SONG NGƯ VÀ THÁP MỘT Hoàng Kim viết bên tháp SkyTokyo
Song Ngư đôi cá nhỏ tuổi thơ Thanh thản tung tăng giữa bến bờ. Tháp Tokyo Sky Tree hoàn thành, Lồng lộng giữa trời cao xanh thẳm.
Chúc mừng anh Đỗ Đình Thuận và các bạn sinh nhật ngày 29 tháng 2 vui khỏe hạnh phúc. 29 tháng 2 là ngày đặc biệt chỉ có ở năm nhuận, xuất hiện mỗi bốn năm một lần như 2012, 2016, 2020, v.v. Người sinh ngày Song Ngư 29-2 có ý nghĩa là sở hữu một ngày sinh bất thường, là người có tài năng và tính cách khác thường, tốt bụng, thân thiện, lạc quan nhưng ưa nhìn đời tích cực và giữ bản tính vô tư với tâm trạng phấn khởi của tuổi thơ; Ngày này, theo truyền thuyết thế kỷ thứ 5 tại Ireland, Thánh Patrick đã đồng ý, chấp nhận cho phụ nữ trong vùng được phép hỏi cưới bất kỳ đàn ông nào mà họ thích vào ngày 29 tháng 2 mỗi năm nhuận. Ngày này sau đó được coi là Ngày phái đẹp tỏ tình. Wikipedia Ngày này năm xưa. Năm 2012 – Tháp Tokyo Sky Tree hoàn thành, là tháp cao nhất thế giới thời ấy. Bài chọn lọc ngày 29 tháng 2: Song Ngư và Tháp Một; Xuân sớm Ngọc Phương Nam; Người lính già thời Bác; Giống khoai lang HL491 Nhật tím, Qua sông Thương gửi về bến nhớ; Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong và https://cnm365.wordpress.com/cate…/chao-ngay-moi-29-thang-2/
Từ phải sang trái: Sinh viên thực hiện khóa luận đề tài chọn giống sắn với các thầy cô Phan Thanh Kiếm, Nguyễn Thị Sâm (giảng viên Khoa Nông học) Hoàng Kim (thầy hướng dẫn) và các giống sắn mới tạo chọn.
Nhân đề thi Văn 2016 NỖI LÒNG NÀNG THÚY VÂN, tôi đọc lại bài thơ THAY LỜI THÚY VÂN của anh Minh Giắng Phạm.và chép lại bài viết này. Anh Giắng mất đã mấy năm nhưng trang thơ và gương đời lắng đọng
NGỌC PHƯƠNG NAM. Truyện Kiều Nguyễn Du là kiêt tác văn chương còn mãi với thời gian. Muốn thực sự hiểu được Truyện Kiều phải hiểu được và đánh giá đúng các nhân vât của Nguyễn. Lâu nay số bài bình thơ về nỗi lòng Thúy Vân có nhiều nhưng bài của anh Phạm Minh Giắng thay lời Thúy Vân thực sư làm tôi bàng hoàng xúc động và ám ảnh bởi lối suy nghĩ thuận lòng người và lời thơ lục bát giản dị đẹp kỳ lạ. Đìều bất ngờ mà trước đó tôi chưa hề biết là anh Giắng bị liệt từ nhỏ. Tôi ứa nước mắt khi anh ghé thăm tôi và bùi ngùi viết :”Tôi bị nằm liệt từ khi còn nhỏ. Trong năm điều ước của Bill Clinton (ước được làm người tốt, có một gia đình êm ấm, có thầy quý bạn hiền, có một sự nghiệp thành đạt và viết được một cuốn sách để đời) tôi cố gắng thực hiện được ba điều. Còn hai điều: một gia đình êm ấm và một sự nghiệp thành đạt thì chắc là không thể thực hiện”. Có lẽ sự tĩnh lặng nội tâm làm anh nhìn đời sâu sắc hơn nên bài viết “Thay lời Thúy Vân” của anh có một độ nhìn thấu hiểu? Tôi tin anh là người hiểu Thúy Vân, đúng hơn là người hiểu đúng tâm sự thánh thiện của cụ Nguyễn Du. Để bình về bài thơ này của anh, tôi xin lần lượt trích dẫn ba bài thơ “Nỗi lòng Thúy Vân” của Trương Nam Hương, An Thi, LMT và cảm nhận mới nhất của Lính Thủy, sau cùng mới là thơ Phạm Minh Giắng thay lời Thúy Vân.(HK)
NỖI LÒNG THÚY VÂN Trương Nam Hương
Nghĩ thương lời chị dặn dò Mười lăm năm đắm con đò xuân xanh Chị yêu lệ chảy đã đành Còn em nước mắt đâu dành chàng Kim
Ơ kìa sao chị ngồi im ? Máu còn biết chảy về tim để hồng Lấy người yêu chị làm chồng Đời em thể thắt một vòng oan khiên
Sụt sùi ướt cỏ Đạm Tiên Chị khóc kẻ khuất đừng quên người còn Mấp mô số phận vuông tròn Đất không thể nhốt linh hồn đòi yêu !
Là em nghĩ vậy thôi Kiều Sánh sao đời chị ba chiều bão giông Con đò đời chị về không Chỉ theo tiếng khóc dưới sông Tiền Đường
Chị nhiều hờn giận yêu thương Vầng trăng còn lắm mùi hương hẹn hò Em chưa được thế bao giờ Tiết trinh thương chị đánh lừa trái tim
Em thành vợ của chàng Kim Ngồi ru giọt máu tượng hình chị trao Giấu đầy đêm nỗi khát khao Kiều ơi em đợi kiếp nào được yêu ???!!!! … NỖI LÒNG THÚY VÂN An Thi
Em biết mình thua chị đủ mọi bề, Cả trí tuệ, lẫn tài hoa, nhan sắc; Nhưng có một điều, chỉ tim em rõ nhất Rằng vết thương lòng em chẳng kém phần đau!
Tiết Thanh minh ngày nào én nhạn gặp nhau, Chợt xao xuyến, nhịp yêu sao bổi hổi, Chợt xót xa, rồi hẫng lòng, đau nhói Trong mắt người tachỉ có chị mà thôi!
Buổi chia tay, em nghé mắt, xa xôi Trở về nhà còn vấn vương nỗi nhớ; Chị hò hẹn với người, em biết chứ Chiếc thoa kia nào bắt được hư không?!?
Phận quần hồng chị trắc trở long đong Nỗi gia đình, nỗi tình duyên trăn trở Em nhận về mình mối duyên thừa trăn trở… Mười mấy năm trời hạnh phúc có hay không?
Có hay không hạnh phúc với người chồng Mà mãi mãi trong tim chỉ có hình bóng chị?!? Chị phận bạc còn có tình chung thủy Còn em thì…cảnh đồng sàng dị mộng có gì vui?!?
Cả một đời hoa chị bị dập vùi, Em thương chị, lòng ghen chưa hề có! Em cũng không trách hờn ai đó; Chỉ xin đời hiểu cho rằng: Sâu thẳm trong lòng Vân cũng có một vết thương!
Trăng mờ vì khuất màn sương Câu ca một thuở vấn vương trọn đời, “Keo loan mà chắp duyên rời Hoa rơi hữu ý, nước trôi vô tình!” Chị nào có khổ một mình!…
NỖI LÒNG THÚY VÂN LMT Một lần đọc lại Kiều
Chị ơi, thương chị truân chuyên Phần em thôi cũng muộn phiền bi ai Cũng rằng phận ngọc, mày ngài Tuổi xuân hồng thắm chưa ai trao tình .
Đắng cay cũng một đời mình Vì lòng hiếu nghĩa, nhận tình chị trao Xuân thì hoa bướm xôn xao Em chưa hề có giao duyên một lần . Thương thân, giọt lệ trong ngần Duyên hờ em nắn phím đàn tơ mây Trời xanh oan nghiệt lắm thay Gieo bao cay đắng , đọa đày chị ơi.
Lại buồn nhân thế lắm lời Rằng em hời hợt, một đời vô lo Bao nhiêu sóng cả, gió to Một mình chị phải sầu lo chống chèo .
Ngẫm đời, lòng lại buồn theo Má hồng em cũng phận bèo lênh đênh Dạt trôi trong cõi phong trần Mặc cho con tạo xoay vần ra sao.
Tiền Đường , sông nước nao nao Chị giờ mộng nhạt , tâm trao Bồ Đề Còn em đời vẫn trầm mê Lòng xuân tro lạnh, não nề chị ơi …
CẢM TÁC CÙNG BÁC GIẮNG Lính Thủy
Người đời thương cảm Thuý Vân Không yêu cũng phải thế chân chị Kiều Vợ chồng không có tình yêu Một đời tẻ lạnh, sớm chiều buồn tanh
Sau đây là bài của Phạm Minh Giắng
THAY LỜI THUÝ VÂN Phạm Minh Giắng
Người đời thương cái duyên em Kết hôn thay chị, chắc thèm tình yêu? Em xin thưa tỏ đôi điều Trời cho nhan sắc em nhiều phần xinh.
Vô tâm vụng tính, chút tình Lấy người thương chị em mình…em nương Giấc xuân giữa cảnh đau thương Tình phần em sướng, hiếu nhường chị đeo.
Người ta yêu mộng mơ nhiều Chồng mình ôm chặt mình yêu mặn nồng Cảm ơn chị hiểu thấu lòng Thương em, chị chẳng lòng thòng cố nhân
Cho em trọn chỗ ấm thân: “Một cây cù mộc, một sân quế hòe”. Cái em cần, nói em nghe, Với em trăng gió màu mè bỏ đi
Em nào có tủi buồn chi Tố Như thánh thiện nhầm gì chị ơi.
Hoàng Kim đôi lời cảm nhận
Tuyệt vời !Thay lời Thúy Vân.là một công án của Truyện Kiều.Bất giác, tôi bàng hoàng trước lời thơ của anh:
Giấc xuân giữa cảnh đau thương Tình phần em sướng, hiếu nhường chị đeo. Người ta yêu mộng mơ nhiều Chồng mình ôm chặt mình yêu mặn nồng
Cảm ơn chị hiểu thấu lòng Thương em, chị chẳng lòng thòng cố nhân Cho em trọn chỗ ấm thân: “Một cây cù mộc, một sân quế hòe”.
Nguyễn Du (1765-1820) là nhà thơ lỗi lạc, nhà ngoại giao xuất chúng. Ông cũng là một võ quan có chí lớn, nhà lãnh đạo đặc biệt tài năng đã từng đương đầu với Nguyễn Huệ, đối thoại với Gia Long, hiểu rõ Nguyễn Văn Thành, thân thiết với Nguyễn Nễ, Vũ Trinh, Ngô Nhân Tĩnh, Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức. Ông hiểu sâu Lý số, thông tỏ Phong Thủy, rất vững Thiền học, thành thạo biến Dịch, đã đọc trên nghìn lần bộ kinh Kim Cương, với tâm sự gửi gắm Truyện Kiều và đặc biệt gửi gắm qua các nhân vật của mình. Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ là hai danh nhân cùng thời . Nguyễn Công Trứ luận về Thúy Kiều nhưng thực chất là luận về Nguyễn Du: “Bán mình trong bấy nhiêu năm, Dễ đem chữ hiếu mà lầm được ai .” Nguyễn Công Trứ thân mật hay chống đối Nguyễn Du đó là điều hậu thế cần lý giải cho đúng? Thúy Vân là môt đầu mối quan trọng để hiểu Thúy Kiều. Hiểu nhân vật của Nguyễn Du mới thực sự hiểu được Nguyễn Du.
Bài viết của các anh Phạm Minh Giắng, Nguyễn Thế Quang, Huy Việt … thực sự bổ ích. Bài viết này của anh Phạm Minh Giắng thưc sư là một khám phá mới.
Ta lại hành quân qua sông Thương Một đêm vào trận tuyến Nghe Tổ Quốc gọi lên đường! Mà lòng ta xao xuyến Và hồn ta căng gió reo vui Như dòng sông Thương chảy mãi về xuôi Hôm nay ta ra đi Súng thép trên vai nóng bỏng
Không qua nhịp cầu ngày xưa soi bóng Phà đưa ta sang sông Rạo rực trời khuya, thao thức trong lòng Rầm rập dòng sông sóng nhạc Như tình thân yêu muôn vàn của Bác Tiễn đàn con ra đi
Tầu cập bến rầm rì tiếng máy Tiếng động cơ sục dưới khoang tàu Hay sôi ở trong lòng đất cháy Hay giữa tim ta thúc giục lên đường Chào bờ Bắc thân yêu hẹn ngày trở lại!
Ôi những con thuyền đèn trôi suốt canh khuya Có khua nhẹ mái chèo qua bến cũ Nhắn cho ai ngày đêm không ngủ Rằng ta đi chưa kịp báo tin vui
Đêm nay bên dòng nước nghiêng trôi Sông vẫn thức canh trời Tổ Quốc Rạo rực lòng ta bồi hồi tiếng hát Đổ về bến lạ xa xôi Với biển reo ca rộng mở chân trời
NGHE TIÊU VÀ TẬP THỞ Thầy Thuannghia Le hướng dẫn nghe tiêu và tập thở để rèn luyện sức khỏe và tuệ học như sau: “Đối với người chưa tập luyện qua Hơi thở bụng, ngồi tĩnh tâm, nhắm hờ mắt lắng nghe tiếng tiêu trong Video đính kèm. Nghe hết bản nhạc mà bạn không cảm thấy khó chịu, ngược lại, lại cảm thấy dễ chịu thoải mái, buồn ngủ….thì bạn có căn cơ về hơi thở để tiếp cận Huyền Nhiệt Tốc Đạt. Bài viết đã dài. Mọi chi tiết sẽ thông báo trong bài viết tiếp theo. Chúc các bạn an lành, và cảm ơn sự theo dõi”.
I Ta thích được đùa vui cùng Thuận Nghĩa Lắng nghe tiêu, học trực tuyến cùng thầy Học xong bài thấy bình an dễ chịu Hơi thở an lành khoan khoái phiêu diêu
Nguyễn Văn Hưởng thầy dưỡng sinh luyện thở Phương pháp Dưỡng sinh hay giữa đời thường Nhớ cụ Nguyễn Khắc Viện luyên thở Thầy Nguyễn Bình Khiêm với Dưỡng sinh thi
“Giữ khí, gìn tinh, lại dưỡng thần Ít lo, ít muốn, ít lao thân. Cơm nên vừa bụng, đừng nhiều vị, Rượu chỉ vài phân, chớ qúa từng. Miệng cứ câu đùa, vui miệng mãi, Bụng thường nghĩ tốt, bụng lâng lâng. Bốc đồng, biến trá, thôi đừng hỏi, ể tớ tiêu dao đến tuổi trăm.” (Bản dịch của GS. Lê Trí Viễn)
II
Ta về lại thăm rừng xưa Thuận Nghĩa Chuyện cùng Lão Phu đàm đạo Thần Thông Thập nhị nhân duyên mười hai tuyệt kỹ Khả năng thích nghi năng lực siêu phàm
Tha tâm thông hiểu hành vi người khác Thiên nhãn thông nhìn thấu suốt nơi xa Thiên nhĩ thông nghe những lời kín tiếng Khinh công thông nhanh gió dục mây vần
Thủy thượng phiêu lướt bay trên mặt nước Tâm thức chuyển di thoắt ở thoắt về Huyền nhiệt luyện ngọn lửa thiêng Tam muội Lôi hỏa điện thân phát điện ngàn vôn
Thiết bố sam luyện mình đồng, thân sắt Sư tử hống tiếng gầm chúa sơn lâm Truyền âm nhập mật thâm sâu thấu tỏ Năng lực thích nghi bí ẩn sinh tồn
Ta chợt thấu những chuyện đời khó giải Tình thế Biển Đông tiến thoái lưỡng nan Mèo vờn chuột thuận thiên và kế hiểm Bức tranh nhân gian thiện ác khó bàn.
III
Ta về lại rừng xưa cùng Thuận Nghĩa Gặp Lão Phu múa gậy dưới trăng rằm Thuận thời Càn Khôn, Hàm Hằng chính đạo Kí Tế xong rồi, Vị Tế chưa xong …
Thích Tiếu Ngạo Giang Hồ qua bể ái Cưỡi hạc tung tăng chơi chốn Bồng Lai Thung dung cuộc đời, thảnh thơi trời đất Vô sự an nhàn sống giữa thiên nhiên.
Thích cùng lão dạo chơi VÔ PHƯƠNG CÚ Dấu chân hoang Thong thả lạc non ngàn Chẳng e ngại chông chênh hay tâm bão Bởi tâm hồn tĩnh lặng thật an nhiên
Người Hoa Đất duyên may còn sức khỏe Nẻo Âm Dương xin Bụt ước ba điều Con và cháu thêm ba nguồn trí huệ Ngọc cho đời Thành Phước Đức cho Dân
Tâm an định nên lòng không vướng bận trí an hòa xử thế thật thung dung khi kho báu trong lòng ta đã rõ chẳng Ưu Tư mặc gió dục mây vần
dẫu như vậy đôi khi bâng khuâng hỏi cửa Thần Phù khéo giữ trọn đường tu lênh đênh nước lênh đênh con thuyền nhỏ chốn nhân gian ước được thế nhân phù.
những lúc ấy mới hay duyên tiền định trong thâm tâm mới tỏ sự luân hồi luật Nhân Quả lật Sách Trời gạn hỏi Mới hiểu đời học mãi vẫn chưa thôi
Vô Phương Cú Câu thơ thần tĩnh lặng Vòm trời xanh thăm thẳm một thinh không Ta chợt ngộ Ban mai chào trước ngõ Bình minh lênTrời đất thật VÔ CÙNG…
Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của giáo sư tiến sĩ khoa học Đỗ Tất Lợi là công trình nghiên cứu rất có giá trị ở Việt Nam và Thế Giới. Sách xuất bản đến nay là lần thứ 11. Hội đồng chứng chỉ khoa học tối cao Liên Xô năm 1968 đã công nhận học vị Tiến sĩ khoa học cho Người xứng danh tiến sĩ không cần bảo vệ luận ándược sĩ Đỗ Tất Lợi trên cơ sở cuốn sách này. Triển lãm hội chợ sách quốc tế Matxcơva năm 1983, bộ sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam được bình chọn là một trong bảy viên ngọc quý của Thế Giới trong triển lãm sách.GS.TS. Đỗ Tất Lợi, nhà dược học phương Đông lỗi lạc, danh y Việt Nam (2 tháng 1 năm 1919 – 3 tháng 2 năm 2008), là gương sáng người thầy khoa học, “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
Tải sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của Giáo sư Đỗ Tất Lợi dạng pdf tại đây. Cuốn sách viết về nguồn gốc, phân bố, dược tính, thành phần các vị thuốc, các cách sử dụng, kinh nghiệm dùng thuốc… Cuốn sách bao gồm các phần: Phần 1: Phần chung 1.1 Một số điểm cần chú ý khi sử dụng thuốc Nam. 1.2. Cơ sở lý luận về tìm thuốc và tác dụng thuốc theo Đông y. 1.3. Bào chế thuốc theo Đông y. 1.4. Cơ sở để xem xét tác dụng của thuốc theo y học hiện đại (Tây y). Phần ll.- Những cây thuốc và vị thuốc 1. Các cây thuốc và vị thuốc chữa bệnh phụ nữ 2. Các cây thuốc và vị thuốc chữa mụn nhọt mẩn ngứa 3. Các cây thuốc và vị thuốc trị giun sán. 4. Các cây thuốc và vị thuốc chữa lỵ 5. Các cây thuốc và vị thuốc thông tiểu tiện và thông mật 6. Các cây thuốc và vị thuốc cầm máu 7. Các cây thuốc và vị thuốc hạ huyết áp 8. Các cây và vị thuốc có chất độc 9. Các cây và vị thuốc chữa bệnh ở bộ máy tiêu hóa. 10. Các cây và vị thuốc chữa đi lõng, đau bụng. 11. Các cây và vị thuốc chữa nhuận tràng và tẩy. 12. Các cây và vị thuốc chữa đau dạ dày. 13. Các cây và vị thuốc chữa tê thấp, đau nhức. 14. Các cây và vị thuốc đắp vết thương rắn rết cắn. 15. Các cây và vị thuốc chữa bệnh tai mắt mũi răng họng. 16. Các cây và vị thuốc chữa bệnh tim. 17. Các cây và vị thuốc chữa bệnh cảm sốt. 18. Các cây và vị thuốc chữa bệnh ho hen. 19. Các cây và vị thuốc ngủ, an thần, trấn kinh. 20. Các vị thuốc bổ, thuốc bồi dưỡng nguồn gốc thảo vật. 21. Các vị thuốc bổ nguồn gốc động vật. 22. Các vị thuốc khác nguồn gốc động vật. 23. Các vị thuốc nguồn gốc khoáng vật. Phần III: Phụ lục
Nhân Ngày Thầy thuốc Việt Nam 27 tháng 2, xin trân trọng đăng bài viết về Giáo sư Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi, một trong nhiều người thầy thuốc Việt Nam, đã cống hiến tâm đức trí tuệ và tài năng cho sức khỏe của con người. Mong các Bác sĩ và những người làm nghề y luôn khỏe và hạnh phúc để mang lại sức khỏe và hạnh phúc cho nhiều người hơn nữa.
GIẤC MƠ LAI KHOAI LANG? Hoàng Kim Muống biển liệu có thể lai khoai lang để gia tăng tính kháng? Trước đây khi còn trẻ thơ, tôi đã tự hỏi vậy. Gần đây, bài thơ ‘Chuyện Tình Hoa Muống Biển” của anh Hoàng Đại Nhân gợi tôi trở về câu chuyện cũ. Bài thơ trong sáng giản dị và hay, cốt truyện tình yêu đẹp, giá trị nhân văn cao, hình ảnh tuyệt vời. Tôi trở lại câu hỏi khoa học cây trồng Muống biển liệu có thể lai khoai lang để gia tăng tính kháng?
Hoa muống biển và hoa khoai lang hình thái thật giống nhau.
Muống biển và khoai lang là hai loài thực vật có quan hệ gần gũi. Muống biển (Ipomoea pes-caprae (L.) R.Br.) là loài thực vật thuộc họ Bìm bìm (Convolvulaceae) mọc phổ biến trên của các bãi biển và chịu được không khí mặn. Carl von Linné (23 tháng 5 năm 1707 – 10 tháng 1 năm 1778), nhà thực vật học, bác sĩ kiêm động vật học người Thụy Điển, người tiên phong của ngành sinh thái học “Hoàng tử của giới thực vật học“, cha đẻ của hệ thống phân loại theo danh pháp hiện đại, là người đầu tiên mô tả loài thực vật này; năm 1818, Robert Brown là người phân loại nó vào chi hiện tại. Muống biển được tìm thấy trên bờ cát vùng nhiệt đới ven biển Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, phía bắc của bang New South Wales, và dọc bờ biển bang Queensland thuộc nước Úc. Muống biển ở Việt Nam mọc hoang khắp các bãi cát ven biển từ Hà Tiên, Rạch Giá (Kiên Giang), đến Vũng Tàu (Bà Rịa Vũng Tàu), Nha Trang (Khánh Hòa), Quảng Trị, Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hóa, Hải Phòng…Muống biển có công dụng làm thuốc nhưng hiện chưa có các nghiên cứu sâu về cây này. Theo Nông nghiệp Việt Nam muống biển công dụng trong y học cổ truyền được dùng toàn cây để chữa trị các chỗ viêm do dị ứng với sứa biển, phong độc, bệnh ngoài da; hạt để chữa trị mệt mỏi; lá được dùng để giã nát đắp lên chỗ ngứa do sứa biển.
Khoai lang (Ipomoea batatas L) là cây hai lá mầm thuộc họ Bìm bìm Convolvulaceae, chi Ipomoea, Chi phụ: Quamoclit; Phân chi: Batatas Loài: Ipomoea batatas. Họ Bìm bìm có 55 chi và khoảng 1650 loài, trong đó chi Ipomoea là chi lớn nhất với khoảng 600 loài (Austin, 1997). Ở Việt Nam có 13 chi và 76 loài (Lương Ngọc Toàn và csv, 1978). Cây khoai lang được phân loại trong chi Batatas. Hiện nay trong nội tộc phân chi Batatas có 13 loài hoang dại quan hệ với khoai lang. Khoai lang có số nhiễm sắc thể 15, là dạng lục bội thể (6x) duy nhất có khả năng tạo củ để làm lương thực. Trần Văn Minh 2008 đã trích dẫn tài liệu của Iting và Kehr 1953 nghiên cứu sự phân chia giảm nhiễm ở các giống khoai lang của Mỹ và giả thuyết là khoai lang có nguồn gốc đa bội khác nguồn. Nó hình thành từ tổ hợp lai giữa một tứ bội thể với nhị bội, sau đó xẩy ra quá trình phân đôi nhiễm sắc thể ở con lai bất dục. Nishiyama 1982 và Shiotani 1988 thì lại cho rằng khoai lang là một tứ bội cùng nguồn, hình thành do sự đa bội hoá của loài lưỡng bội.
Carl von Linné nhà thực vật học Thụy Điển, nhà bác học hàng đầu của nhân loại ngành sinh thái học “Hoàng tử của giới thực vật học“, cha đẻ của hệ thống phân loại theo danh pháp hiện đại. Ông là người đầu tiên mô tả loài muống biển. Ông cũng là nhà thơ, nhà ngôn ngữ lừng danh mà August Strindberg tác giả người Thụy Điển viết: “Linné kỳ thực là một nhà thơ sinh ra để trở thành nhà tự nhiên học”. Linné được Goethe nhà bác học thiên tài người Đức ca ngợi: “Trừ Shakespeare và Spinoza, tôi không biết ai giữa những người không còn sống mà ảnh hưởng tới tôi lớn hơn thế”.
Hình ảnh cậu bé tiến về biển lúc bình minh gợi chúng ta nhớ về câu chuyện muống biển, khoai lang quan hệ với “Hai vạn dặm dưới đáy biển” một tiểu thuyết khoa học viễn tưởng của Jules Verne nhà văn Pháp nay đã chuyển thể thành phim. Hai Vạn Dặm Dưới Đáy Biển http://hdonline.vn/phim-hai-van-dam-duoi-day-bien-10140.htm…
Câu chuyện “20,000 Leagues Under the Sea” 1954 kể rằng: Trong năm 1868, tin đồn về một con quái vật biển tấn công tàu ở Thái Bình Dương đã tạo ra lo âu và khiếp sợ trong thủy thủ Hoa Kỳ, làm gián đoạn đường vận chuyển hàng hải . Chính phủ Hoa Kỳ mời Giáo sư Pierre Aronnax và Conseil phụ tá của ông lên một tàu chiến thám hiểm để chứng minh hay bác bỏ sự tồn tại của con quái vật. Kết quả “Hai vạn dặm dưới đáy biển” Giáo sư Pierre Aronnax nhà bác học biển và cộng sự đã thấu hiểu đại dương, thế giới biển, nguồn thức ăn khác biệt và vô tận dưới biển sâu, và năng lực của tàu ngầm, phát minh khoa học làm mở rộng tầm mắt và thay đổi nhận thức về thế giới biển.
Giống khoai lang ở Việt Nam HL491 và HL518 chất lượng ngon, năng suất cao.
Giống khoai lang Việt Nam ngon nhất hiện nay là HL518 Nhật đỏ, HL491 Nhật tím (Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997) và khoai lang Hoàng Long (Hoàng Kim, Nguyễn Thị Thủy 1981), Ba giống khoai lang ngon này mức kháng sùng chỉ đạt trung bình (http://foodcrops.blogspot.com/2010/01/giong-khoai-lang-o-viet-nam.html)
Giáo sư Vũ Đình Hòa (Học Viện Nông nghiệp Việt Nam) trong luận án tiến sĩ năm 1991 có thực hiện việc lai giống khoai lang loài khoai lang Ipomoea batatas L với loài khoai lang dại IpomoeaTrifida để tìm giải pháp giống khoai lang kháng sùng.
Vậy, muống biển liệu có thể lai khoai lang để gia tăng tính kháng?
Ban mai trên biển Quê hương, nơi có sóng, có gió và loài hoa muống biển. Tôi yêu quê tôi, yêu vùng gió cát “Chang chang cồn cát nắng trưa Quảng Bình”. Nhớ đết thắt lòng con “dèm” nhỏ, con cua nhỏ nên dòng Gianh và những vạt muống biển xanh bất tận bên bờ Nhật Lệ. Và bài thơ Sóng yêu thương vỗ mãi đến vô cùng đã ra đời từ đó.
SÓNG YÊU THƯƠNG VỖ MÃI ĐẾN VÔ CÙNG
Hoàng Kim
Anh yêu biển tự khi nào chẳng rõ Bởi lớn lên đã có biển quanh rồi Gió biển thổi nồng nàn hương biển gọi Để xa rồi thương nhớ chẳng hề nguôi
Nơi quê mẹ mặt trời lên từ biển Mỗi sớm mai gió biển nhẹ lay màn Ráng biển đỏ hồng lên như chuỗi ngọc Nghiêng bóng dừa soi biếc những dòng sông
Qua đất lạ ngóng xa vời Tổ Quốc Lại dịu hiền gặp biển ở kề bên Khi mỗi tối điện bừng bờ biển sáng Bỗng nhớ nhà những lúc mặt trăng lên
Theo ngọn sóng trông mù xa tít tắp Nơi mặt trời sà xuống biển mênh mông Ở nơi đó là bến bờ Tổ Quốc Sóng yêu thương vỗ mãi đến vô cùng …
Nhưng đất cát nghèo Quê Choa ven sông ven biển không chỉ nắng, có gió, có phi lao và có muống biển mà còn có khoai lang. Đèo Ngang “đang nghèo” Linh Giang dòng sông quê hương cũng là vùng quê nghèo ‘khoai khoai toàn khoai’ của tuổi thơ tôi. Củ khoai lang ‘sâm người nghèo’ lặn vào trong ký ức. Tôi lớn lên bên khoai lang và muống biển và tuổi thơ bên gió cát dòng Gianh. Thuở nhỏ, tôi thường tần ngần cầm hai bông hoa nhỏ khoai lang và muống biển mơ đến một ngày … lai khoai lang. Mời bạn ngắm ảnh Biển Nhật Lệ Quảng Bình và đọc bài viết gốc tại đây https://hoangkimvietnam.wordpress.com/2012/05/01/bi%E1%BB%83n-nh%E1%BA%ADt-l%E1%BB%87/
Hoàng Kim
Tài liệu dẫn:
(1) Truyện thơ CHUYỆN TÌNH HOA MUỐNG BIỂN Hoàng Đại Nhân
Khi mặt trăng vừa từ biển mọc lên Tỏa ánh sáng dịu dàng bờ cát trắng Biển đêm nay êm đềm, con sóng lặng Từng cặp đôi đang sải bước ven bờ
Cô gái hiền lành, trong sáng ngây thơ Bên chàng trai khi tình vừa chớm nở Họ cùng nhau thì thầm trao lời hứa Hai con tim cùng nhịp đập rộn ràng
Chàng trai nghèo bao hy vọng chứa chan Cùng người đẹp sẽ nên duyên chồng vợ Cái ngày ấy chẳng còn bao xa nữa Khi người yêu đã thề nguyện chung tình.
Cha cô gái hay tin nổi nóng, bất bình Biết chàng nghèo, chẳng “môn đăng hộ đối” Ông thẳng thắn: “Đừng nên mơ ước vội Hãy kiếm đi, đủ lễ vật…, ta chờ”
Chàng trai nghèo sau những phút sững sờ Hiểu phận mình, đâu trách gì cô gái Càng yêu thương, chàng càng thêm hăng hái Quyết ra khơi mong có dịp đổi đời
Biển quê hương như cũng hiểu lòng người Giúp chàng trai nặng thêm từng mẻ lưới Chàng thầm nghĩ chỉ thêm vài ngày tới Số tiền ta sắm lễ vật đủ rồi
Lần cuối cùng chàng lướt sóng ra khơi Lòng khấp khởi tràn trề bao hy vọng Căng sức trẻ, đâu sợ gì con sóng Khi con tim mang hình bóng của nàng
Cô gái đợi chờ, hy vọng chứa chan Hoàng hôn xuống, đón thuyền chàng cập bến Nhưng… bất hạnh bỗng từ đâu ập đến Nàng đâu hay, bão biển đã cướp chàng
Nỗi niềm đau, con tim trẻ nát tan Nàng quên ăn, cứ ngày ngày hướng biển Nàng cầu mong con thuyền chàng xuất hiện Nhưng biển xa chỉ tung sóng cuộn trào
Qua nhiều ngày cô tiều tụy mòn hao Rồi gục chết khi biển chiều tàn nắng Ơi cô gái ! Một con tim trong trắng Phút cuối đời vẫn hướng phía biển xa
Trời thương cô, cho hóa kiếp thành hoa Loài muống biển vươn dài trên bờ cát Hướng về biển, nghe dập dìu biển hát Lời yêu thương cháy bỏng những hẹn hò
Chàng trai hóa thành những ngọn sóng xô Cứ ào ạt cản ngăn loài muống biển Hãy quay lại, em ơi, xin đừng tiến Để an lành tươi thắm một loài hoa.
Biển hôm nay mãi hát khúc tình ca Bản tình ca thắm màu hoa muống biển Mãi tươi hồng đón chào con sóng đến Lời thủy chung son sắt đến trọn đời. —– – Hình ảnh từ Internet – Ngẫu hứng từ chuyện SỰ TÍCH HOA MUỐNG BIỂN (Kho tàng chuyện cổ Việt Nam, nguồn Internet).
“Trèo đèo hai mái chân vân / Lòng về Hà Tĩnh, dạ ân Quảng Bình”. Đèo Ngang là con đèo lịch sử đã đi vào ca dao, huyền thoại. Nhiều danh nhân- thi sĩ như Lê Thánh Tông, Nguyễn Thiếp, Vũ Tông Phan, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du, Bà huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát, Hồ Chí Minh … đã lưu dấu tại đèo Ngang những tuyệt phẩm thơ. Đặc biệt, bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà huyện Thanh Quan rất nổi tiếng.
Lê Thánh Tông (1442 – 1497) là vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì từ năm 1460 đến 1497, tổng cộng 37 năm. Ông nổi tiếng là vị minh quân, là người đã đưa Đại Việt lên tới thời hoàng kim của chế độ phong kiến. Ông cũng được xem là một nhà văn hoá và một người coi trọng hiền tài. Lê Thánh Tông trên đường chinh phục Chiêm Thành năm 1469 có bài Di Luân hải tần (Cửa Roòn) gửi Ma Cô (đền thiêng thờ công chúa Liễu Hạnh, ở xã Quảng Đông nam Đèo Ngang)
CỬA ROÒN
Lê Thánh Tông (*)
Tây Hoành Sơn thấy rõ Di Luân Cát trải mênh mông tiếp biển gần Sóng nước đá nhô xây trạm dịch Gió sông sóng dựng lập đồn quan Muối Tề sân phố mời thương khách Rượu Lỗ quầy bàn tiếp thị dân Muốn nhắn Ma Cô nhờ hỏi giúp Bụi trần Nam Hải có xua tan.
Trần Châu Báu Di Luân cẩn dịch
DI LUÂN HẢI TẤN
Hoành Sơn tây vọng thị Di Luân Diễu diễu bình sa tiếp hải tần Yên thủy sa đầu phân dịch thứ Phong đào giang thượng kiến quan tân Tề diêm trường phố yêu thương khách Lỗ tửu bồi bàn túy thị nhân Dục phỏng Ma Cô bằng ký ngữ Nam minh kim dĩ tức dương trần.
Nguyễn Thiếp, (1723 – 1804), là nhà giáo, danh sĩ cuối đời Hậu Lê và Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông được vua Quang Trung rất nể trọng. Nguyễn Thiếp đã hiến kế cho vua Quang Trung ” “Người Thanh ở xa tới mệt nhọc không biết tình hình khó dễ thế nào. Vả nó có bụng khinh địch, nếu đánh gấp thì không ngoài mười ngày sẽ phá tan. Nếu trì hoãn một chút thì khó lòng mà được nó”. Ông đồng thời cũng là người dâng ba kế sách “quân đức, dân tâm, học pháp”, dùng chữ Nôm thay chữ Hán để tạo thế lâu bền giữ nước, xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô nơi đất khởi nghiệp Hồ Phi Phúc (tổ nghiệp của nhà Tây Sơn) để sâu rễ bền gốc. Vào khoảng đầu năm 1803, lúc Nguyễn Thiếp 80 tuổi, lúc vua Quang Trung đã mất, vua Quang Toản không giữ được cơ nghiệp, vua Gia Long nhà Nguyễn thắng nhà Tây Sơn đã triệu ông vào gặp vua tại Phú Xuân để hỏi việc nước. Nghe vị chúa này tỏ ý muốn trọng dụng, ông lấy cớ già yếu để từ chối, rồi xin về. Trên đường về, khi qua đỉnh đèo Ngang, ông đã cảm khái đọc bài thơ Nôm:
ĐÃ TRÓT LÊN ĐÈO PHẢI XUỐNG ĐÈO
Nguyễn Thiếp
Đã trót lên đèo, phải xuống đèo Tay không mình tưởng đã cheo leo Thương thay thiên hạ người gồng gánh Tháng lọn ngày thâu chỉ những trèo!
Danh sĩ Ngô Thì Nhậm(1746–1803), nhà văn, nhà mưu sĩ đời hậu Lê–Tây Sơn, người có công lớn trong việc giúp triều Tây Sơn đánh lui quân Thanh cũng cảm khái khi “lên đèo Ngang ngắm biển”. Bài thơ cao khiết, bi tráng, mang sắc thái thiền.
LÊN ĐÈO NGANG NGẮM BIỂN
Ngô Thì Nhậm
Bày đặt khen thay thợ hóa công, Khéo đem hang cọp áp cung rồng. Bóng cờ Trần đế (1) dường bay đó, Cõi đất Hoàn vương (2) thảy biến không. Chim đậu lùm xanh, xanh đã lão, Ngạc đùa sóng bạc, bạc nên ông. Việc đời bọt nổi, xưa nay thế, Phân họp giành trong giấc hạc nồng (3)
Bản dịch của Nguyễn Sĩ Lâm
ĐĂNG HOÀNH SƠN VỌNG HẢI
Tạo hóa đương sơ khổ dụng công, Khước tương hổ huyệt xấn giao cung. Hoàn vương phong vực qui ô hữu, Trần đế tinh kì quải thái không. Tình thụ thê cầm thương dục lão, Nộ đào hí ngạc bạch thành ông. Vô cùng kim cổ phù âu sự. Phân hợp du du hạc mộng trung.
Chú thích: (1) Trần đế:Các vua đời Trần. (2) Hoàn vương: Chiêm Thành. (3) Giấc hạc: Giấc mộng hạc. Câu thơ ý nói cuộc tranh giành đất đai giữa Đằng Ngoài và Đằng Trong chẳng qua chỉ là giấc mộng trần thế sẽ tiêu tan.
Đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820) có bài thơ “Qua đèo Ngang” trong Hải Ông Tập; họa vần bài thơ “năm Giáp Dần (1794), vâng mệnh vào kinh Phú Xuân, lúc lên đường lưu biệt các bạn ở Bắc Thành” của Hải Ông Đoàn Nguyễn Tuấn ( Đoàn Nguyễn Tuấn là con Đoàn Nguyễn Thục, đỗ Hương Cống đời Lê, có chiêu mộ người làng giúp Trịnh Bồng đánh Chỉnh, sau ra giúp Tây Sơn, làm đến chức Tả Thị Lang Bộ Lại, tước Hải Phái Bá. Có đi sứ Trung Quốc năm 1790 và có tập thơ nhan đề Hải Ông tập. Ông là anh vợ Nguyễn Du, hơn Nguyễn Du khoảng 15 tuổi). Đọc bài thơ này của Nguyễn Du để hiểu câu thơ truyện Kiều “Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”.
QUA ĐÈO NGANG
Nguyễn Du
Họa Hải Ông Đoàn Nguyễn Tuấn
Tiến về Nam qua đèo Ngang Hành trình đầy đủ gươm đàn mang theo Thuốc thần nào đã tới đâu Mảnh da beo vẫn mối đầu lụy thân Ánh mầu nước, chén rượu xanh Dõi theo vó ngựa một vành trăng quê Gặp gia huynh hỏi xin thưa Đường cùng tôi gặp, tóc giờ điểm sương
HỌA HẢI ÔNG ĐOÀN NGUYỄN TUẤN
Hoành Sơn sơn ngoại lĩnh nam trình Cần kiếm tương thùy thướng ngọc kinh Thỏ tủy vị hoàn tân đại dược Báo bì nhưng lụỵ cựu phù danh Thương minh thủy dẫn bôi trung lục Cố quốc thiềm tùy mã hậu minh Thử khứ gia huynh như kiến vấn Cùng đồ bạch phát chí tinh tinh
Nguyễn Tâm Hàn phỏng dịch
Danh sĩ Vũ Tông Phan, (1800 – 1851), nhà giáo dục, người có công lớn trong việc chấn hưng văn hóa Thăng Long thời vua Minh Mệnh cũng có bài thơ “Qua lũy Ninh Công nhớ chuyện xưa” rất nổi tiếng:
QUA LUỸ NINH CÔNG NHỚ CHUYỆN XƯA
Vũ Tông Phan
Đất này ví thử phân Nam, Bắc Hà cớ năm dài động kiếm dao? Trời tạo Hoành Sơn còn chẳng hiểm, Người xây chiến lũy tổn công lao. Thắng, thua rốt cuộc phơi hoang mộ, Thù hận dư âm rợn sóng đào. Thiên hạ nay đà quy một mối Non sông muôn thuở vẫn thanh cao.
QÚA NINH CÔNG LŨY HOÀI CỔ
Nhược tương thử địa phân Nam Bắc, Hà sự kinh niên động giáp bào? Thiên tạo Hoành Sơn do vị hiểm, Nhân vi cô lũy diệc đồ lao. Doanh thâu để sự không di chủng, Sát phạt dư thanh đái nộ đào. Vũ trụ như kim quy nhất thống, Mạc nhiên sơn thủy tự thanh cao.
Người dịch: Vũ Thế Khôi Nguồn: Đào Trung Kiên (Thi Viện)
Chu Thần Cao Bá Quát (1809 – 1855) là quốc sư của cuộc nổi dậy Mỹ Lương, và là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam. Cao Bá Quát có hai bài thơ viết ở đèo Ngang đó là Đăng Hoành Sơn (Lên núi Hoành Sơn) và Hoành Sơn Quan (Ải Hoành Sơn)
LÊN NÚI HOÀNH SƠN
Cao Bá Quát
Muôn dặm đường đi núi lẫn đồi, Bên non cỏ nội tiễn đưa người. Ai tài kéo nước nghìn năm lại ? Trăm trận còn tên một lũy thôi. Ải bắc mây tan mưa dứt hạt, Thôn nam nắng hửng sớm quang trời. Xuống đèo mới biết lên đèo khổ, Trần lụy, sao đành để cuốn lôi ?
ĐĂNG HOÀNH SƠN
Sơn ngại thanh sơn vạn lý Trình, Sơn biên dã thảo tống nhân hành. Anh hùng mạc vãn thiên niên quốc, Chinh chiến không tồn nhất lũy danh. Bắc lĩnh đoạn vân thu túc vũ, Nam trang sơ hiểu đái tân tình, Há sơn phản giác đăng sơn khổ, Tự thán du du ủy tục tình!
Người dịch: Nguyễn Quý Liêm Nguồn: Lương Sơn Thi Đàn
ẢI HOÀNH SƠN
Cao Bá Quát
Non cao nêu đất nước, Liền một dẫy ra khơi. Thành cũ trăm năm vững, Ải xa nghìn dặm dài. Chim về rừng lác đác, Mây bám núi chơi vơi. Chàng Tô nấn ná mãi, Tấm áo rách tơi rồi.
HOÀNH SƠN QUAN
Địa biểu lập sàn nhan, Liêu phong đáo hải gian. Bách niên khan cổ lũy, Thiên lý nhập trùng quan. Túc điểu sơ đầu thụ, Qui vân bán ủng sơn. Trì trì Tô Quí tử, Cừu tệ vị tri hoàn.
Bản dịch của Hóa Dân Nguồn: Lương Sơn Thi Đàn
Hồ Chí Minh (19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969) nhà cách mạng, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam trong thế kỷ 20. Hai bài thơ của Bác Hồ lúc 5 tuổi, là hai bài đồng dao của Nguyễn Sinh Cung (Nguyễn Tất Thành, tên thuở nhỏ của Hồ Chí Minh ) tại đèo Ngang, trong chuyện kể “Tất Đạt tự ngôn” được Sơn Tùng ghi lại. Đó cũng là những câu thơ lưu lạc, huyền thoại giữa đời thường. Câu chuyện “đường lưỡi bò” và lời đồng dao “Biển là ao lớn, Thuyền là con bò” “Em nhìn thấy trước, Anh trông thấy sau” của cậu bé Nguyễn Sinh Cung “nói” năm 1895 mà Sơn Tùng đã ghi lại và in trên báo Cứu Quốc lần đầu năm 1950. Câu chuyện trẻ con đan xen những ẩn khuất lịch sử chưa được giải mã đầy đủ về Quốc Cộng hợp tác, tầm nhìn Hoàng Sa, Trường Sa của Tưởng Giới Thạch, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1424-1427, lúc mà Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Lý Thụy làm phiên dịch cho Borodin trưởng đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô tới Quảng Châu giúp chính phủ Trung Hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch.
KHÔNG ĐỀ
Nguyễn Sinh Cung – 1895
Núi cõng con đường mòn Cha thì cõng theo conNúi nằm ì một chỗ Cha thì cúi lom khom Đường bám lì lưng núi Con tập chạy lon ton Cha siêng hơn ngọn núi Con đường lười hơn con.
Biển là ao lớn. Thuyền là con bò Bò ăn no gió Lội trên mặt nước Em nhìn thấy trước Anh trông thấy sau Ta lớn mau mau Vượt qua ao lớn.
Bà Huyện Thanh Quan (1805-1848), tên thật là Nguyễn Thị Hinh, là một nhà thơ nữ nổi tiếng trong thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam với bàithơ “Qua đèo Ngang’, một tuyệt phẩm thơ cổ, được người đời truyền tụng hơn cả (1) (2).
QUA ĐÈO NGANG
Bà huyện Thanh Quan
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá, lá chen hoa Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông rợ mấy nhà. Nhớ nước đau lòng con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng cái gia gia Dừng chân đứng lại trời, non, nước Một mảnh tình riêng ta với ta.
Bộ đáo Hoành Quan nhật dĩ tà, Yên ba gian thạch, thạch gian hoa. Tiều quy nham hạ, ta ta tiểu, Thị tập giang biên, cá cá đa. Đỗ vũ tâm thương, thanh quốc quốc, Giá cô hồn đoạn, tứ gia gia. Đình đình trữ vọng: thiên, sơn, hải, Nhất phiến cô hoài, ta ngã ta.
Bản dịch chữ Hán của Nguyễn Văn Thích
QUÁ HOÀNH SƠN
Quá Hoành Sơn đỉnh tịch dương tà Thảo mộc tê nham diệp sấn hoa Kỳ khu lộc tế tiều tung yểu Thác lạc giang biên điếm ảnh xa Ưu quốc thương hoài hô quốc quốc Ái gia quyện khẩu khiếu gia gia Tiểu đình hồi vọng thiên sơn thuỷ Nhất phiến ly tình phân ngoại gia.
Bản dịch chữ Hán của Lý Văn Hùng.
Đèo Ngang và những tuyệt phẩm thơ cổ, nơi lưu dấu những huyền thoại (2).
Hoàng Kim
(1) Hoàng Đình Quang họa vần “Qua đèo Ngang” với lời bình xác đáng:
Thế sự mông lung lộn chính tà Quần hồng ghi dấu bậc tài hoa Sáu bài thơ cổ lưu tên phố (*) Nửa thế kỷ nay đánh số nhà (**) Khanh tướng chắc gì nên vọng tộc Câu thơ còn đó lập danh gia Chẳng bia, chẳng tượng, không đến miếu Ngẫm sự mất còn khó vậy ta?
(*) Toàn bộ sự nghiệp thơ ca của Bà Huyện Thanh Quan chỉ còn lại 6 bài, trong đó có 2 bài được coi là kiệt tác: Qua đèo Ngang và Thăng Long thành hoài cổ. (**) Từ năm 1955, chính quyền Việt Nam (miền Nam) chính thức đặt tên đường Bà Huyện Thanh Quan cho một đường phố của thành phố Sài Gòn, (thay thế tên cũ Flandin do người Pháp) và tồn tại cho đến ngày nay.
(2) Qua đèo chợt gặp mai đầu suối, Hoàng Kim đã thuật lại câu chuyện “Tầm hữu vị ngộ Hồ Chí Minh” do cố Bộ trưởng Xuân Thủy kể trên đỉnh đèo Ngang năm 1970. “Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh/ Đường về vó ngựa dẫm mây xanh/ Qua đèo chợt gặp mai đầu suối/ Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành“ Bài thơ kỳ lạ này của Bác Hồ đăng trên báo khoảng năm 1970 ẩn chứa nhiều triết lý sâu sắc không dễ thấy, là thơ Bác Hồ mà ít thấy sách báo nào nhắc đến gần nửa thế kỷ qua“.
Đỉnh đèo Ngang , ranh giới Hà Tĩnh Quảng Bính nơi lưu giấu huyền thoại “Qua đèo chợt gạp mai đầu suối”. Mộ bác Giáp an táng tại mũi Rồng gần vũng Chùa nam đèo Ngang (ảnh đầu trang).
BAN MAI ĐỨNG TRƯỚC BIỂN Hoàng Kim Đảo Yến trong mắt ai Ban mai đứng trước biển Thăm thẳm một tầm nhìn Vị tướng của lòng dân.
ĐÈO NGANG VÀ NHỮNG TUYỆT PHẨM THƠ CỔ Hoàng Kim
“Trèo đèo hai mái chân vân / Lòng về Hà Tĩnh, dạ ân Quảng Bình”. Đèo Ngang là con đèo lịch sử đã đi vào ca dao, huyền thoại. Nhiều danh nhân- thi sĩ như Lê Thánh Tông, Nguyễn Thiếp, Vũ Tông Phan, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du, Bà huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát, Hồ Chí Minh … đã lưu dấu tại đèo Ngang những tuyệt phẩm thơ. Đặc biệt, bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà huyện Thanh Quan rất nổi tiếng.
Lê Thánh Tông (1442 – 1497) là vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì từ năm 1460 đến 1497, tổng cộng 37 năm. Ông nổi tiếng là vị minh quân, là người đã đưa Đại Việt lên tới thời hoàng kim của chế độ phong kiến. Ông cũng được xem là một nhà văn hoá và một người coi trọng hiền tài. Lê Thánh Tông trên đường chinh phục Chiêm Thành năm 1469 có bài Di Luân hải tần (Cửa Roòn) gửi Ma Cô (đền thiêng thờ công chúa Liễu Hạnh, ở xã Quảng Đông nam Đèo Ngang)
CỬA ROÒN
Lê Thánh Tông (*)
Tây Hoành Sơn thấy rõ Di Luân Cát trải mênh mông tiếp biển gần Sóng nước đá nhô xây trạm dịch Gió sông sóng dựng lập đồn quan Muối Tề sân phố mời thương khách Rượu Lỗ quầy bàn tiếp thị dân Muốn nhắn Ma Cô nhờ hỏi giúp Bụi trần Nam Hải có xua tan.
Trần Châu Báu Di Luân cẩn dịch
DI LUÂN HẢI TẤN
Hoành Sơn tây vọng thị Di Luân Diễu diễu bình sa tiếp hải tần Yên thủy sa đầu phân dịch thứ Phong đào giang thượng kiến quan tân Tề diêm trường phố yêu thương khách Lỗ tửu bồi bàn túy thị nhân Dục phỏng Ma Cô bằng ký ngữ Nam minh kim dĩ tức dương trần.
Nguyễn Thiếp, (1723 – 1804), là nhà giáo, danh sĩ cuối đời Hậu Lê và Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông được vua Quang Trung rất nể trọng. Nguyễn Thiếp đã hiến kế cho vua Quang Trung ” “Người Thanh ở xa tới mệt nhọc không biết tình hình khó dễ thế nào. Vả nó có bụng khinh địch, nếu đánh gấp thì không ngoài mười ngày sẽ phá tan. Nếu trì hoãn một chút thì khó lòng mà được nó”. Ông đồng thời cũng là người dâng ba kế sách “quân đức, dân tâm, học pháp”, dùng chữ Nôm thay chữ Hán để tạo thế lâu bền giữ nước, xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô nơi đất khởi nghiệp Hồ Phi Phúc (tổ nghiệp của nhà Tây Sơn) để sâu rễ bền gốc. Vào khoảng đầu năm 1803, lúc Nguyễn Thiếp 80 tuổi, lúc vua Quang Trung đã mất, vua Quang Toản không giữ được cơ nghiệp, vua Gia Long nhà Nguyễn thắng nhà Tây Sơn đã triệu ông vào gặp vua tại Phú Xuân để hỏi việc nước. Nghe vị chúa này tỏ ý muốn trọng dụng, ông lấy cớ già yếu để từ chối, rồi xin về. Trên đường về, khi qua đỉnh đèo Ngang, ông đã cảm khái đọc bài thơ Nôm:
ĐÃ TRÓT LÊN ĐÈO PHẢI XUỐNG ĐÈO
Nguyễn Thiếp
Đã trót lên đèo, phải xuống đèo Tay không mình tưởng đã cheo leo Thương thay thiên hạ người gồng gánh Tháng lọn ngày thâu chỉ những trèo!
Danh sĩ Ngô Thì Nhậm(1746–1803), nhà văn, nhà mưu sĩ đời hậu Lê–Tây Sơn, người có công lớn trong việc giúp triều Tây Sơn đánh lui quân Thanh cũng cảm khái khi “lên đèo Ngang ngắm biển”. Bài thơ cao khiết, bi tráng, mang sắc thái thiền.
LÊN ĐÈO NGANG NGẮM BIỂN
Ngô Thì Nhậm
Bày đặt khen thay thợ hóa công, Khéo đem hang cọp áp cung rồng. Bóng cờ Trần đế (1) dường bay đó, Cõi đất Hoàn vương (2) thảy biến không. Chim đậu lùm xanh, xanh đã lão, Ngạc đùa sóng bạc, bạc nên ông. Việc đời bọt nổi, xưa nay thế, Phân họp giành trong giấc hạc nồng (3)
Bản dịch của Nguyễn Sĩ Lâm
ĐĂNG HOÀNH SƠN VỌNG HẢI
Tạo hóa đương sơ khổ dụng công, Khước tương hổ huyệt xấn giao cung. Hoàn vương phong vực qui ô hữu, Trần đế tinh kì quải thái không. Tình thụ thê cầm thương dục lão, Nộ đào hí ngạc bạch thành ông. Vô cùng kim cổ phù âu sự. Phân hợp du du hạc mộng trung.
Chú thích: (1) Trần đế:Các vua đời Trần. (2) Hoàn vương: Chiêm Thành. (3) Giấc hạc: Giấc mộng hạc. Câu thơ ý nói cuộc tranh giành đất đai giữa Đằng Ngoài và Đằng Trong chẳng qua chỉ là giấc mộng trần thế sẽ tiêu tan.
Đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820) có bài thơ “Qua đèo Ngang” trong Hải Ông Tập; họa vần bài thơ “năm Giáp Dần (1794), vâng mệnh vào kinh Phú Xuân, lúc lên đường lưu biệt các bạn ở Bắc Thành” của Hải Ông Đoàn Nguyễn Tuấn ( Đoàn Nguyễn Tuấn là con Đoàn Nguyễn Thục, đỗ Hương Cống đời Lê, có chiêu mộ người làng giúp Trịnh Bồng đánh Chỉnh, sau ra giúp Tây Sơn, làm đến chức Tả Thị Lang Bộ Lại, tước Hải Phái Bá. Có đi sứ Trung Quốc năm 1790 và có tập thơ nhan đề Hải Ông tập. Ông là anh vợ Nguyễn Du, hơn Nguyễn Du khoảng 15 tuổi). Đọc bài thơ này của Nguyễn Du để hiểu câu thơ truyện Kiều “Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”.
QUA ĐÈO NGANG
Nguyễn Du
Họa Hải Ông Đoàn Nguyễn Tuấn
Tiến về Nam qua đèo Ngang Hành trình đầy đủ gươm đàn mang theo Thuốc thần nào đã tới đâu Mảnh da beo vẫn mối đầu lụy thân Ánh mầu nước, chén rượu xanh Dõi theo vó ngựa một vành trăng quê Gặp gia huynh hỏi xin thưa Đường cùng tôi gặp, tóc giờ điểm sương
HỌA HẢI ÔNG ĐOÀN NGUYỄN TUẤN
Hoành Sơn sơn ngoại lĩnh nam trình Cần kiếm tương thùy thướng ngọc kinh Thỏ tủy vị hoàn tân đại dược Báo bì nhưng lụỵ cựu phù danh Thương minh thủy dẫn bôi trung lục Cố quốc thiềm tùy mã hậu minh Thử khứ gia huynh như kiến vấn Cùng đồ bạch phát chí tinh tinh
Nguyễn Tâm Hàn phỏng dịch
Danh sĩ Vũ Tông Phan, (1800 – 1851), nhà giáo dục, người có công lớn trong việc chấn hưng văn hóa Thăng Long thời vua Minh Mệnh cũng có bài thơ “Qua lũy Ninh Công nhớ chuyện xưa” rất nổi tiếng:
QUA LUỸ NINH CÔNG NHỚ CHUYỆN XƯA
Vũ Tông Phan
Đất này ví thử phân Nam, Bắc Hà cớ năm dài động kiếm dao? Trời tạo Hoành Sơn còn chẳng hiểm, Người xây chiến lũy tổn công lao. Thắng, thua rốt cuộc phơi hoang mộ, Thù hận dư âm rợn sóng đào. Thiên hạ nay đà quy một mối Non sông muôn thuở vẫn thanh cao.
QÚA NINH CÔNG LŨY HOÀI CỔ
Nhược tương thử địa phân Nam Bắc, Hà sự kinh niên động giáp bào? Thiên tạo Hoành Sơn do vị hiểm, Nhân vi cô lũy diệc đồ lao. Doanh thâu để sự không di chủng, Sát phạt dư thanh đái nộ đào. Vũ trụ như kim quy nhất thống, Mạc nhiên sơn thủy tự thanh cao.
Người dịch: Vũ Thế Khôi Nguồn: Đào Trung Kiên (Thi Viện)
Chu Thần Cao Bá Quát (1809 – 1855) là quốc sư của cuộc nổi dậy Mỹ Lương, và là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam. Cao Bá Quát có hai bài thơ viết ở đèo Ngang đó là Đăng Hoành Sơn (Lên núi Hoành Sơn) và Hoành Sơn Quan (Ải Hoành Sơn)
LÊN NÚI HOÀNH SƠN
Cao Bá Quát
Muôn dặm đường đi núi lẫn đồi, Bên non cỏ nội tiễn đưa người. Ai tài kéo nước nghìn năm lại ? Trăm trận còn tên một lũy thôi. Ải bắc mây tan mưa dứt hạt, Thôn nam nắng hửng sớm quang trời. Xuống đèo mới biết lên đèo khổ, Trần lụy, sao đành để cuốn lôi ?
ĐĂNG HOÀNH SƠN
Sơn ngại thanh sơn vạn lý Trình, Sơn biên dã thảo tống nhân hành. Anh hùng mạc vãn thiên niên quốc, Chinh chiến không tồn nhất lũy danh. Bắc lĩnh đoạn vân thu túc vũ, Nam trang sơ hiểu đái tân tình, Há sơn phản giác đăng sơn khổ, Tự thán du du ủy tục tình!
Người dịch: Nguyễn Quý Liêm Nguồn: Lương Sơn Thi Đàn
ẢI HOÀNH SƠN
Cao Bá Quát
Non cao nêu đất nước, Liền một dẫy ra khơi. Thành cũ trăm năm vững, Ải xa nghìn dặm dài. Chim về rừng lác đác, Mây bám núi chơi vơi. Chàng Tô nấn ná mãi, Tấm áo rách tơi rồi.
HOÀNH SƠN QUAN
Địa biểu lập sàn nhan, Liêu phong đáo hải gian. Bách niên khan cổ lũy, Thiên lý nhập trùng quan. Túc điểu sơ đầu thụ, Qui vân bán ủng sơn. Trì trì Tô Quí tử, Cừu tệ vị tri hoàn.
Bản dịch của Hóa Dân Nguồn: Lương Sơn Thi Đàn
Hồ Chí Minh (19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969) nhà cách mạng, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam trong thế kỷ 20. Hai bài thơ của Bác Hồ lúc 5 tuổi, là hai bài đồng dao của Nguyễn Sinh Cung (Nguyễn Tất Thành, tên thuở nhỏ của Hồ Chí Minh ) tại đèo Ngang, trong chuyện kể “Tất Đạt tự ngôn” được Sơn Tùng ghi lại. Đó cũng là những câu thơ lưu lạc, huyền thoại giữa đời thường. Câu chuyện “đường lưỡi bò” và lời đồng dao “Biển là ao lớn, Thuyền là con bò” “Em nhìn thấy trước, Anh trông thấy sau” của cậu bé Nguyễn Sinh Cung “nói” năm 1895 mà Sơn Tùng đã ghi lại và in trên báo Cứu Quốc lần đầu năm 1950. Câu chuyện trẻ con đan xen những ẩn khuất lịch sử chưa được giải mã đầy đủ về Quốc Cộng hợp tác, tầm nhìn Hoàng Sa, Trường Sa của Tưởng Giới Thạch, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1424-1427, lúc mà Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Lý Thụy làm phiên dịch cho Borodin trưởng đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô tới Quảng Châu giúp chính phủ Trung Hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch.
KHÔNG ĐỀ
Nguyễn Sinh Cung – 1895
Núi cõng con đường mòn Cha thì cõng theo conNúi nằm ì một chỗ Cha thì cúi lom khom Đường bám lì lưng núi Con tập chạy lon ton Cha siêng hơn ngọn núi Con đường lười hơn con.
Biển là ao lớn. Thuyền là con bò Bò ăn no gió Lội trên mặt nước Em nhìn thấy trước Anh trông thấy sau Ta lớn mau mau Vượt qua ao lớn.
Bà Huyện Thanh Quan (1805-1848), tên thật là Nguyễn Thị Hinh, là một nhà thơ nữ nổi tiếng trong thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam với bàithơ “Qua đèo Ngang’, một tuyệt phẩm thơ cổ, được người đời truyền tụng hơn cả (1) (2).
QUA ĐÈO NGANG
Bà huyện Thanh Quan
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá, lá chen hoa Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông rợ mấy nhà. Nhớ nước đau lòng con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng cái gia gia Dừng chân đứng lại trời, non, nước Một mảnh tình riêng ta với ta.
Bộ đáo Hoành Quan nhật dĩ tà, Yên ba gian thạch, thạch gian hoa. Tiều quy nham hạ, ta ta tiểu, Thị tập giang biên, cá cá đa. Đỗ vũ tâm thương, thanh quốc quốc, Giá cô hồn đoạn, tứ gia gia. Đình đình trữ vọng: thiên, sơn, hải, Nhất phiến cô hoài, ta ngã ta.
Bản dịch chữ Hán của Nguyễn Văn Thích
QUÁ HOÀNH SƠN
Quá Hoành Sơn đỉnh tịch dương tà Thảo mộc tê nham diệp sấn hoa Kỳ khu lộc tế tiều tung yểu Thác lạc giang biên điếm ảnh xa Ưu quốc thương hoài hô quốc quốc Ái gia quyện khẩu khiếu gia gia Tiểu đình hồi vọng thiên sơn thuỷ Nhất phiến ly tình phân ngoại gia.
Bản dịch chữ Hán của Lý Văn Hùng.
Đèo Ngang và những tuyệt phẩm thơ cổ, nơi lưu dấu những huyền thoại (2).
Hoàng Kim
(1) Hoàng Đình Quang họa vần “Qua đèo Ngang” với lời bình xác đáng:
Thế sự mông lung lộn chính tà Quần hồng ghi dấu bậc tài hoa Sáu bài thơ cổ lưu tên phố (*) Nửa thế kỷ nay đánh số nhà (**) Khanh tướng chắc gì nên vọng tộc Câu thơ còn đó lập danh gia Chẳng bia, chẳng tượng, không đến miếu Ngẫm sự mất còn khó vậy ta?
(*) Toàn bộ sự nghiệp thơ ca của Bà Huyện Thanh Quan chỉ còn lại 6 bài, trong đó có 2 bài được coi là kiệt tác: Qua đèo Ngang và Thăng Long thành hoài cổ. (**) Từ năm 1955, chính quyền Việt Nam (miền Nam) chính thức đặt tên đường Bà Huyện Thanh Quan cho một đường phố của thành phố Sài Gòn, (thay thế tên cũ Flandin do người Pháp) và tồn tại cho đến ngày nay.
(2) Qua đèo chợt gặp mai đầu suối, Hoàng Kim đã thuật lại câu chuyện “Tầm hữu vị ngộ Hồ Chí Minh” do cố Bộ trưởng Xuân Thủy kể trên đỉnh đèo Ngang năm 1970. “Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh/ Đường về vó ngựa dẫm mây xanh/ Qua đèo chợt gặp mai đầu suối/ Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành“ Bài thơ kỳ lạ này của Bác Hồ đăng trên báo khoảng năm 1970 ẩn chứa nhiều triết lý sâu sắc không dễ thấy, là thơ Bác Hồ mà ít thấy sách báo nào nhắc đến gần nửa thế kỷ qua“.
Đỉnh đèo Ngang , ranh giới Hà Tĩnh Quảng Bính nơi lưu giấu huyền thoại “Qua đèo chợt gạp mai đầu suối”. Mộ bác Giáp an táng tại mũi Rồng gần vũng Chùa nam đèo Ngang (ảnh đầu trang).
NGHE TIÊU VÀ TẬP THỞ Thầy Thuannghia Le hướng dẫn nghe tiêu và tập thở để rèn luyện sức khỏe và tuệ học như sau: “Đối với người chưa tập luyện qua Hơi thở bụng, ngồi tĩnh tâm, nhắm hờ mắt lắng nghe tiếng tiêu trong Video đính kèm. Nghe hết bản nhạc mà bạn không cảm thấy khó chịu, ngược lại, lại cảm thấy dễ chịu thoải mái, buồn ngủ….thì bạn có căn cơ về hơi thở để tiếp cận Huyền Nhiệt Tốc Đạt. Bài viết đã dài. Mọi chi tiết sẽ thông báo trong bài viết tiếp theo. Chúc các bạn an lành, và cảm ơn sự theo dõi”.
I Ta thích được đùa vui cùng Thuận Nghĩa Lắng nghe tiêu, học trực tuyến cùng thầy Học xong bài thấy bình an dễ chịu Hơi thở an lành khoan khoái phiêu diêu
Nguyễn Văn Hưởng thầy dưỡng sinh luyện thở Phương pháp Dưỡng sinh hay giữa đời thường Nhớ cụ Nguyễn Khắc Viện luyên thở Thầy Nguyễn Bình Khiêm với Dưỡng sinh thi
“Giữ khí, gìn tinh, lại dưỡng thần Ít lo, ít muốn, ít lao thân. Cơm nên vừa bụng, đừng nhiều vị, Rượu chỉ vài phân, chớ qúa từng. Miệng cứ câu đùa, vui miệng mãi, Bụng thường nghĩ tốt, bụng lâng lâng. Bốc đồng, biến trá, thôi đừng hỏi, ể tớ tiêu dao đến tuổi trăm.” (Bản dịch của GS. Lê Trí Viễn)
II
Ta về lại thăm rừng xưa Thuận Nghĩa Chuyện cùng Lão Phu đàm đạo Thần Thông Thập nhị nhân duyên mười hai tuyệt kỹ Khả năng thích nghi năng lực siêu phàm
Tha tâm thông hiểu hành vi người khác Thiên nhãn thông nhìn thấu suốt nơi xa Thiên nhĩ thông nghe những lời kín tiếng Khinh công thông nhanh gió dục mây vần
Thủy thượng phiêu lướt bay trên mặt nước Tâm thức chuyển di thoắt ở thoắt về Huyền nhiệt luyện ngọn lửa thiêng Tam muội Lôi hỏa điện thân phát điện ngàn vôn
Thiết bố sam luyện mình đồng, thân sắt Sư tử hống tiếng gầm chúa sơn lâm Truyền âm nhập mật thâm sâu thấu tỏ Năng lực thích nghi bí ẩn sinh tồn
Ta chợt thấu những chuyện đời khó giải Tình thế Biển Đông tiến thoái lưỡng nan Mèo vờn chuột thuận thiên và kế hiểm Bức tranh nhân gian thiện ác khó bàn.
III
Ta về lại rừng xưa cùng Thuận Nghĩa Gặp Lão Phu múa gậy dưới trăng rằm Thuận thời Càn Khôn, Hàm Hằng chính đạo Kí Tế xong rồi, Vị Tế chưa xong …
Thích Tiếu Ngạo Giang Hồ qua bể ái Cưỡi hạc tung tăng chơi chốn Bồng Lai Thung dung cuộc đời, thảnh thơi trời đất Vô sự an nhàn sống giữa thiên nhiên.
Thích cùng lão dạo chơi VÔ PHƯƠNG CÚ Dấu chân hoang Thong thả lạc non ngàn Chẳng e ngại chông chênh hay tâm bão Bởi tâm hồn tĩnh lặng thật an nhiên
Người Hoa Đất duyên may còn sức khỏe Nẻo Âm Dương xin Bụt ước ba điều Con và cháu thêm ba nguồn trí huệ Ngọc cho đời Thành Phước Đức cho Dân
Tâm an định nên lòng không vướng bận trí an hòa xử thế thật thung dung khi kho báu trong lòng ta đã rõ chẳng Ưu Tư mặc gió dục mây vần
dẫu như vậy đôi khi bâng khuâng hỏi cửa Thần Phù khéo giữ trọn đường tu lênh đênh nước lênh đênh con thuyền nhỏ chốn nhân gian ước được thế nhân phù.
những lúc ấy mới hay duyên tiền định trong thâm tâm mới tỏ sự luân hồi luật Nhân Quả lật Sách Trời gạn hỏi Mới hiểu đời học mãi vẫn chưa thôi
Vô Phương Cú Câu thơ thần tĩnh lặng Vòm trời xanh thăm thẳm một thinh không Ta chợt ngộ Ban mai chào trước ngõ Bình minh lênTrời đất thật VÔ CÙNG…
Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của giáo sư tiến sĩ khoa học Đỗ Tất Lợi là công trình nghiên cứu rất có giá trị ở Việt Nam và Thế Giới. Sách xuất bản đến nay là lần thứ 11. Hội đồng chứng chỉ khoa học tối cao Liên Xô năm 1968 đã công nhận học vị Tiến sĩ khoa học cho Người xứng danh tiến sĩ không cần bảo vệ luận ándược sĩ Đỗ Tất Lợi trên cơ sở cuốn sách này. Triển lãm hội chợ sách quốc tế Matxcơva năm 1983, bộ sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam được bình chọn là một trong bảy viên ngọc quý của Thế Giới trong triển lãm sách.GS.TS. Đỗ Tất Lợi, nhà dược học phương Đông lỗi lạc, danh y Việt Nam (2 tháng 1 năm 1919 – 3 tháng 2 năm 2008), là gương sáng người thầy khoa học, “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
Tải sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của Giáo sư Đỗ Tất Lợi dạng pdf tại đây. Cuốn sách viết về nguồn gốc, phân bố, dược tính, thành phần các vị thuốc, các cách sử dụng, kinh nghiệm dùng thuốc… Cuốn sách bao gồm các phần: Phần 1: Phần chung 1.1 Một số điểm cần chú ý khi sử dụng thuốc Nam. 1.2. Cơ sở lý luận về tìm thuốc và tác dụng thuốc theo Đông y. 1.3. Bào chế thuốc theo Đông y. 1.4. Cơ sở để xem xét tác dụng của thuốc theo y học hiện đại (Tây y). Phần ll.- Những cây thuốc và vị thuốc 1. Các cây thuốc và vị thuốc chữa bệnh phụ nữ 2. Các cây thuốc và vị thuốc chữa mụn nhọt mẩn ngứa 3. Các cây thuốc và vị thuốc trị giun sán. 4. Các cây thuốc và vị thuốc chữa lỵ 5. Các cây thuốc và vị thuốc thông tiểu tiện và thông mật 6. Các cây thuốc và vị thuốc cầm máu 7. Các cây thuốc và vị thuốc hạ huyết áp 8. Các cây và vị thuốc có chất độc 9. Các cây và vị thuốc chữa bệnh ở bộ máy tiêu hóa. 10. Các cây và vị thuốc chữa đi lõng, đau bụng. 11. Các cây và vị thuốc chữa nhuận tràng và tẩy. 12. Các cây và vị thuốc chữa đau dạ dày. 13. Các cây và vị thuốc chữa tê thấp, đau nhức. 14. Các cây và vị thuốc đắp vết thương rắn rết cắn. 15. Các cây và vị thuốc chữa bệnh tai mắt mũi răng họng. 16. Các cây và vị thuốc chữa bệnh tim. 17. Các cây và vị thuốc chữa bệnh cảm sốt. 18. Các cây và vị thuốc chữa bệnh ho hen. 19. Các cây và vị thuốc ngủ, an thần, trấn kinh. 20. Các vị thuốc bổ, thuốc bồi dưỡng nguồn gốc thảo vật. 21. Các vị thuốc bổ nguồn gốc động vật. 22. Các vị thuốc khác nguồn gốc động vật. 23. Các vị thuốc nguồn gốc khoáng vật. Phần III: Phụ lục
Nhân Ngày Thầy thuốc Việt Nam 27 tháng 2, xin trân trọng đăng bài viết về Giáo sư Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi, một trong nhiều người thầy thuốc Việt Nam, đã cống hiến tâm đức trí tuệ và tài năng cho sức khỏe của con người. Mong các Bác sĩ và những người làm nghề y luôn khỏe và hạnh phúc để mang lại sức khỏe và hạnh phúc cho nhiều người hơn nữa.
GIẤC MƠ LAI KHOAI LANG? Hoàng Kim Muống biển liệu có thể lai khoai lang để gia tăng tính kháng? Trước đây khi còn trẻ thơ, tôi đã tự hỏi vậy. Gần đây, bài thơ ‘Chuyện Tình Hoa Muống Biển” của anh Hoàng Đại Nhân gợi tôi trở về câu chuyện cũ. Bài thơ trong sáng giản dị và hay, cốt truyện tình yêu đẹp, giá trị nhân văn cao, hình ảnh tuyệt vời. Tôi trở lại câu hỏi khoa học cây trồng Muống biển liệu có thể lai khoai lang để gia tăng tính kháng?
Hoa muống biển và hoa khoai lang hình thái thật giống nhau.
Muống biển và khoai lang là hai loài thực vật có quan hệ gần gũi. Muống biển (Ipomoea pes-caprae (L.) R.Br.) là loài thực vật thuộc họ Bìm bìm (Convolvulaceae) mọc phổ biến trên của các bãi biển và chịu được không khí mặn. Carl von Linné (23 tháng 5 năm 1707 – 10 tháng 1 năm 1778), nhà thực vật học, bác sĩ kiêm động vật học người Thụy Điển, người tiên phong của ngành sinh thái học “Hoàng tử của giới thực vật học“, cha đẻ của hệ thống phân loại theo danh pháp hiện đại, là người đầu tiên mô tả loài thực vật này; năm 1818, Robert Brown là người phân loại nó vào chi hiện tại. Muống biển được tìm thấy trên bờ cát vùng nhiệt đới ven biển Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, phía bắc của bang New South Wales, và dọc bờ biển bang Queensland thuộc nước Úc. Muống biển ở Việt Nam mọc hoang khắp các bãi cát ven biển từ Hà Tiên, Rạch Giá (Kiên Giang), đến Vũng Tàu (Bà Rịa Vũng Tàu), Nha Trang (Khánh Hòa), Quảng Trị, Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hóa, Hải Phòng…Muống biển có công dụng làm thuốc nhưng hiện chưa có các nghiên cứu sâu về cây này. Theo Nông nghiệp Việt Nam muống biển công dụng trong y học cổ truyền được dùng toàn cây để chữa trị các chỗ viêm do dị ứng với sứa biển, phong độc, bệnh ngoài da; hạt để chữa trị mệt mỏi; lá được dùng để giã nát đắp lên chỗ ngứa do sứa biển.
Khoai lang (Ipomoea batatas L) là cây hai lá mầm thuộc họ Bìm bìm Convolvulaceae, chi Ipomoea, Chi phụ: Quamoclit; Phân chi: Batatas Loài: Ipomoea batatas. Họ Bìm bìm có 55 chi và khoảng 1650 loài, trong đó chi Ipomoea là chi lớn nhất với khoảng 600 loài (Austin, 1997). Ở Việt Nam có 13 chi và 76 loài (Lương Ngọc Toàn và csv, 1978). Cây khoai lang được phân loại trong chi Batatas. Hiện nay trong nội tộc phân chi Batatas có 13 loài hoang dại quan hệ với khoai lang. Khoai lang có số nhiễm sắc thể 15, là dạng lục bội thể (6x) duy nhất có khả năng tạo củ để làm lương thực. Trần Văn Minh 2008 đã trích dẫn tài liệu của Iting và Kehr 1953 nghiên cứu sự phân chia giảm nhiễm ở các giống khoai lang của Mỹ và giả thuyết là khoai lang có nguồn gốc đa bội khác nguồn. Nó hình thành từ tổ hợp lai giữa một tứ bội thể với nhị bội, sau đó xẩy ra quá trình phân đôi nhiễm sắc thể ở con lai bất dục. Nishiyama 1982 và Shiotani 1988 thì lại cho rằng khoai lang là một tứ bội cùng nguồn, hình thành do sự đa bội hoá của loài lưỡng bội.
Carl von Linné nhà thực vật học Thụy Điển, nhà bác học hàng đầu của nhân loại ngành sinh thái học “Hoàng tử của giới thực vật học“, cha đẻ của hệ thống phân loại theo danh pháp hiện đại. Ông là người đầu tiên mô tả loài muống biển. Ông cũng là nhà thơ, nhà ngôn ngữ lừng danh mà August Strindberg tác giả người Thụy Điển viết: “Linné kỳ thực là một nhà thơ sinh ra để trở thành nhà tự nhiên học”. Linné được Goethe nhà bác học thiên tài người Đức ca ngợi: “Trừ Shakespeare và Spinoza, tôi không biết ai giữa những người không còn sống mà ảnh hưởng tới tôi lớn hơn thế”.
Hình ảnh cậu bé tiến về biển lúc bình minh gợi chúng ta nhớ về câu chuyện muống biển, khoai lang quan hệ với “Hai vạn dặm dưới đáy biển” một tiểu thuyết khoa học viễn tưởng của Jules Verne nhà văn Pháp nay đã chuyển thể thành phim. Hai Vạn Dặm Dưới Đáy Biển http://hdonline.vn/phim-hai-van-dam-duoi-day-bien-10140.htm…
Câu chuyện “20,000 Leagues Under the Sea” 1954 kể rằng: Trong năm 1868, tin đồn về một con quái vật biển tấn công tàu ở Thái Bình Dương đã tạo ra lo âu và khiếp sợ trong thủy thủ Hoa Kỳ, làm gián đoạn đường vận chuyển hàng hải . Chính phủ Hoa Kỳ mời Giáo sư Pierre Aronnax và Conseil phụ tá của ông lên một tàu chiến thám hiểm để chứng minh hay bác bỏ sự tồn tại của con quái vật. Kết quả “Hai vạn dặm dưới đáy biển” Giáo sư Pierre Aronnax nhà bác học biển và cộng sự đã thấu hiểu đại dương, thế giới biển, nguồn thức ăn khác biệt và vô tận dưới biển sâu, và năng lực của tàu ngầm, phát minh khoa học làm mở rộng tầm mắt và thay đổi nhận thức về thế giới biển.
Giống khoai lang ở Việt Nam HL491 và HL518 chất lượng ngon, năng suất cao.
Giống khoai lang Việt Nam ngon nhất hiện nay là HL518 Nhật đỏ, HL491 Nhật tím (Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997) và khoai lang Hoàng Long (Hoàng Kim, Nguyễn Thị Thủy 1981), Ba giống khoai lang ngon này mức kháng sùng chỉ đạt trung bình (http://foodcrops.blogspot.com/2010/01/giong-khoai-lang-o-viet-nam.html)
Giáo sư Vũ Đình Hòa (Học Viện Nông nghiệp Việt Nam) trong luận án tiến sĩ năm 1991 có thực hiện việc lai giống khoai lang loài khoai lang Ipomoea batatas L với loài khoai lang dại IpomoeaTrifida để tìm giải pháp giống khoai lang kháng sùng.
Vậy, muống biển liệu có thể lai khoai lang để gia tăng tính kháng?
Ban mai trên biển Quê hương, nơi có sóng, có gió và loài hoa muống biển. Tôi yêu quê tôi, yêu vùng gió cát “Chang chang cồn cát nắng trưa Quảng Bình”. Nhớ đết thắt lòng con “dèm” nhỏ, con cua nhỏ nên dòng Gianh và những vạt muống biển xanh bất tận bên bờ Nhật Lệ. Và bài thơ Sóng yêu thương vỗ mãi đến vô cùng đã ra đời từ đó.
SÓNG YÊU THƯƠNG VỖ MÃI ĐẾN VÔ CÙNG
Hoàng Kim
Anh yêu biển tự khi nào chẳng rõ Bởi lớn lên đã có biển quanh rồi Gió biển thổi nồng nàn hương biển gọi Để xa rồi thương nhớ chẳng hề nguôi
Nơi quê mẹ mặt trời lên từ biển Mỗi sớm mai gió biển nhẹ lay màn Ráng biển đỏ hồng lên như chuỗi ngọc Nghiêng bóng dừa soi biếc những dòng sông
Qua đất lạ ngóng xa vời Tổ Quốc Lại dịu hiền gặp biển ở kề bên Khi mỗi tối điện bừng bờ biển sáng Bỗng nhớ nhà những lúc mặt trăng lên
Theo ngọn sóng trông mù xa tít tắp Nơi mặt trời sà xuống biển mênh mông Ở nơi đó là bến bờ Tổ Quốc Sóng yêu thương vỗ mãi đến vô cùng …
Nhưng đất cát nghèo Quê Choa ven sông ven biển không chỉ nắng, có gió, có phi lao và có muống biển mà còn có khoai lang. Đèo Ngang “đang nghèo” Linh Giang dòng sông quê hương cũng là vùng quê nghèo ‘khoai khoai toàn khoai’ của tuổi thơ tôi. Củ khoai lang ‘sâm người nghèo’ lặn vào trong ký ức. Tôi lớn lên bên khoai lang và muống biển và tuổi thơ bên gió cát dòng Gianh. Thuở nhỏ, tôi thường tần ngần cầm hai bông hoa nhỏ khoai lang và muống biển mơ đến một ngày … lai khoai lang. Mời bạn ngắm ảnh Biển Nhật Lệ Quảng Bình và đọc bài viết gốc tại đây https://hoangkimvietnam.wordpress.com/2012/05/01/bi%E1%BB%83n-nh%E1%BA%ADt-l%E1%BB%87/
Hoàng Kim
Tài liệu dẫn:
(1) Truyện thơ CHUYỆN TÌNH HOA MUỐNG BIỂN Hoàng Đại Nhân
Khi mặt trăng vừa từ biển mọc lên Tỏa ánh sáng dịu dàng bờ cát trắng Biển đêm nay êm đềm, con sóng lặng Từng cặp đôi đang sải bước ven bờ
Cô gái hiền lành, trong sáng ngây thơ Bên chàng trai khi tình vừa chớm nở Họ cùng nhau thì thầm trao lời hứa Hai con tim cùng nhịp đập rộn ràng
Chàng trai nghèo bao hy vọng chứa chan Cùng người đẹp sẽ nên duyên chồng vợ Cái ngày ấy chẳng còn bao xa nữa Khi người yêu đã thề nguyện chung tình.
Cha cô gái hay tin nổi nóng, bất bình Biết chàng nghèo, chẳng “môn đăng hộ đối” Ông thẳng thắn: “Đừng nên mơ ước vội Hãy kiếm đi, đủ lễ vật…, ta chờ”
Chàng trai nghèo sau những phút sững sờ Hiểu phận mình, đâu trách gì cô gái Càng yêu thương, chàng càng thêm hăng hái Quyết ra khơi mong có dịp đổi đời
Biển quê hương như cũng hiểu lòng người Giúp chàng trai nặng thêm từng mẻ lưới Chàng thầm nghĩ chỉ thêm vài ngày tới Số tiền ta sắm lễ vật đủ rồi
Lần cuối cùng chàng lướt sóng ra khơi Lòng khấp khởi tràn trề bao hy vọng Căng sức trẻ, đâu sợ gì con sóng Khi con tim mang hình bóng của nàng
Cô gái đợi chờ, hy vọng chứa chan Hoàng hôn xuống, đón thuyền chàng cập bến Nhưng… bất hạnh bỗng từ đâu ập đến Nàng đâu hay, bão biển đã cướp chàng
Nỗi niềm đau, con tim trẻ nát tan Nàng quên ăn, cứ ngày ngày hướng biển Nàng cầu mong con thuyền chàng xuất hiện Nhưng biển xa chỉ tung sóng cuộn trào
Qua nhiều ngày cô tiều tụy mòn hao Rồi gục chết khi biển chiều tàn nắng Ơi cô gái ! Một con tim trong trắng Phút cuối đời vẫn hướng phía biển xa
Trời thương cô, cho hóa kiếp thành hoa Loài muống biển vươn dài trên bờ cát Hướng về biển, nghe dập dìu biển hát Lời yêu thương cháy bỏng những hẹn hò
Chàng trai hóa thành những ngọn sóng xô Cứ ào ạt cản ngăn loài muống biển Hãy quay lại, em ơi, xin đừng tiến Để an lành tươi thắm một loài hoa.
Biển hôm nay mãi hát khúc tình ca Bản tình ca thắm màu hoa muống biển Mãi tươi hồng đón chào con sóng đến Lời thủy chung son sắt đến trọn đời. —– – Hình ảnh từ Internet – Ngẫu hứng từ chuyện SỰ TÍCH HOA MUỐNG BIỂN (Kho tàng chuyện cổ Việt Nam, nguồn Internet).
“Trèo đèo hai mái chân vân / Lòng về Hà Tĩnh, dạ ân Quảng Bình”. Đèo Ngang là con đèo lịch sử đã đi vào ca dao, huyền thoại. Nhiều danh nhân- thi sĩ như Lê Thánh Tông, Nguyễn Thiếp, Vũ Tông Phan, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du, Bà huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát, Hồ Chí Minh … đã lưu dấu tại đèo Ngang những tuyệt phẩm thơ. Đặc biệt, bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà huyện Thanh Quan rất nổi tiếng.
Lê Thánh Tông (1442 – 1497) là vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì từ năm 1460 đến 1497, tổng cộng 37 năm. Ông nổi tiếng là vị minh quân, là người đã đưa Đại Việt lên tới thời hoàng kim của chế độ phong kiến. Ông cũng được xem là một nhà văn hoá và một người coi trọng hiền tài. Lê Thánh Tông trên đường chinh phục Chiêm Thành năm 1469 có bài Di Luân hải tần (Cửa Roòn) gửi Ma Cô (đền thiêng thờ công chúa Liễu Hạnh, ở xã Quảng Đông nam Đèo Ngang)
CỬA ROÒN
Lê Thánh Tông (*)
Tây Hoành Sơn thấy rõ Di Luân Cát trải mênh mông tiếp biển gần Sóng nước đá nhô xây trạm dịch Gió sông sóng dựng lập đồn quan Muối Tề sân phố mời thương khách Rượu Lỗ quầy bàn tiếp thị dân Muốn nhắn Ma Cô nhờ hỏi giúp Bụi trần Nam Hải có xua tan.
Trần Châu Báu Di Luân cẩn dịch
DI LUÂN HẢI TẤN
Hoành Sơn tây vọng thị Di Luân Diễu diễu bình sa tiếp hải tần Yên thủy sa đầu phân dịch thứ Phong đào giang thượng kiến quan tân Tề diêm trường phố yêu thương khách Lỗ tửu bồi bàn túy thị nhân Dục phỏng Ma Cô bằng ký ngữ Nam minh kim dĩ tức dương trần.
Nguyễn Thiếp, (1723 – 1804), là nhà giáo, danh sĩ cuối đời Hậu Lê và Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông được vua Quang Trung rất nể trọng. Nguyễn Thiếp đã hiến kế cho vua Quang Trung ” “Người Thanh ở xa tới mệt nhọc không biết tình hình khó dễ thế nào. Vả nó có bụng khinh địch, nếu đánh gấp thì không ngoài mười ngày sẽ phá tan. Nếu trì hoãn một chút thì khó lòng mà được nó”. Ông đồng thời cũng là người dâng ba kế sách “quân đức, dân tâm, học pháp”, dùng chữ Nôm thay chữ Hán để tạo thế lâu bền giữ nước, xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô nơi đất khởi nghiệp Hồ Phi Phúc (tổ nghiệp của nhà Tây Sơn) để sâu rễ bền gốc. Vào khoảng đầu năm 1803, lúc Nguyễn Thiếp 80 tuổi, lúc vua Quang Trung đã mất, vua Quang Toản không giữ được cơ nghiệp, vua Gia Long nhà Nguyễn thắng nhà Tây Sơn đã triệu ông vào gặp vua tại Phú Xuân để hỏi việc nước. Nghe vị chúa này tỏ ý muốn trọng dụng, ông lấy cớ già yếu để từ chối, rồi xin về. Trên đường về, khi qua đỉnh đèo Ngang, ông đã cảm khái đọc bài thơ Nôm:
ĐÃ TRÓT LÊN ĐÈO PHẢI XUỐNG ĐÈO
Nguyễn Thiếp
Đã trót lên đèo, phải xuống đèo Tay không mình tưởng đã cheo leo Thương thay thiên hạ người gồng gánh Tháng lọn ngày thâu chỉ những trèo!
Danh sĩ Ngô Thì Nhậm(1746–1803), nhà văn, nhà mưu sĩ đời hậu Lê–Tây Sơn, người có công lớn trong việc giúp triều Tây Sơn đánh lui quân Thanh cũng cảm khái khi “lên đèo Ngang ngắm biển”. Bài thơ cao khiết, bi tráng, mang sắc thái thiền.
LÊN ĐÈO NGANG NGẮM BIỂN
Ngô Thì Nhậm
Bày đặt khen thay thợ hóa công, Khéo đem hang cọp áp cung rồng. Bóng cờ Trần đế (1) dường bay đó, Cõi đất Hoàn vương (2) thảy biến không. Chim đậu lùm xanh, xanh đã lão, Ngạc đùa sóng bạc, bạc nên ông. Việc đời bọt nổi, xưa nay thế, Phân họp giành trong giấc hạc nồng (3)
Bản dịch của Nguyễn Sĩ Lâm
ĐĂNG HOÀNH SƠN VỌNG HẢI
Tạo hóa đương sơ khổ dụng công, Khước tương hổ huyệt xấn giao cung. Hoàn vương phong vực qui ô hữu, Trần đế tinh kì quải thái không. Tình thụ thê cầm thương dục lão, Nộ đào hí ngạc bạch thành ông. Vô cùng kim cổ phù âu sự. Phân hợp du du hạc mộng trung.
Chú thích: (1) Trần đế:Các vua đời Trần. (2) Hoàn vương: Chiêm Thành. (3) Giấc hạc: Giấc mộng hạc. Câu thơ ý nói cuộc tranh giành đất đai giữa Đằng Ngoài và Đằng Trong chẳng qua chỉ là giấc mộng trần thế sẽ tiêu tan.
Đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820) có bài thơ “Qua đèo Ngang” trong Hải Ông Tập; họa vần bài thơ “năm Giáp Dần (1794), vâng mệnh vào kinh Phú Xuân, lúc lên đường lưu biệt các bạn ở Bắc Thành” của Hải Ông Đoàn Nguyễn Tuấn ( Đoàn Nguyễn Tuấn là con Đoàn Nguyễn Thục, đỗ Hương Cống đời Lê, có chiêu mộ người làng giúp Trịnh Bồng đánh Chỉnh, sau ra giúp Tây Sơn, làm đến chức Tả Thị Lang Bộ Lại, tước Hải Phái Bá. Có đi sứ Trung Quốc năm 1790 và có tập thơ nhan đề Hải Ông tập. Ông là anh vợ Nguyễn Du, hơn Nguyễn Du khoảng 15 tuổi). Đọc bài thơ này của Nguyễn Du để hiểu câu thơ truyện Kiều “Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”.
QUA ĐÈO NGANG
Nguyễn Du
Họa Hải Ông Đoàn Nguyễn Tuấn
Tiến về Nam qua đèo Ngang Hành trình đầy đủ gươm đàn mang theo Thuốc thần nào đã tới đâu Mảnh da beo vẫn mối đầu lụy thân Ánh mầu nước, chén rượu xanh Dõi theo vó ngựa một vành trăng quê Gặp gia huynh hỏi xin thưa Đường cùng tôi gặp, tóc giờ điểm sương
HỌA HẢI ÔNG ĐOÀN NGUYỄN TUẤN
Hoành Sơn sơn ngoại lĩnh nam trình Cần kiếm tương thùy thướng ngọc kinh Thỏ tủy vị hoàn tân đại dược Báo bì nhưng lụỵ cựu phù danh Thương minh thủy dẫn bôi trung lục Cố quốc thiềm tùy mã hậu minh Thử khứ gia huynh như kiến vấn Cùng đồ bạch phát chí tinh tinh
Nguyễn Tâm Hàn phỏng dịch
Danh sĩ Vũ Tông Phan, (1800 – 1851), nhà giáo dục, người có công lớn trong việc chấn hưng văn hóa Thăng Long thời vua Minh Mệnh cũng có bài thơ “Qua lũy Ninh Công nhớ chuyện xưa” rất nổi tiếng:
QUA LUỸ NINH CÔNG NHỚ CHUYỆN XƯA
Vũ Tông Phan
Đất này ví thử phân Nam, Bắc Hà cớ năm dài động kiếm dao? Trời tạo Hoành Sơn còn chẳng hiểm, Người xây chiến lũy tổn công lao. Thắng, thua rốt cuộc phơi hoang mộ, Thù hận dư âm rợn sóng đào. Thiên hạ nay đà quy một mối Non sông muôn thuở vẫn thanh cao.
QÚA NINH CÔNG LŨY HOÀI CỔ
Nhược tương thử địa phân Nam Bắc, Hà sự kinh niên động giáp bào? Thiên tạo Hoành Sơn do vị hiểm, Nhân vi cô lũy diệc đồ lao. Doanh thâu để sự không di chủng, Sát phạt dư thanh đái nộ đào. Vũ trụ như kim quy nhất thống, Mạc nhiên sơn thủy tự thanh cao.
Người dịch: Vũ Thế Khôi Nguồn: Đào Trung Kiên (Thi Viện)
Chu Thần Cao Bá Quát (1809 – 1855) là quốc sư của cuộc nổi dậy Mỹ Lương, và là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam. Cao Bá Quát có hai bài thơ viết ở đèo Ngang đó là Đăng Hoành Sơn (Lên núi Hoành Sơn) và Hoành Sơn Quan (Ải Hoành Sơn)
LÊN NÚI HOÀNH SƠN
Cao Bá Quát
Muôn dặm đường đi núi lẫn đồi, Bên non cỏ nội tiễn đưa người. Ai tài kéo nước nghìn năm lại ? Trăm trận còn tên một lũy thôi. Ải bắc mây tan mưa dứt hạt, Thôn nam nắng hửng sớm quang trời. Xuống đèo mới biết lên đèo khổ, Trần lụy, sao đành để cuốn lôi ?
ĐĂNG HOÀNH SƠN
Sơn ngại thanh sơn vạn lý Trình, Sơn biên dã thảo tống nhân hành. Anh hùng mạc vãn thiên niên quốc, Chinh chiến không tồn nhất lũy danh. Bắc lĩnh đoạn vân thu túc vũ, Nam trang sơ hiểu đái tân tình, Há sơn phản giác đăng sơn khổ, Tự thán du du ủy tục tình!
Người dịch: Nguyễn Quý Liêm Nguồn: Lương Sơn Thi Đàn
ẢI HOÀNH SƠN
Cao Bá Quát
Non cao nêu đất nước, Liền một dẫy ra khơi. Thành cũ trăm năm vững, Ải xa nghìn dặm dài. Chim về rừng lác đác, Mây bám núi chơi vơi. Chàng Tô nấn ná mãi, Tấm áo rách tơi rồi.
HOÀNH SƠN QUAN
Địa biểu lập sàn nhan, Liêu phong đáo hải gian. Bách niên khan cổ lũy, Thiên lý nhập trùng quan. Túc điểu sơ đầu thụ, Qui vân bán ủng sơn. Trì trì Tô Quí tử, Cừu tệ vị tri hoàn.
Bản dịch của Hóa Dân Nguồn: Lương Sơn Thi Đàn
Hồ Chí Minh (19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969) nhà cách mạng, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam trong thế kỷ 20. Hai bài thơ của Bác Hồ lúc 5 tuổi, là hai bài đồng dao của Nguyễn Sinh Cung (Nguyễn Tất Thành, tên thuở nhỏ của Hồ Chí Minh ) tại đèo Ngang, trong chuyện kể “Tất Đạt tự ngôn” được Sơn Tùng ghi lại. Đó cũng là những câu thơ lưu lạc, huyền thoại giữa đời thường. Câu chuyện “đường lưỡi bò” và lời đồng dao “Biển là ao lớn, Thuyền là con bò” “Em nhìn thấy trước, Anh trông thấy sau” của cậu bé Nguyễn Sinh Cung “nói” năm 1895 mà Sơn Tùng đã ghi lại và in trên báo Cứu Quốc lần đầu năm 1950. Câu chuyện trẻ con đan xen những ẩn khuất lịch sử chưa được giải mã đầy đủ về Quốc Cộng hợp tác, tầm nhìn Hoàng Sa, Trường Sa của Tưởng Giới Thạch, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1424-1427, lúc mà Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Lý Thụy làm phiên dịch cho Borodin trưởng đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô tới Quảng Châu giúp chính phủ Trung Hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch.
KHÔNG ĐỀ
Nguyễn Sinh Cung – 1895
Núi cõng con đường mòn Cha thì cõng theo conNúi nằm ì một chỗ Cha thì cúi lom khom Đường bám lì lưng núi Con tập chạy lon ton Cha siêng hơn ngọn núi Con đường lười hơn con.
Biển là ao lớn. Thuyền là con bò Bò ăn no gió Lội trên mặt nước Em nhìn thấy trước Anh trông thấy sau Ta lớn mau mau Vượt qua ao lớn.
Bà Huyện Thanh Quan (1805-1848), tên thật là Nguyễn Thị Hinh, là một nhà thơ nữ nổi tiếng trong thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam với bàithơ “Qua đèo Ngang’, một tuyệt phẩm thơ cổ, được người đời truyền tụng hơn cả (1) (2).
QUA ĐÈO NGANG
Bà huyện Thanh Quan
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá, lá chen hoa Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông rợ mấy nhà. Nhớ nước đau lòng con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng cái gia gia Dừng chân đứng lại trời, non, nước Một mảnh tình riêng ta với ta.
Bộ đáo Hoành Quan nhật dĩ tà, Yên ba gian thạch, thạch gian hoa. Tiều quy nham hạ, ta ta tiểu, Thị tập giang biên, cá cá đa. Đỗ vũ tâm thương, thanh quốc quốc, Giá cô hồn đoạn, tứ gia gia. Đình đình trữ vọng: thiên, sơn, hải, Nhất phiến cô hoài, ta ngã ta.
Bản dịch chữ Hán của Nguyễn Văn Thích
QUÁ HOÀNH SƠN
Quá Hoành Sơn đỉnh tịch dương tà Thảo mộc tê nham diệp sấn hoa Kỳ khu lộc tế tiều tung yểu Thác lạc giang biên điếm ảnh xa Ưu quốc thương hoài hô quốc quốc Ái gia quyện khẩu khiếu gia gia Tiểu đình hồi vọng thiên sơn thuỷ Nhất phiến ly tình phân ngoại gia.
Bản dịch chữ Hán của Lý Văn Hùng.
Đèo Ngang và những tuyệt phẩm thơ cổ, nơi lưu dấu những huyền thoại (2).
Hoàng Kim
(1) Hoàng Đình Quang họa vần “Qua đèo Ngang” với lời bình xác đáng:
Thế sự mông lung lộn chính tà Quần hồng ghi dấu bậc tài hoa Sáu bài thơ cổ lưu tên phố (*) Nửa thế kỷ nay đánh số nhà (**) Khanh tướng chắc gì nên vọng tộc Câu thơ còn đó lập danh gia Chẳng bia, chẳng tượng, không đến miếu Ngẫm sự mất còn khó vậy ta?
(*) Toàn bộ sự nghiệp thơ ca của Bà Huyện Thanh Quan chỉ còn lại 6 bài, trong đó có 2 bài được coi là kiệt tác: Qua đèo Ngang và Thăng Long thành hoài cổ. (**) Từ năm 1955, chính quyền Việt Nam (miền Nam) chính thức đặt tên đường Bà Huyện Thanh Quan cho một đường phố của thành phố Sài Gòn, (thay thế tên cũ Flandin do người Pháp) và tồn tại cho đến ngày nay.
(2) Qua đèo chợt gặp mai đầu suối, Hoàng Kim đã thuật lại câu chuyện “Tầm hữu vị ngộ Hồ Chí Minh” do cố Bộ trưởng Xuân Thủy kể trên đỉnh đèo Ngang năm 1970. “Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh/ Đường về vó ngựa dẫm mây xanh/ Qua đèo chợt gặp mai đầu suối/ Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành“ Bài thơ kỳ lạ này của Bác Hồ đăng trên báo khoảng năm 1970 ẩn chứa nhiều triết lý sâu sắc không dễ thấy, là thơ Bác Hồ mà ít thấy sách báo nào nhắc đến gần nửa thế kỷ qua“.
Đỉnh đèo Ngang , ranh giới Hà Tĩnh Quảng Bính nơi lưu giấu huyền thoại “Qua đèo chợt gạp mai đầu suối”. Mộ bác Giáp an táng tại mũi Rồng gần vũng Chùa nam đèo Ngang (ảnh đầu trang).
BAN MAI ĐỨNG TRƯỚC BIỂN Hoàng Kim Đảo Yến trong mắt ai Ban mai đứng trước biển Thăm thẳm một tầm nhìn Vị tướng của lòng dân.
ĐÈO NGANG VÀ NHỮNG TUYỆT PHẨM THƠ CỔ Hoàng Kim
“Trèo đèo hai mái chân vân / Lòng về Hà Tĩnh, dạ ân Quảng Bình”. Đèo Ngang là con đèo lịch sử đã đi vào ca dao, huyền thoại. Nhiều danh nhân- thi sĩ như Lê Thánh Tông, Nguyễn Thiếp, Vũ Tông Phan, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du, Bà huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát, Hồ Chí Minh … đã lưu dấu tại đèo Ngang những tuyệt phẩm thơ. Đặc biệt, bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà huyện Thanh Quan rất nổi tiếng.
Lê Thánh Tông (1442 – 1497) là vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì từ năm 1460 đến 1497, tổng cộng 37 năm. Ông nổi tiếng là vị minh quân, là người đã đưa Đại Việt lên tới thời hoàng kim của chế độ phong kiến. Ông cũng được xem là một nhà văn hoá và một người coi trọng hiền tài. Lê Thánh Tông trên đường chinh phục Chiêm Thành năm 1469 có bài Di Luân hải tần (Cửa Roòn) gửi Ma Cô (đền thiêng thờ công chúa Liễu Hạnh, ở xã Quảng Đông nam Đèo Ngang)
CỬA ROÒN
Lê Thánh Tông (*)
Tây Hoành Sơn thấy rõ Di Luân Cát trải mênh mông tiếp biển gần Sóng nước đá nhô xây trạm dịch Gió sông sóng dựng lập đồn quan Muối Tề sân phố mời thương khách Rượu Lỗ quầy bàn tiếp thị dân Muốn nhắn Ma Cô nhờ hỏi giúp Bụi trần Nam Hải có xua tan.
Trần Châu Báu Di Luân cẩn dịch
DI LUÂN HẢI TẤN
Hoành Sơn tây vọng thị Di Luân Diễu diễu bình sa tiếp hải tần Yên thủy sa đầu phân dịch thứ Phong đào giang thượng kiến quan tân Tề diêm trường phố yêu thương khách Lỗ tửu bồi bàn túy thị nhân Dục phỏng Ma Cô bằng ký ngữ Nam minh kim dĩ tức dương trần.
Nguyễn Thiếp, (1723 – 1804), là nhà giáo, danh sĩ cuối đời Hậu Lê và Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông được vua Quang Trung rất nể trọng. Nguyễn Thiếp đã hiến kế cho vua Quang Trung ” “Người Thanh ở xa tới mệt nhọc không biết tình hình khó dễ thế nào. Vả nó có bụng khinh địch, nếu đánh gấp thì không ngoài mười ngày sẽ phá tan. Nếu trì hoãn một chút thì khó lòng mà được nó”. Ông đồng thời cũng là người dâng ba kế sách “quân đức, dân tâm, học pháp”, dùng chữ Nôm thay chữ Hán để tạo thế lâu bền giữ nước, xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô nơi đất khởi nghiệp Hồ Phi Phúc (tổ nghiệp của nhà Tây Sơn) để sâu rễ bền gốc. Vào khoảng đầu năm 1803, lúc Nguyễn Thiếp 80 tuổi, lúc vua Quang Trung đã mất, vua Quang Toản không giữ được cơ nghiệp, vua Gia Long nhà Nguyễn thắng nhà Tây Sơn đã triệu ông vào gặp vua tại Phú Xuân để hỏi việc nước. Nghe vị chúa này tỏ ý muốn trọng dụng, ông lấy cớ già yếu để từ chối, rồi xin về. Trên đường về, khi qua đỉnh đèo Ngang, ông đã cảm khái đọc bài thơ Nôm:
ĐÃ TRÓT LÊN ĐÈO PHẢI XUỐNG ĐÈO
Nguyễn Thiếp
Đã trót lên đèo, phải xuống đèo Tay không mình tưởng đã cheo leo Thương thay thiên hạ người gồng gánh Tháng lọn ngày thâu chỉ những trèo!
Danh sĩ Ngô Thì Nhậm(1746–1803), nhà văn, nhà mưu sĩ đời hậu Lê–Tây Sơn, người có công lớn trong việc giúp triều Tây Sơn đánh lui quân Thanh cũng cảm khái khi “lên đèo Ngang ngắm biển”. Bài thơ cao khiết, bi tráng, mang sắc thái thiền.
LÊN ĐÈO NGANG NGẮM BIỂN
Ngô Thì Nhậm
Bày đặt khen thay thợ hóa công, Khéo đem hang cọp áp cung rồng. Bóng cờ Trần đế (1) dường bay đó, Cõi đất Hoàn vương (2) thảy biến không. Chim đậu lùm xanh, xanh đã lão, Ngạc đùa sóng bạc, bạc nên ông. Việc đời bọt nổi, xưa nay thế, Phân họp giành trong giấc hạc nồng (3)
Bản dịch của Nguyễn Sĩ Lâm
ĐĂNG HOÀNH SƠN VỌNG HẢI
Tạo hóa đương sơ khổ dụng công, Khước tương hổ huyệt xấn giao cung. Hoàn vương phong vực qui ô hữu, Trần đế tinh kì quải thái không. Tình thụ thê cầm thương dục lão, Nộ đào hí ngạc bạch thành ông. Vô cùng kim cổ phù âu sự. Phân hợp du du hạc mộng trung.
Chú thích: (1) Trần đế:Các vua đời Trần. (2) Hoàn vương: Chiêm Thành. (3) Giấc hạc: Giấc mộng hạc. Câu thơ ý nói cuộc tranh giành đất đai giữa Đằng Ngoài và Đằng Trong chẳng qua chỉ là giấc mộng trần thế sẽ tiêu tan.
Đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820) có bài thơ “Qua đèo Ngang” trong Hải Ông Tập; họa vần bài thơ “năm Giáp Dần (1794), vâng mệnh vào kinh Phú Xuân, lúc lên đường lưu biệt các bạn ở Bắc Thành” của Hải Ông Đoàn Nguyễn Tuấn ( Đoàn Nguyễn Tuấn là con Đoàn Nguyễn Thục, đỗ Hương Cống đời Lê, có chiêu mộ người làng giúp Trịnh Bồng đánh Chỉnh, sau ra giúp Tây Sơn, làm đến chức Tả Thị Lang Bộ Lại, tước Hải Phái Bá. Có đi sứ Trung Quốc năm 1790 và có tập thơ nhan đề Hải Ông tập. Ông là anh vợ Nguyễn Du, hơn Nguyễn Du khoảng 15 tuổi). Đọc bài thơ này của Nguyễn Du để hiểu câu thơ truyện Kiều “Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”.
QUA ĐÈO NGANG
Nguyễn Du
Họa Hải Ông Đoàn Nguyễn Tuấn
Tiến về Nam qua đèo Ngang Hành trình đầy đủ gươm đàn mang theo Thuốc thần nào đã tới đâu Mảnh da beo vẫn mối đầu lụy thân Ánh mầu nước, chén rượu xanh Dõi theo vó ngựa một vành trăng quê Gặp gia huynh hỏi xin thưa Đường cùng tôi gặp, tóc giờ điểm sương
HỌA HẢI ÔNG ĐOÀN NGUYỄN TUẤN
Hoành Sơn sơn ngoại lĩnh nam trình Cần kiếm tương thùy thướng ngọc kinh Thỏ tủy vị hoàn tân đại dược Báo bì nhưng lụỵ cựu phù danh Thương minh thủy dẫn bôi trung lục Cố quốc thiềm tùy mã hậu minh Thử khứ gia huynh như kiến vấn Cùng đồ bạch phát chí tinh tinh
Nguyễn Tâm Hàn phỏng dịch
Danh sĩ Vũ Tông Phan, (1800 – 1851), nhà giáo dục, người có công lớn trong việc chấn hưng văn hóa Thăng Long thời vua Minh Mệnh cũng có bài thơ “Qua lũy Ninh Công nhớ chuyện xưa” rất nổi tiếng:
QUA LUỸ NINH CÔNG NHỚ CHUYỆN XƯA
Vũ Tông Phan
Đất này ví thử phân Nam, Bắc Hà cớ năm dài động kiếm dao? Trời tạo Hoành Sơn còn chẳng hiểm, Người xây chiến lũy tổn công lao. Thắng, thua rốt cuộc phơi hoang mộ, Thù hận dư âm rợn sóng đào. Thiên hạ nay đà quy một mối Non sông muôn thuở vẫn thanh cao.
QÚA NINH CÔNG LŨY HOÀI CỔ
Nhược tương thử địa phân Nam Bắc, Hà sự kinh niên động giáp bào? Thiên tạo Hoành Sơn do vị hiểm, Nhân vi cô lũy diệc đồ lao. Doanh thâu để sự không di chủng, Sát phạt dư thanh đái nộ đào. Vũ trụ như kim quy nhất thống, Mạc nhiên sơn thủy tự thanh cao.
Người dịch: Vũ Thế Khôi Nguồn: Đào Trung Kiên (Thi Viện)
Chu Thần Cao Bá Quát (1809 – 1855) là quốc sư của cuộc nổi dậy Mỹ Lương, và là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam. Cao Bá Quát có hai bài thơ viết ở đèo Ngang đó là Đăng Hoành Sơn (Lên núi Hoành Sơn) và Hoành Sơn Quan (Ải Hoành Sơn)
LÊN NÚI HOÀNH SƠN
Cao Bá Quát
Muôn dặm đường đi núi lẫn đồi, Bên non cỏ nội tiễn đưa người. Ai tài kéo nước nghìn năm lại ? Trăm trận còn tên một lũy thôi. Ải bắc mây tan mưa dứt hạt, Thôn nam nắng hửng sớm quang trời. Xuống đèo mới biết lên đèo khổ, Trần lụy, sao đành để cuốn lôi ?
ĐĂNG HOÀNH SƠN
Sơn ngại thanh sơn vạn lý Trình, Sơn biên dã thảo tống nhân hành. Anh hùng mạc vãn thiên niên quốc, Chinh chiến không tồn nhất lũy danh. Bắc lĩnh đoạn vân thu túc vũ, Nam trang sơ hiểu đái tân tình, Há sơn phản giác đăng sơn khổ, Tự thán du du ủy tục tình!
Người dịch: Nguyễn Quý Liêm Nguồn: Lương Sơn Thi Đàn
ẢI HOÀNH SƠN
Cao Bá Quát
Non cao nêu đất nước, Liền một dẫy ra khơi. Thành cũ trăm năm vững, Ải xa nghìn dặm dài. Chim về rừng lác đác, Mây bám núi chơi vơi. Chàng Tô nấn ná mãi, Tấm áo rách tơi rồi.
HOÀNH SƠN QUAN
Địa biểu lập sàn nhan, Liêu phong đáo hải gian. Bách niên khan cổ lũy, Thiên lý nhập trùng quan. Túc điểu sơ đầu thụ, Qui vân bán ủng sơn. Trì trì Tô Quí tử, Cừu tệ vị tri hoàn.
Bản dịch của Hóa Dân Nguồn: Lương Sơn Thi Đàn
Hồ Chí Minh (19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969) nhà cách mạng, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam trong thế kỷ 20. Hai bài thơ của Bác Hồ lúc 5 tuổi, là hai bài đồng dao của Nguyễn Sinh Cung (Nguyễn Tất Thành, tên thuở nhỏ của Hồ Chí Minh ) tại đèo Ngang, trong chuyện kể “Tất Đạt tự ngôn” được Sơn Tùng ghi lại. Đó cũng là những câu thơ lưu lạc, huyền thoại giữa đời thường. Câu chuyện “đường lưỡi bò” và lời đồng dao “Biển là ao lớn, Thuyền là con bò” “Em nhìn thấy trước, Anh trông thấy sau” của cậu bé Nguyễn Sinh Cung “nói” năm 1895 mà Sơn Tùng đã ghi lại và in trên báo Cứu Quốc lần đầu năm 1950. Câu chuyện trẻ con đan xen những ẩn khuất lịch sử chưa được giải mã đầy đủ về Quốc Cộng hợp tác, tầm nhìn Hoàng Sa, Trường Sa của Tưởng Giới Thạch, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1424-1427, lúc mà Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Lý Thụy làm phiên dịch cho Borodin trưởng đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô tới Quảng Châu giúp chính phủ Trung Hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch.
KHÔNG ĐỀ
Nguyễn Sinh Cung – 1895
Núi cõng con đường mòn Cha thì cõng theo conNúi nằm ì một chỗ Cha thì cúi lom khom Đường bám lì lưng núi Con tập chạy lon ton Cha siêng hơn ngọn núi Con đường lười hơn con.
Biển là ao lớn. Thuyền là con bò Bò ăn no gió Lội trên mặt nước Em nhìn thấy trước Anh trông thấy sau Ta lớn mau mau Vượt qua ao lớn.
Bà Huyện Thanh Quan (1805-1848), tên thật là Nguyễn Thị Hinh, là một nhà thơ nữ nổi tiếng trong thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam với bàithơ “Qua đèo Ngang’, một tuyệt phẩm thơ cổ, được người đời truyền tụng hơn cả (1) (2).
QUA ĐÈO NGANG
Bà huyện Thanh Quan
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá, lá chen hoa Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông rợ mấy nhà. Nhớ nước đau lòng con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng cái gia gia Dừng chân đứng lại trời, non, nước Một mảnh tình riêng ta với ta.
Bộ đáo Hoành Quan nhật dĩ tà, Yên ba gian thạch, thạch gian hoa. Tiều quy nham hạ, ta ta tiểu, Thị tập giang biên, cá cá đa. Đỗ vũ tâm thương, thanh quốc quốc, Giá cô hồn đoạn, tứ gia gia. Đình đình trữ vọng: thiên, sơn, hải, Nhất phiến cô hoài, ta ngã ta.
Bản dịch chữ Hán của Nguyễn Văn Thích
QUÁ HOÀNH SƠN
Quá Hoành Sơn đỉnh tịch dương tà Thảo mộc tê nham diệp sấn hoa Kỳ khu lộc tế tiều tung yểu Thác lạc giang biên điếm ảnh xa Ưu quốc thương hoài hô quốc quốc Ái gia quyện khẩu khiếu gia gia Tiểu đình hồi vọng thiên sơn thuỷ Nhất phiến ly tình phân ngoại gia.
Bản dịch chữ Hán của Lý Văn Hùng.
Đèo Ngang và những tuyệt phẩm thơ cổ, nơi lưu dấu những huyền thoại (2).
Hoàng Kim
(1) Hoàng Đình Quang họa vần “Qua đèo Ngang” với lời bình xác đáng:
Thế sự mông lung lộn chính tà Quần hồng ghi dấu bậc tài hoa Sáu bài thơ cổ lưu tên phố (*) Nửa thế kỷ nay đánh số nhà (**) Khanh tướng chắc gì nên vọng tộc Câu thơ còn đó lập danh gia Chẳng bia, chẳng tượng, không đến miếu Ngẫm sự mất còn khó vậy ta?
(*) Toàn bộ sự nghiệp thơ ca của Bà Huyện Thanh Quan chỉ còn lại 6 bài, trong đó có 2 bài được coi là kiệt tác: Qua đèo Ngang và Thăng Long thành hoài cổ. (**) Từ năm 1955, chính quyền Việt Nam (miền Nam) chính thức đặt tên đường Bà Huyện Thanh Quan cho một đường phố của thành phố Sài Gòn, (thay thế tên cũ Flandin do người Pháp) và tồn tại cho đến ngày nay.
(2) Qua đèo chợt gặp mai đầu suối, Hoàng Kim đã thuật lại câu chuyện “Tầm hữu vị ngộ Hồ Chí Minh” do cố Bộ trưởng Xuân Thủy kể trên đỉnh đèo Ngang năm 1970. “Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh/ Đường về vó ngựa dẫm mây xanh/ Qua đèo chợt gặp mai đầu suối/ Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành“ Bài thơ kỳ lạ này của Bác Hồ đăng trên báo khoảng năm 1970 ẩn chứa nhiều triết lý sâu sắc không dễ thấy, là thơ Bác Hồ mà ít thấy sách báo nào nhắc đến gần nửa thế kỷ qua“.
Đỉnh đèo Ngang , ranh giới Hà Tĩnh Quảng Bính nơi lưu giấu huyền thoại “Qua đèo chợt gạp mai đầu suối”. Mộ bác Giáp an táng tại mũi Rồng gần vũng Chùa nam đèo Ngang (ảnh đầu trang).
GIẤC MƠ LAI KHOAI LANG? Hoàng Kim Muống biển liệu có thể lai khoai lang để gia tăng tính kháng? Trước đây khi còn trẻ thơ, tôi đã tự hỏi vậy. Gần đây, bài thơ ‘Chuyện Tình Hoa Muống Biển” của anh Hoàng Đại Nhân gợi tôi trở về câu chuyện cũ. Bài thơ trong sáng giản dị và hay, cốt truyện tình yêu đẹp, giá trị nhân văn cao, hình ảnh tuyệt vời. Tôi trở lại câu hỏi khoa học cây trồng Muống biển liệu có thể lai khoai lang để gia tăng tính kháng?
Hoa muống biển và hoa khoai lang hình thái thật giống nhau.
Muống biển và khoai lang là hai loài thực vật có quan hệ gần gũi. Muống biển (Ipomoea pes-caprae (L.) R.Br.) là loài thực vật thuộc họ Bìm bìm (Convolvulaceae) mọc phổ biến trên của các bãi biển và chịu được không khí mặn. Carl von Linné (23 tháng 5 năm 1707 – 10 tháng 1 năm 1778), nhà thực vật học, bác sĩ kiêm động vật học người Thụy Điển, người tiên phong của ngành sinh thái học “Hoàng tử của giới thực vật học“, cha đẻ của hệ thống phân loại theo danh pháp hiện đại, là người đầu tiên mô tả loài thực vật này; năm 1818, Robert Brown là người phân loại nó vào chi hiện tại. Muống biển được tìm thấy trên bờ cát vùng nhiệt đới ven biển Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, phía bắc của bang New South Wales, và dọc bờ biển bang Queensland thuộc nước Úc. Muống biển ở Việt Nam mọc hoang khắp các bãi cát ven biển từ Hà Tiên, Rạch Giá (Kiên Giang), đến Vũng Tàu (Bà Rịa Vũng Tàu), Nha Trang (Khánh Hòa), Quảng Trị, Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hóa, Hải Phòng…Muống biển có công dụng làm thuốc nhưng hiện chưa có các nghiên cứu sâu về cây này. Theo Nông nghiệp Việt Nam muống biển công dụng trong y học cổ truyền được dùng toàn cây để chữa trị các chỗ viêm do dị ứng với sứa biển, phong độc, bệnh ngoài da; hạt để chữa trị mệt mỏi; lá được dùng để giã nát đắp lên chỗ ngứa do sứa biển.
Khoai lang (Ipomoea batatas L) là cây hai lá mầm thuộc họ Bìm bìm Convolvulaceae, chi Ipomoea, Chi phụ: Quamoclit; Phân chi: Batatas Loài: Ipomoea batatas. Họ Bìm bìm có 55 chi và khoảng 1650 loài, trong đó chi Ipomoea là chi lớn nhất với khoảng 600 loài (Austin, 1997). Ở Việt Nam có 13 chi và 76 loài (Lương Ngọc Toàn và csv, 1978). Cây khoai lang được phân loại trong chi Batatas. Hiện nay trong nội tộc phân chi Batatas có 13 loài hoang dại quan hệ với khoai lang. Khoai lang có số nhiễm sắc thể 15, là dạng lục bội thể (6x) duy nhất có khả năng tạo củ để làm lương thực. Trần Văn Minh 2008 đã trích dẫn tài liệu của Iting và Kehr 1953 nghiên cứu sự phân chia giảm nhiễm ở các giống khoai lang của Mỹ và giả thuyết là khoai lang có nguồn gốc đa bội khác nguồn. Nó hình thành từ tổ hợp lai giữa một tứ bội thể với nhị bội, sau đó xẩy ra quá trình phân đôi nhiễm sắc thể ở con lai bất dục. Nishiyama 1982 và Shiotani 1988 thì lại cho rằng khoai lang là một tứ bội cùng nguồn, hình thành do sự đa bội hoá của loài lưỡng bội.
Carl von Linné nhà thực vật học Thụy Điển, nhà bác học hàng đầu của nhân loại ngành sinh thái học “Hoàng tử của giới thực vật học“, cha đẻ của hệ thống phân loại theo danh pháp hiện đại. Ông là người đầu tiên mô tả loài muống biển. Ông cũng là nhà thơ, nhà ngôn ngữ lừng danh mà August Strindberg tác giả người Thụy Điển viết: “Linné kỳ thực là một nhà thơ sinh ra để trở thành nhà tự nhiên học”. Linné được Goethe nhà bác học thiên tài người Đức ca ngợi: “Trừ Shakespeare và Spinoza, tôi không biết ai giữa những người không còn sống mà ảnh hưởng tới tôi lớn hơn thế”.
Hình ảnh cậu bé tiến về biển lúc bình minh gợi chúng ta nhớ về câu chuyện muống biển, khoai lang quan hệ với “Hai vạn dặm dưới đáy biển” một tiểu thuyết khoa học viễn tưởng của Jules Verne nhà văn Pháp nay đã chuyển thể thành phim. Hai Vạn Dặm Dưới Đáy Biển http://hdonline.vn/phim-hai-van-dam-duoi-day-bien-10140.htm…
Câu chuyện “20,000 Leagues Under the Sea” 1954 kể rằng: Trong năm 1868, tin đồn về một con quái vật biển tấn công tàu ở Thái Bình Dương đã tạo ra lo âu và khiếp sợ trong thủy thủ Hoa Kỳ, làm gián đoạn đường vận chuyển hàng hải . Chính phủ Hoa Kỳ mời Giáo sư Pierre Aronnax và Conseil phụ tá của ông lên một tàu chiến thám hiểm để chứng minh hay bác bỏ sự tồn tại của con quái vật. Kết quả “Hai vạn dặm dưới đáy biển” Giáo sư Pierre Aronnax nhà bác học biển và cộng sự đã thấu hiểu đại dương, thế giới biển, nguồn thức ăn khác biệt và vô tận dưới biển sâu, và năng lực của tàu ngầm, phát minh khoa học làm mở rộng tầm mắt và thay đổi nhận thức về thế giới biển.
Giống khoai lang ở Việt Nam HL491 và HL518 chất lượng ngon, năng suất cao.
Giống khoai lang Việt Nam ngon nhất hiện nay là HL518 Nhật đỏ, HL491 Nhật tím (Nguyễn Thị Thủy, Hoàng Kim, Trần Công Khanh, Nguyễn Thị Sâm 1997) và khoai lang Hoàng Long (Hoàng Kim, Nguyễn Thị Thủy 1981), Ba giống khoai lang ngon này mức kháng sùng chỉ đạt trung bình (http://foodcrops.blogspot.com/2010/01/giong-khoai-lang-o-viet-nam.html)
Giáo sư Vũ Đình Hòa (Học Viện Nông nghiệp Việt Nam) trong luận án tiến sĩ năm 1991 có thực hiện việc lai giống khoai lang loài khoai lang Ipomoea batatas L với loài khoai lang dại IpomoeaTrifida để tìm giải pháp giống khoai lang kháng sùng.
Vậy, muống biển liệu có thể lai khoai lang để gia tăng tính kháng?
Ban mai trên biển Quê hương, nơi có sóng, có gió và loài hoa muống biển. Tôi yêu quê tôi, yêu vùng gió cát “Chang chang cồn cát nắng trưa Quảng Bình”. Nhớ đết thắt lòng con “dèm” nhỏ, con cua nhỏ nên dòng Gianh và những vạt muống biển xanh bất tận bên bờ Nhật Lệ. Và bài thơ Sóng yêu thương vỗ mãi đến vô cùng đã ra đời từ đó.
SÓNG YÊU THƯƠNG VỖ MÃI ĐẾN VÔ CÙNG
Hoàng Kim
Anh yêu biển tự khi nào chẳng rõ Bởi lớn lên đã có biển quanh rồi Gió biển thổi nồng nàn hương biển gọi Để xa rồi thương nhớ chẳng hề nguôi
Nơi quê mẹ mặt trời lên từ biển Mỗi sớm mai gió biển nhẹ lay màn Ráng biển đỏ hồng lên như chuỗi ngọc Nghiêng bóng dừa soi biếc những dòng sông
Qua đất lạ ngóng xa vời Tổ Quốc Lại dịu hiền gặp biển ở kề bên Khi mỗi tối điện bừng bờ biển sáng Bỗng nhớ nhà những lúc mặt trăng lên
Theo ngọn sóng trông mù xa tít tắp Nơi mặt trời sà xuống biển mênh mông Ở nơi đó là bến bờ Tổ Quốc Sóng yêu thương vỗ mãi đến vô cùng …
Nhưng đất cát nghèo Quê Choa ven sông ven biển không chỉ nắng, có gió, có phi lao và có muống biển mà còn có khoai lang. Đèo Ngang “đang nghèo” Linh Giang dòng sông quê hương cũng là vùng quê nghèo ‘khoai khoai toàn khoai’ của tuổi thơ tôi. Củ khoai lang ‘sâm người nghèo’ lặn vào trong ký ức. Tôi lớn lên bên khoai lang và muống biển và tuổi thơ bên gió cát dòng Gianh. Thuở nhỏ, tôi thường tần ngần cầm hai bông hoa nhỏ khoai lang và muống biển mơ đến một ngày … lai khoai lang. Mời bạn ngắm ảnh Biển Nhật Lệ Quảng Bình và đọc bài viết gốc tại đây https://hoangkimvietnam.wordpress.com/2012/05/01/bi%E1%BB%83n-nh%E1%BA%ADt-l%E1%BB%87/
Hoàng Kim
Tài liệu dẫn:
(1) Truyện thơ CHUYỆN TÌNH HOA MUỐNG BIỂN Hoàng Đại Nhân
Khi mặt trăng vừa từ biển mọc lên Tỏa ánh sáng dịu dàng bờ cát trắng Biển đêm nay êm đềm, con sóng lặng Từng cặp đôi đang sải bước ven bờ
Cô gái hiền lành, trong sáng ngây thơ Bên chàng trai khi tình vừa chớm nở Họ cùng nhau thì thầm trao lời hứa Hai con tim cùng nhịp đập rộn ràng
Chàng trai nghèo bao hy vọng chứa chan Cùng người đẹp sẽ nên duyên chồng vợ Cái ngày ấy chẳng còn bao xa nữa Khi người yêu đã thề nguyện chung tình.
Cha cô gái hay tin nổi nóng, bất bình Biết chàng nghèo, chẳng “môn đăng hộ đối” Ông thẳng thắn: “Đừng nên mơ ước vội Hãy kiếm đi, đủ lễ vật…, ta chờ”
Chàng trai nghèo sau những phút sững sờ Hiểu phận mình, đâu trách gì cô gái Càng yêu thương, chàng càng thêm hăng hái Quyết ra khơi mong có dịp đổi đời
Biển quê hương như cũng hiểu lòng người Giúp chàng trai nặng thêm từng mẻ lưới Chàng thầm nghĩ chỉ thêm vài ngày tới Số tiền ta sắm lễ vật đủ rồi
Lần cuối cùng chàng lướt sóng ra khơi Lòng khấp khởi tràn trề bao hy vọng Căng sức trẻ, đâu sợ gì con sóng Khi con tim mang hình bóng của nàng
Cô gái đợi chờ, hy vọng chứa chan Hoàng hôn xuống, đón thuyền chàng cập bến Nhưng… bất hạnh bỗng từ đâu ập đến Nàng đâu hay, bão biển đã cướp chàng
Nỗi niềm đau, con tim trẻ nát tan Nàng quên ăn, cứ ngày ngày hướng biển Nàng cầu mong con thuyền chàng xuất hiện Nhưng biển xa chỉ tung sóng cuộn trào
Qua nhiều ngày cô tiều tụy mòn hao Rồi gục chết khi biển chiều tàn nắng Ơi cô gái ! Một con tim trong trắng Phút cuối đời vẫn hướng phía biển xa
Trời thương cô, cho hóa kiếp thành hoa Loài muống biển vươn dài trên bờ cát Hướng về biển, nghe dập dìu biển hát Lời yêu thương cháy bỏng những hẹn hò
Chàng trai hóa thành những ngọn sóng xô Cứ ào ạt cản ngăn loài muống biển Hãy quay lại, em ơi, xin đừng tiến Để an lành tươi thắm một loài hoa.
Biển hôm nay mãi hát khúc tình ca Bản tình ca thắm màu hoa muống biển Mãi tươi hồng đón chào con sóng đến Lời thủy chung son sắt đến trọn đời. —– – Hình ảnh từ Internet – Ngẫu hứng từ chuyện SỰ TÍCH HOA MUỐNG BIỂN (Kho tàng chuyện cổ Việt Nam, nguồn Internet).
“Trèo đèo hai mái chân vân / Lòng về Hà Tĩnh, dạ ân Quảng Bình”. Đèo Ngang là con đèo lịch sử đã đi vào ca dao, huyền thoại. Nhiều danh nhân- thi sĩ như Lê Thánh Tông, Nguyễn Thiếp, Vũ Tông Phan, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du, Bà huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát, Hồ Chí Minh … đã lưu dấu tại đèo Ngang những tuyệt phẩm thơ. Đặc biệt, bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà huyện Thanh Quan rất nổi tiếng.
Lê Thánh Tông (1442 – 1497) là vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì từ năm 1460 đến 1497, tổng cộng 37 năm. Ông nổi tiếng là vị minh quân, là người đã đưa Đại Việt lên tới thời hoàng kim của chế độ phong kiến. Ông cũng được xem là một nhà văn hoá và một người coi trọng hiền tài. Lê Thánh Tông trên đường chinh phục Chiêm Thành năm 1469 có bài Di Luân hải tần (Cửa Roòn) gửi Ma Cô (đền thiêng thờ công chúa Liễu Hạnh, ở xã Quảng Đông nam Đèo Ngang)
CỬA ROÒN
Lê Thánh Tông (*)
Tây Hoành Sơn thấy rõ Di Luân Cát trải mênh mông tiếp biển gần Sóng nước đá nhô xây trạm dịch Gió sông sóng dựng lập đồn quan Muối Tề sân phố mời thương khách Rượu Lỗ quầy bàn tiếp thị dân Muốn nhắn Ma Cô nhờ hỏi giúp Bụi trần Nam Hải có xua tan.
Trần Châu Báu Di Luân cẩn dịch
DI LUÂN HẢI TẤN
Hoành Sơn tây vọng thị Di Luân Diễu diễu bình sa tiếp hải tần Yên thủy sa đầu phân dịch thứ Phong đào giang thượng kiến quan tân Tề diêm trường phố yêu thương khách Lỗ tửu bồi bàn túy thị nhân Dục phỏng Ma Cô bằng ký ngữ Nam minh kim dĩ tức dương trần.
Nguyễn Thiếp, (1723 – 1804), là nhà giáo, danh sĩ cuối đời Hậu Lê và Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông được vua Quang Trung rất nể trọng. Nguyễn Thiếp đã hiến kế cho vua Quang Trung ” “Người Thanh ở xa tới mệt nhọc không biết tình hình khó dễ thế nào. Vả nó có bụng khinh địch, nếu đánh gấp thì không ngoài mười ngày sẽ phá tan. Nếu trì hoãn một chút thì khó lòng mà được nó”. Ông đồng thời cũng là người dâng ba kế sách “quân đức, dân tâm, học pháp”, dùng chữ Nôm thay chữ Hán để tạo thế lâu bền giữ nước, xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô nơi đất khởi nghiệp Hồ Phi Phúc (tổ nghiệp của nhà Tây Sơn) để sâu rễ bền gốc. Vào khoảng đầu năm 1803, lúc Nguyễn Thiếp 80 tuổi, lúc vua Quang Trung đã mất, vua Quang Toản không giữ được cơ nghiệp, vua Gia Long nhà Nguyễn thắng nhà Tây Sơn đã triệu ông vào gặp vua tại Phú Xuân để hỏi việc nước. Nghe vị chúa này tỏ ý muốn trọng dụng, ông lấy cớ già yếu để từ chối, rồi xin về. Trên đường về, khi qua đỉnh đèo Ngang, ông đã cảm khái đọc bài thơ Nôm:
ĐÃ TRÓT LÊN ĐÈO PHẢI XUỐNG ĐÈO
Nguyễn Thiếp
Đã trót lên đèo, phải xuống đèo Tay không mình tưởng đã cheo leo Thương thay thiên hạ người gồng gánh Tháng lọn ngày thâu chỉ những trèo!
Danh sĩ Ngô Thì Nhậm(1746–1803), nhà văn, nhà mưu sĩ đời hậu Lê–Tây Sơn, người có công lớn trong việc giúp triều Tây Sơn đánh lui quân Thanh cũng cảm khái khi “lên đèo Ngang ngắm biển”. Bài thơ cao khiết, bi tráng, mang sắc thái thiền.
LÊN ĐÈO NGANG NGẮM BIỂN
Ngô Thì Nhậm
Bày đặt khen thay thợ hóa công, Khéo đem hang cọp áp cung rồng. Bóng cờ Trần đế (1) dường bay đó, Cõi đất Hoàn vương (2) thảy biến không. Chim đậu lùm xanh, xanh đã lão, Ngạc đùa sóng bạc, bạc nên ông. Việc đời bọt nổi, xưa nay thế, Phân họp giành trong giấc hạc nồng (3)
Bản dịch của Nguyễn Sĩ Lâm
ĐĂNG HOÀNH SƠN VỌNG HẢI
Tạo hóa đương sơ khổ dụng công, Khước tương hổ huyệt xấn giao cung. Hoàn vương phong vực qui ô hữu, Trần đế tinh kì quải thái không. Tình thụ thê cầm thương dục lão, Nộ đào hí ngạc bạch thành ông. Vô cùng kim cổ phù âu sự. Phân hợp du du hạc mộng trung.
Chú thích: (1) Trần đế:Các vua đời Trần. (2) Hoàn vương: Chiêm Thành. (3) Giấc hạc: Giấc mộng hạc. Câu thơ ý nói cuộc tranh giành đất đai giữa Đằng Ngoài và Đằng Trong chẳng qua chỉ là giấc mộng trần thế sẽ tiêu tan.
Đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820) có bài thơ “Qua đèo Ngang” trong Hải Ông Tập; họa vần bài thơ “năm Giáp Dần (1794), vâng mệnh vào kinh Phú Xuân, lúc lên đường lưu biệt các bạn ở Bắc Thành” của Hải Ông Đoàn Nguyễn Tuấn ( Đoàn Nguyễn Tuấn là con Đoàn Nguyễn Thục, đỗ Hương Cống đời Lê, có chiêu mộ người làng giúp Trịnh Bồng đánh Chỉnh, sau ra giúp Tây Sơn, làm đến chức Tả Thị Lang Bộ Lại, tước Hải Phái Bá. Có đi sứ Trung Quốc năm 1790 và có tập thơ nhan đề Hải Ông tập. Ông là anh vợ Nguyễn Du, hơn Nguyễn Du khoảng 15 tuổi). Đọc bài thơ này của Nguyễn Du để hiểu câu thơ truyện Kiều “Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”.
QUA ĐÈO NGANG
Nguyễn Du
Họa Hải Ông Đoàn Nguyễn Tuấn
Tiến về Nam qua đèo Ngang Hành trình đầy đủ gươm đàn mang theo Thuốc thần nào đã tới đâu Mảnh da beo vẫn mối đầu lụy thân Ánh mầu nước, chén rượu xanh Dõi theo vó ngựa một vành trăng quê Gặp gia huynh hỏi xin thưa Đường cùng tôi gặp, tóc giờ điểm sương
HỌA HẢI ÔNG ĐOÀN NGUYỄN TUẤN
Hoành Sơn sơn ngoại lĩnh nam trình Cần kiếm tương thùy thướng ngọc kinh Thỏ tủy vị hoàn tân đại dược Báo bì nhưng lụỵ cựu phù danh Thương minh thủy dẫn bôi trung lục Cố quốc thiềm tùy mã hậu minh Thử khứ gia huynh như kiến vấn Cùng đồ bạch phát chí tinh tinh
Nguyễn Tâm Hàn phỏng dịch
Danh sĩ Vũ Tông Phan, (1800 – 1851), nhà giáo dục, người có công lớn trong việc chấn hưng văn hóa Thăng Long thời vua Minh Mệnh cũng có bài thơ “Qua lũy Ninh Công nhớ chuyện xưa” rất nổi tiếng:
QUA LUỸ NINH CÔNG NHỚ CHUYỆN XƯA
Vũ Tông Phan
Đất này ví thử phân Nam, Bắc Hà cớ năm dài động kiếm dao? Trời tạo Hoành Sơn còn chẳng hiểm, Người xây chiến lũy tổn công lao. Thắng, thua rốt cuộc phơi hoang mộ, Thù hận dư âm rợn sóng đào. Thiên hạ nay đà quy một mối Non sông muôn thuở vẫn thanh cao.
QÚA NINH CÔNG LŨY HOÀI CỔ
Nhược tương thử địa phân Nam Bắc, Hà sự kinh niên động giáp bào? Thiên tạo Hoành Sơn do vị hiểm, Nhân vi cô lũy diệc đồ lao. Doanh thâu để sự không di chủng, Sát phạt dư thanh đái nộ đào. Vũ trụ như kim quy nhất thống, Mạc nhiên sơn thủy tự thanh cao.
Người dịch: Vũ Thế Khôi Nguồn: Đào Trung Kiên (Thi Viện)
Chu Thần Cao Bá Quát (1809 – 1855) là quốc sư của cuộc nổi dậy Mỹ Lương, và là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam. Cao Bá Quát có hai bài thơ viết ở đèo Ngang đó là Đăng Hoành Sơn (Lên núi Hoành Sơn) và Hoành Sơn Quan (Ải Hoành Sơn)
LÊN NÚI HOÀNH SƠN
Cao Bá Quát
Muôn dặm đường đi núi lẫn đồi, Bên non cỏ nội tiễn đưa người. Ai tài kéo nước nghìn năm lại ? Trăm trận còn tên một lũy thôi. Ải bắc mây tan mưa dứt hạt, Thôn nam nắng hửng sớm quang trời. Xuống đèo mới biết lên đèo khổ, Trần lụy, sao đành để cuốn lôi ?
ĐĂNG HOÀNH SƠN
Sơn ngại thanh sơn vạn lý Trình, Sơn biên dã thảo tống nhân hành. Anh hùng mạc vãn thiên niên quốc, Chinh chiến không tồn nhất lũy danh. Bắc lĩnh đoạn vân thu túc vũ, Nam trang sơ hiểu đái tân tình, Há sơn phản giác đăng sơn khổ, Tự thán du du ủy tục tình!
Người dịch: Nguyễn Quý Liêm Nguồn: Lương Sơn Thi Đàn
ẢI HOÀNH SƠN
Cao Bá Quát
Non cao nêu đất nước, Liền một dẫy ra khơi. Thành cũ trăm năm vững, Ải xa nghìn dặm dài. Chim về rừng lác đác, Mây bám núi chơi vơi. Chàng Tô nấn ná mãi, Tấm áo rách tơi rồi.
HOÀNH SƠN QUAN
Địa biểu lập sàn nhan, Liêu phong đáo hải gian. Bách niên khan cổ lũy, Thiên lý nhập trùng quan. Túc điểu sơ đầu thụ, Qui vân bán ủng sơn. Trì trì Tô Quí tử, Cừu tệ vị tri hoàn.
Bản dịch của Hóa Dân Nguồn: Lương Sơn Thi Đàn
Hồ Chí Minh (19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969) nhà cách mạng, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam trong thế kỷ 20. Hai bài thơ của Bác Hồ lúc 5 tuổi, là hai bài đồng dao của Nguyễn Sinh Cung (Nguyễn Tất Thành, tên thuở nhỏ của Hồ Chí Minh ) tại đèo Ngang, trong chuyện kể “Tất Đạt tự ngôn” được Sơn Tùng ghi lại. Đó cũng là những câu thơ lưu lạc, huyền thoại giữa đời thường. Câu chuyện “đường lưỡi bò” và lời đồng dao “Biển là ao lớn, Thuyền là con bò” “Em nhìn thấy trước, Anh trông thấy sau” của cậu bé Nguyễn Sinh Cung “nói” năm 1895 mà Sơn Tùng đã ghi lại và in trên báo Cứu Quốc lần đầu năm 1950. Câu chuyện trẻ con đan xen những ẩn khuất lịch sử chưa được giải mã đầy đủ về Quốc Cộng hợp tác, tầm nhìn Hoàng Sa, Trường Sa của Tưởng Giới Thạch, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1424-1427, lúc mà Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Lý Thụy làm phiên dịch cho Borodin trưởng đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô tới Quảng Châu giúp chính phủ Trung Hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch.
KHÔNG ĐỀ
Nguyễn Sinh Cung – 1895
Núi cõng con đường mòn Cha thì cõng theo conNúi nằm ì một chỗ Cha thì cúi lom khom Đường bám lì lưng núi Con tập chạy lon ton Cha siêng hơn ngọn núi Con đường lười hơn con.
Biển là ao lớn. Thuyền là con bò Bò ăn no gió Lội trên mặt nước Em nhìn thấy trước Anh trông thấy sau Ta lớn mau mau Vượt qua ao lớn.
Bà Huyện Thanh Quan (1805-1848), tên thật là Nguyễn Thị Hinh, là một nhà thơ nữ nổi tiếng trong thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam với bàithơ “Qua đèo Ngang’, một tuyệt phẩm thơ cổ, được người đời truyền tụng hơn cả (1) (2).
QUA ĐÈO NGANG
Bà huyện Thanh Quan
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá, lá chen hoa Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông rợ mấy nhà. Nhớ nước đau lòng con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng cái gia gia Dừng chân đứng lại trời, non, nước Một mảnh tình riêng ta với ta.
Bộ đáo Hoành Quan nhật dĩ tà, Yên ba gian thạch, thạch gian hoa. Tiều quy nham hạ, ta ta tiểu, Thị tập giang biên, cá cá đa. Đỗ vũ tâm thương, thanh quốc quốc, Giá cô hồn đoạn, tứ gia gia. Đình đình trữ vọng: thiên, sơn, hải, Nhất phiến cô hoài, ta ngã ta.
Bản dịch chữ Hán của Nguyễn Văn Thích
QUÁ HOÀNH SƠN
Quá Hoành Sơn đỉnh tịch dương tà Thảo mộc tê nham diệp sấn hoa Kỳ khu lộc tế tiều tung yểu Thác lạc giang biên điếm ảnh xa Ưu quốc thương hoài hô quốc quốc Ái gia quyện khẩu khiếu gia gia Tiểu đình hồi vọng thiên sơn thuỷ Nhất phiến ly tình phân ngoại gia.
Bản dịch chữ Hán của Lý Văn Hùng.
Đèo Ngang và những tuyệt phẩm thơ cổ, nơi lưu dấu những huyền thoại (2).
Hoàng Kim
(1) Hoàng Đình Quang họa vần “Qua đèo Ngang” với lời bình xác đáng:
Thế sự mông lung lộn chính tà Quần hồng ghi dấu bậc tài hoa Sáu bài thơ cổ lưu tên phố (*) Nửa thế kỷ nay đánh số nhà (**) Khanh tướng chắc gì nên vọng tộc Câu thơ còn đó lập danh gia Chẳng bia, chẳng tượng, không đến miếu Ngẫm sự mất còn khó vậy ta?
(*) Toàn bộ sự nghiệp thơ ca của Bà Huyện Thanh Quan chỉ còn lại 6 bài, trong đó có 2 bài được coi là kiệt tác: Qua đèo Ngang và Thăng Long thành hoài cổ. (**) Từ năm 1955, chính quyền Việt Nam (miền Nam) chính thức đặt tên đường Bà Huyện Thanh Quan cho một đường phố của thành phố Sài Gòn, (thay thế tên cũ Flandin do người Pháp) và tồn tại cho đến ngày nay.
(2) Qua đèo chợt gặp mai đầu suối, Hoàng Kim đã thuật lại câu chuyện “Tầm hữu vị ngộ Hồ Chí Minh” do cố Bộ trưởng Xuân Thủy kể trên đỉnh đèo Ngang năm 1970. “Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh/ Đường về vó ngựa dẫm mây xanh/ Qua đèo chợt gặp mai đầu suối/ Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành“ Bài thơ kỳ lạ này của Bác Hồ đăng trên báo khoảng năm 1970 ẩn chứa nhiều triết lý sâu sắc không dễ thấy, là thơ Bác Hồ mà ít thấy sách báo nào nhắc đến gần nửa thế kỷ qua“.
Đỉnh đèo Ngang , ranh giới Hà Tĩnh Quảng Bính nơi lưu giấu huyền thoại “Qua đèo chợt gạp mai đầu suối”. Mộ bác Giáp an táng tại mũi Rồng gần vũng Chùa nam đèo Ngang (ảnh đầu trang).
BAN MAI ĐỨNG TRƯỚC BIỂN Hoàng Kim Đảo Yến trong mắt ai Ban mai đứng trước biển Thăm thẳm một tầm nhìn Vị tướng của lòng dân.
ĐÈO NGANG VÀ NHỮNG TUYỆT PHẨM THƠ CỔ Hoàng Kim
“Trèo đèo hai mái chân vân / Lòng về Hà Tĩnh, dạ ân Quảng Bình”. Đèo Ngang là con đèo lịch sử đã đi vào ca dao, huyền thoại. Nhiều danh nhân- thi sĩ như Lê Thánh Tông, Nguyễn Thiếp, Vũ Tông Phan, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du, Bà huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát, Hồ Chí Minh … đã lưu dấu tại đèo Ngang những tuyệt phẩm thơ. Đặc biệt, bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà huyện Thanh Quan rất nổi tiếng.
Lê Thánh Tông (1442 – 1497) là vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì từ năm 1460 đến 1497, tổng cộng 37 năm. Ông nổi tiếng là vị minh quân, là người đã đưa Đại Việt lên tới thời hoàng kim của chế độ phong kiến. Ông cũng được xem là một nhà văn hoá và một người coi trọng hiền tài. Lê Thánh Tông trên đường chinh phục Chiêm Thành năm 1469 có bài Di Luân hải tần (Cửa Roòn) gửi Ma Cô (đền thiêng thờ công chúa Liễu Hạnh, ở xã Quảng Đông nam Đèo Ngang)
CỬA ROÒN
Lê Thánh Tông (*)
Tây Hoành Sơn thấy rõ Di Luân Cát trải mênh mông tiếp biển gần Sóng nước đá nhô xây trạm dịch Gió sông sóng dựng lập đồn quan Muối Tề sân phố mời thương khách Rượu Lỗ quầy bàn tiếp thị dân Muốn nhắn Ma Cô nhờ hỏi giúp Bụi trần Nam Hải có xua tan.
Trần Châu Báu Di Luân cẩn dịch
DI LUÂN HẢI TẤN
Hoành Sơn tây vọng thị Di Luân Diễu diễu bình sa tiếp hải tần Yên thủy sa đầu phân dịch thứ Phong đào giang thượng kiến quan tân Tề diêm trường phố yêu thương khách Lỗ tửu bồi bàn túy thị nhân Dục phỏng Ma Cô bằng ký ngữ Nam minh kim dĩ tức dương trần.
Nguyễn Thiếp, (1723 – 1804), là nhà giáo, danh sĩ cuối đời Hậu Lê và Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông được vua Quang Trung rất nể trọng. Nguyễn Thiếp đã hiến kế cho vua Quang Trung ” “Người Thanh ở xa tới mệt nhọc không biết tình hình khó dễ thế nào. Vả nó có bụng khinh địch, nếu đánh gấp thì không ngoài mười ngày sẽ phá tan. Nếu trì hoãn một chút thì khó lòng mà được nó”. Ông đồng thời cũng là người dâng ba kế sách “quân đức, dân tâm, học pháp”, dùng chữ Nôm thay chữ Hán để tạo thế lâu bền giữ nước, xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô nơi đất khởi nghiệp Hồ Phi Phúc (tổ nghiệp của nhà Tây Sơn) để sâu rễ bền gốc. Vào khoảng đầu năm 1803, lúc Nguyễn Thiếp 80 tuổi, lúc vua Quang Trung đã mất, vua Quang Toản không giữ được cơ nghiệp, vua Gia Long nhà Nguyễn thắng nhà Tây Sơn đã triệu ông vào gặp vua tại Phú Xuân để hỏi việc nước. Nghe vị chúa này tỏ ý muốn trọng dụng, ông lấy cớ già yếu để từ chối, rồi xin về. Trên đường về, khi qua đỉnh đèo Ngang, ông đã cảm khái đọc bài thơ Nôm:
ĐÃ TRÓT LÊN ĐÈO PHẢI XUỐNG ĐÈO
Nguyễn Thiếp
Đã trót lên đèo, phải xuống đèo Tay không mình tưởng đã cheo leo Thương thay thiên hạ người gồng gánh Tháng lọn ngày thâu chỉ những trèo!
Danh sĩ Ngô Thì Nhậm(1746–1803), nhà văn, nhà mưu sĩ đời hậu Lê–Tây Sơn, người có công lớn trong việc giúp triều Tây Sơn đánh lui quân Thanh cũng cảm khái khi “lên đèo Ngang ngắm biển”. Bài thơ cao khiết, bi tráng, mang sắc thái thiền.
LÊN ĐÈO NGANG NGẮM BIỂN
Ngô Thì Nhậm
Bày đặt khen thay thợ hóa công, Khéo đem hang cọp áp cung rồng. Bóng cờ Trần đế (1) dường bay đó, Cõi đất Hoàn vương (2) thảy biến không. Chim đậu lùm xanh, xanh đã lão, Ngạc đùa sóng bạc, bạc nên ông. Việc đời bọt nổi, xưa nay thế, Phân họp giành trong giấc hạc nồng (3)
Bản dịch của Nguyễn Sĩ Lâm
ĐĂNG HOÀNH SƠN VỌNG HẢI
Tạo hóa đương sơ khổ dụng công, Khước tương hổ huyệt xấn giao cung. Hoàn vương phong vực qui ô hữu, Trần đế tinh kì quải thái không. Tình thụ thê cầm thương dục lão, Nộ đào hí ngạc bạch thành ông. Vô cùng kim cổ phù âu sự. Phân hợp du du hạc mộng trung.
Chú thích: (1) Trần đế:Các vua đời Trần. (2) Hoàn vương: Chiêm Thành. (3) Giấc hạc: Giấc mộng hạc. Câu thơ ý nói cuộc tranh giành đất đai giữa Đằng Ngoài và Đằng Trong chẳng qua chỉ là giấc mộng trần thế sẽ tiêu tan.
Đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820) có bài thơ “Qua đèo Ngang” trong Hải Ông Tập; họa vần bài thơ “năm Giáp Dần (1794), vâng mệnh vào kinh Phú Xuân, lúc lên đường lưu biệt các bạn ở Bắc Thành” của Hải Ông Đoàn Nguyễn Tuấn ( Đoàn Nguyễn Tuấn là con Đoàn Nguyễn Thục, đỗ Hương Cống đời Lê, có chiêu mộ người làng giúp Trịnh Bồng đánh Chỉnh, sau ra giúp Tây Sơn, làm đến chức Tả Thị Lang Bộ Lại, tước Hải Phái Bá. Có đi sứ Trung Quốc năm 1790 và có tập thơ nhan đề Hải Ông tập. Ông là anh vợ Nguyễn Du, hơn Nguyễn Du khoảng 15 tuổi). Đọc bài thơ này của Nguyễn Du để hiểu câu thơ truyện Kiều “Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”.
QUA ĐÈO NGANG
Nguyễn Du
Họa Hải Ông Đoàn Nguyễn Tuấn
Tiến về Nam qua đèo Ngang Hành trình đầy đủ gươm đàn mang theo Thuốc thần nào đã tới đâu Mảnh da beo vẫn mối đầu lụy thân Ánh mầu nước, chén rượu xanh Dõi theo vó ngựa một vành trăng quê Gặp gia huynh hỏi xin thưa Đường cùng tôi gặp, tóc giờ điểm sương
HỌA HẢI ÔNG ĐOÀN NGUYỄN TUẤN
Hoành Sơn sơn ngoại lĩnh nam trình Cần kiếm tương thùy thướng ngọc kinh Thỏ tủy vị hoàn tân đại dược Báo bì nhưng lụỵ cựu phù danh Thương minh thủy dẫn bôi trung lục Cố quốc thiềm tùy mã hậu minh Thử khứ gia huynh như kiến vấn Cùng đồ bạch phát chí tinh tinh
Nguyễn Tâm Hàn phỏng dịch
Danh sĩ Vũ Tông Phan, (1800 – 1851), nhà giáo dục, người có công lớn trong việc chấn hưng văn hóa Thăng Long thời vua Minh Mệnh cũng có bài thơ “Qua lũy Ninh Công nhớ chuyện xưa” rất nổi tiếng:
QUA LUỸ NINH CÔNG NHỚ CHUYỆN XƯA
Vũ Tông Phan
Đất này ví thử phân Nam, Bắc Hà cớ năm dài động kiếm dao? Trời tạo Hoành Sơn còn chẳng hiểm, Người xây chiến lũy tổn công lao. Thắng, thua rốt cuộc phơi hoang mộ, Thù hận dư âm rợn sóng đào. Thiên hạ nay đà quy một mối Non sông muôn thuở vẫn thanh cao.
QÚA NINH CÔNG LŨY HOÀI CỔ
Nhược tương thử địa phân Nam Bắc, Hà sự kinh niên động giáp bào? Thiên tạo Hoành Sơn do vị hiểm, Nhân vi cô lũy diệc đồ lao. Doanh thâu để sự không di chủng, Sát phạt dư thanh đái nộ đào. Vũ trụ như kim quy nhất thống, Mạc nhiên sơn thủy tự thanh cao.
Người dịch: Vũ Thế Khôi Nguồn: Đào Trung Kiên (Thi Viện)
Chu Thần Cao Bá Quát (1809 – 1855) là quốc sư của cuộc nổi dậy Mỹ Lương, và là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam. Cao Bá Quát có hai bài thơ viết ở đèo Ngang đó là Đăng Hoành Sơn (Lên núi Hoành Sơn) và Hoành Sơn Quan (Ải Hoành Sơn)
LÊN NÚI HOÀNH SƠN
Cao Bá Quát
Muôn dặm đường đi núi lẫn đồi, Bên non cỏ nội tiễn đưa người. Ai tài kéo nước nghìn năm lại ? Trăm trận còn tên một lũy thôi. Ải bắc mây tan mưa dứt hạt, Thôn nam nắng hửng sớm quang trời. Xuống đèo mới biết lên đèo khổ, Trần lụy, sao đành để cuốn lôi ?
ĐĂNG HOÀNH SƠN
Sơn ngại thanh sơn vạn lý Trình, Sơn biên dã thảo tống nhân hành. Anh hùng mạc vãn thiên niên quốc, Chinh chiến không tồn nhất lũy danh. Bắc lĩnh đoạn vân thu túc vũ, Nam trang sơ hiểu đái tân tình, Há sơn phản giác đăng sơn khổ, Tự thán du du ủy tục tình!
Người dịch: Nguyễn Quý Liêm Nguồn: Lương Sơn Thi Đàn
ẢI HOÀNH SƠN
Cao Bá Quát
Non cao nêu đất nước, Liền một dẫy ra khơi. Thành cũ trăm năm vững, Ải xa nghìn dặm dài. Chim về rừng lác đác, Mây bám núi chơi vơi. Chàng Tô nấn ná mãi, Tấm áo rách tơi rồi.
HOÀNH SƠN QUAN
Địa biểu lập sàn nhan, Liêu phong đáo hải gian. Bách niên khan cổ lũy, Thiên lý nhập trùng quan. Túc điểu sơ đầu thụ, Qui vân bán ủng sơn. Trì trì Tô Quí tử, Cừu tệ vị tri hoàn.
Bản dịch của Hóa Dân Nguồn: Lương Sơn Thi Đàn
Hồ Chí Minh (19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969) nhà cách mạng, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam trong thế kỷ 20. Hai bài thơ của Bác Hồ lúc 5 tuổi, là hai bài đồng dao của Nguyễn Sinh Cung (Nguyễn Tất Thành, tên thuở nhỏ của Hồ Chí Minh ) tại đèo Ngang, trong chuyện kể “Tất Đạt tự ngôn” được Sơn Tùng ghi lại. Đó cũng là những câu thơ lưu lạc, huyền thoại giữa đời thường. Câu chuyện “đường lưỡi bò” và lời đồng dao “Biển là ao lớn, Thuyền là con bò” “Em nhìn thấy trước, Anh trông thấy sau” của cậu bé Nguyễn Sinh Cung “nói” năm 1895 mà Sơn Tùng đã ghi lại và in trên báo Cứu Quốc lần đầu năm 1950. Câu chuyện trẻ con đan xen những ẩn khuất lịch sử chưa được giải mã đầy đủ về Quốc Cộng hợp tác, tầm nhìn Hoàng Sa, Trường Sa của Tưởng Giới Thạch, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1424-1427, lúc mà Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Lý Thụy làm phiên dịch cho Borodin trưởng đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô tới Quảng Châu giúp chính phủ Trung Hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch.
KHÔNG ĐỀ
Nguyễn Sinh Cung – 1895
Núi cõng con đường mòn Cha thì cõng theo conNúi nằm ì một chỗ Cha thì cúi lom khom Đường bám lì lưng núi Con tập chạy lon ton Cha siêng hơn ngọn núi Con đường lười hơn con.
Biển là ao lớn. Thuyền là con bò Bò ăn no gió Lội trên mặt nước Em nhìn thấy trước Anh trông thấy sau Ta lớn mau mau Vượt qua ao lớn.
Bà Huyện Thanh Quan (1805-1848), tên thật là Nguyễn Thị Hinh, là một nhà thơ nữ nổi tiếng trong thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam với bàithơ “Qua đèo Ngang’, một tuyệt phẩm thơ cổ, được người đời truyền tụng hơn cả (1) (2).
QUA ĐÈO NGANG
Bà huyện Thanh Quan
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá, lá chen hoa Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông rợ mấy nhà. Nhớ nước đau lòng con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng cái gia gia Dừng chân đứng lại trời, non, nước Một mảnh tình riêng ta với ta.
Bộ đáo Hoành Quan nhật dĩ tà, Yên ba gian thạch, thạch gian hoa. Tiều quy nham hạ, ta ta tiểu, Thị tập giang biên, cá cá đa. Đỗ vũ tâm thương, thanh quốc quốc, Giá cô hồn đoạn, tứ gia gia. Đình đình trữ vọng: thiên, sơn, hải, Nhất phiến cô hoài, ta ngã ta.
Bản dịch chữ Hán của Nguyễn Văn Thích
QUÁ HOÀNH SƠN
Quá Hoành Sơn đỉnh tịch dương tà Thảo mộc tê nham diệp sấn hoa Kỳ khu lộc tế tiều tung yểu Thác lạc giang biên điếm ảnh xa Ưu quốc thương hoài hô quốc quốc Ái gia quyện khẩu khiếu gia gia Tiểu đình hồi vọng thiên sơn thuỷ Nhất phiến ly tình phân ngoại gia.
Bản dịch chữ Hán của Lý Văn Hùng.
Đèo Ngang và những tuyệt phẩm thơ cổ, nơi lưu dấu những huyền thoại (2).
Hoàng Kim
(1) Hoàng Đình Quang họa vần “Qua đèo Ngang” với lời bình xác đáng:
Thế sự mông lung lộn chính tà Quần hồng ghi dấu bậc tài hoa Sáu bài thơ cổ lưu tên phố (*) Nửa thế kỷ nay đánh số nhà (**) Khanh tướng chắc gì nên vọng tộc Câu thơ còn đó lập danh gia Chẳng bia, chẳng tượng, không đến miếu Ngẫm sự mất còn khó vậy ta?
(*) Toàn bộ sự nghiệp thơ ca của Bà Huyện Thanh Quan chỉ còn lại 6 bài, trong đó có 2 bài được coi là kiệt tác: Qua đèo Ngang và Thăng Long thành hoài cổ. (**) Từ năm 1955, chính quyền Việt Nam (miền Nam) chính thức đặt tên đường Bà Huyện Thanh Quan cho một đường phố của thành phố Sài Gòn, (thay thế tên cũ Flandin do người Pháp) và tồn tại cho đến ngày nay.
(2) Qua đèo chợt gặp mai đầu suối, Hoàng Kim đã thuật lại câu chuyện “Tầm hữu vị ngộ Hồ Chí Minh” do cố Bộ trưởng Xuân Thủy kể trên đỉnh đèo Ngang năm 1970. “Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh/ Đường về vó ngựa dẫm mây xanh/ Qua đèo chợt gặp mai đầu suối/ Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành“ Bài thơ kỳ lạ này của Bác Hồ đăng trên báo khoảng năm 1970 ẩn chứa nhiều triết lý sâu sắc không dễ thấy, là thơ Bác Hồ mà ít thấy sách báo nào nhắc đến gần nửa thế kỷ qua“.
Đỉnh đèo Ngang , ranh giới Hà Tĩnh Quảng Bính nơi lưu giấu huyền thoại “Qua đèo chợt gạp mai đầu suối”. Mộ bác Giáp an táng tại mũi Rồng gần vũng Chùa nam đèo Ngang (ảnh đầu trang).
“Đã chẵn tháng rồi, ôi Mạ ôi! Tuần trăng tròn khuyết đã hết rồi Mà con không thấy đâu bóng Mạ Thấy trăng vắng Mạ dạ bùi ngùi. (1)
Năm mươi ngày chẵn thấm thoắt trôi Mạ về cỏi hạc để con côi Vầng trăng tròn trặn vừa hai lượt Vắng Mạ, lòng con luống ngậm ngùi. (2)
Con đọc sách khuya không nghe tiếng Mạ Nỗi tâm tư con nghĩ miên man Lúc Mạ còn, con bận việc riêng con Không đọc được để Mạ nghe cho thỏa dạ. Nay con đọc, vắng nghe tiếng Mạ Nỗi bùi ngùi lòng dạ con đau Sách mua về đọc Mạ chẵng nghe đâu Xót ruôt trẻ lòng sầu như cắt. Mạ ơi Mạ, xin Mạ hãy nghe lời con đọc. (3)
Buồn khi rảo bước đồng quê Buồn khi chợp mắt Mạ về đâu đâu Buồn khi vắng Mạ dạ sầu Buồn khi mưa nắng giải dầu thân Cha Buồn khi sớm tối vào ra Ngó không thấy Mạ, xót xa lòng buồn. (4)
Nhớ năm năm cơm ngày một bữa Thương Cha ngực nát bởi bom thù Tấm áo rách suốt đời lương thiện ‘Lời Nguyền’ khắc cốt ghi tâm:
Không vì danh lợi đua chen Công Cha nghĩa Mẹ quyết rèn bản thân. (5)
HOÀNG NGỌC DỘ TRANG THƠ KHÁT VỌNG Hoàng Ngọc Dộ và Hoàng Kim
anh Hai Hoàng Ngọc Dộ cũng là người Thầy dạy học đầu tiên cho Hoàng Kim: “Dặn con cháu khiêm nhu cần kiệm”; “Cảnh mãi đeo người được đâu em Hết khổ, hết cay, hết vận hèn Nghiệp sáng đèn giời đang chỉ rõ Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen”;”Không vì danh lợi đua chen. Công Cha nghĩa Mẹ quyết rèn bản thân”; “Soi mặt mình trong gương không bằng soi mặt mình trong lòng người”; “Có những di sản tỉnh thức cùng lương tâm, không thể mất và không thể tìm lại được”. Hoàng Ngọc Dộ trang thơ “Khát vọng” (1) https://www.thivien.net/…/Kh%…/topic-jvbfrjspi2Y6S8b3jeqzpA…
ÁNH SAO Hoàng Ngọc Dộ
Bóng đêm trùm kín cả không trung Lấp lánh phương Đông sáng một vừng Mây bủa, mây giăng còn chẳng ngại Hướng nhìn trần thế bạn văn chương.
LỜI NGUYỀN
Không vì danh lợi đua chen Thù nhà, nợ nước, quyết rèn bản thân!
Ước hẹn anh em một lời nguyền Thù nhà đâu sá kể truân chiên Bao giờ đền được ơn trung hiếu Suối vàng nhắm mắt mới nằm yên.
CHÙM THƠ VỀ MẠ (MẸ-TIẾNG QUẢNG BÌNH)
(1) CHẴN THÁNG
Đã chẵn tháng rồi, ôi Mạ ôi! Tuần trăng tròn khuyết đã hết rồi Mà con không thấy đâu bóng Mạ Thấy trăng vắng Mạ dạ bùi ngùi.
(2) NĂM MƯƠI NGÀY
Năm mươi ngày chẵn thấm thoắt trôi Mạ về cỏi hạc để con côi Vầng trăng tròn trặn vừa hai lượt Vắng Mạ, lòng con luống ngậm ngùi.
(3) ĐỌC SÁCH
Con đọc sách khuya không nghe tiếng Mạ Nỗi tâm tư con nghĩ miên man Lúc Mạ còn, con bận việc riêng con Không đọc được để Mạ nghe cho thỏa dạ.
Nay con đọc, vắng nghe tiếng Mạ Nỗi bùi ngùi lòng dạ con đau Sách mua về đọc Mạ chẵng nghe đâu Xót ruôt trẻ lòng sầu như cắt.
Mạ ơi Mạ, xin Mạ hãy nghe lời con đọc.
(4) BUỒN
Buồn khi rão bước đồng quê Buồn khi chợp mắt Mạ về đâu đâu Buồn khi vắng Mạ dạ sầu Buồn khi mưa nắng giải dầu thân Cha Buồn khi sớm tối vào ra Ngó không thấy Mạ, xót xa lòng buồn.
CHIA TAY BẠN QÚY
Đêm ngày chẳng quản đói no Thức khuya dậy sớm lo cho hai người Chăm lo văn sách dùi mài Thông kim bác cổ, giúp đời cứu dân
Ngày đêm chẵng quản nhọc nhằn Tối khuyên, khuya dục, dạy răn hai người Mặc ai quyền quý đua bơi Nghèo hèn vẫn giữ trọn đời thủy chung
Vận nghèo giúp kẻ anh hùng Vận cùng giúp kẻ lạnh lùng vô danh Mặc ai biết đến ta đành Dăm câu ca ngợi tạc thành lời thơ
Hôm nay xa vắng đồng hồ Bởi chưng hết gạo, tớ cho thay mày Mày tuy gặp chủ tốt thay Nhớ chăng hôm sớm có người tri ân.
THỨC EM DẬY
Đã bốn giờ sáng Ta phải dậy rồi Sao mai chơi vơi Khoe hào quang sáng
Ta kêu Kim dậy Nó đã cựa mình Vớ vẫn van xin Cho thêm chút nữa.
Thức, lôi, kéo, đỡ Nó vẫn nằm ỳ Giấc ngủ say lỳ Biết đâu trời đất
Tiếc giấc ngủ mật Chẳng chịu học hành Tuổi trẻ không chăm Làm sao nên được
Đêm ni, đêm trước Biết bao là đêm Lấy hết chăn mền Nó say sưa ngủ
Ta không nhắc nhủ Nó ra sao đây Khuyên em đã dày Nó nghe chẳng lọt
Giờ đây ta quyết Thực hiện nếp này Kêu phải dậy ngay Lay phải trở dậy
Quyết tâm ta phải Cố gắng dạy răn Để nó cố chăm Ngày đêm đèn sách
Ta không chê trách Vì nó tuổi thơ Ta không giận ngờ Vì nó tham ngủ
Quyết tâm nhắc nhủ Nhắc nhủ, nhắc nhủ …
NẤU ĂN
Ngày một bữa đỏ lửa Ngày một bữa luốc lem Ngày một bữa thổi nhen Ngày một bữa lường gạo Ngày một bữa tần tảo Ngày một bữa nấu ăn.
(*) 5 năm cơm ngày một bữa
NỖI LÒNG
Nhá củ lòng anh nhớ các em Đang cơn lửa tắt khó thắp đèn Cảnh cũ chưa lìa đeo cảnh mới Vơi ăn, vơi ngủ, với vơi tiền
Cảnh mãi đeo người được đâu em Hết khổ, hết cay, hết vận hèn Nghiệp sáng đèn giời đang chỉ rõ Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen.
DỰ LIÊN HOAN
Hôm nay anh được chén cơm ngon Cửa miệng anh ăn, nuốt chả trơn Bởi lẽ ngày dài em lam lũ Mà sao chỉ có bữa cơm tròn.
NHỚ NGƯỜI XƯA
Ông Trình, ông Trãi, ông Du ơi Chí cả ngày xưa Cụ trả rồi Có biết giờ đây ai khắc khoải Năm canh nguyệt giãi gợi lòng tôi
Bó gối mười năm ở nội thành Thầy xưa đã rạng tiết thanh danh Tớ nay vương nợ mười năm lẽ Sự nghiệp Thầy ơi rạng sử xanh.
EM ỐM
Bồn chồn khi được tin nhà Rằng người xương thịt nay đà bị đau Nghĩ mình là kẻ đỡ đầu Mà sao phải chịu lao đao chốn này.
ĐÊM RÉT THƯƠNG EM
Đêm này trời rét, rét ghê Ta thương chiến sĩ dầm dề gió sương Thương em lặn lội chiến trường Chăn không, áo mỏng, gió sương dạn dày.
EM VỀ
Em về anh biết nấu chi Ba lần khoai sắn, kể chi cá gà Thương em lặn lội đường xa Về nhà khoai sắn, dưa cà cùng anh
Bao giờ giặc Mỹ sạch sanh Em về anh thết cơm canh cá gà Mùng vui kể chuyện nước nhà Gia đình đoàn tụ thật là đượm vui.
LÀM ĐỒNG
Làm đồng đang buổi ban trưa Mồ hôi thánh thót, say sưa với đồng Chung tay liềm hái cuốc chòng Ngày nay nhỏ giọt, mai lòng sướng vui.
Làm đồng nắng sém, da hui Ai ơi xin chớ tham hời của dân Khổ cay nắng sém da hồng Xuân xanh già dặn với đồng, ai ơi!
NGẮM TRĂNG
Nằm ngữa trong nhà ngắm Hằng Nga Hợp cảnh, hợp tình, Hằng ngắm lại Hợp nhà, hợp cửa, ả rọi hoa Từng đám vòng tròn nằm giữa chiếu Chiếu thế mà ra lại chiếu hoa Hậu Nghệ thuở xưa sao chị ghét Ngày nay mới biết ả yêu ta.
NHÀ DỘT
Lã chã đêm đông giọt mưa phùn Lách qua tranh rạ nhỏ lung tung Chiếu giường ướt đẫm, thân đâu thoát Nghĩ cảnh nhà hoa thật não nùng.
QUA ĐÈO NGANG
Qua đèo Ngang, qua đèo Ngang Rừng thẳm Hoành Sơn giống bức màn Tường thành hai dãy nhiều lũy nhỏ Gió chiều lướt thổi nhẹ hơi hương Cổng dinh phân định đà hai tỉnh Cheo leo tầng đá, giá hơi sương Người qua kẻ lại đều tức cảnh Ta ngẫm thơ hay của Xuân Hương (1)
(1) Thơ Xuân Hương: “Một đèo, một đèo, lại một đèo Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo …”
CUỐC ĐẤT ĐÊM
Mười lăm trăng qủa thật tròn Anh hùng thời vận hãy còn gian nan Đêm trăng nhát cuốc xới vàng Trăng dòm, ta hẹn, trăng càng dòm thêm Đất vàng, vàng ánh trăng đêm Đêm khuya, ta với nàng quên nhọc nhằn.
Hoàng Ngọc Dộ (1937-1994) là nhà giáo. Ông quê ở xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch (nay là thị xã Ba Đồn), tỉnh Quảng Bình. Mẹ mất sớm. Nhà nghèo. Cha bị bom Mỹ giết hại. Ông đã nổ lực nuôi dạy các em vượt qua gian khổ, nghèo đói và chiến tranh để vươn lên trở thành những gia đình thành đạt và hạnh phúc. Gương nghị lực vượt khó hiếm thấy, ăn ngày một bữa suốt năm năm, nuôi hai em vào đại học với sự cưu mang của thầy bạn và xã hội đã một thời lay động sâu xa tình cảm thầy trò Trường Cấp Ba Bắc Quảng trạch (Quảng Bình). Ông mất sớm, hiện còn lưu lại gần 100 bài thơ. Lời thơ trong sáng, xúc động, ám ảnh, có giá trị khích lệ những em học sinh nhà nghèo, hiếu học. Chúng tôi chọn lưu lại một số bài tiêu biểu trên Thi viện. Hoàng Ngọc Dộ trang thơ “Khát vọng” (1) https://www.thivien.net/…/Kh%…/topic-jvbfrjspi2Y6S8b3jeqzpA với Tình Yêu Cuộc Sống.