NHÀ TRẦN TRONG SỬ VIỆT Hoàng Kim Nhà Trần khởi đầu từ vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) lên ngôi Hoàng Đế vào ngày 31 tháng 12 năm 1225 nhằm ngày Mậu Dần mồng 1 tháng 12 năm Ất Dậu, Lý Chiêu Hoàng là vị Nữ Hoàng cuối cùng của nhà Lý xuống chiếu nhường ngôi cho chồng, tiếp nối là Trần Thánh Tông (Trần Hoảng), Trần Nhân Tông (Trần Khâm. Ba vua là thời nhà Trần thịnh thế ngời sử Việt dựng nghiệp lớn, chống quân Nguyên Mông và đạt đến cực thịnh. Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiến Tông là thời kế nghiệp. Từ Trần Dụ Tông (sau khi thượng hoàng Trần Minh Tông mất) cho tới kết thúc là thời suy tàn, Trần triều chấm dứt lúc Hồ Quý Ly phế truất Thiếu Đế và tự xưng làm vua, lập ra triều đại nhà Hồ năm 1400 thì. Nhà Trần trong xử Việt kéo dài 175 năm với 13 đời hoàng đế.
“Thái Tông và Hưng Đạo Ngày mới đầy yêu thương Nhà Trần ngời sử Việt Lồng lộng như trăng rằm
Ba đỉnh cao Yên Tử Danh thắng quê hương Trần ‘Thái bình tu nổ lực Vạn cổ thử giang san’ (*)
Nhà Trần trong sử Việt Trước đèn bảy trăm năm, Trúc Lâm Trần Nhân Tông Thăm thẳm tầm nhìn lớn.
Từ một hai hai năm (1225), Đến thế kỷ mười bốn (1400) Chuyện cũ chưa hề cũ Thoáng chốc tròn tháng năm.
Mừng ngày vui xuân mới Vui bạn hiền người thân Thung dung bài viết mới. Thảnh thơi gieo đôi vần.
Thái Tông, Hưng Đạo, Nhân Tông là ba đỉnh cao vọi của trí tuệ. Vua Nhân Tông khi lên đỉnh Yên Tử có hỏi về đỉnh cao của dãy núi kia là gì thì được trả lời đó là Yên Phụ của vòng cung Đông Triều trấn Bắc. Đức Nhân Tông đã lạy Yên Phụ và chọn Yên Tử làm nơi Cư trần lạc đạo chốn an nghĩ của mình. Câu chuyện Trần Thái Tông và Trần Quốc Tuấn là câu chuyện minh quân và thiên tài thật lạ lùng và sâu sắc lưu dấu nơi đất Việt.
Vua Trần Thái Tông (1218-1277) người sáng nghiệp nhà Trần có câu nói nổi tiếng trong lịch sử: “Nếu chỉ để lời nói suông cho đời sau, sao bằng đem thân mình đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã”. Vua Trần Thái Tông là bậc minh quân tài trí được so sánh với Đường Thái Tông Lý Thế Dân là vị vua giỏi Trung Hoa thời trước đó. “Sáng nghiệp Việt, Đường hai Thái Tông/ Đường xưng: Trinh Quán, Việt: Nguyên Phong/ Kiến Thành bị giết, An Sinh sống/ Miếu hiệu tuy đồng, đức chẳng đồng”.
Đường Thái Tông Lý Thế Dân ngày 4 tháng 9 năm 626 đã lên ngôi hoàng đế nhà Đường sau sự biến Huyền Vũ môn. Đường Thái Tông thiết lập nên sự cường thịnh của nhà Đường phát triển về kinh tế và hùng mạnh về quân sự nhất thế giới thời ấy, nhưng so đức độ với vua Việt Trần Thái Tông thì vua Việt được người đời ca ngợi hơn.
An Sinh Vương Trần Liễu là người chống lại Thái Tông và hận thù giữa họ sâu đến nỗi Trần Liễu còn di nguyện cho Trần Quốc Tuấn sau này nhất thiết phải đoạt lại ngôi vua. Vua Trần Thái Tông không chỉ tha cho An Sinh Vương Trần Liễu mà còn tha cho Trần Quốc Tuấn là người đã gây ra chuyện tầy đình.
Tình yêu thương của Trần Quốc Tuấn và Thiên Thành công chúa là một câu chuyện thật quái và phi thường ! Tình yêu đó thật lớn lao nhưng sự việc quá liều lĩnh, khí phách và đặc biệt nguy hiểm. Trần Quốc Tuấn ngay trong đêm tân hôn của Thiên Thành công chúa với Nhân Đạo Vương đã dám lẻn vào cung của Nhân Đạo Vương ngủ với người mình yêu mà không sợ cái chết trong lúc Trung Thành Vương con trai của Nhân Đạo Vương đang bận đãi khách chưa kịp động phòng. Công chúa Thiên Thành con gái của vua Trần Thái Tông thì đã dám chọn cái chết để trao thân cho Trần Quốc Tuấn là người mình yêu, bất chấp đám cưới với Trung Thành Vương là con trai của Nhân Đạo Vương vị quan đầu triều Trần.
Vua Trần Thái Tông đã không làm ngơ để Quốc Tuấn bị giết. Vua chủ động kết nối lương duyên ngay cho Thiên Thành Quốc Tuấn bất chấp lẽ thường. Câu chuyện vua Trần Thái Tông không những không giết Trần Quốc Tuấn, con của Trần Liễu kẻ tử thù đang rất hận mình và đang “cố tình phạm tội ngông cuồng” trái nhân tình mà còn chủ động tác thành cho Thiên Thành Quốc Tuấn nên vợ chồng, hóa giải mọi điều, thu phục được tấm lòng của bậc anh hùng và giữ lại được cho non sông Việt một bậc kỳ tài muôn thuở
Chuyện lạ thật hiếm có !
Tượng Trần Quốc Tuấn ở chùa cổ Thắng Nghiêm, ảnh Hoàng Kim
Chùa cổ Thắng Nghiêm là nơi Đức Thánh Trần thuở nhỏ đã theo công chúa Thụy Bà về đây để tìm minh sư học phép Chọn người, Đạo làm tướng, viết kiệt tác Binh thư Yếu lược. Mẹ tôi họ Trần. Tôi về dâng hương Đức Thánh Trần tại đền Tổ. Lắng đọng trong tôi Lời dặn lại của Đức Thánh Trần.
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là nhà quân sự kiệt xuất nhất trong lịch sử Việt Nam nhà chính trị, ngoại giao, tư lệnh tối cao của Việt Nam thời nhà Trần, đã ba lần đánh thắng đội quân Nguyên Mông đế quốc hùng mạnh nhất thế giới thời đó. Người là một trong mười vị tướng tài của Thế Giới
Trần Hưng Đạo sinh năm 1232, mất ngày 20 tháng 8 âm lịch năm 1300, ông là con thứ ba của An Sinh Vương Trần Liễu, gọi Trần Thái Tông bằng chú ruột, mẹ ông là Thiện Đạo quốc mẫu, một người trong tôn thất họ Trần. Ông sinh ra ở kinh đô Thăng Long, quê quán ở thôn Tức Mặc, phường Lộc Vượng, TP Nam Định ngày nay. Ông khi lên 5 tuổi năm 1237 làm con nuôi cô ruột là Thụy Bà công chúa, vì cha ông là Trần Liễu chống lại triều đình (Trần Thủ Độ). Đại Việt sử ký toàn thư mô tả ông là người có dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, nhờ được những người tài giỏi đến giảng dạy nên ông sớm trở thành kỳ tài xuất chúng văn võ song toàn, thông hiểu sâu sắc huyền cơ tạo hóa, phép biến dịch và cách dùng binh..
Vua Trần Thái Tông tên thật là Trần Cảnh, sinh ngày 16 tháng 6 năm 1218 mất ngày 1 tháng 4 năm 1277, là vị hoàng đế đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, lên ngôi ngày 5 tháng 5 năm 1225 mở đầu nhà Trần trong sử Việt. Ông ở ngôi hơn 32 năm (1225 – 1258), làm Thái thượng hoàng trong 19 năm. Trần Cảnh sinh ra dưới thời kỳ nhà Lý còn tại vị, ông cùng tuổi với vị Nữ hoàng nhà Lý lúc bấy giờ là Lý Chiêu Hoàng. Ông được Chiêu Hoàng yêu mến, hay gọi vào vui đùa, Trần Cảnh khi ấy không nói năng gì nhưng khi về đều nói lại với chú họ là Trung Vũ Vương Trần Thủ Độ. Nhà Lý loạn cung đình thuở ấy đã tới đỉnh điểm. Vua Lý tuy có hai con gái thông minh, hiền hậu và rất giỏi nhưng không có con trai nối dõi, trong khi hoàng tộc nhà Lý lắm kẻ mưu mô kém đức dòm ngó ngôi báu. Nước Đại Việt thuở đó bên ngoài thì họa ngoại xâm từ đế quốc Nguyên Mông đang rình rập rất gần, bên trong thì biến loạn bùng nổ liên tục nhiều sự kiện rất nguy hiểm. Trần Thủ Độ nắm thực quyền chốn cung đình, nhận thấy Trần Cảnh cháu mình cực kỳ thông minh đỉnh ngộ, thiên tư tuyệt vời xứng là một minh quân, lại được Lý Chiêu Hoàng yêu mến nên đã sắp đặt hôn nhân giữa Trần Cảnh và Lý Chiêu Hoàng đám đặt cược việc làm vua với họa diệt tộc Trần nếu chọn lầm người. Sự kiện đó xảy ra vào ngày 31 tháng 12 năm 1225, đã chấm dứt triều đại nhà Lý đã tồn tại hơn 200 năm và khai sáng nhà Trần.
Lý Chiêu Hoàng tức Lý hoàng hậu vợ Trần Thái Tông trớ trêu thay sinh con nhưng con bị chết yểu ngay sau khi sinh, cho nên Trần Thái Tông không có người kế vị chính danh phận, trong lúc sự chống đối và chỉ trích cay độc của tôn thất nhà Lý do Hoàng Thái hậu cầm đầu lại đẩy lên cao trào rất nặng nề. Nhiều kẻ tôn thất mượn tiếng có con trai nối dõi dòm ngó cướp ngôi. Thuận Thiên công chúa là vợ của Trần Liễu khi ấy đang mang thai được 3 tháng. Năm 1237, Thái sư Trần Thủ Độ nắm thực quyền phụ chính đã ép cha của Trần Quốc Tuấn là Trần Liễu phải nhường vợ là Thuận Thiên công chúa (chị của Lý Chiêu Hoàng) thay làm Chính cung Hoàng hậu cho Trần Thái Tông, đồng thời giáng Lý hoàng hậu xuống làm công chúa. Việc này khiến Trần Thái Tông bỏ lên tu ở núi Yên Tử.
Người sau này đã chứng ngộ vận nước lâm nguy cường địch bên ngoài câu kết nội gián bên trong không thể không xử thời biến đặt vận mệnh “non sông đất nước Việt trên hết”. Người đã chấp nhận quay trở về “Nếu chỉ để lời nói suông cho đời sau, sao bằng đem thân mình đảm nhận trọng trách cho thiên hạ trước đã”. Trần Thái Tông đã chấp nhận sự sắp xếp của Triều đình.
Sau này, ông truyền ngôi cho Thái tử Trần Hoảng là con thứ, vào ngày 24 tháng 2 năm 1258 để lui về làm Thái thượng hoàng,(con trưởng Trần Quốc Khang vốn là con Trần Liễu, anh em cùng cha khác mẹ với Trần Quốc Tuấn). Trần Thái Tông được tôn làm Hiển Nghiêu Thánh Thọ Thái Thượng Hoàng Đế. Trần Hoảng lên ngôi tức Trần Thánh Tông. Tước vị và thông lệ Thái thượng hoàng của nhà Trần từ đấy đã trở thành truyền thống, vừa rèn luyện cho vị Hoàng đế mới cai trị đất nước càng sớm càng tốt vừa tránh được việc tranh giành ngôi báu giữa các con do chính danh sớm được định đoạt.
Trần Liễu gửi con là Trần Quốc Tuấn cho Thụy Bà công chúa mai danh ẩn tích tại chùa Thắng Nghiêm tìm minh sư luyện rèn văn võ. Sau đó ông dấy binh làm loạn ở sông Cái, cuối cùng bị thất thế, phải xin đầu hàng. Trần Thủ Độ toan chém nhưng Trần Thái Tông liều chết đưa thân mình ra ngăn cản buộc lòng Thủ Độ phải tự mình ném bảo kiếm xuống sông. Trần Liễu được tha tội nhưng quân lính theo ông làm phản đều bị giết hết và vua Thái Tông đổi ông làm An Sinh vương ở vùng đất Yên Phụ, Yên Tử thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay.
Trần Quốc Tuấn từ 5 tuổi đã được minh sư rèn luyện tỏ ra và một vị nhân tướng lỗi lạc phi phàm lúc trở về sớm được Trần Thái Tông quý trọng đức độ tài năng trong số con cháu vương thất. Qua sự biến Trần Quốc Tuấn yêu thương công chúa Thiên Thành, là con gái của vua Trần Thái Tông, nhân lễ hội trăng rằm nửa đêm đã lẻn vào chỗ ở của công chúa và thông dâm với nàng. Thời nhà Trần đã có quy định, để tránh ngôi vua truyền ra ngoài, chỉ có người trong tộc mới được lấy nhau nên kết hôn cùng huyết thống là điều không lạ và chuyện “quái” ấy cũng ‘quái” như việc Trần Thái Tông lấy vợ Trần Liễu.
Lại oái oăm thay, người Trần Quốc Tuấn yêu say đắm là công chúa Thiên Thành, mà vua Trần Thái Tông năm 1251 đã đính ước gả cô cho Trung Thành Vương là con trai của Nhân Đạo Vương. Vua đã nhận sính lễ, thông báo với quần thần và đang tiệc cưới. Trần Quốc Tuấn nửa đêm trăng rằm đột nhập vào phòng riêng công chúa ở phủ Trung Thành Vương và đôi trai gái trẻ đồng lòng đến với nhau. Quốc Tuấn nói với công chúa Thiên Thành sai thị nữ đi gặp Công chúa Thụy Bà cấp báo với vua ngay trong đêm đó. Vua hỏi có việc gì, Thụy Bà trả lời:“Không ngờ Quốc Tuấn ngông cuồng càn rỡ, đang đêm lẻn vào chỗ Thiên Thành, Nhân Đạo đã bắt giữ hắn rồi, e sẽ bị hại, xin bệ hạ rủ lòng thương, sai người đến cứu”. Trần Thái Tông vội sai người đến dinh Nhân Đạo vương, vào chỗ Thiên Thành, thì thấy Trần Quốc Tuấn đã ở đấy. Hôm sau, Thụy Bà công chúa dâng 10 mâm vàng sống đến chỗ Trần Thái Tông xin làm lễ cưới Thiên Thành công chúa cho Trần Quốc Tuấn. Thái Tông bắt đắc dĩ phải gả công chúa cho ông và lấy 2000 khoảnh ruộng ở phủ Ứng Thiên để hoàn lại sính vật cho Trung Thành vương. Tháng 4 năm đó, Trần Liễu ốm nặng. Lúc sắp mất, Trần Liễu cầm tay Trần Quốc Tuấn, trăng trối rằng: “Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được”. Trần Quốc Tuấn ghi để trong lòng, nhưng không cho là phải.
Câu chuyện Trần Quốc Tuấn yêu thương công chúa Thiên Thành và đã làm
liều dám lấy tính mạng của mình làm như thể “cố tình phạm tội ngông
cuồng trái nhân tình”, nhưng mấy ai thấu hiểu đó là sự lưa chọn sinh tử,
phép thử tối cao cuối cùng của vị nhân tướng trước khi trao sinh mệnh
đời mình cho Người tin yêu mình trong thực tiễn. Đó là phép biến Dịch
của “Đạo làm tướng” “Chọn người”.
Chuyện Trần Thái Tông và Trần Quốc Tuấn trong câu chuyện đêm trăng rằm để hiểu sâu hơn chiến công nhà Trần ba lần đánh thắng quân Nguyên, những trang binh thư kiệt tác muôn đời, và ba đỉnh cao vọi của trí tuệ nhân loại.
Hoàng thành Thăng Long là di sản văn hóa thế giới được UNESCO công
nhận ngày 1/8/2010. Hoàng Thành Thăng Long là khu trung tâm của kinh đô
Thăng Long do vua Lý Thái Tổ, vị hoàng đế đầu tiên của nhà Lý quyết
định xây dựng. Đây quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng
Long Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội, là công trình kiến trúc đồ sộ, được
các triều vua xây dựng trong nhiều giai đoạn lịch sử và trở thành di
tích quan trọng bậc nhất trong hệ thống các di tích Việt Nam.
Hoàng thành Thăng Long bắt đầu từ thời kì tiền Thăng Long (An Nam đô
hộ phủ thế kỷ VII) qua thời Đinh – Tiền Lê, phát triển mạnh dưới thời
Lý, Trần, Lê và thành Hà Nội dưới triều Nguyễn. Kinh đô Thăng Long suốt
các triều đại Lý Trần là trung tâm văn hóa, giáo dục và buôn bán của cả
nước. Thời Lê Quý Ly cướp ngôi nhà Trần đã thiên đô về Thanh Hóa lấy tên
là Tây Đô và đổi Thăng Long thành Đông Đô. Năm 1406, nhà Minh đưa quân
xâm lược Đại Ngu, Thăng Long bị chiếm đóng và đổi tên thành Đông Quan. Thời kỳ Bắc thuộc thứ tư bắt đầu từ năm 1407 kéo dài tới năm 1428.
Sau chiến thắng của khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi thành lập nhà Lê và
Đông Đô trở lại vị thế kinh thành. Hoàng thành Thăng Long dưới thời nhà
Lê tiếp tục được mở rộng. Năm 1430, Đông Đô được đổi tên thành Đông
Kinh, đến năm 1466 được gọi là phủ Trung Đô. Bên cạnh, khu vực dân cư
được chia thành hai huyện Vĩnh Xương và Quảng Đức, mỗi huyện 18 phường.
Phủ doãn là chức đứng đầu bộ máy hành chính thời ấy.
Hội thề Đông Quan là tên gọi của một sự kiện diễn ra ngày 22
tháng 11 năm Đinh Mùi (tức ngày 10 tháng 12 năm 1427), tại thành Đông
Quan, giữa thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn Lê Lợi và chủ tướng quân Minh là
Vương Thông Hai bên lập lời thề rằng sau sự kiện này, bên quân Minh do
Vương Thông làm chủ tướng lập tức dẫn quân trở về nước, còn nghĩa quân
Lam Sơn không được hãm hại quân Minh. Sau sự kiện này, cả hai bên đều
làm đúng theo lời thề, nước Đại Việt lập lại hòa bình sau 20 năm bị quân
Minh đô hộ.
Trước hội thề Đông Quan, năm 1426, nghĩa quân Lam Sơn đã chiếm
được vùng đất đai rộng lớn từ Thanh Hóa trở vào phía nam, bao vây, cô
lập thành Nghệ An và thành Tây Đô (Thanh Hóa). Tháng 8, năm 1426, Lê Lợi
sai ba cánh quân tiến ra bắc, thắng trận liên tiếp thế như chẻ tre.
Trần Trí tướng giữ thành Đông Quan phải cầu viện binh, hai tướng Lý An,
Phương Chính từ Nghệ An đem quân về cứu Đông Quan. Vua nhà Minh cũng sai
Vương Thông đem 5 vạn quân sang tiếp viện, hội quân ở Đông Quan hơn 10
vạn quân. Tháng 10 năm 1426 Vương Thông bị đánh bại ở trận Tốt Động,
Chúc Động, Vương Thông rút vào Đông Quan cố thủ. Vương Thông thế cùng
muốn hòa, sau đó lại thay đổi ý định, đào hào, đắp lũy, gọi thêm viện
binh. Năm 1427, vua nhà Minh sai Liễu Thăng đem 10 vạn quân, Mộc Thạnh 5
vạn quân chia làm hai đường cứu viện. Cánh quân Liễu Thăng bị đánh bại,
Mộc Thạnh sợ hãi bỏ chạy. Vương Thông thế cùng phải mang thư đến nghĩa
quân Lam Sơn cầu hoà, xin mở cho đường về. Lê Lợi chấp nhận, lại gởi
tặng thổ sản và hải sản. Vương Thông xin giảng hòa nhưng bất ngờ đem hết
quân trong thành ra đánh. Nghĩa quân Lam Sơn đặt phục binh vờ thua
chạy, quân Minh đuổi theo tới ổ phục binh thì bị đánh tan. Vương Thông
ngã ngựa suýt bị bắt, phải rút vội về thành. Nghĩa quân Lam Sơn tiến
quân đến cửa Nam thành đắp bờ lũy chống giữ. Lê Lợi thân đốc các tướng
đem quân đắp lũy từ phường Yên Hoa thẳng tới cửa Bắc thành Đông Quan.
Quân Minh chỉ dám ở trong thành không dám ra. Vương Thông và Sơn Thọ bị
vây cùng quẫn, lại xin hòa. Quốc dân đã bị cực khổ về sự quân Minh cai
trị tàn ngược, và giận về sự tráo trở, xin cho đánh gấp, giết cho bằng
hết. Lê Lợi đáp: “Việc dùng binh lấy sự toàn quân là hơn cả. Nay hãy
để cho lũ Vương Thông về nói với vua Minh, trả lại đất cho nước ta,
không còn trở lại xâm lấn, thì ta còn cầu gì hơn nữa, hà tất phải giết
hết, để kết mối thù với nước lớn.” (Đại Việt thông sử). Lê
Lợi nói rồi cho hòa giải, lệnh cho lộ Bắc Giang và Lạng Giang tu sửa
đường sá để quân Minh về nước, sai Nguyễn Trãi soạn tờ biểu, lấy lời
Trần Cảo là dòng dõi vua Trần, xin được làm vua. Nghĩa quân đưa thư trả
lời Vương Thông, dùng Lê Quốc Trinh và Lê Nhữ Trì làm con tin. Lê Lợi
sai con trưởng Lê Tư Tề và Lưu Nhân Chú vào thành Đông Quan làm con tin.
Nhà Minh sai Sơn Thọ và Mã Kỳ đến dinh Bồ Đề làm con tin.
Sau hội thề Đông Quan, Lê Lợi ra lệnh cấp cho cánh quân thủy
do Mã Kỳ và Phương Chính nhận lãnh 500 chiếc thuyền và lương thảo, cánh
đường bộ do Sơn Thọ, Hoàng Phúc lãnh nhận cấp cho hai nghìn cổ ngựa và
lương thảo. Hơn 2 vạn người bị bắt hoặc đầu hàng thì do Mã Anh lãnh
nhận. Chinh man tướng quân Trần Tuấn đem quân trấn thủ đi theo. Tất cả
đều tới dinh Bồ Đề lạy tạ mà về. Ngày 12 tháng 12, Phương Chính, Mã Kỳ
tới dinh Bồ Đề cáo biệt Lê Lợi, ở lại suốt một buổi chiều, Lê Lợi sai
sắm trâu ngựa, trướng vẽ và lễ phẩm hậu tặng. Ngày 17 tháng 12 Vương
Thông nhà Minh dẫn quân bộ đi sau. Vương Thông cùng vua nói chuyện từ
biệt suốt đêm rồi đi. Vua sai đưa trâu rượu, cờ thêu, trướng vẽ cùng các
lễ vật tiễn chân rất hậu. Quân thủy, bộ của ba thành Tây Đô, Cổ Lộng,
Chí Linh cùng lục tục rút tiếp. Từ đây, việc binh đao dập tắt, khắp
thiên hạ thái bình. Vương Thông về đến Long Châu, vua Minh đã liệu trước
bọn Vương Thông cùng quẫn, việc đã đến thế, không làm thế nào được nữa,
đành sai bọn La Nhữ Kính mang thư sang phong Trần Cảo là An Nam Quốc
Vương, bãi bỏ quân nam chinh, ra lệnh cho Thông trở về Bắc, trả lại đất
cho An Nam, việc triều cống theo lệ cũ năm Hồng Vũ, cho sứ thần đi lại.
Tổng cộng 10 vạn quân Minh đã được hồi hương an toàn.
Tác phẩm Bình Ngô đại cáo viết rằng: “Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng /Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng / Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh / Mã Kỳ , Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,/ Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run./ Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng / Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức/ Chẳng những mưu kế kì diệu/ Cũng là chưa thấy xưa nay…”
Xem tiếp:
MÁI TRƯỜNG BÊN DÒNG GIANH Hoàng Kim tư liệu và hình ảnh quý về mái trường bên dòng Gianh, nơi tỏa sáng nét đẹp nhân văn của tình thầy trò và nôi đào tạo nhiều thế hệ những người con trung hiếu hiến dâng bầu máu nóng cho Tổ Quốc Quê Hương trường tồn và phát triển.
“Trường Quảng Trạch trên miền Quảng Thọ/ Tên trường ta chữ đỏ vàng son/ Tên Tổ Quốc, tên yêu thương / Thơm dòng sữa mẹ quê hương xa gần … Thầy Trần Đình Côn người Hiệu trưởng đầu tiên Trường Quảng Trạch đã viết bài thơ tuyệt hay “Bài ca Trường Quảng Trạch” giới thiệu về Trường Quảng Trạch, một trường học nổi tiếng của tỉnh Quảng Bình lá cờ đầu địa chỉ xanh toàn ngành giáo dục Việt Nam thời chống Mỹ. Trường đã đào tạo biết bao thế hệ học sinh. Nhiều người trong số họ đã ngã xuống trên các chiến trường cho Việt Nam độc lập và thống nhất. Nhiều người trong số họ đã thầm lặng dấn thân cho đời sống của người dân tốt hơn, đất nước và quê hương vươn tới. Nhiều người trong số họ thành danh hiếm thấy trong cả nước, nhưng sâu sắc hơn hết là nét bình dị, chân thành, tình nghĩa, thuỷ chung.
“Ta gặp nhau từ lúc tóc còn xanh. Nay tìm lại thì đầu đã bạc. Để nhớ một thời cùng toàn dân đánh giặc. Gian khổ chất chồng, mất mát đau thương. Bốn mươi năm thầy bạn tỏa muôn phương. Nay ôn lại thầy trò thời chống Mỹ. Trăm khuôn mặt anh chị nào cũng quý. Bình dị, chân thành, tình nghĩa, thuỷ chung. Nét đẹp quê hương Quảng Trạch anh hùng”. Thầy Phạm Ngọc Căng người Thanh Hóa, phó Hiệu trưởng đầu tiên của Trường cấp Ba Quảng Trạch là tác giả của những câu thơ thắm tình thầy bạn trên đây.
VỀ LẠI MÁI TRƯỜNG BÊN DÒNG GIANH Thầy Phạm Ngọc Căng đã cùng với thầy Châu, thầy Thành đã dốc sức thiết lập Ban Liên Lạc cựu thầy cô và học sinh Trường Quảng Trạch mới và cũ để kết nối hình thành nền tảng tư liệu và thông tin cho Trường Quảng Trạch. Quý Thầy đã vào đất phương Nam gặp cựu học sinh Trường Quảng Trạch để chuẩn bị lễ kỷ niệm truyền thống… “Chúng tôi sà vào lòng Thầy mà trẻ lại”. Anh Đinh Đình Chiến hiệu trưởng Trường Phổ thông Trung học Đức Linh Bình Thuận là cựu học sinh của Trường Quảng Trạch đã xúc động thán phục gương tận tụy của quý Thầy mà nói vậy. Đó cũng là sự ngưỡng mộ và biết ơn sâu nặng của chúng tôi đối với quý Thầy …
Trường Quảng Trạch là nôi dạy giỏi học tốt mẫu mực lá cờ đầu của ngành giáo dục Việt Nam thời chống Mỹ.Trường Quảng Trạch là nơi tỏa sáng nét đẹp nhân văn của tình thầy trò và nôi đào tạo nhiều người thành danh hiếm thấy trong trong cả nước. Tính sơ trong lứa chúng tôi, Trường Quảng Trạch đã là nôi đào tao nên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam nhà giáo ưu tú Nguyễn Thị Nghĩa, nhiều tướng lĩnh, Bí thư, Chủ tịch, Phó Chủ tịch tỉnh, giáo sư nhà giáo nhân dân Trần Văn Minh, giáo sư nhà giáo nhân dân Trần Nghi, giáo sư nhà giáo ưu tú Trần Ngọc Vương (Vuong Tran Ngoc), PGS.TS. Trương Minh Dục, nhà văn Nguyễn Quang Lập, PGS TS Nguyễn Vũ Tiến (Tiến Nguyễn Vũ), thầy giáo nhà văn Hoàng Minh Đức, nhiều doanh nhân thành đạt, nhiều tiến sĩ, bác sĩ, kỹ sư, nhà báo, thầy giáo, nhà nông, đủ mọi lĩnh vực mọi ngành nghề…Về lại mái trường bên dòng Gianh chúng tôi nghe tiếng vọng âm vang của quá khứ bài hát nức tiếng một thời “Mời ghé thăm trường em” của nhạc sĩ Quách Mộng Lân và bài thơ “Về Quảng Trạch” của thầy Võ Huy Cát (Vĩnh Phúc).
Mời ghé thăm trường em Nhạc và lời: Quách Mộng Lân Ai về Quảng Lưu mời ghé thăm trường em Lớn lên trong những ngày vui đánh Mỹ Trường của em theo tiếng gọi Bác Hồ Lớp học là chiến trường, học sinh là chiến sĩ Ôi mái trường đẹp xinhBao năm trường dạy ta khôn lớn Có thầy có bạn ngày đêm chan chứa bao tình Ai về Quảng Lưu mời ghé thăm trường em Gió reo vui hát bài ca chiến thắng Ruộng phì nhiêu năm tấn hạt thóc vàng Sống vui với xóm làng Trường ta thêm gắn bó Đây mái trường của ta Bao năm trường day ta khôn lớn Muôn hạt giống đỏ rồi đây Đi khắp mọi miền dựng xây Tổ quốc.
Về Quảng Trạch Võ Huy Cát (Vĩnh Phúc) Sách giáo khoa anh chép mấy đêm thâuMà từng bản thấm mồ hôi trí tuệ Đồ dạy học biến từ không thành có Từ mảnh bom vỏ đạn quân thù Có thầy giáo lội băng đồng đến lớpNỗi cảm thông thầm kín trong lòngVừa hôm qua đi bới hầm chữa cháy Soạn xong bài vừa lúc hừng đông Có thầy giáo cùng các em tâm sự Cảnh nhà neo mẹ giặc giết hôm qua Một lon gạo thấm tình người đồng chí Một lời khuyên ấm tình bạn chan hoà Có em học điểm năm chen cọc sổ Chiều lại về làm cán bộ thông tin Chòi phát thanh tiếng em vang xóm ngõ Những chiến công lừng lẫy hai miền Quảng Trạch ơi kể làm sao hết đượcNhững chiến công của những người con Trên đất anh hùng hôm trước đạn bom Mà sáng dậy vẫn cười vui đến lớp Anh đứng đó mái trường tranh mới lợp Trái tim sôi máu nóng hờn căm Mười tám đôi mươi hay tuổi trăng rằm Mang sức trẻ cùng toàn dân cứu nước Quảng Trạch ơi đường vào đó bao xa Cầu phá mấy chuyến phà anh nhỉ Cho tôi gửi bài thơ tặng người đồng chí Dưới mái trường xanh đang ươm những mầm hoa Dưới mái trường tranh đang cứu nước cứu nhà.
TRƯỜNG QUẢNG TRẠCH TÌM TRONG DI SẢN Sự lắng đọng sâu sắc hơn hết di sản Trường Quảng Trạch trong lòng tôi là những tấm gương tận tụy phúc hậu của các người thầy và những bạn học thân thiết một thời với nhân cách tâm hồn cao quý và trí tuệ mãi ấm áp trong lòng tôi tỏa sáng tình yêu thương và nâng đỡ nghị lực khát vọng. Thầy Trần Đình Côn người Hiệu trưởng đầu tiên của Trường đã viết ‘Bài ca Trường Quảng Trạch’ di sản quý giá về Trường
Bài ca Trường Quảng Trạch Trần Đình Côn, Hiệu trưởng Hồi tưởng lại một mùa thu ấy Mấy thu rồi biết mấy đổi thay Khởi công ròng rã tháng ngày Dốc lòng, dốc sức dựng xây trường mình
Vùng các trắng biến thành ao cá Rừng dương xanh lộng gió vi vu Giếng thơi trong suốt ngọt ngào Cổng trường cao rộng đón chào anh em
Trường Quảng Trạch trên miền Quảng Thọ 1 Tên trường ta chữ đỏ vàng son Tên Tổ Quốc, tên yêu thương Thơm dòng sữa mẹ quê hương xa gần
Phòng học mới cửa xanh, ngói đỏ Lá cờ sao trước gió tung bay Tình em, tình bạn, tình thầy Mỗi ngày thêm nặng, mỗi ngày thêm sâu.
Lòng những tưởng khởi đầu vất vả Để năm sau tất cả tiến lên Ai ngờ giặc Mỹ đê hèn Tường vôi tan nát, khói hoen mặt người.
Cuộc sống đã sáng ngời lửa thép Đạn bom nào uy hiếp được ta Cổng trường, mái ngói, tường hoa Đã thành gạch vụn xót xa hận thù
Đã đến lúc thầy trò sơ tán Xa thị thành về tận xóm thôn Bầu Mây, Phù Hợp, Đồng Dương 2 Trắng trong cồn cát mái trường thêm xinh
Phá trường ngói trường tranh ta dựng Đắp luỹ dày, hầm vững, hào sâu Khiêng bàn, vác gỗ đêm thâu Lưng trời đạn xé, ngang đầu bom rơi.
Nơi Hầm Cối 3 xa vời em đến Qua Khe Sâu 4 đá nghiến nát chân Nhớ khi bụng đói lạc đường Càng căm giặc Mỹ, càng thương chúng mình.
Chí đã quyết hi sinh chẳng quản Lòng đã tin vào Đảng, vào dân Kết liền lưc lượng Công Nông Ghi sâu tình bạn Hải quân anh hùng
Sông Gianh đó vẫy vùng một cõi Thép hạm tàu chói lọi chiến công Đôi ta chiến đấu hợp đồng 5 Vít đầu giặc Mỹ xuôi dòng nước xanh.
Ngày thêm nặng mối tình kết nghĩa Nơi “vườn đào” đất mẹ Phù Lưu 6 Cùng nhau chung một chiến hào Trao quà chiến thắng vui nào vui hơn
Từ ấy đã nghìn đêm có lẽ Có phút nào giặc Mỹ để yên Chất chồng tội ác ngày đêm Lửa thù rực cháy đốt tim muôn người
Ôi những cảnh rụng rời thê thảm Mái nhà tranh giáo án thành tro Mẹ già, anh chị, em thơ Xương bay, thịt nát, cửa nhà tan hoang
Lớp học đó chiến trường em đó Nín đi em hãy cố học chăm Giành điểm bốn, giành điểm năm Ấy là diệt Mỹ chiến công hàng ngày.
Đã có bạn có thầy giúp đỡ Khó khăn nào lại khó vượt qua Miếng khi đói gói khi no Lưng cơm hạt muối giúp cho bạn nghèo
Thương em cảnh gieo neo mẹ mất Lại cha già giặc giết hôm qua Tình thầy tình bạn tình cha Ấy là tình Đảng thiết tha mặn nồng.
Có những lúc đêm đông giá rét Thầy bên em ai biết ai hay Hầm luỹ thép, ngọn đèn khuya Mùa đông sưởi ấm, mùa hè mát sao.
Nào Văn học lại nào Toán Lý Giảng cho em nhớ kỹ từng lời Cho em học một biết mười Cho em học chóng nên người tài cao
Dắt em tận năm châu bốn biển Mắt nhìn xa nghĩ đến mai sau Đây Lạng Sơn đó Cà Mau Giang sơn hùng vĩ, địa cầu lừng danh
Đưa em lên sao Kim sao Hoả Để em nhìn cho rõ nước ta Hiểu ngày nay ,hiểu ngày xưa Hùng Vương, Nguyễn Trãi gần là Quang Trung
Em càng hiểu anh hùng thời đại Có Bác Hồ chỉ lối ta đi Dù địch phá, dù gian nguy Trường ta vững lái cứ đi cứ về
Tuổi thanh niên sơ gì việc khó Khó khăn nhiều tiến bộ càng nhanh Đã nuôi chí lớn ắt thành Có thầy, có bạn, có mình, có ta.
Thiếu phấn viết làm ra phấn viết Sách giáo khoa ta chép thâu đêm Sản xuất kết hợp học học hành Như chim đủ cánh cất mình bay cao.
Ruộng tăng sản bèo dâu xanh biếc Cấy thẳng hàng buốt thịt xương đau Độ pH cách trừ sâu Chiêm mùa sau trước trước sau khác gì.
Sổ tay đó em ghi phân bón Ước mơ sao năm tấn thành công Bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông Bức tranh tuyệt đẹp ruộng đồng bao la
Những đêm sáng trăng ngà trong suốt Vút lên cao thánh thót lời ca “Hoa Pơ lang” 7 ấy bông hoa Tây Nguyên đẹp nhất thiết tha gửi lời “Nổ trống lên rừng núi ơi” 8 “Bài ca may áo” 9 “Mặc người dèm pha” 10
Thân múa dẽo kết “Hoa Sen” 11 trắng Giữa hội trường rực sáng đèn xanh Tưởng chừng lạc đến cảnh tiên Tưởng chừng thiếu nữ ở miền Thiên Thai.
Ai biết đó con người nghèo khổ Con Công Nông bỗng hoá thành tiên Rũ bùn em bước đi lên Bùn tanh mà đã lọc nên hương trời.
Trường ta đó ấy nơi rèn luyện Mấy năm qua bao chuyện anh hùng Ngày xưa Phù Đổng Thiên Vương Ta nay lớn mạnh phi thường lạ chưa?
Trong chiến đấu xông pha diệt Mỹ Lập công đầu dũng sĩ tiền phương Liên Xô, Tiệp Khắc, Ba Lan Châu Âu châu Á từ trường mà ra
Dù ở tận Cu Ba châu Mỹ Vẫn ngày đêm suy nghĩ về ta Dú cho ở lại quê nhà Xóm thôn xã vắng vẫn lo sớm chiều
Lo nước đủ phân nhiều lúa tốt Cảnh ruộng đồng hợp tác vui thay Mỗi khi bưng bát cơm đầy Dẽo thơm một hạt nhớ thầy năm xưa
Ôi có những phút giờ sung sướng Là những khi cờ Đảng trao tay 12 Anh em bè bạn sum vầy Tiếng cười xen tiếng vỗ tay kéo dài
Có những lúc nghe đài Hà Nội Vang truyền đi thế giới gần xa Tin trường ta, tin chúng ta Hả lòng, hả dạ ước mơ nào bằng
Có những lúc báo Đoàn báo Đảng Đăng tin trường khai giảng thành công Tin một năm, tin ba năm Như luồng gió mới lửa hồng bùng lên
Trên màn bạc giữa nền ánh điện Phim trường ta chiếu rạng khắp nơi 13 Châu Âu châu Mỹ xa xôi Năm câu bốn biển rõ mười tin vui
Hay biết mấy xem người trong ảnh Ta xem ta xem cảnh trường ta Này hầm, này luỹ, này nhà Kìa thầy kìa bạn kìa là xã viên
Phù Lưu đó ruộng liền thẳng cánh Bầu Mây đây đúng cảnh trong phim Sáng bừng như mặt trời lên Chói ngời như một niềm tin tuyệt trần.
Chào 68 mùa xuân tuyệt đẹp Cả trường đang vang nhịp tiến công Đón xuân với cả tấm lòng Đầy trời lửa đạn súng giòn chào ta
Duyên thiên lý một nhà sum họp Người tuy đông mà một lòng son Nào khách quý nào tri âm Bốn phương quy tụ xa gần về đây
Thời gian hỡi dừng ngay cánh lại Giờ vui ơi xin hãy khoan thai Rượu nồng chưa uống mà say Bữa ăn quên đói, chuyện dài thâu canh
Vui gặp chị gặp anh thân thiết Chuyện xa gần khôn xiết nói sao Yêu nhau xin nhớ lời nhau Thù chung đã nặng càng sâu thù nhà
Con khôn lớn mẹ cha đẹp mặt Trường vững vàng Đảng ắt mừng vui Cờ hồng bạn lại trao tay 14 Phất cao cho đến tầng mây xa vời
Sức ta ước chọc trời khuấy nước Khó khăn nào chặn bước ta đi Mỗi năm xuân đến một thì Xuân này hơn hẵn mấy kỳ xuân qua.
Có nghe chăng Bác Hồ ra lệnh “Tiến lên toàn thắng ắt về ta” Tiến lên giành lấy tự do Tiến lên giành lấy thời cơ diệt thù
Hồi tưởng lại những mùa thu ấy Bao ngày qua biết mấy buồn vui “Đắng cay nay mới ngọt bùi Đường đi muôn dặm đã ngời mai sau”
Lời Bác dạy ghi sâu trong dạ Ngọn đèn pha chiếu toả muôn nơi Trang sách rộng nghĩa đường đời Học hành kết hợp nên người tài ba
Nay sum họp mai đà li biệt Tiễn người đi lại tiếp người vào Kể sao vui sướng dạt dào Người sao vương vấn ra vào băn khoăn
Đã vì Đảng vì Dân vì Nước Tiến lên đi nhanh bước tiến lên Lòng thầy luôn ở bên em Đường lên sao Hoả, sao Kim xa gì?
Đi đâu cũng hướng về Quảng Trạch Cũng có ngày gặp mặt các em Nhắc bao kỷ niệm êm đềm Báo công nghi tiếp nên thiên sử vàng …
7.11.1968 TĐC 1) Xã trường đóng từ 9/1962- 6/1965 2) Những tên đất, tên làng trường sơ tán từ 1965 đến1968; 3) Tên rú nơi các em đi lấy gỗ; 4) Tên khe nơi các em đi qua; 5) Trận chiến đấu hợp đồng giữa Trường và đơn vị kết nghĩa Hải quân sông Gianh6) Nơi làm lễ kết nghĩa giữa ba đơn vị 11/19657; 8, 9, 10) Tên các ca khúc mà các em thường hát; 11) Điệu múa truyền thống của Trường; 12) Lễ tiếp nhận lần thứ nhất Cờ Lao động XHCN của Hội đồng Chính phủ trao tại Cao Mại ngày 30/8/1967; 13)Bộ phim Trường Quảng Trạch do nhà quay phim Ma Văn Cường dựng 5/12/1965; 14) Lễ treo tặng lần thứ nhất Cờ Lao động XHCN của Hội đồng Chính phủ và Bằng Khen của Tổng Công Đoàn tại Phù Lưu ngày 4/1/1968
Thầy Nguyễn Khoa Tịnh là người thầy dạy sử đã làm thay đổi đời tôi và thơ tôi. Cao hơn trang văn là cuộc đời. Bài thơ xúc động, ám ảnh và thấm thía nhất trong đời tôi là hai câu thơ “Không vì danh lợi đua chen Công cha nghĩa mẹ quyết rèn bản thân” của thầy Hoàng Ngọc Dộ anh Hai nuôi dạy tôi từ nhỏ và bài thơ “Em ơi em can đảm bước chân lên” của thầy Nguyễn Khoa Tịnh
EM ƠI EM CAN ĐẢM BƯỚC CHÂN LÊN Nguyễn Khoa Tịnh tặng em Kim, thầy ước mong em noi gương Quốc Tuấn
Đọc thơ em, tim tôi thắt lại Lòng nghẹn ngào, nước mắt chảy rưng rưng Nửa xót xa nhưng nửa lại vui mừng Xót xa vì đời em còn thơ dại Mới tuổi thơ mà cuộc đời đầy khổ ải Mới biết cười đã phải sống mồ côi Như chiếc thuyền giữa biển tự trôi Như chiếc lá bay về nơi vô định “Bụng đói” viết ra thơ em vịnh:
“Cơm ngày một bữa sắn trộn khoai Có biết lòng ta bấy hỡi ai? Vơi vơi lòng dạ, cồn cào bụng Kể chi no đói, mặc ngày dài”
Phải! Kể chi no đói mặc ngày dài Rất tự hào là thơ em sung sức Rất tự hào là em tôi đầy nghị lực Đã hiển lộ mình qua “Cái chảo rang”
“Trung dũng ai bằng cái chảo rang Lửa to mới biết sáp hay vàng Xào nấu chiên kho đều vẹn cảM Chua cay mặn ngọt giữ an toàn Ném tung chẳng vỡ như nồi đất Quăng bừa xó bếp vẫn nằm ngang Tốt đẹp đâu cần danh tiếng hão Bạn cùng lửa đỏ, nóng chang chang”
Phải! Lửa to mới biết sáp hay vàng! Em hãy là vàng,Mặc ai chọn sáp! Tôi vui sướng cùng em Yêu giấc “Ngủ đồng” hiên ngang khí phách:
“Sách truyền sướng nhất chức Quận công Ta sướng khi ra ngủ giữa đồng Lồng lộng trời hè muôn làn gió Đêm thanh sao sáng mát thu không Nằm ngửa ung dung như khanh tướng Lấy mấy vần thơ tỏ nỗi lòng Tinh tú bao quanh hồn thời đại Ngủ đồng khoan khoái ngắm gương trong”
Tôi biết chí em khi “Qua đèo Ngang” Ung dung xướng họa với người anh hùng Đã làm quân thù khiếp sợ:
“Ta đi qua đèo Ngang Cũng gặp Người trèo qua núi hiểm Đỉnh dốc chênh vênh Xe mù bụi cuốn Có lẽ thiên nhiên đã định bao giờ Một dãy Hoành Sơn bát ngát trận đồ Điệp điệp núi cao Trùng trùng rừng thẳm. Người thấy Súng gác trời xanh Gió lùa biển lớn Nông dân rộn rịp đường vui Thanh Quan nàng nhẽ có hay Cảnh mới đã thay cảnh cũ. Ta hay Máu chồng đất đỏ Mây cuốn dặm khơi Nhân công giọt giọt mồ hôi Hưng Đạo thầy ơi có biết Người nay nối chí người xưa Tới đây Nước biếc non xanh Biển rộng gió đùa khuấy nước Đi nữa Đèo sâu vực thẳm Núi cao mây giỡn chọc trời Nhớ thù nhà, luống thẹn làm trai Thương dân nước, thà sinh phận gái “Hoành Sơn cổ lũy” Hỏi đâu dấu tích phân tranh? Chỉ thấy non sông Lốc cuốn, bốn phương sấm động. Người vì việc nước ra đi Ta muốn cứu dân nên thăm trận thế Điều không hẹn mà xui gặp mặt Vô danh lại gặp hữu danh Cuộc đời dài ắt còn sẽ gặp nhau Nay hội ngộ giữa đỉnh cao trời đất Anh em ta ngự trên xe đạp Còn Người thì lại đáp com măng Đường xuyên sơn Anh hùng gặp anh hùng Nhìn sóng biển Đông Như ao trời dưới núi. Xin kính chào Bậc anh hùng tiền bối Ta ngưỡng mộ Người Và tỏ chí với non sông Mẹ hiền ơi! Tổ Quốc ơi! Xin tiếp bước anh hùng!”
Hãy cố lên em! Noi gương danh nhân mà lập chí Ta với emMình hãy kết thành đôi tri kỷ! Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương Tôi tự hào bài “Tỏ chí” của em:
“Quốc Tuấn ngày xưa chí vững bền Thù nhà, nợ nước chẳng hề quên Đến bữa quên ăn, đêm quên ngủ Thương dân, yêu nước quyết báo đền Văn hay thu phục muôn người Việt Võ giỏi kinh hồn lũ tướng Nguyên Mươi năm sau nữa ơi ông Tuấn Nối chí ông, nay cháu tiến lên!”
Tôi thương mến em Đã chịu khó luyện rèn Biết HỌC LÀM NGƯỜI ! Học làm con hiếu thảo. Mười lăm tuổi đã “Tập làm thầy giáo”
“Vui gì hơn buổi đầu làm thầy giáo Của lớp vở lòng đất mẹ yêu thương Trưa nắng luyến các em cùng đến lớp Giọng líu lo như chim hót ven đường.
Đứng trước các em tuổi nhỏ đáng yêu Mà đã tưởng tới bao nhiêu người lớn Nghe em đọc giọng thanh thanh dễ mến Mà đã nghe đất nước xuyến xao mình!”
Tổ Quốc đang chờ em phía trước. Em ơi em, can đảm bước chân lên!
LỜI CỦA THẦY THEO MÃI BƯỚC EM ĐI Hoàng Kim trước tượng Phan Bội Châu, nhớ thầy cô Nguyễn Khoa Tịnh Trần Thị Diệu Vinh “Thầy truyền cho chúng em niềm tin Đạo làm người, lòng yêu nước. Em càng thấm thía vô cùng. Vì sao những người có tâm huyết ngày xưa. Những Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thiếp, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, … Đều yêu nghề dạy học.”
Thầy thung dung bước lên bục giảng Buổi học cuối cùng “Tổng kết sử Việt Nam” Tiếng Thầy ấm trong từng lời nói Như muốn truyền cho các em Tất cả những niềm tin. Đôi mắt sáng lướt nhìn toàn bộ lớp Thầy có dừng trên khuôn mặt nào không ? Thầy có tin trong lớp còn ngồi học Có những em nung nấu chí anh hùng. Các em hiểu những gì Trong tim óc người Thầy Mái tóc đà điểm bạc Em biết Thầy tâm huyết rất nhiều Trên mười năm dạy học Vẫn canh cánh trong lòng Luôn tìm kiếm những người Có chí lớn và tấm lòng yêu nướcthương dân.
Mười năm Thức đo thời gian Dài như cả nỗi đau chia cắt Sương bạc thời gian phôi pha mái tóc Câu chuyện mười năm Đông Quan dạy học Hẳn nhiều đêm rồi Thầy nhớ Ức Trai xưa?
Mười năm Trang lòng, trang thơ Nhớ tráng sĩ Đặng Dung đêm thanh mài kiếm Ôi câu thơ năm nào giữa lòng Thầy xao xuyến “Anh hùng lỡ vận ngẫm càng cay”
Mười năm Dằng dặc thời gian Đo lòng Thầy nhớ miền Nam tha thiết Em tin trong lòng Thầy Luôn âm ỉ cháy lửa lòng yêu nước Thầy có tin rằng trong lớp Có người trò nghèo Chí nối Ức Trai xưa.
“Dẫu đất này khi thịnh khi suy Song hào kiệt đời nào cũng có” Thầy giảng Đại cáo bình Ngô Liên hệ chuyện chân chúa Nguyễn Hoàng âm thầm tìm kiếm Đào Duy Từ … cũng như chuyện “Tam cố thảo lư”anh em Lưu Bị vượt núi thẳm, mưa tuyết, đường xa ba lần đến Long Trung tìm kiếm Khổng Minh Gia Cát tuổi chỉ đáng bằng tuổi con mình nhưng trọng dụng kỳ tài đã tôn làm quân sư cùng lo việc nước… Thầy kể chuyện Đào Duy Từ xưa Bậc khai quốc công thần nhà Nguyễn dựng nghiệp nhọc nhằn, người hiền lắm nạn cha mẹ chết oan, chiếc lá giữa dòng Đào Duy Từ còn mãi với non sông: Người có công nghiệp lẫy lừng chẳng kém Ngọa Long Định Bắc thu Nam công đầu Nam tiến. Người tổ chức phòng ngự chiều sâu Hoành Sơn Linh Giang Lũy Thầy minh chúa, quân giỏi, tướng tài, ba tầng thủ hiểm Người xây dựng nên định chế đàng Trong một chính quyền rất được lòng dân nức tiếng một thời. Người viết nên kiệt tác Hổ trướng khu cơ, tuồng Sơn Hậu, nhã nhạc cung đình là di sản muôn đời. Trí tuệ bậc thầy, danh thơm vạn thuở
Thầy giảng về bài học lịch sử Việt Nam những người con trung hiếu tận tụy quên mình vì dân vì nước hẳn lòng Thầy cháy bỏng khát khao vượng khí non sông khí thiêng hun đúc Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương Có nông phu ham học, chăm làm Mà thao lược chuyển xoay thời vận. Ôi sử sách cổ kim bao nhiêu gương sáng Học sử ai người biết sử để noi?
“Lịch sử dân tộc mình Những năm bảy mươi Các em sẽ là người viết tiếp Điểm theo thời gian Truyền thống ông cha xưa Oanh liệt vô cùng”
Tiếng Thầy thiết tha Truyền nguồn cảm xúc Các em uống từng lời Lắng nghe từng chữ Lời tâm huyết thấm sâu vào lòng em: “Nung gan sắt để dời non lấp bể Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ” Em đã tìm được trong Thầy Một người anh Một người đồng chí Em vững tin trong sự nghiệp cứu dân Hẳn có lòng Thầy luôn ở bên em!
Thầy nói nhiều về Việt Nam thân yêu Dựng nước gian nan, người dân còn khổ Mắt Thầy thiết tha quá chừng Làm em mãi nhớ Thầy truyền cho chúng em niềm tin Đạo làm người, lòng yêu nước Em càng thấm thía vô cùng Vì sao những người có tâm huyết ngày xưa Những Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thiếp, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, … Đều yêu nghề dạy học.
Tổ Quốc cần, gọi em về phía trước Em ơi em, can đảm bước chân lên (*) Em sẽ khắc trong lòng Những lời dạy đầu tiên!
LƯƠNG ĐỊNH CỦA CON ĐƯỜNG LÚA GẠO một nhân cách một người thầy lớn Hoàng Kim Đêm đông nhớ thầy Của Ngày xuân đọc Trạng Trình Lên non thiêng Yên Tử Tính sáng thấm Hoàng Kim.
Đại Ngãi đêm về thăm Vầng trăng rằm cổ tích Tôn vinh hạt ngọc Việt Cánh cò bay trong mơ
Con đường gạo Việt Nam Chén cơm ngon đầy đặn Dẻo thơm ngọc cho đời Đắng lòng thương vị mặn…
Giáo sư Lương Định Của (Quốc – 梁定国) sinh ngày 16 tháng 8 năm 1920 tại
xã Đại Ngãi, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng, Theo văn bia gia đình thì
ông nội của giáo sư là Lương Đức Ngãi, bà nội là Trịnh Thị Xuân, cha là
Lương An Hùng và mẹ là Huỳnh Thị Có. Ông Lương Định Của lên Sài Gòn học
xong tú tài và đã du học ở Hương Cảng (y học) rồi Thượng Hải (kinh tế)
trước khi được học bổng của chính phủ Nhật Bản, sang Nhật năm 1942, được
nhập ngang vào học năm thứ ba tại Trung tâm Nghiên cứu Nông học Nhiệt
đới thuộc Trường Đại học Quốc gia Kyushu. Năm 1945 ông cưới vợ là bà
Nobuko Nakamura (中村信子) người Nhật. Năm 1946, ông chuyển sang Trường Đại
học Quốc gia Kyoto và được cấp bằng tiến sỹ nông học ở Nhật Bản. Năm
1954, ông cùng gia đình về Sài Gòn. Sau đó tập kết ra Bắc, làm Phó Giám
Đốc Học Viện Nông Lâm Hà Nội , giảng dạy di truyền giống ở Trường Đại
học Nông nghiệp Hà Nội (nay là Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam) và làm
Viện trưởng Viện Cây Lương thực và Cây thực phẩm.
Giáo sư Lương Định Của là người có công lớn trong giáo dục đào tạo,
Thầy đã huấn luyện được nhiều thế hệ học trò trở thành cán bộ đầu đàn
trong các lĩnh vực khoa học nông nghiệp với nhiều người xuất sắc. Giáo
sư Lương Định Của đã chọn tạo được nhiều giống cây trồng nông nghiệp nổi
tiếng một thời như Giống lúa Nông nghiệp I lai tạo từ giống Ba thắc
(Sóc Trăng – Nam Bộ) với Kun Ko (Nhật Bản) là giống lúa sớm đi vào sản
xuất trên đồng ruộng Việt Nam từ những năm 60 của thế kỷ trước. Sau đó
là nhiều giống mới mang tên “giống bác sĩ Của” như lúa chiêm 314 (lai
giữa dòng Đoàn Kết và Thắng Lợi), NN75-1 (lai giữa giống 813 với NN1),
NN8-388 (chọn giống từ IR8), lúa mùa Saisubao, lúa xuân sớm NN75-5,
giống dưa lê, cà chua, khoai lang, dưa hấu không hạt, chuối, rau, táo…
cùng với những ứng dụng tiến bộ kĩ thuật tam bội thể, tứ bội thể, chất
kích thích sinh trưởng. Giáo sư đề xướng mô hình canh tác “bờ vùng, bờ
thửa” “cấy nông tay thẳng hàng” “đảm bảo mật độ” được hàng chục triệu
nông dân áp dụng trên diện rộng, tạo ra cuộc cách mạng trong nông
nghiệp.
Cuộc đời của giáo sư là tấm gương sáng của một trí thức lớn dấn thân
vì đại nghĩa, sống thanh đạm, giản dị, say mê, tận tuỵ với sự nghiệp
trồng người và nghiên cứu khoa học tạo giống cây trồng, cải tiến kỹ
thuật canh tác để mang lại đời sống tốt hơn cho người dân.
Giáo sư Lương Định Của được bầu là đại biểu Quốc hội các khoá 2, 3,
4, 5, được phong danh hiệu Anh hùng Lao động và Huân chương Lao động
Hạng Nhất năm 1967 và được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học
công nghệ đợt 1 năm 1996.
Nhiều con đường, mái trường Việt Nam mang tên Thầy. Năm 2006, Trung
ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã lập Giải thưởng Lương Định
Của để hằng năm trao tặng cho những thanh niên có thành tích đặc biệt
xuất sắc trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, chuyển giao tiến bộ kỹ
thuật, công nghệ nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
GS Lương Định Của mất ngày 28 tháng 12 năm 1975, mai táng tại Nghĩa
Trang Thành phố Hồ Chí Minh. Vợ của giáo sư, bà Nobuko Nakamura, sống
cùng gia đình con trai cả Lương Hồng Việt ở thành phố Hồ Chí Minh.
Cuộc đời và sự nghiệp của nhà bác học nông dân Lương Định Của còn mãi
với thời gian, với con đường lúa gạo Việt Nam đang tỏa rộng nhiều vùng
đất nước kết nối lớp lớp những dâng hiến lặng lẽ tôn vinh hạt ngọc Việt.
Cây lúa Việt Nam nửa thế kỷ nhìn lại (1975-2014) tốc độ tăng năng suất
vượt 1,73 lần so với thế giới (Năm 2013 năng suất lúa gạo Việt Nam đạt
5,57 tấn/ ha so với năm 1975 là 2,11 tấn/ ha, gia tăng 3,46 tấn/ ha. Năm
2013 năng suất lúa gạo thế giới đạt 4,48 tấn/ ha so năm 1975 là 2,49
tấn/ ha gia tăng 1,99 tấn/ ha). Thành tựu này có cống hiến hiệu quả của
nhà bác học nông dân Lương Định Của ở chặng đường đầu của nước Việt Nam
mới.
LƯƠNG ĐỊNH CỦA QUÊ HƯƠNG VÀ DÒNG HỌ
Chuẩn bị xong những việc sau cùng để ngày mai cấy các bộ giống lúa
mới, chúng tôi lên đường về thăm quê hương thầy Lương Định Của khi trời
đã xế chiều. Chúng tôi đến thăm cụ Sáu, em gái Thầy Lương Định Của và
thắp hương tại khu mộ gia đình Thầy khi trăng rằm tháng giêng lồng lộng
đang lên. Ruộng lúa Đại Ngãi, Trường Khánh xanh ngát dưới ánh trăng.
Ngôi nhà niên thiếu và phần mộ tổ tiên, cha mẹ song thân của giáo sư
Lương Định Của tại ấp Ngãi Hoà, cách trụ sở Uỷ ban Nhân dân xã Đại Ngãi
khoảng 3 km, và phải đi bằng xe ôm vì lối đi nhỏ bé, thuần phác, khiêm
nhường giữa vùng quê Nam Bộ. Xe ôm chạy hun hút dưới vòm dừa nước y như
trong vườn thiêng cổ tích. Cha và mẹ của thầy Lương Định Của là Lương An
Hùng và Huỳnh Thị Có cùng ông bà nội là Lương Đức Ngãi và Trịnh Thị
Xuân đều an táng tại làng quê Đại Ngãi. Chúng tôi bâng khuâng trước phần
mộ tổ tiên, cha mẹ song thân của bậc anh hùng. Nơi đây mấy trăm năm
trước hẳn rất hoang vu, bởi lẽ mãi cho đến tận nay, vẫn vùng quê hẻo
lánh đến vậy. Tôi chợt thấm thía câu thơ Sơn Nam:”Trong khói sóng mênh
mông/ Có bóng người vô danh/Từ bên này sông Tiền/ Qua bên kia sông Hậu/
Tay ôm đàn độc huyền/ Điệu thơ Lục Vân Tiên/ Với câu chữ/ Kiến nghĩa bất
vi vô dõng giả/ Từ Cà Mau Rạch Giá/ Dựng chòi đốt lửa giữa rừng thiêng/
Muỗi vắt nhiều hơn cỏ/ Chướng khí mờ như sương/Thân chưa là lính
thú/Sao không về cố hương?”
Anh Lương Hồng Việt nói với tôi tổ tiên họ Lương của anh có nguồn gốc
Phúc Kiến lánh nạn Mãn Thanh sang cư trú ở Đàng Trong hồi thế kỷ XVII.
Nam Bộ là nôi nuôi dưỡng của đại gia đình các dân tộc người Việt, người
Hoa, người Khơ Me. Nhiều người Hoa trong số họ đã chung sức cùng người
Việt, người Khơ Me khẩn hoang, giữ gìn và sinh sống nhiều đời tại quê
hương.
Từ Đại Ngãi, Sóc Trăng về Hà Tiên không xa. Đó là nơi khởi nghiệp của
Mạc Cửu công thần đất Hà Tiên ”phên dậu Đại Việt đất phương Nam” và
vùng danh thắng Hà Tiên thập vịnh Mạc Thiên Tích. Mạc Cửu là Tổng trấn
Hà Tiên, thành hoàng lập trấn địa đầu của đất cực Nam Tổ quốc. Mạc Thiên
Tích con của Mạc Cữu làm Tổng binh Đại đô đốc thời chúa Nguyễn Phúc
Trú. Hai cha con Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích và dòng họ Mạc là những người
có công lớn đối với non sông Việt trong sự khai khẩn và trấn giữ miền
Tây Nam Bộ. “Chẳng đội trời Thanh Mãn/ Lần qua đất Việt bang/ Triều đình
riêng một góc/ Trung hiếu vẹn đôi đường/ Trúc thành xây vũ lược/ Anh
Các cao văn chương” (thơ Đông Hồ). Nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt đã
nhận xét chí lý: “Nhờ có Mạc Cửu, người Việt mới bước qua bờ nam sông
Tiền”.
Từ Đại Ngãi, Sóc Trăng đi lênSài Gòn – Gia Định – Đồng Nai – Biên Hòa
là vùng đất khởi nghiệp lừng lẫy của Trịnh Hoài Đức công thần nhà
Nguyễn, quan Thượng thư, hiệp Tổng trấn, Điền toán (chuyên coi về sự cày
cấy khai khẩn đất đai Nam Bộ), nhà thơ, nhà văn, sử gia nổi tiếng với
tác phẩm Gia Định thành thông chí một công trình được nhiều nhà nghiên
cứu đánh giá cao. Đó cũng là nơi có bậc danh nho Võ Trường Toản cùng với
các học trò của ông cũng là những công thần lỗi lạc của nhà Nguyễn như
Ngô Tùng Châu, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tĩnh, Phạm Ngọc Uẩn, Lê Bá Phẩm,
những người Việt gốc Hoa noi theo gương thầy Chu Văn An đời Trần, thực
lòng yêu thương cộng đồng đại dân tộc Việt Nam, cùng chung lưng đấu cật,
góp xương máu, công sức xây đắp nên cơ nghiệp muôn đời. Và nay có người
phụ nữ Nhật Nakamura Nobuko thuận theo giáo sư Lương Định Của “thuyền
theo lái, gái theo chồng” tạo dựng nên công đức cùng chồng là vậy.
LƯƠNG ĐỊNH CỦA NHỮNG NĂM THÁNG TUỔI TRẺ
Ruộng lúa Trường Khánh Đại Ngãi Long Phú Sóc Trăng dưới ánh trăng rằm
tháng Giêng chụp lúc 19g30 mà vẫn lồng lộng xanh mướt lạ thường. Tuổi
xuân của Lương Định Của khởi đầu ở vùng quê Đại Ngãi, Long Phú, Sóc
Trăng, nơi vùng lúa Trường Khánh. Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời
bắt đầu bằng tuổi trẻ. Ông là con trưởng trong một gia đình cha mẹ là
điền chủ, mất sớm. Ông có hai em gái và một em trai. Ông theo học tiểu
học ở Sóc Trăng, trung học ở Sài Gòn, học tiếng Anh ở Hồng Công và
Thượng Hải, sống nhờ hoa lợi của số ruộng đất cha mẹ ông để lại. Sau đó
ông xin được học bổng Nhật Bản theo học Khoa Nông học Trường Đại học
Tổng hợp Kyushu. Kế đó, ông lấy vợ Nhật và theo học tiếp Tiến sĩ Nông
học, rồi làm giảng sư Đại học Tổng hợp thành phố Kyoto. Con đường tuổi
thơ Ngãi Hòa, Đại Ngãi, Trường Khánh quê hương Lương Định Của lung linh
huyền thoại.
Tuổi xuân và những năm tháng đại học
Nhà báo Phan Quang kể về tuổi xuân và những năm tháng đại học của
giáo sư Lương Định Của trong bài “Kỷ niệm đời thường về nhà khoa học
Lương Định Của”:“ Lương Định Của sinh ngày 16-7-1919 tại làng Đại Ngãi,
huyện Long Phú tỉnh Sóc Trăng trong một gia đình điền chủ theo đạo Thiên
chúa. Cha mẹ mất sớm, lúc ông mới mười hai tuổi. Hồi nhỏ học Trường
tiểu học Taberd ở thị xã Sóc Trăng, rồi chuyển lên Sài Gòn theo bậc
trung học cũng tại Trường Taberd. Đến năm thứ tư, Lương Định Của xin
sang Hồng Công học tiếp tại trường La Salle College với ý định trau dồi
tiếng Anh thật giỏi để sau này đi vào ngành thương mại. Sau khi trúng
tuyển kỳ thi tuyển sinh vào đại học (tiếng Anh gọi là University
Matriculation), ông rời Hồng Công lên Thượng Hải học. Ở Hồng Công thời
ấy chỉ có mỗi một trường đại học, học phí rất cao, trong khi tại Thượng
Hải, sinh hoạt rẻ hơn. Tại đây, ông theo học Trường đại học Saint
John’s. Đang học dở chừng thì chiến tranh thế giới lan rộng và ngày càng
ác liệt. Cuộc sống của lưu học sinh tại Trung Quốc trở nên bấp bênh.
Lương Định Của hiểu, cần phải tìm nguồn sinh hoạt ổn định ở ngay nước
ngoài, vì rất khó trông chờ vào món tiền mà ông bác ruột trích từ hoa
lợi số ruộng đất cha mẹ ông để lại ở Sóc Trăng vẫn tháng tháng gửi sang
cho như những năm trước. Thấy một người bạn học gửi thư xin học phí du
học tại Nhật Bản và được chấp thuận dễ dàng, ông cũng nộp đơn và được
chấp nhận cho sang Nhật. Bước chân lên đất nước Phù Tang xưa kia không
mấy khác nước mình, nay nhờ công cuộc duy tân đã trở thành một quốc gia
hùng mạnh, chàng thanh niên Lương Định Của vẫn ôm ấp mộng làm giàu bằng
con đường thương mại. Nhờ tiếp xúc với một số nhà yêu nước Việt Nam sống
lưu vong, theo lời khuyên của họ, sau một năm học tiếng Nhật, ông bỏ
ngành thương mại chuyển sang học ngành nông nghiệp với hoài bão rõ rệt
mang vốn kiến thức về quê hương thiết thực phục vụ đất nước. Ông theo
học Khoa Nông học Trường Đại học Tổng hợp Kyushu. Năm 1945, Nhật Bản
thua trận. Nhân dân Nhật trải qua một thời kỳ cực kỳ khó khăn dưới sự
chiếm đóng và cai quản trực tiếp của quân đội Mỹ. Miếng ăn hằng ngày còn
chưa đủ, không ít người Nhật đói rét. Chính phủ Nhật Bản làm gì còn có
học bổng ưu ái cho du học sinh nước ngoài. Để có thể tiếp tục theo học,
cũng như mọi sinh viên khác, Lương Định Của làm đủ nghề: gia sư, biên
dịch tài liệu, phiên dịch tiếng Anh… Cái vốn Anh ngữ lúc này thật sự có
ích vì hồi ấy không có nhiều người Nhật sử dụng thành thạo ngoại ngữ. Sự
giúp đỡ của Việt kiều ở Nhật là niềm khích lệ lớn đối với ông. Đặc biệt
những người Việt Nam vì chống Pháp phải sống xa quê đã bồi dưỡng và
khuyến khích lòng yêu nước vốn có trong chàng thanh niên Nam Bộ.”
Bác sĩ Nông học, Giảng sư Đại học
Nhà báo Phan Quang trong bài Kỷ niệm đời thường về nhà khoa học Lương
Định Của phần 1 viết tiếp: “Lương Đình Của miệt mài học tập, nghiên
cứu. Một nhà khoa học nổi tiếng khác, cũng là lưu học sinh cùng thời với
Lương Định Của là bác sĩ Đặng Văn Ngữ, trước khi về nước phục vụ đã
khuyên ông nên ráng ở lại học tập cho thành đạt rồi về sau cũng không
muộn. Lương Định Của mãi biết ơn lời khuyên của bạn. Năm 1947, tốt
nghiệp cử nhân Trường Đại học Tổng hợp Kyushu, ngành nông nghiệp. Phần
lớn lưu học sinh nước ngoài ở Nhật Bản hồi ấy giật được mảnh bằng đều đi
kiếm việc làm hoặc về nước để sớm chấm dứt cảnh thiếu thốn nơi đất
khách quê người. Lương Định Của phân vân. Ông cảm thấy vốn kiến thức của
mình còn mong manh quá. Nếu muốn thật sự phục vụ đất nước thì còn phải
học tập thêm nhiều. Ông quyết định xin vào làm phụ việc ở Trường Đại học
Tổng hợp thành phố Kyoto, cố đô nước Nhật và cũng là quê hương bà Của,
tình nguyện làm việc không hưởng lương. Đổi lại, ông được phép đọc sách ở
thư viện và dùng một số giờ nghiên cứu, thực nghiệm tại phòng thí
nghiệm của nhà trường. Một lần nữa, cái vốn ngoại ngữ lại có ích cho
ông. Ngoài công việc chuyên môn hằng ngày, còn nhận biên dịch ra tiếng
Anh và đánh máy các công trình, luận văn cho một số giáo sư trong
trường. Sức làm việc của chàng thanh niên Việt Nam cần cù, ít nói, gây
ấn tượng và dần dần giành được lòng yêu mến của các thầy. Trường Đại học
Kyoto chính thức cấp cho ông học bổng nghiên cứu sinh. Một thời gian
sau, trường bổ nhiệm ông làm một chân tập sự trợ lý (sub-assistant),
trong khi chờ đợi hội đủ điều kiện thi lấy bằng tiến sĩ. Một số tạp chí
khoa học Nhật Bản và ở nước ngoài bắt đầu đăng tải các công trình nghiên
cứu của nghiên cứu sinh Lương Định Của. Bài báo đầu tiên ông được công
bố trên một tạp chí khoa học tên tuổi ở nước ngoài phản ánh phần nào sức
đọc của ông.Đó là Thư mục về các công trình nghiên cứu di truyền học
xuất bản ở Nhật Bản, thời gian 1941- 1948 (tạp chí Heredity, London, số 4
năm 1950, trang 121-133). Trong khoảng thời gian trên dưới hai năm
(1950-1952), các tạp chí khoa học lớn công bố mười hai công trình của
nhà nghiên cứu trẻ. Ông là một người rất thành thục công việc trong
phòng thí nghiệm. Với thiết bị của Trường Đại học Kyoto, Lương Định Của
đã chụp được ba vạn tấm ảnh nhiễm sắc thể cây trồng. Sau này có dịp sang
thăm Viện Nghiên cứu Lúa gạo Hoa Nam, gặp nhà khoa học Trung Hoa chuyên
gia nổi tiếng thế giới về cây lúa là Giáo sư Đình Dĩnh, bác sĩ nông học
Lương Định Của được Giáo sư mời thao tác phương pháp chụp ảnh nhiễm sắc
thể đã nhuộm mầu sau khi cắt tế bào tại phòng thí nghiệm cho các nhà
khoa học của Viện tham khảo. Mùa hè năm 1951, Lương Định Của trình luận
văn về công trình nghiên cứu nhiều năm của mình với chủ đề: “Cách xử lý
đa bội thể di truyền nhằm tạo nên giống lúa mới”. Hội đồng khoa học
Trường Đại học Tổng hợp Kyoto nhận xét, với kết quả nghiên cứu khoa học
của mình, Lương Định Của đã có cống hiến lớn cho nền nông học trong việc
cải thiện giống lúa, và bỏ phiếu nhất trí cấp học vị Bác sĩ Nông học
cho ông. Cùng với học vị bác sĩ, Lương Định Của còn nhận được bằng khen
và tiền thưởng của Viện Nghiên cứu Sinh học Kinhara về công trình “Sự
sinh sản của giống lúa lai tạo từ hai giống lúa Japonica và Indica”.
Báo cáo khoa học của Viện khẳng định, với công trình này Lương Định
Của đã giải quyết tốt một vấn đề từ năm 1930 đến lúc bấy giờ chưa có ai
xử lý được. Một số kỹ thuật do Lương Định Của phát minh, trong đó có
phương pháp xử lý rễ trước khi cố định trong việc nghiên cứu hình thái
nhiễm sắc thể công bố lần đầu trên tạp chí Botanical Gazette (Mỹ) được
ứng dụng rộng rãi tại Nhật Bản. Kỹ sư Hồ Đắc Song, phó vịên trưởng Viện
Cây Lương thực, Cây Thực phẩm, một người cộng tác nhiều năm với bác sĩ
Lương Định Của, có lần cho biết: Phát minh của Lương đã được ứng dụng
ngay từ hồi ấy trong việc lai tạo giống lúa tại Hoa Kỳ, gọi là phương
pháp Lương Định Của.Theo báo chí Nhật Bản, kể từ những năm đầu công cuộc
duy tân đất nước thời Minh Trị thiên hoàng cho đến lúc bấy giờ
(1888-1951), trong hơn sáu mươi năm, nước Nhật mới cấp học vị bác sĩ
nông học cho hai trăm năm mươi người. Lương Định Của là nghiên cứu sinh
trẻ tuổi nhất khi nhận học vị, và cũng là người ngoại quốc duy nhất được
cấp bằng bác sĩ nông học tại Nhật bản cho đến lúc bấy giờ”.
Nhà báo Phan Quang có dịp được xem những bài báo viết về sự kiện ấy,
những mẩu báo cắt chữ in vẫn còn rõ nét tuy giấy đã ố vàng và cứ chực
mủn ra vì được xếp lẫn quần áo trong chiếc va ly tàng tàng bất ly thân
của gia đình sau mấy chục năm cùng hai ông bà Lương Định Của bôn ba
chuyển dịch nhiều nơi.
Báo Mainichi Shimbun số ra ngày 26 tháng Năm năm Chiêu Hòa thứ 26
đăng chân dung lớn của nhà khoa học trẻ với vầng trán cao, chiếc cằm
nhọn, khuôn mặt gầy thanh nhã. Tin đăng kèm cho biết nhà khoa học ba
mươi mốt tuổi Lương Định Của là người Việt Nam đầu tiên được cấp bằng
bác sĩ nông học của Nhật bản. Báo đưa khá chi tiết lý lịch của ông, nói
rõ Lương được sự hướng dẫn của Giáo sư nổi tiếng Kinhara, Viện trưởng
Viện Nghiên cứu Sinh học mang tên ông.
Cũng báo Mainichi, một số trước đó đăng ảnh Lương chăm chú trước kính
hiển vi, bên cạnh là tấm ảnh khác chụp cận cảnh những hạt lúa do ông
lai tạo nên, to gấp đôi những hạt lúa so sánh.
Báo Kyoto Shimbun cũng in ảnh những bông lúa mới được lai tạo nên.
Bài báo cho biết thêm, kết quả này đã được thông báo cho Tổ chức Lương
Nông Quốc tế (FAO) đóng tại Rome, đồng thời cũng thông báo đến Thủ tướng
Ấn Độ J.Nerhu là người đang hết sức quan tâm giải quyết vững chắc vấn
đề lương thực cho năm trăm triệu dân nước Ấn Độ mới giành lại được độc
lập.
Mấy tháng sau khi nhận học vị bác sĩ nông học, tháng Mười năm 1951,
Lương Định Của được Bộ Giáo dục Nhật Bản bổ nhiệm làm giảng sư Trường
đại học Kyoto. Ông là người ngoại quốc duy nhất thời ấy được bổ nhiệm
làm giảng sư chính thức ở một trường đại học quốc lập Nhật Bản. Theo
những người am hiểu, chức vị giảng sư ở Nhật tương đương với phó giáo sư
(tiếng Nhật gọi là phó giáo thụ) tuy chưa phải chính ngạch, bởi Nhà
nước khống chế số lượng giáo sư và phó giáo sư ở các trường đại học
trong một khung biên chế nhất dịnh, chỉ khi nào có ghế khuyết thì nhà
trường mới được bổ nhiệm người khác thay vào, còn lại đều gọi là chung
là giảng sư.
Khi bắt đầu nhận việc với chức trách giảng sư một Trường đại học quốc
lập Nhật Bản, Lương Định Của đã kết hôn với một phụ nữ địa phương dòng
dõi quý tộc và đã có hai con. Cuộc sống gia đình ổn định. Tương lai xán
lạn mở ra trước mắt nhà khoa học trẻ.“
Sự mô tả khá chi tiết trên đây của nhà báo bậc thầy Phan Quang đã
cung cấp cho chúng ta các thông tin chân thực từ năm 1919 đến năm 1951.
Theo Thông tin về một người đàn anh (Đặng Lương Mô) thì Giáo sư Ogata
Kazuo (緒方一夫) thuộc Trung tâm Nghiên cứu Nông học Nhiệt đới(熱帯農学研究 センタ
ー), Đại học Quốc gia Kyushu đã viết về hai người tiến sỹ nông học xuất
thân Đại học Quốc Gia Kyushu này. Đó là Lương Định Của (Quốc) và Võ Tòng
Xuân. Năm 1945, ông tốt nghiệp Đại học Đế quốc Kyushu, coi như là đợt
cuối cùng của chế độ đại học cũ (旧制大学)của Nhật Bản. Cũng năm 1945, sau
khi Chiến tranh Thế giới II kết thúc, ông lấy bà Nakamura Nobuko(中村信子).
Rồi ông chuyển sang ĐHQG Kyoto, ở đó ông được cấp bằng Tiến sỹ Nông học
(農学博士).
Điều chưa rõ là ngày sinh 16.8.1920 hay 16.7.1919 cần được xác minh
thêm. Cách gọi học vị “Bác sĩ Nông học” thay vì “Tiến sỹ Nông học” cũng
là một chủ đề thú vị.
Lương Định Của, luồng gió từ Hà Nội
Đạt được học vị cao, có công ăn việc làm, Lương Định Của vẫn nghĩ tới
việc về nước phục vụ, kịp trước khi cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp thắng lợi hoàn toàn nhưng “Đường về Việt Bắc xa xôi lắm!”. Luồng
gió từ Hà Nội đã thôi thúc ông hướng về Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa đang tạo lập. Ông từ chối các cơ hội đi làm nghiên cứu sinh ở Mỹ,
làm việc cho Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế (IRRI) để tìm cách về nước
tham gia kháng chiến. Sau nhiều nỗ lực móc nối, chờ đợi, xoay đường này
cách khác, năm 1952 ông đã đưa cả gia đình về Sài Gòn, làm việc một thời
gian ngắn ở Viện Khảo cứu Nông nghiệp Sài Gòn, Bộ Canh Nông (nay là
Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam), sau đó quá cảnh bưng biền
và đầu năm 1954 cả nhà cùng lên một chuyến tàu tập kết ra Bắc (Tượng nhà
nông học Lương Định Của ở Viện Cây Lương thực và Cây Thực phẩm, bài và
ảnh HDO trong bài Nhà nông học Lương Định Của với Hải Dương).
Nhà báo Phan Quang kể tiếp Kỷ niệm đời thường về nhà khoa học Lương Định Của:
“Hồi còn là sinh viên, ông đã cùng nhiều lưu học sinh Nhật và nước
ngoài trong đó có Đặng Văn Ngữ, tham gia các cuộc biểu tình tuần hành
phản đối thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Theo như ông còn nhớ, ít nhất
có bốn cuộc lớn, ba lần ở Tokyo, và một lần ở Kyoto. Hoạt động chống
chiến tranh Việt Nam có thuận lợi là Đảng Cộng sản Nhật Bản hết lòng ủng
hộ cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Nhiều Việt kiều ở Nhật nhờ thông qua
Đảng Cộng sản Nhật Bản hoặc các tổ chức nhân dân do Đảng lãnh đạo mà
giữ được mối liên hệ liên tục với phong trào kháng chiến trong nước.
Qua sự giới thiệu của một người bạn, một mặt Lương Định Của tiếp xúc
với các nghị sĩ tiến bộ trong Quốc hội Nhật, nhờ giúp đỡ tạo điều kiện
cho ông sớm được trở về vùng tự do nước Việt Nam. Thượng Nghị sĩ Kazami
được các bạn Nhật cử đứng ra lo liệu việc này. Mặt khác, Lương viết thư
gửi Đại sứ quán ta ở Bắc Kinh bày tỏ mong muốn của mình, và chẳng bao
lâu sau nhận được thư Đại sứ trả lời đã chuyển nguyện vọng của ông về
nhà. Theo sự hướng dẫn của ông Kazami, mùa hè 1952 Lương Định Của xin
thôi việc ở Kyoto, lên thủ đô Tokyo chờ ngày về nước.
Ông xin việc làm ở Sở Nghiên cứu Khoa học Nông nghiệp Trung ương của
Nhật Bản để có thể thu nhập trong thời gian chờ đợi. Đầu những năm 50,
sau chiến thắng biên giới, tình hình nước ta rất sôi động. Đảng Lao động
Việt Nam đảm nhiệm công khai sứ mệnh lịch sử lãnh đạo toàn dân kháng
chiến. Mặt trận Liên Việt thành lập, giương cao ngọn cờ đại đoàn kết.
Các vùng tự do được giữ vững. Chiến tranh nhân dân phát triển mạnh ở
vùng sau lưng địch.
Thực dân Pháp ý thức rõ, tiến hành phá hoại kinh tế, gây nạn đói kém,
cắt nguồn hậu cần của Quân đội Nhân dân Việt Nam là một mặt trận có ý
nghĩa chiến lược đối với thành bại của chúng trong chiến tranh.Thông tri
của tướng De Linarès, tư lệnh chiến trường Bắc Bộ gửi các cấp dưới đề
ngày 14-3-1951 hướng dẫn cụ thể như sau:
“… Về phá hoại, có hai cách thực tế có thể áp dụng: a) làm ướt thóc
hoặc bắt dân phải để thóc lúa ngoài trời trong mùa mưa ẩm. Tuy nhiên, để
chắc chắn hạt gạo sẽ thối hẳn, phải dấp nước cho ướt thóc trong thời
gian bốn mươi tám giờ. Ngoài ra, để cho sự phá hoại bảo đảm hiệu quả
chắc chắn của nó, trong thời gian ấy, phải canh giữ không để cho dân
chúng đến lọc lấy phần thóc còn tốt mang đi cất giấu; b) những kho thóc
quan trọng nào phát hiện được, cho tưới xăng hoặc dầu nặng vào…” .
Tháng Chín năm 1952, ông Kazami báo cho Lương Định Của biết, có một
tàu buôn Nhật Bản sắp sang Hồng Công rồi từ đó đến thành phố Thiên Tân
của Trung Quốc. Ông đề nghị Lương đáp chuyến tàu ấy. Vào được Trung Quốc
rồi thì rất dễ dàng về Việt Bắc vì biên giới Việt Trung đã thông, nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã kiến lập
quan hệ ngoại giao; giữa hai nước có tình hữu nghị sâu sắc. Ông nói đã
nhờ Hội Hoa kiều tại Nhật Bản làm các thủ tục cần thiết cho gia đình
Lương nhập cảnh Trung Quốc, ông cũng đã có liên hệ để thông báo với
Chính phủ Việt Nam về chuyện này.
Lương Định Của vào Hồng Công, đến biên giới Cửu Long trình giấy giới
thiệu của Hội Hoa kiều tại Nhật Bản. Biên phòng Trung Quốc cho biết chưa
nhận được chỉ thị. Các bạn khuyên Lương nên trở lại Hồng Công lấy visa
nhập cảnh. Hành lý có thể cho chuyển trước sang biên giới, đưa về thành
phố Quảng Châu. Vài hôm nữa gia đình Lương đến thì có thể vào Trung
Quốc, đến thẳng Quảng Châu luôn.
Trở lại khách sạn, Lương tìm cách liên hệ với Đại sứ quán ta ở Bắc
Kinh, vừa gọi điện thoại vừa gửi thư song chờ mãi không thấy hồi âm.
Tiền túi cạn dần: phòng trọ khách sạn rất đắt. Hàng ngày bà Của xuống
phố mua bánh mì cho cả nhà ăn. Lúc này mới thấy hết bản lĩnh của người
phụ nữ ấy. Ông lo cuống lên, bà chỉ cười: “Không sao, để tính xem”. Về
đến Việt Nam ông thú thật với bạn bè, nếu không có bà thì với hai đứa
con nhỏ, ông chẳng biết đường nào xoay xở trong những ngày quá cảnh Hồng
Công. Thái độ bình tĩnh và đầy thông cảm của bà có tác dụng trấn an
ông.
Sau một tuần chờ đợi trong lo âu, xuất hiện một người lạ mặt ăn mặc
sang trọng. Ông nói: nếu Lương có giấy giới thiệu của Ngân hàng Trung
Hoa thì ông có thể giúp cho qua biên giới. Lương Định Của chẳng có giấy
tờ gì khác ngoài thư giới thiệu của Hội Hoa kiều tại Nhật Bản. Người lạ
mặt khuyên, nếu vậy thì nên theo ông về Macao, ở nhờ nhà con trai ông
một thời gian, chờ xin phép nhập cảnh.
Hồng Công là điểm quá cảnh, khách không được phép ở lại lâu. Lương
Định Của hết sức phân vân. Người này ông chưa từng quen biết. Trong túi
ông lại không có tiền, trừ gói hạt giống dưa. Đến áo quần thay hằng ngày
cũng không có đủ vì các valy đã gửi hết vào Trung Quốc rồi.
Ông quyết định hẵng trở về Sài Gòn, rồi tìm cách ra vùng tự do sau.
Ông đánh điện cho một người bạn ở Sài Gòn, báo tin mình đang trên đường
về nước, đến Hồng Công thì mất hết đồ đạc, nhờ bạn đặt mua vé máy bay
cho hai người lớn hai trẻ con, và cho vay tạm hai nghìn USD.
Ngay chiều hôm ấy, nhận được ngân khoản người bạn gửi đến thông qua
một ngân hàng lớn. Có tiền, có vé trong tay, ông còn nấn ná lại thành
phố này ba tuần nữa, hy vọng có tin tức Đại sứ quán ta tại Bắc Kinh.
Cuối cùng hết hạn quá cảnh mới đáp máy bay về Sài Gòn.
Chính quyền Sài Gòn nồng nhiệt đón bác sĩ nông học Lương Định Của du
học từ Nhật Bản về. Bộ trưởng Nông Lâm mời ông đến cơ quan, mở rượu
whisky chúc mừng, và ngỏ ý mời ông làm thứ trưởng. Lương tìm cách thoái
thác khéo. Ông khiêm tốn nói mình xa đất nước đã lâu, xin cho làm việc
hợp đồng một thời gian để quen thêm thung thổ và bạn bè, rồi mới dám
chính thức nhận nhiệm vụ.”
Theo lời kể của anh Lương Hồng Việt. Bác sĩ nông học Lương Định Của
sau đó đã nhận làm việc ở Viện Khảo cứu Nông nghiệp Bộ Canh nông (nay là
Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam) .
Theo hồi ức của thầy Phan Gia Tân, giảng viên Trường Đại học Nông Lâm
thành phố Hồ Chí Minh, thì sau ngày Việt Nam thống nhất 30.4.1975, giáo
sư Lương Định Của đã đi tìm Giáo sư Tôn Thất Trình ở Trường Đại học
Nông nghiệp Sài Gòn (nay là Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí
Minh). Thầy Của tiếc không gặp được thầy Trình vì thầy đã ra đi trước
đó. Tấm lòng tri ngô của họ mãi là dấu ấn của các trí thức lớn…
Giáo sư Tôn Thất Trình là người đã hai lần làm Bộ trưởng Bộ Canh nông
chính quyền Sài Gòn và Hiệu trưởng Trường Đại học Nông nghiệp Sài Gòn.
Thầy trực tiếp giảng dạy môn cây lương thực, nông học đại cương và một
số môn học khác. Trong cơn lốc của các sự biến, thầy Trình đã sang làm
việc ở FAO với cương vị Chánh Chuyên viên và Tổng Thư ký Chương trình
Lúa Gạo Quốc tế, tiếp tục giúp Việt Nam sau hậu chiến.
Vị trí Tổng Thư ký Chương trình Lúa Gạo Quốc tế ở FAO, sau ngày GS.
Tôn Thất Trình nghỉ hưu được tiếp nối bởi TS. Trần Văn Đạt, TS. Nguyễn
Văn Ngưu, và nay là PGS.TS. Bùi Bá Bổng nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Đó là những người Việt lỗi lạc ở FAO.
Câu chuyện về thầy Trình, tôi đã có kể trong bài Thầy bạn là lộc xuân
cuộc đời. Cái bàn và nơi ngồi làm việc của thầy Trình, sau ngày Việt
Nam thống nhất là chỗ ngồi và nơi làm việc của PGS. TS. Lê Minh Triết
giảng viên cao cấp và tôi được may mắn được kế nhiệm tiếp nối việc giảng
dạy và nghiên cứu cây lương thực (lúa, ngô, sắn, khoai lang).
Trở lại câu chuyện giáo sư Lương Định Của. Theo lời kể của nhà báo Phan Quang:
“Gia đình ông sống cùng gia đình người em trong ngôi nhà ở Đa Cao. Em
gái ông có chồng đi kháng chiến, thỉnh thoảng lại kiếm cớ vắng nhà. Ông
biết chị ra bưng thăm chồng.
Một hôm, vào ngày chủ nhật, ông đang ngồi chơi trước cửa thì thấy một
người ăn vận có vẻ như vừa từ nông thôn ra, đi thẳng vào nhà sau nói
chuyện với cô em gái. Khách về, Lương hỏi ai vậy, cô em trả lời: “Người
ta muốn mời anh ra vùng kháng chiến đấy”. – Vậy em trả lời họ thế nào?
Cô em cười: “Em nói, anh vợ con tùm lum thế kia thì làm sao đi kháng
chiến được”. Lương Định Của lặng im, vì dự định từ Nhật Bản về thẳng
miền Bắc không thành, ông không hề hé răng cho ai biết.
Hiệp định Genève về Đông Dương (1954) được ký kết. Trong giới trí
thức Sài Gòn lại một lần nữa xôn xao – tuy thầm lặng – về việc ra đi hay
ở lại. Nơi cơ quan Lương làm việc có một chị tên là B., em gái một bác
sĩ nha khoa vốn là bạn của ông sau này cũng tập kết ra Bắc và cùng gặp
lại nhau tại Hà Nội, có lần hỏi giọng nửa đùa nửa thật: “Nè, Chính phủ
Việt Minh kêu gọi trí thức ra Bắc đấy, anh có đi không?”.
Lương nghiêm trang trả lời ông muốn đi. Chị B. bắt liên lạc, bố trí
kế hoạch cho ông rời Sài Gòn. Chờ đợi một thời gian khá lâu mới có hồi
âm. Lương Định Của nói với các em, ông muốn cho gia đình đi nghỉ mát ở Ô
Cấp (Cap Saint Jacques – Vũng Tàu ngày nay) mấy hôm. Nửa đường, theo
mật hiệu “cứ theo người có chửa mà đi”, ông đổi xe, đổi hướng, theo
người phụ nữ ấy về thành phố Mỹ Tho. Từ đấy lại đổi xe khác, có người
khác đón ra bưng biền.
Lương Định Của được nhà lãnh đạo Phạm Hùng tiếp ngay khi vừa đến cứ.
Anh Bảy trò chuyện thân tình, và cho ông một bộ quần áo bà ba.
Năm 1954, qua liên lạc biệt động, gia đình giáo sư gửi thư xin phép
đi tập kết. Anh Hồng Việt kể lại: “Từ Sài Gòn, theo biệt động đưa về Cần
Thơ, xuống căn cứ Cà Mau và đi tàu Ba Lan ra Sầm Sơn, Thanh Hoá.
Ấn tượng đầu tiên là hưởng luôn một trận gió mùa đông bắc. Nhưng ngày
hôm sau là 1.1.1955, gia đình được chứng kiến ngày lễ tưng bừng”. Luồng
gió từ Hà Nội là bước ngoặt của nhà nông học Lương Định Của.
LƯƠNG ĐỊNH CỦA NHÀ BÁC HỌC NÔNG DÂN
Nhà báo Phan Quang kể về “Gánh xiếc Đông Phương Hồng” và những công việc cụ thể thường ngày của Bác Của:
“Bước vào thập niên 60 thế kỷ trước, công cuộc hợp tác hóa nông
nghiệp ở miền bắc vừa hoàn thành, khắp mọi nơi sôi nổi phong trào cải
tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động nông nghiệp.
Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân, Đại tướng Nguyễn Chí
Thanh được phân công kiêm Trưởng ban Nông nghiệp Trung ương. Bác Hồ đích
thân chỉ thị cho ông tìm cách khuấy động phong trào, tạo khí thế thi
đua phát triển sản xuất, xây dựng nông thôn mới.
Đội ngũ các nhà khoa học nông nghiệp, bắt đầu từ các con chim đầu đàn
được đào tạo trong nước hoặc học từ nước ngoài về: Bùi Huy Đáp, Nguyễn
Đăng, Lê Duy Thước, Trần Văn Hà, Dương Hồng Hiên, Trần Thế Thông, Đào
Thế Tuấn, Lã Xuân Đĩnh…, mỗi vị một nghề chuyên sâu, sẵn sàng xắn quần
lội ruộng.
Lương Định Của là chuyên gia về giống, được phân công chỉ đạo huyện
Thọ Xuân, Thanh Hóa, lấy hợp tác xã Đông Phương Hồng làm thí điểm. Nhà
nông học cùng mấy học trò kỹ sư có, trung cấp có lếch thếch gồng gánh đồ
lề rời thủ đô về mảnh đất vốn nổi tiếng “địa linh nhân kiệt”, đã góp
phần rất to lớn về hậu cần cho chiến thắng Điện Biên Phủ song nghèo thì
vẫn nghèo, vì mùa màng bấp bênh, năng suất lúa bình quân thấp. Anh em
trong ngành nông nghiệp và cán bộ địa phương gọi đùa đội chỉ đạo của
thầy trò Ông Của là “Gánh xiếc Đông Phương Hồng”.
Từ bấy, trên cánh đồng ruộng Thọ Xuân hầu như ngày nào bà con nông
dân cũng thấy một người trạc tuổi trung niên dong dỏng cao, đầu đội nón
lá, mình mặc sơmi mầu cỏ úa, quần xắn ống thấp ống cao quẩn quanh từ
sáng đến xế chiều. Nông dân đã quên đi hoặc chẳng buồn quan tâm đến học
vị cao siêu cũng như các chức danh rối rắm khác của ông trưởng đoàn chỉ
đạo do Trung ương phái về mà chỉ biết đấy là Bác Của – không phải “bác”
trong cụm từ thông thái “bác sĩ nông học” mà là “bác” như nông dân vùng
này vẫn thường gọi nhau: bác Đỏ, anh Cò…
Nông dân chấp nhận nhà bác học nói giọng Nam Bộ như một người thân
thuộc bà con lối xóm của mình. Lương Định Của là một người thẳng tính.
Mới về huyện Thọ Xuân, dạo quanh một vòng quan sát đồng ruộng nơi cạn
nơi úng, ông nói với Bí thư Huyện ủy: “Cánh đồng của anh như cái nồi đất
thủng, nấu cơm không chín đâu”.
Ông chủ trương bắt đầu từ việc xây dựng đồng ruộng, làm bờ vùng bờ
thửa. Hợp tác xã được chọn làm điểm chỉ đạo. Đông Phương Hồng vốn là một
đơn vị làm ăn căn cơ, nhiều lần được báo chí nêu gương. Chủ nhiệm am
hiểu kỹ thuật, báo cáo hay, “nói như viết trên báo”. Năng suất lúa đạt
ba tấn/ha mỗi vụ – một mức khá cao thời ấy. Song chỉ cần làm một việc
cực kỳ giản đơn là lấy tổng sản lượng thóc chia cho diện tích cấy trồng
thì năng suất bình quân không đúng như lời chủ nhiệm báo cáo.
Lương Định Của đập bàn: “Anh nói dối. Báo cáo không đúng sự thật. Thế
này không chỉ đạo được. Anh làm ăn vậy thì tôi thà đi nơi khác còn
hơn”. Tuy vậy chẳng mấy chốc đoàn chỉ đạo và cán bộ hợp tác xã thân
thiết với nhau. Đông Phương Hồng nổi bật lên như một điểm sáng thật sự.
Toàn huyện Thọ Xuân cũng đạt kết quả khá nhờ xây dựng đồng ruộng, làm
thủy lợi, cải tiến đồng bộ kỹ thuật, tạo điều kiện đưa các giống mới vào
cơ cấu cây trồng.
Năm sau, Bộ Nông nghiệp tăng cường cho đoàn mười lăm kỹ sư mới tốt
nghiệp, để bác Của cấy về các huyện khác trong tỉnh Thanh Hóa, nhân
phong trào lên. Một chủ nhiệm hợp tác xã của huyện Thọ Xuân, Trịnh Xuân
Bái, được tôn vinh Anh hùng Lao động hình như trước cả Lương Định Của và
nhiều Anh hùng Lao động lừng lẫy khác.”
“Lúc gánh xiếc Đông Phương Hồng mới về, lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa chưa
tiếp xúc ngay. Bí thư Tỉnh ủy Ngô Thuyền lặng lẽ cử cán bộ quan sát cung
cách làm ăn của đoàn chỉ đạo. Một tháng sau, ông cho mời bác sĩ Lương
Định Của về cơ quan, tiếp đón trọng thể, và chỉ thị cho văn phòng, mỗi
lần bác Của có việc ghé thị xã thì mời vào nghỉ tại nhà khách của Tỉnh
ủy (hồi ấy gọi là Nhà giao tế), và được mua thêm thuốc lá Điện Biên
ngoài tiêu chuẩn… Trong hoàn cảnh đầu những năm sáu mươi thế kỷ trước,
như vậy đã là một sự ưu ái.
Lương Định Của thành công trong việc vận động cấy lúa có chăng dây
cho thẳng hàng và cầm ngửa tay bó mạ. Đó là phương pháp ông học của Nhật
Bản và đã từng được áp dụng rộng rãi ở Triều Tiên. Cấy theo cách này
thì cây mạ cắm nông, chóng bén rễ, lại bảo đảm mật độ quy định để đạt
năng suất mong muốn cho từng loại ruộng. Mặt khác, cấy chăng dây thẳng
hàng buộc phải làm đất kỹ, và có thể dùng bừa cỏ cải tiến để làm cỏ sục
bùn – cũng là những yếu tố đạt sản lượng cao.
Nhưng ông là một người – cũng như hầu hết các nhà nông học tên tuổi
và cán bộ chỉ đạo nông nghiệp của ta thời ấy – cực lực phản đối việc
“thâm canh” bằng cách cấy lúa dồn, ken cây lúa thật dày, dày tới mức trẻ
con có thể đứng lên trên ngọn các bông khi lúa chín. Phương pháp “tăng
năng suất” này khởi thủy từ phong trào đại nhảy vọt ở Trung Quốc, được
một số người truyền bá vào và khuyến khích áp dụng tại nước ta. Có người
quát: “Sáu trăm triệu nhân dân Trung Hoa làm được, tại sao ta không
làm”. Lương Định Của bình tĩnh trả lời: “Thưa, tôi đã có làm thí nghiệm.
Kết quả: không được”.
Lương Định Của trước sau là một nhà di truyền học, một người tạo
giống. Ông đạt nhiều thành tựu trong lĩnh vực ấy. Vì được giao trách
nhiệm chỉ đạo cơ sở, ông buộc phải đánh lấn sang các sân khác. Cùng với
tác phong đi sát thực tế, phương pháp suy luận khoa học giúp ông
nhiều.cũng vào dạo ấy, có một cuộc họp các nhà quản lý nông nghiệp và
nhà khoa học đầu đàn tại nhà riêng Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, phố Lý
Nam Đế. Nội dung: bàn và quyết định về chiếc cào cỏ cải tiến, để cho sản
xuất hàng loạt. Đấy là chiếc cào răng sắt có trục quay đẩy hoặc kéo
trên mặt ruộng mềm, vừa làm cỏ vừa sục bùn, bàn cào rộng vừa đủ để chạy
giữa hai hàng lúa. Dùng công cụ này thì đỡ cho chị em nhà nông phải khom
lưng cào cỏ sục bùn bằng tay, bán mặt cho đất bán lưng cho trời.
Thật ra công cụ này đã được dùng phổ biến ở nước ngoài. Có hai loại.
Loại một bàn tra cán dài cho người đứng thẳng đẩy bằng tay. Loại gắn
nhiều bàn thì cho bò kéo. Một nhà khoa học nổi tiếng chủ trương áp dụng
loại cào bò kéo, năng suất lao động sẽ cao, đáp ứng đúng yêu cầu của đất
nước chuẩn bị bước vào chiến tranh.
Lương Định Của đề nghị nên dùng cào đơn, người đẩy, cho gọn nhẹ. Đại
tướng Nguyễn Chí Thanh ngồi yên, đầu hơi cúi vừa chăm chú nghe vừa rít
thuốc lá, thỉnh thoảng gật gù tán thưởng. Các nhà khoa học lần lượt
trình bày xong, ông ngửng đầu dụi tắt điếu thuốc lá hút dở: “Tôi tán
thành ý kiến của anh Của. Dùng loại bừa do bò kéo đúng là sẽ đạt năng
suất lao động cao. Nhưng ta lấy đâu ra bò mà kéo?”.
LƯƠNG ĐỊNH CỦA CHÍNH KHÁCH GIỮA LÒNG DÂN
Giáo sư Lương Định Của rất ít ảnh để lại, hình ảnh của ông là ở trong
lòng dân. Ông là chính khách giữa lòng dân thật giản dị và chân thực.
Bức ảnh trên đây từ Giáo sư Bùi Trọng Liễu khi ông ở Pháp về năm 1970
đến thăm Viện Cây Lương thực và Cây Thực phẩm tại Tứ Lộc Hải Dương hai
năm sau ngày Viện được thành lập. Ngắm ảnh Giáo sư Viện trưởng Lương
Định Của gầy gò, mặt rạng ngời, áo sơ mi phong phanh, tay áo xắn cao,
tiếp chuyên gia nổi tiếng từ nước ngoài về một cách vui vẻ, thoải mái
trong căn nhà lá thấy rõ cửa sổ tre đang chống lên, chúng ta hiểu thêm
một ít về Thầy.
Hồi ký của bà Nobuko Luồng gió từ Hà Nội có in hình giáo sư Lương
Định Của và Thủ tướng Phạm Văn Đồng đang lội ruộng xem cây trồng vào lúc
chiến tranh đang khốc liệt. Như tất cả các gia đình cán bộ lúc đó, nhà
bà phải ly tán đi làm nhiệm vụ: giáo sư làm việc ở Gia Lộc, Hải Dương;
các con lớn gửi vào trường học sinh miền Nam; bà cùng cơ quan sơ tán về
gần chùa Thầy, Quốc Oai. Bà cũng là phát thanh viên tiếng Nhật của đài
Tiếng nói Việt Nam và vinh dự là người đọc bản tin loan báo chiến thắng
lịch sử 30.4.1975.
Nhà báo Phan Quang đã tái hiện chân thực cuộc sống đời thường của nhà
bác học nông dân trong phần 2 của bài “Kỷ niệm đời thường về nhà khoa
học Lương Định Của”:
“Tập kết ra Bắc, tiến sĩ nông học Lương Định Của được phân về nhận
việc tại Học viện Nông Lâm, đóng ở Gia Lâm. Là một nhà di truyền học nổi
tiếng, ông được phân công phụ trách nghiên cứu và ứng dụng lai tạo
giống. Ít lâu sau, Học viện tách làm đôi: Trường Đại học Nông Lâm, vẫn
đóng ở địa điểm cũ, và Viện Khoa học Nông nghiệp chuyển sang bên này
sông Hồng, xây dựng hoàn toàn mới ở Văn Điển.
Năm 1960, ông được bầu làm Đại biểu Quốc hội tỉnh Hải Dương, khóa II,
và được bầu lại liên tiếp ba khóa nữa, cho đến khi qua đời. Lương Định
Của về Viện. Bà Của – tên con gái là Nakamura Nobuto, thuộc một gia đình
quý tộc phá sản vì chiến tranh – giúp việc ông trong việc lai tạo
giống, hưởng lương nhân viên bốn mươi đồng một tháng.
Ông mang từ Nhật Bản về hai con trai sinh bên ấy. Về nước lại đẻ thêm
hai đứa nữa. Vào lúc đó có chủ trương giảm biên chế. Bà Của làm công
tác khoa học mà chưa có bằng đại học chuyên ngành, theo chính sách
chung, đưa ra ngoài biên chế.
Cả nhà sáu miệng ăn, trông vào lương ông Viện phó, cho dù đã được ưu
ái xếp tận trần thì bậc lương cao nhất của Phó Viện trưởng cũng không
thể vượt quá một trăm năm mươi lăm đồng. Cộng thêm năm đồng phụ cấp ưu
đãi gì đó nữa, tổng cộng mỗi tháng lĩnh tròn một trăm sáu mươi đồng. Với
sự chuẩn xác của nhà khoa học, bác sĩ Của ghi vào tờ khai thu nhập bình
quân gia đình: Hai mươi sáu phẩy sáu đồng.
Một ngày chủ nhật, Thủ tướng Phạm Văn Đồng về thăm Viện, xem giống
lúa, vườn cây, đồng rau, chuồng gia súc, thí nghiệm… Phó Viện trưởng
Lương Định Của hướng dẫn Thủ tướng. Đang đi trong Viện thì xe thủng lốp.
Người lái xe xin Thủ tướng mười phút thay lốp xơcua. Anh Tô (*) nói:
“Ta vào thăm nhà anh Của đi”.
Lương Định Của vội chạy về trước. Gia đình ông được cơ quan phân cho
một ngôi nhà cấp bốn ba gian, mái lợp tranh. Trên bếp lò còn chảo cơm
rang buổi sáng ăn dở, ông vội vàng lấy chiếc lồng bàn úp lại. Rồi vơ
cuộn vội đống chăn lũ trẻ ngủ dậy muộn chưa kịp gấp, vứt bừa bãi. Các
chăn bông không còn vỏ bọc, vì chỉ đủ tiền mua những cái cốt dày chống
rét miền Bắc thôi. Bà Của sửa sang áo tóc, đứng ra bên cửa cúi mình rất
thấp rước Thủ tướng vào nhà.
Anh Tô liếc nhìn cuộn chăn bông không có vỏ và chiếc lồng bàn úp luôn
trên bếp lò, cảm ơn song không bước qua cửa mà thoái thác “Tôi muốn xem
mấy cây táo”. Quả là trong vườn gia đình có trồng ba cây táo tạo dáng
đẹp và rất sai quả, táo ta mà quả nào quả nấy to gần bằng trứng gà. Bác
sĩ Lương Định Của nổi tiếng về mấy cây ăn trái này. Bà con hàng xóm đồn
ông Của có mang hóa chất đặc biệt từ Nhật về, cho nên cây nào ông trồng
cũng sai quả và quả to đến thế. Đấy, xem như rau muống là thứ phổ thông
nhất, ông cho hóa chất vào, cọng rau cứ to tày thân cây sậy; rau muống
ông Của chẳng đang phủ kín đồng, dùng làm thức ăn cho lợn là gì.
Trả lời Thủ tướng hỏi giống táo gì đây, bác sĩ Lương Định Của đáp:
“Thưa, táo Thiện Phiến, Hưng Yên đấy ạ”. Nhiều người cho là ông Của
không nói thật. Ngay trên Bộ Nông nghiệp cũng có ý kiến xì xầm tay Của
giỏi giấu nghề. Lương Định Của bực lắm. Ông nói: “Báo cáo Thủ tướng mà
dám nói sai, tôi không sợ vào tù sao?”.
Quả thật, đấy đúng là giống táo Thiện Phiến. Ông Của nhờ bạn là
Trưởng Ty Nông nghiệp Hưng Yên chiết cho ba cành, ông mang về trồng
trong vườn cho lũ trẻ có thêm vitamin; gia đình làm gì đủ tiền mua trái
cây như thời bên Nhật Bản hoặc ở thành phố Sài Gòn. Cái quan trọng, ông
nói, là biết chăm sóc và tạo dáng. Tỉa cành. Vặt bớt những quả bé đi. Và
dạy cho lũ trẻ con, phải chờ cho quả thật chín mới được hái, không được
bứt phá khi quả còn xanh.
Thủ tướng đến thăm cữ giáp Tết, đúng vào mùa thu hoạch, cho nên ba
cây táo trong vườn nhà ông mới đẹp đến vậy. Chia tay ra về, Thủ tướng
Phạm Văn Đồng vỗ vai nhà nông học: “Anh Của à, anh làm nghiên cứu,
thường xuyên đi với nông dân, tác phong giản dị là tốt. Nhưng nông dân
ta không bẩn đâu nhé. Nhà anh bẩn lắm!”.
Và người đứng đầu Chính phủ kết thúc câu nói bằng một tràng cười sang
sảng quen thuộc. Lương Định Của đưa tay gãi cái trán đã bắt đầu hói,
khẽ “dạ”. Từ bấy trở đi, mỗi kỳ lễ tết, anh Tô lại gửi cho cái phong bì
một trăm rưởi, hai trăm đồng. Phó Thủ tướng Phạm Hùng chỉ thị chuyển bà
Nakabura Nobuto, mà từ lâu rồi mọi người chỉ biết gọi là bà Của về làm
việc ở Ban tiếng Nhật Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, hưởng lương cán
bộ.
Chưa bao giờ ai nghe Lương Định Của có một lời phàn nàn về cuộc sống.
Ông chỉ buồn về những trục trặc nhỏ trong quan hệ bạn bè, đồng nghiệp.
Nỗi day dứt của ông là không đủ tiền đặt mua tạp chí khoa học của nước
ngoài. Đúng vào dịp này, ông viết sơ yếu lý lịch cá nhân, mục “GIA ĐÌNH –
Vợ người Nhật Bản. Có bốn con. Đứa lớn học trường miền Nam số 25, lớp
năm. Đứa kế học trường ở Văn Điển, lớp ba. Lương hàng tháng đủ sống,
không rách rưới, thiếu thốn gì. Ở Sài Gòn còn ba em, hai gái, một trai.
Đứa em gái lớn chưa có chồng, đứa em kế đó chồng đi tập kết có hai con,
thằng em út thì làm sĩ quan trong quân đội Sài Gòn”.
Thời chống chiến tranh phá hoại, xã hội thiếu thốn nhiều thứ, Lương
Định Của quan tâm vấn đề dinh dưỡng cho mình cũng như cho đồng sự bạn
bè, nhưng ông là người sống điều độ. Ngay đến khi lớn tuổi, ông vẫn giữ
được dáng người thanh thoát, chỉ có cái trán là mỗi ngày mỗi hói và bóng
hơn. Thỉnh thoảng ông có nhấm nháp vài chén hạt mít rượu ngang cùng các
Bí thư huyện hoặc cánh nhà báo song để vui là chính. Một vại bia hơi đủ
làm mặt ông ửng đỏ.
Có lần ông mang rượu thuốc ra mời anh em: “Anh Nguyễn Tạo (Tổng cục
trưởng Lâm nghiệp) vừa gửi cho cái lộc nhung. Tôi nhờ ông Phùng mua cho
một vò Phú Lộc, các anh tha hồ uống”. Ít lâu sau gặp lại thấy bữa ăn
suông, tôi hỏi vui: “Hết rượu lâm nghiệp rồi sao:”. Ông đáp: “Hết thế
nào được. Tôi cho mang lên Hà Nội. Sợ để ở Viện đêm ngồi đọc sách một
mình, buồn lại mang ra uống thì chết. Rượu bổ, uống nhiều có hại”.
Lần nhà tôi sinh cháu thứ hai, tôi đi công tác xa. Một hôm bà thấy có
tiếng gõ cửa. Xuất hiện một người quen quen mang cho hai quả đu đủ chín
và mấy chai cà chua nghiền: “Chị dùng quả đu đủ, nhiều sữa cho cháu.
Còn thứ purée này làm từ cà chua, tự tay tôi chế biến. Chị cho cháu lớn
phết với bánh mì ăn sáng trước khi đi học, người Nhật vẫn dùng món này
lắm…”. – Xin lỗi, anh là… Ông gãi cái trán hói: “Tôi là Của, Lương Định
Của…”.
Dạo ấy đồng bằng Bắc Bộ mở rộng việc trồng cà chua vào vụ đông. Được
mùa, cà chua tươi không xuất khẩu được, dân bày ra bán từng đống đỏ rực
hai bên đường 5, thật là trên trời dưới cà chua. Ông Của từng bày cho
chúng tôi cách làm bột cà chua nghiền để dành ăn dần. Chừng này quả,
ngần này đường kính, ngần này muối, ngần này tỏi, vô trùng dụng cụ thế
này, cho vào lọ, phủ lớp dầu ăn mỏng lên trên để lâu không bị nấm mốc…
Anh em nể ông, chăm chú nghe, có người còn ghi chép, song rắc rối quá
chẳng ai thực hành.
Một chiều, tan giờ làm việc, anh Hoàng Tùng, Tổng biên tập báo Nhân
Dân tự dưng nảy ý, bảo tôi: “Tối nay ta đến thăm ông Của đi”. Nhà ông ở
khu tập thể Kim Liên. Con đường chạy qua trước nhà ông thời ấy nay mang
tên phố Lương Định Của, nó băng qua đường Phạm Ngọc Thạch để nối liền
phố Đặng Văn Ngữ.
Hồi mới được phân căn hộ ở đây, ông vui mừng khoe với bạn bè. “Mình ở
tầng trên cùng. Thành ra tận dụng được cái trần, làm nơi tạm chứa
sách”. Thời chiến tranh, điện đóm phập phù, đường trong khu tập thể tối
mò, tối nhất là các cầu thang. Nhà ông không có điện thọai, không thể
báo trước.
Anh Hoàng Tùng theo tôi mò mẫm lên tầng năm. Lương Định Của ra mở cửa, hơi lộ vẻ ngạc nhiên song niềm nở mời vào.
Nơi tiếp khách của ông chỉ có mỗi cái bàn và bốn ghế gỗ rẻ tiền cấp
theo tiêu chuẩn. Chiếc đèn bão không đủ sáng. Trên bàn, ngổn ngang vỏ
bưởi: nhà nông học đang bóc trái cây mời vợ. Các cháu đều theo trường
học nơi sơ tán. Lương Định Của lúng túng gạt tất cả những thứ trên bàn
xuống cái chậu, nói với anh Hoàng Tùng: “Ăn bưởi còn tốt hơn ăn cam”.
Trong múi bưởi có nhiều chất sắt”.
Tôi nghe nói, chính vì nhà không có điện thoại riêng, một tối cuối
tuần ông có triệu chứng nhồi máu cơ tim, không thể gọi xe cấp cứu, khi
đưa ông vào bệnh viện Bạch Mai thì đã quá muộn, mặc dù nơi ông ở chỉ
cách nhà thương có một quãng đường.”
Theo Dương Đình Tường, báo Nông nghiệp Việt Nam trong bài viết: “GS
Lương Định Của đã chết vì hóc xương?” thì giáo sư Lương Đình Của mất là
do nhồi máu cơ tim mà không phải đã chết vì hóc xương hoặc do máy bay
rơi như một số lời đồn. Tư liệu ghi theo lời kể của ông Nguyễn Quốc Tuấn
và ông Trần Quý Lộc, cán bộ Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm .
“Năm 1975, Thủ tướng cử chuyên gia đầu ngành về cây lúa là Lương Định
Của sang giúp Cu Ba. Trở về sau chuyến đi, ông tham gia họp Quốc hội
khóa thống nhất đầu tiên của đất nước. Những ngày khác ông Tôn Đức Thắng
thường chiêu đãi mọi người cơm nhưng hôm đó lại chiêu đãi bánh kẹo. Ông
Của chia gói bánh của mình làm đôi, nửa cho ông Nguyễn Hoài Bắc nửa
mang về nhà….Tối đó, bà Của làm cơm, có rán nem để chồng nhắm rượu. Bữa
rượu tại nhà đó uống xong ông chẳng may phải cảm, thấy khó thở nên dậy
tập khí công. Ba người phụ nữ trong nhà là bà Của và hai cô con dâu đang
bụng mang dạ chửa tính gọi xe cấp cứu nhưng ông can: “Rồi cuối cùng sẽ
qua thôi”. Từ 8 giờ tối đến 11 giờ tối, tình hình mỗi lúc một trầm
trọng. Chiếc com măng ca khi ấy của Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm
đang để ở gara của Viện Thú y, lái xe thì chẳng biết ở đâu vì điện
thoại không có. Khó thở quá nên ông Của nôn khan. Thức ăn từ thực quản
trào vào khí quản. Gần như ông đã tắc thở từ ở nhà. Sau khi giải phẩu tử
thi, mổ sọ ra không thấy có gì bất thường, mổ tim ra thấy có cục máu
đông bằng hạt tấm ở động mạch.
Nhà nông học Lương Định Của ra đi khi mới 55 tuổi để lại dở dang ước
mơ đưa nông dân Việt bắt nhịp cùng nông dân Nhật. … Sáng 28/12/1975, Đài
Tiếng nói Việt Nam thông báo trước quốc dân, đồng bào tin nhà khoa học
Lương Định Của đã ra đi…
Trước ngày ra đi đột ngột đó, ông đã rất thành công với giống lúa
xuân sớm được đặt tên là Nông nghiệp 75-1 chịu được cái rét cắt da, cắt
thịt ở miền Bắc và có năng suất cao. Năm 1978, sau đúng ba năm ngày mất
của GS Lương Định Của, giống lúa này đã chính thức được công nhận, cấp
bằng sáng chế.”
Lương Định Của, chính khách giữa lòng dân. Tôi nhớ lời Giáo sư Trần
Văn Giàu nói với TS. Quách Thu Nguyệt trong bài “Những bài học nhỏ từ
người thầy lớn” : ” Học sử là để biết và không quên cội nguồn. Người làm
sử phải chép lại quá khứ bằng sự thật một cách khách quan, khoa học” .
Có nhiều chính khách đi qua đời tôi. Lương Định Của lắng đọng trong tôi
một nhân cách, một người thầy lớn.
THẦY BẠN VÀ HỌC TRÒ LƯƠNG ĐỊNH CỦA
Thầy bạn và học trò của nhà bác học nông dân Lương Định Của là những
ai? Giáo sư Lương Định Của mất năm 1975 nên đó vẫn còn là một câu hỏi
lớn.
Thầy hướng dẫn luận án tiến sĩ của Lương Định Của là Giáo sư Kinhara,
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Sinh học Kinhara, Trường Đại học Kyoto. Báo
Mainichi Shimbun số ra ngày 26 tháng 5 năm Chiêu Hòa thứ 26 năm 1951
đăng chân dung lớn của nhà khoa học trẻ ba mươi mốt tuổi Lương Định Của
là người Việt Nam đầu tiên được cấp bằng bác sĩ nông học của Nhật.
Ai là người ảnh hưởng lớn đến nhà bác học tài năng dấn thân trọn đời
mình cho đại nghĩa dân tộc? Trong cuốn hồi ký Luồng gió từ Hà Nội bằng
tiếng Nhật của bà Nubuko có in hình giáo sư Lương Định Của và Thủ tướng
Phạm Văn Đồng đang lội ruộng xem cây trồng vào lúc chiến tranh đang khốc
liệt. và bà nói rằng ông về nước theo lời gọi của Bác Hồ cùng với các
trí thức lớn như Trần Đại Nghĩa, Đặng Văn Ngữ, Trần Hữu Tước… Theo nhà
báo Phan Quang: “Khá lâu về sau, khi được Nhà nước ta phong Anh hùng Lao
động, Lương Định Của xúc động thì thầm với tôi: “Anh có biết vinh dự
lớn nhất của đời tôi là gì không? Ấy là việc ngày tôi được cấp bằng bác
sĩ nông học trùng với kỷ niệm ngày sinh Bác Hồ: 19-5-1951. Mười Chín
tháng Năm. Một sự trùng hợp vô cùng lý thú, có đúng không?”.
Niềm tin và nghị lực dấn thân đi theo Bác Hồ chắc chắn đó là động lực
lớn của vợ chồng nhà bác học tài năng Lương Định Của. Thủ tướng Phạm
Văn Đồng, cố Chủ tịch Nước Phạm Hùng rõ ràng là những người bạn lớn của
Lương Đình Của đã phát hiện, nâng đỡ, trọng dụng đúng tài năng và tâm
huyết của ông.
Tại bài viết “Đu đủ và bưởi”, nhà báo Phan Quang kể chuyện: “Thời
gian làm việc tại Viện Cây Lương thực và Cây Thực phẩm, Lương Định Của
có hai người bạn thân. Bí thư Huyện ủy Gia Lộc Lê Văn Đởm và Bí thư
Huyện ủy Cẩm Giàng Nguyễn Phùng – ông Phùng ít lâu sau được điều chuyển
lên tỉnh nhận nhiệm vụ Trưởng Ty Nông nghiệp. Hai ông bí thư – cũng như
Lương Định Của, nay đã thành người thiên cổ – đều trưởng thành từ cơ sở
lên, đặc nông dân, tiếng mỗi người đứng đầu một huyệt mà nhà vẫn rất
nghèo.
Một anh bạn nhà báo có lần nói với tôi: “Quái, ông Của là nhà đại trí
thức, mà xem ra chơi thân thật sự với hai tay đặc nông dân. Mà ý chừng
ông ấy tâm đắc với tay Phùng Sơn. Viện đóng ở Gia Lộc, tối nào rảnh rỗi,
ông Của lại sang Cẩm Giàng uống rượu Phú Lộc cùng Nguyễn Phùng. Ngồi
với Lê Văn Đởm chỉ thấy hai ông bàn công việc”. Riêng tôi có hiểu phần
nào.
Ông Đởm người cao lớn, đường bệ, đi đứng hơi chậm chạp. Ông Phùng tầm
vóc nhỏ hơn, rắn rỏi, da săn, nói năng cởi mở, ham kỹ thuật mới và có
điểm khác với ông Đởm là không biết (hoặc biết mà không thích) đánh tổ
tôm. Một lần ông Của nói vui: “Mình nghiệm phần lớn những anh nào người
quá béo tốt đều lười biếng. Thân thể nặng nề thì làm sao hoạt bát? Xem
ông Đởm đấy, xong việc là đánh tổ tôm, tôi đưa cho bao nhiêu sách tối có
buồn đọc đâu, chỉ đạo toàn bằng vốn cổ kinh nghiệm. Ông Phùng có vẻ
chịu khó mầy mò học hỏi hơn”.
Một lần ăn cơm tối với nhau, Nguyễn Phùng giả vờ cà khịa: “Ông có
biết cầm ống tiêm đâu mà gọi là bác sĩ…”. Tôi phụ họa: “Cái ngành nông
nghiệp các anh đến là rắc rối. Thời Tây, cùng là kỹ sư như nhau lại phân
thành kỹ sư nông nghiệp và kỹ sư nông học. Nay ngành nào người ta cũng
gọi thống nhất cử nhân, phó tiến sĩ, tiến sĩ, giáo sư. Riêng anh thì cứ
khăng khăng bảo mình là bác sĩ…”.
Lương Định Của không giận. Ông hiểu vì sao chúng tôi đề cập chuyện
ấy. Nhà bác học là người không giỏi khoa ngôn từ. Trong nhóm nhỏ thân
mật, ông chuyện trò rất hay, những vấn đề kỹ thuật rắc rối nhất cũng
được ông giảng giải tường tận, phù hợp với trình độ người đối thoại.
Nhưng cũng vấn đề ấy, mời ông lên thuyết trình tại hội nghị, có khi đã
chuẩn bị kỹ nhưng trình bày lại không hấp dẫn, không mấy thuyết phục
người nghe. Chúng tôi nhiều lần mời ông viết bài cho báo. Ông nhận lời,
thì phải chờ nhiều hôm sau mới có bài. Bài ông ngắn gọn, nhìn bản thảo
thấy những hàng chữ đều đặn viết bằng bút mực xanh, chữ hơi nghiêng về
phía trái, biết là ông đã tự tay chép lại. Bởi vậy, chớ nên dại dột động
bút chữa bài ông Của.
Một lần, anh biên tập viên có sửa đổi vài từ, và tiện tay xóa từ bác
trong bác sĩ đi, thay vào từ tiến – “gọi chung là tiến sĩ cho nó nhất
quán trên mặt báo”, lý lẽ của anh giản đơn như vậy. Lương Định Của hết
sức phật ý: “Các anh chẳng hiểu cái gì”. Đó là câu trách móc nặng nề của
ông. Lần này ông từ tốn nói: “Bác sĩ là học vị cao nhất bên Nhật Bản.
(Ông nhúng ngón tay vào cốc nước, viết hai từ bác sĩ bằng chữ Hán ra bàn
ăn).
“Nhà nước người ta phong cho tôi như vậy thì suốt đời tôi giữ nguyên như vậy, không hơn không kém”.
Bà Nubuko kể chuyện tình bạn với nhiều người, trong đó có mẹ con nghệ
sĩ Đặng Thái Sơn và rất nhiều người khác. Bà đi du lịch khắp Việt Nam,
về quê chồng ở Long Phú, Sóc Trăng, họp đồng hương ở Sài Gòn, về tận nhà
người nông dân nghèo ngày xưa bà ở trọ lúc sơ tán.
Tiến sĩ Lê Hưng Quốc, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thương mại Giống Cây
trồng đã xúc động viết “Lớp sinh viên đại học của chúng tôi khi ấy mới
ra trường được tắm mình trong thực tiễn sản xuất, học các thao tác kĩ
thuật trực tiếp ở Viện Lúa Tứ Lộc, các HTX nông nghiệp… đó là những
trường học của những kĩ sư, kĩ thuật viên nông nghiệp trẻ tuổi. Thế hệ
ấy sau này nhiều người đã trưởng thành những nhà khoa học có đóng góp
xứng đáng như lớp thế hệ của PGS.TS Anh hùng Lao động Nguyễn Thị Trâm…
Nhiều lớp cán bộ nông nghiệp do Giáo sư đào tạo đã trở thành những cán
bộ đầu đàn trong nhiều lĩnh vực khoa học nông nghiệp. Giáo sư có nhiều
thế hệ hoc trò xuất sắc.”
GSTS. Anh hùng Lao động Nguyễn Văn Luật trong bài Thầy Lương Định Của
và tính tình Người Nam Bộ đã ca ngợi : “Cách đây 3-4 thập kỷ, hồi ở
miền Bắc, thầy Của ở miền Bắc lai tạo được nhiều giống lúa mới được nông
dân ưa chuộng như Nông nghiệp 1, Chiêm trăng, Đoàn kết … Gần đây, tỉnh
Sóc Trăng quê hương của thầy Của lại sản sinh những con người chọn tạo
ra nhiều giống lúa rất ấn tượng, mặc dầu chưa bao giờ được gặp, được thọ
giáo tiền bối Lương Định Của. Đấy là nhóm chọn tạo giống lúa do KS Hồ
Quang Cua đứng đầu. Đến nay nhóm này đã chọn tạo tới 22 giống ST, trong
đó có nhiều giống như ST3, ST5 .. khá phổ biến, những giống ST đỏ từ lai
tạo giữa giống gạo đỏ địa phương với giống năng suất cao rồi chọn ra
dòng gạo đỏ vừa năng suất cao, vừa có mùi thơm lá dứa. Chân thành và
khẳng khái trong cuộc sống, sáng tạo trong lao động chân tay và trí óc,
nhân ái trong giao tiếp, độ lượng trong ứng xử xã hội, dũng cảm trong
chống ngoại xâm, hòa nhập với cộng đồng và thân thiện với cây cỏ sông
nước là những phẩm chất rất quý của con người Nam Bộ cả xưa và nay.”
ÔNG BÀ CỦA CỔ TÍCH GIỮA ĐỜI THƯỜNG
Cách đây mấy hôm, anh Lương Hồng Việt vừa cùng với vợ chồng thầy Trần
Như Nguyện và Trần Thị Nữ Thanh ghé lên thăm chúng tôi ở Trung tâm
Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc ở Trảng Bom, Đồng Nai. Anh
Việt ghé nhà anh chị Đào Đức Miên và anh chị Trần Quang Khuông những
công nhân, kỹ sư “quân” bác Của thời Tứ Lộc, Hải Dương. Chúng tôi cùng
ăn cháo gà và kể chuyện những ngày gian khổ. Câu chuyện rôm rã lại quay
trở về chuyện ông bà Của, cổ tích giữa đời thường.
Ai cũng nói thời ấy cực mà vui. Vợ chồng ông bà Của chịu đựng khổ cực
giỏi và thực sự gầy dựng được một lớp kỹ sư thực hành vừa tâm huyết vừa
tài năng thực sự có ích cho xã hội.
Ví như kỹ sư Trần Minh Chánh học trò bác Của, nguyên Trưởng trại
Giống lúa Ma Lâm Bình Thuận (Thuận Hải cũ), từ năm 1981 đến năm 2004, đã
nghiên cứu lai tạo, tuyển chọn được trên 35 giống lúa như TH5, TH6,
ML24, ML48, ML49… Trong đó có nhiều giống được Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn công nhận giống quốc gia như TH6, TH28, ML4, ML202 hoặc
công nhận giống sản xuất thử như: TH41, ML29, ML48, ML107, ML214, suốt
miền Trung ai cũng ngợi khen.
Ví như kỹ sư Nguyễn Văn Loãn quân bác Của cán bộ Viện Lúa Đồng Bằng
Sông Cửu Long tác giả chính của các giống lúa chủ lực và triển vọng của
Nam Bộ giai đoạn 2004-2010 như OMCS 2000, OM 3536 (OMCS 21), OM 2517.
Ví như kỹ sư Phan Hùng Diêu, anh hùng lao động, v.v… và biết bao
gương khác. Ông bà Của sống phúc hậu gắn bó máu thịt với những lớp người
đó, cùng chia sẽ khó khăn gian khổ và ông bà Của là tấm gương mẫu mực
đời thường.
Nhà báo Phạm Vũ trong bài Người vợ Nhật của Lương Định Của đã viết:
Bà Nobuko bảo câu ngạn ngữ Nhật Bản mà bà thích nhất là “Ngày mai sẽ
thổi cơn gió riêng của nó”, tương ứng với câu “Sau cơn mưa trời lại
sáng” của Việt Nam. Lạc quan vậy nên bà cứ cười hoài khi xua tay giải
thích: “Mọi người bảo Nhật Bản là một nước phát triển, giàu có, còn Việt
Nam thì nghèo, thời tôi đến lại còn có chiến tranh, sợ tôi vất vả.
Nhưng mà không phải vậy đâu. Tôi có vất vả mấy cũng không bằng người
nông dân Việt Nam, sáng sớm đã phải ra đồng, ngâm chân xuống bùn lạnh
buốt, ăn uống thì cực khổ. Người Việt Nam lại luôn giúp đỡ tôi. Bên cạnh
tôi còn có anh Của, có các con”.
Câu chuyện của bà tràn ngập hình ảnh về ông Lương Định Của, thật khác
với những gì người ta thường hình dung về ông giáo sư, viện trưởng đạo
mạo, tác giả của những giống lúa năng suất cao, cây ăn trái nổi tiếng.
“Anh Của” của bà dí dỏm, dễ gần, luôn đắm trong tình yêu với khoa học và
lý tưởng về một xã hội chỉ có những điều tốt đẹp. Người Nhật trọng lễ
nghi, phép tắc, đôi khi quá lịch sự mà trở thành xã giao, vậy nhưng
chàng thanh niên Lương Định Của lại đến gặp cô gái làm việc trong phòng
thí nghiệm trường mình rồi đưa ra một gói giấy: “Xin nhờ chị Nobuko may
giúp tôi một cái áo sơmi”. Lần đầu tiên được Nobuko đưa đến nhà mình để
nhờ mua giúp lương thực đang rất khan hiếm trong thời điểm chiến tranh,
“anh Của” đã ngọt ngào gọi “Cha ơi! Mẹ ơi!” trước sự ngỡ ngàng của cha
mẹ Nobuko. Bà Nobuko hôm nay cười thật tươi: “Sau này đến Việt Nam, tôi
mới biết người miền Nam có tập quán xưng hô thân mật như thế. Nghe anh
gọi “mẹ”, mẹ tôi thích lắm, và vì thế mà sau đó ít lâu bà đồng ý gả con
gái cho anh sinh viên ấy. Bà còn tự tay đi chợ, nấu ăn cho đám cưới”.
Những ngày mùa thu 1945, ngoài niềm vui vì hạnh phúc riêng tư, ông
Lương Định Của còn một niềm vui khác khiến ông như muốn bay lên, đôi mắt
sáng loáng lên khi nói với vợ: “Em Nobuko ơi, Việt Nam đã được độc lập
rồi. Việt Nam không còn là thuộc địa nữa. Từ nay trở đi, anh là người
của nước Việt Nam độc lập, em ạ”. Từ ngày ấy, cơn gió thổi từ Hà Nội đã
len vào tổ ấm nhỏ của đôi vợ chồng trẻ, theo họ từ Fukuoka đến Kyoto,
Tokyo, từ lúc Lương Định Của còn là sinh viên cho đến khi nhận được danh
hiệu bác sĩ nông học danh giá, tạo ra được giống lúa mới hột to, từ khi
Nobuko là một cô gái trẻ cho đến lúc cô đã là một bà mẹ với hai con
trai nhỏ.
Ông Lương Định Của đã say sưa nói với vợ về tương lai mới của đất
nước, về xã hội tốt đẹp, tất cả vì nhân dân mà Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa đang tạo lập. Ông từ chối các cơ hội đi làm nghiên cứu sinh ở
Mỹ, làm việc cho Viện Nghiên cứu lúa gạo thế giới (IRRI) để tìm cách về
nước tham gia kháng chiến. Sau nhiều nỗ lực móc nối, chờ đợi, xoay đường
này cách khác, năm 1952 ông đã đưa cả gia đình về Sài Gòn, và đến năm
1954 cả nhà lại cùng lên một chuyến tàu tập kết ra Bắc.
Từ đấy, bà Nobuko đã biết đến nỗi cực khổ của người nông dân Việt Nam
khi cùng ông Lương Định Của ra khỏi phòng thí nghiệm bước xuống ruộng
làm khoa học thực nghiệm, nuôi con gà, con lợn trong sân nhà; biết đến
tem phiếu, xếp hàng, thiếu trước hụt sau khi phải chăm sóc đàn con; biết
đến hầm trú ẩn, bom đạn rơi sát bên mình trong những năm tháng ở lại Hà
Nội để dịch và đọc những bản tin tiếng Nhật tại Đài Tiếng nói Việt Nam.
Bà đã thay mặt đài viết từng lá thư tay trả lời thính giả Nhật, cảm ơn
những lời động viên trong cuộc chiến tranh tàn khốc, giới thiệu những
món ăn, những điểm du lịch Việt Nam… Tình yêu nước của chồng, những “cơn
gió thổi từ Hà Nội” đã thấm vào bà từ bao giờ. Bà Nobuko lặp lại: “Tôi
sống ở Việt Nam rất dễ chịu. Thời tiết dễ chịu, thức ăn dễ chịu, con
người cũng dễ chịu, và cả cách ăn mặc nữa. Tôi rất thích áo dài, vừa nhẹ
nhàng, vừa đẹp, lịch lãm, lại vừa dễ mặc”.
Tấm ảnh bà mặc áo dài đứng cạnh chồng chụp mấy mươi năm trước, dịu
dàng, nền nã không khác gì một phụ nữ Việt Nam. Cầm tấm ảnh, bà lặng đi:
“Chỉ tiếc anh Của mất sớm quá, mới 55 tuổi”. Đất nước vừa thống nhất,
ông Lương Định Của đã hai lần vào Nam khảo sát để chuẩn bị xây dựng
Trung tâm Nông nghiệp miền Nam. Rồi ông bác sĩ nông học hăng say tính
chuyện trở về quê hương sinh sống, háo hức vì sắp được phát huy khả năng
của mình trên những đồng ruộng mênh mông, màu mỡ của đồng bằng sông Cửu
Long. Tháng 12-1975, ông tham dự kỳ họp thứ hai của Quốc hội khóa V, dự
định kết thúc thì chuyển vào miền Nam nhận công tác. Chỉ còn hai ngày
nữa lên đường, bỗng một đêm ông lên cơn nhồi máu cơ tim.
Hôm ấy là ngày 28-12-1975.
Hồi ký của bà Nobuko viết: “Tôi luôn tin tưởng là tôi hiểu biết về
anh Của nhiều nhất, nhưng chứng kiến cảnh tang lễ, niềm tin này bắt đầu
lung lay. Nhiều đoàn cán bộ cao cấp, nhiều cơ quan đoàn thể, đại biểu
địa phương, những đoàn dài học sinh, sinh viên, hàng trăm người nông dân
đứng xếp hàng trước cổng Bộ Nông Lâm nghiệp… Tôi mới hiểu anh với tư
cách một người chồng, người cha, chứ chưa hiểu hết những đánh giá về mặt
xã hội”.
Trong năm người con của bà, có tới ba người theo cha vào ngành nông
nghiệp. Trong đó, từng tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, phục vụ mười năm
trong quân đội rồi lại tiếp tục theo nông nghiệp, người con trai cả
Lương Hồng Việt bây giờ đã nghỉ hưu, luôn sát vai cùng mẹ Nobuko trên
những nẻo đường: về quê cha ở Sóc Trăng lo phần mộ tổ tiên, về Hà Nội
mỗi năm để trao Giải thưởng Lương Định Của cho những thanh niên nông
thôn xuất sắc, về quê mẹ Nhật Bản để bà vơi nỗi nhớ hoa anh đào…
Nhắc về ông Lương Định Của, bà Nobuko bảo: “Ai cũng nói nếu chúng tôi
vẫn cứ ở Nhật Bản thì sẽ giàu có lắm, sự nghiệp của anh cũng rực rỡ hơn
về khoa học. Nhưng vật chất không làm nên hạnh phúc. Ở lại Nhật Bản thì
anh Của sẽ không thể vui được đâu, vì những “cơn gió thổi từ Hà Nội”.
Tôi đến đây, được làm vợ anh 30 năm, hợp nhau tới từng lời nói, như vậy
là tôi được ở nấc thang trên cùng của hạnh phúc rồi”. Ông Việt cười tiếp
lời: “Nhìn vào câu chuyện cuộc đời của ông bà, lớp con như chúng tôi
thì thấy như huyền thoại, đám cháu thì bảo như cổ tích, không thể có
được. Cả nhà bảo nhau phấn đấu theo ông bà thôi”. Ông bà Của là chuyện
cổ tích sống động giữa đời thường.
Rằm xuân thăm thầy Lương Định Của, chúng tôi bồi hồi nghĩ về con
đường lúa gạo Việt Nam từ vùng lúa Trường Khánh Đại Ngãi Sóc Trăng tỏa
rộng nhiều vùng đất nước. Gạo thơm Sóc Trăng, gạo ngon OM Lúa Giống,
gạo lúa siêu xanh Phú Yên, Đại học Cần Thơ, Lộc Trời An Giang, Bình
Định Quảng Ngãi Quảng Nam, Gia Lai, Huế, Hà Nội, Thái Bình… gắn với tâm
huyết của nhiều thế hệ khoa học xanh đang thầm lặng dâng hiến cho năng
suất và chất lượng của hạt ngọc Việt Nam. Con đường lúa gạo Việt có công
mở đường của nhà bác học nông dân Lương Định Cửa và tấm lòng nhân hậu
của người vợ Nhật đối với quê hương chồng, tình nghĩa biết bao! Chúng ta
đang đi trên con đường đó, lớp này tiếp lớp khác, theo con đường khai
sáng của người Thầy biết dấn thân, biết hiến dâng đời mình cho đại nghĩa
dân tộc, vì tương lai đất nước và xã hội tốt đẹp hơn.
Câu chuyện vinh danh hạt ngọc Việt, hạt gạo làng ta, hạt vàng Việt
Nam có Lương Định Của con đường lúa gạo. Đó là câu chuyện dài về con
đường lúa gạo Việt Nam. Dạy và học không chỉ trao truyền kiến thức mà
thắp lên ngọn lửa! Chừng nào mỗi chúng ta chưa ứa nước mắt thấm hiểu sự
nhọc nhằn của người nông dân một nắng hai sương làm ra hạt gạo. Chừng
nào những giá trị lao động khoa học cao quý, liên tục, âm thầm chưa mang
lại đủ niềm vui cho bữa ăn của người dân nghèo. Chừng đó chúng ta sẽ
còn phải dạy và học cây lương thực. Cái gốc của sự học là học làm người.
Hoàng Kim Giảng viên chính Cây Lương thực Bộ môn Cây Lương thực Rau Hoa Quả, Khoa Nông học, Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh Điện thoại 0903613024; email: hoangkim.vietnam@gmail.com
LỜI CỦA THẦY THEO MÃI BƯỚC EM ĐI Hoàng Kim trước tượng Phan Bội Châu, nhớ thầy cô Nguyễn Khoa Tịnh Trần Diệu Vinh “Thầy truyền cho chúng em niềm tin Đạo làm người, lòng yêu nước. Em càng thấm thía vô cùng. Vì sao những người có tâm huyết ngày xưa. Những Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thiếp, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, … Đều yêu nghề dạy học.”
Thầy thung dung bước lên bục giảng
Buổi học cuối cùng “Tổng kết sử Việt Nam”
Tiếng Thầy ấm trong từng lời nói
Như muốn truyền cho các em
Tất cả những niềm tin.
Đôi mắt sáng lướt nhìn toàn bộ lớp
Thầy có dừng trên khuôn mặt nào không ?
Thầy có tin trong lớp còn ngồi học
Có những em nung nấu chí anh hùng.
Các em hiểu những gì
Trong tim óc người Thầy
Mái tóc đà điểm bạc
Em biết Thầy tâm huyết rất nhiều
Trên mười năm dạy học
Vẫn canh cánh trong lòng
Luôn tìm kiếm những người
Có chí lớn
và tấm lòng yêu nước
thương dân.
Mười năm
Thức đo thời gian
Dài như cả nỗi đau chia cắt
Sương bạc thời gian phôi pha mái tóc
Câu chuyện mười năm Đông Quan dạy học
Hẳn nhiều đêm rồi
Thầy nhớ Ức Trai xưa?
Mười năm
Trang lòng, trang thơ
Nhớ tráng sĩ Đặng Dung đêm thanh mài kiếm
Ôi câu thơ năm nào
giữa lòng Thầy xao xuyến
“Anh hùng lỡ vận ngẫm càng cay”
Mười năm
Dằng dặc thời gian
Đo lòng Thầy nhớ miền Nam tha thiết
Em tin trong lòng Thầy
Luôn âm ỉ cháy lửa lòng yêu nước
Thầy có tin rằng trong lớp
Có người trò nghèo
Chí nối Ức Trai xưa.
“Dẫu đất này khi thịnh khi suy
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Thầy giảng Đại cáo bình Ngô
Liên hệ chuyện chân chúa Nguyễn Hoàng
âm thầm tìm kiếm Đào Duy Từ …
cũng như chuyện “Tam cố thảo lư”
anh em Lưu Bị
vượt núi thẳm, mưa tuyết, đường xa
ba lần đến Long Trung
tìm kiếm Khổng Minh Gia Cát
tuổi chỉ đáng bằng tuổi con mình
nhưng trọng dụng kỳ tài
đã tôn làm quân sư cùng lo việc nước…
Thầy kể chuyện Đào Duy Từ xưa
Bậc khai quốc công thần nhà Nguyễn
dựng nghiệp nhọc nhằn, người hiền lắm nạn
cha mẹ chết oan, chiếc lá giữa dòng…
Đào Duy Từ còn mãi với non sông:
Người có công nghiệp lẫy lừng chẳng kém Ngọa Long
Định Bắc, thu Nam, công đầu Nam tiến.
Người tổ chức phòng ngự chiều sâu
Hoành Sơn, Linh Giang, Lũy Thầy
minh chúa, quân giỏi, tướng tài, ba tầng thủ hiểm
Người xây dựng nên định chế đàng Trong
một chính quyền rất được lòng dân
nức tiếng một thời.
Người viết nên kiệt tác Hổ trướng khu cơ,
tuồng Sơn Hậu, nhã nhạc cung đình
là di sản muôn đời.
Trí tuệ bậc thầy, danh thơm vạn thuở …
Thầy giảng về bài học lịch sử Việt Nam
những người con trung hiếu
tận tụy quên mình vì dân vì nước
hẳn lòng Thầy cháy bỏng khát khao
vượng khí non sông khí thiêng hun đúc
Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương
Có nông phu ham học chăm làm
Mà thao lược chuyển xoay thời vận.
Ôi sử sách cổ kim bao nhiêu gương sáng
Học sử ai người biết sử để noi?
“Lịch sử dân tộc mình
Những năm bảy mươi
Các em sẽ là người viết tiếp
Điểm theo thời gian
Truyền thống ông cha xưa
Oanh liệt vô cùng”
Tiếng Thầy thiết tha
Truyền nguồn cảm xúc
Các em uống từng lời
Lắng nghe từng chữ
Lời tâm huyết thấm sâu vào lòng em:
“Nung gan sắt để dời non lấp bể
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ”
Em đã tìm được trong Thầy
Một người anh
Một người đồng chí
Em vững tin trong sự nghiệp cứu dân
Hẳn có lòng Thầy luôn ở bên em!
Thầy nói nhiều về Việt Nam thân yêu
Dựng nước gian nan, người dân còn khổ
Mắt Thầy thiết tha quá chừng
Làm em mãi nhớ
Thầy truyền cho chúng em niềm tin
Đạo làm người, lòng yêu nước
Em càng thấm thía vô cùng
Vì sao những người có tâm huyết ngày xưa
Những Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Thiếp, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, …
Đều yêu nghề dạy học.
Tổ Quốc cần, gọi em về phía trước
“Em ơi em, can đảm bước chân lên!” (1)
Em sẽ khắc trong lòng
Những lời dạy đầu tiên!
Đêm Giáng Sinh an lành Ông Già Noel mở cửa Chuông ngân nga mười hai giờ đêm Đông tàn xuân đã đến Sáng mai Em dậy đi làm sớm Trời còn se lạnh Đừng quên giữa ấm nghe em
Khoác thêm tấm áo trời se lạnh Đông tàn xuân đến đó rồi em Phúc hậu mỗi ngày chăm việc thiện Yêu thương xa cách hóa gần thêm Lovingword
Wearing sweater when it’s rather cold. Winter comes to an end, and early Spring is coming. Everyday, we care good deeds kindly. Distant love turn out to be close together.