả lời: “Chào thầy và các bạn.Tôi muốn ‘học ăn, học nói, học gói, học mở’ như câu tục ngữ Việt Nam quê tôi. Trước hết, tôi muốn thân thiết học và hành với thầy bạn để thấu hiểu và đối thoại giữa các nền văn hóa. Thứ hai, tôi muốn trau dồi tiếng Anh vì đây là cơ hội tuyệt vời cho tôi để nghe, đọc, viết và nói tiếng Anh hàng ngày. Thứ ba, tôi muốn học cách quản lý Trung tâm Trạm trại Nông nghiệp chuyên cây trồng như CIMMYT, học cách chọn giống ngô và kỹ thuật thâm canh ngô thích hợp bền vững, cách làm cho người dân Việt Nam trồng ngô đạt năng suất cao, thu nhập và đời sống tốt hơn”. Thầy bạn cùng cười: “Nói hay lắm!”.
Sau này khi về Việt Nam, tôi có giữ lưu bút thầy bạn trong đó có thư này của thầy Hannibal Multar. Nội dung bức thư như sau: “Kim “bạn của tôi”. Tôi chỉ muốn nói một vài từ để bày tỏ sự đánh giá chân thành và niềm vui của tôi khi gặp bạn. Tôi cũng tự hào khi biết bạn trong vòng năm, sáu tháng này. Gia đình bạn đang nhớ bạn nhưng chúng tôi đã được rất nhiều bởi sự hiện diện của bạn với chúng tôi ở đây. Bạn gọi tôi là giáo sư bởi vì tôi đã dạy bạn về cách quản lý trạm trại nông nghiệp, nhưng thực ra tôi đã học được từ bạn rất nhiều. Tôi thấy bạn nổ lực và kiên trì học ngôn ngữ. Tôi đã nhìn thấy tác phẩm nghệ thuật đẹp và thơ của bạn. Sự thành thạo chuyên môn mà bạn phải đối mặt với nhiệm vụ của mình ở đây là một thành viên trong đội ngũ tuyệt vời. Tôi sẽ luôn nhớ bạn, bạn của tôi. Hãy giữ liên lạc và cho tôi biết nếu tôi có thể giúp đỡ bằng bất kỳ cách nào. Gửi lời chào thân thiết của tôi đến gia đình tốt của bạn. Bạn thân. Hannibal Multar.
(To Kim “my friend”. I just want to say a few word to express to my sincere appreciation and joy for having met you. I am also proud to have known you over these five- six months. Your family have missed you but we gained a lot by your presence with us here. You call me professor because I taught you about station management, but rest assured that I have learned a lot from you. I saw you struggle and persevere in language. I have seen your beautiful art work and also your poetry. The professional adtitude you faced your duties here in being such a gracious team member. I shall alway remember you, my friend. Please keep in touch and let me know if I can be of help in any ways. My best personal regards to your good family. Your friend. Hannibal Multar).
GIẤC MƠ THIÊNG CÙNG GOETHE
Tượng Goethe có ở vườn danh nhân Đại học Tự trị Quốc gia México (Universidad Nacional Autónoma de México, tên viết tắt UNAM) là di sản thế giới năm 2007, trường đại học lớn nhất ở khu vực Mỹ Latinh nằm tại thành phố thủ đô México.Tiến sĩ Hannibal Multar thầy giáo chuyên gia huấn luyện quản lý trung tâm, trạm trại thí nghiệm nông nghiệp CIMMYT hướng dẫn tôi tham quan nơi này cũng như nhiều di sản thế giới khác mà tôi đã kể câu chuyện Mexico ấn tượng lắng đọng
Goethe trong lòng tôi là nhà khoa học xanh sinh học và nhà thơ kể chuyện sử thi hay nhất thế gian. Tôi thuở nhỏ đã ngưỡng mộ Người qua câu thơ do Xuân Diệu dịch: “Mọi lý thuyết đều là màu xám, chỉ có cây đời mãi mãi tươi xanh”.
Lần trước, khi tôi đến Praha, tôi đã gặp Goethe hóa thân thành “nhà phù thủy” là kiệt tác sử thi giữa quảng trường Old Town Square tại lâu đài cổ thành Hradčanské “Praha vàng”, quảng trường Con Ngưa, quảng trường Con Gà (theo cách gọi của sinh viên Việt Tiệp). Lâu đài Praha là lâu đài cổ lớn nhất thế giới theo sách Kỷ lục Guinness, với quảng trường Old Town Square, trung tâm trục lịch sử suốt nghìn năm, những tòa nhà cổ đầy màu sắc, với các nhà thờ Gothic và đồng hồ thiên văn thời trung cổ. Tôi cũng được gặp Goethe trên tượng đá danh nhân trên cầu đi bộ Karl (Tiếng Tiệp gọi là Karlův, người Việt gọi là cầu Tình) nối hai đầu Quảng trường Museum và Můstek bắc trên con sông Vltava đến khu lâu đài cổ. Và sau cùng trong đêm thánh vô cùng tại rừng thiêng cổ tích Kalovi Vary, tôi đã may mắn có giấc mơ thiêng dạo chơi cùng Goethe. Câu chuyện dài này tôi đã kể trong Praha Goethe và lâu đài cổ.
Lần này, khi tôi đến Mexico, số phận lại cho tôi được gặp Goethe hóa thân trong tượng đá “vườn danh nhân” cùng kiệt tác sử thi Teotihuacan thành phố thời tiền Colombo, di sản thế giới 1987 ở México và Monte Alban kim tự tháp cổ trung tâm của nền văn minh Zapotec, di sản thế giới năm 1987 ở tiểu bang Oaxaca phía nam Mexico thì Trường Đại học Tự trị Quốc gia México (Universidad Nacional Autónoma de México, UNAM) cũng là di sản thế giới năm 2007. UNAM được thành lập vào ngày 22 tháng 9 năm 1910 bởi Justo Sierra như là một thay thế cho Hoàng gia và Đại học Giáo hoàng México (thành lập vào ngày 21 tháng 9 năm 1551 bởi sắc lệnh hoàng gia của Karl V của đế quốc La Mã Thần thánh . Goethe giữa những chứng tích của nền văn minh Aztec và Maya “người tiền sử bản địa da đỏ” hóa đá sử thi 8.000 – 10.000 năm tuổi thì tư duy trí tuệ của nhà thông thái thiên tài, nhà thơ văn, nhà khoa học, triết gia, viết kịch và họa sỹ người Đức vẫn lưu dấu niềm tự hào của đất nước ông ở Mexico và nhiều nước ở châu Mỹ xa xôi.
Goethe tuy sinh ra và lớn lên ở Frankfurt am Main, thành phố lớn thứ năm của Đức, và ông đã sống ở Leipzig (thuộc Đức) Strasbourg (thuộc Pháp), nhưng nơi tưởng niệm Goethe tại Tiệp Khắc có ở rất nhiều vùng . Danh tiếng của ông vang dội toàn châu Âu và Thế Giới. Viện Goethe hiện có phân viện tại 13 thành phố ở Đức và 128 thành phố ở nước ngoài, trong đó có nhiều nước châu Mỹ. Đó là một hiện tượng lan tỏa văn hóa hiếm thấy.
Faust hoặc George Faust là một nhân vật có thật, đặc biệt nổi tiếng ở Đức – Tiệp, sống vào khoảng năm 1480 – 1541, là một thầy thuốc, nhà chiêm tinh và “phù thủy” ảo thuật gia xuất chúng người Đức, nhà khoa học tài năng có khả năng biến đá thành vàng. Faust là người khát khao kiến thức, hiểu biết, người yêu tự do, không thích bị câu thúc. Faust đã kết bạn với quỷ để thỏa mãn ước mơ khám phá hiểu biết của mình. Kết cục cái giá của tự do khám phá những bí mật của trời đất, thiêng liêng của thần thánh phải trả bằng tính mạng của mình. Goethe tìm thấy từ hình tượng trong dân gian, một khát vọng vô biên về sức mạnh sáng tạo và chinh phục của con người để tìm ra một triết lý nhân văn soi thấu sự đam mê tự do là cái giá ĐƯỢC MẤT cao hơn mạng sống: “Chỉ những ai biết hăng say lao động, biết nổ lực chinh phục những đỉnh cao chí thiện thì mới xứng đáng được hưởng tự do và tình yêu cuộc sống.
Người hóa thân trong thanh thản bóng cây xanh Người đàm đạo với Norman Borlaug và cậu học trò nghèo Về ý tưởng xanh Con đường xanh Hành trình xanh Sự nghiệp xanh Nhà khoa học xanh và giấc mơ hạnh phúc
Goethe là vòm cây xanh Goethe cũng là lão nông ngồi cùng chúng ta chuyện trò trên cánh đồng xanh hạnh phúc.
Goethe và Norman Borlaug là những trí tuệ bậc Thầy. Họ không màng hư vình mà hướng tới đỉnh cao hòa bình sự an lành tiến bộ.
Anh và em cùng Goethe Ở FAO, Rome, Italy Người hóa thân thành nữ thần Tình Yêu (*)
Trời xanh tuyệt vời ! Trời nhân loại mênh mông !
(*) Hình ảnh Hoàng Kim ở Roma, Italia.
ĐỐI THOẠI VĂN HÓA CHÂU PHI
Bài học cuộc sống quý giá là sự thấu hiểu và đối thọại giữa các nền văn hóa.Đối thoại văn hóa với Châu Phi tôi có tám ghi chép theo thời gian: Nhớ châu Phi; Môhamet và đạo Hồi; Lúa sắn Việt Châu Phi; Thổ Nhĩ Kỳ nông nghiệp sinh thái; Thổ Nhĩ Kỳ với ‘vành đai và con đường’;Việt Nam con đường xanh; Mười hai ngày ở Ghana. Đó là sự tiếp nối kỳ lạ của đời tôi tại châu Phi qua nhiều chuyến đi đến Uganda, Nigeria, Ai Cập, Sông Nin, Thổ Nhĩ Kỳ, Ghana và các địa danh khác. . Các bạn cũ năm xưa tôi gặp ở CIMMYT, CIANO, OREGON, CIAT, CIP sau này có một số bạn tôi may mắn được gặp lại và gắn bó rất lâu khai mở thêm nhiều chuyến đi và kết gắn thêm các bạn mới tạo thành câu chuyện bạn hữu và du lịch sinh thái thú vị lưu lạc trong ký ức thật vui vẻ theo tôi nhiều năm. Tôi định gom điều này trong câu chuyện Nhớ châu Phi là một chủ đề khái quát hơn và kết nối với tám mục trên của châu Phi và bổ sung thêm nhưng cần có thời gian sắp xếp lại: Châu Phi một thoáng nhìn toàn cảnh. Châu Phi bạn nhớ điều gì nhất? Châu Phi chiến lược chuyển đổi sắn. Lúa sắn Việt Nam với châu Phi. Nông nghiệp và du lịch sinh thái. Trên đây chỉ mới là một số chỉ mục ghi chép chính của tôi trước đây về nhớ châu Phi đất nước con người. Tôi cần biên tập xâu chuỗi ký ức vụn các điạ danh và bạn hữu với những ghi nhớ chính. Mục đích của ghi chép này nhằm bảo tồn một số tư liệu thông tin bản thân có thể có ích cho ai đó quan tâm nông nghiệp sinh thái Việt Nam trong sự nhận thức và đối thoại nền văn hóa. Đi để hiểu quê hương đất nước con người, những giá trị cốt lõi văn hóa lịch sử dân tộc tôn giáo trong trãi nghiệm sinh thái nông nghiệp nước bạn giúp khai mở hiểu biết thế giới rộng lớn.
ĐỐI THOẠI VĂN HÓA CHÂU MỸ
Châu Mỹ chuyện không quên Tôi sang châu Mỹ nhiều lần, có trên 36 bài đường links, thỉnh thoảng vui đọc lại và viết thêm ghi chú Đó là một chặng đường trải nghiệm thích thú, trong con đường di sản của riêng mình Đối thoại nền va7n hóa. Đi để hiểu quê hương, Học để làm được điều gì đó.
Châu Mỹ chuyện không quên, tôi đã và đang lưu lại bao điều tâm đắc, Kazuo Kawano, Reinhardt Howeler, Hernan Ceballos, … là những người bạn tuyệt vời của tôi ở CIAT. Tôi học những gương cụ thể của họ nhưng cũng ấn tượng sâu sắc bởi bao gương sáng danh nhân như gương George Washington, Thomas Jefferson; Norman Borlaug, Mark Zuckerberg, Bill Gates học để làm, đối với tôi thật sự thấm thía. Tôi thích học để làm, học vừa làm trí tuệ của họ. Câu châm ngôn hay về “sự đọc” đưa vào trang viết này thật đúng: “ Trong một thế giới có đủ bình tâm, người viết nhỏ hơn người đọc, người đọc nhỏ hơn quyển truyện họ đang đọc, và quyển truyện nhỏ hơn sự đọc.Người viết và người đọc rồi chết, truyện rồi quên.Sự đọc ở lại và làm nên một phần mênh mông trong định nghĩa của việc làm người “.
Em đã yêu và tôi đã yêu Mình nối dài vần thơ có lửa Ta đã là máu thịt trong nhau Khắc khoải niềm thương nỗi nhớ …
Người vợ nhớ chồng hóa đá Vọng Phu Người yêu nhớ người yêu thành hòn Trống Mái Núi Nhạn ngàn năm tháp Nhạn én bay về Đá Bia muôn đời trời xanh chỉ lối.
Yên Tử non thiêng thăm thẳm một tầm nhìn Hải Vân ơi Người ở đừng về mà hóa đá Sông Hương ngập ngừng sông Hương nghẹn chảy Năm tháng qua rồi chỉ tình yêu ở lại mà thôi.
Đợi nắng mùa đông Sưởi ấm tổ ấm Tình Thiên thu Tình yêu cao hơn sinh tử biệt li Tôi đã yêu và em đã yêu Em đã yêu và tôi đã yêu
MÙA THU HÔN TÔI Phan Chi
Mùa thu ôm tôi Chặt hơn một người từng ôm người khác Bàn tay heo may luồn trong man mác Trên từng da thịt thấm đẫm hồn thu
Người tình trăm năm mang bóng dáng mùa Mùa thu hôn tôi Nếp tháng năm hằn buồn theo khoé miệng Đuôi mắt kéo dài hồ thu lúng liếng Đang còn ngọn lửa bỏng cháy trưa hè
Băng giá mùa đông đâu đó chưa về Mùa thu yêu tôi Bằng những cúc vàng không cần rực rỡ Lá níu cành sợ không xanh được nữa Làn sương phảng phất run tiếng chuông chùa
Cuộc tình trăm năm ngất ngây giấc mơ thật đùa Tôi trong mùa thu Người đàn bà yêu như rồi phải chết Mùa của dịu dàng đắm say tha thiết Tôi đã yêu và em đã yêu Em đã yêu và tôi đã yêu.
(*) Tục ngữ Việt Nam (**) Nguyễn Bỉnh Khiêm (***) Lão Tử
Le Anh Duc added 2 new photos. September 15 at 5:32pm ·“Buổi bảo vệ luận văn thạc sĩ với rất nhiều người quan tâm tham dự, có cả 2 chuyên gia người Nhật Bản cũng đến tìm hiểu kết quả nghiên cứu“.
Kim Loan Phan: “Giống khoai Nhật đỏ đã góp phần làm giàu cho người dân Tuy Đức, Đắk Nông thầy ạ” Hoàng Kim Cám ơn em Kim Loan Phan tặng quà Giống khoai lang Nhật đỏ HL518. Khoai Việt từ giống tốt đến thương hiệu, từ Vĩnh Long miền Tây đến Đăk Nông Tây Nguyên đang mang lại nguồn lợi thu nhập và niềm vui cho nhiều hộ gia đình nông dân nghèo. Chúc các em bảo tồn và phát triển giống khoai lang HL518 Nhật đỏ phẩm chất ngon năng suất cao theo bản tả kỹ thuật và phẩm cấp giống gốc đã đăng ký. Noi gương bảo tồn và phát triển Thanh trà Thủy Biều Huế tạo vùng giống khoai ngon Nhật đỏ HL518 Đăk Nông .
Nguyễn Trãi thơ Yên Tử, đề Yên Tử sơn Hoa Yên tự, ảnh Hoàng Kim.
Nguyễn Trãi đã có nhiều tôn vinh nhưng như giáo sư Phan Huy Lê nhận xét
trong bài “Nguyễn Trãi – 560 năm sau vụ án Lệ chi viên“: ”Cho đến
nay, sử học còn mang một món nợ đối với lịch sử, đối với Nguyễn Trãi và
Nguyễn Thị Lộ là chưa khám phá và đưa ra ánh sáng những con người cùng
với những âm mưu và hành động lợi dụng việc từ trần đột ngột của vua Lê
Thái Tông ở Lệ Chi Viên để vu oan giá hoạ dựng nên vụ án kết liễu thảm
khốc cuộc đời của một anh hùng vĩ đại, một nữ sĩ tài hoa, liên luỵ đến
gia đình ba họ. Với tình trạng tư liệu quá ít ỏi lại bị chính sử che
đậy một cách có dụng ý, thì quả thật khó hi vọng tìm ra đủ chứng cứ để
phá vụ án bí hiểm này. Nhưng lịch sử cũng rất công bằng. Với thời gian
và những công trình nghiên cứu của nhiều thế hệ các nhà sử học, nhà văn
học, nhà tư tưởng, nhà văn hoá…, lịch sử càng ngày càng làm sáng rõ và
nâng cao nhận thức về con người và sự nghiệp của Nguyễn Trãi, về những
công lao, cống hiến, những giá trị đích thực của ông trong lịch sử cứu
nước và dựng nước, lịch sử văn hoá của dân tộc”. Dẫu vậy, trong
tất cả những tư liệu lịch sử để lại thì tư liệu sáng giá nhất, rõ rệt
nhất, sâu sắc nhất để minh oan cho Người lại chính là Những kiệt tác
thơ văn Nguyễn Trãi, “Họa phúc có nguồn đâu bổng chốc, Anh hùng để hận
mãi nghìn năm” “Số khó lọt vành âu bởi mệnh.Văn chưa tàn lụi cũng do
trời “. Bài thơ thần “Yên Tử “của Nguyễn Trãi “Non thiêng Yên Tử
đỉnh kỳ phong. Trời mới ban mai đã rạng hồng. Vũ trụ mắt soi ngoài biển
cả. Nói cười lồng lộng giữa không trung…” (thơ Nguyễn Trãi trên
Yên Tử, hình ảnh và cẩn dịch Hoàng Kim). Những kiệt tác thơ văn Nguyễn
Trãi lưu bài “Yên Tử” “Ngôn chí,” “Quan hải”, “Oan than” của Người kèm
cảm nhận “Trời ban tối biết về đâu?” của Vũ Bình Lục.
Nguyễn Trãi là bậc anh hùng dân tộc, nhà chính trị kiệt xuất và danh
nhân văn hóa lỗi lạc của dân tộc Việt, Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai,
người làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc nay là huyện Thường Tín, Hà Nội,
sinh năm 1380 , mất năm 1442,. cha là Nguyễn Phi Khanh, nguyên quán làng
Chi Ngại , huyện Phương So8n (Chí Linh, Hải Dương) mẹ là Trần Thị Thái,
con gái của Trần Nguyên Đán. Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh (tiến sĩ)
năm 1400, cha con đều từng làm quan dưới triều Hồ. Sau khi Việt Nam bị
rơi vào sự cai trị của nhà Minh, Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo. Ông trở thành mưu sĩ bày tính mưu kế
về mọi mặt chính trị, quân sự, ngoại giao của nghĩa quân Lam Sơn. Ông là
khai quốc công thần của nhà Hậu Lê, được ban quốc tính, năm 1428 viết
Bình Ngô đại cáo thiên cổ hùng văn, năm 1433 ông đã viết văn bia Vĩnh
Lăng nổi tiếng khi Lê Lợi mất,.Tuy nhiên, năm 1442, toàn thể gia đình
Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Năm 1464, vua Lê
Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho ông. Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo (Lòng Ức Trai sáng như sao Khuê).
Dưới đây là năm bài thơ trong Những kiệt tác thơ văn Nguyễn Trãi và cảm nhận “Trời ban tối biết về đâu?” của Vũ Bình Lục
Yên Sơn sơn thượng tối cao phong
Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu
Quải thạch châu lưu lạc bán không
Nhân miếu đương niên di tích tại
Bạch hào quang lý đổ trùng đồng.
YÊN TỬ
Đề chùa Hoa Yên, núi Yên Tử Nguyễn Trãi
Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong
Trời mới ban mai đã rạng hồng
Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả
Nói cười lồng lộng giữa không trung
Giáo trúc quanh chùa giăng nghìn mẫu
Cỏ cây chen đá rũ tầng không
Nhân Tông bảo tháp còn lưu dấu
Mắt sáng hào quang tỏa ánh đồng
(Bản dịch của Hoàng Kim)
Trên dải Yên Sơn đỉnh tuyệt vời
Đầu canh năm đã sáng trưng rồi
Mắt ngoài biển cả ôm trời đất
Người giữa mây xanh vẳng nói cười
Giáo ngọc quanh nhà giăng vạn khoảnh
D4i châu treo đá rũ lưng trời
Nhân Tông còn miếu thời nao đó
Thấy rõ đôi ngươi giữa ánh ngời (1)
(1) Tương truyền vua Trần Nhân Tông mắt có hai con ngươi
(Bản dịch của Khương Hữu Dụng)
Trên núi Yên Tử chòm cao nhất
Vừa mới canh năm đã sáng trời
Tầm mắt bao trùm nơi biển tận
Từng mây nghe thoảng tiếng ai cười
Rừng vươn giáo dựng tre nghìn mẫu
Đá rũ rèm buông nhũ nửa vời
Miếu cổ Nhân Tông hằng để dấu
Mắt còn trắng tỏa ánh đôi ngươi.
(Bản dịch của Lê Cao Phan)
Trên non Yên Tử chòm cao nhất,
Trời mới canh năm đã sáng tinh.
Vũ trụ mắt đưa ngoài biển cả,
Nói cười người ở giữa mây xanh.
Muôn hàng giáo ngọc tre gài cửa,
Bao dãi tua châu đá rủ mành.
Dấu cũ Nhân tôn còn vẫn đấy,
Trùng đồng thấy giữa áng quang minh.
(Bản dịch của nhóm Đào Duy Anh)
Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh,
NXB Khoa học xã hội, 1976
Trên non Yên Tử ngọn cao nhất
Chỉ mới canh năm sáng đỏ trời!
Ngoài vũ trụ xanh màu biển thẳm
Giữa mây biếc rộn tiếng người cười.
Cửa cài ngọc dựng, ken nghìn mẫu
Đá rũ châu rơi, rớt nửa vời!
Miếu cổ Nhân Tông di tích đó
Đôi mày sáng trắng rực hai ngươi!
(Bản dịch của Lâm Trung Phú)
NGÔN CHÍ
Am trúc, hiên mai ngày tháng qua
Thị phi nào đến chốn yên hà
Cơm ăn dù có dưa muối
Áo mặc nài chi gấm là
Nước dưỡng cho thanh, trì thưởng nguyệt
Đất cày ngõ ải luống ương hoa
Trong khi hứng động bề đêm tuyết
Ngâm được câu thần dững dưng ca
Tà dương bóng ngả thuở giang lâu
Thế giới đông nên ngọc một bầu
Tuyết sóc treo cây điểm phấn
Cõi đông giãi nguyệt in câu.
Khói chìm thuỷ quốc quyên phẳng
Nhạn triện hư không gió thâu
Thuyền mọn còn chèo chẳng khứng đỗ
Trời ban tối biết về đâu?
Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền Trầm giang thiết tỏa diệt đồ nhiên Phúc chu thủy tín dân do thủy Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên. Họa phúc hữu môi phi nhất nhật Anh hùng [3] di hận kỷ thiên niên. Càn khôn kim cổ vô cùng ý, Khước tại thương lang viễn thụ yên.
Dịch nghĩa : NGẮM BIỂN
Cọc gỗ lớp lớp trồng trước sóng biển
Xích sắt ngầm dưới sông cũng vậy thôi.
Thuyền bị lật mới tin rằng dân là như nước
Cậy đất hiểm cũng khó dựa, mệnh là ở trời.
Họa phúc có manh mối không phải một ngày
Anh hùng để mối hận mấy nghìn năm sau.
Lẽ của trời đất và xưa nay, thực là vô cùng
Vẫn là ở chỗ sắc nước bát ngát, cây khói xa vời
CỬA BIỂN
Lớp lớp cọc ngăn giữa sóng nhồi Thêm ngầm dây sắt – uổng công thôi ! Lật thuyền, thấm thía dân như nước Cậy hiểm, mong manh : mệnh ở trời Hoạ phúc có nguồn, đâu bỗng chốc? Anh hùng để hận, dễ gì nguôi? Xưa nay trời đất vô cùng ý Nơi sóng xanh cây khói tuyệt vời
Phù tục thăng trầm ngũ thập niên ; Cố sơn tuyền thạch phụ tình duyên. Hư danh thực họa thù kham tiếu ; Chúng báng cô trung tuyệt khả liên. Số hữu nan đào tri thị mệnh ; Văn như vị táng dã quan thiên. Ngục trung độc bối [1] không tao nhục ; Kim khuyết hà do đạt thốn tiên ?
Dịch nghĩa THAN NỔI OAN
Nổi chìm trong phù tục đã năm chục năm,
Đành phụ tình duyên với khe và đá của núi cũ.
Danh hư mà họa thực, rất đáng buồn cười ;
Lắm kẻ ghét một mình trung, rất đáng thương hại.
Khó trốn được số mình, biết là vì mệnh ;
Tư văn như chưa bỏ, cũng bởi ở trời.
Trong ngục viết ở lưng tờ, khi không bị nhục ;
Cửa khuyết vàng làm thế nào mà đạt được tờ giấy lên ?
Dịch Thơ: THAN NỔI OAN:
Biển tục thăng trầm nữa cuộc đời
Non xưa suối đá phụ duyên rồi
Trung côi , ghét lắm, bao đau xót
Họa thực, danh hư , khéo tức cười
Số khó lọt vành âu bởi mệnh
Văn chưa tàn lụi cũng do trời
Trong lao độc bối cam mang nhục
Cửa khuyết làm sao tỏ khúc nhôi?
Bản dịch của Thạch Cam
Năm mươi năm thế tục bình bồng
Khe núi lòng cam bội ước chung
Cười nạn hư danh, trò thực họa
Thương phường báng bổ kẻ cô trung
Mạng đà định số, làm sao thoát
Trời chửa mất văn, vẫn được dùng
Lao ngục đau nhìn lưng mảnh giấy
Oan tình khó đạt tới hoàng cung.
Bản dịch của Lê Cao Phan
TRỜI BAN TỐI, BIẾT VỀ ĐÂU?
Vũ Bình Lục
(Về bài thơ NGÔN CHÍ – SỐ13 của Nguyễn Trãi)
Tà dương bóng ngả thuở giang lâu
Thế giới đông nên ngọc một bầu
Tuyết sóc treo cây điểm phấn
Cõi đông giãi nguyệt in câu.
Khói chìm thuỷ quốc quyên phẳng
Nhạn triện hư không gió thâu
Thuyền mọn còn chèo chẳng khứng đỗ
Trời ban tối biết về đâu?
Nguyễn Trãi sống cách chúng ta khoảng sáu trăm năm. Riêng nói về thơ
Nôm, dẫu thất lạc sau thảm hoạ tru di năm 1442, cũng còn được hơn 250
bài. Có thể nói, Nguyễn Trãi đã dựng lên một tượng đài sừng sững bằng
thơ, mà trước hết là thơ viết bằng ngôn ngữ dân tộc-Thơ Nôm. Chùm thơ
“Ngôn chí” có rất nhiều bài hay, đọc kỹ, nghiền ngẫm kỹ mới thấy cái
hay, bởi chữ Nôm cách nay sáu trăm năm, rất nhiều từ nay không còn dùng
nữa, hoặc rất ít dùng. Phải tra cứu một số từ, một số điển tích, mới dần
sáng tỏ một hồn thơ lớn, lớn nhất, trong lịch sử thơ ca Việt Nam!
Đây là bài Ngôn chí số 13, do những người biên soạn sách Tuyển tập thơ văn Nguyễn Trãi sắp xếp.
Hai câu đầu: Tà dương bóng ngả thuở giang lâu
Thế giới đông nên ngọc một bầu
Hai câu thơ đơn thuần chỉ là tả cảnh, đặc tả một buổi chiều, mà gam
màu chủ đạo là màu vàng thẫm rất quen mà huyễn hoặc. Bóng chiều tà đã
ngả, đang quấn lấy một ngôi lầu ở bên sông, hay đang trùm lên ngôi lầu
bên sông một màu vàng thẫm. Nhưng có điều cần lưu ý, đây là ngôi lầu
giành cho đàn bà con gái thuộc tầng lớp quý tộc giàu sang, trong một
không gian rộng lớn và yên tĩnh, rất yên tĩnh. Câu tiếp theo mới thật
diễm lệ: Thế giới đông nên ngọc một bầu. Vậy thế giới đông là gì? Theo
điển dẫn, đông chính là khí tốt, khí thiêng của thế giới, của vũ trụ
đông đặc lại mà thành phong cảnh đẹp như ngọc. Thế đấy! Còn như Bầu,
cũng theo điển sách Đạo gia, kể rằng Trương Thân thường treo một quả bầu
rất lớn, hoá làm trời đất, ở trong cũng có mặt trời mặt trăng, đêm chui
vào đó mà ngủ, gọi là trời bầu, hay bầu trời cũng vậy…Quả là một bức
tranh được vẽ bằng ngôn ngữ, rất xưa, tinh khiết và tráng lệ, dường như
đã đạt đến mức cổ điển!
Đấy là hai câu thất ngôn. Hai câu tiếp theo, lại là lục ngôn, vẫn tiếp tục tả cảnh:
Tuyết sóc treo cây điểm phấn
Cõi đông giải nguyệt in câu.
Tuyết sóc, nghĩa là tuyết ở phương bắc (sóc) chả biết gieo xuống từ
bao giờ, mà còn giăng mắc trên những cành cây như những bông hoa trắng
muốt, như điểm phấn cho cây, trang trí làm đẹp cho cây. Có người bảo
nước ta làm gì có tuyết, chỉ là ước lệ cho đẹp văn chương mà thôi. Nhưng
họ nhầm đấy! Các tỉnh phía Bắc nước ta như Lào Cai, Hà Giang và chắc là
còn một số nơi khác nữa ngày nay vẫn có tuyết, nhiều nữa kia. Vậy thì
sao thơ văn ngày xưa các cụ ta nói đến tuyết, con cháu lại hàm hồ bác
bỏ? Cách đây mấy trăm năm, sao lại không thể không có tuyết mà các cụ
phải đi mượn của người? Phía bắc là tuyết, là hoa tuyết điểm phấn cho
cây, thì Cõi đông giải nguyệt in câu. Phương đông in một giải lụa trăng
vàng óng. Thế là cả một không gian rực rỡ sắc màu. Màu trắng của tuyết
hoa tương ánh cùng màu vàng của ánh nguyệt in bóng nước, của chiều tà
vàng thẫm, tạo một bức tranh vừa rộng vừa sâu, gợi một khoảnh khắc giao
thoa hỗn mang rất nhiều tâm trạng.
Hai câu tiếp theo, vẫn cấu trúc bằng lục ngôn:
Khói chìm thuỷ quốc quyên phẳng
Nhạn triện hư không gió thâu
Bây giờ là sương khói trong chiều muộn. Cúi xuống nhìn dòng nước,
thấy khói chiều in xuống mặt nước trong veo phẳng lặng. Quyên, từ cổ là
mặt nước trong, do đó quyên phẳng nghĩa là mặt nước trong phẳng lặng,
như thể nhìn rõ khói chiều đang chìm dưới đáy nước. Rõ là nước lộn trời,
vàng gieo đáy nước, “Long lanh đáy nước in trời / Thành xây khói biếc,
non phơi bóng vàng”. Có lẽ Nguyễn Du mấy trăm năm sau đã tiếp thu tinh
thần của câu thơ Nguyễn Trãi mà sáng tạo lại trong Truyện Kiều câu thơ
trên, khi mà tiếng Việt đã đạt đến độ nhuần nhuyễn và trang nhã chăng?
Còn trên trời thì đàn chim nhạn đang xếp hình chữ triện mà mỏi mệt bay
về rừng tìm chốn ngủ. Và gió nhẹ, thổi rỗng cả trời…
Cảnh chỉ là điểm xuyết, mà gợi nên bức tranh đủ sắc màu, rất sống
động, và tiếp đó, nó như thể đang chuyển động dần về phía đêm tối, về
phía lụi tàn.
Hai câu cuối, tác giả viết:
Thuyền mọn còn chèo chẳng khứng đỗ
Trời ban tối ước về đâu?
Con thuyền nhỏ nhoi (Thuyền mọn) của Tiên sinh, hay con thuyền của
một vị khách nào đó, vẫn còn đang mải miết chèo trên sông, như chẳng
muốn dừng lại. Trong nhập nhoạng bóng tà, con thuyền mọn như càng nhỏ bé
hơn, chưa muốn, hay chưa tìm được nơi đỗ lại mà nghỉ ngơi, hay bởi vì
Trời ban tối, ước về đâu, biết về đâu? Câu bảy thất ngôn, dàn trải thêm,
biểu hiện sự buông thả, lửng lơ, phân vân… Câu tám bỗng đột ngột thu
lại lục ngôn, như một sự dồn nén tâm sự.
Có bao nhiêu phần trăm sự thực trong bức tranh chiều tà bên sông lộng
lẫy mà buồn? Có lẽ cũng chẳng nên đặt vấn đề cân đong cụ thể, bởi thơ
nhìn chung là sản phẩm sáng tạo của trí tưởng tượng, thực và ảo hoà
trộn đan xen. Hai câu kết của bài thơ xem ra mới thật sự là tâm điểm
của bài thơ. Phải chăng, con thuyền mọn kia, chính là hình ảnh Ức Trai
Tiên sinh, như con thuyền nhỏ bé ấy, đang một mình đi tìm bến đỗ, mà
chưa tìm thấy nơi đâu là bến là bờ? Từ cái ngôn chí này, có thể ước
đoán Ức Trai viết bài thơ này vào thời điểm quân Minh đang đô hộ nước
ta, Ức Trai đang bị giam lỏng ở thành Đông Quan, chưa tìm được minh chủ
mà đem tài giúp nước? Cũng có thể đây là thời điểm Nguyễn Trãi bị thất
sủng, về ở ẩn tại Côn Sơn, trong hoàn cảnh chính sự trong nước đang
rất đen tối, nhất là ở nơi triều chính. Nguyễn Trãi từ tin tưởng, đến
nghi ngờ và thất vọng trước thực tại đau lòng: Biết bao trung thần bị
hãm hại, còn lũ gian thần hiểm ác nổi lên như ong, nhũng lọan cả triều
đình. Làm sao mà không bi quan cho được khi mà Trời ban tối, biết về
đâu?
*
Lên non thiêng Yên Tử, tôi thành tâm đi bộ từ chùa Hoa Yên lúc nửa
đêm để lên thấu đỉnh chùa Đồng lúc ban mai.Nguyễn Trãi bài thơ thần
trên trang sách mở, lồng lộng giữa nền trời bình minh trên đỉnh cao
phong Yên Tử. Tôi chợt tỉnh thức, thấm thía, thấu hiểu sự nhọc nhằn
của đức Nhân Tông hội tụ minh triết Việt. Nguyễn Trãi kiệt tác thơ
văn.”xưa nay trời đất vô cùng ý. Nơi sóng xanh cây khói tuyệt vời”.
‘Dấu chân người lính‘ là tập thơ Hoàng Trung Trực ghi lại kỷ niệm một thời của người lính chấp nhận sự hi sinh thân mình cho độc lập tự do và thống nhất Tổ Quốc.Tập thơ gồm chín bài: 1) Lời nói đầu; 2) Viếng mộ cha mẹ; 3) Nhớ bạn, 4) Mảnh đạn trong người; 5) Bền chí 6) Trò chuyện với thiền sư 7) Trạng Trình; 8) ‘Dấu chân người lính‘ 9) Một số bài thơ khác và các ghi chú. Trang thơ Hoàng Trung Trực gắn liền với sự thân thiết của nhiều đồng đội đã ngã xuống, sự đau đời mảnh đạn trong người và sự mẫu mực thầm lặng, ung dung đời thường của người con trung hiếu sau chiến tranh.
LỜI NÓI ĐẦU
Trãi qua hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc. Tôi vinh dự được sinh ra trong thời điểm của cuộc chiến tranh từ người lính đã trở thành người chỉ huy trưởng thành trong cuộc chiến tranh chống ngoại xâm; đã qua chỉ huy tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn binh chủng hợp thành trong chiến tranh.
Qua năm tháng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, không biết bao nhiêu người lính, người chiến sĩ thân thiết nhất của mình đã nằm lại vĩnh viễn dưới lòng đất để dành độc lập tự do cho Tổ quốc và ch4ng cho chính bản thân mình được vinh dự sống đến ngày hôm nay. Tôi ghi lại những trang nhật ký của đời mình bằng thơ của dấu chân người lính của tôi, trong dấu chân lịch sử dân tộc, để con cháu đời sau đọc và hiểu rõ bản chất người lính đã một thời chấp nhận sự hi sinh thân mình cho độc lập tự do của Tổ quốc.
Nguyễn Du có viết “Lời quê chắp nhặt dông dài. Mua vui cũng được một vài trống canh” Còn thơ của tôi chắp nhặt cuộc đời người lính của mình và của đồng chí, đồng đội đã tham chiến trên các chiến hào của các chiến trường . Mong sao cũng chắp nhặt được vài trang thơ cho đời sau mua vui vài trống canh.
Hoàng Trung Trực sinh ngày 26 tháng 2 năm 1944 tại xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, là đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam thời chống Mỹ,trình độ học vấn : Cao học; Quyết định thăng quân hàm Thượng tá, Đại tá do Thử tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng ký trong chiến tranh Thập niên 1970-1980; Đã qua chỉ huy từ cán bộ Đại đội, Tiểu đoàn, Trung đoàn, Sư đoàn trong chiến tranh và Đặc khu trong hòa bình. Thương binh 2/4, loại A; được tặng 17 Huân chương các loại trong chiến tranh; đã qua các Trường đào tạo: Học Viện Lục Quân Đà Lạt; Học Viện Quân sự Cấp cao Khóa 1; Nghĩ hưu tháng 11/1991. Tôi có vợ là Trần Thị Hương Du làm ở Ngân hàng ( đã nghỉ hưu) với hai con Hoàng Thế Tuấn kỹ sư bách khoa điện tử viễn thông và Hoàng Thế Toàn bác sỹ. Chỗ ở hiện nay: Số nhà 28/8/25 đường Lương Thế Vinh , phường Tân Thới Hòa, quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh. Điện thoại: 02839611907.
Tôi đã từng trãi qua các chiến dịch: giải phóng nước bạn Lào thời gian từ tháng 10 năm 1963 đến tháng 5 năm 1965; Chiến dịch đường 9 Khe Sanh Quảng Trị từ tháng 6 năm 1965 đến tháng 12 năm 1967, Chiến dịch Mậu Thân ở Thừa Thiên Huế từ tháng 1 năm 1968 đến tháng 12 năm 1970: Chiến dịch đường 9 Nam Lào từ tháng 1 năm 1971 đến tháng 4 năm 1971; Chiến dịch Quảng Trị từ tháng 5 năm 1972 đến tháng 11 năm 1973; chuỗi các chiến dịch Phước Long, Chơn Thành, Dầu Tiếng, Xuân Lộc và chiến dịch Hồ Chí Minh từ tháng 12 na7m 1973 đến tháng 4 năm 1974; Các chiến dịch giúp bạn Căm pu chia từ tháng 5 năm 1977 đến tháng 12 năm 1985 … Hoàng Trung Trực DẤU CHÂN NGƯỜI LÍNH
VIẾNG MỘ CHA MẸ Hoàng Trung Trực
“Dưới lớp đất này là mẹ là cha Là khởi phát đời con từ bé bỏng Là lời mẹ ru dịu dàng cánh võng Là gươm đao cha một thuở đau đời.
Hành trang cho con đi bốn phương trời Là nghĩa khí của cha, là nhân từ của mẹ Vẫn bầu sữa tinh thần không ngừng không nghỉ Để hành trang cho con đi tiếp cuộc đời
Cuộc đời con bươn chải bốn phương trời Nay về lại nơi cội nguồn sinh trưởng Dâng nén hương mà lòng hồi hồi tưởng Thuở thiếu thời trong lồng cánh mẹ cha
“Ước hẹn anh em một lời nguyền Thù nhà đâu sá kể truân chiên Bao giờ đền được ơn trung hiếu Suối vàng nhắm mắt mới nằm yên” (6)
“Không vì danh lợi đua chen Công Cha nghĩa Mẹ quyết rèn bản thân !”
NHỚ BẠN Hoàng Trung Trực
Ngỡ như bạn vẫn đâu đây Khói hương bảng lãng đất này bình yên Tình đời đâu dễ nguôi quên Những dòng máu thắm viết nên sử vàng
Trời xanh mây trắng thu sang Mình ta đứng giữa nghĩa trang ban chiều Nhớ bao đồng đội thương yêu Đã nằm lòng đất thấm nhiều máu xương
Xông pha trên các chiến trường Chiều nay ta đến thắp hương bạn mình
MẢNH ĐẠN TRONG NGƯỜI Hoàng Trung Trực
Bao nhiêu mảnh đạn gắp rồi Vẫn còn một mảnh trong người lạ thay Nắng mưa qua bấy nhiêu ngày Nó nằm trong tuỹ xương này lặng câm…
Thời khói lửa đã lui dần Tấm huân chương cũng đã dần nhạt phai Chiến trường thay đổi sớm mai Việt Nam nở rộ tượng đài vinh quang.
Thẳng hàng bia mộ nghĩa trang Tên đồng đội với thời gian nhạt nhoà Muốn nguôi quên lãng xót xa Hát cùng dân tộc bài ca thanh bình
Thế nhưng trong tuỷ xương mình Vẫn còn mảnh đạn cố tình vẹn nguyên Nằm hoài nó chẳng nguôi quên Những ngày trở tiết những đêm chuyển mùa
Đã qua điều trị ngày xưa Nó chai lỳ với nắng mưa tháng ngày Hoà bình đất nước đổi thay Đêm dài thức trắng, đau này buồn ghê
Khi lên bàn tiệc hả hê Người đời uống cả lời thề chiến tranh Mới hay cuộc sống yên lành Vẫn còn mảnh đạn hoành hành đời ta.
BỀN CHÍ Hoàng Trung Trực
Chỉ có chí mới giúp ta đứng vững Và dòng thơ vực ta dậy làm người Giờ ta hiểu vì sao Đặng Dung mài kiếm Thơ “Thuật hoài” đau cảnh trần ai.
Cụ Nguyễn Du vì sao nén thở dài Quan san cả trong lòng người áo gầm Lầu Ngưng Bích vì đâu Kiều xế bóng Khúc “Đoạn trường” dậy sóng nhớ lòng ai
Phạm Ngũ Lão sớm xuất chúng hơn người Vì sao thành một hiền nhân trầm mặc Ai chộn rộn đi kiếm tìm quyền lực Để đời Ức Trai phải chịu án Lệ Chi Viên
Thương Nguyễn kim nặng lòng tri kỷ Xoay cơ trời tạo lại nghiệp nhà Lê Giữa sa trường phải chịu thác mưu gian Gương trung liệt dám quên mình vì nước
Ơn Trạng Trình nhìn sâu thế nước Miền Đằng Trong hiến kế Nguyễn Hoàng Hoành Linh Lũy Thầy dựng nghiệp phương Nam Đào Duy Từ người Thầy nhà Nguyễn
Sông núi này mỏi mòn cố quận Hạnh Phúc là gì mà ta chưa hay Ta đọc Kiều thương hàn sĩ đời nay Còn lận đận giữa mênh mang trời đất.
Ta an viên vợ con, em trai Thầy học Anh trai ta lưu ‘Khát vọng” ở đời Chỉ có chí cùng niềm tin chân thật Và dòng thơ vực ta dậy làm người
TRÒ CHUYỆN VỚI THIỀN SƯ Hoàng Trung Trực
Vất bỏ ngoài tai mọi chuyện đời Lòng không vướng bận dạ an thôi Ráng vun đạo đức tròn nhân nghĩa Huệ trí bùng khai tỏa sáng ngời
Lòng lộng đêm nghe tiếng mõ kinh Bao nhiêu ham muốn bỗng an bình Tâm tư trãi rộng ngàn thương mến Mong cả nhân loài giữ đức tin.
Thượng Đế kỳ ba gíáo đô đời Vô minh cố chấp tại con người Thánh Tiên tùy hạnh tùy công đức Ngôi vị thiêng liêng tạo bởi Người.
Vững trụ đức tin đạo chí thành Vô cầu vô niệm bả công danh Sớm hôm tu luyện rèn thân chí Đạo cốt tình thương đức mới thành
TRẠNG TRÌNH Hoàng Trung Trực
Hiền nhân tiền bối xưa nay Xem thường danh vọng chẳng say tham tiền Chẳng màng quan chức uy quyền Không hề nghĩ đến thuyết truyền duy tâm Đức hiền lưu giữ ngàn năm Vì Dân vì Nước khó khăn chẳng sờn Hoàn thành sứ mạng giang sơn Lui về ở ẩn sáng thơm muôn đời Tầm nhìn hơn hẳn bao người Trở thành Sấm Trạng thức thời gương soi.
Kính tặng quý thiện hữu cùng một trăn trở, ưu tư cho Đạo Pháp .
Ta rất muốn đi về trong tịch lặng. Quẳng lại sau lưng nhân thế muộn phiền. Lòng thao thức Đạo Đời luôn vướng nặng. Mũ ni che tai, tâm lại hóa bình yên.
Đời chộn rộn sao còn theo chộn rộn? Đạo hưng suy ta mất ngủ bao lần. Đời giả huyễn thịnh suy luôn bề bộn. Đạo mất còn ta cứ mãi trầm ngâm.
Vai này gánh cho vai kia nhẹ bớt. Tìm tri âm ta nặng bước âm thầm. Sợi tóc bạc trên đầu còn non nớt. Tháng năm nào ta thấy lại nguồn tâm ?
Gia Lai 10-09-2014
(**) “Đến chốn thung dung” là thơ Hoàng Kim, nhà khoa học xanh người thầy chiến sĩ quê Quảng Bình, em của Hoàng Trung Trực,
Đến chốn thung dung Hoàng Kim
Người rất muốn đi về trong tịch lặng Quẳng lại sau lưng nhân thế muộn phiền Ta đến chốn thung dung tìm hoa lúa Rong chơi đường trần, sống giữa thiên nhiên.
Tâm thanh thản buồn vui cùng nhân thế Đời Đạo thịnh suy sương sớm đầu cành Lòng hiền dịu và trái tim nhẹ nhõm Kho báu chính mình phúc hậu an nhiên.
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt (**) Trăng rằm xuân lồng lộng bóng tri âm Người tri kỷ cùng ta và năm tháng. Giác Tâm: Ta về còn trọn niềm tin.
DẤU CHÂN NGƯỜI LÍNH Hoàng Trung Trực
Cuộc đời và thời thế
Năm Thân con khóc chào đời Sức sống sữa Mẹ suốt đời tình thương Nước nhà gặp cảnh tai ương Việt Nam là bãi chiến trường giao tranh Pháp Nhật Tàu tới hoành hành Chạy giặc Cha Mẹ phải đành lánh thân Người dân khổ cực muôn phần Nước nhà chiến sự, nghèo bần Mẹ Cha Trường Sơn rừng núi là nhà Rừng thiêng nước độc, ta ra chẳng thời *
(*) Ernest Hemingway (1899-1961), tác giả của kiệt tác Ông già và biển cả, Giã từ vũ khí, là một cựu quân nhân, sống trãi gần trọn đời trong chiến tranh và nghèo đói của chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai, nên ông đã mô tả người như ông là thế hệ cầm súng, không hề được tận hưởng chất lượng cuộc sống, là “Thế hệ bỏ đi” (Lost Generation) của cộng đồng người Paris xa xứ; xemBorlaug và Hemingway
Tuổi thơ trong nghèo đói
Ai quyền sống được làm người Mà dân mất nước gặp thời chua cay? Đời Cha sự nghiệp đổi thay Lính Tây ngày trước, thời này đánh Tây Ru ta lời Mẹ đêm ngày Vọng theo hồn Nước tháng ngày bên Cha Cha thì chiến đấu đường xa Mẹ con chạy giặc, cửa nhà thì không Nỗi niềm cuộc sống đau lòng Bão mưa tàn phá, gió lồng không ngơi.
Gia đình nhiều nguy nan
Mẹ ta dãi nắng dầm mưa Lo cho con có cháo dưa học hành Giữa rừng số phận mong manh Mẹ phải chịu bệnh hoành hành héo hon Đời Mẹ chung thủy sắt son Đời Cha lính chiến tuổi xuân đọa đày Lời thề nguyên bản xưa nay Đã là người lính không lay lòng vàng Bệnh về chẳng chút thở than Bao nhiêu mầm bệnh Cha mang theo về
Mẹ Cha bao gian khổ
Bệnh sốt rét thật là ghê Gan lách phù thủng trăm bề hại Cha Chiến tranh tan cửa nát nhà Mình Cha xoay xở thật là gian nan Phận con rau cháo cơ hàn Tuổi thơ năm tháng bần hàn Mẹ Cha Tháng ngày khoai muối dưa cà Đời còn Cha Mẹ đậm đà tình thương Tình Cha Mẹ, nghĩa Nước Non Tháng ngày chăm chút vuông tròn hiếu trung.
Tuổi xuân vui lên đường Lên đường theo lệnh tòng quân Xa nhà nỗi nhớ bội phần từ đây Mẹ khóc nước mắt tuôn đầy Lo con gian khổ cuộc đời chiến binh Cha không khóc chỉ làm thinh Tiễn con tựa cửa lặng nhìn theo con Vần xoay sự nghiệp vuông tròn Dấu chân Cha trước, nay con theo Người Gẫm suy mới rõ thế thời Hoàng Trung Trực đã thành người chiến binh.
Giải phóng nước bạn Lào (10/1963- 5/1965)Đất Hương Khê , núi Quảng Bình Vượt Trường Sơn vắt sức mình kiệt hao Núi Phú Riềng, đất Lạc Xao Nơi này ghi dấu chiến hào binh ta Đời nhọc nhằn, thân xót xa Trĩu vai súng đạn, gạo là quanh lưng Vượt bao đèo dốc hành quân Liên hồi tác chiến, máu dầm mồ hôi Lại thêm sốt rét từng hồi Thuốc men chẳng có, tháng trời toàn măng Chia nhau chén cháo cứu thân Trên bom, dưới đạn, ngủ hầm, tình thâm.
Nhớ người thân đã khuất
Đêm trường thân lại xông pha Theo chân thủ trưởng vào ra trận thù Đạn giặc đan chéo như mưa Đôi chân thủ trưởng đạn cưa mất rối Trong ta tỉnh thức tình người Cõng ngay thủ trưởng xuôi đồi chạy lui Đêm rừng trời lại tối thui Lạc mất phương hướng tới lui tìm đường Quay đầu hỏi ý tình thương Mới hay thủ trưởng tìm đường đi xa Không hơi thở một xác ma Làm ta thực sự xót xa một mình Người thấm mệt, phút tử sinh Giữa rừng im ắng lặng thinh không người Chỉ nghe tiếng thú quanh đồi Làm cho ớn lạnh khắp người của ta Song vì cái đói không tha Cho nên khiếp sợ theo đà mất tiêu Trãi qua những phút hiểm nghèo Vác xác thủ trưởng cố leo tìm đường.
Giữa rừng núi, không người thương Còn đâu phương hướng, tai ương không người Một tâm hồn một cuộc đời Không gạo không lửa, giữa trời rừng xanh Một mình tính mạng mong manh Tình thương người lính giúp anh chí bền Năm ngày thủ trưởng vẫn nguyên Tìm ra đơn vị bình yên lòng mình.
Tin Mẹ mất giữa chiến trường
(xem tiếp chuỗi chiến dịch và sự kiện chính …)
.MỘT SỐ CÁC GHI CHÚ
Hai anh em gặp nhau giữa Sài Gòn giải phóng (Hoàng Trung Trực sư 341, Hoàng Kim sư 325B)
Lev
Tolstoy (1828 – 1910) là nhà hiền triết và đại văn hào Nga danh tiếng
bậc nhất lịch sử nhân loại với những kiệt tác Chiến tranh và Hòa bình,
Ana Karenina, Đường sống, Phục sinh. Minh triết cho mỗi ngày. Trước đây
tôi thích ông theo tuần tự trên. Nhưng nay qua thời gian trãi nghiệm và
lắng đọng tôi lại thích trình tự ngược lại. Minh triết cho mỗi ngày
(Wise Thoughts for Every Day) lắng đọng tinh hoa hơn. Yêu thích là tự
mình tỉnh thức.
Minh triết cho mỗi ngày là công trình trọng yếu cuối cùng của Lev
Tonstoy và ông đã xem nó là đóng góp quan trọng nhất của ông cho nhân
loại. Theo Peter Serikin tại lời giới thiệu của tác phẩm này “Tonstoy
giữ cái ‘cẩm nang’ cho một cuộc sống tốt này trên bàn làm việc của ông
trong suốt những năm cuối cùng đời mình cho đến phút cuối (thậm chí ông
còn yêu cầu trợ lý cùa mình V. Chertkov, đưa cho ông xem bản in thử
trên giường chết của ông) Chi tiết nhỏ này cho thấy Tonstoy yêu quý tác
phẩm này xiết bao!”. Cũng theo Peter Serikin bộ ba tập sách ‘Minh
triết của hiền nhân’ 1903 (The Thoughts of Wise Men) ; Một chu kỳ đọc
(A Circle of Reading’ 1906; Minh triết cho mỗi ngày 1909 (Wise Thoughts
for Every Day) dường như phát triển sau khi Lev Tonstoy bệnh nặng và
phục sinh như một phép lạ cuối năm 1902. Bộ ba này của Tonstoy hết sức
phổ biến từ lần xuất bản thứ nhất vào năm 1903 cho đến năm 1917. Rồi cả
ba cuốn đều không được xuất bản trong suốt thời kỳ gần 80 năm vì nội
dung tôn giáo của chúng, và nó được xuất hiện trở lại gần đây sau sự sup
đổ của Liên bang Xô Viết. Sách ‘Suy niệm mỗi ngày’ nguyên tác tiếng Nga
của Lev Tonstoy do Đỗ Tư Nghĩa dịch từ bản tiếng Anh ‘Wise Thoughts
for Every Day’ của Peter Serikin xuất bản ở New York Mỹ từ năm 2005 và,
Bản quyền bản tiếng Việt của Công ty THHH Văn Hóa Khai Tâm 2017. Hành
trình cuốn sách này đến Việt Nam khá muộn nhưng may mắn thay những tư
tưởng minh triết của nhà hiền triết Lev Tonstoy đã tới chúng ta gợi mở
cho sự suy ngẫm ‘minh triết cho mỗi ngày’ cùng đồng hành với người
thầy hiền triết vĩ đại.
Lev Tonstoy viết: “Nguồn hạnh phúc chân thực nằm trong trái tim bạn. Sẽ là ngốc nghếch nếu bạn tìm kiếm nó ở nơi nào khác. Bạn sẽ giống như kẻ chăn cừu tìm kiếm một con chiên lạc, trong khi nó được nhét vào ngay bên trong áo sơ mi của y (1). Quy tắc thứ nhất của minh triết, là biết chính bạn (2). Tuy nhiên đây là cái khó làm nhất. Quy tắc thứ nhất của đức hạnh là hạnh phúc với những điều nhỏ bé (3). Điều này nữa cũng khó làm. Chỉ có những ai tuân theo những quy tắc này, mới đủ mạnh để là một tấm gương đức hạnh cho người khác. Nếu bạn chỉ yêu chính mình, bạn không thể thực sự hạnh phúc. Hãy sống cho kẻ khác, rồi thì bạn sẽ tìm thấy hạnh phúc chân thực. Các bạn đang lang thang tới đâu, hỡi những con người bất hạnh? Đang tìm kiếm một cuộc sống tốt hơn ? Bạn đang chạy đi xa, nhưng hạnh phúc phải được tìm thấy bên trong bạn. Nếu nó không có mặt ở bên trong, thì nó không có mặt ở bất cứ nơi nào khác. Hạnh phúc nằm trong khả năng yêu kẻ khác của bạn”. (Suy niệm mỗi ngày, trang 53) (1) Nguồn hạnh phúc chân thực nằm trong trái tim bạn. Phật nói ‘ phật tại tâm ’ Chúa Jesu nói ‘Vương quốc của thượng đế ở bên trong các ngươi ’ (2) Minh triết trước hết là tự biết mình. (3) Phúc hậu là hạnh phúc với những điều nhỏ bé.
Lev Tonstoy viết tiếp: Có một câu cách ngôn cổ
của Do Thái: “Linh hồn của một người là ngọn đèn của Thượng đế” Khi
ngọn đèn ấy chưa được thắp lên thì một cá nhân sẽ vẫn mãi bơ vơ; nhưng
khi nó được thắp lên, y trở nên mạnh mẽ và tự do. Dĩ nhiên, điều này
không thể khác , bởi vì đó không phải là quyền lực của chính y, mà là
của Thượng đế.Mặc dù chúng ta không biết sự thiện phổ quát là
gì, chúng ta thực sự biết rằng, tất cả chúng ta nên tuân theo quy luật
của sự thiện, vốn hiện hữu cả trọng sự khôn ngoan của con người lẫn
trong trái tim chúng ta.Nếu chúng ta tin rằng, họ có thể làm
hài lòng Thượng đế thông qua những nghi lễ và những lời cầu nguyện
thôi – chứ không phải bằng hành động- thì họ đã nói dối với cả thượng
đế lẫn chính họ”
Hoàng Kim noi gương Thầy, tự mình thắp lên ngọn đèn trí tuệ chính mình “Hãy luôn luôn hạnh phúc và sung sướng” tuân theo quy luật của sự chí thiện và luôn nhớ câu cách ngôn cổ của người Do Thái: “Linh hồn của một người là ngọn đèn của Thượng đế“. Minh triết cho mỗi ngày là một kho tàng tinh hoa lắng đọng . MINH TRIẾT CHO MỖI NGÀY
Minh triết đời người là yêu thương Cuối dòng sông là biển Niềm tin thắp lên nghị lực Yêu thương mở cửa thiên đường.
Nhạc sĩ nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo viết vậy, bạn bè anh vậy, nên anh đi xa rồi nhưng anh vẫn sống trong lòng tôi. Hôm nay nữa, một hình ảnh và mẫu thoại ngắn của tôi THÍCH CÁI KHOE CỦA NGƯỜI TỬ TẾ từ ngày 9 Tháng 9, 2017 được các bạn nhắc lại mà bùi ngùi nhớ: .”Giản dị thế mà sống, cần đếch gì chụp giật, phỏng ạ, Niềm vui cứ nho nhỏ thế thôi…” Văn Công Hùng viết vậy còn Phan Chi thì viết “lão Hâm ghét ông Nguyễn Trọng Tạo thêm 5 phút nữa. (Không kiếm được vé đi nghe đêm nhạc Nguyễn Trọng Tạo nên post bài này lên cho… bõ tức). Lão nông Trần Duy Quý thì khoe “Dân phấn khởi quá, vì so với giống Bắc Thơm 7 năng suất Sơn Lâm 1 vượt ít nhất 80 kg/ sào mà gạo hai giống ngon như nhau. Giá bán gạo đều 16-18 k trên kg nên hiệu quả rõ rệt. Dân tuyên bố sẽ trồng Sơn Lâm 1 thay cho Bắc Thơm 7 cả vụ xuân lẫn vụ mùa”. Cô Nguyễn Thị Trúc Mai thì khoe: “Bốn tháng sau trồng, không cần quảng cáo”. Anh Trần Mạnh Báo thì viết: “Sau nửa tháng đi công tác, hôm nay lại về với cánh đồng Trung tâm nghiên cứu thân yêu! Cảm ơn Mr Diệp (người e lệ đứng bên bờ ruộng) về ý tưởng trồng hoa trên bờ ruộng!”. Tôi thích cái khoe này. “Tốt đẹp khoe ra, xấu xa đậy lại”. Cái khoe của họ là tiền tươi thóc thật của người tử tế. (Hoàng Kim).
“Hạnh phúc của Nhà văn là tác phẩm của mình có người đọc. Và mỗi người đọc lại có những ứng xử rất riêng với tác phẩm và tác giả của nó. Người khen và người chê, và có người im lặng. Người gặp tác giả nhờ giải thích một câu chưa hiểu hết. Người giảng giải cho tác giả sự thích thú của họ khiến tác giả bất ngờ. Người lại viết cả bài viết dài phân tích nội dung, phong cách nghệ thuật của tác giả. Vân vân và vân vân… Những người đọc như thế làm cho tác giả biết mình đang tồn tại, đang sống, đang được chia sẻ với chung quanh.” (Nguyễn Trọng Tạo)