NGHIÊN CỨU KINH DƯỢC SƯ Hoàng Kim “Việc lớn đời người không gì lớn hơn Sống và Chết, mà vấn đề rất khó giải quyết cũng chỉ có sống chết mà thôi”. Đại lão hòa thượng Pháp chủ Thiền sư Thích Phổ Tuệ ấn chứng và căn dặn tôi nên dành thời gian nghiên cứu Kinh Dược Sư khi đã có một nền tảng sinh học căn bản và sự yêu thích trọn đời sống giữa thiên nhiên…
Bảy ngày đêm tỉnh lặng, tôi đã nhìn thấy sự bình tâm và an nhiên xuất hiện. Nhìn đúng và nghe đúng là nền tảng của toàn bộ lối sống đúng. Tôi bắt đầu nghiên cứu Kinh Dược Sư lắng nghe bằng tim, lọc thanh âm bằng tai, nhìn bằng mắt, nghĩ bằng đầu. Có điều gì vui hơn khi tuệ học trị bệnh cứu người giúp đời lúc đã có một chút căn cơ học vấn nghề nghiệp về khoa học cây trồng và văn hóa giáo dục.
Ta về lại thăm rừng xưa Thuannghia Chuyện cùng Lão Phu đàm đạo Thần Thông Thập nhị nhân duyên mười hai tuyệt kỹ Khả năng thích nghi năng lực siêu phàm
Tha tâm thông hiểu hành vi người khác Thiên nhãn thông nhìn thấu suốt nơi xa Thiên nhĩ thông nghe những lời kín tiếng Khinh công thông nhanh gió dục mây vần
Thủy thượng phiêu lướt bay trên mặt nước Tâm thức chuyển di thoắt ở thoắt về Huyền nhiệt luyện ngọn lửa thiêng Tam muội Lôi hỏa điện thân phát điện ngàn vôn
Thiết bố sam luyện mình đồng, thân sắt Sư tử hống tiếng gầm chúa sơn lâm Truyền âm nhập mật thâm sâu thấu tỏ Năng lực thích nghi bí ẩn sinh tồn
Ta chợt thấu những chuyện đời khó giải Tình thế Biển Đông tiến thoái lưỡng nan Mèo vờn chuột thuận thiên và kế hiểm Bức tranh nhân gian thiện ác khó bàn.
Ta về lại rừng xưa cùng Thuannghia Gặp Lão Phu múa gậy dưới trăng rằm Thuận thời Càn Khôn, Hàm Hằng chính đạo Kí Tế xong rồi, Vị Tế chưa xong …
Thích Tiếu Ngạo Giang Hồ qua bể ái
Cưỡi hạc tung tăng chơi chốn Bồng Lai
Thung dung cuộc đời, thảnh thơi trời đất
Vô sự an nhàn sống giữa thiên nhiên.
Thích cùng lão
dạo chơi VÔ PHƯƠNG CÚ
Dấu chân hoang
Thong thả lạc non ngàn
Chẳng e ngại chông chênh hay tâm bão
Bởi tâm hồn tĩnh lặng thật an nhiên
Hoa của Đất
duyên may còn sức khỏe
Nẻo Âm Dương xin Bụt ước ba điều
Con và cháu
thêm ba nguồn trí huệ
Ngọc cho đời
Thành Phước Đức cho Dân
Tâm an định
nên lòng không vướng bận
trí an hòa xử thế thật thung dung
khi kho báu
trong lòng ta đã rõ
chẳng Ưu Tư mặc gió dục mây vần
dẫu như vậy
đôi khi bâng khuâng hỏi
cửa Thần Phù
khéo giữ trọn đường tu
lênh đênh nước
lênh đênh con thuyền nhỏ
chốn nhân gian ước được thế nhân phù.
những lúc ấy
mới hay duyên tiền định
trong thâm tâm
mới tỏ sự luân hồi
luật Nhân Quả
lật Sách Trời gạn hỏi
Mới hiểu đời học mãi vẫn chưa thôi
Vô Phương Cú
Câu thơ thần tĩnh lặng
Vòm trời xanh
thăm thẳm một thinh không
Ta chợt ngộ
Ban mai chào trước ngõ
Bình minh lên
Trời đất thật VÔ CÙNG…
Chớm Đông là tiết Lập Đông trong 24 tiết khí lịch nhà nông. thường bắt đầu khoảng ngày 7 hay 8 tháng 11 dương lịch tùy theo từng năm khi khi Mặt Trời ở xích kinh 225°. Tiết khí đứng ngay trước Lập đông là Sương giáng và tiết khí kế tiếp sau là Tiểu tuyết. Ý nghĩa của chớm Đông là bắt đầu mùa Đông.
Trong văn chương Việt có bài thơ hay ‘Cây thông’ và ‘Vịnh mùa Đông’ đặc sắc của Nguyễn Công Trứ thông reo ngàn Hống và một số bài đối họa thú vị về chủ đề này.
CÂY THÔNG
Nguyễn Công Trứ
“Ngồi buồn mà trách ông xanh. Khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười. Kiếp sau xin chớ làm người. Làm cây thông đứng giữa trời mà reo. Giữa trời vách đá cheo leo. Ai mà chịu rét thì trèo với thông“
VỊNH MÙA ĐÔNG
Nguyễn Công Trứ
Nghĩ lại thì trời vốn cũng sòng, Chẳng vì rét mướt bỏ mùa đông. Mây về ngàn Hống đen như mực, Gió lọt rèm thưa lạnh tựa đồng. Cảo mực hơi may ngòi bút rít, Phím loan cưỡi nhuộm sợi tơ chùng. Bốn mùa ví những xuân đi cả, Góc núi ai hay sức lão tùng.
Qua đèo chợt gặp mai đầu suối với những bài thơ về mùa xuân và hoa mai nói đến sự vượt qua tiết đông lạnh giá để đến với mùa xuân ấm dần… Bài thơ ‘Tảo Mai’ của Trần Nhân Tông lưu trong “Lên Yên Tử sưu tầm thơ đức Nhân Tông’ là một kiệt tác , tiếc là đến nay vẫn chưa có bản dịch thơ tiếng Việt hay tương xứng
Ngũ xuất viên ba kim niễn tu, San hô trầm ảnh hải lân phù. Cá tam đông bạch chi tiền diện, Tá nhất biện hương xuân thượng đầu. Cam lộ lưu phương si điệp tỉnh, Dạ quang như thủy khát cầm sầu. Hằng Nga nhược thức hoa giai xứ Quế lãnh thiềm hàn chỉ ma hưu!
Năm cánh hoa tròn nhị điểm vàng, [Như] bóng san hô chìm, [như] vảy cá biển nổi. Cành hoa trắng xóa suốt trong ba tháng đông, Sang đầu xuân chỉ còn loáng thoáng một vài cánh thơm nhẹ. Móc ngọt chảy mùi thơm làm chú bướm si ngây tỉnh giấc, ánh sáng ban đêm như nước khiến con chim khát buồn rầu. Nếu Hằng Nga biết được vẻ đẹp thanh nhã của hoa mai, Thì có ưa gì cây quế với cung thiềm lạnh lẽo.
Thơ Việt mới có nhiều bài hay về Chớm Đông. Một số trích đoạn các bài thơ Chớm Đông đặc sắc mà tôi yêu thích hơn cả: Nguyên Đỗ viết những lời thơ Chớm Đông hay đằm thắm “Năm ngoái gặp nhau buổi chớm đông. Sáng nay lành lạnh mặt trời hồng. Chao ơi lại nhớ ơi là nhớ. Lúc cận kề nhau, phút mặn nồng…”. Khánh Chân tứ thơ Chớm đông thật sang trọng: “Chiều nay gió lạnh chớm sang đông. Héo hắt bên hiên chút nắng hồng. Mây xám chờ ai ôm chót núi. Sương mờ nhớ bạn trải ven sông…”. Linda thơ Chớm đông là sự hoài niệm: “Thu đã tàn rồi trời chớm Đông. Từng cơn gió lạnh buốt qua hồn. Tâm tư ray rứt mùa Thu nhớ. Đâu phút êm đềm thóang ước mong”.
Video nhạc Việt về chớm Đông có nhiều bài hay . “Nỗi nhớ mùa Đông’ trong NS Phú Quang – Những ca khúc hay nhất tôi thường thích nghe lại. Mời bạn cùng thưởng thức dưới đây.
Hoàng Kim chớm đông thơ và bình, đôi lời cảm nhận.
VIỆT NAM CON ĐƯỜNG XANH Hoàng Kim điểm tin và bình luận Sự đi tới hiệu quả ThaiBinh Seed tiếp nhận bản quyền 4 giống lúa Báo Nông nghiệp Việt Nam đưa tin: Ngày 22/10, tại Thái Bình, dưới sự chứng kiến của Thứ trưởng NN-PTNT Lê Quốc Doanh, Viện Cây Lương thực và Cây Thực phẩm đã ký hợp đồng ủy quyền độc quyền sản xuất, kinh doanh 4 giống lúa BC15 kháng đạo ôn, Bắc thơm 7 kháng bạc lá, Gia Lộc 97 và Gia Lộc 25 cho Tập đoàn ThaiBinh seed, Trong đó, Gia Lộc 97, Gia Lộc 25 là hai giống lúa thuần do Viện Cây Lương thực và Cây Thực phẩm nghiên cứu chọn tạo; giống lúa BC15 kháng đạo ôn, Bắc thơm 7 kháng bạc lá là sản phẩm hợp tác giữa hai đơn vị sau 2 năm ký kết nghiên cứu khoa học Thông tin xem tiếp tại Báo NNVN.
anh Chin Duong đưa tin: [BDNG-231019] Ông Dmitrijus Gubanovas và Ông Kamil Adamek thuộc công ty CENOS ( Ba lan ) đến thăm Trung tâm nghiên cứu nông nghiệp Định Thành ( DTARC) và Công ty Thoại Sơn ( Công ty TNHH 1 TV lương thực Thoại Sơn ) vào chiều ngày 21/10/2019 . Đoàn đã tìm hiểu về hoạt động nghiên cứu khoa học , sản xuất lúa gạo theo chuỗi giá trị trên nền tảng bộ tiêu chuẩn quốc tế SRP , tham quan đồng ruộng nông dân và nhà máy chế biến lúa gạo hiện đại của Lộc Trời tại Thoại Sơn . Mục đích của đoàn là mong muốn tìm nguồn gạo tốt để nhập khẩu về thị trường châu Âu sau khi hiệp định thương mại Việt nam – EU có hiệu lực Công ty CENOS sẵn sàng đặt hàng trước nửa năm cho Lộc Trời để tổ chức sản xuất lúa gạo một cách chủ động; xem tiếp bài cùng chủ đề https://hoangkimlong.wordpress.com/…/viet-nam-con-duong-xa…/.
Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh Khoa Nông học Thư mời (mời đọc chi tiết tại hình ảnh kèm theo) Hội dung: Họp mặt truyền thống các thế hệ Giảng viên, sinh viên, học viên Khoa Nông học, Chuẩn bị kỷ niệm 65 năm thành lập Khoa, Giao lưu với các thế hệ Cán bộ viên chức, Giảng viên, cựu Sinh viên/học viên/NCS và Sinh viên/học viên /NCS. Thời gian:8:00 -14:00 ngày 19 tháng 11 năm 2019. Địa điểm Trại Thực nghiệm Khoa Nông Học. Trưởng khoa (đã ký) TS Võ Thái Dân (Thư mời đăng tải trên website của Khoa là lời mời chính thức tới quý Thầy Cô và Anh/Chị).
Chúc mừng TS Nguyễn Phương, TS Võ Thái Dân, ThS. Hồ Tấn Quốc, ThS Nguyễn Thị Thanh Duyên, ThS. Nguyễn Tuyết Nhung Tường và đồng sự 2019 “Nghiên cứu tạo giống ngô đường lai đơn F1 phục vụ cho sản xuất khu vực Đông Nam Bộ”. Mã số B2017 NLS 11. Đề tài thật tốt. Quý Thầy bạn đang dần làm cho kết quả nghiên cứu bắp ngọt Nông Lâm sớm mang lại niềm vui cho nhiều người dân . — cùng với Phạm Văn Hiền và Toan Pham. Thông tin và video giới thiệu tại đây.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phan Đình Phùng trao giải nhất cho TS Nguyễn Thị Trúc Mai (thứ hai từ phải sang) và các tác giả khác tại Hội thi Sáng tạo kỹ thuật lần thứ 8 (2018-2019). Ảnh: H.H.THẾ , Tiến sĩ Trúc Mai nghiên cứu thành công giống sắn mới,Người tâm huyết với cây sắn và lúa, vừa đạt giải Nhất Hội thi Sáng tạo kỹ thuật tỉnh Phú Yên lần thứ 8 (2018-2019) tổ chức tại Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật tỉnh,về giải pháp “Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao và kỹ thuật thâm canh tại tỉnh Phú Yên”. Sản phẩm của giải pháp này là giống sắn KM419 trở thành giống sắn chủ lực cho tỉnh Phú Yên từ năm 2016 đến nay với quy trình kỹ thuật có mật độ trồng và công thức bón phân thích hợp cho sự thâm canh giống sắn KM419 trong cơ cấu thời vụ thu hoạch rải vụ của vụ Xuân kết hợp vụ Hè tại tỉnh Phú Yên để nâng cao hiệu quả hoạt động của nhà máy chế biến tinh bột sắn và thu nhập của nông dân. Giống sắn KM419 đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận tại Quyết định số: 85/QĐ-BNN-TT, ngày 13/01/2016, các tác giả giải pháp là tác giả của KM419. Một số biện pháp kỹ thuật thâm canh rải vụ sắn tối ưu cho giống sắn KM419 tại tỉnh Phú Yên đạt năng suất và hiệu quả kinh tế cao nhất; đã được Cục Trồng trọt công nhận tại Quyết định số 208/QĐ-TT- CLT, ngày 27/5/2016, các tác giả giải pháp là tác giả của quy trình kỹ thuật.
“Ngưòi trước chẳng thấy ai. Người sau thì chưa thấy. Gẫm trời đất thật vô cùng. Riêng lòng đau mà lệ chảy”. “Bài ca lên đài U Châu” thơ Trần Tử Ngang, người dịch Tương Như là tác phẩm văn chương thơ ngoài ngàn năm của bậc kỳ tài. Trong văn chương Việt, khi đọc bài kệ “Cáo tật thị chúng” của thiền sư Mãn Giác, “Mài kiếm dưới trăng” của tráng sĩ Đặng Dung và đọc thơ Nguyễn Du, ta đều cảm nhận thấy sự ung dung, an nhiên tự tại, thấu suốt lẽ sinh tử… và đều có nỗi buồn man mác.Một người tốt muốn dấn thân nhưng còn bao điều kiện cần phải cố gắng vượt lên hoàn cảnh và vận mệnh. Đấy có thể là điều để hiểu thơ Trần Tử Ngang chăng? xem tiếp bài viết, hình ảnh và thư pháp tại đây https://hoangkimlong.wordpress.com/2019/10/19/ngam-tho-ngoai-ngan-nam/
Trần Tử Ngang cuộc đời và sự nghiệp
Trần Tử Ngang( 661 – 702) là nhà thơ có địa vị trọng yếu trên thi đàn
thời Sơ Đường. Ảnh hưởng của ông rất lớn đối với thi ca thời Thịnh
Ðường cũng như phong trào vận động cổ văn thời Trung Ðường. Ông có tên
tự là Bá Ngọc, người đất Xạ Hồng, phủ Từ Châu (hiện là tỉnh Tứ Xuyên ).
Ông đậu tiến sĩ lúc 24 tuổi năm 684 (đời Đường Trung Tông) làm đại quan
trong triều Võ Tắc Thiên với chức Lan đài chính tự sau đó đổi làm chức
Tả thập di.
Phong cách thơ của ông xuất chúng, ngụ ý sâu xa. Trần Tử Ngang thời
niên thiếu gia đình tương đối giàu có, coi nhẹ tiền bạc, khẳng khái. Sau
khi trưởng thành, ông quyết tâm học, giỏi viết văn; đồng thời quan tâm
quốc sự , quyết lập công tích về chính trị. Ông thường dâng sớ điều trần
về đại kế quốc gia nhưng không được Vũ hậu nghe theo. Vũ hậu là người
mưu lược, cương nghị, quyền biến, tâm cơ. Bà không từ một thủ đoạn nào
để mua chuộc, lôi kéo hoặc thẳng tay triệt hạ những người tài giỏi thuộc
vây cánh của đối phương nhằm thâu tóm quyền lực, Dưới thời của bà những
người tài không thuộc bè phái thường bị nguy hiểm.
Giai thoại đập đàn của Trần Tử Ngang
Trần Tử Ngang có giai thoại nổi tiếng về việc đập đàn. Lần đầu tiên
đến Trường An, ông không được một ai biết đến. Ông liền bỏ ra một ngàn
quan tiền, mua một cây đàn hồ cầm rất quí, rồi mời mọi người đến dự
tiệc, nghe nhạc.
Khi moi người tề tựu đông đủ và háo hức chờ nghe nhạc. Ông đứng lên nói: “Tôi
là Trần Tử Ngang người đất Thục, có trăm quyển văn, rong ruổi kinh sư,
mà địa vị vẫn tầm thường giữa nơi bụi bậm, không ai biết đến. Nhạc này
là của kẻ thơ hèn đâu đáng lưu tâm?”
Nói đoạn, ông đập tan cây đàn hồ cầm rất quý trước sự sững sờ, kinh
ngạc của nhiều người. Kế đó, ông đem các cuốn văn ra tặng cho cử tọa.
Trong một ngà,y danh tiếng của ông chấn động khắp kinh thành, mọi người
ai ai cũng đều biết tiếng.
Năm 24 tuổi, Trần Tử Ngang với văn tài xuất chúng đã thi đậu tiến sĩ
và được Võ hậu hết sức nể phục tài năng. Luận về thơ, ông nói: “Làm thơ
là để gởi tấm lòng vào thiên cổ chứ đâu phải để lưu danh nhất thời”.
Quả nhiên, những tuyệt phẩm thơ của Trần Tủ Ngang mười ba thế kỷ sau,
đến nay vẫn còn tốn hao không biết bao nhiêu giấy mực của nhiều người.
Trung Quốc hiện có nhiều địa chỉ web về Trần Tử Ngang , bạn có thể tìm
trên Google tại từ khóa 陳子昂 (Trần Tử Ngang).
Trần Tử Ngang thơ ngoài ngàn năm
Bài ca lên đài U Châu
Trần Tử Ngang thơ ngoài ngàn năm “ Ngưòi trước chẳng thấy ai / Người sau
thì chưa thấy / Gẫm trời đất thật vô cùng / Riêng lòng đau mà lệ chảy
”. Tương Như dịch
Đăng U Châu Đài Ca
Tiền bất kiến cổ nhân,
Hậu bất kiến lai giả.
Niệm thiên địa chi du du,
Ðộc sảng nhiên nhi thế hạ.
Trần Tử Ngang
* U châu : nay là Bắc Kinh
Dịch nghĩa :
Bài ca lên đài U Châu
Trông lại trước không thấy người xưa ;
nhìn về sau, không thấy kẽ mới đến.
Nghĩ nổi trời đất lâu dài man mác,
một mình bùi ngùi rơi lệ.
Bài ca lên đài U Châu
Ngoảnh lại trước, người xưa vắng vẻ
Trông về sau, quạnh quẽ người sau
Ngẫm hay trời đất dài lâu
Mình ta rơi hạt lệ sầu chứa chan.
Trần Trọng San dịch
Trước chẳng thấy người xưa,
Sau chẳng thấy ai cả.
Ngẫm trời đất thăm thẳm sao!
Riêng xót xa lệ lã chã.
Trần Trọng Kim dịch
Bài ca lên đài U Châu
Trước không gặp được người xưa
Sau không gặp được kẻ chưa ra đời
Mênh mang ngẫm lẽ đất trời
Một mình để giọt lệ rơi bùi ngùi
Cao Nguyên dịch
Suy ngẫm về thơ Trần Tử Ngang
Lên núi cao ngắm biển trời để thấu hiểu sự mênh mang vô cùng của trời đất, lẽ huyền vi của tạo hóa, sự thịnh suy được mất của các triều đại, sự biến dịch của nhân quả, sự ngắn ngủi hữu hạn của kiếp người. Điều đó đã được nhiều người trãi nghiệm…
Chúng ta đọc thêm hai bài thơ nữa của Trần Tử Ngang để hiểu rõ hơn về ông:
Kế khâu lãm cổ
Nam đăng Kệ Thạch quán,
Dao vọng Hoàng Kim đài.
Khâu lăng tận kiều mộc
Chiêu Vương an tại tai
Bá đồ trướng dĩ hĩ,
Khu mã phục quy lai.
Gò Kế xem cảnh năm xưa
Trèo lên Kệ Thạch quán nam,
Xa xa trông ngóng Hoàng Kim có đài.
Cây cao phủ hết quanh đồi.
Vua Chiêu ngày trước nay thời nơi nao?
Cơ đồ bá chủ còn đâu!
Nhớ ai đánh ngựa ta âu lại về.
Tản Đà dịch
Nhị cú tam niên đắc
Nhất ngâm song lệ lưu
Tri âm bất tương thức
Quy ngọa cố sơn thu
(Trần Tử Ngang)
Ba năm làm được hai câu
Ngâm lên một bận dòng châu tuôn trào
Tri âm chẳng hiểu lòng nhau
Xin về núi cũ nằm khào nhớ thu
(Vũ Đức Sao Biển dịch)
Hai câu thơ ba năm làm mới được
Ngâm lên rồi bất giác lệ tuôn rơi
Hỡi tri âm, lòng nhau sao không hiểu
Chốn non xưa về ngắm mây trời.
(gamai dịch lại)
Tôi duyên may năm 17 tuổi được Lên đỉnh đèo Ngang ngắm biển ; Thăm đèo Ngang gặp bác Xuân Thủy; Qua đèo chợt gặp mai đầu suối; sớm tiếp xúc với Đèo Ngang và những tuyệt phẩm thơ cổ. Nơi cổng Trời “Hoành sơn cổ lũy” đèo Ngang gánh hai đầu đất nước, tôi đã từng trầm tư cảm khái về “Bài ca lên đài U Châu” của Trần Tử Ngang và bài thơ thần của Hồ Chí Minh viết lúc 5 tuổi (mà sau này linh ứng với “vũng Chùa, biển Đông, đường lưỡi bò”):”Biển là ao lớn/ Thuyền là con bò/ Bò ăn gió no/ Lội trên mặt nước/ Em nhìn thấy trước/ Anh trông thấy sau/ Ta lớn mau mau/ Vượt qua ao lớn.” Chợt dưng, tôi thấu hiểu sự ứng xử thung dung, sâu sắc của Võ Đại tướng “Chốn non xưa về ngắm mây trời“, là trí tuệ bậc Thầy.
Chào ngày mới yêu thương HK Khoác thêm tấm áo trời se lạnh Đông tàn xuân tới đó rồi em Phúc hậu mỗi ngày chăm việc thiện Yêu thương xa cách hóa gần thêm.
Minh triết sống thung dung phúc hậu, yêu thương, an nhiên tự tại,
thấu suốt lẽ sinh tử là cốt lõi tỉnh thức để hiểu sử thi, thơ ngoài ngàn
năm và giác ngộ.
Quang Dũng hùng ca Tây Tiến Tây Bắc chơi vơi nhớ núi nhớ người, Chu Nhạc ‘chỉ lửa là rất thật‘ Anh và tôi đều thầm lặng nhớ ai.
Quang Dũng thơ gọi nắng như khói như mây mờ ảo nhân tình, Tây Tiến tiếng vọng thời gian, Thăm thăm chim chiều tầng trời xa vắng.
‘Tây Tiến’, ‘Đôi mắt người Sơn Tây’, ‘Bố Hạ’,‘Đôi Bờ’, lưu dấu chân anh như núi như sông bóng hình người lính hùng vĩ trên nền trời Tây Bắc.
Quang Dũng thơ gọi nắng: ‘Tây Tiến’ ‘Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây, súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi ‘ ‘Đôi mắt người Sơn Tây’ ‘u uẩn chiều lưu lạc buồn viễn xứ khôn khuây‘ ‘Bố Hạ‘ ‘đường về quê hương về quê hương Không thấy quê hương chỉ thấy đường … ‘Em đã xa rồi, chim gọi nắng Em còn nghe thấy nữa bao giờ’, ‘Đôi Bờ’ ‘Giăng giăng mưa bụi qua phòng tuyến Thương nhớ ơ hờ thương nhớ ai ‘…
Đọc thơ Quang Dũng càng thấy yêu hơn Việt Nam đất nước con người. Thương ‘Con chim xanh’ Chu Nhạc
‘Con chim xanh trong tán lá xanh Chỉ một màu xanh lay động Tiếng hót nào trên trời xanh cao rộng Con chim xanh bay rồi tán lá vẫn xanh‘.
Nhớ ‘Trăng rằm’ Hoàng Kim
‘Trăng sáng lung linh, trăng sáng quá! Đất trời lồng lộng một màu trăng Dẫu đêm khuya vắng người quên ngắm Trăng vẫn là trăng, trăng vẫn rằm‘.
Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Diệm (1921–1988) là tác giả của những bài thơ hay Tây Tiến, Đôi mắt người Sơn Tây, Đôi bờ…
Ngoài ra ông còn là một họa sĩ, nhạc sĩ. Quang Dũng quê hương làng
Phượng Trì, huyện Đan Phượng, Sơn Tây xưa Hà Nội nay. Trước cách mạng
tháng Tám, ông học trung học trường Thăng Long, sau đó dạy học tư ở Sơn
Tây và gia nhập Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày Cách mạng tháng Tám
thành công, trở thành phóng viên tiền phương của báo Chiến đấu. Năm
1947, ông được đi học Trường bổ túc trung cấp quân sự Sơn Tây. Sau khoá
học, ông làm đại đội trưởng ở tiểu đoàn 212, Trung đoàn Tây Tiến. Ông
tham gia chiến dịch Tây Tiến đợt hai, mở đường qua đất Tây Bắc. Trong
thời gian này, ông còn được cử làm Phó đoàn tuyên truyền Lào – Việt.
Cuối năm 1948, sau chiến dịch Tây Tiến, ông làm Trưởng tiểu ban tuyên
huấn của Trung đoàn 52 Tây Tiến, rồi làm Trưởng đoàn Văn nghệ Liên khu
III. Ông đã viết rất nhiều truyện ngắn xuất bản và viết kịch, cũng như
đã triển lãm tranh sơn dầu cùng với các hoạ sĩ nổi danh. Ông sáng tác
nhạc, bài Ba Vì của ông đã nổi tiếng ở trong khu kháng chiến. Ông
làm bài thơ Tây Tiến năm 1948 khi dự Đại hội toàn quân ở Liên khu III
tại làng Phù Lưu Chanh (Hà Nam). Tháng 8 năm 1951, ông xuất ngũ. Sau
1954, ông làm Biên tập viên tại báo Văn nghệ, rồi chuyển về Nhà
xuất bản Văn học. Ông bị gửi đi chỉnh huấn sau vụ Nhân Văn – Giai Phẩm,
và lui về ẩn thân trong nghèo nàn và bệnh tật. Thơ của ông bị phê bình
trên báo chí miền Bắc lúc đó là mang hơi hướng “tiểu tư sản”, thiếu tính
chiến đấu, còn ở miền Nam thì được xuất bản và phổ biến rộng rãi và
được nhiều người yêu thích. Về sau này, như những nhà thơ lớn khác, Nguyễn Bính, Hồ Dzếnh,… ông mai một và mất đi trong âm thầm.
Ông mất ngày 13 tháng 10 năm 1988 sau một thời gian dài đau ốm tại
bệnh viện Thanh Nhàn, Hà Nội. Năm 2001, ông được truy tặng Giải thưởng
Nhà nước về văn học nghệ thuật. Hiện nay tại trường PTTH xã Đan Phượng
(quê ông) có đặt một bức tượng bán thân Quang Dũng trong trang phục
người lính Tây Tiến.
Quang Dũng là nhà thơ tài hoa, vẽ giỏi, hát hay. Bài thơ Tây Tiến
của ông mang đậm nét hào hùng, bi tráng pha chất lãng mạn được chọn vào
giảng dạy trong giáo trình trung học phổ thông. Một số bài thơ của ông
đã được phổ nhạc như Tây Tiến (Phạm Duy phổ nhạc), Đôi mắt người Sơn Tây (Phạm Đình Chương phổ từ hai bài thơ Đôi bờ và Đôi mắt người Sơn Tây), Kẻ ở (Cung Tiến phổ nhạc). Đặc biệt bài thơ Em mãi là 20 tuổi
được 3 nhạc sĩ phổ nhạc khác nhau (Việt Dũng, Phạm Trọng Cầu, Khúc
Dương). Những tác phẩm tiêu biểu gồm các tập thơ Bài Thơ Sông Hồng
(1956), Rừng Biển Quê Hương (1957), Mây Đầu Ô (1986); truyện ngắn Mùa
Hoa Gạo (1950); hồi ký Làng Đồi Đánh Giặc (1976)…
Tây Tiến Quang Dũng
Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi !
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Đôi mắt người Sơn Tây
Quang Dũng
Em ở thành Sơn chạy giặc về
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
Cách biệt bao lần quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì
Vừng trán em vương trời quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương
Tôi thấy xứ Đoài mây trắng lắm
Em có bao giờ em nhớ thương
Từ độ thu về hoang bóng giặc
Điêu tàn thôi lại nối điêu tàn
Đất đá ong khô nhiều ngấn lệ
Em có bao giờ lệ chứa chan.
Mẹ tôi em có gặp đâu không
Những xác già nua ngập cánh đồng
Tôi cũng có thằng em còn bé dại
Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông
Đôi mắt người Sơn Tây
U uẩn chiều lưu lạc
Buồn viễn xứ khôn khuây
Cho nhẹ lòng nhớ thương
Em mơ cùng ta nhé
Bóng ngày mai quê hương
Đường hoa khô ráo lệ
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngắm lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn quanh phủ quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng
Bao giờ tôi gặp em lần nữa
Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa
Đã hết sắc mầu chinh chiến cũ
Còn có bao giờ em nhớ ta.
Bài thơ “Bố Hạ” qua Bút tích Quang Dũng đã neo tên quê hương ông và hình bóng em bảng lãng như thực như mơ:
Bố Hạ Quang Dũng
Đường về quê hương về quê hương Không thấy quê hương chỉ thấy đường Em đã đi trên đường nhựa ấy Hai mươi năm trước lúa thu vàng.
Đường về quê hương về quê hương Em mặc áo vàng hay áo tím Mắt em lơ đãng nhìn chấm mây Anh vịn thành xe tay trong tay
Đường về quê hương về quê hương Có một ngày sao mà bất tận… Hai mươi cây số tưởng vô vàn Dài đến bây giờ vẫn chứa chan.
Có con chim đậu nhành giây điện Lại giống ngày xưa chuyện nắng thu Em đã xa rồi – chim gọi nắng Em còn nghe thấy nữa bao giờ.
Di
sản thơ Quang Dũng ấn tượng nhất với tôi đối với là bài thơ “Tây
Tiến”, tác phẩm học trong nhà trường, kế đến là bài thơ “Đôi mắt người
Sơn Tây”,”Bố Hạ” và “Đôi Bờ”. Thời lính và tuổi trẻ đi qua, tôi tâm đắc
với anh Hoàng Đại Nhân, giáo sư Lê Văn Tố, anh Lê Khánh Thắng và các
bạn tôi về ‘Quang Dũng những bài thơ gọi nắng’.
VỊ TƯỚNG CỦA LÒNG DÂN Hoàng Kim Võ Nguyên Giáp vị tướng của lòng dân. Người dĩ công vi thượng, biết người biết mình, dám đánh và biết đánh thắng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp có những câu nói bất hủ:“Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ sống mãi”; “Ý định của tôi là ra lệnh hoãn cuộc tiến công ngay chiều hôm nay, thu quân về vị trí tập kết, chuẩn bị lại theo phương châm đánh chắc, tiến chắc”; “Ngày hôm đó, tôi đã thực hiện được một quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của mình!”; “Thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn nữa; tranh thủ từng phút, từng giờ; xốc tới mặt trận; giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng!”; “Chúng tôi đánh theo cách đánh khác, cách đánh của Việt Nam, và chúng tôi sẽ thắng”; “Vị tướng dù có công lao lớn đến đâu cũng chỉ là giọt nước trong biển cả. Chỉ có nhân dân Việt Nam là người đánh thắng Mỹ. Các ngài gọi tôi là vị tướng thần thoại, nhưng tôi tự nghĩ tôi bình đẳng với những người lính của mình”; “Tôi sống ngày nào, cũng là vì đất nước ngày đó” Cuộc đời Người là 103 mùa xuân huyền thoại, còn mãi với non sông.
VÕ NGUYÊN GIÁP 103 MÙA XUÂN HUYỀN THỌAI
Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25 tháng
8 năm 1911 tại làng An Xá, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, qua đời ngày
4 tháng 10 năm 2013, lúc 18 giờ 9 phút và an táng ngày 9 tháng 9 năm
Quý Tỵ (nhằm ngày 13 tháng 10 năm 2013) tại mũi Rồng- đảo Yến, xã Quảng
Đông, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Người trãi
cuộc trường chinh thế kỷ với 103 mùa xuân huyền thoại, là nhà chỉ huy
quân sự và hoạt động chính trị lỗi lạc bên cạnh chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người chỉ huy
chính trong Chiến tranh Đông Dương (1946– 1954) và chiến tranh Việt Nam
(1960–1975) đã trực tiếp hoặc tham gia chỉ huy Chiến dịch Việt Bắc (thu
đông 1947), Chiến dịch Biên giới (thu đông năm 1950), Chiến dịch Trung
Du (tháng 12 năm 1950), Chiến dịch Đông Bắc (năm 1951, Chiến dịch Đồng
Bằng (tháng 5 năm 1951), Chiến dịch Hòa Bình (tháng 12 năm 1951), Chiến
dịch Tây Bắc (tháng 9 năm 1952), Chiến dịch Thượng Lào (tháng 4 năm
1953), Chiến dịch Điện Biên Phủ (tháng 3 – 5 năm 1954), Chiến dịch Tết
Mậu Thân (1968), Chiến dịch đường Chín Nam Lào (1971), Chiến dịch Trị
Thiên – Huế (1972), Chiến dịch Hồ Chí Minh (1975). Nhiều tài liệu lịch
sử gần đây từ hai phía đã soi thấu những góc khuất, càng thể hiện tài
năng kiệt xuất của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về chiến lược, chiến dịch,
chiến thuật trong suốt Chiến tranh Đông Dương (1946–1954) và chiến tranh
Việt Nam (1960–1975). Sau khi Việt Nam
thống nhất, đại tướng Võ Nguyên Giáp thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng năm 1980 nhưng vẫn tiếp tục là Ủy viên Bộ Chính trị đến năm 1982
và Phó Thủ tướng phụ trách Khoa học – Kỹ thuật. Năm 1983 ông được Hội
đồng Bộ trưởng phân công kiêm nhiệm thêm vai trò Chủ tịch Ủy ban quốc
gia dân số và sinh đẻ có kế hoạch. Năm 1991, đại tướng nghỉ hưu ở tuổi
80.
Thời gian cuối đời, đại tướng vẫn quan tâm đến những vấn đề cơ bản và
cấp bách của đất nước, với một loạt những tác phẩm, kiến nghị, đề xuất
còn mãi với thời gian như: Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí
Minh vẫn sống mãi; Để cho khoa học
thật sự trở thành động lực phát triển kinh tế xã hội, Đổi mới, tiếp tục
đổi mới, dân chủ, dân chủ hơn nữa, nâng cao trí tuệ, đoàn kết tiến lên
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, Đổi mới nền
giáo dục và đào tạo Việt Nam; yêu cầu kiểm định và báo cáo Đại hội
Đảng Cộng sản X về Vụ PMU18; gặp gỡ và khuyến khích doanh nhân làm xuất
khẩu nông sản; đề nghị dừng chủ trương xây dựng Nhà Quốc hội ở khu di
tích 18 Hoàng Diệu;
viết thư yêu cầu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tạm dừng Dự án khai thác bô
xít ở Tây Nguyên vì lý do an ninh quốc gia và môi trường; đúc kết Tổng
tập Võ Nguyên Giáp;…
Đại tướng Võ Nguyên Giáp có các tác phẩm chính: Tổng tập Võ Nguyên
Giáp (2010); Điện Biên Phủ 50 năm nhìn lại (2004); Tổng hành dinh
trong mùa xuân đại thắng (2000); Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử (2000);
Đường tới Điện Biên Phủ (2001); Chiến đấu trong vòng vây (1995,2001);
Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (1979);
Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam (Võ Nguyên Giáp chủ
biên, 2000); Những chặng đường lịch sử (1977); Vũ trang quần chúng
cách mạng, xây dựng quân đội nhân dân (1972); Những năm tháng không thể
nào quên (1970, 2001) Mấy vấn đề đường lối quân sự của Đảng (1970); Từ
nhân dân mà ra (1964); Đội quân giải phóng (1950); Vấn đề dân cày
(Trường Chinh,Võ Nguyên Giáp (1938);
VÕ NGUYÊN GIÁP VỊ TƯỚNG CỦA LÒNG DÂN
“Văn lo vận nước Văn thành Võ/ Võ thấu lòng dân, Võ hoá Văn”.
Đó là đôi câu đối của cụ Hồ Cơ trên 90 tuổi, từng là Hiệu trưởng trường
Trung học Nguyễn Nghiêm, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, nay sống ở
phường Láng Hạ, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, khái quát tài năng, đức
độ của vị Đại tướng huyền thoại, đăng trong bài” Một câu đối – Một đời người ” của VOV.
Sự ra đi của Võ Đại tướng đã mở đầu cho những giá trị mới của cuộc sống
như một câu đối khác cũng của nhà giáo Hồ Cơ ngưỡng vọng Người: “Trăm
tuổi lừng danh Văn Đại tướng/ Nghìn thu vang tiếng Võ Anh hùng”.
Nhà văn Sơn Tùng có bức trướng: “Võ nghiệp dẹp xong ba đế quốc/ Văn
tài xây đắp một nhà chung/ Võ Văn minh đạo chân Nguyên Giáp/ Nhật nguyệt
vô thường một sắc không”.
Bộ Nội vụ tặng Đại tướng đôi lộc bình trên đó có ghi đôi câu đối mang
ý nghĩa sâu xa : “Tâm sáng Đảng tin, đời trường thọ/ Trí cao Dân mến,
sử lưu danh.” mà tài liệu Soha.vn đã trích dẫn.
Nhiều bài thơ văn nhạc viết về Người và đồng đội “Lính Cụ Hồ” theo chân Người. Nhà thơ Hoàng Gia Cương viết
Mãi mãi là Anh
Kính tặng anh Văn – Đại tướng Võ Nguyên Giáp-
Anh đã là Anh – mãi mãi Anh
Người Anh của lớp lớp hùng binh
Song toàn văn võ, thông kim cổ
Vững chí bền gan đạp thác ghềnh !
Nhiều người ứa nước mắt xúc động tiễn Bác
Giáp về cõi vĩnh hằng và thấm thía lời nói của Người về lòng yêu nước và
sức mạnh toàn dân:”Có lòng dân là có tất cả”.
Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, đại tá tiến sĩ Vũ Tang Bồng đúc kết: “MÃI
LÀ ANH CẢ CỦA QUÂN ĐỘI, ĐẠI TƯỚNG CỦA NHÂN DÂN. Ngày 4-10-2013, Đại
tướng Võ Nguyên Giáp – Người Anh Cả của Quân đội nhân dân Việt Nam, Đại
tướng của nhân dân, được cả dân tộc ngưỡng mộ, đã qua đời. Là người có
may mắn được gặp và giúp việc cho Đại tướng trong một số lần, trong 5
năm qua, cứ vào dịp kỷ niệm ngày mất của Đại tướng, tôi thường đọc lại
những bài viết, hình ảnh trên báo chí những ngày ấy, và lần nào tôi cũng
không kìm nổi lòng mình. Tôi còn nhớ, ngay sau khi biết tin Đại tướng
từ trần, anh Hoàng Anh, một họa sĩ trẻ đã sáng tác poster “Chào đồng
bào, tôi đi” và được Báo Lao động sử dụng làm tranh bìa trong số báo ra
ngày 5-10-2013. Đúng 45 phút sau, poster đó được đưa lên Facebook và lập
tức gây được sự chú ý đặc biệt. Poster “Chào đồng bào, tôi đi” của
người họa sĩ trẻ gây được hiệu ứng lay động bởi hình ảnh của Đại tướng
rất giản dị với nụ cười thanh thản. Câu chữ trên poster cũng rất độc đáo
với hai chữ “đồng bào”, mà sinh thời Bác Hồ rất thường dùng với nghĩa
kêu gọi, gắn kết cội nguồn thân thương, ruột thịt. Poster ấy đã khiến
mọi người khi xem đều xúc động mạnh mẽ. Nó cho thấy sự cống hiến và
thanh thản của Đại tướng lúc còn sống, cũng như khi về với tổ tiên.” “Qua
hồi ức của các tướng lĩnh và qua các tác phẩm quân sự của Đại tướng Võ
Nguyên Giáp, chúng ta ngày càng thấy rõ rằng, trong suốt cuộc đời cầm
quân, Đại tướng không bao giờ chấp nhận một chiến thắng phải trả bằng
bất cứ giá nào, hoặc phải trả bằng cái giá quá đắt xương máu của cán bộ,
chiến sĩ, do những quyết định tùy tiện, hoặc thiếu thận trọng gây nên.
Đừng nghĩ Đại tướng “sợ” hy sinh xương máu, hay thiếu tinh thần cách
mạng tiến công! Không, hoàn toàn không! Đại tướng chưa bao giờ nhân danh
việc thực hành quan điểm, cách mạng tiến công để đưa ra những mệnh lệnh
chủ quan, gây thương vong nghiêm trọng cho bộ đội. Nguyên tắc bất di
bất dịch trong chỉ huy và chỉ đạo cuộc chiến tranh cách mạng của Đại
tướng là: Tầm cao mỗi chiến thắng phải tỷ lệ nghịch với tổng số tử sĩ,
thương binh trong chiến thắng ấy. Là một vĩ nhân, một
vị tướng huyền thoại, một nhà văn hóa lớn, nên ngay cả sau khi đã nghỉ
hưu, hằng ngày Đại tướng vẫn đón nhiều đoàn khách đến thăm hỏi, làm
việc, gồm khách quốc tế, khách ở các cơ quan Đảng, Nhà nước, các ban
ngành đoàn thể…, nhưng Đại tướng luôn dành sự ưu tiên đặc biệt cho các
đoàn của cấp ủy, chính quyền và nhân dân các địa phương, trong đó nhiều
đoàn không có lịch trước. Ông luôn dặn các cán bộ giúp việc tìm mọi cách
bố trí để Ông có thể gặp được đồng bào, dù chỉ trong ít phút. Nhiều
lần, Đại tướng phải xin lỗi các đoàn khách quan trọng, hoặc tranh thủ
thời gian giải lao giữa các buổi làm việc để tiếp nhân dân. Những lời ân
cần thăm hỏi, dặn dò, nhắc nhở, động viên của Đại tướng khiến đồng bào
rất xúc động. Đại tướng cũng luôn nhắc các đồng chí giúp việc chụp ảnh
kỷ niệm với bà con dưới gốc cây muỗm cổ thụ trong vườn; sau khi có ảnh
thì gửi tặng ngay cho bà con. Đại tướng luôn chinh phục người khác bằng
cách ứng xử tự nhiên và bằng tình cảm chân thành. Được chứng kiến lòng
dân trong những ngày diễn ra lễ tang Đại tướng, chúng ta thấy rõ, cả dân
tộc đã cùng xích lại gần nhau trong nỗi đau chung. Nhìn dòng người vào
viếng Đại tướng trong những ngày đầu tháng 10-2013 cứ ngày một dài thêm,
có thể thấy, không thước đo nào bằng thước đo lòng dân. Hàng triệu
người dân từ già đến trẻ ở khắp mọi miền đất nước, từ miền núi đến đồng
bằng, nông thôn, hải đảo đã vượt mọi khó khăn, xa xôi, vất vả, lặng lẽ,
kính cẩn xếp hàng ở khu vực nhà riêng của Đại tướng và Nhà tang lễ quốc
gia, chờ đến lượt vào viếng vị anh hùng, đã cho thấy cả dân tộc nắm tay
nhau kết thành một khối thống nhất; qua đó, tinh thần dân tộc trong mỗi
người Việt Nam càng được khơi dậy, phát huy. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã
đi xa, nhưng vẫn mãi là Người Anh Cả của Quân đội, Đại tướng của nhân
dân, là ngọn lửa không bao giờ tắt, là nguồn cảm hứng sống và cống hiến
của các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau.”
Bác Giáp là vị tướng của lòng dân mà hầu như ai cũng yêu kính rất mực.
Gia đình tôi cũng vậy. Buổi tối về nhà, nghe tin Bác Giáp mất, chúng
tôi đã dừng hết mọi việc để lên thắp hương trên bàn thờ Cha Mẹ để tưởng
nhớ Người và tưởng nhớ Bác Giáp. Bài viết này vào lúc một giờ khuya và
nối tiếp vào sáng hôm sau. Cha tôi sinh năm 1913 nhỏ hơn Bác Giáp ba
tuổi, bị máy bay Mỹ bắn chết năm 1968 vào ngày 29 tháng 8 âm lịch, trước
Bác Giáp mất (30/8 al) một ngày. Sinh thời cha tôi là lính Vệ Quốc Đoàn
cùng tiểu đội với bác Lê Văn Tri sau này là Phó Tư Lệnh Quân chủng
Phòng Không Không Quân. Anh trai tôi là Hoàng Trung Trực và tôi sau này
cũng đều tham gia quân đội. Cha vợ tôi, cụ Nguyễn Đức Hà 91 tuổi ở Đức
Long, Phan Thiết, nghe tin Bác Giáp mất, cụ đã đi xe đò từ lúc 2 giờ
khuya để mờ sáng kịp vào Đồng Nai cùng con cháu đi viếng Bác. Cụ là
chiến sĩ quân báo của đơn vị 415 ban 2 trung đoàn anh hùng 812 tỉnh đội
Bình Thuận. Cụ đã bị lao tù hai lần và chỉ được ra khỏi tù khi bộ đội
vào giải phóng lao xá năm 1975. Cụ đã rất xúc động khi viết vào sổ tang
của người anh Cả quân đội.
Tôi lần đầu tiên và dường như duy nhất trong đời đeo huân chương đi viếng Bác. Giáo sư Nhật Kazuo Kawano một người thân của gia đình sắn Việt Nam, người Thầy danh tiếng này đã xúc động viết về bác Giáp :”Mười năm hợp tác chặt chẽ với các đồng nghiệp chọn tạo giống sắn của tôi từ những năm 1990 và nay gặp lại họ trong chuyến đi này đã hoàn toàn thay đổi sự đánh giá của tôi về Việt Nam. Bằng chứng trong hàng loạt các báo cáo của tôi ở đây, thì họ thật siêng năng, sâu sắc, chu đáo và dường như không biết mệt mỏi để noi theo gương của Đại tướng Võ Nguyên Giáp“.(My ten years of close collaboration with my cassava breeding colleagues in the 1990s and the reunion with them in this trip completely changed my assessment of the Vietnamese. As evidenced by the series of my reporting here, they are industrious, insightful, considerate and indefatigable, as if to emulate General Vo Nguyen Giap …”. In: Cassava and Vietnam: Now and Then) …
VÕ NGUYÊN GIÁP CÒN MÃI VỚI NON SÔNG
Nhà sử học Dương Trung Quốc nhận định: ” Võ
Nguyên Giáp là một tên tuổi lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam và càng
lớn hơn trong tâm thức những người sống cùng thời với ông. Cuộc đời Võ
Nguyên Giáp là một tấm gương phản chiếu của gần trọn thế kỷ XX, thế kỹ
dữ dội nhất và cũng bi hùng nhất của dân tộc Việt Nam” .
John Kennedy phỏng vấn đại tướng Võ Nguyên
Giáp và đã viết bài “Trí tuệ bậc Thầy” đăng trên tạp chí George tháng
11 năm 1998, bản tiếng Việt trong sách Hữu Mai 2011 “Không là huyền
thoại” (tái bản lần thứ tư) trang 564-569. John Kennedy đã viết:
“Giáp từng nói: Chúng ta sẽ đánh bại địch ngay lúc chúng đông quân
nhất, nhiều vũ khí nhất, nhiều hi vọng chiến thắng nhất. Bởi vì tất cả
sức mạnh đó sẽ làm thành áp lực nặng nề cho địch” Bởi vậy ông chiến đấu
theo cách của riêng ông, không theo kiểu của người Mỹ , giao chiến với
địch ngay tại nơi và ngay khi địch ít ngờ tới nhất.Ông
đã huy động tất cả mọi người tham gia cuộc chiến, làm cho lính Mỹ xa
nhà hàng ngàn dặm, không bao giờ có thể cảm thấy an toàn.Ông
đã duy trì cuộc chiến đấu dai dẵng, làm cho nguồn lực và nhuệ khí của
địch cạn kiệt, trong khi phong trào phản chiến ở Mỹ bùng phát” .
Đó là một cách lý giải về nghệ thuật chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kỳ mà tướng Giáp là trí tuệ bậc Thầy.
Trần Đăng Khoa kể về một ông già bản mà nhà thơ đã gặp trên đường vào Mường Phăng. Ông già hồ hởi: “Chuyện
Đại tướng chứ gì? Đại tướng thì tôi biết. Tôi cũng đã mấy lần gặp Đại
tướng rồi. Vùng này là quê của Đại tướng đấy. Năm nọ Đại tướng có về
quê. Đại tướng nói chuyện với đồng bào bằng tiếng dân tộc. Đại tướng là
già làng của chúng tôi đấy. Nhà Đại tướng ở chỗ kia kìa…” Nói rồi,
ông già chỉ lên núi Mường Phăng. Một dải rừng xanh um giữa mênh mông
đồi trọc. Ở Điện Biên và cả mấy vùng lân cận, rừng cơ bản đã bị phá
xong. Nửa đêm, tôi còn thấy những dải lửa cháy rừng rực vắt giữa lưng
chừng trời. Đồng bào đốt nương đấy. Chẳng còn cách nào ngăn được. Đói
thì phải phá rừng. Rừng núi nhiều nơi đã trơ trụi, nhưng Mường Phăng
thì vẫn um tùm rậm rạp như rừng nguyên sinh. Tôi đã đi dưới những tầng
cây ấy, nghe chim rừng hót ríu ran. Một làn suối âm thanh trong trẻo và
mát rượi rót xuống từ lưng chừng trời. Không một rảnh cây nào bị chặt
phá hay bị bẻ gẫy. Ở đây, người dân còn đói cơm, thiếu mặc, nhưng họ
vẫn nâng niu gìn giữ khu rừng. Họ tự đặt tên cho khu rừng là “Rừng Đại
tướng”. Đấy là ngôi đền thiêng, ngôi đền xanh thiên nhiên mà người dân
đã tự lập để thờ ông. Đối với vị tướng trận, đó là hạnh phúc lớn. Một
hạnh phúc mà không phải ai cũng có được trong cõi trần này… ”
Bác Giáp từng khoác áo dân sự,
như ảnh chụp và lời ông Đoàn Sự nguồn VOA, nhưng dường như ngôi vị
lãnh đạo tối cao ở Việt Nam, và những quyết sách quan trọng nhất về bảo
tồn phát triển quốc gia còn bị chi phối bởi nhiều mối tương quan, tầm
nhìn khác.
Chiến tranh đã qua lâu, đã có cả núi sách của phương
Tây và Việt Nam viết về cuộc chiến này với nhiều nghiên cứu công phu
về đánh giá thời cuộc. Sự khai sinh của nước Việt Nam mới và cuộc
chiến giành độc lập thống nhất Tổ quốc gắn liền với tên tuổi của Võ
Nguyên Giáp, con người đã sống chết trung hiếu với đất nước mình.
Bài viết này là nén tâm hương tưởng nhớ.
Võ Nguyên Giáp còn mãi với non sông. Vị tướng của lòng dân.
“Quy mô còn quá nhỏ nhưng mừng là người Việt đã nắm được kỹ thuật thuộc loại rất phức tạp để chế biến loại nông sản này với chất lượng không thua kém với thế giới: Sản xuất sô cô la từ hạt ca cao Việt Nam. Muốn biết chất lượng sô cô la sản xuất ở Việt Nam bằng nguyên liệu 100% trồng ở Việt Nam như thế nào có lẽ chỉ cần đến chỗ này là đủ. TBros, Bapula, Baria, Marou, Cacao Ken, Alluvia, Savie, Belvie, StoneHill đều có mặt ở cửa hàng này”.